intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

40
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ khảo sát, phân tích thơ của hai tác giả, luận văn nhận diện, đúc kết những nét đặc sắc của các cây bút về phương diện kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống trong việc hiện đại hóa thơ; khẳng định nỗ lực đổi mới thơ của hai tác giả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ CHU THỊ HỒNG VÂN BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ CHU THỊ HỒNG VÂN BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY VÀ ĐỒNG ĐỨC BỐN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Mai Hƣơng Hà Nội - 2014 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Tất cả các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Mọi tài liệu tham khảo, trích dẫn khoa học đều có nội dung chính xác. Các kết luận khoa học chưa công bố ở bất kì công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014 Học viên Chu Thị Hồng Vân 3
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS. Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, các quý thầy cô đã tận tình chỉ bảo và dạy dỗ, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, người thân, bạn bè đã luôn bên cạnh khuyến khích, động viên giúp tôi vượt qua những khó khăn để hoàn thành khóa học của mình. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2014 Chu Thị Hồng Vân 4
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5 1. Lí do lựa chọn đề tài...................................................................................... 5 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 7 3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 17 4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 17 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 18 6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 18 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 20 Chƣơng 1: VỀ KHÁI NIỆM BẢN SẮC DÂN TỘC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN ............................ 20 1.1. Về khái niệm bản sắc dân tộc ............................................................... 20 1.2. Hành trình thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ....................................... 25 1.2.1. Thơ Nguyễn Duy ............................................................................ 26 1.2.2. Thơ Đồng Đức Bốn ........................................................................ 35 Chƣơng 2: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘI DUNG CẢM HỨNG ..................... 45 2.1. Quê hương, đất nước ............................................................................. 45 2.1.1. Quê hương, đất nước trong thơ ca Việt Nam ................................. 45 2.1.2. Quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn........ 48 2.2. Bản sắc của con người .......................................................................... 62 2.2.1. Về những người thân trong gia đình ............................................... 66 2.2.2. Về những chàng trai nơi thôn dã..................................................... 73 2.2.3. Về những cô gái quê, cô thôn nữ .................................................... 77 5
  6. Chƣơng 3: BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN .................. 83 3.1. Vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát truyền thống ................................... 83 3.2. Khai thác và vận dụng hình ảnh của thơ truyền thống ......................... 87 3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu............................................................................ 96 3.3.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .................................. 96 3.3.2. Giọng điệu thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn .............................. 102 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111 6
