Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả - Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim
lượt xem 12
download
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu về cái tôi trữ tình và những đặc trưng của thơ nữ trong văn học; tìm hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc trong việc thể hiện cái tôi trữ tình của ba nhà thơ nữ trẻ sau năm 1986; nghiên cứu và tìm hiểu một số hình thức nghệ thuật biểu đạt cái tôi trữ tình trong thơ của ba nhà thơ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả - Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HUỆ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NỮ TRẺ SAU 1986 QUA CÁC TÁC GIẢ: VI THÙY LINH, LY HOÀNG LY, BÙI SIM SIM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lƣu Khánh Thơ Hà Nội - 2017
- MỤC LỤC MỤC LỤC ....................................................................................................................... 0 MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 5 2.1. Lịch sử nghiên cứu cái tôi trữ tình .............................................................. 5 2.2. Lịch sử nghiên cứ về ba tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim ......................................................................................................................... 7 3. Mục đích – Đối tƣợng – Phạm vi nghiên cứu .................................................. 10 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 11 5. Cấu trúc Luận văn ............................................................................................... 12 Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ THƠ NỮ TRẺ SAU 1986 ........................................................................................................................................ 13 1.1. Khái lƣợc về cái tôi trữ tình ........................................................................... 13 1.1.1. Khái niệm cái tôi ....................................................................................... 13 1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình ......................................................................... 14 1.1.3. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ ........................................................ 15 1.2. Thơ nữ trẻ sau 1986 ........................................................................................ 18 1.2.1. Bối cảnh thời đại và sự xuất hiện các nhà thơ nữ trẻ sau 1986 ............. 18 1.2.2. Khái lược về thơ nữ trẻ sau 1986 ............................................................. 24 1.2.3. Khái quát về Vi Thùy Linh, Ly Loàng Ly và Bùi Sim Sim ..................... 25 Chƣơng 2: CÁC DẠNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VI THÙY LINH, LY HOÀNG LY, BÙI SIM SIM ................................................... 31 2.1. Cái tôi cá nhân ................................................................................................... 31 1
- 2.1.1. Cái tôi chủ quan ........................................................................................... 31 2.1.2. Cái tôi nghệ sĩ ............................................................................................... 40 2.1.3. Cái tôi mang đặc trưng giới ......................................................................... 49 2.2. Cái tôi đời tƣ ....................................................................................................... 53 2.2.1. Cái tôi bản thể và những khao khát tự do, giải phóng tình dục ................ 53 2.2.2. Cái tôi với nỗi buồn và sự cô đơn ................................................................ 61 2.3. Cái tôi thế sự ....................................................................................................... 69 2.3.1. Cái tôi trực cảm về những vấn đề xã hội hiện đại ...................................... 69 2.3.2. Cái tôi suy tư, chiêm nghiệm và triết lý về cuộc sống ................................. 75 Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VI THÙY LINH, LY HOÀNG LY, BÙI SIM SIM ........................................................ 80 3.1. Thể thơ ................................................................................................................ 80 3.1.1. Thể thơ tự do................................................................................................. 80 3.1.2. Thể thơ văn xuôi ........................................................................................... 90 3.1.3. Một số hình thức biểu đạt khác ................................................................... 94 3.2. Giọng điệu ........................................................................................................... 98 3.3. Biểu tƣợng ........................................................................................................ 103 3.3.1. Biểu tượng “Đất” ....................................................................................... 103 3.3.2. Biểu tượng “Nước” .................................................................................... 