intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

72
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh nêu lên một cách nhìn chung về Dostoievski và Nhất Linh, dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng dựa trên kết cấu và cốt truyện cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH Huỳnh Thị Phượng Cầm DẤU ẤN TIỂU THUYẾT DOSTOIEVSKI TRONG BƯỚM TRẮNG CỦA NHẤT LINH Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ: Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Trường THPT Hòa Bình, quý Thầy Cô, bạn bè và người thân. Tôi xin chân thành cảm ơn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với TS. Phạm Thị Phương, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này.
  3. MỞ ĐẦU 0. 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Dostoievski là nhà văn vĩ đại của văn học Nga và văn học thế giới, chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật trong các tiểu thuyết của ông là nguồn mạch lớn cơ hồ khai thác mãi vẫn không vơi cạn. Nghệ thuật tiểu thuyết Dostoievski ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà văn Tây Âu từ cuối thế kỉ XIX, qua đó ảnh hưởng đến các nhà văn Tây học của Việt Nam chúng ta ở đầu thế kỉ XX, trong đó có Nhất Linh. Từ đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam đã có những bông hoa đầu mùa như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, nhưng những sáng tác ấy chỉ mới so với thời trung đại. Nhìn chung, tiểu thuyết trước Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp cho bước đầu hiện đại hoá văn học Việt Nam, nhưng phải đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì sự hiện đại hóa, chín muồi về mặt thể loại mới thật sự được khẳng định. Nhất Linh là người thành lập Tự lực văn đoàn sau thời gian ông ở Pháp về. Ông là cây bút vững vàng, có nhiều tìm tòi sáng tạo về nghệ thuật, thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết Bướm trắng (1941). Trước hết, về nội dung tư tưởng, nó không giống như phần nhiều tiểu thuyết của ông, mà đã, theo Bùi Xuân Bào, “từ bỏ dứt khoát ở đấy công thức của tiểu thuyết có luận đề” [5; 346]. Đáng lưu ý hơn, Bướm trắng còn được coi là trường hợp thoát thai đặc biệt về kĩ thuật, vì chẳng những trước, mà cả sau nó, Nhất Linh không bao giờ có lối viết như thế. Tác phẩm quả là một dấu mốc lớn trên con đường học tập và thể nghiệm “những phương pháp Thái Tây” như lời tuyên ngôn của Tự lực văn đoàn. Tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam là mối quan tâm của chúng tôi. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có đóng góp lớn vào tiến trình ấy, các thành viên trong văn đoàn này có ý thức cao trong việc học tập phương pháp sáng tác của văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm khẳng định chắc chắn hơn việc tìm tòi học hỏi và sáng tạo của nhà văn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam, cụ thể là ở tiểu thuyết Bướm trắng. Ảnh hưởng văn học là một hiện tượng hết sức phổ biến, thậm chí được coi là một trong những khâu quan trọng của tiến trình văn học, nhưng xác định những nhân tố ảnh hưởng – chịu ảnh hưởng không phải là đơn giản. Mặt khác, các nhà văn, nhà thơ giai đoạn 1930 – 1945 thường chịu ảnh hưởng cùng lúc nhiều nhà văn, nhà thơ nước ngoài, như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam có viết: “Mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Là thủ lĩnh của một văn đoàn chủ trương đổi mới văn học nước nhà theo hướng hiện đại, nhà trí thức Tây học Nhất Linh không thể không “bắt chước” những đại diện lỗi lạc của dòng
  4. văn học hiện đại phương Tây, trong đó có Dostoievski. Nhiều ý kiến có trọng lượng quả quyết rằng Bướm trắng của Nhất Linh chịu ảnh hưởng Dostoievski khá rõ. Và bản thân Nhất Linh không dưới một lần nhắc đến kĩ thuật viết của nhà văn Nga vĩ đại với một lòng ngưỡng vọng. Đến với đề tài này, chúng tôi sẽ tìm hiểu Bướm trắng có những dấu ấn nào của tiểu thuyết Dostoievski, mà chủ yếu là về mặt nghệ thuật. Chúng tôi nhận thấy sự học tập Dostoievski của Nhất Linh không phải là một việc sao chép lộ liễu. Nếu chỉ nhìn vào nội dung cốt truyện, sẽ khó tìm thấy sự tương đồng hoàn toàn nào ở hai nhà văn, nhưng xét từ góc độ nghệ thuật trần thuật, xây dựng hình tượng,… thì thấy có nhiều điều gặp gỡ thú vị. Nhưng ngay cả những điều gặp gỡ này cũng không phải dễ nhận diện. Tiểu thuyết Bướm trắng sẽ không tồn tại trong lòng người đọc cho đến hôm nay, nếu tác giả của nó bắt chước thô thiển lối văn người khác, dù người đó là một đại văn hào. Với một lối trình diện mới lạ, nó vẫn mang đậm bản sắc dân tộc, cho thấy “thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam. Những sự mô phỏng ngu muội lập tức bị đào thải” [77, tr.33]. Đi sâu phân tích tìm hiểu một tác phẩm văn học còn chưa có nhiều người đào xới là cách để giáo viên dạy văn có thể rèn luyện khả năng phân tích và cảm thụ tác phẩm văn học một cách độc lập. Chúng tôi hi vọng có thể đạt được điều ấy khi chọn đề tài này. 0.2. Lịch sử vấn đề Chúng tôi nhìn lịch sử vấn đề ở hai cấp độ. Nếu xét trên phạm vi rộng, tức là những nghiên cứu về tiểu thuyết của Dostoievski và của Nhất Linh nói chung, thì chúng tôi nhận thấy có một khối lượng tài liệu phong phú và bề bộn. Sau đây chỉ xin nêu một vài công trình nổi bật. Về Dostoievski, chúng tôi chú ý tới những công trình như: Những vấn đề thi pháp của Dostoievski – Bakhtin (bản dịch của Trần Đình Sử và bản dịch của Phạm Vĩnh Cư); Ba bậc thầy Dostoievski, Balzac, Dikens – Stefan Zweig; Dostoievski – cuộc đời và sự nghiệp – L. Grossman,… Ngoài ra còn có những bài viết của M. Khrapchenko, I. Volgin, V. Bogdanov, T. Mizanishkova, Irving Howe, I. Volodina, J. Simons, D. Granin, André Gide, Nguyễn Tuân,… được sưu tầm trong quyển Dostoievski, những tiếp cận từ nhiều phía do Lê Sơn chủ biên. Về tiểu thuyết Nhất Linh, chúng tôi đặc biệt lưu tâm tới những bài nghiên cứu, ý kiến phát biểu có trọng lượng của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Bùi Xuân Bào, Phạm Thế Ngũ, Huy Cận, Tô Hoài, Tế Hanh, Bùi Hiển, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Ngọc, Vũ Tú Nam, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Bạch Năng Thi, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Đức Dục,… trong công trình Tự lực văn đoàn, trào lưu – tác giả do Hà Minh Đức khảo luận và tuyển chọn. Ngoài ra còn một số công trình của các tác giả trong và ngoài nước khác cũng rất đáng lưu ý, như Vu Gia với công trình Nhất Linh trong tiến trình hiện đại văn học, Huỳnh Phan Anh, Vũ Hoàng Chương, Trần
