intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:160

117
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động gồm có 3 chương trình bày về sức mạnh tác động của thơ, một số hình thức thi pháp hướng tới sự tác động trong thơ, nghiên cứu một trường hợp cụ thể - thơ Tố Hữu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________________ TRẦN THANH BÌNH ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA THƠ CA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TÁC ĐỘNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ NGỌC TRÀ Thành Phố Hồ Chí Minh - 2008
  2. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thực tế sáng tác và tiếp nhận thơ ca từ xưa đến nay cho thấy, mặc dù xã hội phát triển ngày một văn minh hơn, mặc dù bây giờ nhân loại đang bước vào thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, và mặc cho người ta không ngừng đổi thay những quan điểm về thơ ca do những ý thức hệ tư tưởng khác nhau của những thời đại khác nhau chi phối, thì thơ ca vẫn tồn tại bên cạnh con người như một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Cuộc sống càng xô bồ, càng làm con người mệt mỏi thì con người lại càng muốn giải phóng tinh thần mình ra khỏi quy luật sinh tồn - diệt vong của thế giới vật chất để tìm về với nghệ thuật. Thơ ca vẫn là nơi để người ta trở về. Thơ ca vẫn là tri âm tri kỷ của con người. Nhưng do đâu mà thơ ca có sức hút mạnh mẽ như vậy? Cái gì đã kéo người ta đến với thơ? Cái gì đã khiến người ta phải sáng tác và đọc thơ như một nỗi đam mê không cưỡng lại được? Là một người yêu thơ, tôi luôn bị những câu hỏi ấy ám ảnh. Và rồi nỗi ám ảnh ấy thôi thúc tôi đi vào thế giới thơ để tìm câu trả lời. Đề tài “Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động” là một hướng nghiên cứu những căn cơ của việc sáng tác thơ và những đặc điểm nghệ thuật trong thơ mà thi nhân đã sử dụng như một thủ pháp để chuyển tải thông điệp từ trái tim mình đến với độc giả để tác động đến lý trí và cảm xúc của họ. Trong phần nghiên cứu một tác gia điển hình cho xu hướng thơ tác động, chúng tôi chọn nhà thơ Tố Hữu bởi những đóng góp to lớn của ông dành cho thơ ca và cách mạng Việt Nam. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trong sáng tác và trong cả hoạt động nghiên cứu, thơ ca không còn là một lĩnh vực thần bí. Trên thế giới và ở Việt Nam, đã có không ít các công trình nghiên cứu về lý luận thơ ca, từ những công trình tầm cỡ thế giới như "Nghệ thuật thi ca" của Aristote, "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp hay "Tùy viên thi thoại" của Viên Mai đến những công trình nghiên cứu của các nhà lý luận phương Tây và của các nhà lý luận Việt Nam… Mặc dù đã khai thác bao quát hết các vấn đề thuộc về đặc
  3. trưng, bản chất, chức năng hoặc có cả kinh nghiệm sáng tác thơ, nhưng các công trình ấy không dừng lại tìm hiểu thi pháp của thơ như một hình thức nghệ thuật có khả năng tác động vào công chúng độc giả. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thu thập được ở những tác giả ấy những ý kiến khẳng định ý nghĩa tác động của thơ ca từ những góc nhìn khác nhau:  Từ góc nhìn của các nhà lý luận và sáng tác: Trong tác phẩm "Dẫn luận nghiên cứu văn học", Pospelov cho rằng "các tình cảm của nhà thơ trữ tình có uy lực "lây truyền" người đọc, trở thành tài sản tinh thần của người đọc" [114, tr.332]. Công trình của ông khám phá đặc điểm của tác phẩm trữ tình từ góc nhìn đặc điểm cấu trúc của lý luận truyền thống qua việc nghiên cứu các đối tượng, nội dung, các dạng thức của trữ tình, đặc điểm biểu cảm của lời văn trữ tình… và chỉ dừng lại ở những đặc điểm chung nhất của thể loại trữ tình chứ không đi sâu vào đặc trưng thi pháp hoặc những hình thức có khả năng tác động của thơ ca. Nhà nghiên cứu V. Skholovskij trong bài viết "Nghệ thuật như là thủ pháp" cho rằng thủ pháp "lạ hóa" trong tác phẩm nghệ thuật giúp người ta “trở lại cảm giác về cuộc sống, để cảm nhận được các sự vật, để làm cho hòn đá thành hòn đá (...). Mục đích của nghệ thuật là đem lại cảm nhận về sự vật như đã nhìn thấy mà không phải đã nhận biết nó; thủ pháp của nghệ thuật là thủ pháp biệt hóa các sự vật và là thủ pháp tạo ra một hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó hơn và dài hơn, vì quá trình cảm thụ trong nghệ thuật mang mục đích tự thân và phải kéo dài ra; nghệ thuật là sự cảm nhận cách làm ra sự vật, còn cái được làm ra trong nghệ thuật thì không quan trọng” [151, tr.150]. Mặt khác, Skholovskij cũng tán đồng ý kiến của Aristote yêu cầu ngôn ngữ thơ phải có tính chất xa lạ, gây kinh ngạc và theo ông, một trong những yếu tố gây tác động đến người đọc là mặt ngữ âm và nhịp điệu của thơ. M.B. Khrapchenko trong bài "Sức sống vĩnh cửu những thuộc tính và chức năng nội tại của tác phẩm văn học", sách "Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học" đã quan tâm sâu sắc đến những biểu hiện nghệ thuật tạo
  4. nên giá trị nghệ thuật và của một tác phẩm văn học: "nhà văn không đơn giản chỉ làm cái việc truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện nghệ thuật của mình, anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả" [68, tr.177]. Nhà phê bình văn học Đức M. Reich – Ranicki trong bài viết "Một lời biện hộ cho thơ" đã đưa ra những lập luận khác nhau về việc có hay không hữu ích của thơ đối với đời sống con người. Ông cũng cho rằng "thi ca có lúc có khả năng – cho dù không thay đổi được ngay thế giới – song có thể làm cho thế giới đó trở nên dễ chịu hơn (…), có thể lay động con người khỏi trạng thái thờ ơ, và thậm chí có thể đánh bật nó khỏi những lối mòn tư duy cố hữu" [118, tr.72]. Bài viết của ông góp phần khẳng định khả năng tác động của thơ ca, tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu các hình thức tác động cụ thể. Trong công trình "Hệ thống kết cấu lý luận "Thi ngôn chí", Cổ Phong đã bàn đến 8 chức năng của thơ ca trong đó có chức năng giáo dục. Ông đã đồng tình với ý kiến của Khổng Dĩnh Đạt, Dương Duy Trinh, Ba Nhật Hưu… khi nói về khả năng giáo huấn con người của thơ và cho rằng "thơ nói chí, chí lại có khả năng cảm hóa, giáo dục con người" [189, tr.36]. Lê Ngọc Trà trong "Lý luận và văn học" khẳng định: "Nghệ thuật trở thành một phương tiện tác động quan trọng và có hiệu quả chính là nhờ những đặc điểm vốn có của nó. Bản chất của nghệ thuật là tình cảm. Đánh vào tình cảm là tác động vào khâu then chốt để lay chuyển con người", "trong quá trình tác động để cải biến con người, tác phẩm nghệ thuật hiện ra không phải như người thầy, nhà thuyết giáo mà như là người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc, với khán giả", "nghệ thuật ảnh hưởng đến con người lâu dài, dần dần và tác động theo kiểu lây lan" [157, tr.109 - 111]. Bàn về các yếu tố thơ, trong quyển "Lý luận và văn học, vấn đề và suy nghĩ", Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương cho rằng "nhịp, sự trở đi trở lại đều đặn làm cho bài thơ tác động đến người đọc theo từng làn, từng đợt sóng, một cách nhịp nhàng, liên tục, khiến con người như bị cuốn đi, rơi vào trạng thái đê mê. Nhịp
  5. có tính "ru người", tạo chất "say" cho thơ" [40, tr.83]. Cũng trong tác phẩm này, Huỳnh Như Phương quan tâm đến mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, ông đã bàn đến chức năng giao tiếp như một “sự tác động qua lại giữa người viết và người đọc” [40, tr.140]. Trong "Thi pháp hiện đại", Đỗ Đức Hiểu cũng thừa nhận khả năng tác động của thơ ca rất mạnh mẽ: "Nhà thơ càng tài năng, những làn sóng âm vang càng nhiều, càng rộng, có khi không bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỷ" [49, tr.70]. Trần Đình Sử trong tiểu luận "Những thế giới nghệ thuật thơ" đã cho rằng khả năng tác động như là một đặc điểm nổi bật của thơ cách mạng: "Thơ văn Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng có một sức tác động lớn trong đời sống tinh thần người Việt Nam (…). Đặc điểm của thơ ca cách mạng là gắn chặt với phong trào đấu tranh cách mạng, là vũ khí đấu tranh của phong trào đó. Tính chiến đấu là đặc điểm nổi bật được các nhà thơ cách mạng ý thức rất rõ" [122, tr.94]. Nhìn dọc theo chiều phát triển của tư duy nghệ thuật từ thơ cổ điển, lãng mạn, tượng trưng, đến thơ cách mạng, Trần Đình Sử đã thấy rõ khả năng tác động là một thành công lớn của thơ cách mạng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở những nhận định đó chứ không đi vào nghiên cứu cụ thể hệ thống thi pháp có khả năng tác động. Đinh Gia Trinh trong "Hoài vọng của lý trí", khi bàn về trách nhiệm của các văn sĩ và nghệ sĩ, đã khẳng định: "Sức cảm hóa của văn chương và của nghệ thuật là một điều hiển nhiên. Những kẻ khinh sự truyền bá tư tưởng bằng văn chương, coi những trang sách như một vang bóng vô ích chỉ là những kẻ xét đoán hẹp hòi" [161, tr.52, 53]. Và khi đọc "Xuân thu nhã tập", ông cũng cho rằng: "Bởi nhạc điệu, bởi sự hòa hợp âm thanh, bởi màu sắc của hình ảnh, tức khắc lời thơ đọc lên "mê hoặc" ta, làm ta đắm say. Cốt thơ chính là có cái năng lực cảm hóa ấy, cái năng lực làm người ta rung động… Thi sĩ là người khơi nguồn lưu thông cái run rẩy huyền diệu của Thơ, mình cảm, mình rung động, rồi lựa lời, lựa âm thanh, điều
  6. hòa màu sắc làm người ta cảm, người ta rung động, đem cái run rẩy huyền diệu làm tràn sóng sang người đọc" [161, tr.201]. Công trình lý luận về thơ "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại" của Hà Minh Đức bàn đến nhiều vấn đề của thơ ca Việt Nam, trong đó, ông có viết: "Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là lời ca chiến đấu, giàu ước mơ và khát vọng", "nhà thơ không chỉ nhân danh mình để nói lên một điều gì, mà chính là nhân danh xã hội, nhân danh đất nước, nhân danh giai cấp", "quan điểm chính trị bộc lộ công khai và trực tiếp trong thơ tạo nên chất thép, chất chiến đấu của thơ ca. Các nhà thơ với vị trí chiến đấu của người công dân giác ngộ lý tưởng luôn có dụng ý lấy thơ ca làm vũ khí tuyên truyền trực tiếp những tư tưởng chính trị nhằm động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng" [34, tr.103]. Và trong "Bình luận văn học", Như Phong cũng viết: "Văn nghệ không thể tự coi là đã mãn nguyện, nếu nó chỉ làm cho người ta đứng ở ngoài cuộc mà phân biệt đúng sai, mà còn phải lôi người ta vào trong cuộc đập tan cái lãnh đạm bàng quan của họ, gọi dậy ở họ những sức mạnh vẫn ngủ yên, làm cho họ có thái độ tích cực trước cái gì đáng yêu hoặc đáng ghét, gây cho họ ý thức và ý chí đấu tranh để tiêu diệt cái gì hoặc bảo vệ cái gì. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng làm cho người đọc xong, ra khỏi tác phẩm ấy, không còn nguyên như trước nữa, không thể sống yên với chính mình, vì đã yêu thương hay căm thù tột độ, cần phải giải quyết vấn đề trên đời sống thật, cần phải hành động" [110, tr.244]. Trong quá trình tìm hiểu "Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam (1945 – 1995)", Vũ Văn Sỹ đã khẳng định: "Về hình thức, văn học cách mạng vẫn chủ yếu là thơ ca tuyên truyền, vận động và thơ ca tâm sự giác ngộ", "thơ không còn là của riêng, đựng trong "túi", trong "bầu" mà là một thứ vũ khí kháng chiến, là tài sản tinh thần chung của nhân dân. Sứ mệnh cao cả của thơ ca là phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước" [126, tr.43, 56]. Chuyên luận của ông tập trung nghiên cứu những hình thức nghệ thuật đặc thù của thơ ca trong mối tương quan mật thiết giữa sự vận động của xã hội và sự phát triển của thơ ca.
  7. Mã Giang Lân trong khảo luận "Tìm hiểu thơ" có viết: "Chúng ta có tiếng nói trữ tình quen thuộc kết hợp một cách nhuần nhị, tự nhiên với chất tự sự; khi cần thiết vận dụng châm biếm, đả kích để đánh kẻ thù có hiệu quả hơn. Đến kháng chiến chống Mỹ thơ có thêm tiếng nói chính luận đanh thép sắc sảo, có sức thuyết phục, lay động mạnh tạo nên âm hưởng hùng tráng và vẻ đẹp sử thi" [80, tr.103, 104]. Tuyển tập phê bình tiểu luận "Tiếng vọng những mùa qua" của Nguyễn Thị Thanh Xuân có bài viết về văn học kháng chiến ở Nam Bộ. Bàn về thơ ca giai đoạn này, bà khẳng định: "Thơ ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn học ở chiến khu Nam Bộ, cả về số lượng lẫn chất lượng". "Nội dung của thơ ca giai đoạn này là ca ngợi cuộc kháng chiến, lên án sự tàn bạo của quân thù, biểu dương những tấm gương anh hùng của nhân dân và kêu gọi những người đi theo giặc trở về với chính nghĩa" [175, tr.225]. Lê Thành Nghị trong tác phẩm "Văn học sáng tạo và tiếp nhận" cho rằng hiệu quả tác động của tác phẩm là tất yếu khi người cầm bút cố gắng và không bị hạn chế trong việc "sử dụng những biện pháp hiệu quả nhất, kể cả các biện pháp của các phương pháp sáng tác phi hiện thực như lãng mạn, viễn tưởng, huyền thoại… miễn là tất cả sự vận dụng và tìm tòi nghệ thuật này nhằm đạt đến tính chân thực thuyết phục của hình tượng văn học, đạt đến hiệu quả cao nhất trong việc tác động vào tư tưởng và tình cảm người đọc" [101, tr.58]. Trong tiểu luận "Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy", Xuân Diệu viết: "Có một cái gì rất lôi cuốn trong bộ phận thơ cách mạng viết theo nhạc điệu thơ truyền thống; bây giờ chúng ta tuyên truyền, cổ động, hô hào, nhưng các bài hịch của ông cha ta kêu gọi đánh giặc, kêu gọi đi theo, chính nghĩa, đã mở lối văn, hơi văn chiến đấu ấy" [20, tr.55]. Trong cái nhìn này, Xuân Diệu nhận thấy rõ thơ ca cách mạng "có rất nhiều bài cổ động: Em khuyên chị, chị khuyên em; cổ động binh lính; cổ động học sinh, thanh niên; cổ động công nhân; cổ động dân cày; cổ động dân nghèo làm cách mạng; hiệu triệu đồng bào đánh đuổi đế quốc Pháp; kêu gọi quốc dân, và rất nhiều bài cổ động phụ nữ"…[20, tr.56].
  8. Trúc Chi trong "Ba mươi năm một nền thơ cách mạng" cho rằng: "Thơ đã trở thành sự sống cho xã hội một cách thực sự. Vũ khí của thơ là ở chỗ đó. Cách mạng đã trả về cho thơ một nhiệm vụ nặng nề là góp phần xây dựng cuộc sống, xây dựng con người, làm thức dậy những tình cảm cao thượng và chiến đấu cho một lẽ sống công bằng đạo lý" [13, tr.130]. Trong giáo trình "Đại cương Mỹ học", Tạ Văn Thành cũng có cùng ý kiến như trên: "Nghệ thuật tác động tổng hợp đến trí tuệ và trái tim, và không một ngõ ngách nào của tâm hồn con người mà nghệ thuật lại không thâm nhập được", "bằng cách giáo dục cho con người về nhiều mặt và tác động cả vào tình cảm lẫn lý trí con người, cổ vũ họ đấu tranh cho những lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nền nghệ thuật chân chính thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng là chức năng cải tạo xã hội" [140, tr.104, 105]. Đông La trong "Biên độ của trí tưởng tượng" cho rằng: "Thơ ca không chỉ tạo nên sự xúc động, sự khoái cảm, sự tâm đắc mà còn gợi nên những suy tư, những trăn trở, ý thức trách nhiệm lớn lao đối với đồng loại" [70, tr.98]. Nguyễn Thị Dư Khánh với "Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường" có phần bàn về mục đích của môn Ngữ Văn, trong đó, theo bà, "thơ trữ tình là loại tác động trực tiếp và sâu xa hơn cả" [63, tr.133]. Trong cuộc hội thảo về “Văn học và hiện thực”, “Phản ánh hiện thực là chức năng hay thuộc tính của văn học?”, các nhà nghiên cứu lý luận cũng bày tỏ mối quan tâm về khả năng tác động của tác phẩm. Từ quan điểm thông báo, Hoàng Ngọc Hiến cho rằng “tác phẩm văn học phải truyền cho người đọc ham muốn cải tạo hiện thực cuộc sống” [45, tr.6], còn Nguyễn Huệ Chi thì thừa nhận chính sự tự do sáng tạo và tài năng nghệ thuật của tác giả đã tạo nên sự giao cảm kỳ diệu và “đánh thức dậy trong người đọc một thế giới bí ẩn chưa từng biết trong hiện thực” [11, tr.14]. Trong các công trình nghiên cứu, các giáo trình lý luận văn học, khả năng tác động của thơ được nói đến từ góc nhìn về chức năng của văn học. Trần Đình Sử trong "Lý luận và phê bình văn học" cho rằng: “Văn học vừa khơi gợi khoái cảm,
  9. mở mang trí tuệ, dạy khôn con người, vừa thức tỉnh lương tri, lương tâm, dạy con người biết yêu thương, căm giận…” [123, tr.216], giáo trình "Lý luận văn học" do Phương Lựu chủ biên thì nhìn nhận “văn học có tác dụng khách quan là có thể tác động vào đời sống tinh thần lý trí, tình cảm con người” [91, tập 1, tr.221] và khi nhìn từ đặc điểm thể loại thơ, tác giả cũng khẳng định: “thơ trữ tình công dân có sức tác động mạnh mẽ… khi nhà thơ lấy tư cách công dân cổ vũ và ca ngợi…, lên án và đấu tranh…” [92, tr.364]. Các giáo trình Lý luận văn học trong phần trình bày chức năng của văn học, thường xem chức năng tác động là một trong những chức năng của văn học, dù đôi khi lồng nó vào chức năng giáo dục hoặc giao tiếp. Các bức thư của ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, III, IV đều có nhấn mạnh tác dụng của văn học: “Mỗi tác phẩm văn nghệ phải có tác dụng rọi ánh sáng mới vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của xã hội, cổ vũ nhân dân phấn khởi tiến lên” [4, tr.17]. Đó cũng là mối quan tâm sâu sắc đến việc thơ văn phải phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái mới, quan tâm đến tác dụng giáo dục tư tưởng và truyền cảm sâu sắc của tác phẩm nhằm góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển.  Từ góc nhìn của các nhà ngôn ngữ học: Gần đây, việc nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam quan tâm. Đã có Mai Ngọc Chừ với "Tìm hiểu vần thơ Việt Nam" (1986), Bùi Công Hùng với "Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca" (1989), Phan Ngọc với "Tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều" (1985), "Cách giải thích Văn học bằng ngôn ngữ học" (2000), Nguyễn Phan Cảnh với "Ngôn ngữ thơ" (1987), Hữu Đạt với "Ngôn ngữ thơ Việt Nam" (1993), Triều Nguyên với "Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ" (2006)... Mỗi một người có những đóng góp khác nhau vào cái nhìn tổng thể của ngôn ngữ học đối với thơ ca. Qua đó, và qua các tác phẩm khác, vấn đề tác động của thơ cũng được nhìn nhận. Trong "Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa", Hoàng Tuệ cho rằng vấn đề phong cách trong văn chương thực chất là "một sự tạo nghĩa", nhưng cần nhấn
  10. mạnh rằng đó là một sự tạo nghĩa đặc biệt, trong sự giao tiếp xã hội bằng nghệ thuật, nhằm tạo nên một tác động đặc biệt" [164, tr.23]. Phan Ngọc thì nhìn thấy khả năng tác động như là một thuộc tính của thơ. Trong quyển "Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ", ông viết: “Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ…” [102, tr.29]. Theo ông, sở dĩ, có những câu thơ được nhớ đến hàng ngàn năm là nhờ cách tổ chức ngôn ngữ của nó. Trong "Phong cách học Tiếng Việt", Đinh Trọng Lạc cho rằng “tính cụ thể hóa nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật. Nó giải thích bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc (...). Sự cụ thể hóa nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ (...), do đó, thơ đặc biệt sử dụng biện pháp trùng điệp ở các cấp độ để nhấn mạnh, để xoáy sâu những ý tình, những hình tượng mà nhà thơ cho là quan trọng” [71, tr.154, 158]. Công trình "Ngữ pháp của thơ" của Nguyễn Thế Lịch đã nghiên cứu các hình thức nghệ thuật như những đặc điểm ngữ pháp của thơ được các nhà thơ thường xuyên sử dụng. Đó là con đường "từ ngữ liệu thơ ca rồi khái quát thành mô hình của "ngữ pháp thơ" [84, tr.16]. Bài viết trình bày lần lượt các vấn đề về đơn vị của ngữ pháp thơ, việc sử dụng các dấu câu, hiện tượng tỉnh lược thành phần, dùng cấu trúc đối, đảo, điệp, sử dụng hạn chế các hư từ, cấu trúc dòng thơ và bài thơ, các kiểu câu cảm thán, câu hỏi tu từ, sự kết hợp bất thường, sự đổi mới cấu trúc câu thơ… Ông thừa nhận trùng điệp là một dạng thức tác động hiệu quả vào tình cảm của người đọc: “hai tiếng “khi mô” (trong bài "Tiếng hát sông Hương") được nhắc lại mấy lần để xoáy sâu vào lòng người đọc nỗi day dứt, lòng mong mỏi ngày được giải thoát khỏi cuộc đời ô nhục của cô gái trên sông Hương” [84, tr.59]. Tuy nhiên, công trình này không đi sâu sát vào các đặc trưng ngữ pháp có xu hướng tác động. Trong "Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt", Hữu Đạt cho rằng "Các đơn vị ngôn ngữ hoạt động trong phong cách nghệ thuật với chức năng nổi bật nhất là chức năng tác động bằng hình tượng (…). Tác động của nghệ
  11. thuật trước hết là tác động tình cảm và thẩm mỹ, (…), chức năng tác động tình cảm lại là yếu tố nổi bật lên trước nhất" [29, tr.285 - 287]. Ông cũng chỉ ra rằng việc sử dụng thường xuyên các lời than gọi, các câu hỏi tu từ nghệ thuật, nhiều từ láy, từ tượng hình, là một trong những điểm tạo nên dấu hiệu khác biệt giữa phong cách nghệ thuật và các phong cách chức năng khác. Trong sách "Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học", Nguyễn Lai cho rằng quá trình sáng tác, dù được thể hiện dưới dạng nào, "cuối cùng và thực chất nhất là nó phải bắt đầu từ sự rung động của chính mình để qua đó tạo ra sự rung động cho người khác" [73, tr.59]. Hà Công Tài trong bài viết "Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ" cho rằng thơ ca có khả năng tác động bằng các yếu tố nghệ thuật, trong đó có ẩn dụ, một phương tiện tu từ đặc sắc trong văn chương có thể giúp các nhà thơ khai thác nhiều hình ảnh tân kỳ. Ẩn dụ cũng là một “phương cách tác động và gây hấp dẫn nơi người đọc” vì "nghệ thuật thường tác động lên người đọc bởi sự sáng tạo những ký hiệu lạ lùng hấp dẫn" [128, tr.46]. Còn Phong Hồng Anh trong bài viết "Tín hiệu thơ - cuộc đối thoại giữa nhà thơ và bạn đọc" xem thơ như một “hình thức đối thoại trữ tình trực tiếp không ngừng của nhà thơ với cuộc đời” và khẳng định đó là thuộc tính thể loại quan trọng nhất của thơ. Tác giả này dùng các quy tắc của lý thuyết giao tiếp, lý thuyết dụng học để nghiên cứu ngôn ngữ thơ và cho rằng: “Đích giao tiếp - tác động của thơ là để được chia sẻ, đồng cảm, được giải tỏa một cảm xúc cao trào nào đó đang diễn ra với nhà thơ”. “Thơ là hành trình của một người đến với muôn người, từ nhu cầu tự bộc lộ mình của nhà thơ tìm đến sự đồng cảm với cuộc đời” [1, tr.26]. Nhìn chung, những tài liệu chúng tôi đã tiếp cận tuy chưa dừng lại tìm hiểu thi pháp tác động của thơ ca nhưng cũng đã ít nhiều chạm vào những vấn đề liên quan đến khả năng tác động của thơ. Chúng tôi xin ghi nhận các ý kiến trên và sẽ xem đó như những gợi ý quý báu để đi sâu vào tìm hiểu thi pháp thơ ca từ góc nhìn tác động. Với luận văn này, chúng tôi hy vọng được góp vào diễn đàn nghiên cứu thơ ca một tiếng nói nhỏ, nhưng phần nào cũng làm cho lý luận thơ ca Việt Nam ngày thêm phong phú hơn, đầy đặn hơn và mới mẻ hơn.
  12. 3. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Thế giới thơ ca vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp, bước chân vào lãnh địa này trong một khoảng thời gian nhất định và trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, người viết chỉ tập trung vào việc tìm hiểu những vấn đề liên quan đến khả năng tác động của thơ ca. Cụ thể là thông qua một số ý kiến về thơ của các nhà nghiên cứu lý luận, các nhà ngôn ngữ học, các nhà sáng tác ở trong và ngoài nước cũng như từ thực tế lịch sử thơ Việt Nam suốt mấy ngàn năm qua... để khẳng định thơ ca là một nghệ thuật có khả năng tác động cao. Đồng thời, trong khi tìm hiểu các yếu tố làm nên sức mạnh tác động của thơ, luận văn liên hệ với các bài thơ, đoạn thơ, câu thơ của các nhà thơ Việt Nam. Ở chương 3, luận văn khảo sát thơ Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề. 4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp một tiếng nói khẳng định ý nghĩa của thơ trong đời sống con người. Thông qua quá trình tìm hiểu những quan niệm của đông đảo các học giả từ xưa đến nay, luận văn hướng đến tìm hiểu trạng thái và nhu cầu tác động của nhà thơ khi sáng tác; đồng thời khẳng định rằng thơ ca là một nghệ thuật có sức mạnh tác động đáng kể, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh giữ nước Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. - Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn góp thêm hướng nghiên cứu về thi pháp bằng việc tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật nổi bật nhất có khả năng tạo nên ấn tượng sâu đậm và tác động mạnh mẽ vào công chúng. Mặc dù người ta vẫn đã và đang sáng tác và thưởng thức thơ, nhưng lý thuyết về thi pháp thơ nhìn từ góc độ tác động sẽ góp phần đáng kể cho quá trình sáng tác của các nhà thơ đương đại và trong tương lai – nhất là khi thị hiếu thẩm mỹ của công chúng ngày càng được nâng cao và quy luật đào thải càng trở nên nghiệt ngã. - Khảo sát các yếu tố nghệ thuật trong thơ Tố Hữu như một biểu hiện tiêu biểu cho loại thơ tác động, luận văn cũng góp phần khẳng định giá trị nghệ thuật và sức mạnh tác động của thơ Tố Hữu đồng thời lý giải vì sao tiếng thơ Tố Hữu đã
  13. vinh dự trở thành tiếng gọi đàn cho cả dân tộc ta trong những ngày tháng đấu tranh gian khổ nhất. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp sau đây:  Phương pháp hệ thống: Trong quá trình tìm hiểu các quan niệm về thơ của các học giả, tìm hiểu các biểu hiện tác động của thơ ca trong lịch sử, và tìm hiểu các hình thức thi pháp tác động cụ thể, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, hệ thống và trình bày các yếu tố này theo từng luận điểm thích hợp.  Phương pháp phân tích – tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩm thơ ca Việt Nam và thơ Tố Hữu để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.  Phương pháp loại hình: Luận văn tập trung nghiên cứu thể loại thơ ca, chủ yếu là thơ trữ tình có xu hướng tác động.  Phương pháp thống kê: Để khẳng định những giá trị tác động nổi bật của thơ Tố Hữu, chúng tôi sẽ tiến hành phương pháp thống kê một số hình thức nghệ thuật. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung trọng tâm của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sức mạnh tác động của thơ Chương 2: Một số hình thức thi pháp hướng tới sự tác động trong thơ Chương 3: Nghiên cứu một trường hợp cụ thể: thơ Tố Hữu
  14. Chương 1 SỨC MẠNH TÁC ĐỘNG CỦA THƠ 1.1 Sức tác động của thơ: Là một trong những loại hình nghệ thuật đến với loài người sớm nhất, thơ chiếm lấy một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người ngay từ khi họ biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với nhau. Cho đến hôm nay, sau một chặng đường rất dài, nhìn lại, ta vẫn thấy thơ còn đó ở bên mình. Thơ vẫn rất thủy chung, vẫn đằm thắm dịu dàng len lỏi qua dòng xiết nghiệt ngã của cuộc đời để đến với trái tim người đọc. Thơ giăng mắc trong lòng người những cảm thức tinh tế về cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ; thơ gợi thức trong lòng người những hoài niệm xa xôi, những ước mơ đẹp đẽ; thơ thôi thúc, giục giã trong ta những lý tưởng, kêu gọi ta hành động phụng sự Tổ Quốc... và rồi dần dần, con người không thể sống thiếu thơ. Bằng sức mạnh của riêng mình, thơ đã góp phần nâng cuộc sống này lên như một thiên chức đáng tự hào. Mỗi một lần ngoái nhìn lại thơ ca là mỗi một lần chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì sức mạnh ấy. 1.1.1 Trong suy nghĩ của nhiều học giả xưa nay Thơ được viết ra để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của con người: nhu cầu thưởng thức cái đẹp, nhu cầu nâng cao tri thức, nhu cầu tiếp thu và khám phá thế giới tình cảm của con người v.v… Mỗi bài thơ được thai nghén từ những trăn trở, suy tư, những trải nghiệm đầy nỗi niềm và thấm trong từng câu chữ là những giọt mồ hôi, giọt nước mắt của người sinh ra nó. Nhưng mọi sáng tạo đó chỉ trở nên thật sự hữu ích cho xã hội loài người khi nó có thể góp phần nâng cuộc sống lên, góp phần khiến cho người càng Người hơn. Sức mạnh của thơ thật vô cùng, và trong thực tế, nó không chỉ giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách cho con người mà nó còn góp phần tác động vào tư tưởng, quan điểm, lập trường của con người, từ đó mà cải tạo xã hội. Thật ra, người ta đã phải trải qua thật nhiều những tranh luận, nhiều thể nghiệm để khẳng định chân lý ấy. Tuy nhiên, thơ ca là một lĩnh vực nhạy
  15. cảm nên vẫn thấy xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau. Mỗi nhà thơ, mỗi nhà nghiên cứu hay cả những chính trị gia đều có những ý kiến riêng được hun đúc từ những trải nghiệm của chính bản thân họ về thơ ca, nhưng điểm chung của họ là nhìn nhận sức mạnh tác động của thơ ca đối với xã hội như một chức năng quan trọng. Thơ thể hiện sức mạnh của mình khi tác động đến tư tưởng con người với tinh thần nhân văn cao cả. Ở phương Tây, từ thời cổ đại, Platon đã từng muốn đuổi những nhà thơ ra khỏi đất nước mình vì nhìn thấy những ảnh hưởng khôn lường của thơ đối với công chúng. Ông cho rằng, “ngoài loại thơ ca tụng thần linh và người tốt, còn không cho phép mọi loại thơ khác xâm nhập vào lý tưởng quốc” [93, tập 2, tr.512]. Theo Platon, tình cảm buồn, vui, yêu thương, căm thù khi còn ở ngoài đời thì còn được lý trí chế ngự, nhưng một khi đã bước vào thơ, sẽ được “bộc lộ thỏa mãn trong thơ, càng gây tác dụng xấu cho con người” [93, tập 2, tr.513]. Nhà hiền triết này đã nhìn thấy ảnh hưởng rất mạnh của thơ đối với đời sống tinh thần của nhân dân ở cả hai mặt tốt xấu. Aristotle cũng rất đề cao sức mạnh của thơ. Ông cho rằng thơ có sức mạnh của tình cảm, của trái tim và sức mạnh ấy có thể khiến mọi người tự thanh lọc tâm hồn mình, có thể kéo mọi người đến gần nhau hơn: “Bi kịch đúng là gây ra nỗi buồn và khiếp sợ, từ đó dẫn đến sự thanh lọc đối với những tình cảm này”, nó khiến cho “một số người cảm thấy một sự khoan khoái, nhẹ nhàng, dễ chịu” [93, tập 2, tr.513]. Từ quan niệm này, Aristote chủ trương bộc lộ, kích phát tình cảm để thanh lọc. Về sau, Sigmund Freud phát triển quan niệm "thanh lọc" của Aristotle theo cách lý giải rằng văn học có thể giải tỏa những ham muốn, những ẩn ức về tính dục mà con người bị đè nén, không thể thỏa mãn trong thực tế. Theo cách nghĩ của Freud, văn học nói chung và thơ ca nói riêng có khả năng giúp con người thoát ra khỏi những giày vò, giăng bủa của mớ bòng bong phức tạp để tìm lại sự cân bằng cho thế giới tinh thần. Thật vậy, khi cuộc sống càng biến động thì các nhà thơ càng không ngừng đi tìm lẽ sống, không ngừng suy nghiệm về lẽ đời, về con người. Tác phẩm của họ - những bài thơ được viết ra để chuyển tải những thông điệp đó đến loài người. Một
  16. bài thơ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa khiến người ta thỏa mãn những thị hiếu thẩm mỹ của người đọc mà nó còn có ý nghĩa “giao tranh để đoàn kết mọi người” [143, tr.79]. Thơ không phải là những bài đạo đức khô khan phục vụ cho một chế độ, một giai cấp nào nhưng nó lại có sức mạnh tuyệt đối để “khiến con người, tất cả mọi người thành ra thuần khiết” [143, tr.80]. Từ hướng tác động vào con người, thơ ca đi đến khả năng thay đổi xã hội. Ít nhiều các nhà làm chính trị từ xưa đến nay vẫn nhìn thơ như một thế mạnh thuộc một lĩnh vực tinh thần phong phú không những có khả năng xâm nhập và làm thay đổi đời sống tinh thần con người mà thậm chí còn làm thay đổi cục diện xã hội. Các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại cho rằng, cuộc sống bình yên hay loạn lạc bắt nguồn từ trong tư tưởng mà ra và trong đó, thơ là một yếu tố có khả năng gây ảnh hưởng không nhỏ. Tuân Tử nghĩ rằng những âm thanh gian trá sẽ làm loạn nhân sinh và ngược lại, những âm thanh tốt đẹp có khả năng cảm hóa con người, làm cho cuộc sống bình yên. Quan niệm của Tuân Tử khẳng định chắc chắn khả năng tác động của nghệ thuật: bất kể là xấu hay tốt, tác phẩm nghệ thuật có sức mạnh lớn lao đối với tính “an” hay “loạn” của xã hội. Cùng quan điểm đó, Khổng Tử chủ trương truyền dạy đạo đức, khiến người, giúp người tu thiện, rèn luyện nhân cách bằng kinh sách. Một trong những cách thức “tu thân” mà Khổng Tử đề ra cho học trò là đọc sách, đọc thơ, đọc Kinh Thi và bàn luận về Kinh Thi để nâng cao tri thức: “Bất học thi, vô dĩ ngôn” [93, tập 1, tr.39]. Ở góc độ lý luận văn học mà nhìn, ta thấy Khổng Tử đã rất xem trọng khả năng tác động của thơ ca và đề xướng một quan niệm văn học tuyên truyền và bảo vệ chế độ, đạo đức, lễ giáo phong kiến. Mặc Tử đề cao khả năng tác động đến mức xem nhẹ hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Ông cho rằng: “Một thành tựu về mặt sáng tạo là khéo léo nếu nó bổ ích cho con người, và nó là thô lỗ nếu nó không bổ ích” [93, tập 1, tr.45]. Trong khi đó thì Hàn Phi Tử lại chủ trương bài trừ văn nghệ triệt để. Hàn cho rằng: “Nếu tôn chuộng kẻ sĩ, thi, thư và nói lý thuyết thì dân sẽ thích chơi không, vô nghề nghiệp, và khinh nhà vua; nếu tôn chuộng kẻ sĩ ở nhà không làm quan thì dân sẽ xa lánh và chê bai người trên” [93, tập 1, tr.48]. Suy cho cùng, thái độ phủ nhận văn học của Hàn Phi không phải là
  17. không hiểu biết về nghệ thuật mà ngược lại ông hiểu rất rõ, ông nhận thấy khả năng tác động rất lớn của chúng vào nhân dân và ông lo sợ xã hội nổi loạn. Chủ trương chuyên chế cực đoan của Pháp gia - Phi Tử không dung hòa với tiếng nói của lương tri, của khát vọng con người trong văn thơ nên ông cổ vũ hành động hủy diệt thi thư nhưng nếu nhìn ở góc độ nhận thức thì ông lại là người hiểu rõ sức mạnh cải biến xã hội của văn thơ. Tiếc là ông không biến nó thành một phương tiện để giáo huấn nhân dân mà lại đặt nó vào thế đối lập để rồi hủy diệt nó. Hành động đó thật trái với tiến bộ xã hội. Hàn Phi Tử quả thật đã nhìn thơ văn với một sức mạnh vô cùng, giống như quan niệm của đại đế Napoleon: “Súng đại bác phá tan thành quách, tác phẩm phá tan xã hội” [185, tr.1344]. Các nhà lý luận Trung Quốc như Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị cũng xem trọng ý nghĩa xã hội của thơ văn, xem văn thơ như một phương tiện bảo vệ và tuyên truyền cho đạo đức phong kiến. Qua những luận điểm bàn về vấn đề sáng tạo văn học, kết cấu, từ văn, ngôn ngữ, biện pháp nghệ thuật trong “Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp cho rằng thơ ca thật sự có ý nghĩa tích cực trong việc giáo huấn nhân dân: “Cái chữ thâu tóm của 300 bài (Kinh Thi) là không tà dâm. Giữ lấy nó để dạy thì thích hợp vậy" [47, tr.156]. Lý Bạch - nhà thơ, nhà lý luận thi ca xuất sắc đời Đường rất chú trọng đến sức đồng vọng diệu kỳ của thơ ca. Ông đề cao chức năng “cảm hóa nhân tâm” của thơ, cho rằng thơ không chỉ có mục đích tự thân mà còn phải “vì quân, vì thần, vì dân, vì vật mà sáng tác, chứ không phải vì văn mà sáng tác” [184, tr.572]. Từ đó, ông khuyến khích sáng tác thơ để giúp vào việc thi hành chính đạo, phản ánh nỗi đau khổ của nhân dân. Ông coi trọng thơ phúng dụ vì đấy là loại thơ có khả năng “trị bệnh cứu người, bổ khuyết thời thế” [184, tr.585]. Từ những nhận thức đúng đắn đó, Bạch Cư Dị sáng tác những tác phẩm có giá trị nhân sinh, được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước Trung Hoa. Về cách thức, thơ có cách cải tạo xã hội theo con đường đơn giản mà tinh tế, quyến rũ nhất. Thơ nhẹ nhàng đi vào lòng người và thức tỉnh họ, kêu gọi họ bằng nhiều cách khác nhau. Đôi khi, thơ đến với con người như là một tín ngưỡng thiêng liêng và huyền bí. Chính vì thế mà nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Apollinaire đã kêu gọi
  18. các nhà thơ “hãy quay về với Khổng Phu Tử, Phật Thích Ca, hiền triết Socrate, Chúa Jesus, là những bậc đạo đức học chịu đói mà lang thang qua các xóm làng” [143, tr.77] để mang thơ đến với nhân dân. Thiết thực hơn, nhà cách mạng Lương Khải Siêu cổ động mọi người sáng tác như một hành động cải tạo thế giới. Tuy lập trường chính trị và tư tưởng triết học còn nhiều hạn chế, nhưng Lương Khải Siêu luôn đề cao sức mạnh của văn thơ. Ông cho rằng văn thơ có thể thức tỉnh nhân dân, rửa nhục cho nước. Lương Khải Siêu chủ trương hoạt động văn học cách mạng: "văn thể cách mạng", "thi giới cách mạng", "tiểu thuyết giới cách mạng" v.v… Qua "Ẩm băng thất thi thoại", ông kêu gọi thơ phải tuyên truyền, biểu hiện tinh thần cách mạng, tinh thần thượng võ, chủ nghĩa yêu nước để giúp cho dân khí lớn mạnh. Tư tưởng của Lương Khải Siêu ảnh hưởng đến giới văn nghệ đương thời, nhiều người nêu cao khẩu hiệu "tiểu thuyết cứu quốc!", "thi ca cứu quốc!". Các học giả Việt Nam thời trung đại cho rằng có ba sự nghiệp lớn có thể lưu danh hậu thế: lập công, lập đức, lập ngôn. Văn thơ được nhìn nhận như một công cụ, phương tiện để giáo huấn tư tưởng, đạo đức cho nhân dân, góp phần vào cuộc cải biến nhân quần, xã hội. Vũ Quỳnh nhìn nhận thơ văn rất có ý nghĩa bởi nó “há chẳng phải là khuyên điều thiện, trừng điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục đó ru?” [131, tr.31]. Lê Quý Đôn từng viết: “Văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh thế” [131, tr.92] như một lời khẳng định vai trò và mục đích vì xã hội của văn thơ, khẳng định ý nghĩa thiết thực của thơ trong đời sống xã hội. Nguyễn Văn Siêu xác định mục đích cao cả của văn chương là phục vụ cho con người: “Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người” [131, tr.125]. Nguyễn Thượng Hiền khẳng định sức mạnh của thơ: “Thét một tiếng đã nâng dậy chứng ỳ của một nền phong hóa suy đồi” [61, tr.101] còn Hồng Nhậm cho rằng thơ hay phải “làm khóc được quỷ thần” và “thông suốt trời đất” [61, tr.88]. Ta thấy rằng, sự liên kết giữa thơ ca, chính trị và đạo đức là cái gốc để các thi nhân ngày xưa hướng ý đồ tác động của mình đến độc giả mỗi khi sáng tác. Cảm hứng của nhà thơ được khơi nguồn từ những điều tai nghe mắt thấy, từ những tồn vong của một triều đại, một dân tộc và từ những buồn vui, sướng khổ của nhân dân. Theo đà phát triển của lịch
  19. sử, thơ không những được xem là phương tiện giáo dục mà thơ còn là vũ khí góp phần đấu tranh và phát triển xã hội. Sức mạnh tạo nên ý nghĩa xã hội cao quý cho thơ còn ở chỗ nó có thể cải tạo xã hội. Tóm lại, cách nói của người xưa tuy chỗ đậm chỗ nhạt nhưng cũng đã thừa nhận khả năng tác động của thơ vào xã hội như là một bản chất vốn có. Khi bày tỏ ý kiến về thơ, họ có cả một bề dày sáng tác ở phía sau. Lời họ nói là những lời được trải nghiệm từ những hoạt động xã hội của một chính trị gia, hoặc là lời gan ruột của thi nhân về cái nghiệp cầm bút của mình. Về mặt này, các ý kiến của người đi sau cũng gặp gỡ những người đi trước. Ý nghĩa, vai trò của thơ ca đã được thế hệ cha ông ta đặt ra từ rất lâu và ngày nay được nhận thức lại từ góc nhìn của hệ tư tưởng mới. R. Jakobson trong công trình “Ngôn ngữ và thi ca” đã nghiên cứu thơ ca từ góc độ lý thuyết giao tiếp của ngôn ngữ và khẳng định “ngôn ngữ phải được nghiên cứu trong tất cả các chức năng khác nhau của nó” [33, tr.110]. Chính ông cũng xác định chức năng kêu gọi là một trong sáu chức năng cơ bản của sự giao tiếp ngôn ngữ. Bàn về chức năng này, ông khẳng định, "sự hướng tới người nhận – chức năng kêu gọi – tìm được sự thể hiện thuần túy ngữ pháp trong hình thức hô cách và mệnh lệnh cách [33, tr.113]. Theo ông, một bài thơ, bên cạnh chức năng thơ vốn là chủ đạo, còn có những chức năng ngôn ngữ khác. Tùy vào đặc điểm của thể loại thơ khác nhau mà có những chức năng khác nhau: thơ sử thi chủ yếu dựa vào chức năng giao tiếp của ngôn ngữ; thơ trữ tình gắn bó chặt chẽ với chức năng biểu cảm; “thơ của ngôi thứ hai” thấm đẫm chức năng kêu gọi: nó hoặc là cầu xin, hoặc là giáo huấn. Theo quan niệm của Jakobson, các chức năng nhận thức, biểu cảm và tác động là các chức năng thường thấy nhất trong thơ. Mặc khác, ông đề xuất hướng nghiên cứu “tính văn học”, quan tâm đến việc văn học “nói như thế nào” hơn là tìm hiểu xem văn học “nói cái gì”, nhưng “nói như thế nào” hay “nói cái gì” thì cũng là nói với độc giả, nói với xã hội chứ không phải tác giả nói với chính mình. Trong những cái đích mà nhà ngôn ngữ Jakobson hướng đến trên con đường đi tìm hiểu các nguyên lý để tranh luận cho bản chất của văn học, có mục đích tác động. Vì dù cùng có chung chức năng giao tiếp như ngôn ngữ của đời sống, nhưng ngôn ngữ thơ không
  20. bao giờ là ngôn ngữ khách quan mà luôn mang trong mình nhiệm vụ bộc lộ tình cảm, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời. Jakobson và các nhà ngôn ngữ sau này thường vận dụng các đặc điểm, các quy tắc trong ngôn ngữ để “đọc” thơ. Chẳng hạn như tìm hiểu các chức năng của thơ (dựa trên các chức năng của ngôn ngữ), các giá trị tu từ, các loại câu thơ, các yếu tố ngữ âm, ngữ điệu… trong thơ. Trong những tìm tòi đó, các nhà ngôn ngữ đã dành cho khả năng tác động của thơ một mối quan tâm đáng kể, đủ để khẳng định rằng “thơ là một nghệ thuật tác động”. Trên lập trường duy vật biện chứng, Lenin quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực. Trong các ý kiến đánh giá Tolstoi, Lenin thường đề cao ý nghĩa hiện thực: “Tolstoi không những đã cống hiến những tác phẩm nghệ thuật mà quần chúng sẽ tán thưởng và sẽ đọc mãi mãi, một khi họ đập tan được ách của bọn địa chủ và bọn tư bản và tạo được cho họ những điều kiện sống của con người” [83, tr.258]. Với tư cách là một vị lãnh đạo, Lenin đề cao ý nghĩa xã hội của văn chương và sử dụng chúng vì mục đích cách mạng. Trong một bức thư gửi cho M. Gorki, Lenin đã rất băn khoăn trong việc chọn lựa một loại hình nghệ thuật có khả năng tác động tích cực đến công chúng: “Bây giờ cần phải tác động như thế nào, cần phải “làm loại văn học” nào cho đúng?” [83, tr.297]. Theo quan điểm của Lênin, văn thơ luôn là vũ khí đấu tranh giai cấp, là phương tiện để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng nhân dân. Nhưng để tác phẩm có sức mạnh đấu tranh, người cầm bút phải nhận thức rõ trách nhiệm của mình. Hay nói cách khác, ý nghĩa đấu tranh của tác phẩm phải bắt nguồn từ sự dấn thân của hành vi sáng tạo. Sứ mạng cao cả của những người cầm bút, theo Sartre là phải dấn thân vào công cuộc đấu tranh của xã hội: “Văn học phải phục vụ cho đấu tranh, nhiệm vụ của nhà văn là vận dụng các loại hình thức văn học để phơi bày cái thế giới này cho mọi người xem, để cứu vãn cái thế giới này”, “Chỉ có nghệ thuật cho người khác và bởi người khác” [120, tr.132]. Quan niệm dấn thân của Sartre xác định thái độ và quan hệ của nhà thơ đối với xã hội từ nhu cầu, trách nhiệm tự bóc lộ mình, bóc lộ không phải để cho mình mà cho cả người đọc để từ đó mà cải tạo xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2