Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực học tập môn Giáo dục công dân của học sinh trung học phổ thông tại Phan Thiết – Bình Thuận
lượt xem 20
download
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực học tập môn Giáo dục công dân của học sinh trung học phổ thông tại Phan Thiết – Bình Thuận nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập môn GDCD của HS THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận, từ đó thử nghiệm một số phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập môn GDCD của HS THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực học tập môn Giáo dục công dân của học sinh trung học phổ thông tại Phan Thiết – Bình Thuận
- THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ NGỌC ANH TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI PHAN THIẾT – BÌNH THUẬN Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: 60.31.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THỊ TỐ OANH TP. HỒ CHÍ MINH – 2010
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình thạc sỹ Tâm lý học khóa 2007 – 2010, ngoài những nỗ lực bản thân tôi còn nhận được sự quan tâm của rất nhiều người. Xin cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến: - Trường Đại học Sư Phạm, Ban lãnh đạo và các Thầy, Cô khoa Tâm lý - giáo dục đã rất nhiệt tình trong công tác, giảng dạy. - TS. Phan Thị Tố Oanh đã tận tâm giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình thực hiện đề tài. Đặc biệt là sự ủng hộ, khích lệ lớn lao của cô dành cho tôi những khi gặp khó khăn, lúng túng. - Ban Giám Hiệu, quý Thầy, Cô và các em học sinh trường THPT Lương Thế Vinh, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi, hỗ trợ tôi nhiệt tình trong quá trình khảo sát, điều tra. - Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn kề vai sát cánh, chia sẻ với tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Trần Thị Ngọc Anh
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận” là công trình khoa học do tôi thực hiện. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo về bản quyền tác giả. Trần Thị Ngọc Anh
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, BẢNG, BIỂU ĐỒ HS : Học sinh GV : Giáo viên THPT : Trung học phổ thông GDCD : Giáo dục công dân LTV : Lương Thế Vinh PBC : Phan Bội Châu PCT : Phan Chu Trinh PPDH : Phương pháp dạy học TTC : Tính tích cực TN : Thử nghiệm ĐC : Đối chứng GD – ĐT : Giáo dục đào tạo TBM : Trung bình môn
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1 Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đã chỉ rõ: "Cần phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là quốc sách hàng đầu, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh (HS), sinh viên (SV), đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập" [4]. Để thực hiện mục tiêu đó, từ những năm đầu và những năm tiếp theo của thế kỉ XXI, giáo dục và đào tạo đã liên tục đổi mới với những tư tưởng chủ đạo: "Tích cực hoá hoạt động của người học", "dạy học hướng vào hoạt động của người học”...đều nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo trong thời kì đổi mới. [22] Trong quá trình dạy học, tính tích cực học tập của người học là nền tảng, cơ sở của tính năng động, sáng tạo và là điều kiện để hình thành năng lực tự học, tự hoàn thiện suốt đời. Nhà giáo dục I.F. Kharlamov đã viết: "lòng khát khao hiểu biết, tính tích cực cao trong hoạt động nhận thức và kỹ năng tự lực và rèn luyện bản thân là những đức tính cần được phát triển và giáo dục cho thanh thiếu niên ngay trên ghế nhà trường, bảo đảm sau này họ tiếp tục rèn luyện bản thân một cách có hệ thống và không ngừng tự học" [3] Chính vì vậy, Bộ giáo dục và đào tạo đã xác định rõ, cần tập trung cải tiến giảng dạy và học tập ở các ngành, bậc học, cấp học theo hướng tích cực hoá học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của học sinh, xem đây là một giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là các trường Sư phạm, Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu rõ trong chỉ thị 15 về vấn đề này: "Đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo trong trường Sư phạm nhằm tích cực hoá hoạt động học tập, phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên". [1] Khoa học giáo dục ngày nay cũng đã khẳng định rằng: "Hiệu quả của dạy học chỉ có thể đạt được trên cơ sở kích thích và điều khiển tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Mọi sự áp đặt, biến người học thành nhân vật thụ động sẽ vô hiệu hoá dạy học" [5]. 1.2 Chương trình môn GDCD hiện hành nhằm trang bị cho HS có hiểu biết về giá trị đạo đức, các quy định pháp luật căn bản, lối sống của người Việt Nam, hiểu trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện các chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước. Nội dung môn học này giúp HS biết vận dụng kiến thức đã học để đánh giá các hiện tượng, sự kiện, các vấn đề xảy ra trong thực tiễn phù hợp với lứa tuổi, lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội, biết bảo vệ cái đúng, phê phán sự sai trái, hiện tượng tiêu
- cực trong đời sống. Những kiến thức GDCD hun đúc cho HS lòng yêu quê hương, đất nước, trân trọng và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, có hoài bão và mục đích sống cao đẹp. [2] 1.3 Thực tiễn cho thấy, học sinh trung học phổ thông (THPT) trong tỉnh Bình Thuận nói chung và học sinh THPT tại Phan Thiết nói riêng còn thụ động trong quá trình học tập môn GDCD. Mặt khác, quá trình giảng dạy Giáo dục công dân của GV ở các trường chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh vì gặp rất nhiều khó khăn về lý luận cũng như thực tiễn. Vì vậy, làm thế nào để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng học tập môn Giáo dục công dân của HS, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà trường là một vấn đề hết sức cần thiết. Từ những lý do nêu trên chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài : “Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập môn GDCD của HS THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận, từ đó thử nghiệm một số phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập môn GDCD của HS THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1 Khách thể nghiên cứu 3.1.1 Khách thể nghiên cứu thực trạng - 296 học sinh khối 10 ở 3 trường: THPT Lương Thế Vinh(LTV), THPT Phan Bội Châu (PBC), THPT Phan Chu Trinh (PCT) tại Phan Thiết - Bình Thuận - 25 Giáo viên (GV) giảng dạy môn giáo dục công dân tại các trường THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận . 3.1.2 Khách thể nghiên cứu thử nghiệm - 76 học sinh khối 10 tại trường THPT Lương Thế Vinh, chia làm 2 nhóm, nhóm đối chứng 38 học sinh và nhóm thử nghiệm 38 học sinh. 3.2 Đối tượng nghiên cứu - Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh lớp 10 các trường THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU - Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh các trường THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận chưa cao.
