intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ - Một cái nhìn lịch đại

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:151

161
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ - Một cái nhìn lịch đại bao gồm những nội dung thông điệp về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ nhìn từ lập trường của chủ thể diễn ngôn; chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ nhìn từ cấu trúc và phương thức kiến tạo diễn ngôn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ - Một cái nhìn lịch đại

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Tô Thùy Quyên DIỄN NGÔN VỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ KHÂM – PHAN TỨ: MỘT CÁI NHÌN LỊCH ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Tô Thùy Quyên DIỄN NGÔN VỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ KHÂM – PHAN TỨ: MỘT CÁI NHÌN LỊCH ĐẠI Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Người thực hiện Tô Thùy Quyên
  4. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam với đề tài “Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ: Một cái nhìn lịch đại”, tôi đã nhận được sự quan tâm của Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, của quý thầy cô giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam (Cao học khóa 23 – Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh). Đặc biệt, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tận tình và nhiệt thành của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi, người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến Phó Giáo Sư Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, quý thầy cô, các phòng ban của trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh (Phòng Sau đại học, Thư viện trường), cơ quan, gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn! Tô Thùy Quyên
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 11 1.1. Tiểu thuyết như một loại hình diễn ngôn .................................................. 11 1.1.1. Tiểu thuyết và đặc trưng thi pháp của tiểu thuyết hiện đại ............... 11 1.1.2. Tiếp cận tiểu thuyết từ góc độ diễn ngôn.......................................... 13 1.2. Bối cảnh tâm lí – xã hội, “trường văn học”, và nội dung, cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh dưới hình thức diễn ngôn ........................ 16 1.2.1. Bối cảnh tâm lí – xã hội của sự ra đời nền văn học chiến tranh ...... 16 1.2.2. “Trường văn học” và nội dung, cảm hứng sáng tác dưới hình thức diễn ngôn chiến tranh và hòa bình ............................................ 18 1.3. Các mô thức diễn ngôn ............................................................................. 21 1.3.1. Diễn ngôn tiểu thuyết sử thi .............................................................. 21 1.3.2. Diễn ngôn cá nhân – cộng đồng........................................................ 24 1.4. Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết thời chiến và thời hậu chiến .......................................................................................... 25 1.4.1. Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết thời chiến.. 25 1.4.2. Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết thời hậu chiến... 27 1.5. Hai bút danh – Hai chặng đường tiểu thuyết của nhà văn Lê Khâm – Phan Tứ ................................................................................................... 29 1.5.1. Những khởi đầu với bút danh Lê Khâm ........................................... 30 1.5.2. Từ Lê Khâm đến Phan Tứ: không chỉ là sự thay đổi bút danh ......... 31
  6. Chương 2. THÔNG ĐIỆP VỀ CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH TRONG TIỂU THUYẾT LÊ KHÂM – PHAN TỨ NHÌN TỪ LẬP TRƯỜNG CỦA CHỦ THỂ DIỄN NGÔN ................................... 34 2.1. Diễn ngôn chiến tranh và hòa bình nhìn từ lập trường, ý thức hệ cộng đồng... 34 2.1.1. Khẳng định chính nghĩa cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc ....... 34 2.1.2. Kháng chiến là trường kì, là dữ dội, khốc liệt và sự thấu cảm về mất mát, hi sinh ................................................................................. 47 2.1.3. Chiến tranh là môi trường để rèn luyện con người ........................... 50 2.1.4. Tôn vinh người anh hùng thời chiến ................................................ 56 2.2. Diễn ngôn chiến tranh và hòa bình nhìn từ lập trường, quan điểm cá nhân ......................................................................................................... 62 2.3. Diễn ngôn chiến tranh và hòa bình nhìn từ lập trường, quan điểm của tác giả ...................................................................................................... 65 2.3.1. Chiến tranh là môi trường “lửa thử vàng”, sàng lọc và phân hóa nhân cách con người ......................................................................... 68 2.3.2. Người anh hùng cũng là con người đời thường ................................ 72 2.3.3. Cái nhìn đa diện về con người và cuộc chiến ................................... 75 Chương 3 CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH TRONG TIỂU THUYẾT LÊ KHÂM – PHAN TỨ NHÌN TỪ CẤU TRÚC VÀ PHƯƠNG THỨC KIẾN TẠO DIỄN NGÔN...................................................................................... 81 3.1. Diễn ngôn người kể chuyện – những phát ngôn nhân danh cộng đồng .. 81 3.1.1. Vấn đề điểm nhìn, ngôi kể trong diễn ngôn người kể chuyện .......... 81 3.1.2. Diễn ngôn kể là thời gian lịch sử – sự kiện được kết cấu theo mô hình thời gian chiến dịch................................................................... 85 3.1.3. Diễn ngôn tả được kết cấu theo mô hình không gian mặt trận ......... 91 3.1.4. Diễn ngôn bình luận thông qua phát ngôn của người kể chuyện ....... 97 3.2. Diễn ngôn nhân vật – những phát ngôn của con người thời đại được cá tính hóa .................................................................................................. 102
  7. 3.2.1. Diễn ngôn đối thoại như là hành động tranh đấu ............................. 102 3.2.2. Diễn ngôn độc thoại nội tâm như là hành động tự tranh đấu ........... 107 3.3. Sự chuyển đổi về diễn ngôn chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ ....................................................................... 112 3.3.1. Bước chuyển về quan điểm, tư tưởng .............................................. 112 3.3.2. Bước chuyển về hình thức nghệ thuật .............................................. 122 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 133
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu Sống trong hào khí hơn ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhà văn không chỉ là những văn nghệ sĩ mà còn là những chiến sĩ trên chiến trường. Xuất phát từ thực tế đó đã hình thành nên một bộ phận văn học với cảm hứng về chiến tranh cách mạng. Có thể nói bộ phận văn học này đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Vì thế trong những năm qua có rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về văn học chiến tranh cách mạng. Cùng với sự trưởng thành của cách mạng, của kháng chiến thì đội ngũ tác giả, tác phẩm cũng ngày càng lớn mạnh. Nhìn lại chặng đường văn học những năm kháng chiến, chúng tôi nhận thấy những năm 60 của thế kỉ XX, việc thay đổi bút danh dường như trở thành một hiện tượng phổ biến trong lực lượng sáng tác đương thời: Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi, Nguyễn Văn Bổng – Trần Hiếu Minh, Bùi Minh Quốc – Dương Hương Ly, Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành, Lê Khâm – Phan Tứ,… Việc thay đổi bút danh ấy không phải là ngẫu nhiên, cũng không phải do điều kiện hoạt động công khai hay bí mật mà đó là một bước chuyển trong sáng tác. Thiết nghĩ tìm hiểu bước chuyển trong sáng tác của nhà văn là một điều cần thiết. Lê Khâm – Phan Tứ được đánh giá là một trong những cây bút xuất sắc của thế hệ nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Cả cuộc đời gắn bó, tận tụy, hết lòng, hết mực đối với đất nước, với Đảng và cách mạng, Lê Khâm – Phan Tứ đặt tất cả những thứ đó vào hàng ngàn trang viết của mình. Tất cả công trình ấy của Lê Khâm – Phan Tứ, nói như nhà văn Phạm Hổ là có cả máu thịt, “cả cái sống của ông trong đó”. Xem xét cảm hứng, nội dung là phương pháp truyền thống nhưng nghiên cứu vấn đề cốt tử trong tiểu thuyết của Phan Tứ từ quan niệm góc nhìn diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình là một hướng nghiên cứu mới giúp nhìn nhận, đánh giá sâu sắc hơn giá trị nội dung, tư
  9. 2 tưởng, nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ cũng như bước chuyển của nhà văn trong quá trình sáng tác. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: “Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ: Một cái nhìn lịch đại”. Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của luận văn. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Các công trình vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào nghiên cứu tiểu thuyết ở Việt Nam Lý thuyết diễn ngôn du nhập vào Việt Nam chưa lâu nhưng đã được vận dụng khá rộng rãi trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học lớn nhỏ trong cả nước. Và việc vận dụng lý thuyết diễn ngôn đề nghiên cứu tiểu thuyết ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có các công trình nghiên cứu sau: Trong luận án Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ diễn ngôn (Nguyễn Thị Hải Phương, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012), Nguyễn Hải Phương cho rằng diễn ngôn trong tiểu thuyết đương đại có hai khuynh hướng chính: diễn ngôn thế tục và diễn ngôn chấn thương. Cơ chế văn hóa – xã hội chi phối việc hình thành các khuynh hướng diễn ngôn đó và mỗi khuynh hướng diễn ngôn có một hệ thống nhân vật tương ứng. Trong bài nghiên cứu Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 của Trần Văn Toàn (Tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010), tác giả ứng dụng lý thuyết diễn ngôn theo quan niệm của Foucault tìm hiểu sự hình thành của diễn ngôn khoa học về tính dục trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đầu thế kỉ XX đến năm 1945. Trần Văn Toàn nhận định, tình dục và sự cám dỗ sắc dục đã xuất hiện ngay từ buổi đầu phôi thai của nền văn học mới; đồng thời nó có sự biến đổi phức tạp, sự quyến rũ nhục dục đi từ diễn ngôn đạo đức sang diễn ngôn khoa học tính dục. Tác giả đã chứng minh điều đó qua ba tác phẩm: Truyện nàng Hà
  10. 3 Hương (Hà Hương phong nguyệt) của Lê Hoằng Mưu, Hà Hương hoa nguyệt của Nam Tùng Tử, Đời mưa gió của Nhất Linh và Khái Hưng. Trong bài nghiên cứu Diễn ngôn về xứ thuộc địa trong tác phẩm “Người tình” của M.Duras (đăng trên trang web: http://vanhoanghean.com.vn ngày 14/07/2011) của Nguyễn Thị Ngọc Minh, tác giả đã vận dụng khái niệm diễn ngôn để nghiên cứu về quan hệ nước đôi giữa diễn ngôn thực dân và thuộc địa, đồng thời nói đến diễn ngôn về giới nhằm khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ trong tiểu thuyết Người tình của M.Duras. 2.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề diễn ngôn chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ Lê Khâm – Phan Tứ có đóng góp không nhỏ trong nền văn học Việt Nam, nhất là ở mảng đề tài viết về chiến tranh cách mạng. Thực tế có nhiều công trình nghiên cứu đề cập hoặc ít hoặc nhiều đến sáng tác của Lê Khâm – Phan Tứ. Tuy nhiên, khi xem xét tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ ở góc độ diễn ngôn, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến vấn đề trên. Ở đây chúng tôi chỉ điểm qua những công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình (từ cái nhìn lịch đại) trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ ở phương diện nghệ thuật tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng và thông điệp về chiến tranh và hòa bình mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm. Phan Tứ với những tiểu thuyết viết về chiến tranh (Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 9/1983) của Trần Đăng Xuyền là bài viết đề cập trực tiếp nhất đến đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Phan Tứ. Trong bài viết, Trần Đăng Xuyền khẳng định: “Hạt nhân cơ bản chi phối toàn bộ sáng tác của Phan Tứ là quan niệm của anh về chiến tranh, về con người trong chiến tranh cách mạng. Với Phan Tứ, chiến tranh không chỉ là điều kiện để con người bộc lộ phẩm chất tốt đẹp, anh hùng mà còn là môi trường sàng lọc, phân hóa con người” [115]. Tác giả bài viết nhận định, tiểu thuyết Phan Tứ chú ý đến sự trưởng thành của con
  11. 4 người trong chiến tranh. Bên cạnh đó, tiểu thuyết của Phan Tứ có sự nối kết, kết thúc một tác phẩm cũng là hé mở sự ra đời của một tác phẩm tiếp theo: Phan Tứ luôn có ý thức đổi mới cách viết, cách thể hiện, bộc lộ một khả năng sáng tạo dồi dào của ngòi bút. Dường như qua mỗi cuốn sách, Phan Tứ lại hé mở những vấn đề sẽ đặt ra ở tác phẩm sau […]. Từ Gia đình má Bảy đến Mẫn và tôi và đến Trại S.T.18, tôi ngờ rằng Phan Tứ có ý đồ muốn xây dựng một bộ tranh liên hoàn bằng tiểu thuyết về những chặng đường cách mạng miền Nam [115]. Bên cạnh đó cũng có một số bài viết gián tiếp đề cập đến những bước phát triển của tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng của Lê Khâm – Phan Tứ từ cái nhìn lịch đại: Trong bài viết Đọc “Trước giờ nổ súng” của Lê Khâm (Tạp chí Văn học, số 9/1962), Hữu Hồng nhận định, mặc dù còn những hạn chế, “nhưng với Trước giờ nổ súng, Lê Khâm đã tỏ ra có năng lực khái quát và xây dựng nhân vật khá đều tay, có lối văn chặt chẽ trong sáng, có nhiều tìm tòi trong cách thể hiện” [33]. Trước giờ nổ súng được xếp vào một trong những tác phẩm mở màn cho sự thành công của mùa tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến tranh cách mạng. Bài viết “Gia đình má Bảy” và cách mạng miền Nam trong bước ngoặt lịch sử những năm 1960 – 1961 (Tạp chí Văn học, số 7/1969) của Trần Trọng Đăng Đàn đã khẳng định giá trị của Gia đình má Bảy đối với tiểu thuyết cách mạng miền Nam trong cái nhìn đối sánh với Hòn Đất của Anh Đức. Gia đình má Bảy như một ngôi sao sáng giữa bầu trời Văn học Giải phóng miền Nam. Trần Trọng Đăng Đàn còn nhấn mạnh: thể loại truyện ngắn chỉ là chiếc đòn bẩy đưa tài năng tiểu thuyết của Phan Tứ tiến xa hơn. Với thể loại tiểu thuyết, bức tranh về hiện thực và con người miền Nam trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền trong những năm 1960 – 1961 mới thật sự trở nên hoàn chỉnh hơn dưới ngòi bút của Phan Tứ.
  12. 5 Trong bài viết Tiểu thuyết “Mẫn và tôi” của Phan Tứ (Tác phẩm mới, số 25/1973), Phan Cự Đệ đã thấy được những tiếp nối trong con đường tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng của Phan Tứ từ sau Gia đình má Bảy: “Tiểu thuyết Mẫn và tôi sẽ tiếp tục giải quyết một số vấn đề mà trong Gia đình má Bảy, Phan Tứ chưa có điều kiện đề cập tới”. Phan Cự Đệ cho rằng Mẫn và tôi là một trong những tiểu thuyết thành công nhất của Phan Tứ, đồng thời đánh giá cao những tìm tòi sáng tạo của nhà văn trong quá trình sáng tác. Ở Mẫn và Tôi, Phan Tứ đã phát huy những mặt mạnh trước đây trong phong cách, mở rộng tầm bao quát sử thi và đi sâu vào thế giới nội tâm và quá trình phát triển của những tính cách anh hùng. Cũng nhận định về tiểu thuyết Mẫn và tôi, bài viết “Mẫn và tôi”, một bước phát triển mới của Phan Tứ (Tạp chí Văn học, số 2/1974) của Nguyễn Nghiệp lại khẳng định thành công của Phan Tứ trong tiến trình tiểu thuyết chiến tranh cách mạng bằng sự đối sánh với những tiểu thuyết của chính tác giả:“Mẫn và tôi chứng tỏ một bước tự vượt mình đáng kể của Phan Tứ” [67]. Năm 2002, Mai Hương sưu tầm và tuyển chọn Phan Tứ toàn tập (4 tập, Nxb Văn học, Tp. HCM, 2002), có đưa vào tuyển tập bài viết Lê Khâm – Phan Tứ – Nhà văn chiến sĩ như là một lời giới thiệu về tuyển tập các sáng tác của Phan Tứ. Mai Hương đã đưa ra những nhận định bao quát về quá trình sáng tác của Phan Tứ ở để tài chiến tranh cách mạng. Tác giả bài viết cũng đã nhiều lần nói đến vấn đề chuyển biến trong nghệ thuật sáng tác của Phan Tứ từ cái nhìn lịch đại. Nguyễn Hòa trong bài viết Về văn xuôi, và không chỉ về văn xuôi (đăng trên trang web: www.viet-studies.info ngày 19/10/2008) nhấn mạnh sự thành công của Mẫn và tôi trong danh sách những tác phẩm văn chương viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang. Theo Nguyễn Hòa, từ Bên kia biên giới, Trước giờ nổ súng đến Mẫn và tôi, Phan Tứ đã đi qua một đời sáng