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do lựa chọn đề tài 1.1. Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại tạo nên những chuyển đổi cơ bản trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong không khí đổi mới, dân chủ, văn nghệ đã được “cởi trói”, văn nghệ sĩ có thể “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con người. Theo đó, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ cũng được giải phóng triệt để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ cả nước vào tháng 10 năm 1987 đã tác động rất lớn đến tinh thần của những người cầm bút, nhất là ý thức tự “cởi trói” trong lĩnh vực sáng tạo. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật giai đoạn này. Từ chỗ là những nghệ sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”. Cái nhìn sử thi dần phai nhạt thay vào đó là cái nhìn mang đậm chất đời tư thế sự. Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể hiện tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau 1975. Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và hiện thực thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà cố gắng thể hiện tính đa chiều của hiện thực đời sống và con người. 1.2. Tư duy thơ thay đổi, quan niệm thơ thay đổi kéo theo một hệ quả tất yếu là sự đổi mới toàn diện và sâu sắc của thơ. Theo đó, những khuynh hướng mới trong thơ cũng như sự đa dạng trong phong cách sáng tạo của các nhà thơ được phát triển. Khảo sát qua thơ Việt Nam sau 1975, chúng tôi nhận thấy, thơ có những khuynh hướng tìm tòi, đổi mới phương thức thể hiện đa dạng. Trong đó có thể thấy, khuynh hướng trở về tiếp thu, sáng tạo truyền thống, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp 5
  8. thu truyền thống là một trong những khuynh hướng tìm tòi khá đậm, khá thành công của thơ đương đại. 1.3. Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn là những cây bút tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Xuất hiện và trưởng thành trong phong trào thơ chống Mỹ, Nguyễn Duy đã sớm tạo được phong cách riêng độc đáo và ngày càng thu hút được sự mến mộ của công chúng. Đến với thơ muộn hơn và đời thơ cũng ngắn ngủi, nhưng với “giọng” riêng không lẫn, thơ Đồng Đức Bốn cũng đã tạo được dấu ấn riêng trong thơ Việt đương đại. Mỗi người một vẻ nhưng một trong những điểm gặp gỡ và góp phần không nhỏ tạo nên nét riêng, thành công riêng cho cả hai cây bút là sự tiếp thu sáng tạo, hiệu quả thơ truyền thống - đổi mới trên cơ sở tiếp thu truyền thống thơ dân tộc. Có thể nói các nhà thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn cùng nhiều cây bút khác đã khẳng định một trong những hướng tìm tòi đổi mới giàu hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam. 1.4. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, thấu đáo về vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ đương đại nói chung và hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn nói riêng. Các công trình, bài viết mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh riêng biệt ở một tác giả hay cụm tác phẩm. Từ những lí do đó, người viết đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Từ đó, nhằm khẳng định một trong những nét độc đáo trong phong cách sáng tạo và đóng góp của hai cây bút Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn góp phần tạo nên diện mạo mới của thơ Việt Nam đương đại. Ở một phạm vi nhất định, luận văn cũng góp phần vào việc tổng kết, đánh giá tiến trình vận động, đổi mới của thơ đương đại Việt Nam. 6
  9. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2.1. Lịch sử nghiên cứu chung về bản sắc dân tộc trong thơ Việt Nam hiện đại Qua tìm hiểu nghiên cứu, có thể thấy vấn đề bản sắc dân tộc không chỉ đến nay mới được đem ra bàn bạc, mà ở mỗi thời đại khác nhau, quá trình này diễn ra với mức độ và quy mô khác nhau. Chúng tôi xin được điểm qua một số công trình, bài viết tiêu biểu để thấy được tính hệ thống trong vấn đề mình đang nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Hữu Quýnh với bài Hai xu hướng thơ hiện nay đã chỉ ra sự khác biệt giữa cái mới của những thế hệ cầm bút trên thi đàn Việt Nam sau 1946. Tác giả bày tỏ thái độ trước những yêu cầu cách tân thơ hiện nay là: Để có một nền thơ thuần hậu, nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử công bằng với mọi nhà thơ. Đừng vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền thống mà bên trọng bên khinh. Hãy để cho các khuynh hướng thơ được bình đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài định danh cho thơ. Tóm lại cứ để cho thơ phát triển tự nhiên vì nó là thơ. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại nhìn nhận một cách khái quát về xu hướng thơ hiện nay mà không đi vào nghiên cứu một tác giả, tác phẩm cụ thể nào. Phạm Vĩnh trong bài Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: vĩnh cửu và luôn luôn biến đổi đã nghiên cứu tính dân tộc trong thơ Việt Nam trong suốt chiều dài phát triển lịch sử thơ ca, để khẳng định: Người sáng tạo càng sâu sắc, độc đáo bao nhiêu thì càng đạt tính dân tộc, tính nhân loại ở độ cao bấy nhiêu. Đồng thời tác giả khẳng định, tính dân tộc phải có xu thế mở, tức là nói đến tính dân tộc không có nghĩa là nói đến một giá trị bất biến, khuôn khổ và cứng nhắc mà phải luôn kế thừa và sáng tạo tiếp. 7
  10. Tác giả Trần Sáng với bài Thử tìm hiểu tính dân tộc trong thơ hôm nay đã ngợi ca cái mượt mà đằm thắm, cái chia sẻ, thấu hiểu mà thơ dân tộc đã có được. Những gì mang tính dân tộc trong thơ hôm nay “Đó là những lời từ trái tim, là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của người Việt cũng là cái đích hướng đến của nhân loại. Những vần thơ đó đã chinh phục trái tim nhân loại trong khi nhà thơ vẫn đứng vững hai chân trên mảnh đất dân tộc mình”. Ngoài những bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy đã có những bài nghiên cứu chung về thơ của các tác giả Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Lý Hoài Thu, Nguyễn Văn Long, Mai Hương, Bích Thu... trong đó ít nhiều đã đề cập đến yếu tố dân gian, chất dân gian trong thơ đương đại. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào vấn đề chung của thơ đương đại, chưa có điều kiện đi sâu vào bản sắc dân tộc trong thơ đương đại, đặc biệt của hai cây bút Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. 2.2. Lịch sử nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. 2.2.1. Các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy Nguyễn Duy xuất hiện trên thi đàn và mang đến một tiếng nói riêng đầy bản sắc, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả. Đã có khá nhiều bài viết đánh giá, thẩm bình về thơ ông. Mỗi công trình nhìn nhận thơ Nguyễn Duy từ một phương diện khác nhau, một khía cạnh nào đó trong đời thơ của ông. Để thấy rõ hơn quá trình thẩm bình đánh giá đó, luận văn chủ yếu đi vào khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan tới bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy. Ngay từ những sáng tác đầu tay, nhất là sau giải thưởng cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1973, Nguyễn Duy đã nhanh chóng thu hút được sự mến mộ của đông đảo công chúng và gây được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình. Trước hết phải kể đến ý kiến của Hoài Thanh về thơ Nguyễn Duy trong bài viết Đọc một số bài thơ của Nguyễn Duy [48] :…“đọc thơ 8
  11. Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc với những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là chuyện thoảng qua thì ở anh nó lắng sâu và dường như dừng lại”. Những nhận xét của Hoài Thanh đã giúp chúng ta thấy được điểm riêng trong sáng tác của Nguyễn Duy. Bằng cảm nhận tinh tế, sắc sảo, ông đã nhận ra vị quê mùa đằm thắm, chân chất trong thơ Nguyễn Duy, “quen thuộc mà không nhàm”, là “khúc dân ca” vùng “đồng bằng miền Bắc đã cùng anh đi vào giữa đỉnh Trường Sơn”. Chất thơ đó “nhẹ nhàng hiền hậu”, “rất Việt Nam mà chúng ta vẫn giữ nguyên trong thử lửa”. Bài viết đã đề cập đến tư duy thơ của Nguyễn Duy, đó là sự kết hợp của cảm xúc, tình thơ với ý thơ và sự suy ngẫm. Nhà phê bình Hà Minh Đức trong bài Về một số cây bút trẻ gần đây trong quân đội [20] đã viết về triết lí dân gian trong thơ Nguyễn Duy: “Thơ Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách suy nghĩ và cảm xúc trên trực tiếp hay gián tiếp đều nằm trong mạch suy nghĩ quen thuộc của dân gian và tự nhiên là anh phải tìm đến một lối phô diễn, một giọng điệu thơ thích hợp”, “anh chú ý nhiều đến thể lục bát, đến sự mềm mại, nhịp nhàng của các làn điệu dân ca”. Cũng bàn về thơ lục bát, Lê Quang Trang nhận ra đây là thế mạnh của Nguyễn Duy “anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục bát – một thể thơ có phần tĩnh và biến hóa không nhiều” [49]. Năm 1984, khi tập thơ Ánh trăng đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (công bố 1986), Nguyễn Duy được người đọc biết đến nhiều qua hàng loạt bài viết của các tác giả: Từ Sơn, Tế Hanh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Hữu Sơn, Ngô Vĩnh Bình, Lê Giang, Lê Quang Hưng, Nguyễn Quang Sáng… Những cây bút này đã có nhiều phát hiện mới mẻ, xác đáng về thơ Nguyễn Duy trong đó có đề cập tính dân gian ẩn chứa trong thơ Nguyễn Duy. Nhà thơ Tế Hanh với tâm hồn nhạy cảm luôn gắn bó với quê hương đã cảm nhận sâu sắc về hồn quê, tình quê trong thơ Nguyễn Duy: “Một điểm đáng 9
  12. chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hóa quê anh hay Cà Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết” [24]. Lê Quang Hưng với bài Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng [25] đăng trên Tạp chí văn học số 3 năm 1986 có nhận định: “Những bài thơ trong Ánh trăng thật đậm đà tính ca dao, nhiều đoạn thơ nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho người ta khó phân biệt được đâu là ca dao đâu là thơ…”. Ông cũng đã tìm ra cái đặc sắc riêng của tập thơ Ánh trăng trong đó chúng ta thấy cái bóng dáng của tính triết lí qua sự chiêm nghiệm suy tư của Nguyễn Duy về cuộc sống: “Với Cát trắng, người đọc thích một tâm hồn cảm nhận được ý nghĩa và bề sâu của cuộc sống từ sự vật, sự việc có vẻ bình thường. Giờ đây, Nguyễn Duy vẫn nhạy cảm, giàu suy tư như thế và từng trải sâu sắc hơn. Ý nghĩa phổ quát, sự suy nghĩ trong thơ Nguyễn Duy thường có điểm tựa từ một âm thanh, một sự vật đậm tính dân tộc”. Viết về giọng điệu thơ của Nguyễn Duy, Lại Nguyên Ân trong bài Tìm giọng mới thích hợp với người của thời đại mình [2] đã làm rõ giọng điệu trữ tình trong tập thơ Ánh trăng, tác giả đã nêu bật được thành công của Nguyễn Duy khi “dệt nên những giai điệu trữ tình”. Bên cạnh đó, Lại Nguyên Ân khẳng định trong thơ lục bát của Nguyễn Duy: “Có cái gì đó bên trong như cãi lại vẻ êm nhẹ nuột nà của câu hát ru truyền thống”. Chính nhà thơ khi sáng tác đã “tạo nên cái tiếng cười khúc khích, giọng bông lơn bỡn cợt ngay giữa dòng trữ tình như là để phá bớt cái vẻ rưng rưng thống thiết cứ dâng trào…”. Chính giọng điệu trữ tình là yếu tố chủ đạo tạo nên bản sắc dân tộc độc đáo trong thơ Nguyễn Duy, đặc biệt từ sau năm 1975. Năm 1987, Nguyễn Quang Sáng trong bài viết Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy [45] cũng đã nhận định: “Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội hẳn lên trong thể thơ lục bát, loại thơ ngỡ như là dễ làm, ai cũng làm được, nhưng để đạt tới hay thì khó thay, nếu không nói là khó nhất. Thơ lục bát của Nguyễn Duy không rơi vào tính trạng quen tay, nó có sự biến đổi, chuyển 10
  13. động trong câu chữ”. Thơ lục bát Nguyễn Duy “đượm tính dân tộc và nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian. Lời thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. Tư duy thơ thì hiện đại, hình thức thơ thì phảng phất hương vị cổ điển phương Đông…”. Tác giả Đỗ Ngọc Thạch đi sâu vào hình ảnh Người vợ trong thơ Nguyễn Duy [50] và thấy rõ “hồn quê” có sức “lay động tận sâu thẳm tâm linh… đưa ta trở về với bản ngã, với những gì con người nhất”. Vũ Văn Sỹ trong bài viết Nguyễn Duy – Người thương mến đến tận cùng chân thật [47] đánh giá: “Cái đáng quý nhất trong thơ Nguyễn Duy là anh viết về đất nước, về nhân dân, về đồng đội, về những người thân và về chính mình bằng tấm lòng “thương mến đến tận cùng chân thật” ”. Tác giả thấy được sự chân thành hết mực của tâm hồn thơ được thể hiện trong thơ lục bát của Nguyễn Duy đồng thời khẳng định tài năng của ông ở thể loại này. Phạm Thu Yến nghiên cứu về đặc điểm thơ Nguyễn Duy mà chủ yếu là trên thể thơ lục bát đã đi sâu vào những biểu hiện trong mối quan hệ giữa ca dao và thơ hiện đại, cụ thể là tiếng vọng của ca dao trong thơ lục bát Nguyễn Duy: “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như được gặp một thế giới ca dao sinh động, phập phồng làm nền cho tiếng đàn độc huyền đầy sáng tạo của hồn thơ thi sĩ”. Tác giả cũng khẳng định “thể thơ lục bát – thể thơ đặc trưng của dân tộc được Nguyễn Duy sử dụng nhuần nhụy, giúp tác giả chuyển tải một cách nhẹ nhàng trong sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc của con người. Có lẽ, những bài thành công nhất của Nguyễn Duy là những bài làm theo thể lục bát” [55] và thơ Nguyễn Duy rõ ràng là phản ca dao qua việc khai thác các ý đối lập với những tứ quen thuộc trong ca dao để tạo nên những tứ mới khiến cho cả ca dao và thơ càng bay bổng hơn. Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Duy – Thi sĩ thảo dân [46] đã có nhiều khám phá mới mẻ, mang tính hệ thống về thơ Nguyễn Duy. Tác giả đã đi vào khai thác nhiều khía cạnh trong thơ Nguyễn Duy từ quan niệm nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ đến cái tôi, thế giới nhân vật và giọng điệu thơ, 11
  14. trong đó có đề cập đến triết lí mang đậm tính nhân sinh “Ta là dân vậy thì ta tồn tại” của thơ Nguyễn Duy. Tác giả đánh giá “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân ngay từ quan niệm nhân sinh và nghệ thuật” và cũng chính quan niệm nghệ thuật này đã đồng hành cùng Nguyễn Duy suốt con đường sáng tạo nghệ thuật của ông và càng về sau thì nó càng rõ ràng và sắc nét hơn. Nguyễn Duy là nhà thơ “ham mê chiêm nghiệm triết lí” nhưng triết lí trong thơ của Nguyễn Duy là triết lí “thảo dân” nhưng chất “thảo dân” không chỉ mang tính ý thức xã hội mà đồng thời còn là ý thức thẩm mĩ được chuyển hóa trong hình tượng cái tôi thi sĩ. Ngoài ra còn khá nhiều bài viết phân tích, bình giá về các bài thơ của Nguyễn Duy như: Vũ Quần Phương viết về Hơi ấm ổ rơm, Nguyễn Bùi Vợi viết về bài thơ Ánh trăng, tác giả Lê Trí Viễn, Chu Huy viết về bài Tre Việt Nam, Hoàng Nhuận Cầm viết về Tiếc thay áo trắng má hồng, Nhị Hà viết về bài Xuồng đầy. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết của các tác giả Trần Hòa Bình, Trần Đăng Khoa, Văn Giá, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Thị Bích Nga... Nhìn chung các tác giả đều nhận thấy ở thơ Nguyễn Duy có sự biến hóa sáng tạo, mang tính trí tuệ. Với sự cách tân linh hoạt, nhuần nhuyễn giữa lục bát truyền thống và hiện đại cùng với một tâm hồn thơ đầy cảm xúc, thơ của Nguyễn Duy đã chạm được vào sâu thẳm trái tim người đọc, đánh thức các giác quan để người đọc có thể thẩm thấu ý nghĩa thơ ông ở nhiều phương diện. Bài Tre Việt Nam [53] đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học. GS. Lê Trí Viễn đã chỉ ra phẩm chất con người Việt Nam thông qua hình ảnh cây tre, đồng thời thấy được giọng điệu quen thuộc của ca dao dân gian trong bài thơ: “Người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao – dân ca ngọt ngào thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ. Cách tân linh hoạt nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, cả truyền thống lẫn hiện đại”. Cũng về bài thơ này, Chu Huy khẳng định “Tre Việt Nam là 12
  15. một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy. Bài thơ dào dạt cảm hứng cấu tứ sâu sắc, độc đáo kết tinh từ những hình ảnh cuộc sống dân dã đời thường mà ai đã đọc một lần thì nhớ mãi” [26]. Trần Hòa Bình trong Bình văn ấn tượng với “giai điệu thư thái lâng lâng” của bài thơ cất lên từ nhịp thơ lục bát thân quen trong bài Tiếng hát mùa gặt của Nguyễn Duy. Nguyễn Thị Bông lại mang cảm giác xốn xang khi phát hiện ra Điểm gặp nhau thú vị của Tú Xương với Nguyễn Duy [4] qua hai bài thơ Thương vợ và Vợ ốm: “hai thi nhân của hai thời đại, một thì ngang ngạnh… một thì trầm lắng… dịu dàng đằm thắm… lại có những điểm gặp nhau tuyệt vời”. Ngoài những bài viết mang tính chất nghiên cứu, phê bình phân tích, bình giảng về thơ Nguyễn Duy còn có một số khóa luận, luận văn thạc sĩ chọn thơ Nguyễn Duy làm đề tài nghiên cứu. 2.2.2. Các công trình nghiên cứu về tác giả Đồng Đức Bốn Cho đến nay, các bài viết về nhà thơ Đồng Đức Bốn chủ yếu tập trung vào thơ lục bát và xoay quanh một số khía cạnh như: tài năng bẩm sinh của nhà thơ, nét độc đáo, chất thơ mộc mạc, cá tính nghệ sĩ, giọng điệu hay chất dân gian. Có thể kể tới một số bài viết tiêu biểu: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát (Nguyễn Huy Thiệp), Đồng Đức Bốn – kẻ mượn bút của trời (Đỗ Minh Tuấn), Múa võ trong không gian hẹp (Lê Quang Trang), Đồng Đức Bốn – phiêu du vào lục bát (Nguyễn Đăng Điệp), Những câu thơ tình tang quê mùa (Đoàn Hương), Đọc thơ lục bát của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị Anh Thư), Đóng gạch nơi nao? (Phạm Tiến Duật), Nhà thơ Đồng Đức Bốn nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang), Đồng Đức Bốn – tựa bão để sống làm người (Nguyễn Anh Quân), Đồng Đức Bốn - thi sĩ đồng quê (Băng Sơn)… Những bài viết này đã có một số ý kiến đề cập đến chất dân gian, chất đồng quê của thơ Đồng Đức Bốn, tuy nhiên mới ở mức độ đan xen khi khảo 13
  16. sát thơ lục bát hoặc lướt qua chứ chưa đi sâu vào bản chất vấn đề. Ở phần này, chúng tôi tập trung vào khảo sát một số bài viết liên quan đến vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ Đồng Đức Bốn. Trong bài Đồng Đức Bốn - Vị cứu tinh của thơ lục bát, Nguyễn Huy Thiệp viết: “Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải thưởng trong các cuộc thi thơ của báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội và báo Tiền phong. Anh là người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất trong khoảng 50 năm trở lại đây ở nước ta, kể từ khi Nguyễn Bính – một nhà thơ chân quê đồng thời cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời”. Bài viết còn đề cập đến hình ảnh nông thôn trong thơ Đồng Đức Bốn, vẫn là những thôn Đoài, thôn Đông, vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn, mất mát khiến lòng ta nhói đau nhưng trong thơ Đồng Đức Bốn lại mang một màu sắc khác, tạo nên cái mới lạ, độc đáo riêng biệt, không trộn lẫn của thơ anh. Nguyễn Huy Thiệp cũng đã nêu lên tính đặc trưng của thơ lục bát là dễ làm, khó hay. “Có