- - Áp dụng phương pháp (PP) dạy học theo tình huống và phương pháp động não sẽ nâng cao tính tích cực học tập môn giáo dục công dân đặc biệt là ở thái độ và kết quả học tập của học sinh các trường THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1 Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tính tích cực học tập nói chung và tính tích cực học tập môn GDCD của học sinh nói riêng. 5.2 Phân tích thực trạng tính tích cực học tập môn GDCD của học sinh THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận và một số yếu tố ảnh hưởng. 5.3 Thử nghiệm một số phương pháp dạy học theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm nhằm tích cực hoá hoạt động học tập môn GDCD góp phần nâng cao chất lượng giáo dục/học tập của học sinh. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận 6.1.1 Mục đích của nghiên cứu lý luận - Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài như : tính tích cực, tính tích cực học tập, tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh THPT. - Từ khung lý luận xác lập cơ sở phương pháp luận định hướng quy trình, phương pháp nghiên cứu. 6.1.2 Phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu lý luận là phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp này diễn ra theo các giai đoạn như phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa những lý thuyết, cũng như những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trên cơ sở các công trình đã được đăng tải trên các sách báo và tạp chí về các vấn đề liên quan đến đề tài. 6.2 Phương pháp nghiên cứu thực trạng 6.2.1 Mục đích của nghiên cứu thực trạng - Khảo sát thực trạng tính tích cực học tập môn GDCD và vận dụng một số phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập môn GDCD của học sinh THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận. 6.2.2 Nội dung nghiên cứu thực trạng
- - Nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập môn giáo dục công dân được biểu hiện ở các mặt: nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học; hành động học tập, thái độ, kết quả học tập của học sinh THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận và một số yếu tố ảnh hưởng. 6.2.3 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 6.2.3.1 Phương pháp quan sát - Nhằm thu thập các tài liệu cụ thể sinh động, khách quan về tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh các trường THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận chúng tôi tiến hành như sau: + Quan sát trực tiếp quá trình dạy và học môn giáo dục công dân của thầy trò các trường THPT Lương Thế Vinh (LTV), THPT Phan Bội Châu (PBC), THPT Phan Chu Trinh (PCT). + Ghi lại biên bản các tiết học mà người nghiên cứu quan sát. 6.2.3.2 Phương pháp điều tra Nhằm phân tích thực trạng tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh và một số yếu tố ảnh hưởng của thực trạng này từ đó đề ra phương hướng khắc phục có hiệu quả chúng tôi thực hiện như sau: + Kỹ thuật chọn mẫu: trong điều kiện và thời gian có hạn, tôi chọn học sinh của khối 10 ở 3 trường để điều tra dựa trên nguyên tắc đại diện để chọn mẫu. Mẫu gồm 296 học sinh, trường THPT PBC: 98 HS, trường THPT PCT: 96 HS, Trường THPT LTV: 102 HS, 25 giáo viên giảng dạy môn này ở các trường THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận, trong đó trường THPT PBC: 12GV, trường THPT PCT: 10 GV, Trường THPT LTV: 3 GV. + Cách thức điều tra: tiến hành phát phiếu trực tiếp tại lớp, hướng dẫn trả lời hợp lệ, thời gian trả lời là 3-5 ngày (có sự hỗ trợ của tác giả, giáo viên chủ nhiệm và ban cán sự lớp). + Các giai đoạn thực hiện - Giai đoạn 1: sử dụng bảng câu hỏi, chủ yếu là các câu hỏi mở để soạn bảng hỏi, xoay quanh các nội dung nghiên cứu của đề tài. - Giai đoạn 2: triển khai bảng hỏi đóng trên cơ sở các ý kiến thu được ở giai đoạn 1 trên 1 nhóm nghiên cứu, từ đó xem lại trong bảng câu hỏi có câu nào khó hiểu, dễ gây nhầm lẫn cho học sinh thì sẽ sửa lại cho hoàn chỉnh. - Giai đoạn 3: áp dụng chính thức trên khách thể nghiên cứu. Lấy phiếu thăm dò trong HS và GV về tính tích cực học tập môn GDCD
- Xử lý sơ bộ để tìm ra các lớp có tính tích cực học tập môn GDCD tương đương nhau để làm nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng. Họp nhóm chuyên môn, tổng kết kinh nghiệm. Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực. Lấy phiếu thăm dò lần 2 về tính tích cực học tập môn GDCD ở 2 nhóm thử nghiệm và đối chứng. - GĐ4: Xử lý tất cả các số liệu, hoàn tất luận văn. 6.2.3.3 Phương pháp phỏng vấn Chúng tôi gặp gỡ trò chuyện với học sinh và giáo viên để tìm hiểu tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh được biểu hiện ở các mặt nhận thức ý nghĩa bộ môn, thái độ, hành động, kết quả học tập bộ môn, các yếu tố ảnh hưởng, những kiến nghị...để tìm hiểu những thông tin bổ sung cho phương pháp quan sát và làm cơ sở để thiết kế phiếu điều tra. 6.2.3.4 Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động Nhằm tìm hiểu thực trạng tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh thông qua điểm thi học kỳ, điểm trung bình môn (TBM). 6.2.3.5 Phương pháp thử nghiệm Tiến hành thử nghiệm một số phương pháp dạy học tích cực: (cụ thể là 2 phương pháp: phương pháp dạy học theo tình huống, phương pháp động não) 6.2.3.6 Phương pháp thống kê toán học Để kết quả nghiên cứu đảm bảo tính khách quan, khoa học, chính xác, có độ tin cậy cao chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý và kiểm tra số liệu. Cụ thể là chúng tôi dùng chương trình SPSS (Statistical Package for Social Sciences) trong môi trường Window, phiên bản 11.5 để xử lý các số liệu đã thu được. Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê ứng dụng trong giáo dục học và tâm lý học. 7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Nội dung: Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập môn giáo dục công dân được biểu hiện ở các mặt: nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học; thái độ học tập: nhu cầu, hứng thú, động cơ; kết quả học tập và một số yếu tố ảnh hưởng đến TTC học tập của HS. - Thời gian, địa điểm: từ ngày 1 tháng 10 năm 2009 đến tháng 20 tháng 5 năm 2010 tại các trường THPT Lương Thế Vinh, THPT Phan Bội Châu và THPT Phan Chu Trinh - Phan Thiết - Bình Thuận.
- - Đối tượng khảo sát: học sinh khối 10 ở 3 trường: THPT Lương Thế Vinh, THPT Phan Bội Châu, THPT Phan Chu Trinh tại Phan Thiết - Bình Thuận và giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân tại các trường THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận . 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về tính tích cực học tập môn giáo dục công dân trong trường THPT tại Phan thiết - Bình Thuận. Vì thế kết quả nghiên cứu sẽ góp phần: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tính tích cực và tính tích cực học tập, tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh cũng như các biểu hiện của nó. - Góp phần làm sáng tỏ thực trạng tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh THPT tại Phan Thiết – Bình Thuận. - Chứng minh rằng có thể nâng cao tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh các trường THPT tại Phan Thiết - Bình Thuận thông qua các phương pháp dạy học tích cực (phương pháp dạy học theo tình huống và phương pháp động não). - Là căn cứ để tìm ra các phương pháp giảng dạy có hiệu quả nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh cho những môn khoa học xã hội trong các trường phổ thông. 9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Phần mở đầu (8 trang) Phần nội dung (65 trang) Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH ( 25 trang) Chương 2: THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI PHAN THIẾT - BÌNH THUẬN (25 trang) Chương 3: THỬ NGHIỆM MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CỦA HỌC SINH THPT TẠI PHAN THIẾT - BÌNH THUẬN (15 trang) Phần kết luận, kiến nghị (5 trang) Tài liệu tham khảo (3 trang) Phần phụ lục ( 35 trang)
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH 1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh (HS) đã được đặt ra trong ngành giáo dục nước ta từ những năm 1960. Cũng ở thời điểm đó, trong các trường Sư phạm đã có khẩu hiệu: "Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo". Trong cuộc cải cách giáo dục lần ba, năm 1980, phát huy tính tích cực học tập đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. "Tính tích cực trong hoạt động học tập về thực chất là tính tích cực nhận thức…" Ngay từ trước công nguyên (551-479), nhà triết học, nhà văn hóa, nhà giáo dục Trung Quốc: Khổng Tử đã quan tâm đến dạy học làm sao phải phát huy được tính tích cực suy nghĩ của học trò. Ông nói: "Vật có bốn góc bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa". Ông yêu cầu học trò cố gắng tự suy nghĩ trong học tập: "Học mà không suy nghĩ thì uổng công vô ích, suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm". [5] Ở Châu Âu vào thế kỷ XVII (1592-1670) lý luận giáo dục của J.A.Comenxki đã bao hàm tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực chủ động của người học, xem người học là chủ thể của quá trình học tập. J.A.Comenxki đã viết: "Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn". [15] A.Đixtervec nhà giáo dục người Đức hết sức nhấn mạnh đến sự phát triển tính tích cực nhận thức của người học. Ông đã viết trong tác phẩm "Hướng dẫn việc đào tạo giáo viên Đức" như sau: "Chỉ có sự truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi dù nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không thể bảo đảm được sự lĩnh hội kiến thức của học sinh. Nắm vững kiến thức, thực sự lĩnh hội chúng, cái đó học sinh phải tự mình làm lấy, bằng trí tuệ của bản thân”. Vì vậy ông thiên về phương pháp dạy học "phát triển" hơn là phương pháp dạy học "thông báo”. [3] K.Đ.Usinxki (1829-1870), nhà giáo dục học người Nga đã đề cập tới tính tích cực trong quá trình dạy học như là " cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả”. Theo ông, tính tích cực nhận thức là biết định hướng vào môi trường xung quanh, biết hành động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao trình độ học vấn và phát triển bản thân và có kỹ năng tự giành lấy kiến thức. Ông cho rằng, tính tích cực là điểm khác nhau giữa nhà trường cũ và nhà trường mới. Nhà trường cũ dồn tất cả tính tích cực vào hoạt động