  5. Văn Bang, Vũ Bằng với Hoài niệm về Nhất Linh, Võ Phiến với Đọc lại Nhất Linh, Thụy Khê với Nỗi đau hiện sinh trong Bướm trắng,… Giới làm luận văn, luận án gần đây cũng quan tâm nhiều hơn đến đề tài về Nhất Linh: Luận án TS Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn (2001) của Dương Thị Hương, luận văn Thạc sĩ Nho phong – Đoạn tuyệt – Bướm trắng trong hành trình tiểu thuyết Nhất Linh (2006) của Phạm Thị Phận, luận văn Thạc sĩ Tiểu thuyết Nhất Linh trong và sau Tự lực văn đoàn (2008) của Nguyễn Thị Hoàng Mai,… Khối lượng tài liệu trên cung cấp khá nhiều thông tin để chúng tôi tiếp cận đối tượng nghiên cứu của mình, tuy nhiên, không có công trình nào trong số đó đặt vấn đề chính thức khảo sát sự ảnh hưởng của Dostoievski đối với Nhất Linh. Nếu xét trong phạm vi hẹp, liên quan trực tiếp đến đề tài chúng tôi nghiên cứu (Dấu ấn Dostoievski trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh), thì các tư liệu tìm được rất ít. Trong đó, chủ yếu là những lời đánh giá, so sánh tạt ngang, ít đi sâu vào chứng minh cụ thể. Chúng tôi chú ý đến những bài nghiên cứu, những ý kiến sau đây: Trong bài viết Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng (tủ sách Nhân văn xã hội, Sài Gòn, 1972), Bùi Xuân Bào dừng lại phân tích khá sâu tác phẩm Bướm trắng và đánh giá: “Chưa bao giờ những người đi trước hoặc đồng thời với Nhất Linh lại đẩy xa đến thế việc phân tích một tấn bi kịch lương tâm” [5, tr. 347], “Nhất Linh đi rất xa chẳng những ở tâm lí yêu đương, mà cả trong việc miêu tả tâm hồn con người nói chung” [5, tr. 349]. Tiếp đó, ông khẳng định có mối liên hệ về nghệ thuật của Bướm trắng với tiểu thuyết của Dostoievski, khi cho rằng Nhất Linh đã: chạm đến những xu hướng, những sự vận động tiềm thức của tâm hồn, hình thức trần thuật, mà ông sử dụng ưu tiên và tài giỏi, độc thoại nội tâm, không phải lối độc thoại được sử dụng bởi các bậc thầy hiện đại của nội quan, như Proust và Joyce, những người thích phân tích chi ly thông lượng bên trong, mà đúng hơn là thứ độc thoại mà Dostoievski đã sử dụng [5, tr. 350]. Ở công trình Văn học lãng mạn Việt Nam (1997), Phan Cự Đệ cũng chỉ ra sự chịu ảnh hưởng của Nhất Linh từ Dostoievski: “Vào thời kì cuối của văn học lãng mạn, ngoài ảnh hưởng của Gide, trong tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng, ta còn nhận ra ảnh hưởng của Anatole France, Dostoievski, Nietzsche” [28, tr. 277] . Và ông tìm thấy được “một ít dấu vết của Tội ác và hình phạt của Dostoievski trong Bướm trắng của Nhất Linh” [ 28, tr.277]. Trong một bài viết về tiểu thuyết Nhất Linh (1999) ông Đỗ Đức Hiểu đã phân tích sâu hơn tiểu thuyết Bướm trắng, khẳng định đây là một bước ngoặt trong sáng tác của Nhất Linh. Về kĩ thuật, ông cho rằng Bướm trắng chứa đựng những yếu tố phương Tây, như trong nghệ thuật
  6. tiểu thuyết của Stendhal, Flaubert, Dostoievski, đồng thời chứa đựng màu sắc, tâm hồn phương Đông. Về hình tượng nhân vật, ông cho rằng Trương là kiểu nhân vật trong Tội ác và trừng phạt của Dostoievski, không có tính cách định hình sẵn, nhà văn để ngòi bút “phiêu lưu” vào “thế giới bên trong” của nhân vật. Tác giả viết: “Nhất Linh đi tới vùng ẩn giấu của tâm linh con người” [39, tr. 559], “nhà văn sử dụng cả phân tích tâm lí, cả bản năng, cả linh cảm, tiềm thức, vô thức, nhà văn pha trộn quá khứ, hiện tại, tương lai trong một phút giây” [39, tr. 558]. Phạm Thị Phương, trong luận án tiến sĩ Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam (2002), cũng nhận xét: “Chịu ảnh hưởng Dostoievski một cách rõ rệt nhất trong văn học Việt Nam thuộc về nhà văn Nhất Linh” [71, tr. 47], và khẳng định điều đó bằng việc đối chiếu Bướm trắng với tác phẩm của Dostoievski. Tác giả luận án cho rằng nhân vật Trương là sự pha trộn giữa nhân vật Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt với nhân vật Dmit’ri Karamazov trong Anh em nhà Karamazov, là “kiểu nhân vật đặc trưng của Dostoievski đang bị đẩy đến cái lằn rạch mong manh giữa cái ác tiềm ẩn muốn bùng nổ và hoài niệm muôn đời về cái thiện” [71, tr. 49]. Phát triển quan điểm trên, chúng tôi cũng cho rằng Nhất Linh còn ảnh hưởng Dostoievski trong việc xây dựng nhân vật: ông không định sẵn tính cách cho nhân vật, đẩy nhân vật vào ngay tình huống kịch tính để nhân vật bộc lộ tính cách; tâm lí nhân vật có sự chuyển biến phức tạp, hòa trộn giữa ý thức và vô thức, cái có lí và cái phi lí, hiện thực và giấc mơ. Và đó cũng chính là những luận điểm chúng tôi sẽ triển khai trong luận văn này. Tóm lại, tuy chưa có công trình chuyên sâu nào so sánh cụ thể Bướm trắng với tác phẩm của Dostoievski, nhưng dấu ấn của tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định. Những ý kiến khẳng định mang tính định hướng ấy là một lối mở để chúng tôi có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu vấn đề hơn. 0. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng mà chúng tôi tập trung nghiên cứu là tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh trong sự đối chiếu với một số tác phẩm tiêu biểu của Dostoevski, mà chủ yếu là hai tác phẩm Tội ác và hình phạt và Anh em nhà Karamazov. Đề tài được chúng tôi khuôn vào một phạm vi nghiên cứu cụ thể: Dấu ấn Dostoievski trong tiểu thuyết Bướm trắng của Nhất Linh. Mục tiêu chủ yếu của công trình sẽ là đi sâu phân tích tiểu thuyết Bướm trắng để thấy sự chịu ảnh hưởng tích cực của Nhất Linh từ Dostoievski. Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến nghệ thuật xây dựng nhân vật và những đặc điểm về kết cấu - cốt truyện của tác phẩm. 0. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng, những ảnh hưởng của Nhất Linh từ Dostoievski về nghệ thuật viết tiểu thuyết; đồng thời thấy
  7. được những nét khác biệt, những sáng tạo của ông trong tiểu thuyết Bướm trắng về kết cấu – cốt truyện cũng như về xây dựng nhân vật. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả và thực chứng được chúng tôi sử dụng để lí giải tính xã hội trong tâm lí, tâm trạng nhân vật Trương, cũng là tâm trạng chung của một thế hệ thanh niên lạc lõng những năm trước Cách mạng tháng Tám, trong đó có Nhất Linh. Bên cạnh đó, tìm hiểu quan niệm tiếp thu văn học phương Tây để đổi mới văn học nước nhà của ông cũng có ý nghĩa lớn trong việc đi tìm dấu ấn nghệ thuật tiểu thuyết Dostoievsk trong Bướm trắng. Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống để có một cái nhìn tổng quan và xác định vị trí của tác phẩm Bướm trắng trong lịch sử văn học Việt Nam, những đóng góp của Nhất Linh trong việc hiện đại hóa tiểu thuyết nước nhà trên tinh thần học tập văn học phương Tây, mà cụ thể là tiểu thuyết Dostoievski. Sử dụng các thao tác phân tích - tổng hợp, thống kê, chứng minh,… chúng tôi có thể đi sâu vào các tác phẩm để có những cơ sở thuyết phục cho đề tài của mình. 0.5. Đóng góp của luận văn Khi chọn đề tài với phạm vi nghiên cứu hẹp này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần chứng minh cụ thể hơn sự chịu ảnh hưởng tích cực của Nhất Linh từ tiểu thuyết Dostoievski. Khảo sát vấn đề này, chúng tôi đã phân tích khá sâu một số bình diện quan trọng của tiểu thuyết Bướm trắng theo hướng tiếp cận một tiểu thuyết hiện đại. Mặc dù Bướm trắng được nhiều nhà phê bình văn học đánh giá là một đỉnh cao trong nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930-1945, nhưng theo chúng tôi được biết thì chưa có công trình nào đi sâu phân tích nghiên cứu riêng tác phẩm này. Với luận văn của mình, chúng tôi muốn góp tiếng nói khiêm nhường một lần nữa khẳng định vị trí tiên phong của Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò quyết định của văn học phương Tây đối với những nhà cách tân ưu tú thời kì gia tốc 1930 – 1945. 0.6. Bố cục của luận văn Luận văn gồm 80 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (2 trang), nội dung luận văn được triển khai trong ba chương: - Chương 1 – Một cách nhìn chung về Dostoievski và Nhất Linh (21 trang): là chương Tổng quan, nhằm giới thuyết về những đối tượng trực tiếp của đề tài: Dostoievski với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, Nhất Linh và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Chương này khẳng định có sự tiếp nhận và ảnh hưởng tiểu thuyết Dostoievski trong sáng tác của Nhất Linh, giúp chúng tôi có căn cứ để triển khai tiếp các chương sau. - Trong chương 2 – Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng – Kết cấu và cốt
  8. truyện (24 ttrang) – trên cơ sở của chương Tổng quan, chúng tôi đi vào vấn đề chính thứ nhất của luận văn: Xác định dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng, về mặt kết cấu và cốt truyện. Đây là một trong những yếu tố dễ nhận biết nhất khi đi xem xét ảnh hưởng văn học. Làm rõ điều này sẽ tạo điều kiện để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật – một phương diện quan trọng khác của thi pháp tiểu thuyết hiện đại. - Ở chương 3 – Dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng – Nghệ thuật xây dựng nhân vật (23 trang) – cùng với chương 2, chương này giải quyết vấn đề trọng tâm của luận văn: Xác định dấu ấn tiểu thuyết Dostoievski trong Bướm trắng, về phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hai chương này nhằm khẳng định những cơ sở của chương Tổng quan là hợp lí để mở ra hướng nghiên cứu của chúng tôi.
  9. Chương 1 TỔNG QUAN: MỘT CÁCH NHÌN CHUNG VỀ DOSTOIEVSKI VÀ NHẤT LINH 1.1. Từ tiểu thuyết Dostoievski đến tiểu thuyết hiện đại Việt Nam 1.1.1. Dostoievski và tiểu thuyết thế kỉ XIX Dostoievski (1821 – 1881) là nhà văn lớn của nước Nga thế kỉ XIX, được M. Gorki đánh giá: “là một thiên tài không thể phủ nhận được; với sức biểu hiện như vậy, chỉ có Shakespeare mới có thể đặt ngang hàng được". Ông là một đỉnh cao của văn học thế giới, nói như Nguyễn Tuân, là đỉnh núi cao khuất lấp trong sương mù, nhưng càng đến gần thì người ta càng sửng sốt và ngưỡng mộ bởi sự hùng vĩ và kì bí của nó. Lời nhận định của nhà văn Việt Nam Nguyễn Tuân cũng chính là ý tưởng của văn hào Pháp André Gide khi đặt Dostoievski cao hơn ngọn núi L. Tolstoi, coi Dostoievski như “đỉnh cao còn bị che khuuất một nửa, cái khuyên bí ẩn của sợi dây xích; một vài dòng sông rộng lượng bắt nguồn từ nơi đó, nơi mà những khát vọng mới của châu Âu ngày nay có thể giải khát” [34]. André Gide là nhà văn đương thời với Nguyễn Tuân và Nhất Linh, có tầm ảnh hưởng lớn đối với thế hệ trí thức tiền chiến Việt Nam. Ý kiến của ông không ít khi trở thành định hướng cho giới cầm bút lúc bấy giờ. Vậy Dostoievski đã có gì cuốn hút họ? – chính là chủ nghĩa hiện thực, một chủ nghĩa hiện thực mới. Tiểu thuyết thế kỉ XIX phát triển mạnh mẽ, sôi động, đạt được nhiều thành tựu lớn, trong đó trào lưu hiện thực chủ nghĩa phát triển ở quy mô toàn thế giới, nổi bật nhất là tiểu thuyết của Pháp, Anh, Nga. Các nhà tiểu thuyết lớn đầu và giữa thế kỉ XIX như Dickens, Balzac,… chú ý vào việc nhận thức, phân tích, cắt nghĩa, lí giải về con người và xã hội, đi tìm tính quy luật xã hội, tâm lí, sinh lí. Tiểu thuyết hiện thực phê phán của Balzac đã khắc họa sinh động những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, bức tranh xã hội tư sản được soi chiếu ở những vùng tăm tối, dơ bẩn nhất từ những bi kịch cá nhân. Sau Balzac, chủ nghĩa hiện thực ở châu Âu đi vào thoái trào, may thay, văn học Nga lúc này bắt kịp văn học châu Âu và tiến xa hơn nữa vào chiều sâu của hiện thực cuộc sống. L. Tolstoi là nhà văn đầu tiên tái hiện được biện chứng của tâm hồn, miêu tả đời sống bên trong nhân vật như một quá trình tự vận động. Độc thoại nội tâm được ông sử dụng như là một phương thức hữu hiệu để khám phá những suy tư, trăn trở, day dứt, những đắn đo, mưu tính,… đầy phức tạp bên trong con người. Mức độ trần thuật của L. Tolstoi có tính bao quát, rộng lớn đạt đến tầm vóc sử thi. So với một số bậc vĩ nhân của thế kỉ XIX như A. Puskin, N. Gogol, L. Tolstoi,…
  10. Dostoievski đến với văn học ít nhiều muộn hơn vì thế sinh mệnh nghệ thuật của ông ngặt nghèo hơn, bởi ông không thể nào lặp lại những thành tựu sáng chói phía trước cũng như không thể tiếp tục con đường đã bắt đầu mòn của chủ nghĩa hiện thực Nga lúc ấy. Tái hiện hiện thực như nó vốn có, như có thể quan sát được bằng mắt thường đã bắt đầu không còn thuyết phục được người đọc. Khơi sâu mạch nguồn Gogol, chủ nghĩa hiện thực của Dostoievski đi vào chiều sâu tâm hồn con người, hiện thực chạm đến lằn ranh của hư ảo, hiện thực gắn với trực giác, đi đến tiềm thức, vô thức, giấc mơ, mê sảng, điên loạn. Ông đưa con người, cuộc sống đến những hoàn cảnh bất thường, nâng những cảnh nhỏ hẹp của đời sống riêng tư đến những cảnh khái quát mang tính nhân thế, sự khủng hoảng tinh thần của cá nhân thành sự khủng hoảng tinh thần nhân loại để đưa con người đến câu hỏi lớn về vấn đề tồn tại và ý thức. Để tái dựng hiện thực nội tâm ấy, nhà văn cần những phương thức khác, một tiếng nói cất lên kiểu khác, được thể nghiệm bằng một kiểu tiểu thuyết mới – tiểu thuyết phức điệu. Theo Bakhtin, nhà Dostoievski học lỗi lạc, Dostoievski là người sáng tạo ra tiểu thuyết đa thanh, phức điệu, còn trước ông chỉ là những tiểu thuyết đơn thanh. Trong tiểu thuyết đơn thanh, nhà văn là người biết hết mọi sự về nhân vật dựa vào những dấu hiệu như hoàn cảnh, tính cách, khí chất, tâm lí,…Nhân vật chỉ như một hình nộm ngoan ngoãn vâng lời tác giả, nhà văn vẫn nói giọng nói của mình chứ không nói bằng giọng của nhân vật. Đến Dostoievski, nhân vật được tự do và có một vị trí độc lập tương đối, nó tự ý thức về chính mình và thế giới xung quanh, và cư xử với thế giới ấy bằng suy nghĩ và cá tính của mình. Để đạt được điều ấy, nhà văn đã nói bằng giọng của nhân vật, và giữ một khoảng cách nhất định với nó, nghĩa là tuy được nhà văn sản sinh ra, nhưng ngay khi chào đời, nhân vật đã được cắt bỏ cuống rốn và sống cuộc đời tự lập của nó. Người ta nghe trong tiểu thuyết của Dostoievski không phải tiếng nói duy nhất và buồn tẻ của một nhà tư tưởng, ấy là tác giả, mà là cả một hợp xướng nhiều bè vô cùng sinh động của nhiều giọng nói từ các nhân vật. Xuất phát từ quan niệm xem mỗi con người là một cá thể độc đáo, không trùng lặp, Dostoievski không chấp nhận sự áp đặt, phán quyết nhân vật, mà để cho nó tự ý thức về chính mình. Lập trường của tác giả với nhân vật là lập trường đối thoại, nhà văn đối thoại với nhân vật trên tinh thần dân chủ, theo Bakhtin, “tác giả không phải nói về nhân vật mà nói với nhân vật”, lời nói của nhà văn về nhân vật “như lời nói về người có mặt, người ấy nghe thấy và có thể trả lời tác giả” [3, tr.268]. Chính nhờ ý thức tôn trọng lời nói của người khác nên Dostoievski đã tạo nên tính khách quan trong việc miêu tả nhân vật. Tiểu thuyết của Dostoievski là tiểu thuyết đối thoại, các nhân vật đối thoại cuồng nhiệt với nhau mà vẫn chưa đi đến điểm chung, nhà văn đối thoại với người đọc và tất nhiên lời nói cuối cùng vẫn còn để ngõ. Theo Bakhtin, đối thoại của các nhà văn trước Dostoievski chỉ là giả
  11. vờ, bởi người ta vẫn thấy lấp ló sau tấm bình phong sợi dây điều khiển của tác giả, và ẩn nấp đâu đó để đưa ra chính kiến của mình. Dostoievski không hề làm trọng tài phân xử cho những cuộc tranh cãi, ông đứng ở bên này để tranh luận đến sùi bọt mép, rồi lại quay sang đứng bên kia để tranh luận đến kiệt quệ cả trí tuệ lẫn sức lực. Trong cuộc đối thoại lớn giữa Raskolnikov với Sonia, ta thấy dường như Dostoievski cũng là kẻ ngoại đạo ngông cuồng như Raskolnikov, rồi thấy ông cũng sùng tín khiêm nhường như Sonia. Trong cuộc đối thoại giữa hai anh em nhà Karamazov, ta đồng thời thấy ở Dostoievski trí tuệ lạnh lùng của Ivan, và cả trái tim ấm nóng của Aliosa. Dostoievski không bao giờ đưa ra những lời bình luận, những mệnh đề hoặc khẳng định hoặc phủ định, nhưng khép trang sách cuối cùng lại, ta thấy vang lên lời nói thiết tha của ông về một thế giới đại đồng, ở đó không có ai đúng ai sai, kẻ xấu người tốt, mà chỉ có tình thương, lòng bao dung làm giải hòa tất cả. Tiểu thuyết Dostoievski có sức mạnh lay động, thanh lọc tâm hồn con người nhờ vào tính chất đối thoại ngang quyền và ngang giá trị giữa những giọng nói trong tác phẩm, khiến người đọc như tự mình vỡ ra chân lí mà không có cảm giác nhà văn chỉ bảo cho. Để đi vào đời sống tâm hồn nhân vật, các nhà văn thường sử dụng độc thoại, độc thoại nội tâm và dòng ý thức. Độc thoại nội tâm mà Dostoievski sử dụng cũng là lối độc thoại phức điệu, chúng ta nghe trong đó cả giọng tự bạch của nhân vật, giọng của người khác đánh giá về nó, giọng giễu nhại của nhân vật về chính mình. Kết cấu trong tiểu thuyết Dostoievski hết sức phức tạp, nó không theo một chiều của sự phát triển một cốt truyện, mà là sự kết hợp của nhiều câu chuyện, kết hợp nhiều hình thức khác loại vừa văn chương, vừa ngoài văn chương. Tiểu thuyết của ông có kết cấu lắp ghép, xâu chuỗi nhiều câu chuyện trên một trục cốt truyện chính, kết hợp với những màn đối thoại mang kích thước quá khổ, những sự kiện diễn ra quá dồn dập, khiến thời gian như bị kéo dài ra, ngưng đọng lại. Kết cấu truyện lồng trong truyện này làm ta liên tưởng đến kết cấu lồng khung, xâu chuỗi trong bộ sử thi vĩ đại Mahabharata của Ấn Độ. Câu chuyện trung tâm trong bộ sử thi vĩ đại này là cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” giữa hai nhánh trong một hoàng tộc, chỉ diễn ra trong vòng 18 ngày, nhưng xoay chung quanh nó là nhiều câu chuyện để truy tìm gia phả, giải thích nguyên nhân xảy ra cuộc chiến, lồng vào đó là những truyện ngụ ngôn, những trang thuyết giáo, những cuộc đối thoại lớn mang tính hùng biện,… Kết cấu truyện lồng trong truyện cho phép nhà văn có thể mở rộng chiều kích của tác phẩm, soi chiếu, bổ sung cho chủ đề từ những góc nhìn, những cảnh đời khác nhau. Chẳng hạn như trong Tội ác và hình phạt, bên cạnh tuyến chính là “tội ác và hình phạt” của Raskolnikov, còn có những tuyến khác như là tuyến gia đình Marmelanov, trong đó có chuyện về bà Katerina