thể nói thơ lục bát là một thể thơ nôm na cổ truyền đặc trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát cũng là một thể thơ vị tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam thật thà, chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính vì thế mà khó hay… Đồng Đức Bốn là người tự dưng đốn ngộ với thể thơ lục bát”. Như vậy có thể thấy một số bài viết đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề thể loại và mối liên hệ mật thiết giữa thơ lục bát Đồng Đức Bốn và dòng thơ lục bát truyền thống. Đỗ Minh Tuấn trong bài Đồng Đức Bốn – Kẻ mượn bút của trời nhận xét: “Sự xuất hiện của Đồng Đức Bốn đã đem lại cho thơ lục bát, thơ truyền thống một niềm tự tin đáng kể”, “thơ Bốn vụt lên với sự sáng trong giản dị mà không kém phần sâu sắc, mới lạ và ấn tượng như mang cả hồn thiêng của tổ tiên trong mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”. Còn trong bài viết Trời đưa anh đến cõi thơ, Đỗ Minh Tuấn lại chỉ ra niềm kiêu hãnh, biết ơn của Đồng 14
  17. Đức Bốn với thơ lục bát: “cái tình cảm của Bốn với thơ lục bát nhìn bề ngoài giống như tình cảm của người nông dân với con trâu”. Nguyễn Đăng Điệp cũng đánh giá rất cao thơ lục bát Đồng Đức Bốn: “Từ lục bát của ca dao, Nguyễn Du đã tạo nên một đột biến: “Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” (Chế Lan Viên). Thể thơ dân tộc này hiện hình một cách tài hoa qua “khối tình lớn – khối tình con” (Tản Đà) rồi chia thành hai ngả trong Thơ mới: Cái chân quê trong sáu – tám của Nguyễn Bính và cái hàm súc cổ điển trong thơ Huy Cận. Hiện giờ, ngoài cái “thượng thừa” của Bùi Giáng, lục bát sống trong hồn Nguyễn Duy, rồi Đồng Đức Bốn… Làm được lục bát hóa ra là việc khó khăn… Là một thể loại ai cũng quen mặt, ai cũng thuộc tên, nếu không có cái mới, lập tức kẻ làm thơ sẽ bị đuổi khỏi chiếu. May thay, Đồng Đức Bốn đã trụ lại được”. Rõ ràng Đồng Đức Bốn được đánh giá là một trong những tên tuổi sáng giá nhất trong làng thơ lục bát Việt Nam. Ở phần cuối bài viết, tác giả còn nhấn mạnh, Đồng Đức Bốn rồi cuối cùng cũng trở về với ca dao, với tình đời dù cay đắng nhưng vẫn ngọt ngào. Cái chất dân gian trong thơ Đồng Đức Bốn vẫn là cầu nối anh với thế hệ độc giả bây giờ. Dù có thế nào đi chăng nữa thì khuynh hướng sáng tác của Đồng Đức Bốn vẫn là trở về với cội nguồn. Trong phần đầu của bài viết Những câu thơ tình tang quê mùa, Đoàn Hương đề cập đến chất dân ca, ca dao trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn. Bài viết đã có những phân tích khá kĩ về chất quê trong thơ Đồng Đức Bốn – mạch nguồn cảm hứng chủ đạo của nhà thơ. Đọc thơ lục bát của Đ ồng Đức Bốn, Đoàn Hương cảm nhận “như một kẻ đánh mất quê được trở về quê”. Đọc thơ Đồng Đức Bốn để ta tìm thấy quê, trở về với quê hương trong tâm tưởng của ta. Với giọng điệu tự nhiên pha chút ngang tàng trong bài Đóng gạch nơi nao, Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “Một mình Đồng Đức Bốn tự làm một 15
  18. cuộc trường chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một thời gian ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”. Nhà văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn – Nhàu nát và trau chuốt đánh giá về chất đồng quê trong thơ Đồng Đức Bốn từ góc độ câu thơ: “Thơ Đồng Đức Bốn đấy, mỗi câu giống như lời nói của các bà nông dân lam lũ, yếm trễ ngực, váy xắn quai cồng, đòn gánh oằn vai”. Trong Tựa bão để sống làm người, Anh Quân thấy được nhạc tính giàu chất dân gian trong thơ lục bát nói chung và thơ Đồng Đức Bốn nói riêng: “Thực ra trong thơ ca, lục bát là thể thơ mang tính nhạc đậm nhất, ở thơ Đồng Đức Bốn càng thấy rõ điều này. Bất kì một bài nào của anh đều như những bài hát dân ca, điệu hò câu ví thuở xưa”. Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn – Thi sĩ đồng quê đã nhận định khá sâu sắc về hồn quê mùa trong thơ Đồng Đức Bốn, coi ông là “Một nhà thơ kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc ngàn năm để ứ dồn vào tâm hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ ca dao đi ra, như từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”. Trong Vài ý nghĩ tản mạn về thơ Đồng Đức Bốn, Nguyễn Thanh Toàn cũng nhận xét: “Thế mạnh thơ Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê, ngôn ngữ đồng quê, cảm hứng đồng quê… Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”. Ngoài ra một số bài viết của Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Việt Hà, Văn Chinh… cũng đã có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc, xác đáng về thơ Đồng Đức Bốn . Qua những bài viết, nghiên cứu về Đồng Đức Bốn có thể thấy, anh được đánh giá là nhà thơ xuất sắc của dòng thơ lục bát Việt Nam đương đại. Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn khẳng định lại một lần nữa thể thơ lục bát ưu thế của thơ Việt. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, thơ lục bát của Đồng Đức Bốn còn gai góc, thô mộc, còn có vẻ gì chất phác, ngô nghê. Nhìn 16
  19. chung, Đồng Đức Bốn xứng đáng được coi là người tiếp nối dòng chảy dân gian trong thơ ca Việt Nam và có những đóng góp không nhỏ trên thi đàn. Tóm lại, qua lịch sử tìm hiểu nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn, chúng tôi thấy trong một số bài viết về thơ của hai tác giả ít nhiều đã đề cập đến vấn đề bản sắc dân tộc trong thơ của từng cây bút. Tuy nhiên, qua khảo sát, có thể thấy những bài viết này mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh hoặc một vài yếu tố dân gian trong thơ của từng tác giả riêng biệt, chưa đề cập một cách trực tiếp, chưa khảo sát vấn đề một cách hệ thống, toàn diện. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn nhằm đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về bản sắc dân tộc trong thơ của hai cây bút đặc sắc này, từ đó góp phần nhận diện, khẳng định một hướng tìm tòi, đổi mới thành công của thơ đương đại Việt Nam. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, người viết sử dụng các pháp nghiên cứu chủ yếu như: - Phương pháp phân tích - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp thống kê, phân loại 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu bản sắc dân tộc trong sáng tác của hai tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn. Phạm vi khảo sát là các tập thơ chính của Nguyễn Duy và toàn bộ thơ Đồng Đức Bốn. * Nguyễn Duy - Cát trắng (Thơ, 1973) - Ánh trăng (Thơ, 1984) - Mẹ và em (Thơ, 1987) 17
  20. - Đường xa (Thơ, 1989) - Qùa tặng (Thơ, 1990) - Về (Thơ, 1994) - Sáu và Tám (Thơ, 1994) - Bụi (Thơ, 1997) * Đồng Đức Bốn - Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992) - Chăn trâu đốt lửa (Thơ, 1993) - Trở về với mẹ ta thôi (2000) - Cuối cùng vẫn còn dòng sông (2000) - Chuông chùa kêu trong mưa (2002) - Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006) Ngoài ra, để có điều kiện so sánh, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát thơ của một số tác giả khác. 5. Đóng góp của luận văn - Từ khảo sát, phân tích thơ của hai tác giả, luận văn nhận diện, đúc kết những nét đặc sắc của các cây bút về phương diện kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống trong việc hiện đại hóa thơ; khẳng định nỗ lực đổi mới thơ của hai tác giả. - Luận văn cũng khảo sát và nhận diện một trong những khuynh hướng tìm tòi sáng tạo có hiệu quả của thơ đương đại Việt Nam. - Ở một phạm vi nhất định, luận văn góp phần tổng kết, đánh giá về tiến trình vận động, đổi mới của thơ đương đại Việt Nam và sự vận động của thơ lục bát trong thơ Việt Nam hiện đại. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2