- dạy của người giáo viên, để học sinh thụ động. Trong khi đó, nhà trường mới cố gắng làm sao cho bản thân học sinh tích cực ở mức độ cao nhất. [14] Nhìn chung các tư tưởng dạy học nói trên cũng đã ít nhiều đặt nền móng cho vấn đề dạy học phải phát triển được tính tích cực nhận thức của học sinh. Đã từ lâu vấn đề phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh được coi là vấn đề trung tâm của lý luận dạy học. Nhiều nhà khoa học giáo dục đã đề cập đến việc xác định hệ thống biện pháp hữu hiệu để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh dưới nhiều góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau. Trong tác phẩm của mình N.V.Kukharep đã nêu những cách thức tích cực hóa hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ của học sinh như sau: Đặt ra những câu hỏi nhờ đó mà kích thích học sinh, dạy theo kiểu thông báo có mạch lạc, có lôgic, so sánh đối chiếu, tách ra cái chủ yếu, xác định những mâu thuẫn, thu hút học sinh tham gia vào việc thông báo, đề ra những phỏng đoán lôgic, phân tích tổng hợp, soạn sơ đồ các bảng, để học sinh phát biểu thắc mắc, tiến hành công tác độc lập của học sinh. [32] L.F.Kharlamôp đã nêu ra nhiều phương hướng lớn, trong mỗi phương hướng ông vạch ra những biện pháp cụ thể: dạy học nêu vấn đề, tăng cường tính tích cực tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày bằng lời, cải tiến công tác tự học, tích cực hóa hoạt động học tập khi củng cố và kiểm tra kiến thức, công tác cá biệt với học sinh kém, làm việc với học sinh chậm tiến trong dịp hè. Trong phương pháp dạy học nêu vấn đề tác giả nêu ra rất nhiều biện pháp logic để giải quyết nhiệm vụ nhận thức, thông qua các biện pháp đó mà tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. [15] S.I.Batưsep cũng nêu những phương hướng và biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh các trường Cao đẳng kỹ thuật chuyên nghiệp như sau: sử dụng các bài tập theo phiếu, sử dụng các bảng cơ học và điện học, sử dụng các bảng hướng dẫn và kỹ thuật học, luyện tập dựa vào các sơ đồ kỹ thuật học, nêu các bài tập tổng hợp giữa nhiều bộ môn, sử dụng các máy luyện tập và máy điện tử, sử dụng phim và vô tuyến truyền hình, sử dụng máy ghi âm, tổ chức công tác thực hành và thí nghiệm, dạy học nêu vấn đề, dạy học chương trình hóa, sử dụng một số phương tiện kiểm tra và tự kiểm tra. [22] Như vậy S.I.Batưsep ngoài việc đưa ra các phương pháp dạy học tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, tác giả còn chỉ ra phương tiện dạy học cũng là một biện pháp nâng cao nhận thức cho học sinh. R.A.Nhizamôp cũng đề ra những phương hướng và biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của HS: dạy học nêu vấn đề, diễn giảng nêu vấn đề và biện pháp tổ chức giải quyết vấn đề, những nhiệm vụ và bài tập nhận thức, câu hỏi phát huy tính tích cực nhận thức của HS, những biện pháp tích cực hóa, sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại là những phương tiện tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. [32] Ở Việt Nam, trong chuyên đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, sinh viên Giáo sư Đặng Vũ Hoạt cũng đã nêu ra phương hướng và biện pháp sau: - Giáo dục động cơ, thái độ học tập trên cơ sở thấm nhuần mục đích học tập, động viên, khuyến khích kịp
- thời hoàn toàn dựa vào tính tự nguyện của học sinh. - Thực hiện dạy học nêu vấn đề coi là phương hướng cơ bản nhất. - Tiến hành so sánh các sự vật, hiện tượng, tiến hành hệ thống hóa, khái quát hóa tri thức. - Vận dụng tri thức vào nhiều hoàn cảnh khác nhau, giải bài tập, giải quyết vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. - Gắn lý luận với thực tiễn, khai thác vốn sống của học sinh. - Phát triển ý thức tự kiểm tra, tự đánh giá của học sinh. [13] Trong chuyên đề phát huy tính tích cực nhận thức của người học của G.S TSKH Thái Duy Tuyên, Viện khoa học giáo dục, ông đã tóm tắt các biện pháp nâng cao TTC nhận thức của HS trong giờ lên lớp được phản ánh trong các công trình xưa và nay như sau: - Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. - Nội dung DH phải mới, nhưng không qúa xa lạ với HS mà cái mới phải liên hệ, phát triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của HS. - Phải dùng các PP đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, tổ chức thảo luận, sêmina và phối hợp chúng với nhau. - Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau, tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất ngờ. - Sử dụng các PTDH hiện đại - Sử dụng các hình thức tổ chức DH khác nhau: cá nhân, nhóm, tập thể, tham quan, làm việc trong vườn trường, phòng thí nghiệm. - Luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong các tình huống mới. - Thường xuyên kiểm tra đánh giá, khen thưởng và kỉ luật kịp thời, đúng mức. - Kích thích TTC qua thái độ, cách ứng xử giữa GV và HS. - Phát triển kinh nghiệm sống của HS trong học tập qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động xã hội. - Tạo không khí đạo đức lành mạnh trong lớp, trong trường, tôn vinh sự học nói chung và biểu dương những HS có thành tích học tập tốt. - Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội. Và từ đó, ông cũng đưa ra ý kiến trong thời gian tới nên điều chỉnh công tác nghiên cứu và chỉ đạo vấn đề TTC hóa hoạt động nhận thức của HS theo một số hướng cơ bản sau: - Nghiên cứu PP nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức sáng tạo chứ không dừng lại mức độ tái hiện như hiện nay.