  12. Ivanovna, đặc biệt là câu chuyện về Sonia; còn có tuyến Dunia với Lugin, với Svidrigailov,… Những thủ pháp và nguyên tắc kết cấu mới mà Dostoievski cùng với L. Tolstoi mang lại là sự tổng kết nhiều thế kỉ phát triển của tiểu thuyết châu Âu, đồng thời mở ra những khả năng phát triển của tiểu thuyết trong thế kỉ sau. Tiếp cận “văn chương Thái Tây”, các nhà văn Tự lực văn đoàn không thể không lưu ý đến các hình thức và thủ pháp hiện đại ấy. 1.1.2. Dostoievski với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại Tiểu thuyết hiện đại chỉ là một khái niệm tương đối, tác phẩm này có thể hiện đại trong thời đại này, nhưng sang thời đại khác nó đã không còn hiện đại. Với thời chúng ta đang sống, ở những năm đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết hiện đại được hiểu là tiểu thuyết thế kỉ XX, do đó tiểu thuyết từ thế kỉ XIX trở về trước được ngầm hiểu là tiểu thuyết truyền thống. Một số đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại (trong sự so sánh với tiểu thuyết truyền thống) là: Thứ nhất, về nhân vật: Nếu như trong tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm đến lịch sử đời tư, thì nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại hầu như không có lai lịch. Nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại xuất hiện chỉ trong một “lát cắt”, một khoảng thời gian ngắn của cuộc đời mình. Các nhà văn của tiểu thuyết hiện đại ít chú trọng miêu tả tâm lí, không xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, mà chủ yếu hướng tới một tâm trạng, một tư tưởng triết lí nào đó của con người hiện đại. Nhân vật không có tính cách định hình sẵn, mà phiêu lưu, biến chuyển đầy phức tạp trên trang sách. Nhà văn không ý thức, phán quyết cho nhân vật mà để cho nhân vật tự ý thức về chính mình và thế giới xung quanh. Dòng ý thức và độc thoại nội tâm được quan tâm sử dụng khi nhà văn hiện đại đi sâu vào thế giới tinh thần của nhân vật. Thứ hai, về kết cấu – cốt truyện: Cốt truyện chính là xương sống của tiểu thuyết truyền thống, nó mang tính chất kịch, có quá trình diễn biến: giới thiệu, phát triển, đỉnh điểm và kết thúc. Theo đó, kết cấu của tiểu thuyết truyền thống cũng rất chặt chẽ. Cốt truyện trong tiểu thuyết hiện đại có sự giảm nhẹ chất kịch, giảm nhẹ hành động và xung đột, nới lỏng độ căng, nhiều khi dẫn đến việc hủy diệt cốt truyện do tính chất đơn giản của hành động, hay do kết cấu lắp ghép – một trong những đặc trưng của nhiều tiểu thuyết hiện đại. Thứ ba, về thời gian: Thời gian trong tiểu thuyết truyền thống có tính quá trình: Quá khứ – hiện tại – tương lai, nhà văn đặt vận mệnh của nhân vật theo chiều dài thời gian từ khi nó ra đời cho đến khi về già hoặc chết. Tiểu thuyết hiện đại quan tâm đến thời gian hiện tại, dòng thời gian như bị cắt khúc, xén mất phần quá khứ và tương lai, chỉ có thời gian hiện tại mới là điều đáng quan tâm. Dồn nén nhiều sự kiện, nhiều tâm tư trong một khoảng thời gian ngắn là cách thức thường thấy trong tiểu thuyết hiện đại.
  13. Chúng ta có thể tìm thấy hầu hết những đặc điểm trên của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại trong sáng tác Dostoievski, mặc dù ông là nhà văn kinh điển của thế kỉ XIX. Chỉ xét mỗi tiểu thuyết Tội ác và hình phạt, ta cũng thấy rõ điều đó: Câu chuyện diễn ra chỉ trong mười bốn ngày (Thời gian ở Xibiri chỉ là phần vĩ thanh, không trọng tâm), dồn nén biết bao sự kiện, biến cố, giằng xé nội tâm của nhân vật Rascolnikov. Cốt truyện tuy có tính chất kịch tính, li kì nhưng giá trị của tác phẩm không phải ở chỗ ấy, mà ở diễn biến nội tâm của nhân vật, ở tính chất đa thanh, phức điệu, ở sự đối chọi của những tư tưởng, triết lí, ở giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc,… Nhân vật Raskolnikov là kiểu nhân vật hoàn toàn hiện đại: xuất hiện chỉ trong một khoảng thời gian ngắn của cuộc đời anh ta, đó là kiểu nhân vật tâm trạng – tâm lí chứ không phải kiểu nhân vật hành động cũng không phải nhân vật tính cách. Raskolnikov mang trong mình một tư tưởng lớn của thời đại, với biết bao suy tư, vật vã trên con đường thử nghiệm, tìm kiếm chính bản thân mình. Độc thoại nội tâm và dòng tâm tư được Dostoievski sử dụng tối đa nhằm lột tả tận cùng sâu thẳm thế giới bên trong của nhân vật. Như vậy, từ một số dấu hiệu trên, có thể khẳng định rằng Dostoievski là nhà văn khởi đầu cho nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại của thế kỉ XX. 1.1.3. Những bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Riêng đối với văn học Việt Nam, có lẽ không có khái niệm “tiểu thuyết hiện đại” theo đúng với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại thế giới, mà chỉ có khái niệm “tiểu thuyết hiện đại” trong sự đối sánh với tiểu thuyết trung đại về mốc thời gian cũng như về mặt thi pháp. Tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX trở đi được xem là tiểu thuyết hiện đại, chúng chỉ “hiện đại” so với thời trung đại chứ chưa bắt kịp với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại trên thế giới. Ngay chính thể loại tiểu thuyết cũng là thể loại mới, nở rộ ở đầu thế kỉ XX nhờ việc học tập tiểu thuyết Tây phương thế kỉ XIX. Trong văn học trung đại, từ “tiểu thuyết” không có mặt như là một thể loại văn học, mà thay vào đó là từ “truyện” để chỉ hình thức tự sự có dung lượng lớn. Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết không phải là đứa con ngoại lai trong nền văn học Việt Nam, mà nó vốn có gốc rễ từ các thể loại tự sự của văn học trung đại, đặc biệt là truyện thơ Nôm và tiểu thuyết chương hồi. Truyện thơ Nôm được xem là tiểu thuyết được làm bằng văn vần, có lẽ là cội nguồn dân tộc của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX. Về kết cấu – cốt truyện, truyện thơ Nôm đề tài tài tử – giai nhân có cốt truyện hấp dẫn, giàu kịch tính, kết cấu theo kiểu: gặp gỡ – chia li – đoàn tụ. Về nhân vật, tính cách nhân vật được bộc lộ rõ từ đầu, theo kiểu “nhìn mặt mà bắt hình dong”, và giữ vững tính cách ấy đến cuối tác phẩm. Vì sáng tác bằng văn vần nên truyện thơ Nôm còn
  14. rất hạn chế trong việc diễn tả cuộc sống cũng như nội tâm nhân vật. Về thời gian, truyện thơ Nôm quan tâm đến tính toàn vẹn của thời gian một nhân vật tồn tại, nhà văn cần giới thiệu rõ lai lịch nhân vật, quá trình từ sống cho đến khi chết. Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời kì trung đại mang tính chất văn sử bất phân do lấy đề tài từ lịch sử. Tính cách nhân vật tuy có được các tác giả khắc họa nhưng vẫn chú trọng vào những biểu hiện bên ngoài hơn là diễn tả nội tâm. Thời gian mang tính lịch sử biên niên, tuân thủ theo quy tắc kể lại đầy đủ đầu đuôi ngọn ngành các sự kiện cũng như các nhân vật. Đến đầu thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam mới thật sự hình thành với đúng thể loại tiểu thuyết: sáng tác bằng văn xuôi với dung lượng lớn, dùng lối văn giản dị từ cuộc sống hằng ngày, viết về đời tư nhân vật. Thật ra, từ cuối thế kỉ XIX, văn học nước ta đã có quyển tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, bước đầu mang tính hiện đại, đó là quyển Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (sáng tác năm 1887). Tác phẩm thoát khỏi lối văn biền ngẫu, không tuân theo kiểu kết cấu truyền thống của truyện thơ Nôm, vào truyện trực tiếp chứ không cần phải kể đủ lai lịch nhân vật, không tuân theo thời gian tuyến tính mà đảo ngược thời gian trần thuật: mở đầu truyện là thời gian thực tại với hình ảnh ngôi mộ thầy Lazaro Phiền, tiếp đến là thời gian quá khứ qua lời hồi tưởng của người kể về câu chuyện bi thảm của thầy Phiền, kết thúc lại trở về thời gian thực tại. Điều nhà văn quan tâm không phải là những tình tiết éo le của truyện, mà là thế giới nội tâm, là nỗi buồn đau hối hận day dứt của nhân vật. Tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách đánh dấu sự ra đời của tiểu thuyết Việt Nam thời kì hiện đại. Tác giả đã cố gắng diễn tả đời sống tình cảm của lứa đôi, nhưng vẫn chưa chạm đến bề sâu tâm tư con người, một phần cũng do sự hạn chế của lối văn bóng bẩy, trau chuốt như truyện thơ. Cốt truyện hấp dẫn với những tình tiết lâm li, những nghịch cảnh trái ngang là điều nhà văn quan tâm hơn là khám phá tính cách, tâm trạng nhân vật. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ban đầu chỉ mới phóng tác một số tiểu thuyết Pháp, về sau ông mới thật sự sáng tác những tác phẩm mang đậm phong vị cuộc sống, con người nông thôn Nam Bộ. Văn xuôi của ông nôm na, bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Tuy nhiên, nhân vật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn được phân rành rẽ theo hai tuyến nhân nghĩa và bất nhân nghĩa; cốt truyện phát triển theo sự xung đột giữa hai tuyến thiện – ác ấy. Các nhân vật được xây dựng theo một kiểu, ít đi sâu vào đời sống nội tâm, đơn giản và đơn điệu về tính cách. Hai mươi năm sau khi Tố Tâm ra đời, các tác phẩm của Tự lực văn đoàn có mặt đã thật sự khẳng định sự chín muồi về mặt thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam. Nhận định về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc viết:
  15. Tôi nghĩ đóng góp quan trọng của Tự lực văn đoàn là định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Từ đầu thế kỉ, văn xuôi của ta phát triển theo một hướng mới. Đầu tiên là các nhà nho ảnh hưởng Tây học như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học. Rồi đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một bước phát triển quan trọng. Phải đến Tự lực văn đoàn, tiểu thuyết mới thật sự có hình thức hiện đại của nó [61, 463]. Nghệ thuật tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn đã bứt phá khỏi những bước chập chững của tiểu thuyết buổi đầu, ngày càng trở nên vững vàng và trưởng thành. Cách trần thuật trở nên linh hoạt: vào thẳng ngay giữa câu chuyện chứ không kể lể lòng vòng như nhiều tiểu thuyết trước đó; lời văn trong sáng, giản dị. Nhân vật được chú trọng về diễn biến tâm tư hơn là mô tả hành động, tính cách nhân vật trở nên phong phú, phức tạp, đa diện hơn. Trong một số tác phẩm về sau, có sự giảm nhẹ yếu tố kịch tính, giảm thiểu những tình tiết éo le dị thường trong cốt truyện, mà tập trung để khai thác tâm lí nhân vật, khắc họa tính cách. Một số tiểu thuyết cốt truyện dường như “không có gì để đọc”, mà chỉ có tâm tư nhân vật như dòng chảy triền miên, bàng bạc trải dài các trang sách. Với những bước chuyển biến đó, bộ mặt tiểu thuyết Việt Nam đã có sự thay đổi căn bản, nó sẵn sàng hơn cho việc đón nhận những hình thức và thủ pháp mới mẻ, trong đó có của Dostoievski. 1.2. Nhất Linh với quan niệm đổi mới văn học 1.2.1. Nhất Linh – con người và sự nghiệp sáng tác @ – Vài nét về tiểu sử của Nhất Linh Nhất Linh (1906 – 1963) tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, trong một gia đình công chức, về sau bố mất việc, cả nhà dựa vào việc buôn bán tảo tần của mẹ. Ông đi học ở Hà Nội rồi làm việc ở Sở tài chính và bắt đầu sáng tác. Năm 1925, Nhất Linh học vẽ ở Trường cao đẳng Mĩ thuật Hà Nội, nhưng sau không theo đuổi môn nghệ thuật này. Năm 1927, ông sang Pháp du học, vừa học nghề làm báo vừa học và tốt nghiệp cử nhân lí – hóa. Ba năm sau ông về Hà Nội dạy học, được một thời gian ngắn rồi chuyển sang làm báo. Năm 1932, Nhất Linh cùng những người bạn ra báo Phong hóa, chủ trương vận động dân chúng theo phong trào Âu hóa, bài trừ hủ tục của lễ giáo phong kiến, đề cao cái tôi cá nhân. Năm 1933, Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn với chủ trương, quan điểm sáng tác tiến bộ. Ngoài việc biên tập báo, sáng tác, Nhất Linh còn hoạt động từ thiện: tổ chức hội Ánh sáng, giúp dân nghèo. Khi Nhật vào nước ta (năm 1940), Nhất Linh ngừng sáng tác và chuyển sang hoạt động chính trị. Năm 1951, ông tuyên bố không làm chính trị nữa và trở lại sáng tác.
  16. Năm 1963, do dính líu vào vụ đảo chính Ngô Đình Diệm không thành, ông tự vẫn trước khi bị gọi đến tra vấn. @ – Vài nét về con người Nhất Linh Nhất Linh suốt cả cuộc đời không ngừng tự hoàn thiện và làm mới chính mình. Ông thử sức ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề: làm công chức, học vẽ, làm nhà báo, nhà văn, nhà giáo, làm chính trị. Ông làm việc với tất cả tâm hồn, theo triết lí tuyệt hảo, luôn đưa ra những ý kiến mới mẻ. Con người Nhất Linh mang hai khuynh hướng: khuynh hướng nghệ sĩ và khuynh hướng cách mạng. Dù là nghệ sĩ hay là nhà cách mạng, Nhất Linh đều làm việc với mục đích: cải tạo, đổi mới xã hội, san bằng những bất công, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Nhất Linh là người có ý thức đổi mới tư duy, học tập những cái tiến bộ của phương Tây. Từ một nhà “cựu nho”, sau ba năm ở Pháp, ông trở thành người chủ trương đổi mới tư duy theo Tây phương. Khi làm biên tập báo, Nhất Linh biết trọng người tài, biết phát huy năng khiếu của từng người trong từng lĩnh vực. Ông là người phát hiện, khuyến khích những tài năng như Tú Mỡ, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo,… @ – Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh Những tác phẩm đầu tay của Nhất Linh như Nho phong (1925), Người quay tơ (1927) chưa có gì mới mẻ về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật. Nho phong vẫn mang đậm dáng vẻ của đề tài giai nhân – tài tử trong truyện Nôm. Về tư tưởng, tác giả vẫn theo khuôn khổ của nho gia, đề cao luân lí, cốt để khuyên người ta dù nghèo nhưng giữ được phẩm giá. Người quay tơ là một tập truyện ngắn, vừa truyện dịch, vừa sáng tác. Đó vẫn là những tác phẩm mang đậm tính giáo huấn đạo lí nho phong. Nhà văn miêu tả cảnh vật, tình người vẫn theo lối tượng trưng, ước lệ, khuôn sáo; câu văn vẫn có tính biền ngẫu, nhịp nhàng; từ ngữ hoa mĩ, kiểu cách. Vì thế, tác giả không lột tả được đời sống tâm hồn của nhân vật một cách chân thành, tinh tế. Từ 1933, sau khi thành lập Tự lực văn đoàn, nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong sáng tác của Nhất Linh trở nên đổi mới hoàn toàn. Đây là thời gian sáng tác sung sức của ông, với những tác phẩm: Tập truyện ngắn: Anh phải sống, Tối tăm, Hai buổi chiều vàng; Tiểu thuyết: Gánh hàng hoa, Đời mưa gió, Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng. Một số tiểu thuyết luận đề của nhà văn như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,…là những lời lẽ hùng hồn chống đối những hủ tục, những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho tình yêu và hôn nhân tự nguyện, giải phóng phụ nữ thoát khỏi bạo hành gia đình. Về nghệ thuật, những tiểu thuyết luận đề này đã thể hiện một bước tiến mới của tiểu thuyết Việt Nam: xây dựng nhân vật có “xương
  17. thịt”, phân tích tâm lí khá sắc sảo; hành văn trong sáng, giản dị. Tuy nhiên, vì là tiểu thuyết luận đề nên tiếng nói của tác giả nhiều khi lấn lướt nhân vật, khiến chúng trở thành cái loa phát ngôn của tác giả. Khi chuyển sang viết tiểu thuyết tâm lí, Nhất Linh đã tỏ ra tinh tế trong việc khám phá chiều sâu tâm hồn con người, với một lối văn nhẹ nhàng, trong sáng; cốt truyện không có nhiều kịch tính mà vẫn thu hút được người đọc. Tiểu thuyết Bướm trắng đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh, về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Những sáng tác của Nhất Linh ở miền Nam sau 1945 như Xóm cầu mới, Dòng sông Thanh Thủy, Thương chồng,… là những tiểu thuyết không được chú ý lắm. Nhà văn không thật sự sống với nhân vật, mà chỉ ở vai trò một người quan sát, và lối kể chuyện cũng thật nhạt nhẽo. Nhất Linh đã không còn sinh lực để bắt kịp với bước tiến của đời sống văn học đang sôi động lúc bấy giờ. Ngay chính Thế Uyên và Duy Lam, hai cây bút trẻ của văn học Sài Gòn, cháu ruột gọi Nhất Linh là bác, cũng chỉ coi trọng ông chứ không thích thú lối viết cũ kĩ này. Thế Uyên viết: “Riêng hai đứa chúng tôi (tức Thế Uyên và Duy Lam – H.T.P.C.) thán phục Nhất Linh tiền và chấp nhận Nhất Linh hậu chiến” (chúng tôi nhấn mạnh – H.T.P.C) [90, tr.160]. “Chấp nhận” là lối viết theo kiểu “kính nhi viễn chi”, như các nhà Thơ mới kính trọng Tản Đà, không muốn làm buồn lòng các bậc tiền bối, chứ thật ra độc giả trẻ miền Nam lúc bấy giờ không mặn mà mấy với những tác phẩm sau này của Nhất Linh. 1.2.2. Quan điểm của Nhất Linh về việc hiện đại hóa văn học Việt Nam Năm 1930, khi ở Pháp về, Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn với phương châm: Tự lực sáng tác để làm giàu thêm văn học nước nhà; viết bằng lối văn giản dị, dễ hiểu của ngôn ngữ dân tộc, mang tính bình dân để cho con người và xã hội ngày càng tiến bộ hơn; học tập phương pháp sáng tác của phương Tây để ứng dụng vào văn chương Việt Nam. Trước và cùng thời với Nhất Linh, đã có nhiều nhà văn chủ trương học tập văn học phương Tây để sáng tác. Chẳng hạn như Hồ Biểu Chánh phóng tác các tác phẩm Chúa tàu Kim Qui từ tiểu thuyết Bá tước Monte Cristo của A. Dumas, Cay đắng mùi đời từ tiểu thuyết Không gia đình của H. Malot, Ngọn cỏ gió đùa từ tiểu thuyết Những người khốn khổ của V. Hugo. Theo Vũ Ngọc Phan, Em ơi đừng tuyệt vọng của Vũ Bằng là phỏng dịch từ Đêm trắng của nhà văn Nga Dostoievski; vở kịch Lòng rỗng không của Đoàn Phú Tứ là phỏng dịch từ vở Người thầy giáo của nhà văn Pháp Henri Duvernois. Ở mức ảnh hưởng cao hơn, một số nhà văn đã học tập phong cách sáng tác của các nhà văn phương Tây. Chẳng hạn như trong Vàng và máu, ta thấy Thế Lữ học tập phong cách huyễn tưởng của Edgar Poe; Vũ Trọng Phụng ảnh hưởng phong
  18. cách tự nhiên chủ nghĩa của Emile Zola, Nam Cao học tập phong cách tâm lí – nội quan của Dostoievski. Nhất Linh chủ trương học tập tiểu thuyết phương Tây về phương diện nghệ thuật chứ không bắt chước cốt truyện, nhân vật, tình tiết trong các tác phẩm ấy. Vì thế, chúng ta thấy ông không phóng tác, phỏng dịch, mà hoàn toàn dựa vào cuộc sống, con người Việt Nam để viết. Trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, ông bày tỏ quan niệm về cách viết mới: Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực, cả bề trong lẫn bề ngoài, diễn được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc sống, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh, tế nhị của tâm hồn, bằng cách dùng những chi tiết về người và việc để tìm hoạt động của nhân vật cùng hành vi, cảm giác và ý nghĩ của họ. Những cuốn đó cần phải do sự thành thực của tác giả cấu tạo nên, viết bằng một lối văn giản dị, không giảng giải nhiều và không cần phải chỉ hay về cốt truyện [51, tr.373] Ông còn muốn tạo cho mình một cách viết, một giọng văn riêng: “Tuyệt đích, đối với tôi là viết giản dị mà không lạt lẽo, rất bình thường mà vẫn sâu sắc, giọng văn hơi điểm một chút khôi hài rất nhẹ, kín đáo” [51, tr.406] Cũng trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết này, Nhất Linh nhìn nhận lại quá trình hiện đại hóa văn học trong sáng tác của mình: Thuở mới cầm bút, ông rất yêu thích kiểu viết văn chải chuốt, theo lối biền ngẫu như các tiểu thuyết thời ấy. Sau đó, ông chuyển sang viết tiểu thuyết luận đề để đả phá lễ giáo phong kiến, tuyên truyền cho lối sống mới, tự do về tư tưởng và hành động. Nhất Linh cho rằng đây là “cái lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của tôi”, bởi ông đã “không theo sát cuộc đời thực là mục đích chính của tiểu thuyết mà đổi cuộc đời thực đi để lại cho luận đề của mình” [51, tr.355]. Về sau, Nhất Linh quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại: Không chú trọng những cốt truyện li kì; không thể hiện tư tưởng, lời bình xét của tác giả trên trang sách; xây dựng nhân vật thật “sống” như cuộc đời, với những mặt xấu – tốt pha trộn chứ không đơn giản, nhất phiến hoặc tốt hoặc xấu như trong văn học truyền thống. Ông chú ý đi sâu diễn tả đời sống nội tâm nhân vật với tất cả những biến chuyển mong manh của tâm hồn. Bướm trắng thể hiện những cố gắng của Nhất Linh trong việc hiện đại hóa nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam. Chính Bướm trắng, chứ không phải bất cứ một tác phẩm nào khác đã nâng Nhất Linh lên hàng, như linh mục Thanh Lãng – tác giả nhiều bộ sách nghiên cứu văn học Việt Nam – nói, “thủ lãnh, tổng thống trong cái nước cộng hòa văn học 1932 – 1945” [81, tr. 218]. 1.2.3. Nhận định của Nhất Linh về tiểu thuyết Dostoievski Tiểu thuyết Dostoievski được dịch sang tiếng Việt khá muộn, bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ XX, qua tiếng Pháp, tiếng Anh chứ không trực tiếp từ nguyên tác tiếng Nga. Nhưng
  19. đó là mặt dịch thuật, còn thật ra, Dostoievski đã đến với một số độc giả Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 không cần chờ chuyển dịch, họ đọc thẳng từ tiếng Pháp. Nhất Linh từng du học ở Pháp từ năm 1927, cho nên không loại trừ khả năng ông đã đọc Dostoievski hay ít ra đã từng nghe người ta bình luận về nhà văn đang được châu Âu ngưỡng mộ này. Lúc bấy giờ ở châu Âu không thể nào đếm hết những bài viết về thiên tài Dostoievski, bởi người ta tìm thấy ở ông nguồn sáng an ủi soi đường cho nhân loại sau cơn hoảng loạn thế chiến thứ nhất. Ở Việt Nam thời ấy đã có nhiều trí thức Tây học đến với Dostoievski, mà họ gọi thân mật là Đốt. Nhà văn Nguyễn Tuân nhớ lại rằng: “Ở Hà Nội đã khối người say Đốt Xtôi, thuở ấy tôi cũng là người say Đốt” [88, tr.293]. Khi ngồi trong nhà tù thực dân Pháp ông vẫn say mê đọc bốn quyển tiểu thuyết của Dotoievski. Bộ phim Tội ác và hình phạt dựng theo tác phẩm cùng tên của Dostoievski được chiếu ở nước ta từ năm 1935 và mùa đông năm ấy nhà văn Nguyên Hồng xem mà như cảm thấy như bị “dội lửa”. Trong quyển Nhà văn hiện đại, nhà văn Vũ Ngọc Phan tỏ ra hiểu biết nhiều về tiểu thuyết Dostoievski khi ông chỉ ra Vũ Bằng phỏng dịch truyện Em ơi đừng tuyệt vọng từ truyện Les nuits blanches (Đêm trắng) của Dostoievski chứ không phải là sáng tác như nhà văn này công bố. Việc tiếp nhận, ảnh hưởng Dostoievski cũng có sự chuyển biến rõ rệt, ban đầu từ hiện tượng mô phỏng bắt chước như kiểu của nhà văn Vũ Bằng đã nói ở trên, đến việc ảnh hưởng loáng thoáng vài chi tiết trong một số tác phẩm của một số nhà văn, và hơn cả là sự tiếp nhận sáng tạo về mặt nghệ thuật tiểu thuyết ở nhà văn Nhất Linh, Nam Cao,… Trong tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh xem Dostoievski cùng với Shakespeare, Dickens, Tolstoi… là những bậc thầy trong sáng tác văn chương. Những tác phẩm của họ là “lí tưởng muốn noi theo của phần đông người viết tiểu thuyết” [51, tr. 347]. Nhất Linh đã từng đọc Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov, Lũ người quỷ ám của Dostoievski và học tập ở đó nghệ thuật viết tiểu thuyết. Khi bàn về cốt truyện trong tiểu thuyết, Nhất Linh cho rằng tác phẩm của Dostoievski hay không phải bởi cốt truyện: “Ở nhà văn Anh Dickens hay Dostoievski cũng có những truyện li kì nhưng cái hay không ở đấy” [51, tr.371]. Những tác phẩm có cốt truyện hay mà xây dựng nhân vật không “sống”, phân tích tâm lí hời hợt thì không thể sánh được với những tác phẩm của Dostoievski (và của những nhà văn lớn khác). Nhất Linh đánh giá cao ở Dostoievski và những nhà văn lớn của thế giới sự thành thực, sâu sắc trong cảm xúc, suy nghĩ. Ông viết: “[…] dưới những cái mà tác giả viết ra lại còn ẩn một thứ gì khác, tuy tác giả không nói đến nhưng mình cảm thấy rõ và cái đó như chiếu sáng
  20. những cái sâu xa của cuộc đời…” [51, tr.372]. Đó là cảm xúc của Nhất Linh khi đọc Anh em nhà Karamazov. Ông thích thú trước việc Dostoievski đưa tư tưởng, triết lí vào văn chương mà vẫn không làm tác phẩm trở nên nặng nề: “[…] những nhà văn thâm thúy nhất về triết lí mà không đả động tới triết lí vẫn là Shakespeare, Dostoievski” [51, tr.407] Bên cạnh đó, Nhất Linh tỏ ra công tâm khi không ca ngợi giọng văn của Dostoievski, thậm chí cho rằng giọng văn đó “nặng nề gò gẫm” và “bí hiểm”. Đó cũng là xu hướng chung của nhiều người đọc lúc bấy giờ. Trong cuốn Từ điển danh nhân (SG, 1964) Trịnh Chuyết than phiền về lối viết của Dostoievski: “Tiểu thuyết của tiên sinh rườm rà, khó hiểu, nhiều chi tiết quá, có những đoạn quá đen tối, quá thê thảm” [11, tr.19]. Nguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét tương tự đối với Chàng ngốc, Đầu xanh tuổi trẻ, Người chồng muôn thuở. Không thán phục giọng văn Dostoievski, nhưng Nhất Linh lại vô cùng ca ngợi kĩ thuật viết của nhà văn này; trong các tiểu luận của ông, hễ cứ bàn đến kĩ thuật viết là Nhất Linh lại nhắc đến Dostoievski. Điều trên giải thích tại sao Bướm trắng mang nhiều dấu vết kĩ thuật viết của Dostoievski, chứ không phải là giọng điệu. Nhất Linh không phải là trường hợp duy nhất đề cao và học tập Dostoievski. Cùng thời với Nhất Linh còn có Thạch Lam, Vũ Bằng, Đinh Gia Trinh,… là những nhà văn có ý thức học tập văn phong của các nhà văn lớn trên thế giới để sáng tác. Thạch Lam, em ruột của Nhất Linh, trong tiểu luận Theo dòng, cũng rất khâm phục tài năng của các nhà văn lớn nước Nga, trong đó có Dostoievski. Ông cho rằng Dostoievski “có lẽ là nhà viết tiểu thuyết có giá trị nhất của thế kỉ và trên hoàn cầu” [47, tr.307]. Thạch Lam học tập Dostoievski tấm gương cẩn thận câu chữ khi sáng tác văn chương. Ông bày tỏ mình thích văn học Nga và Anh hơn văn học Pháp, bởi văn học Pháp lí trí nhiều quá, làm ông phục chứ không thích, trong khi đó “những tiểu thuyết Anh, Nga ta thấy linh động như cuộc đời, cả bề rộng lẫn bề sâu” [47, tr.314]. Và những nhận xét này của Thạch Lam cũng được Nhất Linh tán thành, nhắc lại ở tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết. Nhìn chung, Nhất Linh đánh giá cao tiểu thuyết Dostoievski và có ý thức học tập nhà văn bậc thầy này trong sáng tác văn chương, cụ thể là trong cách xây dựng nhân vật, ở sự thành thực của cảm xúc, ở cách thể hiện tư tưởng triết lí sao cho khéo léo. Bên cạnh đó, Nhất Linh bày tỏ sự không tán đồng giọng văn của Dostoievski, nó quá phức tạp, rắc rối, khó hiểu, hình như là khác với cảm quan văn học của Nhất Linh và cũng là của phần đông người Việt Nam – yêu thích lối văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Nghĩa là, Nhất Linh đến với Dostoievski với một lòng ngưỡng mộ sâu sắc, nhưng chủ động trong tiếp nhận và học tập.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1