  13. 6 tác, chính vì vậy, tác phẩm là sự đan bện, hòa quyện từ thực tế cuộc sống và tài năng của nhà văn, đó là những sáng tạo nghệ thuật đích thực. Ngoài ra còn có các bài viết, công trình nghiên cứu khác như: Phan Tứ từ “Về làng” đến “Mẫn và tôi” của Lê Thị Đức Hạnh (Tạp chí Văn học, số 2/1975); Hình ảnh người phụ nữ miền Nam trong chống Mỹ qua truyện của Phan Tứ (Tạp chí Văn học, số 1/1978); Không gian – thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Trước giờ nổ súng” của Phan Tứ của Phạm Ngọc Hiền (đăng ngày 05/12/2011 trên trang web: http://tapchinhavan.vn) cũng đã đi sâu tìm hiểu sự thành công trong sáng tác của Phan Tứ. Đứng trên lập trường cá nhân yêu thích sáng tác của Lê Khâm – Phan Tứ, một số luận văn, khóa luận nghiên cứu văn học cũng chọn tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ để tìm hiểu: Bước đầu tìm hiểu sự thể hiện con người trong sáng tác của Phan Tứ (Luận văn của Huỳnh Văn Hoa, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1983); Đóng góp của Phan Tứ trong lĩnh vực văn xuôi cách mạng Miền Nam (1954 – 1975), (Luận văn của Nguyễn Đình Kiền, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1997); Đặc điểm tiểu thuyết Phan Tứ, (Luận văn của Nguyễn Thị Hoài An, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005); Yếu tố sử thi trong sáng tác của Phan Tứ (Khóa luận tốt nghiệp của Tào Thị Hải trường Đại học Vinh, 2006), Sự đổi mới cách nhìn về con người trong tiểu thuyết “Người cùng quê” của Phan Tứ (Luận văn của Nguyễn Thị Minh Phượng, Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, 2013). Nhìn chung, các công trình, các bài viết nghiên cứu được đề cập ở trên đã ít nhiều đi vào tìm hiểu và bước đầu đưa ra được những nhận xét, đánh giá về tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ. Mặc dù chưa đi sâu vào tiếp cận nhưng các tác giả cũng đã đặt ra vấn đề về bước chuyển – tức sự phát triển trong quá trình sáng tác tiểu thuyết chiến tranh cách mạng của Lê Khâm – Phan Tứ. Tuy nhiên, để hiểu một cách đầy đủ hơn về quan niệm, tư tưởng trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ, chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện, đa chiều hơn bằng cách đặt
  14. 7 tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ trong sự vận động mang tính lịch đại và đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng chủ yếu của tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ. Như đã điểm qua, chưa có công trình nào tiếp cận tiểu thuyết của nhà văn Lê Khâm – Phan Tứ từ góc độ diễn ngôn chiến tranh và hòa bình nên chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để tiến hành nghiên cứu đề tài “Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ: Một cái nhìn lịch đại”. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ dưới góc nhìn diễn ngôn để tìm hiểu vấn đề “Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ: Một cái nhìn lịch đại”. Và từ đó hướng đến tìm hiểu những bước chuyển về quan niệm, tư tưởng về chiến tranh và hòa bình cũng như nghệ thuật trong tiến trình tiểu thuyết của nhà văn Lê Khâm – Phan Tứ. Cụ thể phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ tập trung vào các tiểu thuyết sau: Bên kia biên giới (1958) Trước giờ nổ súng (1960) Gia đình má Bảy (1968) Mẫn và tôi (1972) Trại S.T.18 (1974) Người cùng quê (1985 – 1996) 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp cận hệ thống: Để triển khai luận văn, chúng tôi đặt tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ trong hệ thống tiểu thuyết viết đề tài chiến tranh cách mạng của Việt Nam. Điều này giúp chúng tôi tìm hiểu và làm rõ các đặc điểm riêng, độc đáo trong quan niệm, tư tưởng, phong cách của Lê Khâm – Phan Tứ cũng như những chuyển biến trong tiểu thuyết của nhà văn.
  15. 8 Phương pháp loại hình: Phương pháp loại hình giúp chúng tôi xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình thể tài, loại hình văn xuôi nghệ thuật. Cụ thể khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi luôn quan tâm đến những đặc trưng nghệ thuật của thể loại tiểu thuyết để tìm ra đặc điểm cấu trúc, quy trình kiến tạo diễn ngôn trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ. Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh để thấy sự tương quan giữa tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ với tiểu thuyết của các nhà văn khác cùng viết về đề tài chiến tranh để chỉ những đặc trưng riêng trong diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ. Đồng thời, so sánh hai giai đoạn tiểu thuyết với hai bút danh Lê Khâm và Phan Tứ để thấy sự chuyển biến trong tiểu thuyết của chính nhà văn. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Tiếp cận tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ từ góc độ diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình từ cái nhìn lịch đại, chúng tôi đặt tiểu thuyết của nhà văn trong mối quan hệ với ngôn ngữ học và lịch sử (bối cảnh văn hóa, xã hội thời chiến và thời hậu chiến) để thấy được những tác nhân tạo nên sự chuyển biến trong tiểu thuyết của ông từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Vận dụng lý thuyết diễn ngôn để phân tích diễn ngôn tiểu thuyết. Với việc sử dụng phương pháp phân tích hình thức văn bản trong ngôn ngữ chúng tôi có thể phân tích tác phẩm thành các đơn vị nhỏ hơn. Từ đó đặt ngôn ngữ trong hành động nói, trong bối cảnh giao tiếp để giải quyết nội dung và yêu cầu của luận văn. Ngoài ra, các thao tác phân tích, tổng hợp,… cũng được thường xuyên sử dụng trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn Hầu hết các nhà nghiên cứu đi trước đã chỉ ra được những đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp cũng như những điểm hạn chế của tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ. Nhưng đa phần các công trình nghiên cứu đều chú ý tác phẩm dưới
  16. 9 góc độ: phản ánh hiện thực, thể loại lịch sử, loại hình văn học. Trên cơ sở kế thừa, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm khẳng định giá trị các tác phẩm của Lê Khâm – Phan Tứ cũng như vị trí, vai trò của ông trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Có thể nói, hướng tiếp cận tiểu thuyết từ góc độ diễn ngôn là một hướng tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ. Từ góc nhìn diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình cho phép khám phá, đi sâu tác phẩm trên phương diện nội dung tư tưởng, lập trường, quan điểm cũng như nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn. Đồng thời mở rộng khả năng đối sánh tiểu thuyết từ thời Lê Khâm đến thời Phan Tứ có những bước chuyển mang tính lịch đại. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung Trong chương này, chúng tôi triển khai những vấn đề chung về thể loại tiểu thuyết, đặc điểm của diễn ngôn tiểu thuyết; bối cảnh tâm lí – xã hội hình thành “trường văn học” và nội dung, cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh dưới hình thức diễn ngôn; các mô thức diễn ngôn. Từ đó bước đầu khái quát về vấn đề diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết thời chiến và thời hậu chiến cũng như đặc điểm của diễn ngôn chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ. Chương 2. Thông điệp về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ nhìn từ lập trường của chủ thể diễn ngôn Từ chương 2, chúng tôi đi vào vấn đề chính mà luận văn đặt ra. Từ lập trường chủ thể diễn ngôn, chúng tôi triển khai vấn đề thông điệp về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ thành ba cái nhìn: nhìn từ lập trường, ý thức hệ cộng đồng; nhìn từ lập trường cá nhân; và nhìn từ lập trường, quan điểm nghệ thuật của tác giả để thấy được đặc trưng riêng của tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ trong nền văn học chiến tranh cách mạng.
  17. 10 Chương 3. Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ nhìn từ cấu trúc và phương thức kiến tạo ngôn từ Ở chương 3, chúng tôi triển khai vấn đề “Chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết Lê Khâm – Phan Tứ nhìn từ cấu trúc và phương thức kiến tạo ngôn từ” với ba luận điểm: Diễn ngôn người kể chuyện; Diễn ngôn nhân vật; Và cuối chương 3 sẽ chốt lại vấn đề “Từ Lê Khâm đến Phan Tứ: Một bước chuyển mang tính lịch đại” để thấy được những chuyển biến của diễn ngôn chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết của Lê Khâm – Phan Tứ.
  18. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tiểu thuyết như một loại hình diễn ngôn 1.1.1. Tiểu thuyết và đặc trưng thi pháp của tiểu thuyết hiện đại Tiểu thuyết là một thể loại thuộc phương thức tự sự. Thế kỉ XIX, tiểu thuyết được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ”. Tiểu thuyết có năng lực phản ánh những bức tranh hiện thực với quy mô lớn, bao quát và sinh động trên bình diện chiều rộng lẫn chiều sâu. 1.1.1.1. Đặc trưng nổi bật nhất của tiểu thuyết là “chất văn xuôi”. Tiểu thuyết tái hiện một đời sống đa dạng với đầy đủ sắc thái thẩm mỹ. Chúng ta có thể bắt gặp những sự trái ngược trong tiểu thuyết: từ những cuộc đời thật, xù xì, thô ráp, góc cạnh đến những tư tưởng thâm thúy, những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời; từ những lí tưởng, tình cảm cao đẹp trong sáng đến những dục vọng ích kỉ thấp hèn. Trong tiểu thuyết có cả cái vĩ đại lẫn cái tầm thường, cái nghiêm túc lẫn cái lố bịch, cái bi lẫn cái hài, cái thiện lẫn cái ác,… Không những thế, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật. Người viết tiểu thuyết có thể tỏ thái độ thân mật, thậm chí suồng sã với nhân vật của mình, có thể bình phẩm, đánh giá nhân vật trên một trường giá trị đồng đẳng,… Theo Bakhtin, người viết tiểu thuyết “có thể xuất hiện trong trường miêu tả ở bất cứ tư thế tác giả nào, có thể mô tả những sự việc có thật trong đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với các địch thủ văn học của mình,…” [4, tr.36]. 1.1.1.2. Tiểu thuyết xây dựng thế giới nghệ thuật, thế giới hình tượng ở một tọa độ mới. Tiểu thuyết luôn miêu tả thế giới như là một hiện tại đương thời, đang dang dở, chưa hoàn thành. Cũng chính vì là thời hiện tại dang dở, chưa phải là sự bất động nên tiểu thuyết luôn phải uyển chuyển để hợp với những
  19. 12 biến động bất trắc của hiện tại. Tiểu thuyết luôn kiếm tìm một hình hài mới để dung hợp tất cả những hiện thực sâu rộng. Và chính đặc điểm này tạo nên khả năng biến đổi vô tận của tiểu thuyết, khả năng hoài nghi và phán xét quá khứ: “Đặc điểm của nó là luôn nhận thức lại, kiến giải lại, đánh giá lại. Cái trung tâm nơi xuất phát mọi hoạt động biện giải và biện hộ cho quá khứ được di chuyển vào tương lai” [4, tr.62]. 1.1.1.3. Tiểu thuyết phản ánh, tái hiện cuộc sống từ cái nhìn thiên về góc độ đời tư, khám phá thế giới tâm hồn và số phận của con người. Trong tiểu thuyết hiện đại, hình tượng con người không phải là con người hoàn tất và hoàn toàn trùng khít với chính mình, không phải là một con người theo những khuôn mẫu của lịch sử – xã hội. Con người “không tương hợp với số phận và vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn thân phận của mình hoặc nhỏ bé hơn tính người của mình. Nó không thể hoàn toàn rốt cuộc chỉ là một viên chức, một địa chủ, một lái buôn, một vị hôn phu, một kẻ cả ghen, một người cha,…” [4]. Con người trong tiểu thuyết là những con người không lặp lại đang hiện diện trong thế giới thực. 1.1.1.4. Ở tiểu thuyết có sự co giãn linh hoạt của cấu trúc tác phẩm. Có tiểu thuyết chứa rất nhiều nhân vật (Chiến tranh và hòa bình, L.Tolstoy), có tiểu thuyết chỉ có một vài nhân vật (Ông già và biển cả, Hemingway), thậm chí người ta còn nói đến sự biến mất của nhân vật. Không gian, thời gian trong tiểu thuyết không có sự giới hạn. Tiểu thuyết có thể miêu tả cả một trăm năm cũng có thể miêu tả chỉ có một ngày. Độ dài của tiểu thuyết cũng linh hoạt, có thể rất dài cũng có thể ngắn. Đôi khi là hàng nghìn trang, đôi khi trên dưới một trăm trang. Vì thế mà tiểu thuyết có khả năng tái hiện tất cả mọi phương diện của đời sống luôn biến động. 1.1.1.5. Ngôn ngữ của tiểu thuyết là ngôn ngữ đa thanh. Theo Bakhtin: “Tiểu thuyết đó là những tiếng nói xã hội khác nhau, đôi khi là những ngôn ngữ xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một
  20. 13 cách nghệ thuật” [4, tr.116]. Nghĩa là trong tiểu thuyết cùng một lúc có thể vang lên nhiều giọng của nhiều chủ thể và hướng vào nhau tạo nên một cuộc đối thoại nhiều giọng, đa thanh. Đây là đặc điểm trái ngược với giọng trong thơ trữ tình. Tóm lại, tiểu thuyết là một thể loại thường xuyên biến đổi. Nó không bị bó hẹp trong bất kì khuôn khổ nào mà nó luôn có xu hướng kiếm tìm cho mình những hình thức mới để có thể khái quát và tổng hợp cao nhất mọi hiện tượng của đời sống. 1.1.2. Tiếp cận tiểu thuyết từ góc độ diễn ngôn Lúc mới ra đời, diễn ngôn chủ yếu là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học và thường được hiểu theo nghĩa là tu từ học. Bắt đầu từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, trong bối cảnh sự chuyển hướng mạnh mẽ của hệ hình lý thuyết (hay còn gọi là khúc ngoặt ngôn ngữ), thuật ngữ diễn ngôn đã được bổ sung thêm những hàm nghĩa mới với phạm vi phủ sóng rất rộng. Nhưng nhìn chung, có thể khái quát thành ba khuynh hướng tiếp cận diễn ngôn với sự ảnh hưởng tư tưởng từ ba nhà nghiên cứu của thế kỉ XX: F.de Saussure, M.Bakhtin và M.Foucault. Công trình nghiên cứu Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn của Nguyễn Thị Ngọc Minh đã tóm tắt ba cách tiếp cận diễn ngôn từ ngôn ngữ học (diễn ngôn như là cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói), phong cách học (diễn ngôn như là lời nói – tư tưởng hệ) và xã hội học (diễn ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực). Do nền tảng xuất phát cũng như cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất, vai trò của ngôn ngữ đã hình thành nên ba quan niệm khác nhau về thuật ngữ diễn ngôn. Saussure nhấn mạnh đến tính chất hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn; M.Bakhtin, M.Foucault lại khẳng định tính chất sinh thành, đa dạng, năng sản của diễn ngôn. Nếu như diễn ngôn của Saussure nhằm chỉ ra những mô hình bất biến của văn học và ngôn ngữ, Bakhtin tìm bản chất đối thoại của ý thức hệ bên trong mỗi diễn ngôn; thì Foucault chú ý đến
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2