- - Phát huy sức mạnh bản chất của người học, mà theo K.Mark đó là: trí tuệ, tâm hồn và ý chí. Đặc biệt là sức mạnh tâm hồn (hứng thú, xúc cảm...) là điều lâu nay chưa được chú ý đúng mức. - Phối hợp chặt chẽ và khoa học hơn nữa giữa các thày giáo, các nhà quản lí, các nhà văn hóa và phụ huynh HS. [28] Trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1993 - 1996 cho giáo viên phổ thông. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo đã xác định phương hướng cơ bản để phát huy tính tích cực, tính tự lực của học sinh như sau: Kết hợp giữa tập thể và cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học phân hóa. Tác giả chỉ ra các phương tiện cơ bản để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh: dạy học nêu vấn đề, dạy học chương trình hóa, công tác tự lực của học sinh. Trong luận văn thạc sĩ của Đào Thị Cẩm Nhung (1999), nghiên cứu những biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội…, đã đề xuất hệ thống gồm bốn biện pháp: cải tiến đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của người học, xây dựng hệ thống bài tập thực hành dạy học và giáo dục từ thực tiễn của trường phổ thông trung học, hướng dẫn sinh viên tập nghiên cứu khoa học bằng các bài tập tiểu luận, sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. [15] Tác giả mới chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận, cũng như đưa ra quy trình thực nghiệm của biện pháp "cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của người học". Các biện pháp còn lại, chưa có thực nghiệm kết luận nhưng cũng thể hiện rõ tính kế thừa tư tưởng của các tác giả nghiên cứu trước về các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Trong luận văn thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Minh (2005) “Biện pháp phát huy tính tích cực học tập môn Giáo dục học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang”, tác giả đã đề ra một hệ thống gồm năm biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên đó là: - Biện pháp thứ nhất: Xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên. Biện pháp này thể hiện ở việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ học tập môn học, từng chương, từng bài. Nhờ đó mà sinh viên nhận thức được ý nghĩa, tác dụng của môn học, từ đó kích thích tính tự giác, chủ động, tích cực học tập của sinh viên. - Biện pháp thứ hai: Rèn kỹ năng tự học cho sinh viên. Biện pháp này thể hiện ở việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên để giải quyết những yêu cầu của bài học do giáo viên đưa ra, tạo cho sinh viên có thói quen tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong quá trình học tập. - Biện pháp thứ ba: Thiết kế nội dung bài học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của sinh viên, đây là biện pháp chủ đạo, thể hiện ở việc xác định rõ những hoạt động của giáo viên và sinh viên khi lên lớp. Tạo cho sinh viên trạng thái luôn tích cực, chủ động, linh hoạt trong quá trình học tập.
