intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

92
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân trình bày về cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân; phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân; cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006
  2. Mục Lục Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1 2. Giới hạn của đề tài ................................................................................. 2 3. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................15 5. Những đóng góp của luận văn ...............................................................16 6. Kết cấu của luận văn ..............................................................................16 Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân ...........17 1.1. Về khái niệm cảm hứng .......................................................................17 1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân.......................... 20 1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân .................................................. 20 1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân.......... 21 1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người ...................... 28 1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê ......... 45 Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 62 2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự ............ 62 2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64 2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng .............................................. 65 2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật ................................... 72 2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân ..................................................................... 74 2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79 2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80 2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật................................................................................................. 85
  3. Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ..........92 3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự........................................... 92 3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ......... 93 3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian...................... 94 3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau ...............................................................99 3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí ........................................105 3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian ................111 Kết luận .........................................................................................................116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, tỉnh Bắc Ninh. Bởi rất mê tuồng nên nhân vật tuồng Kim Lân đã trở thành bút danh của ông từ những năm bốn mươi của thế kỉ trước. Kim Lân sinh ra ở mảnh đất “đời tạo văn nhân”, “nhân tài nảy nở” nhưng lại không giống như nhiều nhân tài ở mảnh đất này. Ông có một đời sống riêng thua thiệt: con một người vợ thứ ba trong một gia đình bình thường, bị mọi người rẻ rúng... Do điều kiện khó khăn nên Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Sau đó làm thợ sơn guốc, sơn bình phong, thợ sơn tranh sơn mài... Kim Lân đến với văn học ban đầu là từ say mê và ham thích. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của Kim Lân đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông quan niệm viết văn như cách “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương” [54, tr.15]. Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật (1942). Đây là tác phẩm mang tính tự truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, Kim Lân viết khá đều. Những truyện ngắn của ông đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật, ông tập trung phản ánh khung cảnh làng quê với cuộc sống và số phận của người nông dân. Những cuộc đời lam lũ, đói nghèo trực tiếp bước vào tác phẩm của ông và những cuộc đời ấy đã toát lên ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Một số tác phẩm của ông như: Đuổi tà, Con Mã Mái, Ông Cản Ngũ… đi vào đề tài độc đáo: tái hiện những sinh hoạt phong phú ở vùng thôn quê. Qua những tác phẩm này, tác giả tập trung biểu hiện vẻ đẹp 1
  5. tâm hồn của người dân quê - những con người cực nhọc nghèo khổ, nhưng vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa. Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Trong những tác phẩm: Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Người chú dượng... ông tiếp tục viết về những cảnh đời Tội nghiệp, khốn khó và sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Trong những tác phẩm viết ở giai đoạn này, Kim Lân đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm của người nông dân trong cách mạng, kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất và những hoạt động cách mạng thầm lặng bình thường nhưng thật đáng quý của họ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng tám, Kim Lân viết không nhiều nhưng ở giai đoạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Ông là cây bút viết truyện ngắn vững vàng. “Thành công của Kim Lân chủ yếu do năng khiếu bẩm sinh và vốn sống của người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Một lòng đi về với “đất”, với “ thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn” [89, tr.758]. Truyện ngắn Kim Lân hấp dẫn và được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân cần được xem xét ở bình diện rộng và mức độ bao quát hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp của nhà văn. 2. Giới hạn của đề tài 2.1. Đối tượng khảo sát Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm đã xuất bản: - Làng, truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ, 1948, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. 2
  6. - Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. - Ông lão hàng xóm (cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng), nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1957. - Anh chàng hiệp sĩ gỗ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1958 . - Cô gái công trường, truyện phim, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1960. - Vợ nhặt, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1984. - Ông Cản Ngũ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1984. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lâm - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2004. Để phục vụ cho đề tài khoa học, đáng lẽ người viết phải khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Kim Lân nhưng do khó khăn trong việc sưu tập tư liệu, hạn chế về thời gian nên người viết chỉ tập trung khảo sát 28 truyện ngắn từ bốn nguồn tư liệu sau: - Truyện Cô Vịa, báo Trung Bắc chủ nhật, số135, ngày 8-11-1942. - Truyện Vợ chồng anh đội trưởng, báo Văn nghệ, số13, 1965. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004. Bên cạnh việc khảo sát 28 truyện ngắn nêu trên, chúng tôi còn tiếp thu một cách chọn lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu đã có và những ý kiến của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính khách quan cho luận văn. 2.2. Nội dung vấn đề Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả là đề tài gồm nhiều vấn đề. Nhưng do nhu cầu nghiên cứu, nguồn tư liệu, quỹ thời gian và những 3
  7. hạn chế nhất định của bản thân, chúng tôi chỉ tập trung vào ba vấn đề: cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Phần mở đầu Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân chưa thật nhiều. Các công trình nghiên cứu này có thể chia làm bốn nhóm. Một là, các bài viết của nhà nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân. Hai là, một số bài viết về hai tác phẩm (Làng, Vợ nhặt) giảng dạy ở trường phổ thông. Ba là, các bài viết của Kim Lân nói về những tác phẩm của mình. Bốn là, luận văn nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi vào đặc điểm truyện ngắn của Kim Lân ở những phương diện và những mức độ khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài. 3.2. Để hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi phân chia ra các nhóm ý kiến sau 3.2.1. Hướng tiếp cận về nội dung Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số phận. Ông bước vào đời sống văn học còn bởi sự gặp gỡ tình cờ, gắn bó với nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã nhận xét về những tác phẩm đầu tay của ông: Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy… Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau… [31, tr.10]. 4
  8. Ở lời nhận xét này, nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm - hiện thực trong văn chương của Kim Lân. Cũng gần với quan điểm của nhà văn Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét: Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trai, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hằng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “ những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…) Mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức, đoạ đầy… [2, tr.56]. Khẳng định lại điều này, năm 1994 trong bài viết Nghĩ về nghề văn , nhà văn Kim Lân bộc bạch: Tôi đến với văn học ban đầu là từ sự say mê ham thích. Những truyện ngắn đầu tay của tôi như Đứa con người vợ lẽ, Người kép già, Cô Vịa là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu chuyện về bản thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng như những người gần gũi trong làng xóm của tôi (…) Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên trong. Những cảm xúc suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn, trước tiên tôi viết về mình [16, tr.262] (…) Nói đến tình yêu đất nước, nghe cảm thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất cũng như tinh thần. 5
  9. Tình yêu của tôi đối với làng cũng như đối với cách mạng là nguồn cảm hứng sâu sắc nhất khi tôi viết Làng [16, tr.268]. Ở những ý kiến trên, Kim Lân khẳng định viết văn đối ông như một sự đòi hỏi cho mình một thân phận, một chỗ đứng trong xã hội. Văn ông là những câu chuyện về bản thân và những người gần gũi trong làng xóm. Nguồn cảm hứng của ông là con người làng quê, quê hương và cách mạng. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu: Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh: Hình như những mẫu người đầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng chững chạc [54, tr.16]. Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của một người nông dân trước cách mạng - những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa [54, tr.18]. Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam [54, tr.18 - 19]. Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh: Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu Là truyện ngắn, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa, đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của 6
  10. những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật… [54, tr.16]. Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân: Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài chủ yếu trong nghiệp văn của ông: - Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ. - Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã [88, tr.88]. Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân, nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [88, tr.89]. Năm 2003 trong phần giới thiệu về tác giả Kim Lân, nhà nhiên cứu Trần Hữu Tá đưa ra nhận xét: Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận người nông dân (…) Những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện thực, mặc dù nhà văn chưa thật tự giác về điều đó . Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hoá truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả chim v.v…Những truyện ngắn Kim Lân viết về phong tục (Đuổi tà, Đôi chim thành, Con Mã Mái (…) hấp dẫn không phải chỉ vì đã cung cấp được những trang tri thức về phong tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển hiện lên được cuộc sống và con người làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy 7
  11. nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn có nhiều thú vui thanh lịch. Những con người thật thà chất phác, nhưng thông minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả niềm say mê của mình vào những thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy, chẳng khác gì những tâm hồn nghệ sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật [90, tr.758]. Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cũng nhấn mạnh hai nội dung nổi bật trong truyện ngắn Kim Lân là: con người, cuộc sống nông thôn và những sinh hoạt văn hoá phong phú ở vùng thôn quê. Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tìm thấy nguồn cảm hứng mới, ý thức hơn về trách nhiệm của một nhà văn cách mạng: Sau cách mạng tháng tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh đất nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại [62, tr.49]. Với quan điểm lịch sử và cái nhìn biện chứng sắc sảo, Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra nhận xét thuyết phục về đặc điểm nội dung và vị trí truyện ngắn của Kim Lân. Cũng cùng quan điểm này, khi giới thiệu truyện ngắn Làng, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên khẳng định: “Phải nói đây là một chuyển biến mới, khá thành công của Kim Lân viết về người nông dân sau cách mạng” [54, tr.20]. Năm 1991, Trần Ninh Hồ đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá về truyện ngắn của Kim Lân: Tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người rất khó diễn đạt thành lời ấy (…) Năm mươi năm, một nửa thế kỉ cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có chừng ngót chục truyện ngắn thì quả là ít ỏi. Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi ấy, ta lại cảm 8
  12. thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn là: truyện ngắn [75, tr.106 - 107]. Đây có lẽ là nhận xét của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân. Nhưng ở vấn đề này, chúng tôi thống nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân hơn: Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng khám phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kì đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay nét đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế nhận thấy có một tương quan nào đó giữa thói gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người nông dân này (…) Đáng tiếc là những tâm lí ứng xử như vậy của người nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục phân tích và thể hiện nữa trong văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về sau, hầu như ông đã thôi không sáng tác nữa [2, tr.58 - 59]. Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả Đặng Thị Huy Lam đã dành hẳn một chương viết về Người lao động nghèo ở làng quê Việt Nam và tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Trong chương này, tác giả đi vào hai nội dung. Một là, hiện thực về làng quê Việt Nam và người lao động nghèo. Ở nội dung này, tác giả khảo sát các vấn đề: phong tục và sinh hoạt văn hoá làng quê, những mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo, cuộc sống mới của người lao động nghèo sau cách mạng tháng tám. Hai là, tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Nội dung này bao gồm vấn đề: cái tôi giàu lòng nhân ái, sự trân trọng và ca ngợi cái đẹp trong tâm hồn của người lao động nghèo. Với những nội dung trên, có thể nói tác giả Đặng Thị Huy 9
  13. Lam đã tìm hiểu nội dung của truyện ngắn Kim Lân theo các định hướng của những công trình nghiên cứu đã có. Đóng góp của tác giả là đã hệ thống và cụ thể các quan điểm để phục vụ cho luận văn của mình. 3.2.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật Như đã trình bày, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của Kim Lân chưa nhiều. Đặc điểm các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống. Năm 1986 trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận định: Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật đa dạng về các kiểu cấu tứ. Bằng vào hai tập Vợ nhặt và Nên vợ nên chồng, có thể kể được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ biến hơn cả có thể gọi là những truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một con người (…) Hơi khác chút ít với kiểu truyện tính cách này, Vợ nhặt là truyện ngắn không chú tâm hẳn vào nhân vật nào (…) Diễn biến của truyện không nhằm khám phá một nét tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái được chủ yếu ở đây là miêu tả một tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ là truyện ngắn tình huống (…) Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn nói truyện ngắn Con chó xấu xí từng được đặt làm cái tên chung cho tập truyện Vợ nhặt hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ ý [2, tr.59 - 61]. Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim Lân thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu còn đưa ra nhận xét về ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân: 10
  14. Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất giọng thực sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích nống lên thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu nhưng cũng đáng tức cười của những sự thật xung quanh chứ không thích phủ lên các sự thật ấy một sự cảm động đến rưng rưng. Chính là do thích phô bày nôm na thực thà của những con người và sự vật xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu tả của các ngôn ngữ (…) Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ và đã biến thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một đối tượng nghệ thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp rất thực của lời ăn tiếng nói ấy [2, tr.62]. Ở cả hai ý kiến trên, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã rất có cơ sở khi nhận xét về ba kiểu truyện trong truyện ngắn của Kim Lân. Đặc biệt hơn, tác giả rất sắc sảo khi phát hiện một trong những đặc sắc của văn xuôi Kim Lân là ngôn ngữ. “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc thể hiện những tâm lí cổ truyền của người nông dân” [2, tr.62]. Năm 1994 trong bài Nghĩ về nghề văn , Kim Lân bộc bạch: Khi sáng tác truyện ngắn, đối với tôi chi tiết vô cùng quan trọng. Trong truyện ngắn của tôi đầy ắp chi tiết. Tôi nói bằng chi tiết. Truyện của tôi viết ra không ai kể lại được . Truyện Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông lão hàng xóm nếu kể cốt truyện ra thì tẻ nhạt không có gì đáng chú ý cả. Chi tiết lấn át cốt truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng nhất tính cách nhân vật cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật [16, tr.264]. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nguyên An để đánh giá 11
  15. về truyện ngắn của Kim Lân “ông là một nhà văn kỹ lưỡng, tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình ảnh. Vì thế mà Nguyễn Khải coi ông là một bậc thầy để noi theo” [54, tr.18]. Năm 1994 trong bài viết về truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói: Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng như tiểu thuyết và điều quan trọng nhất là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo sáo rỗng (…) Ngôn ngữ trong truyện ngắn phải tinh hơn, gạn lọc kỹ hơn và phải có ý tứ từ bên trong (…) Tôi nghĩ văn chương bây giờ kêu quá, bóng bẩy quá cũng như đánh bóng mạ kền, cái đó không cần có trong văn chương; điều quan trọng văn chương phải thật giản dị. Văn của tôi đã nói được tiếng nói và suy nghĩ của tôi [16, tr.41]. Trong cả ba ý kiến trên, Kim Lân và các nhà nghiên cứu đều khẳng định thành công của truyện ngắn Kim Lân tập trung ở ba phương diện: lựa chọn, thể hiện chi tiết; xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ. Năm 1997 trong bài Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân tác giả Bảo Nguyên cũng cùng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác, khi chỉ ra thành công của truyện ngắn Kim Lân ở các phương diện: sử dụng ngữ âm và từ vựng. Kim Lân đã dùng hàng loạt từ láy: xác xơ, heo hút,ngăn ngắt, úp súp, sù sì, dật dờ, thê thiết (…) Từ láy đã góp phần tích cực tạo ra âm điệu trầm, nhịp ngôn ngữ chậm, có tác dụng nhấn mạnh những đặc tính cần miêu tả (…) Ông lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hàng ngày, để diễn đạt chúng đúng cái cuộc sống miền quê với những con người quê giản dị và đáng yêu (…) 12
  16. Trong việc sử dụng từ ngữ, Kim Lân đặc biệt chú ý những thành ngữ, những từ đệm vốn là những từ ngữ cửa miệng của người dân: “giời đất cha mẹ ơi”, “cụ bảo thì là dân ta”, “dầu bây giờ đắt gớm”(…) Những từ ngữ này đặt đúng hoàn cảnh đã tạo ra tác dụng vừa khắc hoạ tính cách nhân vật vừa gợi nên nét đời thường rất phù hợp với cuộc sống miền quê [68, tr.230 - 231]. Nhận xét về giọng văn của Kim Lân, ngoài việc thống nhất với đánh giá của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, tác giả Bảo Nguyên rất tinh tế khi bổ sung thêm: Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao, cổ tích. Nhịp văn của ông chậm gọn… Đó là một thứ giọng đệm phù hợp với quang cảnh nông thôn, với văn minh nông nghiệp (…) Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim Lân. Song ở mỗi truyện ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều kiện Kim Lân sử dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn mỉa mai trong “Đứa con người vợ lẽ” giọng cảm thương và mỉa mai trong“Con chó xấu xí” giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật”. (…) Trong các truyện tâm lí xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một giọng kể, giọng tả đồng tình, cảm thương [68, tr.232]. Từ những ý kiến đánh giá trên tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận khái quát: Ngữ âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi ”. Đó là một đoá hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản dị mà độc đáo của Kim Lân [68, tr.233]. 13
  17. Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả Đặng Thị Huy Lam dành hai chương để khảo sát nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân. Ở chương Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật, tác giả đã đi sâu tìm hiểu các vấn đề cốt truyện, tình huống, chi tiết, nghệ thuật miêu tả ngoại hình, miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật. Ở chương Ngôn ngữ và giọng điệu, ngoài những định hướng của công trình nghiên cứu có trước, tác giả luận văn đã có những tìm tòi, phát hiện về đặc điểm câu văn và biện pháp so sánh tu từ trong truyện ngắn của Kim Lân. 3.3. Nhận định chung Các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân được thực hiện ở các phương diện và mức độ khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu và tác giả đều công nhận: - Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông “là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng sáng tác của ông đã gây được ấn tượng với người đọc” [16, tr.31]. - Thế giới nghệ thuật của Kim Lân tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận người dân quê. - Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những sinh hoạt văn hoá của người dân quê. - Trong các truyện ngắn, Kim Lân thể hiện rất rõ cái tôi giàu lòng nhân ái, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo. - Kim Lân là nhà văn kỹ lưỡng tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn ngữ và hình ảnh. 4. Phương pháp nghiên cứu 14
  18. 4.1. Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sẽ vận dụng quan điểm duy vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền tảng cho nhận thức và nghiên cứu. Chúng tôi sẽ vận dụng những thành tựu của các khoa học liên ngành như: phương pháp luận nghiên cứu văn học, phong cách học, thi pháp học, lý luận văn học… để làm nổi bật vấn đề. 4.2. Ngoài những vấn đề có tính chất phương pháp luận nêu trên, chúng tôi sẽ sử dụng phối hợp hai phương pháp chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp hệ thống. Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong luận văn. Chúng tôi sẽ đi từ việc khảo sát phân tích từng truyện ngắn, các yếu tố nổi bật thể hiện cảm hứng và nghệ thuật trần thuật, để từ đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát. Đồng thời, để triển khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi sẽ đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. Vận dụng phương pháp hệ thống, chúng tôi nhằm mục đích phát hiện tính lặp lại nhiều lần của các phương diện liên quan đến đề tài. Từ bước tập hợp các phương diện lặp lại liên quan đến đề tài, chúng tôi sẽ đi đến việc khẳng định những đặc điểm mang tính ổn định về cảm hứng và nghệ thuật trần thuật. Từ đó tạo cơ sở vững chắc cho những nhận xét của luận văn. Ngoài các phương pháp vừa nêu, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh và thống kê ở những chừng mực nhất định. Khi trình bày cảm hứng chủ đạo, chúng tôi có so sánh những tác phẩm của Kim Lân với những tác phẩm của các nhà văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Thạch Lam… Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi nhằm để hình dung rõ vấn đề chứ không nhằm mục đích khẳng định sự hơn kém ở các nhà văn. Phương pháp 15
  19. thống kê sẽ được sử dụng để xem xét các phương thức trần thuật, các dạng cấu trúc trần thuật có tính tập trung cao và có tấn số xuất hiện nhiều lần trong truyện ngắn của Kim Lân, từ đó hướng đến việc tìm ra các đặc điểm riêng, ổn định, có dụng ý của nhà văn, nhằm làm vững chắc hơn cho những nhận xét của luận văn. 5. Những đóng góp của luận văn Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Mặc dù được đánh giá là nhà văn có tài nhưng những công trình nghiên cứu về truyện ngắn của ông còn khá ít. Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào các vấn đề: cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật. Dù các vấn đề đặt ra trong luận văn chưa là tổng quát nhưng chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Từ đó, góp phần khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và đóng góp một phần nhỏ vào việc học tập, giảng dạy truyện ngắn Kim Lân ở nhà trường phổ thông. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn gồm có ba chương: Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân. Chương 2. Các phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. 16
  20. Chương 1 CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KIM LÂN 1.1. Về khái niệm cảm hứng Phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm là lý giải chủ đề, cảm hứng tư tưởng, tình điệu thẩm mỹ. Tư tưởng của tác phẩm bao gồm khuynh hướng triết học, chính trị, đạo đức, khuynh hướng nhận thức, khuynh hướng tình cảm, thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng của tác phẩm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về thế giới, với quan niệm về nhân sinh, với tình cảm và thái độ của nhà văn. Tư tưởng của nhà văn sẽ chi phối sự đánh giá các hiện tượng đời sống trong tác phẩm. Xuất phát từ đặc điểm này, nghiên cứu văn học đã hình thành khái niệm cảm hứng chủ đạo với tư cách là nhân tố tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật. Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng tạo nói chung và sáng tạo văn học nói riêng. Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng từ “cảm hứng” “để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại” [dẫn theo 74, tr.141]. Theo Pôxpêlốp thì cảm hứng là “sự lý giải, đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch sử đối với tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn” [74, tr.141]. Cảm hứng là một phương diện chủ quan thuộc về nội dung tư tưởng tác phẩm. Lênin từng viết trong bút ký triết học: “Tư tưởng - đó là 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1