105 3.3.3. Biểu tượng “Đêm”...................................................................................... 106 3.3.4. Biểu tượng phồn thực ................................................................................ 107 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 113 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thơ là một thể loại văn học xuất hiện rất sớm trong đời sống con người. Với phương thức trữ tình, thơ tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhận thức, cảm xúc, suy nghĩ của người đọc. Thơ thuộc phương thức trữ tình nên trước hết thơ là sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ trước cuộc đời, đó là những tình cảm, những rung động của con người trước cuộc sống được thể hiện một cách chân thành, tự nhiên.Có thể thấy, thơ ca giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là bước khởi đầu cho sự xuất hiện của văn học và duy trì được những đặc trưng quan trọng của văn học. Qua mỗi giai đoạn phát triển khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học, thơ ca lại có sự đổi khác, tự làm mới mình để phù hợp với nhu cầu của lịch sử xã hội. Ý thức về cái tôi trong thơ đã xuất hiện từ rất sớm, kết hợp với đó là bản chất trữ tình trong thơ - nhu cầu bộc lộ tình cảm, cảm xúc, thái độ của con người trước đời sống xã hội, đã tạo nên một yếu tố mang tính chất đặc trưng của thơ ca đó là: cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình xuất hiện trong thơ là tiền đề tạo nên phong cách nhà thơ.Vì vậy, tìm hiểu cái tôi trữ tình là tìm hiểu một phương diện chủ yếu của thơ, tìm hiểu ý thức chủ quan và thế giới tinh thần của người viết, khái quát được mối quan hệ giữa thơ và đời sống, đồng thời thấy được những đặc trưng của cái tôi trữ tình ở mỗi thời đại. Trong quy luật sáng tạo thơ ca, lớp nhà thơ trẻ luôn là những người mang đến luồng sinh khí mới, bởi họ chính là những con người của thời đại, họ hấp thụ tất cả những xu thế của thời đại và phản ánh chúng vào thơ ca. Tìm tòi và khám phá những cái mới luôn là khát vọng và cũng là thách thức đặt ra cho các nhà thơ trẻ. Bởi vậy, không phải nhà thơ tài năng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc, mà bên cạnh cái mới còn cần có cái đặc sắc. Cùng với các nhà thơ ở vị trí giao thoa giữa giai đoạn thơ ca trước và sau đổi mới là sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ, trong đó có cả những nhà thơ nữ, đã đóng góp vào nền thơ ca đương đại những nét cách tân đặc sắc, làm phong 3
- phú hơn và đa dạng hơn cho nền thơ ca sau 1986. Nền thơ ca khi bước sang giai đoạn đổi mới cũng đồng thời xuất hiện một thế hệ các nhà thơ nữ trẻ sung sức và không ngừng tạo nên phẩm chất mới, diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam đương đại. Trong số những nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ nữ trẻ đó có sự xuất hiện của ba cây bút Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly và Bùi Sim Sim luôn gây được sự chú ý. Hiện nay, phê bình văn học đang rất phát triển, số lượng những bài viết, bài đánh giá và nghiên cứu về thơ đương đại là rất phong phú. Tuy nhiên, khi tiếp cận mảng tư liệu phê bình đánh giá các hiện tượng thơ nữ trẻ hiện nay, người viết nhận thấy một vấn đề nổi cộm đó là các tác giả chỉ đưa ra những luận điểm khái quát, chung chung mà chưa đi vào phân tích, lý giải cụ thể, hoặc chưa khái quát được mối quan hệ cũng như những đặc điểm chung của ba nhà thơ Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về ba tác giả trên phương diện cái tôi trữ tình, chúng ta sẽ phần nào có cách nhận thức, đánh giá hợp lý nhất các tác phẩm cũng như tài năng thơ ca của các nhà thơ nữ trẻ; đồng thời, chúng ta có thể khái quát được thực trạng đổi mới thơ ca, đánh giá được vị trí, vai trò của những nhà thơ nữ trong sự phát triển của nền văn học đương đại. Qua đó, chúng ta cũng tìm ra được những cách thức tiếp cận một giai đoạn văn học từ phương diện cái tôi trữ tình; đẩy nhanh và hiệu quả quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa tinh thần của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Có thể thấy rằng, nền thơ ca đương đại đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm tự tìm lại vị trí trong đời sống xã hội.Bởi vậy, thơ ca ngày nay cần có nhiều động lực và chất xúc tác để đi lên. Chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim là một hướng đi tuy không phải quá mới mẻ nhưng hứa hẹn sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam đương đại. Đề tài là cơ sở cho việc khái quát những đặc trưng nổi bật của thơ nữ giai đoạn văn học thời kỳ đổi mới; mở rộng tìm tòi, phát hiện những nét đặc sắc trong thơ ca của một số gương mặt nhà thơ nữ trẻ và sự 4
- đóng góp của họ trong tiến trình phát triển của nền văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng là cơ hội cho người viết bày tỏ lòng trân trọng và ngưỡng mộ những tài năng thơ ca hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu cái tôi trữ tình Cái tôi trữ tình, hay nói cách khác là bản chất chủ quan trong thơ là khái niệm đã được chú ý từ rất sớm. Ở phương Tây, các nhà triết học, tâm lý học đã đặc biệt chú ý đến khái niệm “cái tôi”. Các nhà triết học duy tâm (Đềcác, Phíchtê, Hêghen…), các nhà triết học Mác – Lênin, các nhà triết học xã hội hay các nhà tâm lý học có những quan niệm khác nhau về “cái tôi” nhưng họ đều thống nhất “cái tôi” là một yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên tính cá thể và hình thành nhân cách con người. Bên cạnh các nhà triết học và tâm lý học phương Tây, ở phương Đông, khái niệm cái tôi trữ tình cũng được đề cập đến từ khá sớm trong một số công trình của Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị, Viên Mai (Trung Quốc), họ đề cập đến những khái niệm như “tâm”, “tình”, “vật”…nhằm nói đến bản chất chủ quan của nhà thơ và cảm xúc cá nhân của người sáng tác. Như vậy, ngay từ thời kỳ cổ đại, cái tôi mang tính chất cá nhân đã được đặc biệt chú trọng.Ở Việt Nam, “cái tôi” trong thơ cũng được nói đến từ xưa. Trong văn học Trung đại, những nhà thơ như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát… đều bàn về mối quan hệ giữa “tình” và “cảnh”, về “chí”, “hứng”, “tâm”… Sang đến đầu thế kỉ XX, trong giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam, vấn đề “cái tôi trữ tình” trong thơ được chú ý hơn bởi những nhà lý luận, phê bình và nghiên cứu văn học. Họ đã vận dụng khái niệm “cái tôi trữ tình” trong nghiên cứu và sử dụng yếu tố này như một đối tượng, một hướng nghiên cứu mới để tìm ra được bản chất của thơ ca và cá tính sáng tạo của tác giả. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh trực tiếp đề cập đến vấn đề “cái tôi” có giá trị như sự tổng kết Phong trào Thơ mới. Hà Minh Đức trong công trình nghiên cứu Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại cũng đã đi sâu nghiên cứu về cái tôi trữ tình. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử là người có nhiều đóng 5
- góp trong nghiên cứu văn học từ góc độ tiếp cận về cái tôi trữ tình trong thơ ca, nhiều công trình nghiên cứu của ông đã khẳng đinh được vị trí của cái tôi trữ tình trong thơ ca như Lý luận và phê bình văn học: Những vấn đề và quan niệm hiện đại và Hành trình thơ hôm nay. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành trong cuốn Giáo trình Tư duy thơ hiện đại Việt Nam cũng đã đề cập một cách khá sâu sắc và toàn diện về cái tôi trữ tình trong thơ ca. Bên cạnh đó, một số bài viết và công trình nghiên cứu của nhà phê bình Lưu Khánh Thơ như Cái tôi trữ tình và phương thức biểu hiện cái tôi tình yêu trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng; Suy nghĩ về thơ môm nay; thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại… cũng đã thể hiện được tầm quan trọng của cái tôi trữ tình trong thơ ca. Đặc biệt việc nghiên cứu thơ ca từ phương diện cái tôi trữ tình cũng đem lại nhiều thành tựu trong một số công trình nghiên cứu, bài viết về thơ sau 1975 và thơ đương đại như: Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990 (Lê Lưu Oanh); Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 – 1995: nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình (Vũ Tuấn Anh)… Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu, bài viết về những vấn đề văn học giai đoạn hiện đại và đương đại cũng đã tạo lên cái nhìn tổng quan, có hệ thống để thấy được sự vận động của nền văn học và yếu tố cái tôi trữ tình: Thơ trẻ Việt Nam 1965 – 1975 khuôn mặt cái tôi trữ tình (Bùi Bích Hạnh); Một số đặc điểm về thi pháp thơ Việt Nam sau 1975 (2000) và Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000 (Phạm Quốc Ca); Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay – Những đổi mới cơ bản (Đặng Thu Thủy)… Ý thức về bản chất chủ quan của nhà thơ được đề cập đến từ rất sớm và cho đến nay, việc tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ là một cách thức nghiên cứu về thơ cũng như tìm hiểu cá tính sáng tạo của nhà thơ. Tuy có rất nhiều những ý kiến khác nhau về cái tôi trữ tình nhưng có thể khái quát những công trình nghiên cứu trên đều khẳng định cái tôi trữ tình là một phương diện quan trọng của thơ ca, nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ là tìm hiểu về cái tôi cá nhân, khẳng định con người cá tính và nhân cách 6
- của chủ thể sáng tạo. Bên cạnh đó, cái tôi trữ tình còn là biểu hiện của thơ ca về mặt hình thức nghệ thuật: ngôn ngữ, cấu trúc, giọng điệu… Mặc dù vấn đề nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ đã được chú ý từ sớm và trở thành đối tượng của phê bình văn học, tuy nhiên khi nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ đương đại thì chưa có công trình nào phân tích và lý giải một cách cụ thể để thấy được những cá tính riêng của thơ nữ đương đại. Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu cái tôi trữ tình qua ba tác giả cụ thể: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim để thấy được sự vận động, thay đổi của nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong giai đoạn văn học đương đại so với giai đoạn văn học trước đó; đồng thời chỉ ra được những nét độc đáo, riêng biệt của cá tính sáng tạo trong thơ nữ đương đại. 2.2. Lịch sử nghiên cứ về ba tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim Văn học là một dòng chảy không ngừng chuyển động, thơ ca với sự chuyển mình mạnh mẽ ở thời kỳ đổi mới cũng góp thêm phần ảnh hưởng cho quá trình lưu chuyển của dòng chảy văn học. Các nhà thơ nữ trẻ là lực lượng sáng tác sung sức, luôn nỗ lực không ngừng trong cuộc cách mạng đổi mới thơ ca. Trong số đó, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim là những nhà thơ nữ xuất hiện đầy ấn tượng, khuấy đảo văn đàn, tạo ra một làn sóng mới cho nền thơ ca đương đại và trở thành đối tượng cho nhiều cuộc tranh luận, nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học. Về Vi Thùy Linh: Ngay từ khi xuất hiện, Vi Thùy Linh đã khuấy động thi đàn Việt Nam và tạo ấn tượng trong lòng độc giả với hai tập thơ Khát(1999) và Linh(2000). Bởi những nét cách tân mới mẻ và cá tính mạnh mẽ được thể hiện trong thơ mà Vi Thùy Linh trở thành một hiện tượng được bàn luận nhiều.Đã có rất nhiều những cuộc tranh luận sôi nổi và hình thành hai luồng tư tưởng, cách đánh giá khác nhau về thơ của Linh. Những người chủ trương cách tân (Nguyễn Trọng Tạo, Tô Hoàng, Phạm Xuân Nguyên…) thì đánh giá cao những nét mới mẻ trong thơ Vi Thùy Linh, họ cho đó là 7
- những cách tân độc đáo, những cảm xúc mạnh mẽ và cách thể hiện táo bạo, khác lạ. Trong khi đó, những người chủ trương bảo thủ (Trần Mạnh Hảo, Hoàng Xuân Tuyền…) lại coi thơ của Vi Thùy Linh là nổi loạn, không lành mạnh, không phải là thơ.Cuộc tranh luận này kéo dài từ ngày 17/02/2001 đến ngày 24/3/2001, liên tiếp trong các số 7, 8, 9, 10 trên báo Người Hà Nội.Cuộc tranh luận về thơ Vi Thùy Linh tuy đã kết thúc nhưng nó khẳng định được sức ảnh hưởng mạnh mẽ của thơ Vi Thùy Linh đối với nền thơ ca đương đại Việt Nam. Bên cạnh đó, có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu về thơ Vi Thùy Linh có thể kể đến như: Thơ Vi Thùy Linh, một khát vọng trẻ (Nguyễn Thụy Kha, Người Hà Nội, số 8 – 2001); Linh ơi…! (Nguyễn Thanh Sơn, Người Hà Nội, số 8 – 2001); Hiện tương Vi Thùy Linh (Nguyễn Huy Thiệp); Đọc “Linh” thơ Vi Thùy Linh (Văn Đắc, Phụ bản Thơ, Báo Văn nghệ, số 16, tháng 10 -2004); “Sex” làm nên “thương hiệu” Vi Thùy Linh? (Lê Thị Huệ); Thơ của một cô gái tuổi 20 (Tô Hoàng, Người Hà Nội, số 7, ngày 17/02/2001); Vi Thùy Linh, nhục cảm sáng tạo (Thụy Khuê); Vi Thùy Linh và một kiểu tư duy về lời (Trần Thiện Khanh); Vi Thùy Linh – thi sĩ của ái quyền (Chu Văn Sơn); Thơ Vi Thùy Linh giữa những quyền lực của lời (Nguyễn Thị Thanh Tâm); Thơ trẻ Việt Nam đương đại qua ba tác giả Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư và Ly Hoàng Ly (Nguyễn Thị Mai Anh); Cái tôi trữ tình thơ trẻ đương đại (Qua Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải) (Phan Trắc Thúc Định)… Vi Thùy Linh tiếp tục hoạt động sáng tác thơ ca và đạt được nhiều thành tựu với các tập thơ như Đồng tử(2005), ViLi in love (2008), Phim đôi – Tình tự chậm(2010), ViLi và Paris (2012). Những tập thơ trên cũng nhận được sự chú ý của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu. Về Ly Hoàng Ly: Ly Hoàng Lyxuất hiện trên văn đàn với hai tập thơ Cỏ trắng(1999)và Lô lô(2005). Với hai tập thơ trên, Ly Hoàng Ly đã ghi tên mình một cách ấn tượng trong làng thơ trẻ và công chúng yêu thơ. Bên cạnh việc sáng tác thơ, Ly Hoàng Ly còn hoạt động nghệ thuật hội họa và tạo hình, vì vậy người đọc sẽ rất ấn 8
- tượng bởi việc sử dụng màu sắc, hình khối trong hình ảnh thơ của Ly Hoàng Ly. Ngay từ khi xuất hiện, những tác phẩm thơ của Ly Hoàng Ly đã được chú ý, và bài phê bình tiêu biểu nhất về thơ Ly Hoàng Ly là Ly Hoàng Ly và bóng đêm của Thụy Khuê. Bên cạnh đó, có nhiều những công trình nghiên cứu về thơ trẻ đương đại có nhắc đến thơ Ly Hoàng Ly như: Ý thức nữ quyền trong thơ nữ Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (qua một số trường hợp tiêu biểu) (Nguyễn Thị Hưởng); Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỷ 80 đến nay – những đổi mới cơ bản (Đặng Thu Thủy); đặc biệt trong công trình nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam đương đại qua ba tác giả Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư và Ly Hoàng Ly (Nguyễn Thị Mai Anh) tác giả đã đi sâu tìm hiểu những nét đặc sắc trong thơ Ly Hoàng Ly và khái quát được một số những đặc trưng của thơ trẻ đương đại. Về Bùi Sim Sim: Bùi Sim Sim khẳng định tài năng trên con đường đến với địa hạt văn chương với hai tập thơ Thì thầm lá non (1996) và Giữa hai chiều quên nhớ (2003). Tuy chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu đi vào tìm hiểu về thơ của tác giả, nhưng những trang thơ của chị đã thực sự đi vào lòng người đọc yêu thơ, gây ấn tượng một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng bởi sự thể hiện đầy dung dị mà vẫn mới mẻ. Bùi Sim Sim là một trong những cây bút nữ tiêu biểu của nền thơ ca đương đại Việt Nam. Có thể thấy, cả ba tác giả trên đều là những gương mặt nhà thơ trẻ của nền văn học bước sang giai đoạn đương đại sau 1986. Họ là những đối tượng nghiên cứu, đối tượng tìm hiểu của nhiều nhà phê bình. Tuy nhiên, những nghiên cứu về họ đều mang cái nhìn khái quát, chung chung và đánh giá ở góc độ đổi mới về hình thức nghệ thuật ở các nhà thơ trẻ. Những nhà nghiên cứu có thể tán dương, đề cao hoặc phê phán, phủ nhận những nét cách tân trong thơ của những nhà thơ trẻ trên con đường đổi mới văn chương nhưng chưa nhìn nhận thật sâu sắc ở vấn đề sự vận động của cái tôi cá nhân trong bình diện chung của quan niệm văn học thời đại. Dẫu sao thì bản lĩnh của người 9
- phụ nữ có tài năng thơ ca, dám khai phá, tìm tòi những cái mới, dám đem hết thảy những suy nghĩ, tình cảm cá nhân thể hiện trong thơ thì đó đều là những sự cố gắng thực sự đáng trân trọng. 3. Mục đích – Đối tƣợng – Phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim nhằm mục đích: - Tìm hiểu về cái tôi trữ tình và những đặc trưng của thơ nữ trong văn học. - Tìm hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc trong việc thể hiện cái tôi trữ tình của ba nhà thơ nữ trẻ sau năm 1986. - Nghiên cứu và tìm hiểu một số hình thức nghệ thuật biểu đạt cái tôi trữ tình trong thơ của ba nhà thơ. Qua đó, khái quát được cá tính sáng tạo, thành công nghệ thuật của Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly và Bùi Sim Sim cũng như những đóng góp của họ trong sự nghiệp đổi mới và cách tân thơ ca Việt Nam hiện nay. Đối tƣợng nghiên cứu Cả ba nhà thơ Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly và Bùi Sim Sim đều là những nhà thơ trẻ, trưởng thành và phát triển sự nghiệp văn chương giai đoạn sau năm 1986. Đề tài mới mẻ trong nghiên cứu văn học vừa là cơ hội, vừa là động lực thôi thúc chúng tôi khảo sát và tìm tòi. Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim vì nhận thấy rằng những sáng tác của ba nhà thơ trên chưa được nghiên cứu, đề cập đến một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, nghiên cứu về Cái tôi trữ tình trong thơ của Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly và Bùi Sim Sim còn có một vai trò quan trọng trong việc khẳng định vị trí của nhà thơ nữ trong sự phát triển của nền văn học thời kỳ đổi mới và vai trò của họ trong việc duy trì sức sống của thơ ca trong giai đoạn hội nhập toàn cầu. 10
- Phạm vi tƣ liệu Phạm vi tư liệu của Luận văn tập trung trong những tác phẩm chính của ba nhà thơ: - Nhà thơ Vi Thùy Linh với 6 tập thơ: Khát (1999), Nxb Phụ nữ. Linh (2000), Nxb Thanh niên. Đồng tử (2005), tập thơ song ngữ, Nxb Văn nghệ TP. HCM. ViLi in love (2008), tập thơ song ngữ Việt – Anh, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. Phim đôi – Tình tự chậm (2010), Nxb Thanh niên. ViLi và Paris (2012), tập thơ song ngữ Việt - Anh, Nxb Hội nhà văn. - Nhà thơ Ly Hoàng Ly với 2 tập thơ: Cỏ trắng (1999), Nxb Hội nhà văn. Lô lô (2005), Nxb Hội nhà văn. - Nhà thơ Bùi Sim Sim với 2 tập thơ: Thì thầm lá non (1996), Nxb Hội nhà văn. Giữa hai chiều quên nhớ (2003), Nxb Hội nhà văn. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn liên hệ mở rộng đến một vài sáng tác văn học, nghệ thuật khác của ba tác giả. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn này đề cập đến vấn đề cái tôi trữ tình không chỉ đơn thuần là một yếu tố trong nghiên cứu văn học mà còn xét nó ở góc độ nghiên cứu thi pháp. Chính vì vậy, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học - Phương pháp phân tích – tổng hợp - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh 11
- 5. Cấu trúc Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn của chúng tôi được triển khai theo ba chương: Chƣơng 1: Khái lược về cái tôi trữ tình và thơ nữ trẻ sau 1986 Chƣơng 2: Các dạng biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim Chƣơng 3: Nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim 12
- Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ THƠ NỮ TRẺ SAU 1986 1.1. Khái lƣợc về cái tôi trữ tình 1.1.1. Khái niệm cái tôi Ngay sau khi nhận thức con người thoát khỏi sự ngự trị của tôn giáo, ý thức về cá nhân, về cái tôi đã được nhiều nhà khoa học, triết học khẳng định. Các triết thuyết về tôn giáo cơ bản không thừa nhận cái tôi cá nhân, chủ trương xóa bỏ cái tôi. Sự nhận thức duy lý về vai trò của cái tôi cá nhân là một bước ngoặt quan trọng của nhân loại về con người bản thể. Ở thời cổ đại, các nhà triết học, tâm lý học đã khẳng định vai trò của cái tôi trong sự phát triển của con người.Các nhà triết học duy tâm là những người đầu tiên chú ý đến cái tôi khi đề cao ý thức và lý tính. Những nhà triết học duy tâm hàng đầu như Đềcác, Phíchtê, Hêghen, Bécxông… tuy có những cách nhìn nhận khác nhau về cái tôi nhưng họ đều khẳng định “cái tôi là phương diện trung tâm của tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức, có khả năng chi phối hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới”[47, tr.17]. Sau này, các nhà triết học Mác – Lênin cũng thống nhất “cái tôi” là “trung tâm tinh thần của con người, của cá tính con người có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình. Chỉ có con người đối lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình”[47, tr.17]. Các nhà tâm lý học (Phơrớt, Rôgers, Maslâu…) khi thống nhất quan niệm về cái tôi thì cho rằng: “Cái tôi là yếu tố cơ bản cấu thành phần ý thức của nhân cách (bộ mặt tâm lý) con người”[47, tr.17]. Dựa trên cơ sở những quan niệm về khái niệm cái tôi của các nhà triết học và các nhà tâm lý học, chúng ta có thể khái quát cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, hình thành cá tính và cấu thành nhân cách, ý thức của con người. Cái tôi vừa mang bản chất xã hội, lịch sử vừa mang bản chất chủ quan riêng biệt; con người là tổng 13
- hòa của các mối quan hệ xã hội nên cái tôi vừa là chủ thể, vừa là khách thể của hoạt động nhận thức. Bên cạnh đó, cái tôi là cấu trúc phần tự giác, tự ý thức của nhân cách, có thể tự điều chỉnh, kiểm soát những hành vi của mình, thể hiện tính chủ động toàn diện của cái tôi cá nhân con người độc lập. Trong mỗi ngành khoa học khác nhau, cái tôi lại được tìm hiểu ở những góc độ khác nhau.Cái tôi tồn tại trong xã hội, lịch sử và chịu sự tác động của xã hội ở những mặt nhất định, trong mỗi thời đại nhất định. Qua mỗi giai đoạn biến đổi của thời đại, cái tôi cũng có sự thay đổi cho phù hợp, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ ca. Vì vậy thông qua việc tìm hiểu cá tính sáng tạo, tìm hiểu những đặc trưng trong cá nhân người sáng tác, chúng ta có thể nhận thấy những bối cảnh xã hội, nhìn thấu những biến thiên thời đại đã ngấm sâu vào nhận thức cũng như tư duy của cái tôi chủ thể. Cái tôi là cơ sở cho tư duy nhận thức và phản ánh, là nền tảng cho sự sáng tạo, trong đó có nghệ thuật và sâu xa hơn là thơ ca trữ tình. 1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình Cái tôi định hướng, chi phối mọi hành vi và hoạt động của con người trong đời sống và cả trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của cái tôi nghệ thuật và phản ánh chính cái tôi nghệ sĩ ấy.Nếu như trong các tác phẩm tự sự, cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách quan thì trong thơ ca trữ tình, cái tôi nghệ thuật được bộc lộ một cách trực tiếp. Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của người sáng tác được thể hiện trong thơ trữ tình bằng nhiều phương tiện khác nhau từ nội dung đến hình thức. Khái niệm về cái tôi trữ tình đã được nhắc đến nhiều trong những công trình nghiên cứu thơ ca từ xưa đến nay. Dù có nhiều những nhận định khác nhau, nhưng tư tưởng của những nhà nghiên cứu đều có chung nội hàm về mối quan hệ giữa chủ thể và thơ trữ tình. Hegel cũng đã đưa ra nhận định của mình về mối quan hệ giữa tính trữ tình và tính chủ thể trong thơ ca: “Nguồn gốc và điểm tựa của thơ trữ tình là ở chủ thế và chủ thể là người duy nhất mang nội dung”[20, 14
- tr.162]. Chủ thể được Hegel đề cập đến chính là cái tôi trữ tình trong thơ ca. Như vậy, cái tôi trữ tình vừa mang nội dung lại vừa là cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật. Cũng đánh giá về cái tôi trữ tình, Belinsky cho rằng: “Toàn bộ hiện thực đều có thể là nội dung của thơ trữ tình nhưngvới điều kiện nó phải trở thành sở hữu máu thịt của chủ thể”[49, tr.26]. Hà Minh Đức cũng đưa ra quan điểm về vấn đề này: “Đối với thơ trữ tình vai trò của chủ thể có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà thơ nói về cuộc sống thông qua những cảm nghĩ chủ quan, hay nói một cách khác là phương thức biểu hiện của thơ trữ tình dựa chủ yếu vào chủ thể sáng tạo.”[13, tr.181].Tất cả những quan niệm trên khi đánh giá về mối quan hệ giữa chủ thể và thơ trữ tình đều nhằm khẳng định vị thế của cái tôi trữ tình trong thơ. Lê Lưu Oanh cho rằng: “Cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng cũng như bản chất của tác phẩm trữ tình” [47, tr.19]. Trong công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ, Phan Trắc Thúc Định cũng khẳng định: “Cái tôi trữ tình chính là khởi nguồn của quá trình sáng tạo thơ trữ tình, là linh hồn của thơ trữ tình.”[9, tr.10]. Các quan điểm của những nhà nghiên cứu nêu trên đều có một nội hàm chung thống nhất về vai trò quan trọng cái tôi trữ tình trong thơ. Chúng tôi tán thành những quan điểm trên và lấy đó là cơ sở lý luận nghiên cứu cho luận văn của mình. Tóm lại, cái tôi trữ tình là một phương diện biểu hiện chủ yếu và quan trọng nhất trong thơ ca, nó chi phối nội dung, quyết định hình thức nghệ thuật; nó là cơ sở, là tiền đề cho sự sáng tạo thơ ca. Cái tôi trữ tình không chỉ phản ánh thế giới nội cảm sâu sắc của chủ thể mà còn thể hiện được chiều sâu tư duy nghệ thuật của người sáng tạo. 1.1.3. Nhà thơ và cái tôi trữ tình trong thơ Nhà thơ – chủ thể sáng tạo, với cái tôi trữ tình được thể hiện trong thơ có một mối quan hệ gắn bó mật thiết không thể tách rời. Cái tôi trữ tình là yếu tố quan trọng giữ vai trò quyết định trong thơ.Bản chất của cái tôi trữ tình trong thơ là bản chất chủ quan của tác giả.Mối liên hệ giữa khách thể và chủ thể, hay là mối liên hệ giữa cái tôi 15
- trữ tình và cái tôi nhà thơ, tuy không thể đồng nhất nhưng cũng không thể tách bạch.Sự tự ý thức của chủ thể càng sâu sắc, độc đáo bao nhiêu thì tính trữ tình trong thơ càng được thể hiện có chiều sâu và đặc sắc bấy nhiêu. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nhận định: “…cái tôi trong thơ trữ tình gắn bó chặt chẽ nhất với cuộc đời của tác giả. Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và thơ là một thực tế trong sáng tác thơ ca ở tất cả mọi thời đại”[13, tr.183]. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định: “Ngoài những yếu tố xác định bộc lộ, dễ thấy trong cuộc sống, mỗi người trong đời còn có phần bên trong của tâm trạng với bao cảm xúc, tâm tình và ước mơ, hi vọng. Nhà thơ thường bộc lộ phần sâu kín đó trong thơ và có thể ở đây họ nói một cách chân thành, thiết tha những cái trong đời họ không có được”[13, tr.183]. Cái tôi trữ tình là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo nên phong cách sáng tạo của nhà thơ, nhưng đó không phải hoàn toàn là hình ảnh của cái tôi nhà thơ. Có thể xem như cái tôi nhà thơ là gốc gác, là ngọn nguồn của sự sáng tạo, còn cái tôi trữ tình được tìm thấy trong mỗi tác phẩm khác nhau lại là một sự biểu đạt khác nhau của tư duy sáng tạo nghệ thuật, xuất phát từ cái tôi nhà thơ. Cái tôi trữ tình có khi chính là sự phản chiếu hình ảnh của chủ thể, có khi lại là kết quả của một quá trình tư duy, tưởng tượng, sáng tạo. Tuy nhiên, tìm hiểu cái tôi trữ tình chính là lối đi tắt để đi tìm hiểu cá tính sáng tạo của nhà thơ; hoặc tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời, đặc trưng tư duy nghệ thuật của nhà thơ cũng là con đường ngắn nhất để hiểu được sự biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ. Nói chung, không thể đồng nhất hai khái niệm cái tôi trữ tình với cái tôi nhà thơ, cũng không thể tách bạch một cách rạch ròi hai khái niệm này. Giữa chúng là mối quan hệ chặt chẽ, được nối kết, xâu chuỗi bởi nội hàm của cái tôi. Lê Lưu Oanh đã khẳng định: “Mặc dù khái niệm chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình có những ưu điểm và cơ sở hợp lý, song nếu thiếu hạt nhân cái tôi thì tự thân các khái niệm ấy chưa cho thấy bản sắc trữ tình của nó, bởi chỉ cái tôi mới phát huy chức năng tự ý thức, tự nhận ra và tự đánh giá chính mình”[47, tr.30]. Khi nhận xét về mối quan hệ giữa cái tôi và thể loại trữ tình, Vũ Tuấn Anh đã dành nhiều công sức tìm hiểu về bản chất của cái tôi trữ tình cho rằng: “Cái tôi trữ tình là một sự tổng hòa nhiều 16
- yếu tố, là sự hội tụ, thăng hoa theo quy luật nghệ thuật cả ba phương diện cá nhân – xã hội – thẩm mỹ trong hình thức thể loại trữ tình”[4, tr.33]. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh đã tổng kết lên những bản chất cơ bản của cái tôi trữ tình.Thứ nhất, cái tôi trữ tình mang bản chất chủ quan – cá nhân của người sáng tác, tuy nhiên nó là cái tôi thứ hai, hoặc là cái tôi đã được khách thể hóa trong nghệ thuật. Thứ hai, cái tôi trữ tình là bản chất xã hội nhân loại, cái tôi không thể tách biệt với lịch sử - xã hội, đó là tiếng nói cá nhân nhưng có sự đồng vọng, cộng hưởng với tiếng nói của xã hội, của thời đại mà chủ thể đang sống. Thứ ba, cái tôi trữ tình là bản chất nghệ thuật – thẩm mĩ. Cái tôi trữ tình là cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật và luôn được điều chỉnh để vươn tới cái lý tưởng thẩm mĩ. Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc chân thành chính là cơ sở cho bản chất nghệ thuật – thẩm mĩ của cái tôi trữ tình. Cái tôi của nhà thơ hay chủ thể sáng tạo không phải hiện tượng bất biến mà luôn có sự thay đổi, vận động theo thời gian, theo những biến động của thời đại lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, dù cái tôi nhà thơ có thay đổi, cái tôi trữ tình trong thơ với những cảm nhận có sự thay đổi thì trong thơ vẫn duy trì một yếu tố được hình thành từ việc khám phá cái tôi trữ tình, đó là phong cách sáng tạo của nhà thơ. Trong công trình nghiên cứu về tư duy thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành nhận định: “Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân vật chủ yếu số một trong mọi bài thơ… Tuy nhiên, do sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định”[59, tr.56 - 57]. Tóm lại, qua việc tìm hiểu lý luận của những nhà nghiên cứu phê bình trên, chúng tôi nhận thấy: Cái tôi trữ tình là sự thống nhất giữa cái tôi chủ quan cá nhân, cái tôi xã hội nhân loại và cái tôi nghệ thuật – thẩm mĩ. Cái tôi trữ tình là sự tự ý thức của cái tôi nhà thơ được biểu hiện bằng phương tiện nghệ thuật, thông qua yếu tố trữ tình. 17
- Mặc dù cái tôi trữ tình không thể hiện toàn bộ, không phản chiếu tất cả hình ảnh của nhà thơ nhưng cái tôi trữ tình lại là sự kết tinh của nhân cách, bản chất chủ quan cá nhân của nhà thơ (thế giới tinh thần nội cảm) với những yếu tố của tư duy nghệ thuật (sáng tạo nghệ thuật). Bởi vậy, không thể đồng nhất hai yếu tố cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình nhưng cũng không thể tách rời mối quan hệ này trong nghiên cứu văn học. Từ việc tiếp thu những quan điểm lý luận của những nhà nghiên cứu phê bình giúp chúng tôi có những cơ sở lý luận để nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua ba tác giả Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly và Bùi Sim Sim. Họ là những cây bút đại diện cho thế hệ nhà thơ trẻ của thơ ca đương đại, bởi vậy cái tôi trữ tình của họ cũng bị tác động nhiều bởi khái niệm cũ và mới, bởi quan niệm tư duy thay đổi của thời đại.Họ là những tài năng trẻ với cái tôi cá thể độc đáo luôn khao khát được khẳng định cá tính, tài năng của mình. Hơn nữa, họ là những con người của thời đại luôn nhạy bén và tiếp thu nhanh chóng những biến động của xã hội và luôn khao khát đổi mới thơ ca. Chính sự vận động của yếu tố chủ quan và sự tác động khách quan đã mang đến sự biểu hiện của những dạng thức cái tôi trữ tình khác nhau. Tuy nhiên, dù biểu hiện ở những dạng thức nào thì cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 đều có những điểm gặp gỡ chung làm nên bộ mặt riêng của nền thơ ca đương đại trong sự khu biệt với thơ ca các giai đoạn văn học trước đó. 1.2. Thơ nữ trẻ sau 1986 1.2.1. Bối cảnh thời đại và sự xuất hiện các nhà thơ nữ trẻ sau 1986 1.2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội và nhu cầu đổi mới thơ ca Năm 1975 là bước ngoặt lịch sử của đất nước và dân tộc; đất nước được thống nhất, cả dân tộc mê say trong niềm vui chiến thắng.Nhưng cũng từ đây, chúng ta phải đối mặt với vô vàn khó khăn đến khắc nghiệt của thời kỳ hậu chiến.Khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, khủng hoảng văn hóa dẫn đến tình trạng bế tắc tưởng như không lối thoát. Nền văn học, cùng với tình hình chung của thời đại, cũng rơi vào 18
- khủng hoảng trầm trọng, người nghệ sĩ rơi vào tình trạng hoang mang, vô định, chông chênh. Nếu như trong giai đoạn thơ ca cách mạng, cảm hứng sử thi anh hùng cách mạng là nguồn cảm hứng chính chi phối tất cả các hoạt động sáng tạo văn học thì đến nay, khi đất nước đã được giải phóng, những hào sảng, âm vang của ý chí chiến đấu và hình ảnh người chiến sĩ anh hùng không còn chiếm lĩnh được văn đàn và phát huy được sức mạnh nữa. Nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng sau khi bước ra khỏi những khắc nghiệt của chiến tranh, họ bơ vơ, lạc lõng trước cuộc sống thời bình. Bởi vậy, chính họ cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng tư tưởng. Từ đây, nhu cầu cần được đổi mới, cần được cách tân trong văn học càng thôi thúc người cầm bút. Để có thể thay đổi tình hình đất nước, dân tộc ta lại kiên cường vùng dậy thực hiện thành công một cú đột phá, cùng với đó văn học cùng tìm ra được con đường đi đúng đắn để thoát khỏi sự khủng hoảng thời hậu chiến.Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, một sự kiện chính trị quan trọng đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển đất nước; đây được xem như một mốc quan trọng, là tiền đề chính trị đánh dấu bước chuyển mình của đất nước khi bước vào thời kỳ mới. Cùng với sự đổi mới về chính trị, kinh tế, văn hóa văn nghệ cũng vận động và tìm thấy con đường mới cho sự cách tân mới mẻ. Bàn về cuộc cách tân văn học đầy ý nghĩa giai đoạn này, Nguyễn Thị Mai Anh với công trình nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam đương đại qua ba tác giả Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư và Ly Hoàng Ly đã nêu ba nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, cuộc cách mạng dân tộc kết thúc cũng chính là cái đích thắng lợi cuối cùng của thơ ca kháng chiến; việc chuyển từ cảm hứng sử thi anh hùng sang cảm hứng đời tư thế sự là một quy luật tất yếu của sự vận động trong sáng tạo văn học. Thứ hai, cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ về con người và thế giới thay đổi tất yếu dẫn tới sự đổi mới trong cảm hứng. Thứ ba, chính sách mở rộng giao lưu văn hóa đã giúp chúng ta tiếp cận được nhiều trường phái thi ca mới, những vùng thẩm mĩ mới trên thế giới. Vì vậy, cách tân là lẽ sống của thơ, là quy luật của sự vận động thơ.Tuy nhiên, những nhà văn, nhà 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm (bản diễn nôm) đến Truyện Kiều (Nguyễn Du)
86 p | 310 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại Việt Nam
87 p | 231 | 53
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bút pháp hiện thực trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao - Những tương đồng và dị biệt
126 p | 168 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 306 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam
150 p | 192 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hình ảnh "trăng" trong thơ Thiền Lý Trần Việt Nam và thơ Đường Trung Quốc
219 p | 168 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của thơ ca Tùng Thiện Vương trong văn học trung đại Việt Nam
137 p | 116 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những cách tân kịch của A.P. Chekhov
142 p | 129 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tạ Duy Anh
113 p | 105 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare
249 p | 76 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đóng góp của Trần Quang Nghiệp trong quá trình hiện đại hóa truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX
129 p | 97 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Trương Duy Toản
171 p | 94 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng Epiphany trong tập truyện ngắn "Người Dublin" của James Joyce
137 p | 96 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn