Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường dưới góc nhìn thể loại
lượt xem 3
download
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn gồm 3 chương: Khái quát về thể kí, thể kí trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường; hiện thực cuộc sống con người và thiên nhiên qua bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường; một số đặc sắc nghệ thuật trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường dưới góc nhìn thể loại
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------*-------------- VI THỊ THANH HUỆ ĐẶC ĐIỂM KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ VĂN ĐỨC 1
- HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------*-------------- VI THỊ THANH HUỆ ĐẶC ĐIỂM KÝ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2011 2
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 5 2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 7 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ................................................................ 9 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 9 5. Cấu trúc luận văn .................................................................................. 10 NỘI DUNG ................................................................................................. 11 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỂ KÍ - THỂ KÍ TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ................................... 11 1.1. Khái quát về thể kí ........................................................................... 11 1.1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể kí trong văn học Việt Nam ...... 11 1.1.2 Những quan niệm khác nhau và đặc trưng của kí văn học ............. 14 1.2. Kí trong sự nghiệp sáng tác văn học của Hoàng Phủ Ngọc Tường....... 19 1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường .......................................................................................... 19 1.2.2. Hoàng Phủ Ngọc Tường - từ con người đến trang kí .................... 24 1.2.2.1 Con người nhập thế sôi nổi, đầy trách nhiệm với đời .............. 24 1.2.2.2. Bản lĩnh sống, bề dày kinh nghiệm của người cầm bút .......... 26 1.2.2.3. Cái tâm của con người cháy hết mình trong những trang viết ...... 27 Chương 2: HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN QUA BÚT KÍ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ............................... 29 2.1. Thiên nhiên qua trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường ................. 29 2.1.1 Thiên nhiên trong kí của HPNT là bức tranh tươi đẹp, giàu có với những phát hiện độc đáo ........................................................................ 29 2.1.2. Thiên nhiên đặt trong mối quan hệ với con người ........................ 38 2.2. Hiện thực đời sống con người trong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường........................................................................................... 44 3
- 2.2.1. Hiện thực đời sống con người trong chiến tranh và trong hoà bình .... 44 2.2.2. Chân dung các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, giới trí thức nghệ nhân, nghệ sĩ ................................................................................. 65 2.3. Văn hoá, lịch sử đất nước qua những trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường ............................................................................................. 71 Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG BÚT KÍ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG........................................................ 78 3.1. Cái tôi trữ tình tài hoa, lịch lãm, mê đắm ....................................... 78 3.2. Nhìn nhận thiên nhiên, cuộc sống, con người, dưới góc độ văn hoá thẩm mỹ, lịch sử, triết học ........................................................ 82 3.3. Nghệ thuật so sánh liên tưởng phong phú, độc đáo ........................ 94 3.4. Thế giới biểu tượng phong phú mang giá trị nghệ thuật cao ......... 96 3.5. Ngôn ngữ giọng điệu tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc ...................... 104 KẾT LUẬN ............................................................................................... 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 115 4
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong văn xuôi, thể kí văn học đã xác lập cho mình một vị trí quan trọng bởi những đặc điểm khả năng có tính ưu trội của mình. Là thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực đời sống song kí văn học rất kén người sử dụng. Kí văn học là sân chơi thử sức cho mọi nhà văn nhưng dùng kí để viết cho hay cho ấn tượng là không dễ. Kí đã lôi cuốn khơi gợi lòng tin nơi độc giả bằng việc phản ánh chân thật hiện thực đời sống ở những khía cạnh tiêu biểu, ở tính có vấn đề “tác phẩm kí vừa có khả năng đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn giữ được tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật”[32,Tr.184]. Không chỉ có vậy, kí không gò bó người viết trong một phương thức biểu hiện mà mở rộng khả năng sáng tạo của nhà văn – khơi mạch nguồn vô tận của sự sáng tạo, của cảm xúc con người. Khám phá sâu sắc về đối tượng, đề xuất được những tư tưởng quan niệm có ý nghĩa đối với đời sống hiện thực, vừa chạm đến chiều sâu cảm xúc con người…ta có thể thấy, kí là nơi gặp gỡ của những nhân tố: trí tuệ và cảm xúc, sự thật cuộc sống và giá trị nghệ thuật đích thực… Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) là một trong những tác giả tiêu biểu có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Nắm bắt được thế mạnh của kí và như là duyên kì ngộ, HPNT đã tìm thấy thể loại phù hợp để chuyển tải hết những cảm xúc suy tư trăn trở của một đời cầm bút. Điều đáng ghi nhận với một tác giả không phải là ở khả năng có thể sáng tác ở nhiều thể loại văn học mà là phần đóng góp thật sự của người viết dù chỉ là với một thể loại văn học duy nhất. HPNT cũng trong trường hợp như vậy, là nhà văn thể nghiệm sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, kí, nhàn đàm…thể loại nào ông cũng gặt hái được những thành công nhất định nhưng nhắc đến sáng tác của ông đầu tiên người ta thường nhớ 5
- tới là các tác phẩm kí đầy ám ảnh có sức lay động lòng người. Hiện thực thời đại HPNT sinh sống có nhiều biến động và đổi thay, với cuộc chiến tranh gợi lên bao kí ức đau buồn có, hào hùng có, đó là hiện thực đời sống sau chiến tranh từng ngày thay da đổi thịt bởi công cuộc đổi mới tư duy, ý chí quyết tâm thay đổi phát triển hướng tới cuộc sống ấm no hạnh phúc của con người. Cuộc sống như bức tranh muôn màu bên cạnh sự phát triển con người phải đối mặt với muôn vàn thách thức. Là thư kí trung thành của thời đại trên cuộc hành trình sáng tác của mình, HPNT lựa chọn gắn bó với kí để phản ánh những sự kiện của đời sống trên tinh thần tôn trọng sự thật, góp phần dự báo những nguy hiểm đe dọa con người, góp phần thay đổi bỏ đi những sai lầm trong nhận thức hướng tới giá trị tốt đẹp của đời sống. Kí của HPNT được coi là những sáng tạo tiêu biểu gắn liền với quá trình vận động phát triển của văn học với hiện thực đấu tranh, xây dựng, phát triển của đất nước, dân tộc, con người Việt Nam hiện đại. Phần lớn các tác phẩm được HPNT viết ra đều được đánh giá là xuất sắc và được công chúng nồng nhiệt đón nhận. Từ những trang kí sục sôi tinh thần đấu tranh của một thời tuổi trẻ sống trong vùng tạm chiếm, phản ánh những dòng cuộn xoáy của số phận lịch sử dân tộc trong chiến tranh, những trăn trở suy tư trước những đổi thay của đời sống thường nhật cho đến những trang kí sâu nặng một tình yêu trước vẻ đẹp của từng mảnh đất, dòng sông, ngọn cỏ nhành cây của đất nước quê hương – nơi nhà văn từng đặt dấu chân qua. Trang viết nào của HPNT cũng ánh lên ngọn lửa của niềm đam mê đắm say yêu lắm cuộc sống con người. Ngọn lửa ấy luôn thường trực trong tâm của HPNT đã và đang được nhen nhóm thắp lên trong lòng độc giả, những ai đọc, yêu kí của HPNT. Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của HPNT có ý kiến cho rằng: “ Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được 6
- tổng hợp từ vốn tri thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa”[68, tr197] Trong kí của HPNT hội tụ đủ những vẻ đẹp giá trị đó. Lí do của việc lựa chọn đề tài này bởi vì chúng tôi là giáo viên dạy môn Văn ở THPT. Sách giáo khoa lớp 12 có in tác phẩm: Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một trong những tác phẩm kí xuất sắc nhất của HPNT nói riêng và trong nền văn học nước ta nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả của Ai đã đặt tên cho dòng sông? từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Tác phẩm lần đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở trường THPT và đã nhận được sự hưởng ứng, thích thú của nhiều giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, một tác phẩm hay đôi khi lại không dễ dạy, không dễ học. Vì thế, bên cạnh những thích thú, yêu mến nhất định, nhiều thầy, cô giáo và học sinh còn gặp khó khăn trong cách cảm nhận về cái hay, cái đẹp của bài kí. Đi nghiên cứu sâu về kí của HPNT sẽ hỗ trợ chúng tôi rất nhiều trong quá trình giảng dạy bộ môn ở THPT. Đồng thời, xuất phát từ tình cảm yêu mến trân trọng tài năng và tâm hồn nhà văn, ấn tượng với sự linh hoạt hiện đại của thể kí trong nền văn xuôi hiện đại chúng tôi đã lựa chọn đi sâu nghiên cứu đề tài: Đặc điểm kí của HPNT dưới góc nhìn thể loại. 2. Lịch sử vấn đề Hiện nay các công trình nghiên cứu về HPNT khá phong phú và nhiều cấp bậc, từ các công trình nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí cho đến luận văn, luận án tiến sĩ. Hầu hết các bài viết công trình đều thể hiện sự dày công và nghiêm túc trong nghiên cứu và bày tỏ tình cảm đặc biệt mến mộ tài năng, tâm hồn của HPNT đã được thể hiện qua những sáng tác của ông. Tạp chí sông Hương đã đăng tương đối nhiều bài viết liên quan đến sáng tác của HPNT như: Về một nét đẹp trong phong thái con người xứ Huế của Trần Hoàng; Thiên nhiên và con người Huế trong kí Hoàng Phủ Ngọc 7
- Tường của Đông Hà; Thế giới cỏ dại trong văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường của Lê Thị Hường; Hoàng Phủ Ngọc Tường – một tâm hồn Huế của Đặng Nhật Minh; Kí văn hoá của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Trần Thuỳ Mai; Một số hình ảnh biểu tượng trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường của tác giả Trần Thị Thu Nga…Tạp chí Cửa Việt có đăng công trình nghiên cứu khoa học của Ngô Minh Hiền với tiêu đề: Hoàng Phủ Ngọc Tường văn hoá qua cái nhìn lịch sử; Tác giả Lê Đức Dục có bài: Hoàng Phủ Ngọc Tường – Con người “lễ độ với thiên nhiên”… Nhìn chung, đọc tiêu đề các bài viết ta đã có thể phần nào hình dung giá trị của những sáng tác cũng như vẻ đẹp tâm hồn của tác giả HPNT. Các bài viết thể hiện sự tìm tòi nghiên cứu công phu, sự am hiểu sâu sắc sáng tác của HPNT ở một trong những khía cạnh như: thiên nhiên, chất Huế, hình ảnh biểu tượng, yếu tố văn hoá, tâm linh, tính cách…Đó là những phát hiện đặc sắc có giá trị chiều sâu song chưa thực sự mang tính bao quát. Hiện nay, tương đối nhiều sinh viên học viên ở một số trường đại học lựa chọn nghiên cứu các sáng tác của HPNT để làm luận văn, luận án, như: Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường của Nguyễn Thị Bích Ngọc (Luận văn thạc sĩ khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002); Chất trữ tình trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường của Lương Thị Hiền (Khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội,2004); Bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường của Phạm Thị Lan Anh (Khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2005); Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường của Lê Thị Hồng Minh (Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 2006); Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hoá của Ngô Minh Hiền (Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, 2009)… Đi tìm hiểu vấn đề chúng tôi thấy ở mỗi công trình nghiên cứu đều ghi nhận giá trị từ những trang kí của HPNT cũng như đóng góp của ông đối với thể kí nói riêng và văn học nói chung. Khi đọc qua tên đề tài ta cảm tưởng 8
- như có sự trùng lặp nội dung nhưng thực chất ngoài những vấn đề mà mọi công trình đều thừa nhận, chung quan điểm khi đánh giá, ta cần ghi nhận có những cố gắng tìm tòi phát hiện riêng trong mỗi công trình. Chính điều đó đã bồi đắp cho kí của HPNT những giá trị mới, mở ra nhiều cánh cửa để bạn đọc tiếp cận với tác phẩm kí của ông. Nghiên cứu đặc điểm kí của HPNT dưới góc nhìn thể loại không phải là vấn đề thực sự mới mẻ song là điều cần thiết bởi ở mỗi đề tài đều đem lại cơ hội tiếp cận, nghiên cứu sâu vấn đề cho người tham gia nghiên cứu. Đây là điều kiện giúp ta đi sâu hiểu đặc trưng làm nên giá trị độc đáo cho thể kí bằng những lí luận, thống kê mang tính khoa học.Việc nghiên cứu này cũng giúp ta có cái nhìn tổng thể toàn diện về giá trị tác phẩm kí của HPNT cũng như tìm thấy những giá trị mới trong tác phẩm của ông. 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu Chất trí tuệ và cảm xúc, sự thật cuộc sống và giá trị nghệ thuật đích thực, những nhân tố mới làm nên giá trị và phong cách riêng cho kí của HPNT khi soi chiếu dưới góc độ đặc trưng thể loại là những vấn đề cơ bản mà luận văn lựa chọn trình bày. Kí của HPNT không phải là một thể loại thuần nhất. Trong sáng tác của ông ghi nhận có sự giao thoa, thâm nhập của nhiều tiểu loại khác nhau như: tuỳ bút, bút kí, nhàn đàm, truyện kí…Nhắc đến ông độc giả thường chú ý nhiều đến bút kí – tiểu loại đem đến không chỉ áp đảo về số lượng mà còn ở giá trị nội dung và nghệ thuật phong phú độc đáo của chúng. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu khảo sát nhàn đàm, bút kí của HPNT gói gọn trong các cuốn: Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường tập 1 (Nhàn đàm); Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường tập 2 (Bút kí); Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường tập 3 (Bút kí), Nhà xuất bản Trẻ, 2002. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu so sánh - liên hệ đối chiếu. 9
- - Phương pháp phân tích hệ thống cấu trúc. - Phương pháp thống kê - phân loại. - Phương pháp liên ngành. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về thể kí, thể kí trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chương 2: Hiện thực cuộc sống con người và thiên nhiên qua bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chương 3: Một số đặc sắc nghệ thuật trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường 10
- NỘI DUNG Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỂ KÍ - THỂ KÍ TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG 1.1. Khái quát về thể kí 1.1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể kí trong văn học Việt Nam Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào khẳng định chắc chắn kí có từ bao giờ? ra đời đầu tiên ở đâu? mà chỉ dừng lại ở những nhận định dè dặt cho rằng những hình thức ghi chép có tính chất kí đã xuất hiện từ rất sớm gắn liền với sự xuất hiện của chữ viết. Đó là hiện tượng phổ biến trong mọi cuốn sách cổ ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe lưu truyền trong dân gian. Ở thời kì “văn - sử - triết bất phân” công việc ghi chép vừa là sử học vừa là văn học đồng thời còn thể hiện những tư tưởng triết học. Phạm vi đề tài của luận văn không đi sâu vấn đề vừa nêu trên mà đi tìm hiểu vài nét sơ lược về sự xuất hiện và phát triển của thể kí trong văn học Việt Nam, giúp người viết có cái nhìn hệ thống về sự phát triển của thể kí, đó là sự phát triển có tính chất kế thừa, tiếp nối truyền thống và sự có sự sáng tạo cho phù hợp với xu thế phát triển của thời kì mới. Ở Việt Nam, nếu tính cả một số thể có tính chất vay mượn từ Trung Quốc như bi, kí, tự, bạt…kí xuất hiện từ thời Lí, Trần, càng về sau các tác phẩm càng trở nên phong phú, sáng tạo và có giá trị. Nửa cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, hoàn cảnh xã hội Việt Nam có nhiều biến động sâu sắc, hiện thực đời sống vô cùng phong phú. Đây cũng là thời kì ghi nhận sự phát triển sôi động của đời sống văn học. Nền văn học dân tộc thuộc ý thức hệ phong kiến đạt đến đỉnh cao. Văn chương lúc này không chỉ phản ánh hiện thực bên ngoài mà còn thể hiện sâu sắc đời sống tâm hồn của con người. Liên quan đến yêu cầu thời đại và ý thức xã hội mới nền văn học đã đặt ra yêu cầu phải có những loại thể mới phù hợp với nội dung đang cần phản ánh cùng với quan 11
- điểm thẩm mỹ, trình độ tác giả đang ngày càng nâng cao…và kí là sự lựa chọn phù hợp. Từ đó đã cho ra đời một số tác phẩm kí tiêu biểu như: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, có những tác phẩm kí đến từ ghi chép lịch sử như: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Hoàng Lê Nhất thống chí của Ngô Gia văn phái…Dù các tác phẩm là những ghi chép mang tính lịch sử nhiều song là những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, có giá trị về mặt tư tưởng, thẩm mĩ. Sang thế kỉ XX, với những biến động lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội sâu sắc diễn ra trên toàn thế giới giai đoạn đầu thế kỉ đã tạo nên sự phát triển có tính chất bùng nổ của kí. Sự bùng nổ ấy cũng chính bởi khả năng phản ánh hiện thực một cách sinh động, linh hoạt, nhạy bén, tính thời sự cập nhật của chúng. Sự phát triển của báo chí và công nghệ in ấn sau này cũng là điều kiện quan trọng cho kí phát triển ngày càng mạnh mẽ để trở thành thể loại mới năng động bám sát cuộc sống, phản ánh toàn bộ sự phong phú đa dạng của đời sống đang xảy ra một cách trực tiếp. Có nhà nghiên cứu cho rằng: tác phẩm kí được viết bằng Việt văn được mở đầu từ thập niên đầu thế kỉ XX bởi Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Nhưng có ý kiến lại cho rằng: “tác phẩm “Chuyến đi Bắc kì năm Ất Hợi ” đã mở đầu cho thể loại văn hồi kí, kí sự tiếng Việt”[59, tr.34-49]. Đầu thế kỉ XX trước hiện thực lịch sử đầy sôi động kí đã thể hiện được vai trò đấu tranh chính trị của mình. Những năm 1930-1945, kí để lại dấu ấn với một số tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực trong sáng tác của một số tác giả như: Ngô Tất Tố với Việc làng; Tập án cái đình; Nguyễn Đình Lạp với Ngõ hẻm ngoại ô; Tam Lang với Tôi kéo xe;…các giá trị nội dung nghệ thuật trong kí ngày một phong phú và nâng cao. Kí luôn cắm rễ sâu trên mảnh đất hiện thực để cung cấp tới bạn đọc những bức tranh chân thực nhất của đời sống xã hội trong những năm tháng chiến tranh chống thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ. Kí ngày càng thể hiện vị thế của mình đóng góp tích cực 12
- cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng bảo vệ Tổ quốc trên mọi phương diện. Sau Cách mạng Tháng Tám đến nay có nhiều tác phẩm ký có giá trị nhất định như Truyện và ký sự của Trần Đăng, Ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ tỉnh của Tô Hoài, Sống như anh của Trần Đình Vân, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, Đường lớn của Bùi Hiển, Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân, Rất nhiều ánh lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường v.v…Đó thường là những trang kí ca ngợi nhân dân đất nước trên con đường đấu tranh anh dũng vì độc lập tự do của dân tộc. Sau khi chiến tranh chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi đất nước thống nhất, sự phong phú nhiều chiều của hiện thực đời sống, chính sách cởi mở của thời kì Đổi mới đã tạo điều kiện cho các cây bút thoả sức sáng tạo song cũng đặt ra cho yêu cầu thách thức làm sao ở nhiều thể loại trong đó có kí sự phản ánh kịp thời, phong phú đầy đủ và ở thế trực tiếp nhất hiện thực phong phú sôi động ấy. Bản thân HPNT đã từng thú nhận: “một nhà văn trong thời đại tôi, tôi tạm dịch nghĩa, là một tay chúa Chổm mang nợ đất nước của mình cho đến chết”[15, tr.428]. Kí trong thời kì Đổi mới cũng đem đến cho bạn đọc nhiều trải nghiệm thú vị. Nhằm đổi mới tư duy, đổi mới cách đánh giá tình hình, Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật. Vấn đề này đã liên quan trực tiếp và sâu sắc đến toàn bộ hoạt động sáng tác của thể kí. Sự khởi sắc, cởi mở của hoạt động sáng tác tác phẩm kí theo tinh thần đổi mới trước hết biểu hiện ở sự ra đời của các tác phẩm kí với những tìm tòi mới về nội dung và sự phát triển đa dạng của phong cách, tiểu loại.... Nêu cao ý thức trách nhiệm, tinh thần thẳng thắn, trung thực, các nhà viết kí đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật phong phú, phức tạp, phát hiện những vấn đề gai góc của đời sống, khám phá hiện thực con người trên nhiều bình diện, nhiều 13
- góc cạnh. Bên cạnh đó, họ tích cực đi vào các vấn đề nóng bỏng của cuộc sống, mạnh dạn nói lên những thật cay đắng và gai góc trong xã hội mà trước đó chưa nói tới và đã đem đến cho văn chương những cách nhìn mới về con người về cuộc đời. Dù viết về vấn đề gì, các nhà viết kí thời kì Đổi mới đều có ý thức đấu tranh cho sự tốt đẹp của cuộc đời, con người và đề cập vấn đề về quan niệm sống, đến đạo đức, thẩm mĩ. Sự có mặt của kí ở mọi giai đoạn văn học đã làm cho diện mạo văn học trở nên phong phú và đặc sắc hơn, góp phần tạo dựng sức sống lâu bền của văn học trong lòng độc giả. 1.1.2 Những quan niệm khác nhau và đặc trưng của kí văn học Từ khi bắt đầu xuất hiện kí được nhìn nhận như là một hình thức ghi chép về sự thật đời sống. Tuy vậy, cũng “không thể coi viết kí là công việc chụp ảnh và ghi âm một cách máy móc” [29, tr.61], bởi trên thực tế vai trò của người viết kí là vô cùng quan trọng – Kí là ghi chép song “ghi chép cũng đòi hỏi vốn sống và tài năng như ở bất kì thể loại sáng tác nào khác” [54, tr.137]. Vai trò của kí đối với đời sống xã hội và đời sống văn học là vô cùng quan trọng nhưng không phải bất cứ ai cũng hiểu và thừa nhận. Chính vì vậy, có nhiều quan niệm, cách đánh giá trái chiều về thể loại này. Một số người có quan điểm “xem thường”, coi kí là một thể loại “thấp kém” so với các thể loại khác. M.Gorki – cánh chim báo bão của nền văn học hiện thực Nga, đã từng lên tiếng trực tiếp bày tỏ thái độ của mình cho rằng quan niệm như vậy là “bất công và sai lầm”. Là nhà văn giàu kinh nghiệm trong việc viết kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) cũng bày tỏ quan điểm sẽ là “thiếu tín nhiệm”, là “thành kiến vô lí” nếu xem: “kí là một loại thủ công nghiệp mang tính chất gia công; thậm chí,nó là phương tiện để các nhà văn của các thời đại “lấy ngắn nuôi dài”, nói chung, kí là sản phẩm văn học thứ cấp (sous-literature)” [15, tr.164]. Trong bài viết Tôi viết nhàn đàm trên báo Thanh niên mà Việt báo ghi lại, HPNT đã chia sẻ với bạn đọc: “Khi tôi đặt chân ra Hà Nội (1973), làm quen với môi trường văn học ở ngoài ấy thì thấy 14
- mọi người đánh giá rất thấp thể ký, cho rằng ký là một thể loại văn chương thứ cấp (sour - littéraire), chỉ đáng để viết nhì nhằng trên báo chí, gọi là để phản ánh kịp thời; còn nếu viết sâu hơn nữa thì không phải là ký. Tôi không công nhận một cách nhìn thể ký như vậy. Tôi sẽ vừa viết đúng sự thật, vừa cố gắng viết cho sâu” [94]. Trên con đường phát triển của lịch sử văn học dân tộc, thể kí đã khẳng định được vai trò, khả năng thích ứng với tình hình thực tế của mình. Cũng có không ít quan điểm khẳng định vị trí vai trò của kí trong đời sống xã hội và đời sống văn học. Cho đến giờ có rất nhiều khái niệm được đưa ra. Có ý kiến cho rằng: “Kí là một thuật ngữ được dùng để gọi tên một thể loại văn học bao trùm nhiều thể hoặc tiểu loại: bút kí, hồi kí, du kí, kí chính luận, phóng sự, tuỳ bút, tản văn, tạp văn, tiểu luận (ét-xe)”[43, tr.5]. Theo từ điển thuật ngữ văn học: “ Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tuỳ bút,…[35, tr.137]. Với kinh nghiệm nhiều năm gắn bó với nghề viết văn, nhà văn Tô Hoài cũng ghi nhận: “Từ chỗ bắt đầu như chỉ là những ghi chép có tính chất ghi chép tài liệu, kí đã trở thành một vũ khí lợi hại của các nền văn học tiến bộ và cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp”[33, tr.212]. Tóm lại, có ý kiến xoay quanh việc phân loại, xếp nhóm cho kí, song cũng có ý kiến ghi nhận những đóng góp của kí trên mặt trận đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội và sự phát triển của đời sống văn học, như nhà nghiên cứu lí luận Hà Minh Đức thừa nhận: “Sự có mặt của các thể kí văn học đã góp phần làm cho nền văn học cân đối, nhiều màu sắc và giàu tính chiến đấu” [32, tr.325]. Không dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống vốn như nó có ở thế trực tiếp nhất và ở những nét sinh động, tươi mới nhất, kí còn tạo ra không gian sáng tạo, ghi nhận nhiều sự tìm tòi sáng tạo trong thi pháp. Có một khái niệm đã đẩy kí đi xa hơn khả năng phản ánh hiện thực đưa kí về đúng địa hạt của chúng mà bấy lâu nay vô tình bị lãng quên 15
- hoặc chưa được hiểu đúng giá trị của chúng đó là: “Kí văn học là thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Tác phẩm kí vừa có khả năng đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thời đại, đồng thời vẫn giữ được tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ thuật(…).Kí văn học phải là nơi gặp gỡ của hai nhân tố quan trọng: Sự thật đời sống và giá trị nghệ thuật”[32, tr.323-325]. Các khái niệm được đưa ra không mang tính chất loại trừ nhau mà mang tính chất bổ sung, mục đích giúp bạn đọc hình dung rõ nhất về thể loại này. Việc chia ra các tiểu loại chỉ mang tính tương đối bởi giữa các tiểu loại luôn có sự “giao thoa, chuyển hoá” bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Về đặc trưng riêng của kí, việc tôn trọng tính chân thực, tính thời sự của đối tượng miêu tả đã trở thành nguyên tắc đối với người viết kí. Hiện thực đời sống được nói đến trong kí văn học phải mang tính chắt lọc, tập trung song cũng rất cần bù đắp thêm cho hiện thực ấy những giá trị sáng tạo mới. Sự bù đắp ấy cũng phải trong phạm vi cho phép có thể chấp nhận được theo yêu cầu riêng cho thể loại. Tính chất tự do, phóng khoáng, linh hoạt của kí đã giúp cho nhà văn có thể thực hiện được điều đó. Vấn đề trên đã đặt ra thử thách cho người viết kí đó là vốn hiểu biết sâu rộng phong phú về cuộc sống, năng lực chọn lọc, phản ánh những sự việc tiêu biểu ở tính có vấn đề và mang giá trị nghệ thuật. Không dừng lại ở cấp độ thông tin, tính sự kiện, kí văn học còn là nơi cất lên tiếng nói của trái tim, của lương tri chuyển tải cảm xúc của con người nên tư tưởng tình cảm của nhà văn đối với vấn đề đang được nói đến trong tác phẩm là rất quan trọng. Tính chất chủ quan và trữ tình đậm nét trong thể văn này. Như vậy, các tác phẩm kí đích thực là nơi hội tụ cái tâm và tài năng của nhà văn ở đó cái tôi của nhà văn bộc lộ sâu sắc nhất rõ nét nhất chi phối mọi phương diện nội dung cũng như hình thức của tác phẩm. 16
- Hiện thực khách quan phản ánh trong kí văn học được tái tạo thông qua cảm xúc thẩm mĩ của nhà văn. Mặc dù có điểm xuất phát từ hiện thực, song kí văn học cho phép tác giả sử dụng thủ pháp hư cấu. Sự hư cấu ở đây không có nghĩa là thêm thắt, bịa đặt vô căn cứ. GS. Hà Minh Đức đã từng đưa ra ý kiến về vấn đề này như sau: “Trong tác phẩm kí văn học, “hư cấu nghệ thuật” được vận dụng giới hạn trong khuôn khổ người thật việc thật và người viết có thể hư cấu ở thành phần không xác định” [32, tr.190]. Trên cơ sở nắm được cái lõi và bản chất của sự kiện vấn đề người viết vẫn có thể bồi đắp thêm những chi tiết cho tác phẩm thêm phần sinh động. Sự hư cấu trên nguyên tắc tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả đó là một thách thức đối với người viết kí song khi vượt qua được điều đó hư cấu mà vẫn giữ được tính xác thực độ tin cậy của đối tượng, niềm tin cho độc giả đó sẽ là tín hiệu tích cực của nghệ thuật.Với vấn đề hư cấu trong kí, HPNT là một trong số ít tác giả làm được điều này và tạo nên nét riêng trong kí của ông. Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, ký cũng rất phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại. Một số tiểu loại thường xuất hiện trong kí của HPNT là: Hồi ký: đó là những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ, một dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi ký cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được. Khác với nhật ký, do đặc thù thời gian đã lùi xa, sự kiện trong hồi ký có thể bị nhớ không chính xác hoặc tưởng tượng thêm mà người viết không tự biết. Ở tiểu loại này HPNT thường chọn đề tài hồi kí về chiến tranh. Bút ký: nằm trung gian giữa ký sự và tùy bút, bút ký thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và sự việc một cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh hướng cảm xúc suy nghĩ của tác giả, mang màu sắc trữ tình. Kết hợp linh hoạt các phương thức nghị luận, tự sự, trữ tình 17
- là thế mạnh của bút kí. Với tính chất phóng khoáng, tự do giúp cá tính độc đáo của từng nghệ sĩ có cơ hội được bộc lộ đồng thời thúc đẩy khả năng sáng tạo của nghệ sĩ nên bút kí là tiểu loại sử dụng nhiều nhất trong kí của HPNT, kể cả trong những tác phẩm thiên về tiểu loại khác ta thấy vẫn phảng phất màu sắc hơi hướng của bút kí. Tùy bút: Nếu phóng sự thiên về tự sự với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày...Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá. HPNT kết hợp hài hoà tuỳ bút với tiểu loại khác trong trang kí của mình nên đã dẫn đến hiện tượng hiện nay một số người lúng túng khi trong một số trường hợp không biết nên xếp tác phẩm của ông vào loại tuỳ bút hay bút kí. Truyện ký: ngược lại với ký sự, thường tập trung cốt truyện vào việc trần thuật một nhân vật: những danh nhân về khoa học và nghệ thuật, những anh hùng trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, chính khách, nhà hoạt động cách mạng. Nhàn đàm: xét qua lướt qua tổng thể nhàn đàm là “bàn về những vấn đề không quan trọng và không có trọng tâm”[58, tr704] song trên thực tế mọi sự kiện vấn đề đều có tính vấn đề riêng của chúng. Bằng kinh nghiệm viết kí của mình HPNT có bày tỏ quan điểm về tiểu loại này như sau: “Tôi nghĩ đến chữ Nhàn đàm vì chẳng qua đó là những câu chuyện "trà dư tửu hậu", viết với giọng pha đôi chút hài hước của một nhà văn nheo mắt nhìn cuộc đời… tôi gọi Nhàn đàm là những "bút ký cực ngắn", chỉ hàm chứa một ý tưởng chủ đạo, và được đăng ở Báo Thanh Niên. Nếu bảo rằng một mảng của sự nghiệp văn chương của tôi là được trồng trọt trên mảnh đất của Báo Thanh Niên thì đúng là như thế” [94]. Những vấn đề tưởng như nhỏ nhặt không quan trọng 18
- ấy lại chứa đựng bên trong sự phi lí bởi hành vi ứng xử của chính con người. Trên tinh thần dân chủ cởi mở, với cách viết ngắn gọn súc tích, nhàn đàm của HPNT phản ánh trung thực những thử thách nhức nhối đang đặt ra trong cuộc sống, ở đó ông được nương theo dòng cảm xúc, suy nghiệm cuộc đời, gửi gắm đến bạn đọc triết lí sống quan niệm nhân sinh giản dị mà sâu sắc. Hiện nay nếu ta chỉ căn cứ điểm nào nổi trội trong tác phẩm để quy về một thể loại nhất định sẽ là phiến diện bởi trên thực tế có sự giao thoa giữa các thể loại. Thể kí trong sáng tác của HPNT có hiện tượng giao thoa khó phân định rạch ròi giữa các tiểu loại. Một số tiểu loại chủ yếu xuất hiện trong kí của HPNT: tuỳ bút, bút kí, nhàn đàm, truyện kí…trong số đó HPNT viết nhiều bền bỉ nhất vẫn là bút kí. Ngay cả tiểu loại nhàn đàm cũng được HPNT coi là những bút ký thu nhỏ [94]. Sự chọn lựa không chỉ thể hiện tinh thần kế thừa giá trị văn hoá văn học mà thế hệ đi trước tạo dựng, HPNT còn chọn bút kí bằng sự tinh tế, nỗi ưu tư thế sự, nhu cầu sáng tạo, và bằng cả thái độ dũng cảm, tự tin vào khả năng sáng tạo của mình. Dù viết dưới hình thức nào kí của ông vẫn là những bức tranh chân thực về đời sống qua đó tác giả có dịp bộc lộ trực tiếp cảm xúc, suy tư, quan điểm của mình trước những hiện tượng của đời sống. Dù viết nghiêng theo tiểu loại nào, kí của HPNT sẽ là nơi gặp gỡ của những nhân tố: trí tuệ và cảm xúc, sự thật cuộc sống và giá trị nghệ thuật đích thực. 1.2. Kí trong sự nghiệp sáng tác văn học của Hoàng Phủ Ngọc Tường 1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại Huế. Nguyên quán ở làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhưng Huế có sức ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời ông bởi HPNT đã từng bộc bạch: “Huế là nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, đã tranh đấu và chiến đấu, đã yêu thương, đã sống một đời công dân và một cuộc đời riêng tư”[16, tr.31]; 19
- “Tôi đã đi cùng với Huế trong tận nỗi thuỷ chung của tâm hồn” [15, tr.93]. Huế - mảnh đất của sông Hương, núi Ngự nên thơ, của điệu hò mái nhì mái đẩy ngọt ngào sâu lắng, những lăng tẩm đền đài trầm tư in dấu tháng năm chứa đựng trong chúng bao giá trị văn hoá tinh thần…tất cả in đậm trong tâm trí HPNT trở thành gốc rễ máu thịt tự lúc nào. Mẹ cha sinh ra hình hài, văn hoá xứ sở nơi con người sinh ra lớn lên trao tặng cho họ diện mạo tinh thần. Phải chăng, xứ Huế đã ban tặng cho HPNT diện mạo tinh thần, làm nên “chất Huế”, “tính cách Huế”, “diện mạo tinh thần Huế” trong cuộc sống đời thường cũng như trong sáng tác của ông. Nói vậy, ta cũng không thể phủ nhận trong ông còn có tinh thần bền bỉ, quyết liệt, đầy khí phách của dòng máu đất Quảng - quê nội của ông. HPNT từng tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn khoá 1- Ban Việt- Hán (1960), là cử nhân Triết học Đại học Văn khoa Huế (1964) tham gia dạy Việt Văn tại trường Quốc Học Huế (1960-1966). Thời gian học tập giảng dạy đã mở ra cơ hội cho HPNT trau dồi lượng tri thức lớn về mọi lĩnh vực của đời sống, ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho - Phật - Đạo của triết học phương Đông; tư duy biện chứng, chủ nghĩa Hiện sinh (Existentialism) của triết học phương Tây. Thời đại HPNT sống là thời đại lịch sử dân tộc đang có những bước chuyển mình lớn lao đã đánh thức thế hệ trẻ Việt Nam một thời trong đó có ông. Từ năm 1963 ông tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên và trí thức yêu nước ở Huế với cương vị Tổng thư kí Tổng hội sinh viên Huế. Tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ miền Nam thời kì này trong đó có HPNT được làm quen với những khái niệm “dấn thân”, “chọn lựa”, “ngụy tín”…một phần là nhờ những cuốn sách nhập môn triết học của Nguyễn Văn Trung và một số học giả khác. Có thể nói Nguyễn Văn Trung - giáo sư triết học với những tác phẩm tạo tiếng vang lớn trong những năm tháng đó, là nhịp cầu chính dẫn chủ nghĩa hiện sinh đi vào xã hội miền Nam và toả ra đến tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, sinh 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 301 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 153 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 143 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 170 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 157 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 121 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 62 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn