intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Viễn Phương

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

60
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Viễn Phương tìm hiểu nội dung tư tưởng của thơ Viễn Phương thông qua những nét chủ đạo trong cảm hứng sáng tác của nhà thơ; sáng tạo của nhà thơ Viễn Phương về phương diện nghệ thuật thơ, góp thêm tiếng nói khẳng định sự đóng góp của ông cho thơ ca Nam Bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Viễn Phương

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH VIỆN Huỳnh Thị Ngọc Yến ĐẶC ĐIỂM THƠ VIỄN PHƯƠNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN KHA Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Kha – người Thầy luôn nhiệt thành hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Xin cảm ơn Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau đại học, Quý Thầy Cô ở Khoa Văn Trường Đại học Sư Phạm và Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, đã tham gia giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học cao học tại Trường; Ban Giám Hiệu và đồng nghiệp trường THPT Trần Phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác để tôi có thể theo học chương trình sau đại học; Tập thể Lớp Văn học Việt Nam khoá 18 (2007-2010) đã gắn bó, động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS Phan Thanh Bình, gia đình nhà thơ Viễn Phương đã nhiệt tình, cung cấp các hình ảnh, tư liệu quý về nhà thơ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn. Xin cám ơn gia đình đã hết sức tận tuỵ, giúp đỡ và hỗ trợ tôi để tôi có điều kiện hoàn thành tốt luận văn của mình. Cuối cùng, cho tôi xin được nói lời tri ân tất cả. Người thực hiện luận văn HUỲNH THỊ NGỌC YẾN
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với hơn 50 năm cầm bút, cuộc đời Viễn Phương đã cống hiến trọn vẹn cho cách mạng, cho thơ văn đến tận hơi thở cuối cùng. Đó là một nhân cách đáng được trân trọng. Với tính cách khiêm nhường, nụ cười đôn hậu, tâm hồn thanh cao, không màng bon chen danh lợi…, nhân cách Viễn Phương luôn toả sáng. Đọc “Tuyển tập Viễn Phương”, người đọc sẽ không khỏi ngạc nhiên, vì số lượng tác phẩm của ông tương đối lớn (10 tập truyện và ký, 7 tập thơ) nhưng rất ít người biết đến và nghiên cứu. Mới đây, tác giả Mai Thuỵ Thanh Vân, với luận văn thạc sĩ của mình đã chọn và bảo vệ thành công đề tài “Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Viễn Phương”. Hầu hết trong các thư viện của các trường đại học cũng như thư viện các tỉnh, thư mục về Viễn Phương rất ít, và những công trình nghiên cứu sâu về ông cũng thật hiếm hoi. Thiết nghĩ một nhà thơ tâm huyết với đời, với nghề văn như Viễn Phương với tấm lòng đôn hậu, thuỷ chung, ấm áp tình người, tình đời như thế cần phải được quan tâm nghiên cứu. Là một người con miền Nam, với tấm lòng thành kính của mình, với đề tài luận văn thạc sĩ “Đặc điểm thơ Viễn Phương”, tôi mạnh dạn đặt vấn đề tìm hiểu thơ Viễn Phương trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật nhằm khẳng định có cơ sở khoa học ý nghĩa và giá trị của thơ Viễn Phương. Bằng cách như vậy, luận văn góp phần thẩm định sức sống của những tác phẩm của nhà thơ Nam Bộ cùng với thời gian và lòng người. Với những tham vọng như trên, luận văn là tiếng nói tri ân nhà thơ - người đã góp công vun đắp khu vườn văn học Nam Bộ với những hoa thơm trái ngọt cho hậu thế hôm nay và mai sau. Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn, tính cấp thiết của đề tài để góp phần đưa Viễn Phương nói riêng và các cây bút tài hoa của miền Nam nói chung có dịp khoe sắc trong vườn hoa văn học của dân tộc, và góp phần tạo nên cái nhìn đa chiều, đa diện và sâu sắc hơn về một cuộc đời, một tâm hồn của nhà văn, nhà thơ, nhà giáo Viễn Phương. 2. Mục đích nghiên cứu Với đề tài “Đặc điểm thơ Viễn Phương”, mục đích của chúng tôi hướng đến đó là: - Tìm hiểu nội dung tư tưởng của thơ Viễn Phương thông qua những nét chủ đạo trong cảm hứng sáng tác của nhà thơ; - Phát hiện những tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ Viễn Phương về phương diện nghệ thuật thơ, góp thêm tiếng nói khẳng định sự đóng góp của ông cho thơ ca Nam Bộ, góp phần làm phong phú nền văn học dân tộc. 3. Lịch sử vấn đề
  4. Với 10 tập truyện và ký, 7 tập thơ, lao động nghệ thuật của Viễn Phương gắn với những giai đoạn lịch sử sôi động của dân tộc: kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trong hoà bình. Thế nhưng, công trình nghiên cứu về Viễn Phương còn rất ít ỏi. Viết lời tựa cho tập “Phù sa quê mẹ”, nhà thơ Chế Lan Viên phát hiện “nét tính cách tươi sáng, tươi mát” trong thơ Viễn Phương. Đó là sự “lạc quan” “quán xuyến” toàn bộ thơ Viễn Phương: “Tôi chú ý đến Viễn Phương tác giả “Đám cưới giữa mùa xuân” thấy anh lúc nào cũng tủm tỉm cười. Giữa địa ngục của chiến tranh mà nghĩ đến mùa xuân, đến đám cưới, đó là nét lạc quan chung của chúng ta lúc ấy, mà lại phù hợp với tính cách tươi sáng, tươi mát sau này tôi thấy quán xuyến toàn bộ thơ của Viễn Phương” [124, tr.888]. Cũng với cách nhìn như Chế Lan Viên về Viễn Phương, Trần Thanh Đạm trong bài viết “Vĩnh viễn nụ cười Viễn Phương”, cho rằng đó là “nét tự nhiên của người anh, đời anh”. Trần Thanh Đạm viết: “Tôi cũng nghĩ lại có cái gì ở anh tạo ra sức quyến rũ đặc biệt ấy. Tất nhiên, đó là vì thơ anh, văn anh, mà thơ văn của anh cũng là đời anh, người anh (…) Nhưng đó còn là và chính là cái nụ cười rất dễ thương mà rất thâm trầm đó của anh. Phải là một con người có tâm hồn trong trắng lắm mới có một nụ cười như vậy. Và mới có những vần thơ, câu văn như của anh. Chính cái nụ cười ấy làm nên nhân cách và phong cách Viễn Phương trong đời và trong thơ” [124, tr.902]. Cũng trong bài viết nói trên, Trần Thanh Đạm nhìn thấy nét riêng trong thơ Viễn Phương: “Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh” [124, tr.894]. Bởi cuộc đời của Viễn Phương đã gắn bó và nặng ân tình với cách mạng: “Cũng như Tố Hữu, Viễn Phương có một mối tình lớn nhất, thuỷ chung nhất trong thơ: đó là mối tình với cách mạng”, và chính hồn thơ nhạy cảm, đa cảm ấy “yêu cho lắm thì càng đau buồn nhiều, nhất là trong thời gian về sau, khi với cách mạng, con người ta đã thành vợ thành chồng, có con có cái với nhau chứ không phải như buổi ban đầu, nhìn nhau toàn qua ánh sáng và màn sương lý tưởng” [124, tr.896]. Đất nước hoà bình, đổi mới, hồn thơ Viễn Phương càng được “gạn đục khơi trong”, như Chế Lan Viên đã nhận xét rất tinh: “Thơ anh về sau, từ năm 1975 lại đây, đã thiên về nội tâm, trong lúc vẫn bám vào thế giới bên ngoài” [124, tr.892]. Đó cũng chính là những tiếng vọng sâu xa của nội tâm của Viễn Phương đối với thế giới bên ngoài bằng tấc lòng sâu nặng: hoài niệm về quá khứ, suy ngẫm hiện tại và mơ ước tương lai. Nhận định về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Viễn Phương, nhà văn Triệu Xuân có một cái nhìn khá sâu sắc về cảm hứng cũng như bút lực của Viễn Phương: “Sau chiến tranh, những năm cuối đời, thơ ông bay bổng hơn, long lanh tình, giàu xúc cảm, nhưng vẫn quen trong cách thể hiện cũ”, “Ông chuyên viết ký và những chuyện người thật việc thật, những sự tích mà ông tận mắt chứng kiến (…) tạo nên những trang văn xuôi lấp lánh văn chương, lấp lánh tình đời” [124,
  5. tr.8]. Mai Quốc Liên cũng đánh giá cao tài năng thơ của Viễn Phương: “Thơ Viễn Phương chân tình, đằm thắm, chân thực. Anh viết trong trào lưu thơ cách mạng - chiến đấu nhưng bằng kinh nghiệm sống và chất tâm hồn của riêng anh. Nhiều bài thơ của anh đã nổi tiếng, trở thành bài hát được mọi người yêu mến” [124, tr.907]. Theo Nguyễn Xuân Nam, “Sau ngày Ðại thắng mùa xuân, trong những điều kiện mới, thơ Viễn Phương cũng có những đổi mới. Anh đang cố gắng cho câu chữ súc tích hơn, gợi nhiều hơn tả, dành phần rộng rãi cho người đọc tưởng tượng, sáng tạo thêm” [67]. Còn nhà văn, nhà báo Mai Văn Tạo, người đồng hương với Viễn Phương đã khái quát nét đặc sắc trong phong cách thơ của Viễn Phương: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ” [102] . Nhà văn Tô Hoài tâm sự: “tôi được nhìn thấy địa đạo Củ Chi vì đã đôi ba lần đến tham quan, có khi ăn cơm nằm võng trưa ở vườn trên xóm đất cát pha còn hoang tàn. Nhưng phải đọc Viễn Phương mới biết thấm thía những "Mưa nấm mối", "Ông địa đạo", "Hoa trong đất", "Những ngày sống trong hố bom đìa". Cái giọng kể cười ra nước mắt, cứ tỉnh khô như không mà có, rất Ba Phi, mà nhận ra cái triết lý sống đã tồn tại, đã chiến thắng của người Việt Nam ở một miền đất trải liền hơn ba mươi năm chiến tranh” [35]. Có thể nói, thơ, văn Viễn Phương truyền tải hai nội dung chính: lao động và chiến đấu với cảm hứng lãng mạn và cảm hứng sử thi là chủ đạo. Bên cạnh những vần thơ nên thơ, Chế Lan Viên cũng nhận ra thơ Viễn Phương cũng “giàu chất thế tục và rất đời” ở bài thơ “Thích ở trần”. Nói như Mai Quốc Liên, đó cũng là một Viễn Phương “thứ thiệt”, bởi “trữ tình đã là khó, trào phúng còn khó và quý hơn” [124, tr.907] Tuy nhiên, những mặt hạn chế về nghệ thuật trong thơ Viễn Phương cũng được các bạn văn góp ý chân thành. Nhà văn Triệu Xuân nhận xét: “Trong thơ, Viễn Phương ít có sự bứt phá, thơ của ông giản dị, thiên về tự sự, phản ánh hiện thực”. Đây có thể xem là mặt hạn chế về nghệ thuật trong thơ Viễn Phương. Mai Quốc Liên thì nuối tiếc: “Tiếc rằng dầu khá tiếng Pháp, anh đã không tận dụng nó để cải tiến câu thơ cho nó có nhiều chất và nhiều cách thể hiện hơn” [124, tr.907] Tóm lại, hầu hết những nhận định trên đều xuất phát từ tấm lòng của những bạn văn, đồng nghiệp, người cùng thời với nhà thơ qua những thăng trầm lịch sử. Nghiên cứu về thơ Viễn Phương chưa được chú ý nhiều trong các chuyên luận nghiên cứu chuyên ngành. Mới đây (tháng 8/2009), tác giả Mai Thụy Thanh Vân (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài “Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Viễn Phương” [119]. Như tên gọi của đề tài, luận văn phác hoạ những nét chung về tiểu sử, sự nghiệp văn chương của Viễn Phương,
  6. giúp hình dung đóng góp của Viễn Phương cho văn học cách mạng trong phạm vi địa phương Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến quý báu của những nhà nghiên cứu, ý kiến của các nhà văn, nhà thơ về tác phẩm của Viễn Phương, với lòng yêu mến và trân trọng nhà thơ của quê hương Nam Bộ, chúng tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “Đặc điểm thơ Viễn Phương” để đánh giá có cơ sở khoa học về thơ của Viễn Phương, góp tiếng nói khẳng định chỗ đứng của Viễn Phương trong khu vườn văn học Nam Bộ đầy hương sắc. 4. Phạm vi nghiên cứu Viễn Phương sáng tác cả thơ và văn xuôi. Trong phạm vi của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi giới hạn khảo sát những tác phẩm thơ của ông đã được in ở trong các tập thơ: - Mắt sáng học trò (1970) - Nhớ lời di chúc (trường ca, 1972) - Như mây mùa xuân (1978) - Phù sa quê mẹ (1991) - Gió lay hương quỳnh (2005) Thơ Viễn Phương gắn bó với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ và cả thời kỳ xây dựng đổi mới đất nước. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi luôn đặt thơ Viễn Phương trong mối quan hệ chặt chẽ với thơ ca trong thời kỳ này, nhằm có thêm cơ sở nhìn nhận, đánh giá và khai thác một cách có hiệu quả những đóng góp của thơ Viễn Phương trên nhiều phương diện. Qua đó, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, giá trị và ý nghĩa của thơ Viễn Phương trong nền thơ Việt Nam hiện đại. 5. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài, người viết sử dụng các phương pháp chính sau đây: phương pháp tiểu sử, phương pháp cấu trúc - hệ thống, phương pháp thống kê - phân loại. Phương pháp tiểu sử: phương pháp này được chúng tôi sử dụng chủ yếu ở chương 1 - tìm hiểu con người tác giả, những yếu tố hình thành tài năng văn chương của Viễn Phương. Để tránh chủ quan, phiến diện, chúng tôi chú ý tìm hiểu tiểu sử, sự nghiệp văn thơ Viễn Phương trong mối quan hệ với thời đại, đời sống xã hội và văn hoá con người Nam Bộ. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Viễn Phương sống và sáng tác trải qua những biến động lịch sử của đất nước, dân tộc. Nghiên cứu thơ Viễn Phương trong bối cảnh lịch sử có nhiều biến đổi, người viết luôn đặt thơ ông trong hệ quy chiếu là tư tưởng sáng tạo của người nghệ sĩ luôn trung thành với lý tưởng cách mạng, thuỷ chung với lẽ sống mà mình đã chọn. Xuất phát từ điểm nhìn này trong nghiên cứu, chúng tôi coi thơ Viễn Phương viết trong và sau chiến tranh là tiếng nói
  7. của một chủ thể sáng tạo. Xác định được quan điểm này trong nghiên cứu giúp chúng tôi lý giải một cách nhất quán thơ Viễn Phương ở các giai đoạn sáng tác khác nhau. Ngoài ra, phương pháp cấu trúc - hệ thống giúp người viết nhìn thơ Viễn Phương trong mối tương quan với nền văn học Việt Nam hiện đại. Tìm hiểu quá trình ổn định và phát triển của thơ Viễn Phương trong cái nền chung của thi ca Việt Nam giúp người viết nhận ra những nét riêng không hoà lẫn của Viễn Phương so với các nhà thơ cùng thời. Phương pháp thi pháp học: Vận dụng tri thức về thi pháp học, luận văn khảo sát những yếu tố hình thức mang tính nội dung biểu hiện trong thơ Viễn Phương. Từ sự hài hoà giữa hình thức và nội dung để khẳng định thơ Viễn Phương vừa có cái Chân nhưng cũng hướng về cái Thiện, cái Mĩ. Phương pháp thống kê – phân loại: Khảo sát phương diện hình thức của thơ Viễn Phương, chúng tôi vận dụng phương pháp thống kê – phân loại để thẩm định, đánh giá thơ Viễn Phương một cách khoa học và chính xác. Ngoài những phương pháp chính trên, trong quá trình thực hiện luận văn, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích – tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng. 6. Đóng góp của luận văn Với đề tài “Đặc điểm thơ Viễn Phương”, luận văn có những đóng góp mới sau đây: - Từ những nét chủ đạo trong cảm hứng nghệ thuật toát lên nhân cách của nhà thơ Nam Bộ - giàu lòng yêu nước, thuỷ chung với cách mạng, giàu lòng vị tha, nhân ái. Nhân cách gắn với những giá trị văn hoá truyền thống – trước đó nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tiếp thu và thể hiện hoà vào không khí văn học trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đến Viễn Phương, ông đã tiếp thu tinh thần của thời đại, tiếng thơ của ông đã hoà vào không khí cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. - Về phương diện nghệ thuật, cùng với quá trình hiện đại hoá thơ ca dân tộc, thơ tự do của Viễn Phương cũng có những đóng góp, góp phần định hình một khuôn mặt riêng cho thơ ca Nam Bộ trên một vài phương diện như: hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu (7 trang), phần Kết luận (4 trang) và Tài liệu tham khảo (8 trang), kèm theo Phụ lục (14 trang), phần nội dung chính của luận văn (112 trang) được trình bày theo ba chương: Chương 1: Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn chương của Viễn Phương. Chương 2: Những nét chủ đạo trong cảm hứng nghệ thuật thơ Viễn Phương . Chương 3: Đặc điểm thơ Viễn Phương nhìn từ phương diện hình thức thể hiện.
  8. Chương 1 TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG CỦA VIỄN PHƯƠNG 1.1. Tiểu sử nhà thơ Viễn Phương 1.1.1. Cuộc đời nhà thơ Viễn Phương (1928 - 2005) Nhà thơ Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh ngày 01 tháng 5 năm 1928 tại tại xã Bình Ðức, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang). Vùng đồng bằng chiêm trũng này quanh năm được phù sa bồi đắp, nhưng đây cũng là nơi gánh chịu thiên tai, lụt lội hàng năm. “Thuở nhỏ tôi sống ở một xã heo hắt vùng biên giới. Trên vùng đất nghèo khổ mà năm nào Trời cũng giáng thiên tai, lụt lội, gạo cơm còn thiếu, chữ nghĩa ai màng” [124, tr.881]. Năm 1945, khi Viễn Phương tròn 17 tuổi, đang theo học trường Colège Cần Thơ (nay là trường Châu Văn Liêm), Cách mạng tháng Tám nổ ra, với nhiệt huyết của người thanh niên yêu nước, Viễn Phương xếp bút nghiên lên đường theo tiếng gọi của cách mạng. Viễn Phương hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên của tổ chức Đoàn thanh niên xung phong. Ông đã từng là Vệ quốc quân chống Pháp ở đồng bằng Nam Bộ, làm chiến sĩ trinh sát Chi đội 25, tham gia đánh đồn Rạch Gòi, Phong Điền, Phụng Hiệp, Bình Thuỷ, Cái Răng. Có lúc Viễn Phương còn đột nhập vô chợ Cần Thơ nắm tình hình địch và tâm tư của người dân đô thị. Trong thời gian này, ông bắt đầu sáng tác và bài thơ đầu tiên được đăng báo là bài “Tiếng súng kháng địch” (đăng trên tờ báo của Khu 9 Nam Bộ). Năm 1954, trường ca “Chiến thắng Hoà Bình” của ông được tặng giải nhì về thơ Nam Bộ. Sau hiệp định Genève, Viễn Phương về Sài Gòn hoạt động. Giữa đô thị lớn, là trung tâm chính trị, kinh tế của chính quyền Sài Gòn, để giữ bí mật và hoạt động có hiệu quả, Viễn Phương phải đóng nhiều vai: nhà giáo, thư ký hãng buôn, thầy cò làng báo… nhưng ông vẫn sáng tác văn thơ với nội dung yêu nước và cổ vũ tinh thần dân tộc. Những sáng tác của ông (với bút danh Viễn Phương) được đăng trên các báo ở Sài Gòn như Nhân loại, Hừng sáng, Công lý… Năm 1960, ông bị chính quyền Sài Gòn bắt và giam ở đề lao Gia Định, khám Chí Hoà, ngục Phú Lợi. Trong tù, Viễn Phương vẫn tiếp tục dùng thơ ca để động viên các bạn tù giữ vững khí tiết và phẩm chất cách mạng. Khi tự thuật về cuộc đời mình, Viễn Phương đã kể lại: “Vào tù, đối với chúng tôi chỉ là sự thay đổi địa bàn hoạt động. Trong tù, tôi vẫn tiếp tục làm thơ. Tôi làm thơ không giấy bút chỉ âm thầm làm thơ bằng trí nhớ và chí căm thù. Thơ từ thuở ấy là đồ quốc cấm, bọn chúa
  9. ngục luôn tìm cách huỷ hoại, nhưng thơ tù vẫn tồn tại vì nó được in sâu vào trong tim trong máu của anh em” [89]. Năm 1962, ông ra tù và vào công tác ở chiến trường Củ Chi cho đến ngày giải phóng. Cuối năm 1962, Hội văn nghệ khu Sài Gòn – Gia Định - Chợ Lớn thành lập, Viễn Phương được bầu làm Tổng thư ký. Chính vùng lửa đạn nơi tuyến đầu Nam Bộ (Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, đặc biệt là đất thép Củ Chi) là những nguồn cảm hứng thực tế đã giúp cho thơ văn Viễn Phương có sức sống mạnh mẽ. Cũng kể từ ấy, mảnh đất Củ Chi đã trở nên máu thịt trong thơ văn của Viễn Phương, những tác phẩm của ông ra đời trong giai đoạn này giàu tính chiến đấu và dạt dào cảm xúc. Chiến trường Củ Chi lúc ấy vô cùng ác liệt, hồ sơ chôn dưới đất còn bị giật tung lên nên làm được bài thơ nào, viết được bài văn nào, Viễn Phương cũng đều chép ra một bản gửi về R. R lại tiếp tục gửi ra Hà Nội. Vì thế, tuy chiến đấu ở Củ Chi nhưng thỉnh thoảng tác phẩm của Viễn Phương cũng được phát trên Ðài Tiếng nói Việt Nam và tuy chiến đấu ở miền Nam nhưng Viễn Phương cũng đã có vài tập thơ văn xuất bản ở Hà Nội. Năm 1968, “Anh hùng mìn gạt”, được dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp đã giới thiệu cho bạn đọc cả nước và thế giới hiểu thêm về một vùng đất địa đạo của miền Nam anh dũng. Những giải thưởng văn học cao quý: Truyện “Lòng mẹ” (Giải nhì cuộc thi viết cho thiếu nhi); Truyện ký “Quê hương địa đạo” (Giải thưởng Nhà nước đợt 1 năm 2001); Truyện ký “Chuyện đời má Bảy” (Giải nhì cuộc thi viết về Bà mẹ Việt Nam anh hùng), Văn bia “Đền Tưởng niệm Bến Dược – Củ Chi”, càng khẳng định khả năng, bút lực của Viễn Phương ở thể loại truyện – ký. Năm 1995, nhân kỷ niệm hai mươi năm giải phóng thành phố Hồ Chí Minh và toàn miền Nam, Ban Giám Đốc khu di tích Bến Dược (Củ Chi) đã tổ chức cuộc thi viết “Văn bia cho Bến Dược”. Trong số 250 tác phẩm từ khắp mọi miền Tổ quốc gửi về dự, bài văn bia của Viễn Phương “Đời đời ghi nhớ” đã được đánh giá cao và được chọn khắc tại Đền tưởng niệm các liệt sĩ Bến Dược. Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh Phương Viễn, ông sáng tác cả thơ và văn xuôi. Bên cạnh bài thơ “Viếng lăng Bác” đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc sống mãi trong lòng người đọc, “Đám cưới giữa mùa xuân”, “Lá thư em gái”, “Tiếng hát dưới gầm cầu”… được giới thanh niên, học sinh, sinh viên thời ấy yêu thích. Những tác phẩm này đã theo đường Trường Sơn đến với bạn đọc và tuổi trẻ miền Bắc. Vào đợt tổng công kích Mậu Thân (1968), bị địch đuổi gắt, Viễn Phương đã bỏ lại túi ba lô của mình bên rặng dừa nước. Sau đó, chiếc ba lô có đựng những quyển bản thảo thơ của ông bị thất lạc. Thời gian sau này, nơi chiến trường Củ Chi ác liệt, ông đã cẩn thận ngồi chép lại. Có những chi
  10. tiết hoặc những câu thơ không nhớ rõ, ông chú thích bằng bút chì bên cạnh. Mỗi bài thơ trong cuốn sổ đều được ông ghi rõ hoàn cảnh sáng tác của từng bài. Quyển sổ ấy đã được ông gìn giữ bên mình hơn 30 năm. Giờ đây, tuy nó đã ố vàng theo những biến đổi của thời gian nhưng tâm tình, tấm lòng của tác giả trong từng trang viết vẫn được gia đình gìn giữ một cách cẩn thận. Theo tôi, đó là tài liệu quý, là bút tích của nhà thơ, đồng thời cũng thể hiện được tính cách thận trọng, một con người làm việc rất khoa học, nghiêm túc, chỉn chu. Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Viễn Phương từng giữ các chức vụ: Ủy viên Ban chấp hành Chi hội văn nghệ Nam Bộ, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi đất nước thống nhất đến khi mất, Viễn Phương đảm nhiệm các chức vụ: Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2001, Viễn Phương được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Sau một thời gian chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, Viễn Phương đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 15h15 ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 77 tuổi. 1.1.2. Những yếu tố hình thành tài năng văn chương của Viễn Phương Mảnh đất An Giang quê hương Viễn Phương là một vùng đất đai trù phú, được phù sa bồi đắp quanh năm. An Giang cũng là tỉnh duy nhất của đồng bằng sông Cửu Long có địa hình núi xen kẽ đồng bằng. Do vậy, điều kiện thổ nhưỡng nơi đây cũng có nhiều thuận lợi hơn so với khu vực. Khói sương bảng lảng nơi đỉnh phù vân cùng với cảnh tượng mênh mang của mùa nước nổi đã tạo cho con người nơi đây một tấm lòng trải rộng với thiên nhiên, cuộc sống với bao suy tư, trăn trở của kiếp người. Và cũng chính mảnh đất miền Tây Nam Bộ này là cái nôi sản sinh ra những điệu hò, câu hát làm say đắm lòng người: “Ngày ra đồng thi nhau gặt hái, đêm về đập lúa dưới trăng, trai gái chia nhau hò điệu huê tình. Bên nam bên nữ đối đáp cùng nhau, chọn bạn gửi duyên đêm này sang đêm khác. Mùa gặt tàn lại hẹn đến mùa sau”. Câu hò dìu dặt, ngân nga trước cảnh sông nước tứ bề sẽ giúp con người xoá đi cái khoảng không rộng lớn và sự hoang vắng của cảnh vật: “Đêm rồi đêm, trong dòng sông bàng bạc ánh trăng, ghe thương hồ rộn ràng xuôi ngược, tiếng hò dơi dơi lướt theo nhịp chèo vỗ nước suốt canh khuya. Tiếng hò tình tứ êm đềm, ngân dài trong đêm lạnh như nhịp thở của sông nước thái hoà…” [124, tr.353]. Có thể nói chính âm nhạc, nghệ thuật của quê hương đã ươm mầm và giúp cho tâm hồn Viễn Phương thêm phong phú, dẫu cả cuộc đời Viễn Phương là một đứa con sống xa quê. Vì thế, trong
  11. các tác phẩm của mình, giọng hò, tiếng hát, lời ru ngọt ngào của đồng quê Nam Bộ luôn xuất hiện với tần số cao, như một thứ gia vị không thể thiếu mỗi khi nhắc đến. Viễn Phương đam mê đọc sách và đến với thơ ngay từ khi còn học ở trường Collège (Cần Thơ): “Tôi bắt đầu yêu sách, thích đọc sách và chập chững làm thơ, tôi học Lục Vân Tiên, tôi yêu Cao Bá Quát, Phan Văn Trị, tôi thích Tản Đà, tôi mê Kiều, tôi say Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, v.v… Lần lần, tôi biết Song An Hoàng Ngọc Phách, Ngô Tất Tố, Tô Hoài… Danh tác nước ngoài tôi cũng đọc lỗ chỗ thơ Lamartine, Victor Hugo, truyện của Balzac rồi Paul et Virinine, Graziela… mỗi thứ một ít. Tôi say mê đọc, có được gì đọc nấy. Nhưng thời ấy sách văn học khó kiếm và khó mượn lắm” [124, tr.881]. Đến khi đạt giải thưởng Cửu Long Nam Bộ - Trường ca “Chiến thắng Hoà Bình”, Viễn Phương đã trưởng thành và tự tin hơn nhiều, như chính ông tâm sự: “…Lúc ấy tôi mười bảy tuổi, cũng đã bắt đầu thi phú rồi nhưng định hướng rõ mình sẽ làm gì thì chưa. Năm hai mươi tuổi trong kháng chiến tôi đạt giải nhì giải thưởng Cửu Long Nam Bộ, một giải lớn nhất về thơ trong kháng chiến lúc bấy giờ. Bắt đầu từ lúc ấy, tôi mới hoàn toàn xác định hướng đi của mình” [53]. Để trải lòng với cuộc sống, với thơ ca, Viễn Phương cần cù, chăm chỉ như con ong đi kén hương, hút mật, xây tổ cho đời. Quan niệm về thơ, Viễn Phương cho rằng thơ phải có ích cho đời. Viễn Phương tâm đắc quan niệm về thơ của nhà thơ Hungari S. Pétophi: “Tôi coi thơ không phải là một phòng khách quý tộc, nơi chỉ có người bôi dầu thơm, đánh phấn và đi ủng bóng lộn… bước vào. Thơ là ngôi đền, mà những người áo rách và đi chân đất đều có thể vào được” [89]. Tổng kết, đánh giá về sự nghiệp thơ ca của Viễn Phương, tôi nghĩ ông đã làm được điều mà mình tâm niệm, bởi thơ của ông không quý tộc, không bóng lộn những sáo từ, mà thơ ông giản dị, lời lẽ mộc mạc, gần như lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân lao động và hơn hết là ông đã truyền tải vào những trang viết của mình những nội dung mà chính cuộc sống lao động, chiến đấu đã yêu cầu và thử thách. Sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh, người thanh niên trí thức yêu nước 17 tuổi khi ấy (1945) đã ý thức sâu sắc quê hương bị kẻ thù xâm lược giày xéo là nỗi đau quằn quại trong tâm hồn mỗi người. Do đó, lý tưởng, mục tiêu sống của Viễn Phương cũng như của hàng vạn thanh niên khác là chống xâm lược, chống áp bức, bất công, đấu tranh cho quê hương thống nhất. Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, biết bao xương máu các anh hùng dân tộc đã hoà quyện vào từng tấc đất quê hương. Viễn Phương cũng vào tù, ra khám thường xuyên (nhà lao Gia Định, khám Chí Hoà, ngục Phú Lợi…). Cũng như nhiều anh em văn sĩ khác, Viễn Phương luôn tâm niệm, ngoài súng đạn nơi chiến trường, ngòi bút là một thứ vũ khí sắc bén có hai tác dụng lớn là đấu tranh và động viên tinh thần, chí khí của cả dân tộc.
  12. Tham gia kháng chiến, Viễn Phương cũng không nghĩ mình sẽ trở thành nhà thơ, mà mong muốn của ông là được dạy con chữ cho đời. Song, do điều kiện chiến tranh khốc liệt, tất cả trường học đều bị đạn cày, bom xới. Vì thế, muốn gieo con chữ cho đời, trước hết ông cùng những đồng chí của mình lúc ấy đều phải cầm súng đấu tranh để giành lại nền độc lập cho đất nước. Khi nói về những ngày hoạt động ở Củ Chi sau thời gian bị câu lưu ở Phú Lợi, Viễn Phương tâm sự: “Thiệt tình, đi kháng chiến mình có bao giờ nghĩ sẽ thành nhà thơ, mà chỉ muốn dạy học. Ở Củ Chi, mình cũng muốn dạy học nhưng trên mảnh đất đã qua nhiều trận càn như: Cedar Falls (bóc vỏ trái đất), rải chất độc cho rụng lá, rồi đổ xăng, thảy napan đốt cháy cả một khu rừng cao su bạt ngàn Phú Hoà Đông… thì còn gì là trường trại mà dạy, mà học. Bao nhiêu thầy giáo đưa từ miền Bắc vào đều phải cầm súng trở thành những du kích địa đạo, phải chống trả với kẻ thù để giữ bổn mạng và mạng sống của những người dân, của một vùng tổ quốc” [123]. Với hơn mười ba năm bám trụ nơi đất thép Củ Chi “sống ở hầm, ăn cơm vắt, uống nước chai”, chứng kiến biết bao nhiêu sự mất mát, hy sinh của đồng đội, Viễn Phương càng sục sôi ý chí đấu tranh góp sức mình cùng dân tộc quyết giành lại độc lập, tự do. Kể về thời gian khốc liệt nhất của cuộc chiến ngày đó, Viễn Phương tâm sự: “tôi chưa hề đổ máu nhưng tôi đã tận mắt nhìn bao nhiêu máu xương đổ ngập đất này và lúc nào tôi cũng thấy trên vai mình nặng quằn gánh nợ máu xương. Tôi muốn được ghi, được viết lại một cách trung thực những sự tích anh hùng mà bạn bè tôi, đồng chí tôi, các ba các má tôi đã viết bằng xương máu. Nhưng có lúc tôi thấy thơ mình bất lực và tôi phải viết ký, viết văn” [89]. Hiện thực sống động trong cuộc sống - chiến đấu đã được Viễn Phương quan sát tỉ mỉ, ghi chép cẩn thận, bằng trái tim nhạy cảm của một người nghệ sĩ, ông đã viết nên những trang thơ đầy ắp tình người, tình đời. Từ những điểm đã trình bày ở trên có thể kết luận rằng, chính mảnh đất quê hương Nam Bộ với những làn điệu dân ca mộc mạc, niềm đam mê văn chương từ thuở ấu thơ đã góp phần hình thành tài năng của Viễn Phương. Sự trải nghiệm trong cuộc sống chiến đấu đau thương và anh dũng của dân tộc đã giúp Viễn Phương trở thành nhà thơ - chiến sĩ. 1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương của Viễn Phương Ba mươi năm cầm súng chiến đấu, Viễn Phương đã cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cách mạng. Con người ấy cũng đã dành trọn cuộc đời mình cho việc sáng tác thơ văn. Với tâm hồn nghệ sĩ, Viễn Phương đã nắm bắt chính xác những sắc thái, cung bậc của cuộc sống, và ông đã viết – viết để trả món nợ ân tình của núi sông, bạn bè, đồng chí; viết để sống thật với những xúc cảm của bản thân; và viết để góp thêm cho đời những bông hoa đầy hương sắc. Viễn Phương say mê cả hai lĩnh vực: thơ và văn xuôi. Bên cạnh những sáng tác thơ mang lại vinh quang cho ông từ những bài thơ nổi tiếng, truyện ngắn và ký của Viễn Phương cũng được đánh giá rất cao.
  13. 1.2.1. Truyện và ký của Viễn Phương Viễn Phương không viết tiểu thuyết, nhưng truyện ngắn, truyện vừa và ký của ông lại rất đặc sắc bởi đó là những chuyện người thật việc thật, những sự tích mà ông tận mắt chứng kiến. Bởi ông đã chứng kiến cảnh những anh em, đồng đội thân yêu đã ngã xuống vì nợ nước, thù nhà, Viễn Phương luôn dặn lòng gánh nợ máu xương ấy. Theo Viễn Phương, đó là sự vay trả của kiếp người. Từ những năm 1954, các truyện ngắn “Lão Triệu”, “Tình Yên Phượng”, “Bạch đầu sơn”, “Sắc lụa Trữ La”, “Hương tình ma”… đã được in trên các báo công khai tại Sài Gòn sau hiệp định Genève. Sau đó, năm 1988, được Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh tổng hợp và in thành tập truyện “Sắc lụa Trữ La”. Tập truyện ngắn này tuy chưa thật sự đặc sắc nhưng cũng đã đánh dấu sự ra đời của một cây bút yêu nước, bảo vệ hàng nội hoá, mượn cách nói bóng gió để vạch mặt sự giả dối của thực dân Pháp. Năm 1957, Viễn Phương đã xuất bản chung với Lê Vĩnh Hoà, Tiêu Kim Thủy và Ngọc Linh tập truyện ngắn mang tên “Chiếc áo thiên thanh” (Nxb Trùng Dương). Từ đó cho đến khi qua đời, Viễn Phương đã xuất bản 10 tập truyện và ký. Năm 1968, “Anh hùng mìn gạt” ra mắt bạn đọc, được tái bản nhiều lần và được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh, đánh dấu những thành công bước đầu của tác giả về thể loại truyện ký. “Anh hùng mìn gạt” là truyện về anh hùng lực lượng vũ trang Tô Văn Đực, gồm 6 chương: Đào bom nổ chậm, Con ngựa ô dưới lòng sông Sài Gòn, Cây pháo Trung Hoà góp phần sáng kiến, Mìn bom bi và bệ phóng ra đời, Bắt thằng Giônxơn làm tiếp tế, Mìn gạt tung hoành. Ở mỗi chương là những sự kiện, những kỷ niệm của những anh hùng nơi đất thép. Có mất mát, có hy sinh, có cả những giọt nước mắt tiếc thương, nhưng cả truyện luôn bừng sáng chiến công của cả đội du kích. Ngày chiến đấu, đêm hì hục chế tạo vũ khí từ những quả bom lép của địch đã giúp người anh hùng trẻ tuổi Út Đực sáng chế thành công mìn bom bi, giàn hoả tiễn (bệ phóng)…, nhưng thành công nhất là loại “mìn gạt”: Gọi là “mìn gạt” vì lẽ bất câu xe cộ hay thứ chi chi, chỉ cần gạt qua cái cành cây cắm trên đầu gạt là nó nổ cho tan tành hồn xác [124, tr.452]. Năm 1985, tập truyện ký “Quê hương địa đạo” ra đời và gây tiếng vang lớn, và được giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 và tái bản nhiều lần. “Quê hương địa đạo” dày gần 200 trang, gồm 11 truyện và ký, hầu hết nói về cuộc sống chiến đấu và sản xuất của quân dân Củ Chi. Là một người sống – chiến đấu gần suốt thời chống Mỹ ở Củ Chi, Viễn Phương xem Củ Chi là quê hương thứ hai của mình. Tình cảm, tính cách con người nơi đất thép ấy đã bổ sung rất nhiều
  14. cho vốn sống của ông. Tập sách của Viễn Phương ngồn ngộn những chất liệu sống như vừa cắt ra từ cuộc sống tươi rói của Củ Chi chiến đấu. Những chất liệu ấy, cuộc sống ấy, từ trang sách này qua trang sách khác làm người đọc xúc động, cảm mến và kính phục những người con trai, con gái, những bà má, những em bé, những cán bộ và những du kích Củ Chi can đảm, anh hùng. “Ông địa đạo” là câu chuyện kể về kỹ thuật đào địa đạo, kinh nghiệm nằm hầm, chiến đấu, đối mặt với quân thù của Viễn Phương: “Địa đạo Củ Chi lớp sụp, lớp đứt. Hầm hố hết bị chuột cống moi đến bị xe tăng ủi. Phải gấp rút đào hàng loạt địa đạo mới. Từ đó tôi phát cái nghề đào địa đạo. Địa đạo tôi đào rất tối tân. Mỗi địa đạo có bốn năm thượng, sáu bảy trầm, có nơi ngủ, nơi ăn, nơi núp chiến đấu, nơi chứa lương thực. Để tấn nắp trầm, nắm thượng, tôi đốn cây thao lao một ôm, khi cần tôi chống lên nắp hầm tấn cái nắp xuống thì một đại đội cũng không đánh bung được. Kế bên tôi còn đào sẵn một đống cát, phòng khi nó bơm hơi độc thì mình đậy nắp lại rồi đổ cát lên trên. Có địa đạo tôi cao hứng đào luôn cái giếng ở dưới. Giặc bố dài ngày, mình ở dưới địa đạo dùng bếp dầu, nấu cơm ăn luôn” [124, tr.492]. Phải nói rằng Viễn Phương là một “ông địa đạo thứ thiệt”, bởi ông lúc nào cũng xung phong ở lại cứ, nằm địa đạo chứ không chịu di chuyển ra khỏi vùng bố, bởi vì “nằm địa đạo khoẻ ru”, “còn ruồng bố, mặc kệ nó. Tôi tót xuống địa đạo rồi là êm rơ. Khoẻ thì lấy đèn cầy đọc sách báo chơi, mệt thì nằm ngủ lấy sức”. Nhưng chui địa đạo không phải là chuyện dễ, bởi không biết những kiến thức cơ bản của chiến trường là điều vô cùng nguy hiểm. “Chuyến đi cuối cùng của Lê Anh Xuân” là một bài học đau lòng. Do chưa có kinh nghiệm chiến trường, chưa quen với địa hình đất trũng của đồng bằng Nam Bộ, Lê Anh Xuân và Hồng Tân đã hy sinh ngay trong hầm địa đạo. Theo Viễn Phương, kinh nghiệm chui địa đạo vùng này thì phải: “trước tiên phải giở nắp hầm cho tan chướng khí, sau đó phải soi cho thông mấy cái lỗ hơi rồi chui thử xuống hầm đậy kín nắp lại xem có ngộp không? Nếu mọi sự đều ổn bấy giờ mới leo lên xem kỹ nắp hầm và kiểm tra cành lá ngụy trang. Mọi việc đều phải chuẩn bị hết sức chu đáo, vì lúc này một sơ suất nhỏ có thể đưa đến một tai hoạ khôn lường. Vì một khi đã xuống hầm rồi thì đẩy nắp trồi lên đâu phải là đơn giản. Xuống hầm rồi là ở vào thế hết sức bất lợi, ở vào thế hoàn toàn bị động và tách rời hẳn mọi liên hệ với mặt đất. Không nắm được tình hình bên trên mà đẩy nắp chui lên là một việc quá phiêu lưu, liều lĩnh” [124, tr.708]. Đọc những trang văn của Viễn Phương, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra tính cách, tâm hồn nhạy cảm lãng mạn của ông qua chất hiện thực trong trang viết, lối quan sát trí tuệ, giọng văn nhẹ nhàng, dí dỏm, đầy lạc quan ngay cả khi viết về hoàn cảnh ác liệt nhất của chiến tranh. “…Bỗng thằng Mỹ phát hiện ra cái lỗ châu mai nhỏ bằng cái hang dế, không biết là cái gì, nó quýnh quáng vừa la vừa lấy bàn chân đè bịt lại. Con Mơ nổ đùng một phát. Thằng Mỹ ngã cái rật. Bọn còn lại khóc rống lên ồ ồ!” [124, tr.493]. Giọng văn của Viễn Phương khá hóm hỉnh khi kể về cách đánh giặc của thanh niên nam nữ mới lớn, từ việc chiến thuật tiêu diệt địch đến việc mượn vũ khí bắn Mỹ
  15. lập công và cách trả lãi bằng số lính Mỹ bị tiêu diệt. “Bà và cháu”, “Mưa nấm mối” là những chuyện rất xúc động về những nữ thanh niên hy sinh khi đào địa đạo bị đất sụp, khi chiến đấu trong địa đạo bị Mỹ dùng chất độc hoá học đổ xuống... “Văn nghệ trong lòng địa đạo” kể chuyện anh em làm thơ, viết kịch trong địa đạo khi mấy chục ngàn quân Mỹ trong trận càn Cedar Fall đang băm nát đất Củ Chi. “Trẻ thơ An Phú”, “Tiếng chào đời giữa rừng lá đỏ”, “Mùa lúa dưới bom”, “Những ngày sống trong hố bom đìa”, “Tháng bảy mưa ngâu”... kể những chuyện sinh hoạt và chiến đấu cũng như sức sống và niềm tin mãnh liệt của quân dân Củ Chi giữa vùng trời đạn bom. Có thể nói, “Quê hương địa đạo” là một cuốn sách hướng dẫn sự tích, tình cảm con người trong tình huống gian khổ, bi hùng của mảnh đất thép thành đồng. Hơi ấm trong lòng địa đạo vẫn còn ấm mãi trong lòng những thế hệ tiếp bước và “có bao giờ các bạn đã thấy hết được chiều sâu địa đạo Củ Chi khi các bạn chưa nhìn thấy nụ cười trong sáng vô cùng của những người tuổi thanh niên đã từ giã cõi đời này trong những con đường địa đạo Củ Chi” [124, tr.487]. Hoà bình lập lại, mảnh đất miền Nam như hồi sinh, nhưng những ký ức chiến tranh vẫn còn đó, những nỗi đau thương, mất mát vẫn chưa lành thịt, vì thế ngòi bút Viễn Phương không ngơi nghỉ. Nhà văn tâm sự: “Từ sau chiến thắng 1975, tôi vẫn viết về chiến tranh. Không phải tôi quá thiếu vốn sống đời thường mà tôi thấy cuộc chiến đấu của dân tộc ta vĩ đại quá, sự hy sinh của nhân dân cao cả quá, mà những gì ta có được về mặt văn học, chưa tương xứng với tầm vóc vĩ đại của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc” [124, tr.10]. Năm 1999, tập truyện và ký “Miền sông nước” do nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành ra mắt bạn đọc. Tập truyện ký kể về những ký ức chiến tranh, đồng thời cũng là lời tri ân của nhà thơ đối với những đồng chí, đồng đội còn sống cũng như đã ngã xuống nơi tuyến lửa của mảnh đất miền Nam máu thịt. Đó là những mẩu chuyện về ông Dương Tử Giang, Thiếu Sơn (“Hát bội bến Bào”, “Hình bóng thương yêu”). Trong những ngày tháng vinh quang và gian khổ nhất, Viễn Phương đã sống có ý nghĩa và đã làm đúng theo lời trăng trối của Dương Tử Giang: “Nếu ai còn sống, sẽ sống và chiến đấu bằng cả sức mạnh của người đã chết” [124, tr.690]. Đó là những mẩu chuyện kể về việc giặc “bố xuồng”, những kỷ niệm về anh em, đồng chí bạn văn như: Ba Lý, Hoàng Anh, Lê Văn Thảo, Lê Anh Xuân, Hồng Tân… trong đợt tổng công kích Mậu Thân 1968 (“Bố xuồng”, “Văn nghệ xuống đường”, “Chuyến đi cuối cùng của Lê Anh Xuân”); kể về những tình cảm chân thành với má Sáu và nhà văn Trang Thế Hy (“Anh Tư bù tọt và bà mẹ Củ Chi”)… Những kỷ niệm đó tưởng chừng như đã “ngủ quên” trong ký ức bao người, nhưng Viễn Phương đã khơi dậy, bởi: “Có một thời mỗi bản nhạc, mỗi bài thơ, mỗi áng văn đều được làm bằng máu, những dòng máu rất tinh khiết của bạn bè đồng chí chúng ta. Thời ấy đã qua rồi, nhưng chúng ta không được quyền quên máu” [124, tr.709].
  16. Nối liền mạch ngầm tư tưởng ấy, năm 2000, Viễn Phương cho ra đời tập truyện và ký “Đá hoa cương”. Những mẩu chuyện về “Cô gái giao liên”, “Tháng ngày sôi sục”, “Một góc trời khởi nghĩa”, “Cái chết của người anh hùng”, “Khủng bố trắng”, “Tiếng hú giữa rừng Găng”, “Ông Đẳng chém đầu Tây”, “Đôi bạn”… cũng lấy chất liệu từ cuộc sống, ca ngợi tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước giết giặc của nhân dân miền Nam. Cuối đời, Viễn Phương đã để lại tập ký “Hình bóng thương yêu” (được Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn in vào năm 2005) với những kỷ niệm, tình cảm, bao điều tâm huyết của một người con miền Nam được sống, chiến đấu và và được hoà quyện xương thịt mình trong từng nắm đất quê hương. Có thể nói, những đóng góp của Viễn Phương bằng sáng tác văn xuôi đã được nhìn nhận và đánh giá cao. Các tập truyện và ký của Viễn Phương đã được tặng nhiều giải thưởng văn học cao quý: Truyện “Lòng mẹ” đạt Giải nhì cuộc thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Tập truyện ký “Quê hương địa đạo” đạt nhiều giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh; Tặng thưởng của Ủy Ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Giải thưởng Nhà nước đợt 1 năm 2001; Truyện ký “Chuyện đời má Bảy” đạt Giải nhì cuộc thi viết về Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Liên hiệp Văn học Nghệ thuật và Hội Phụ nữ thành phố tổ chức; “Văn bia Đền Tưởng niệm Bến Dược – Củ Chi” đạt Giải nhì (không có giải nhất). Theo tôi, Viễn Phương cũng xứng tầm khi đặt ngang hàng với các cây bút văn xuôi tiêu biểu của Nam Bộ, vì thế nhà thơ Chế Lan Viên trong lời tựa cho tập thơ “Phù sa quê mẹ” (Nxb Văn học, 1991), viết ngày 3-7-1988, đã đánh giá cao văn xuôi Viễn Phương: “… Trước khi ra miền Bắc, thì những năm dữ dội nhất, anh ở vùng dữ dội nhất là đất thép Củ Chi! Nhờ ở vùng này, Viễn Phương sáng tác được nhiều bài văn xuôi rất xuất sắc. Theo tôi, anh cũng là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của miền Nam. Tiếc rằng, các nhà phê bình nghĩ rằng anh là nhà thơ, nên không chú ý điểm ấy!” [124, tr.892]. Cả một đời sáng tác, trong 17 đầu sách xuất bản, Viễn Phương có tới 10 tập văn xuôi. Rõ ràng bút lực viết văn của Viễn Phương đáng khẳng định và trân trọng. Tôi cho rằng gọi ông là nhà thơ là chưa đủ, nhà văn Triệu Xuân cũng đề nghị nên gọi ông là nhà văn vì ông xứng tầm là một nhà văn. 1.2.2. Viễn Phương với thơ ca Trong hoàn cảnh cả nước dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước, nhiệm vụ của văn nghệ sĩ là phải phục vụ cho mục tiêu chung của dân tộc. Thơ ca là vũ khí tinh thần giúp người chiến sĩ vững tâm dấn thân vào thực tiễn cách mạng và kháng chiến. Chân trời
  17. thơ của Viễn Phương được mở rộng không ngừng, theo đó, cảm hứng, bút pháp cũng được bồi thêm. Những năm cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những bài thơ của Viễn Phương ra đời giàu tính chiến đấu, tư duy hoà quyện cảm xúc. Năm 1954, trường ca “Chiến thắng Hoà Bình” của Viễn Phương được xếp giải nhì giải thưởng Cửu Long Nam Bộ (một giải lớn nhất về thơ trong kháng chiến lúc bấy giờ). Đây cũng là tín hiệu về những thành công bước đầu của Viễn Phương về mảng thơ ca trữ tình. Phần thưởng ấy là một món quà vô giá đối với Viễn Phương, nó cũng là chất xúc tác mạnh mẽ giúp Viễn Phương định hướng con đường sáng tác của mình. 7 tập thơ là một thành quả đáng trân trọng và không thể phủ nhận của một con người suốt cuộc đời luôn miệt mài vì lẽ sống, tình thương. Trong hai cuộc kháng chiến, Viễn Phương luôn tự hào được giữ vai trò sứ mệnh lịch sử, thực hiện sứ mệnh vinh quang là một nhà thơ - chiến sĩ. Bên cạnh những người mẹ, người chị, người anh du kích, thì hình tượng Bác Hồ cũng được tác giả khắc hoạ với tình cảm trân trọng, kính yêu. Có bài tác giả viết khi bị địch giam cầm ở các trại giam Phú Lợi, Lê Văn Duyệt. Không có giấy bút, Viễn Phương sáng tác thầm trong đầu và đọc cho các đồng chí cùng khám nghe. Kỳ diệu thay, Viễn Phương chỉ đọc một vài lần, mọi người đều thuộc. Rồi những khi bị địch bắt đi lao động, họ lại đọc cho bạn tù ở khám khác nghe. Cứ vậy, thơ Viễn Phương được lan truyền trong nhà tù, thậm chí còn bay ra tận chuồng cọp nơi Côn Đảo. Bài thơ “Chúc thọ trong tù” là một minh chứng. Kể về những kỷ niệm khó quên nơi chốn lao tù, Giáo sư Lê Quang Vịnh (nguyên trưởng ban Tôn giáo trung ương) đã kể về những dòng thơ được khắc trên vôi bằng cái xương cá mắm, có những chữ viết bằng máu, có những chữ viết bằng than chi chít trên vách nhà lao. Cha già ơi Hôm nay mười chín tháng năm Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu Con đang chúc thọ trong tù Con đang dựng một rừng cờ trong tim Đêm nay mộng hoá thành chim Bay qua lưới sắt con tìm đến cha. Ai cũng nghĩ rằng tác giả bài thơ này đã hy sinh. Nhưng trong một lần, tình cờ được gặp và đọc cả bài thơ do GS. Lê Quang Vịnh viết lại, Viễn Phương đã nhận ra đó là bài “Chúc thọ trong tù” được ông sáng tác trong ngục Phú Lợi, nhân ngày 19 tháng 5 năm 1960, để mừng sinh nhật Bác. Viễn Phương đã rất xúc động vì bài thơ đã mang lại niềm tin, sự an ủi cho bạn bè, đồng chí trong những giờ phút đau thương và tuyệt vọng nhất. Và nhà thơ cũng xem đây là “phần thưởng cao quý nhất khi thấy thơ mình thật có ích cho đời” [89].
  18. Trong số những bài thơ hay nhất của Viễn Phương có những bài thơ viết về Bác Hồ. Bên cạnh bài “Chúc thọ trong tù” là bài “Viếng lăng Bác”. Mùa xuân năm 1976 lần đầu tiên ông được ra Bắc. Cũng như nhiều người dân Nam Bộ khác, ra Hà Nội vào lăng viếng Bác là nguyện vọng thiêng liêng của ông. Với tấm lòng của đứa con miền Nam đối với Bác, cùng với những xúc động chân thành, bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời và nhanh chóng đi vào lòng bạn đọc. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp tâm sự: “Tôi và anh Viễn Phương rất thân thiết với nhau, anh lớn hơn tôi vài tuổi. Ca khúc “Viếng lăng Bác” chính là một dấu son đậm đà để tình bạn của chúng tôi thêm thăng hoa. Năm 1976, chúng tôi cùng ra họp ở Hà Nội, cùng vào viếng Bác. Lúc về, cả hai rất xúc động, tự hứa với mình sẽ làm điều gì đó. Về lại miền Nam, anh Viễn Phương đã làm bài thơ “Viếng lăng Bác”. Sau đó vài tháng, tôi phổ nhạc cho bài thơ này. Đây cũng là ca khúc nằm trong chùm sáng tác giúp tôi nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Viễn Phương là người đầu tiên nghe bài hát này, anh rất xúc động. Tôi có sửa một vài từ trong bài thơ của anh nên tôi rất cảm động khi anh hoàn toàn không phiền trách gì”. Đọc Viễn Phương, người đọc thêm thấu hiểu tấm lòng son sắt của ông với đất nước, nhân dân và Bác Hồ kính yêu. Những trang viết của ông là những trang thơ, văn ra đời trong bão táp của cuộc chiến tranh trên một vùng đất dữ dội nhất trong những năm tháng dữ dội nhất. Nó được viết nên không chỉ bằng mực mà còn bằng cả nước mắt và máu. Hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, bom pháo suốt ngày đêm, giặc ruồng bố thường xuyên, biệt kích Mỹ sớm khuya rình rập, cái chết không thể lường trước, khiến con người dễ bi luỵ, nản lòng trước những khó khăn, nhưng chính tinh thần lạc quan trước những gian nan thử thách lại là tinh chất giúp Viễn Phương và đồng đội giữ vững lòng tin vào một ngày mai tất thắng. Xuân 1965, những ngày bị giặc chặn đường bên bờ Cửu Long, không thể vượt sông, Viễn Phương đã “nằm chờ” và “Đám cưới giữa mùa xuân” ra đời. Đây là lá thư tình của anh chiến sĩ giải phóng quân gửi về người yêu ở hậu phương với bao nỗi nhớ nhung và khẳng định niềm tin tất thắng “hát bài ca giải phóng” ngay trên “thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ ánh sao vàng”, để sau đó “tiếng súng vừa im, cử hành lễ cưới/ Giữa mùa xuân chiến thắng của quê mình…”. Bài thơ là chất xúc tác cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên toàn quốc. “Đám cưới giữa mùa xuân” đã được giải thưởng văn nghệ Đồ Chiểu lần đầu tiên cùng với bài “Quê hương” của Giang Nam, và đã được chọn giới thiệu trong buổi lễ ra mắt tác phẩm đạt giải ở Hà Nội và ở Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan Viên đã chú ý đến tác giả của bài “Đám cưới giữa mùa xuân”, bởi: “Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt như thế mà thơ Viễn Phương lại làm thơ tình “Đám cưới giữa mùa xuân”. Và các bài thơ khác của anh là thơ chiến đấu, song cũng là thơ tình vì bao giờ cũng thấm đượm một hương vị dịu ngọt của tình yêu thương đối với quê hương, đồng bào, đồng đội, đồng chí.
  19. Tình yêu thương đó là cái nền, cái hồn của mọi bài thơ đấu tranh dù quyết liệt nhất của anh” [124, tr.903]. “Đám cưới giữa mùa xuân” tuy được bạn đọc trẻ yêu thích, song Viễn Phương không xem đó là cái “ngưỡng” của quá trình sáng tác. Điều này càng giúp chúng ta nhìn nhận ông là một con người rất đỗi khiêm tốn và đầy nghị lực. Không hài lòng đối với bản thân, Viễn Phương cũng không xem đứa con tinh thần “Đám cưới giữa mùa xuân” là tác phẩm ưng ý nhất. Trong quyển sổ thơ nhật ký của mình, Viễn Phương đã bộc bạch: “Nhiều người đã hỏi tôi có phải đây là tác phẩm ưng ý nhất? Không đâu! Tôi chưa có được tác phẩm nào ưng ý nhất cả. Và biết bao giờ mới có được đây?” [89]. Viễn Phương đã chiến đấu và sáng tác trong những điều kiện khó khăn và khốc liệt nhất của chiến tranh. Tại vùng đất khốc liệt Củ Chi, xe tăng, bom, mìn ngày đêm giội xuống đầu, “giặc ủi lần đầu cách miệng địa đạo khoảng năm tấc, giặc ủi lần sau sụp khúc địa đạo ấy luôn” [89], song tứ thơ và mạch thơ của ông lúc nào cũng tuôn chảy. Mỗi bài thơ của ông gắn với những kỷ niệm, chiến công, niềm vui, nỗi buồn, những tổn thất, mất mát, hy sinh của nhân dân, đồng đội. Năm 1966, trong trận đọ sức đầu tiên giữa đồng bào, du kích Củ Chi với hơn 8000 giặc Mỹ, Viễn Phương bị kẹt trong vòng vây địa đạo An Phú. “Hãy đến quê tôi” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh đó: “Đây là trận càn ác liệt đầu tiên của giặc Mỹ ở Củ Chi. Tôi cùng anh em văn nghệ bị kẹt trong vòng vây ở địa đạo An Phú. Anh Tư Hoan (Tư ốm) đã cho người vượt vòng bom pháo đến móc tôi ra và đến ở Đường Long” [89]. “Hãy đến quê tôi: Củ Chi anh dũng”, “Hãy đến quê tôi: Củ Chi bất khuất”, là một lời khẳng định, tự hào về vùng đất thép thành đồng: “Con rủ cha xung phong vào du kích”, “Vợ hối chồng nung lửa đỏ rèn chông”, “Đất bỗng nổ tung, rừng vang tiếng thét”, “Ta đánh giặc đêm ngày không ngơi nghỉ”… Biết bao căm hờn nung nấu khi máu đồng bào, đồng chí đã đổ xuống. Giọng thơ hừng hực khí thế đấu tranh càng khích lệ tinh thần chiến đấu và nhiệt huyết của anh em chiến sĩ. Năm 1967, trong trận càn Cadar Fall “bốc vỏ quả đất” ác liệt, với hơn 45000 lính Mỹ đổ quân bên hai bờ sông Sài Gòn, Viễn Phương bị kẹt 22 ngày trong địa đạo Phú Hòa Đông. Những ngày nằm trong địa đạo, Viễn Phương vẫn tranh thủ sáng tác cho số báo Xuân Ngọn cờ Gia Định, và “Người yêu dũng sĩ” ra đời ngay trong hầm địa đạo: “Trận càn càn Cadar Fall với hơn 45000 giặc Mỹ trên một địa bàn vài xã hai bên bờ sông Sài Gòn. Tôi bị kẹt trong địa đạo Phú Hoà Đông với anh chị em đoàn văn công xung kích R. Trận càn lớn này bắt đầu từ sau Noel thế nên chui vào địa đạo anh chị em văn công vẫn tiếp tục chuẩn bị tiết mục Tết và tôi tranh thủ làm bài thơ này cho số báo Xuân Ngọn cờ Gia Định” [89]. Đây là mơ ước chân thành, giản dị của cô gái “người yêu dũng sĩ”: “Dạy cỏ hoa biết cầm vũ khí”, “Dạy làm người cho lũ sói dã man”, “Bình thản ra quân như cô giáo đến trường”… và “Hẹn cùng nhau một ngày thống nhất” với “Hai quả tim hồng giữ
  20. hạnh phúc quê hương”. Mơ ước ấy luôn là nỗi khát khao, cháy bỏng của mỗi người dân Việt khi đang cầm súng giết giặc gìn giữ hạnh phúc cho quê hương. Cùng một khoảng không gian như thế, “Chất ngọc quê hương” cũng được Viễn Phương viết trong trận càn Manhattan khi ông bị kẹt trong hầm bí mật Đường Long một tuần lễ: “Giặc đi trên đầu, mình ở dưới đất. Sáng mình xuống hầm sớm. Độ 7 giờ nó bắn súng “dậy vùng” rồi vào lục soát. Chiều độ 4 giờ nó rút ra trảng, mình lên lo nấu và vắt cơm. Cứ như vậy mà quầng với nó trên tuần lễ…” [89]. “Chất ngọc quê hương” được kết tinh từ ý chí, xương máu của nhân dân, đồng đội. Đó là những cái chết làm nên sự sống: “Hai chân gãy tay ôm thủ pháo/ Trườn mình lên đánh nát xe tăng/ Thân đã chết, hồn say chiến đấu/ Xác cứng, tay còn siết cổ địch quân/…Tay bị thương chặt tay mà đuổi giặc”, chính những người lính ấy đã viết nên bản anh hùng ca bất tử “Bản anh hùng tiếng hát vọng ngàn xa”. Qua đó, có thể khẳng định rằng, những bài thơ của Viễn Phương ra đời trong hầm địa đạo hay sau một trận càn đều mang đến cho chúng ta những cảm xúc khó phai. Bởi chính nhà thơ là người trong cuộc, người chứng kiến biết bao sự hy sinh của đồng bào, đồng chí, nhưng vượt lên trên hết là “tinh thần thép” của chính nhà thơ với một trái tim luôn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Những dòng thơ ấy là minh chứng cho một con người sống trong gian khó, hiểm nguy luôn rình rập, cái chết có thể đến trong gang tấc nhưng con người ấy luôn vượt qua bao nỗi sợ hãi, không nhụt chí trước kẻ thù. Viễn Phương từng được mệnh danh là “ông địa đạo”, vì kỹ thuật đào địa đạo và kinh nghiệm nằm địa đạo của ông. Kinh nghiệm xương máu ấy cũng đã giúp cho ông xem địa đạo trong lòng đất sâu hun hút kia là nhà, là nơi làm việc và là nơi truyền cảm hứng, tinh thần lạc quan của mình cho đồng đội, đồng bào. Có lần Viễn Phương đã tâm sự với nhà văn Tô Hoài: “Không phải tôi dũng cảm, cũng không phải tôi nhát sợ, bạo hay hèn cũng chẳng được, mà ở trong lòng đất đã quen rồi” [35]. Câu nói rất đỗi nhẹ nhàng, nhưng cái quen ấy chính là cái quyết tâm, là tính cách của con người. Bằng kinh nghiệm sống và bằng phẩm chất tâm hồn của riêng mình, Viễn Phương đã đem đến cho bạn đọc, đặc biệt là giới trẻ, nhân dân lao động sự khích lệ và nhiệt huyết chiến đấu. “Mắt sáng học trò” kể về đợt tổng công kích lần II với khí thế hào hùng của quân ta: Em vẫn thức, lửa tim chờ lửa súng/ Chiếc áo trắng em đưa anh lau súng/ Mắt em đã ngời lên, anh thấy màu xanh của lửa/ Công sự chúng mình nở hoa chiến thắng/ Nghe hơi thở dập dồn trên gạch vỡ/ Buổi quân về hột cát cũng hồi sinh/ Giặc muốn chặn mùa xuân bằng thiết giáp/ Nhưng muôn tim mở lối đón quân về… Những thành công vang dội ấy không chỉ có “sức quân giải phóng” mà còn “có cả lòng dân và… mắt sáng học trò”. Bài thơ đã khẳng định tư thế đấu tranh của cả dân tộc, và được anh chị em học sinh, sinh viên yêu thích. Tác giả rất tự hào về điều này: “Đây là một khích lệ cho người sáng tác. Thương yêu các anh chị em học sinh sinh viên nhưng hãy nghĩ nhiều về đại đa số nhân dân lao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2