- - Biện pháp thứ tư: Cải tiến khâu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Biện pháp này thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội tri thức, các kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên trong mỗi bài học, sau mỗi đơn vị học trình và sau mỗi học phần. Nhờ đó mà khắc phục cách "học tủ", "học vẹt", giúp sinh viên có phương pháp học tập khoa học, nắm vững và khắc sâu tri thức đã học. - Biện pháp thứ năm: Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, thể hiện ở việc soạn giáo án điện tử, trình bày nội dung bài học, những vấn đề trọng tâm bằng máy chiếu Overhead và máy chiếu Projector. Nhờ đó mà lớp học sinh động, hiệu quả học tập được nâng cao. [12] Trong bài nghiên cứu “Phát huy tính tích cực học tập của sinh viên một trong những con đường nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Đại học Ngân hàng Tp. HCM” của thạc sỹ Lê Thị Linh Trang (LeThLinhTrang.htm) có viết: để phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên, ngoài việc tích cực hóa những phương pháp quen thuộc, giáo viên có thể áp dụng một số phương pháp sau đây: Phương pháp động não, Phương pháp thảo luận, Phương pháp dạy nhóm nhỏ, Phương pháp đóng vai, Phương pháp chơi trò chơi, Phương pháp học theo vấn đề. Trong sáng kiến kinh nghiệm của Thạc sỹ Nguyễn Thiết – CĐSP Kon Tum có nêu một số biện pháp thực hiện day hoc theo PPDH tích cực như: - Thiết kế bài học dưới dạng các hoạt động - Tạo điều kiện để sv trao đổi, thảo luận về vấn đề gv đặt ra - Để lại một phần bài học thích hợp để SV tự học - Liên hệ các kiến thức đang học với các kiến thức đã học - Đưa ra những chủ đề để SV tìm hiểu giúp họ hiểu sâu kiến thức [23] Điểm qua ý kiến của một số tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về tính tích cực học tập của học sinh, chúng tôi nhận thấy: Nhìn chung các tác giả đều đưa ra được hệ thống những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập khá phong phú và toàn diện, tuỳ theo các góc độ nghiên cứu khác nhau của mỗi tác giả. Song, vấn đề này ở tỉnh Bình Thuận thì chưa được quan tâm, nghiên cứu đúng mức. 1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP 1.2.1 Tính tích cực 1.2.1.1 Khái niệm tính tích cực và tính tích cực học tập Theo từ điển Tiếng Việt [Viện ngôn ngữ học, 1999], tích cực nghĩa là có ý nghĩa, có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Người tích cực là người tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển. Ví dụ: đấu tranh tích cực, phương pháp phòng bệnh tích cực. Theo một nghĩa khác, Tích cực là đem hết khả năng và tâm trí vào việc làm. Theo tác giả Trần Kiều và Nguyễn Thị Lan Anh thì tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy sự phát triển.. Còn với
- tác giả Hoàng Phê: Tích cực là chủ động, hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ được giao. Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm tòi, khám phá, cải biến môi trường để phục vụ cho con người. Tuy vậy, TTC có mặt tự phát và tự giác. Theo tác giả Thái Duy Tuyên, mặt tự phát của TTC là những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở tính tò mò, hiếu kỳ, linh hoạt trong đời sống hàng ngày. Mặt tự giác của tính tích cực là trạng thái tâm lý. TTC có mục đích, đối tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. TTC tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học. Nhờ TTC tự giác, có ý thức, con người có thể đạt được nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triển nhanh hơn so với TTC tự phát. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Dưới góc độ Tâm lý học trên quan điểm tiếp cận hoạt động - nhân cách- giao tiếp thì các nhà Tâm lý học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Ánh Tuyết … đều thống nhất cho rằng tính tích cực là một phẩm chất nhân cách điển hình của con người. Các thành tố tâm lý của tính tích cực là nhu cầu, động cơ, hứng thú, niềm tin, lý tưởng. Bởi vậy đã nói tới tính tích cực có nghĩa nói tới tính chủ thể trong hoạt động, nói tới tính tương đối ổn định và bền vững của thuộc tính tâm lý này. Tính tích cực là đặc trưng hoạt động của con người. Theo GS. Trần Bá Hoành, ThS. Lê Tràng Định, TS. Phó Đức Hoà: "Tính tích cực hoạt động học tập, về thực chất, là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức" Từ sự phân tích của các tác giả trên, chúng tôi hiểu: Tính tích cực học tập của học sinh là sự ý thức tự giác của học sinh về mục đích học, thông qua đó học sinh huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý để giải quyết các nhiệm vụ học tập có hiệu quả. 1.2.1.2 Các cấp độ của tính tích cực học tập Căn cứ vào việc huy động các chức năng tâm lý nào và mức độ huy động các chức năng tâm lý đó, tính tích cực nhận thức có thể chia làm ba mức độ. - Tính tích cực tái hiện: Đó là mức độ bắt chước, chủ thể nhận thức dựa vào trí nhớ để tái hiện những điều đã được nhận thức. - Tính tích cực tìm tòi: Đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê phán, tìm tòi tích cực về mặt nhận thức, óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích cực này không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu cầu của giáo viên trong giờ học. - Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao của tính tích cực. Nó đặc trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình thể hiện sự độc lập nhận thức không giống với con đường của mọi người đã thừa nhận, đã
- trở thành chuẩn hóa để đạt tới mục đích. Dưới góc độ lý luận dạy học, quá trình phát triển của tính tích cực nhận thức trải qua các giai đoạn chủ yếu sau: - Tính tự giác: Là giai đoạn xác định ý thức, thái độ, tinh thần, trách nhiệm học tập. Nó là cơ sở của tính tích cực học tập của học sinh. - Tính tích cực: Ở mức độ cao hơn với những đặc điểm của tính tích cực nhận thức, có sự kết hợp của nhận thức, tình cảm, ý chí. - Tính độc lập: Tương đương với tính tích cực sáng tạo. Là giai đoạn cao nhất của tính tích cực, biểu hiện ở chỗ: Học sinh tự mình phát hiện được vấn đề, tự mình đề xuất được cách giải quyết vấn đề. Và có thể nhận biết tính tích cực nhận thức ở ba dấu hiệu cơ bản: - Dấu hiệu thứ nhất: Thái độ đối với học tập Thể hiện ở nhu cầu, mong muốn, khát vọng vươn lên nắm vững tri thức, giải quyết nhiệm vụ học tập. Thể hiện ở sự hứng thú, say mê lao động trí óc, có trách nhiệm khi thực hiện các nhu cầu, nhiệm vụ học tập mà giáo viên đề ra. Thể hiện tập trung và hướng đích ở việc hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, độc lập thật sự, nỗ lực vượt qua khó khăn, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề thầy giáo đặt ra. - Dấu hiệu thứ hai: Hành động trí tuệ cao trong học tập. Thể hiện trong quá trình lĩnh hội tài liệu, ở khả năng hoạt động trí tuệ, hoạt động tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hóa. Thể hiện ở sự ghi nhớ, tái hiện, đánh giá và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập. - Dấu hiệu thứ ba: Kết quả học tập Thể hiện ở việc tự kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhanh chóng tìm ra sai sót để khắc phục. Thể hiện ở điểm số cao sau mỗi lần kiểm tra hoặc thi… Tính tích cực hoạt động học tập, về thực chất, là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức nên theo người nghiên cứu, tính tích cực học tập ở học sinh THPT đạt những cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: Học sinh cố gắng thực hiện theo các mẫu hành động của thầy của bạn… Nhờ đó, kinh nghiệm hoạt động được tích luỹ thông qua kinh nghiệm của người khác. Bắt chước là TTC ở mức độ thấp. Có thể GV thay đổi một chút dữ kiện là học sinh lúng túng không làm được. Nhưng nó lại là tiền đề cơ bản giúp các em nắm được nội dung bài giảng để có điều kiện nâng TTC
- lên mức cao hơn. - Tìm tòi: Học sinh độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một vấn đề … xuất hiện cùng với quá trình hình thành khái niệm, giải quyết các tình huống nhận thức, tìm tòi các phương thức hành động trên cơ sở có tính tự giác, có sự tham gia của động cơ, nhu cầu, hứng thú và ý chí của học sinh. Loại này xuất hiện không chỉ do yêu cầu của GV mà còn hoàn toàn tự phát trong quá trình nhận thức. Nó tồn tại không chỉ ở dạng trạng thái, cảm xúc mà còn ở dạng thuộc tính bền vững của hoạt động. Ở mức độ này, tính độc lập cao hơn mức trên, cho phép học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và tự tìm cho mình phương tiện thực hiện. Ý thức tìm tòi giúp các em say mê đi tìm kiến thức mới, khai thác kiến thức đã học theo nhiều hướng khác nhau, kiểm tra lại những kiến thức đã học trước đó. Ý thức tìm tòi là phẩm chất của trí tuệ. Đó là sự độc lập trong tư duy, tự mình phát hiện ra vấn đề, tự mình xác định phương hướng và tìm cách giải đáp, tự mình kiểm tra, thử lại, đánh giá kết quả đạt được. Đây cũng là tiền đề cơ bản của tính tích cực sáng tạo. - Sáng tạo: Học sinh tìm ra cách giải quyết mới độc đáo hữu hiệu hoặc tự tạo ra những bài tập mới, thể hiện khi chủ thể nhận thức tự tìm tòi kiến thức mới, tự tìm ra phương thức hành động riêng và trở thành phẩm chất bền vững của cá nhân. Đây là mức độ biểu hiện TTC cao nhất. HS có TTC sáng tạo sẽ có thể tìm được các kiến thức mới không nhờ vào sự gợi ý của người khác, thực hiện tốt các yêu cầu do GV đưa ra và có tính sáng tạo trong phương pháp. Ở mức này, HS-SV đã có khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát hoá để tìm tòi phát hiện kiến thức mới. 1.2.2 Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh THPT Tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh là sự ý thức tự giác của học sinh về mục đích học tập môn giáo dục công dân, thông qua đó học sinh huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý để giải quyết các nhiệm vụ học tập bộ môn có hiệu quả. Như vậy, tính tích cực học tập môn giáo dục công dân của học sinh được biểu hiện ở các mặt: + Mặt nhận thức: học sinh nhận thức được mục đích, ý nghĩa của môn GDCD. + Mặt hành động: huy động các chức năng tâm lý để từ đó tìm ra cách thức học môn GDCD phù hợp. + Mặt thái độ: học sinh có thái độ học tập đúng đắn (nhu cầu, sở thích, động cơ…) với môn GDCD. + Hoạt động học tập có hiệu quả: biểu hiện ở kết quả học tập môn GDCD - Tính tích cực học tập môn GDCD biểu hiện ở những dấu hiệu như: Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập môn GDCD, không nản trước những tình huống khó khăn, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những cái đã biết, sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống..
- 1.2.3 Vai trò của tính tích cực học tập đối với sự phát triển trí tuệ của HS Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển toàn diện cho học sinh. Điều đó nói lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích cuối cùng của hoạt động dạy học, đồng thời khi tư duy học sinh phát triển thì việc thu nhận và vận dụng kiến thức của học sinh sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn, quá trình dạy học diễn ra một cách thuận lợi hơn. Nghĩa là sự hoạt động và trí tuệ của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Không có hoạt động thì trí tuệ không thể phát triển tốt được. Nhìn chung dạy học bằng cách này hay cách khác đều có thể góp phần phát triển học sinh, nhưng dạy học được coi là đúng đắn nhất nếu nó đem lại sự phát triển tốt nhất cho người học. Theo Vưgôtxki thì: “Dạy học được coi là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát triển và kéo theo sự phát triển”. Cơ sở của quan điểm này là lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” do ông đề xướng . Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thức đẩy sự phát triển trí tuệ của người học”. Một mặt trí tuệ của học sinh chỉ có thể phát triển tốt trong quá trình dạy học khi thầy giáo phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều khiển làm giảm nhẹ khó khăn cho học sinh trong quá trình nhận thức, biết cách khuyến khích học sinh tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học. Mặt khác đối với học sinh để phát triển trí tuệ của mình không có cách nào khác là phải tự mình hành động, hành động một cách tích cực và tự giác. Đó chính là bản chất của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa hoạt động và phát triển. Thông qua hoạt động trí tuệ học sinh phát triển dần từng bước từ thấp đến cao. Bởi vậy các biện pháp giáo dục của thầy cũng phải thay đổi cho phù hợp với từng bậc thang của sự phát triển. Theo lý thuyết của X.L Vưgốtxki thì trình độ ban đầu của học sinh tương ứng với “vùng phát triển hiện tại”. Trình độ này cho phép học sinh có thể thu được những kiến thức gần gũi nhất với kiến thức cũ để đạt được trình độ mới cao hơn. X.L Vưgôtxki gọi đó là “vùng phát triển gần nhất”. Khi học sinh đạt tới vùng phát triển gần nhất nghĩa là các em đang ở “vùng phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao hơn. Sau đó thầy giáo lại tiếp tục tổ chức và giúp đỡ học sinh đưa học sinh tới “vùng phát triển gần nhất” mới để sau đó nó lại trở về “vùng phát triển hiện tại”. Cứ tiếp tục như vậy sự phát triển của học sinh đi từ nấc thang này đến nấc thang khác cao hơn. X.L Vưgôtxki chỉ ra rằng ở những trẻ em khác nhau có vùng phát triển gần nhất khác nhau, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của thầy giáo, đặt biệt phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập trước học sinh thông qua nghệ thuật đưa ra các “câu hỏi nêu vấn đề” và “các câu hỏi gợi ý”. Thừa nhận lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” của X.L Vưgôtxki cũng có nghĩa phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Vì thế có thể nói tích cực hoá hoạt đông nhận thức của học sinh là một biện pháp không thể thiếu được trong dạy học theo quan điểm: “Dạy học là phát triển”. Bởi một sự gợi ý khéo léo có tính chất gợi mở của giáo viên sẽ có tác dụng kích thích tính tự lực và tư duy sáng tạo của học sinh, lôi kéo họ chủ
- động tham gia vào quá trình dạy học một cách tích cực, tự giác. J. Piaget đã kết luận: “Người ta không học được gì hết, nếu không phải trải qua sự chiếm lĩnh bằng hoạt động, rằng học sinh phải phát minh lại khoa học, thay vì nhắc lại những công thức bằng lời của nó”. 1.2.4 Phương pháp dạy học tích cực 1.2.4.1 Khái niệm phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. 1.2.4.2 Dấu hiệu đặc trưng của PPDH tích cực Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh Người học được hoạt động, được trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống theo khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học của học sinh Điều quan trọng là GV phải giúp người học biết cách khai thác, lựa chọn tìm kiếm thông tin bằng cách hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu. Khi người học có phương pháp, thói quen, ý chí tự học thì sẽ ham học, thích học, đó là điều kiện tốt để khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi cá nhân, kết quả học tập sẽ nâng cao. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác Cần tăng cường cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Qua đó người học rèn luyện ý thức tự lực, ý thức trách nhiệm với kết quả học tập của mình. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Thông qua thảo luận, tranh luận trong nhóm, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ và được chia sẻ. HS không chỉ có điều kiện học tập với nhau mà còn học tập lẫn nhau. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò Trong dạy học tích cực, học sinh được tạo điều kiện phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau để điều chỉnh cách học. Để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra, đánh giá của GV không dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Cách thức ứng phó trước những khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 366 | 100
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
92 p | 501 | 98
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh
82 p | 490 | 81
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
107 p | 433 | 79
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của nhân viên văn phòng tại doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
119 p | 331 | 54
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
93 p | 306 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Áp lực tâm lý và cách ứng phó của trẻ lao động sớm tại một số quận nội thành thành phố Hồ Chí Minh
197 p | 264 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất trường Sĩ quan Lục quân 2
133 p | 296 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý của lớp học tại trường Đại học An ninh Nhân dân
178 p | 217 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP. Hồ Chí Minh
106 p | 161 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch
103 p | 188 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức, thái độ về an toàn tình dục của nữ thanh niên công nhân khu công nghiệp Sóng Thần tỉnh Bình Dương
143 p | 171 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học
67 p | 150 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên Phân viện miền Nam, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
103 p | 141 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự
124 p | 158 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Năng lực quản lý nhân sự của giám đốc doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh
104 p | 127 | 19
-
Luân văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng sử dụng Internet trong học tập môn Tâm lý học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa- Vũng Tàu
115 p | 152 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên đang sống tại các Trung tâm Bảo trợ Xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
117 p | 118 | 15
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn