intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Du kí, một bộ phận độc đáo trong sự nghiệp của nhà văn Phạm Quỳnh

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày khái quát về Phạm Quỳnh và sáng tác du kí trong bối cảnh văn chương quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX; nội dung, tư tưởng trong diễn ngôn du kí Phạm Quỳnh; sự chuẩn bị của lối viết mới qua du kí Phạm Quỳnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Du kí, một bộ phận độc đáo trong sự nghiệp của nhà văn Phạm Quỳnh

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ KIM NHẠN DU KÍ, MỘT BỘ PHẬN ĐỘC ĐÁO TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN PHẠM QUỲNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội, 5/2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ........................................... NGUYỄN THỊ KIM NHẠN DU KÍ, MỘT BỘ PHẬN ĐỘC ĐÁO TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN PHẠM QUỲNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Phạm Xuân Thạch Hà Nội, 5/2013
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 2 3. Nhiệm vụ của đề tài........................................................................................................ 8 4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 8 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 9 6. Bố cục luận văn: ........................................................................................................... 10 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẠM QUỲNH VÀ SÁNG TÁC DU KÍ TRONG BỐI CẢNH VĂN CHƢƠNG QUỐC NGỮ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX ................ 11 1.1. Vài nét cuộc đời, sự nghiệp Phạm Quỳnh ............................................................. 11 1.1.1. Cuộc đời Phạm Quỳnh ....................................................................................... 11 1.1.2. Văn nghiệp Phạm Quỳnh.................................................................................... 13 1.1.2.1. Dịch thuật ..................................................................................................... 13 1.1.2.2. Khảo cứu, phê bình ...................................................................................... 14 1.1.2.3. Sáng tác du kí ............................................................................................... 17 1.2. Du kí trong bối cảnh văn chƣơng quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX ............... 19 1.2.1. Tiền đề lí thuyết về du kí .................................................................................... 19 1.2.1.1. Du kí ở giữa những giao thoa ...................................................................... 19 1.2.1.2. Du kí, diễn ngôn về không gian ................................................................... 21 1.2.2. Khái lược du kí quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX ........................................... 25 1.2.2.1. Các tiền đề văn hóa - xã hội ......................................................................... 25 1.2.2.2. Du kí quốc ngữ đầu thế kỉ XX ..................................................................... 28 CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG TRONG DIỄN NGÔN DU KÍ PHẠM QUỲNH ... 31 2.1. Nhãn quan văn hóa, chính trị của Phạm Quỳnh qua du kí ................................ 31 2.1.1. Cái nhìn văn hóa qua các không gian Việt ......................................................... 31 2.1.1.1. Cảnh quan đô thị .......................................................................................... 31 2.1.1.2. Cảnh quan nông thôn, miền núi ................................................................... 36 2.1.2. Cái nhìn chính trị về không gian thế giới ........................................................... 41 2.1.2.1. Cảnh quan thuộc địa .................................................................................... 42 2.1.2.2. Cảnh quan chính quốc.................................................................................. 50
  4. 2.2. Bản lĩnh trí thức của Phạm Quỳnh qua du kí ..................................................... 53 2.2.1. Nhận diện các vấn đề nước Việt Nam mới ......................................................... 54 2.2.1.1 Định vị cốt cách văn hóa............................................................................... 54 2.2.1.2. Vấn đề ngôn ngữ .......................................................................................... 55 2.2.1.3. Vấn đề sinh kế.............................................................................................. 56 2.2.1.4. Vấn đề đoàn kết dân tộc ............................................................................... 60 2.2.2. Tư thế kẻ sĩ trước chính quyền ........................................................................... 62 2.2.2.1. Thái độ với triều đình Huế ........................................................................... 62 2.2.2.2. Thái độ với nước Pháp ................................................................................. 65 CHƢƠNG 3: SỰ CHUẨN BỊ CỦA LỐI VIẾT MỚI TRONG DU KÍ PHẠM QUỲNH .............................................................................................................................. 71 3.1. Kết cấu và sự hỗn dung thể loại ............................................................................. 71 3.1.1. Kết cấu du kí ....................................................................................................... 71 3.1.1. Sự hỗn dung thể loại ........................................................................................... 74 3.2. Ngƣời kể chuyện ...................................................................................................... 77 3.3. Ngôn ngữ du kí ........................................................................................................ 81 3.3.1. Vốn từ ................................................................................................................. 82 3.3.1.1. Vốn Việt cổ .................................................................................................. 82 3.3.1.2. Vốn Hán-Việt ............................................................................................... 83 3.3.1.3. Vốn Pháp văn ............................................................................................... 86 3.3.2. Cú pháp du kí...................................................................................................... 88 3.3.3. Đặc trưng, tính cách ngôn ngữ du kí .................................................................. 92 3.3.3.1. Tính khoa học .............................................................................................. 92 3.3.3.2. Tính biểu cảm, hình tượng ........................................................................... 93 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 96 DANH MỤC THAM KHẢO ............................................................................................ 99
  5. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ba mươi năm đầu thế kỉ XX đánh dấu sự vận động hình thành thể loại văn học mới, lấy các tiêu thức của văn học phương Tây làm hệ quy chiếu; trong sự biến chuyển mấy mươi năm ấy, văn học Việt Nam đã phải trải qua những bước đệm mà theo đó, những dấu hiệu mới mẻ dần xuất lộ, nhờ được công chúng mới ủng hộ và chấp nhận, chúng dần được nhân rộng, từng bước chiếm lĩnh, đưa nền văn học tiến vào kỉ nguyên hiện đại. Trong giai đoạn bước chuyển ấy, du kí - một thể tài đã có thời kì phát triển nở rộ trên báo chí suốt những năm 1920 cho đến đầu những năm 1930, trở thành một hiện tượng độc đáo của lịch sử văn học. Sự nở rộ của du kí diễn ra trong bối cảnh tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, một mặt đánh dấu sự thay đổi trong tư duy và tập quán sinh hoạt của người Việt, mặt khác ghi dấu những cách tân trong nghệ thuật tự sự, là bước chuẩn bị cho công cuộc hiện đại hóa văn học. Tuy thế, du kí do chiếm vị thế nhỏ trong tiến trình văn học, nên cho đến nay, thể loại này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi tiến hành tìm hiểu, nhìn nhận du kí một cách nghiêm túc để từ đó thấy quá trình hiện đại hóa của văn học dân tộc. Sự ra đời và phát triển của du kí quốc ngữ gắn liền với báo chí, trong đó nổi lên vai trò của Nam phong tạp chí như một bệ đỡ quan trọng nhất của đời sống văn học ba mươi năm đầu thế kỉ XX. Cũng trên tờ báo này, du kí viết bằng tiếng Việt đã tạo được một bước trưởng thành cả về chất và lượng so với thời kì đầu tiên vào cuối thế kỉ XIX, đánh dấu bằng các tác phẩm của Trương Vĩnh Kí, Trương Minh Kí, đăng trên Gia định báo. Tìm hiểu du kí trên Nam phong tạp chí sẽ cho thấy bước tiến của văn xuôi viết bằng quốc ngữ, sự trưởng thành của tư duy nghệ thuật trước thềm hiện đại hóa văn học dân tộc. Sự bùng nổ của du kí trên Nam phong trong suốt thập kỉ 1920 không thể không kể đến công lao khởi xướng, góp sức của chủ bút Phạm Quỳnh. Với 7 tác phẩm du kí, ông đã tạo cho mình một lối văn du kí độc đáo, sâu sắc, có giá trị nhiều mặt. Chính bởi vậy, việc tìm hiểu du kí Phạm Quỳnh sẽ hứa hẹn khám phá được những đặc sắc trong tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật mà ông thể hiện, không
  6. giống với các bộ phận khác trong văn nghiệp của ông, và càng không thể trộn lẫn với du kí của các nhà văn khác, qua đó giúp chúng ta nhìn ra và có những đánh giá khách quan về con người cũng như phần nào tư tưởng của Phạm Quỳnh, một nhân vật bị không ít hiểu lầm ngay từ lúc sinh thời lẫn sau khi ông mất. Chọn một mảng trước tác trong văn nghiệp của nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhưng không được đánh giá đúng trong một thời gian dài do những thiên kiến chính trị, chúng tôi hi vọng sẽ đưa ra ánh sáng một phần chân dung con người Phạm Quỳnh như ông vốn thế, để từ đó có những hình dung khách quan hơn về chính ông và chính lịch sử văn học. Theo hướng đó, tìm hiểu du kí sẽ là công việc đầu tiên trong tổng thể các công trình nghiên cứu về Phạm Quỳnh sẽ được chúng tôi thực hiện về sau. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề đang nghiên cứu - du kí, một bộ phận độc đáo trong sự nghiệp của Phạm Quỳnh - đã được nhắc đến đâu đó trong các công trình nghiên cứu, dù không nhiều và xuyên suốt. Trong số các công trình văn học sử trước Cách mạng tháng Tám, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan đã dành cho du kí Phạm Quỳnh những lời bình ngắn nhưng súc tích về nội dung cũng như cách kể chuyện. Ông đánh giá: “Quyển ba tháng ở Paris (rút ở những bài Pháp du hành trình nhật kí, đăng trong Nam Phong từ số 58 - tháng Tư 1922) của ông là một quyển du kí rất thú vị. Chuyện ông kể đã có duyên lại vui, tường tận từng người từng chốn, làm cho người chưa được bước chân lên đất Pháp, chưa hề đến Paris cũng tưởng tượng qua được những thắng cảnh và những nơi cổ tích của cái kinh thành dưới trời Tây và chia ít nhiều cảm xúc cùng nhà du lịch”; và bình luận về nghệ thuật viết: “Lối viết du kí, vừa thuật chuyện vừa xen lời phê bình một cách trang nhã như thế là một lối mặn mà khéo léo, làm cho ai cũng ham đọc.” [50, tr. 95] Tiếp đó, năm 1965, Phạm Thế Ngũ trong công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) đã dành ra hai trang để bàn về du kí Phạm Quỳnh. Tác giả giới thiệu tất cả các tác phẩm du kí của ông chủ bút Nam phong, luận bình về sức hấp dẫn và giá trị văn hóa, lịch sử của chúng. Tác giả ghi nhận Phạm Quỳnh chính là người mở đầu cho lối văn du hành trên Nam phong.
  7. Từ hai ông trình mang tính văn học sử nhắc đến du kí Phạm Quỳnh trên, có thể thấy trong suốt một thời gian dài, tính từ thời điểm những tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh ra đời đến đầu thế kỉ XXI, du kí nhận được không nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Mảng sáng tác này cũng không được bàn riêng trong một công trình mà chỉ được nhắc đến khi tác giả công trình tổng kết sự nghiệp của ông chủ báo Nam phong, dưới dạng điểm qua tác phẩm chính cùng đôi lời bình luận, cảm tưởng của nhà nghiên cứu về bộ phận trước tác ấy. Trong phần lớn các công trình văn học sử của thế kỉ XX khác như Phê bình và cảo luận (Thiếu Sơn), Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 (Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng), du kí của Phạm Quỳnh không được đề cập. Tựu chung lại, tư cách người sáng tác du kí ở Phạm Quỳnh ít được các nhà nghiên cứu chú ý đến; trong khi đó tư cách nhà viết tiểu luận, người chủ bút, vai trò kiến thiết, kiến tạo nền văn hóa, văn học mới vốn là những phương diện nổi trội trong sự nghiệp của tác giả được nhiều nhà nghiên cứu lưu tâm làm rõ. Tồn tại thực trạng này, theo chúng tôi, có hai nguyên nhân: (1) Du kí là thể loại giao thoa giữa báo chí và văn chương, ở chỗ du kí vừa có tính phi hư cấu (một đặc điểm quan trọng của báo chí) lại vừa được tổ chức, thể hiện một cách nghệ thuật (trong hành văn, kết cấu, ngôn ngữ,…) Chính sự giao thoa thể loại này đã khiến du kí ít được chú ý so với các thể loại thuần túy khác. (2) Du kí khá tự do trong kết cấu, phát huy được cái tôi phóng túng của người viết, nhưng vì du kí gắn với các chuyến đi, bởi vậy trong cách hình dung của giới nghiên cứu lâu nay, nó được/bị ngầm hiểu là lối “văn chơi”, không phải nơi thể hiện tập trung và cô đọng nhất những kết tinh tư tưởng hay tài năng nghệ thuật của người viết so với các thể loại khác như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, tiểu luận, bút kí... Thực tế nghiên cứu, phê bình nước ta cho thấy, việc tìm hiểu, đánh giá một tác gia, nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn, giới nghiên cứu thường chú tâm đến những bộ phận lớn trong sự nghiệp của họ, coi đó là nơi thể hiện tập trung nhất những đóng góp của nhân vật/ tác giả đó. Đối với trường hợp Phạm Quỳnh, người có những đóng góp đa dạng, ông không chỉ dùng một phương thức để ghi lại tư tưởng của mình, thực tế ông là cây bút đa dạng: khi là
  8. nhà tiểu luận (Pháp văn và Việt văn), khi là nhà bình luận, cây bút phê bình văn học, lúc lại viết nghiên cứu, khảo cứu,… Trong đó, những bài tiểu luận, khảo cứu của ông - mang tính luận đề - nổi tiếng ngay lúc đương thời, có những tác động to lớn đến nhận thức của công chúng thời đó. Mặt khác, chính Phạm Quỳnh đã định hình cho mình lối viết mà Vũ Ngọc Phan đã rất tinh tường nhận ra: “Ở nhà văn này, người ta nhận thấy một khuynh hướng rõ ràng về học thuyết hay về những thứ mà phần tư tưởng là phần cốt yếu” [50, tr. 82]. Dễ hiểu, giới nghiên cứu sẽ bám vào những trang viết gây tiếng vang, thể hiện rõ nhất chủ ý của người viết để luận về Phạm Quỳnh hơn là những sáng tác mà chính bản thân tác giả của nó không trực tiếp đứng ra để nói lên tư tưởng. Hai điều mà chúng tôi chỉ ra trên đây thật ra có mối liên hệ mật thiết với nhau, thể hiện cách hình dung của hệ hình tư duy cấu trúc luận, coi một vài thể loại là trung tâm, là có vị thế quan trọng để cho những tiểu loại khác ít quan trọng hơn châu tuần xung quanh, nằm ở vị trí ngoại biên, bên lề, chiếm vị trí nhỏ bé trong thang tầng các thể loại văn học, và do đó ít được chú ý đến. Thực tế đó buộc những người đi sau tìm hiểu phải nhìn du kí của Phạm Quỳnh như một bộ phận đẳng lập, có những giá trị riêng, thể hiện tiếng nói riêng mà các bộ phận khác không có được. Có như vậy người nghiên cứu mới mong khái quát hết những nét đặc sắc của thể tài du kí trong toàn bộ sự nghiệp phong phú của Phạm Quỳnh, đồng thời, chỉ ra những giá trị, những đóng góp của ông đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc thông qua sáng tác du kí. Những năm đầu thế kỉ XXI đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử nghiên cứu du kí của Phạm Quỳnh, trước hết thể hiện ở việc nhiều tác phẩm du kí của ông được công bố lại, cho thấy sự lưu tâm của giới nghiên cứu, người làm sách về mảng còn ít được chú ý của ông chủ báo Nam phong, có thể kể: Mười ngày ở Huế (Nxb. Văn học, 2001), Pháp du hành trình nhật kí: nhật kí đi Pháp từ tháng 3 đến tháng 9/1922 (Vương Trí Nhàn chú giải, Nxb. Hội Nhà văn, 2004), đặc biệt là sự xuất hiện của hai công trình: Du kí Việt Nam (tạp chí Nam phong 1917-1934) (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, ba tập, tổng 1918 trang sách, khổ 14x20 cm, Nxb. Trẻ, 2007), cuốn sách tuyển chọn toàn bộ du kí đăng trên Nam phong tạp chí, trong đó có đầy đủ các sáng tác du kí của Phạm Quỳnh; và gần đây nhất là cuốn: Phạm Quỳnh -
  9. Tuyển tập du kí (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, Nxb. Tri thức - Công ty văn hóa Phương Nam, 2013) công bố trọn vẹn du kí Phạm Quỳnh. Những động thái này đã khơi nguồn, rộng đường cho những nghiên cứu bước đầu về thể tài du kí của ông chủ báo Nam phong trong vòng hơn chục năm nay. Phê bình về du kí Phạm Quỳnh, Nguyễn Huệ Chi khi soạn mục từ Phạm Quỳnh trong cuốn Từ điển văn học (bộ mới) (Đỗ Đức Hiểu chủ biên), đã đề cập vắn tắt nhưng cũng khái quát được một nét đặc sắc không chỉ của du kí Phạm Quỳnh: “Ngay cả những thiên du kí, phần tra soát, luận lí vẫn nhiều hơn những trang nói lên tâm trạng và cảm xúc của mình, nên giá trị sưu khảo trong đó rất lớn (chẳng hạn bài viết về lễ tế giao) nhưng đây đó vẫn có những nhận xét tinh tế, dí dỏm” [20, tr. 1364]. Sau hàng loạt tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh được công bố trở lại, trên nhiều tờ báo lớn, thể tài du kí (trong đó có du kí Phạm Quỳnh) được luận bàn: Đọc sách để đi chơi (Tuổi trẻ, số ra ngày 23/3/2007) của Ngân Xuyên, Du kí trên tạp chí Nam phong (Người đại biểu nhân dân, số 91, ngày 1/4/2007) của Phong Lê, Du kí như một thể tài (Thể thao và văn hóa, số 50, ngày 27/04/2007) của Linh Lê, Viết của sự đi (Doanh nghiệp, số ra ngày 13/5/2007) của Trung Sơn,… Trong khuôn khổ của báo chí, tác giả các bài viết trên đây đều nhắc đến Phạm Quỳnh như một người mở đầu cho thể văn du kí trên báo Nam phong, chỉ ra được một nét hấp dẫn nào đó của du kí Phạm Quỳnh, đặc biệt là giá trị nhiều mặt như lịch sử, văn hóa, xã hội học, phong tục tập quán,… được thể hiện trong mỗi ghi chép của ông. Người giới thiệu một cách hệ thống về du kí phải kể đến là Nguyễn Hữu Sơn, tác giả của các công trình sưu tập đầy đủ du kí trên Nam phong, trong đó có du kí Phạm Quỳnh. Ông đi từ lịch sử thể tài du kí chữ Hán: Thể tài văn xuôi du kí chữ Hán thế kỉ XVIII-XIX và những đường biên thể loại, đến những nhận định khái quát về: Thể tài du kí trên Nam phong tạp chí (1917-1934) (Nghiên cứu văn học, số 4/2007). Nguyễn Hữu Sơn cũng có nhiều bài báo phân tích những đặc điểm riêng của du kí quốc ngữ viết về từng vùng đất cụ thể giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX: Phác thảo Hà Nội qua những du kí xưa (tạp chí Thế giới mới, số 357/1998), Phác thảo du kí Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám (Hà Nội ngày nay, số 6/2000), Phác thảo du ký xứ Huế nửa đầu thế kỉ XX (Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 14/2000), Du kí
  10. Quảng Ninh nửa đầu thế kỉ XX (Văn nghệ Hạ Long, số Tết/2002), Du kí Ninh Bình nửa đầu thế kỉ XX (Văn nghệ Ninh Bình, số 6/2004), Thể tài du kí và các tác gia Nam bộ từ nửa cuối thế kỉ XIX đến 1945, (Kiến thức ngày nay, số 570/2006), Du kí về vùng văn hóa Nam bộ trên Nam phong tạp chí (1917-1934) (Kiến thức ngày nay, số 619/2007), đáng chú ý hơn cả là những bài viết về du kí đề cập đến mối quan hệ quốc tế: Du kí của người Việt Nam viết về nước Pháp và mối quan hệ Pháp-Việt giai đoạn cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, Du ký của người Việt Nam viết về các nước và những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ X, Phạm Quỳnh và những trang du kí viết về nước Pháp (Kiến thức ngày nay, số Tất niên, 2013). Trong tất cả các bài viết ấy, du kí Phạm Quỳnh đều được nhắc đến với mức độ nông, sâu tùy vào phạm vi và đối tượng mà tác giả muốn khái quát. Đặt du kí Phạm Quỳnh vào bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nguyễn Hữu Sơn khẳng định sức hấp dẫn và giá trị văn hóa-lịch sử của những trang viết này. Tìm hiểu mảng du kí về mối quan hệ Việt - Pháp, tác giả đặc biệt nhấn mạnh hai tác phẩm Pháp du hành trình nhật kí và Thuật chuyện du lịch ở Paris của Phạm Quỳnh, coi đó là những chiếc cầu nối, nơi phản ánh mối quan hệ giữa hai nước giai đoạn này. Tất cả các bài viết của Nguyễn Hữu Sơn về du kí Phạm Quỳnh đều có tính chỉ dẫn rất cao cho người nghiên cứu sau này. Đi sâu nghiên cứu trực diện du kí Phạm Quỳnh, năm 2008 xuất hiện hai công trình: Thể tài du kí của Phạm Quỳnh trên Nam phong tạp chí của Trần Thị Ái Nhi (luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Đại học Quy Nhơn) và Nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký của Đặng Hoàng Oanh (báo cáo khoa học, Đại học Vinh). Trong công trình Thể tài du kí của Phạm Quỳnh trên Nam phong tạp chí, đi sâu phân tích 6 trên tổng số 7 tác phẩm du kí Phạm Quỳnh, tác giả đã khái quát những nét tiêu biểu trong cuộc đời, sự nghiệp Phạm Quỳnh, chỉ ra đặc điểm thể tài du kí từ truyền thống chữ Hán đến định lượng thể tài du kí trên Nam phong tạp chí. Tiếp đó, bằng cái nhìn tổng quan, tác giả công trình đã khái quát, cho người đọc hình dung tổng thể các vấn đề nội dung, nghệ thuật của du kí Phạm Quỳnh, cụ thể: Tác giả khái lược lại hiện thực và lịch sử được thể hiện các tác phẩm du kí, nhấn mạnh phong cảnh, danh thắng, phong tục tập quán, con người (vua chúa, quan lại, danh sĩ, và
  11. bản thân con người nhà văn) và quan hệ Đông - Tây; Về nghệ thuật viết du kí của Phạm Quỳnh, tác giả đã chỉ ra những đặc sắc trong phương thức tự sự, nghệ thuật khắc họa con người, cảnh vật, kết cấu tác phẩm và cuối cùng là ngôn ngữ du kí. Trần Thị Ái Nhi tỏ ra rất chú trọng đến khảo sát ngôn ngữ khi lập bảng thống kê ngữ liệu cổ, ngữ liệu Hán-Việt, nhìn thấy ngôn ngữ du kí Phạm Quỳnh chịu ảnh hưởng của Truyện Kiều và ca dao, khẳng định ông chủ báo Nam phong là người “có ý thức kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây trong việc sử dụng từ ngữ để xây dựng câu văn.” [48, tr. 74] Công trình Nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký của Đặng Hoàng Oanh lại đi sâu tìm hiểu con người văn hóa của Phạm Quỳnh. Từ việc chỉ ra những mặt khác nhau trong con người nhà văn: “người dung hòa những đối cực: cũ và mới, truyền thống và hiện đại, bảo thủ và cách tân”, tác giả soi chiếu vào tác phẩm, chỉ ra rằng: du kí Phạm Quỳnh vừa thể hiện tư tưởng tồn cổ (thể hiện qua Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa Hương), vừa thể hiện khao khát vươn ra thế giới văn minh (Pháp du hành trình nhật kí, Thuật chuyện du lịch ở Paris) của học giả Phạm Quỳnh. Với phạm vi đề tài khác nhau, ở một mức độ nhất định, hai công trình đều khái quát được những giá trị của du kí Phạm Quỳnh. Trong khi Trần Thị Ái Nhi nhấn mạnh hơn đến ngôn ngữ thì Đặng Hoàng Oanh quan tâm đến khía cạnh văn hóa. Cả hai công trình đều có tính chỉ dẫn trong nghiên cứu du kí Phạm Quỳnh. Nhìn lại tổng thể lịch sử nghiên cứu trên đây, có thể nói tất cả các công trình đều phần nào chỉ ra những nét đặc sắc trong du kí Phạm Quỳnh, gợi ra nhân cách, tài năng của nhà văn. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, (1) hầu hết các công trình đều dừng lại ở những ấn tượng chung về du kí Phạm Quỳnh mà chưa có điều kiện đi sâu phân tích để thấy những giá trị của nó. Đối với những công trình thể hiện sự công phu của người viết khi lấy du kí của nhà văn làm đối tượng khảo sát thì tác giả chủ yếu mô tả lại hiện thực theo những ghi chép và quan sát của nhà văn, từ đó khái quát nhãn quan văn hóa của ông Phạm mà chưa chỉ ra mối liên hệ của hiện thực được phản ánh đó, không chỉ với bản thân nhà văn - với tư cách chủ thể quan sát - mà với thời cuộc, tình thế nước ta những năm đầu thế kỉ XX; (2) các công trình cũng đều nhận xét, đánh giá nghệ thuật viết du kí của Phạm Quỳnh (cách kể
  12. chuyện, kết cấu, ngôn ngữ…) nhưng chưa đặt du kí của ông trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, để thấy du kí chính là bước chuẩn bị về mặt nghệ thuật, mở đường cho lối viết mới, khác biệt với truyền thống tự sự chữ Hán. Đó cũng là hai nhiệm vụ chính mà chúng tôi xác định sẽ thực hiện trong công trình này. 3. Nhiệm vụ của đề tài Như chúng tôi đã chỉ ra ở trên, luận văn xác định hai nhiệm vụ chính: Một mặt, chúng tôi đặt du kí Phạm Quỳnh trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 1920 gắn liền với công cuộc khai hóa của thực dân Pháp tại thuộc địa, để thấy du kí trước hết phản ánh những thay đổi của non song đất nước trong thời Pháp thuộc; quan trọng hơn, nhìn vào cách quan sát và những suy tư của Phạm Quỳnh, chúng tôi sẽ chỉ ra cách thế sống, nhân cách của một nhà văn, một trí thức, tìm ra các căn nguyên đã chi phối cách nhìn ấy, và phần nào đó, chỉ ra được tiếng nói của nhà văn đối với các vấn đề thời cuộc. Thông qua tìm hiểu phương thức tự sự của du kí, chúng tôi cũng mong tìm ra điểm kế thừa truyền thống và những cách tân, báo hiệu lối viết mới của Phạm Quỳnh, từ đó khẳng định du kí là bước đệm trong quá trình hiện đại hóa văn học. Bước tiến về nghệ thuật về cơ bản thể hiện bước tiến trong tư duy nghệ thuật. 4. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện luận văn này, chúng tôi xác định phạm vi tư liệu là bảy tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh. Chúng tôi cũng có ý thức đặt bộ phận du kí trong tổng thể trước tác của ông để thấy tính liên đới trong các vấn đề tư tưởng, cũng như, tìm ra sự khác biệt trong nghệ thuật thể hiện tư tưởng đó giữa du kí và các bộ phận khác, đặc biệt là với tiểu luận, nơi thể hiện rất đậm nét tư tưởng Phạm Quỳnh. Tìm hiểu du kí Phạm Quỳnh, chúng tôi cũng đặt những sáng tác du kí của ông trong lịch sử thể tài, từ truyền thống kí sự chữ Hán đến du kí quốc ngữ ba mươi năm đầu thế kỉ XX để thấy dấu vết của truyền thống cũng như những tiên báo trong nghệ thuật tự sự in dấu nơi những trang du kí Phạm Quỳnh, từ đó thấy được những đóng góp của ông trong tiến trình hiện đại hóa văn chương. Việc đặt du kí trong bối cảnh nở rộ của thể tài du kí ba mươi năm đầu thế kỉ XX cũng cho phép chúng tôi nhận ra phong cách riêng biệt và dấu ấn cá nhân của Phạm Quỳnh so với các cây
  13. bút du kí cùng thời khác như: Phạm Vân Anh, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Trọng Thuật,… và sau này, là Nguyễn Tuân, Nhất Linh,… Chúng tôi cũng đặc biệt coi trọng việc đặt du kí Phạm Quỳnh trong một bối cảnh rộng hơn phạm vi nước Nam và văn chương du kí nước ta đầu thế kỉ XX, đó là cuộc giao lưu tiếp xúc Đông – Tây và cụ thể hơn, là bối cảnh của những cuộc phát kiến địa lí, du lịch, thăm dò, thám hiểm, thể hiện qua những ghi chép du kí, trong đó có nhiều ghi chép của người phương Tây về Việt Nam để thấy cái nhìn, quan điểm khác nhau xuất phát từ những khu vực địa-chính trị khác nhau. Theo đó, chúng tôi nhìn ra tính đối thoại trong du kí của nhà văn hóa-chính trị Phạm Quỳnh, người đóng vai trò không nhỏ trong việc thiết lập mối quan hệ giữa việt Nam và thế giới những năm đầu thế kỉ XX. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện luận văn này, chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài phương pháp tiểu sử và các thao tác cơ bản như phân tích tác phẩm, thống kê, tổng hợp,… chúng tôi nhấn mạnh một số phương pháp sau: Trước hết, xuất phát từ chỗ du kí thể hiện kiến thức rất uyên thâm của Phạm Quỳnh ở nhiều lĩnh vực văn hóa, chúng tôi sử dụng văn hóa học như một chìa khóa để thấy nhãn quan văn hóa đã chi phối đến việc quan sát cuộc sống trong mỗi chuyến đi của ông chủ báo Nam phong, qua đó thấy được chiều sâu ẩn đằng sau những hiện thực mà mắt thường ghi nhận được. Tự sự học cũng được vận dụng, giúp chúng tôi nhìn ra các đặc điểm trong nghệ thuật viết du kí của Phạm Quỳnh, từ đó khái quát được những đóng góp của ông trong việc hiện đại hóa văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỉ. Luận văn của chúng tôi bước đầu sử dụng cách nhìn của hệ hình hậu cấu trúc luận, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu hậu thực dân để tiếp cận du kí Phạm Quỳnh. Phương pháp này cho phép chúng tôi nhìn ra sức chi phối của ý thức hệ, của thiết chế quyền lực, trong đó có thiết chế thực dân đã ngầm chi phối đến việc viết của tác giả như thế nào. Từ đó chúng tôi nhìn ra nỗ lực thể hiện chính kiến cũng như sự phản biện của chủ thể sáng tác, với tư cách là một người quan sát ở thuộc
  14. địa nhìn về chính dân tộc mình, và nhìn về đất nước đã xâm lược, bảo hộ dân tộc mình. Phương pháp, cách tiếp cận này sẽ hứa hẹn giúp chúng tôi nhìn ra tính đối thoại ngầm ẩn đằng sau những quan sát, miêu tả về cảnh vật, con người trong từng trang du kí, từ đó nhìn ra không chỉ thiên tính nghệ sĩ mà là những tâm sự sâu kín của con người trí thức trong Phạm Quỳnh. 6. Bố cục luận văn: Luận văn gồm ba phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Ngoài ra có Mục lục và Danh mục tham khảo. Nội dung luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: Khái quát về Phạm Quỳnh và sáng tác du kí trong bối cảnh văn chương quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX Chương 2: Nội dung, tư tưởng trong diễn ngôn du kí Phạm Quỳnh Chương 3: Sự chuẩn bị của lối viết mới qua du kí Phạm Quỳnh
  15. CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẠM QUỲNH VÀ SÁNG TÁC DU KÍ TRONG BỐI CẢNH VĂN CHƢƠNG QUỐC NGỮ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX 1.1. Vài nét cuộc đời, sự nghiệp Phạm Quỳnh 1.1.1. Cuộc đời Phạm Quỳnh Phạm Quỳnh (bút hiệu Thượng Chi, bút danh: Hồng Nhân, Hoa Đường) sinh năm 1893 tại số 17, Hàng Trống, Hà Nội nhưng quê nội ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Phúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương - vùng đất có truyền thống khoa bảng, hiếu học. Xuất thân trong một gia đình có căn cốt Nho học, Phạm Quỳnh được thừa hưởng trí thông minh, sự cần mẫn và thái độ tôn kính đối với việc học. Nhưng vì sớm chịu cảnh mồ côi: 9 tháng tuổi mồ côi mẹ, 9 tuổi mồ côi cha, cậu bé Phạm Quỳnh được bà nội yêu thương, chăm sóc, nuôi ăn học từ nhỏ. Là người sớm bộc lộ thiên tư, Phạm Quỳnh học rất giỏi, đỗ đầu bằng Thành chung trường trung học Bảo hộ (hay còn gọi là trường Bưởi, hoặc trường Thông ngôn) khi mới 15 tuổi. Năm 1098, ngay sau khi tốt nghiệp, Phạm Quỳnh làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ (Escole Française d‟Extrême-Orient, viết tắt EFEO), một trung tâm nghiên cứu văn hóa Đông phương của Pháp tại Việt Nam. Thời gian này, ông tích cực học Hán văn, trau dồi Pháp văn, đọc và nghiên cứu nhiều về văn hóa, lịch sử Đông phương, nhất là Trung Quốc và Việt Nam. Quá trình đó đã hình thành nên ở ông một tri thức nền phong phú, sâu sắc. Sự cộng tác thường xuyên với các học giả Pháp còn giúp ông làm chủ được các phương pháp luận nghiên cứu của phương Tây. Những điều này đã làm nên con người học giả ở Phạm Quỳnh, chi phối đến cách tư duy, lối viết của ông về sau. Từ 1916, ông tham gia cộng tác cho một số tờ báo uy tín đương thời, trong đó quan trọng nhất là hoạt động dịch thuật trên Đông Dương tạp chí (chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh). Sự nghiệp của Phạm Quỳnh đánh dấu bước ngoặt lớn với sự ra đời của Nam phong tạp chí ngày 1/7/1917. Sự ra đời của tờ tạp chí nguyệt san Nam phong nằm trong ý đồ của Liên bang Đông Dương do toàn quyền Albert Sarraut đề xướng với mục tiêu tuyên truyền cho nhà nước bảo hộ, kinh phí do chính phủ cùng Louis
  16. Marty, giám đốc sở Mật thám bảo trợ. Là chủ nhiệm kiêm chủ bút, Phạm Quỳnh đóng vai trò là cây bút chủ lực, đảm nhiệm chủ biên toàn bộ phần quốc ngữ (Nguyễn Bá Trác chủ biên phần chữ Nho), viết ở rất nhiều lĩnh vực: dịch thuật, khảo luận, phê bình, sáng tác,... Ông giữ trọng trách chủ bút cho đến năm 1932. Cũng trong thời gian làm chủ bút Nam phong tạp chí, Phạm Quỳnh tham gia nhiều hoạt động văn hóa khác. Ngày 2/5/1919, ông sáng lập và là tổng thư kí hội Khai Trí Tiến Đức (tên tiếng Pháp) với chủ trương giao lưu văn hóa Đông - Tây, kết hợp trào lưu Tây học với học thuật truyền thống. Ông đã cùng các hội viên khác soạn Việt Nam Tự điển, một công trình công phu, khoa học, có tính chỉ dẫn rất cao đối với ngành ngôn ngữ học. Ngoài ra hội còn mở nhiều cuộc diễn thuyết cũng như các sinh hoạt văn hóa khác, tiêu biểu là giải thưởng văn chương năm 1925 (trao cho Quả dưa đỏ - Nguyễn Trọng Thuật) và nhất là kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, tạo tiếng vang lớn. Cũng năm 1919, Phạm Quỳnh tham gia hội Trí Tri Bắc kì (thành lập năm 1892, chủ trương quảng bá tân học). Năm 1922, đại diện cho hội Khai Trí Tiến Đức, ông tham dự đấu xảo thuộc địa tại Marsellie; 6 tháng sống trên đất Pháp đem lại nhiều trải nghiệm, khám phá thú vị, được ông ghi lại trong Nhật kí và hai tác phẩm du kí: Pháp du hành trình nhật kí, Thuật chuyện du lịch ở Paris (hai tác phẩm công bố trên Nam phong tạp chí). Từ 1924, Phạm Quỳnh được mời dạy các môn: văn hóa, ngôn ngữ Hoa -Việt tại trường Cao đẳng Hà Nội; đồng thời, trợ bút báo France-Indochine. Từ năm 1925 đến năm 1928, Phạm Quỳnh làm hội trưởng hội Trí tri Bắc Kì; năm 1926, ông tham gia Hội đồng tư vấn Bắc kì, đến năm 1929, được cử vào Hội đồng kinh tế và tài chính Đông Dương. Năm 1931, ông làm phó hội trưởng Hội địa dư Hà Nội; năm 1932, làm tổng thư kí Ủy ban cứu trợ xã hội Bắc kì. Từ năm 1930, Phạm Quỳnh chủ trương chủ nghĩa quốc gia: kêu gọi thiết lập chế độ Lập hiến, đòi thực dân Pháp thành lập hiến pháp, quy định rõ các giới hạn quyền lợi của triều đình, chính phủ bảo hộ, của nhân dân. Ngày 11/11/1932, ngay sau khi Bảo Đại lên ngôi thay vua Khải Định, Phạm Quỳnh được triệu vào Huế, làm việc tại Ngự tiền văn phòng; sau đó đảm nhiệm chức Thượng thư bộ Học, rồi
  17. Thượng thư bộ Lại. Trong thời gian này, ông có nhiều kiến nghị đối với phía chính quyền bảo hộ. Sau đảo chính Pháp 9/3/1945, Phạm Quỳnh lui về ở ẩn tại biệt thự Hoa Đường bên bờ sông An Cựu; trở lại với việc viết lách, dịch thơ Đỗ Phủ (được 51 bài). Ngày 23/8/1945, ông bị lực lượng cách mạng Việt minh tại Huế bắt và sau ít ngày thì bị giết, bỏ lại những dự định văn chương dang dở, khi đó cuốn sách ông đề tên là Hoa Đường tùy bút - Kiến văn, cảm tưởng I chưa hoàn thành. 1.1.2. Văn nghiệp Phạm Quỳnh Phạm Quỳnh là cây bút rất đa dạng và phong phú. Trong suốt chặng đường cầm bút của mình (theo chúng tôi là ba chặng: khi cộng tác cho Đông Dương tạp chí, khi chủ bút Nam phong và những ngày cuối đời), ông đã để lại hàng trăm công trình khác nhau ở nhiều lĩnh vực: triết học, tôn giáo, chính trị, tư tưởng, văn chương. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi điểm qua những công trình liên quan đến văn chương. 1.1.2.1. Dịch thuật Những thập niên đầu thế kỉ XX đánh dấu phong trào dịch thuật rầm rộ trên báo chí quốc ngữ. Sự đứt gãy của ý thức hệ truyền thống, sự lựa chọn quốc ngữ làm nguôn ngữ chính thức cho đồng bào đã kéo theo cuộc khủng hoảng trong đời sống văn chương. Lực lượng nhà nho sáng tác bằng chữ Hán theo các lối, thể của mô hình văn chương trung đại không còn đủ sức hấp dẫn đối với công chúng thành thị, những người sống bứt khỏi môi trường và quan niệm truyền thống; trong khi đó, lực lượng sáng tác mới chưa hình thành hoặc xuất hiện quá thưa thớt. Chính lúc này, dịch thuật đã đáp ứng nhu cầu của công chúng thành thị, khỏa lấp khoảng trống lớn trong đời sống văn học, cũng là cách rèn tập chữ quốc ngữ cho thông thạo. Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí là những tờ báo tập trung đông đảo nhất các dịch phẩm từ cả ngữ nguồn Hán văn lẫn Pháp văn. Với mong muốn thâu nạp văn minh Á – Âu, Phạm Quỳnh rất coi trọng công việc dịch thuật, coi đó là cách để bổ khuyết những thiếu hụt về tư tưởng cho người An Nam, cũng là cánh cửa để tiếp cận văn minh thế giới. Gia tài dịch thuật của ông gồm cả Hán văn lẫn Pháp văn, nhưng đáng kể nhất là các bài dịch Pháp văn. Trong
  18. địa hạt văn chương, Phạm Quỳnh dịch nhiều truyện ngắn, kịch nói. Truyện ngắn có: Ôi thiếu niên (G. Courteline), Ái tình, Chuyện trên xe lửa (Guy de Maupassant), Cái buồn của một tên gù già, Thương hão (Loti). Kịch phẩm có: Chàng ngốc hóa khôn vì tình (hài kịch - Marivaux), Tuồng Lôi Xích (tức Le Cid của P. Corneille), Tuồng Hòa Lạc (tức Horarce của P. Corneille). Dịch thuật đối với Phạm Quỳnh không chỉ là công việc chuyển ngữ thông thường mà là chuyển một mẫu hình cho hoạt động phỏng tác, sáng tác về sau của các nhà văn Việt Nam. Ý thức như vậy, nên ông Phạm đã rất trăn trở, cân nhắc khi chọn lựa tác phẩm gốc, đúng như lời bộc bạch của ông: “Văn chương nước ta bây giờ đương buổi mới gây dựng, cần phải có những mẫu đẹp của nước Pháp mà bắt chước. Những mẫu ấy không thiếu gì, nhưng phải biết khéo kén chọn mới được.” [54, tr. 40]. Văn phong dịch của ông mực thước, trang nhã, khác với giọng văn dịch phóng khoáng, bay bổng của Nguyễn Văn Vĩnh. Đánh giá dịch thuật của Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn trong Phê bình và cảo luận đã có nhận xét thật xác đáng: “Nên chi những công trình văn học, triết học của Âu châu và nhất là của nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng, thật hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác giả lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc văn.” [78, tr. 19] Cuối đời, trong những ngày quy ẩn tại biệt thự Hoa Đường, để lấy đà cho sự trở lại nghiệp văn đã ngắt quãng hơn mười năm của mình, Phạm Quỳnh dịch thơ Đỗ Phủ (được 51 bài, trong tập Hoa Đường tùy bút - Kiến văn, cảm tưởng), thể hiện sự đồng cảm của ông đối với bậc tiền nhân, cũng là cách kín đáo thể hiện nỗi lòng của một người cầm bút luôn cô đơn trước thế cuộc xoay vần. 1.1.2.2. Khảo cứu, phê bình Với lòng ngưỡng mộ văn chương Pháp, Phạm Quỳnh có một loạt công trình biên khảo, nghiên cứu về văn học Pháp: Văn học nước Pháp (Nam phong tùng thư 1929), Pháp văn thi thoại: Baudelaure tiên sinh (Nam phong số 6, tháng 12/ 1917), Một nhà danh sĩ nước Pháp: ông Pierre Loti (Nam phong số 72, tháng 6/ 1929), Một nhà văn hào nước Pháp: ông Anatole France (Nam phong số 161, tháng 4/1931). Những bài biên khảo trên chẳng những có tác dụng quảng bá, làm tăng sự
  19. hiểu biết về nền văn học vĩ đại như nền văn học Pháp mà qua đó, cung cấp mẫu hình cho thể loại tự sự. Biên khảo của Phạm Quỳnh do đó rất gần với nghiên cứu. Là người rất nhiệt tâm đẩy mạnh văn chương quốc ngữ tiến lên cho kịp với các nền văn học lớn, đặc biệt là văn học Pháp, Phạm Quỳnh rất có ý thức giới thiệu các thể loại cơ bản theo mô hình văn học phương Tây. Ở cả ba thể loại lớn của nền văn học là tiểu thuyết, thơ và kịch, ông đều trang bị lí luận, giới thiệu một cách kĩ lưỡng mô hình thể loại. Cuốn Khảo về tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1929 bởi Nam phong tùng thư, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết đã trở thành cuốn sách lí luận đầu tiên của Việt Nam về thể loại này, trở thành cẩm nang cho cả người sáng tác lẫn công chúng đọc. Cho đến nay, gần một thế kỉ qua đi, cuốn sách vẫn được các học giả nhắc đến khi nghiên cứu lịch sử nhận thức tiểu thuyết. Phạm Quỳnh cũng là một trong số những người đầu tiên đặt nền móng cho lí thuyết kịch nghệ với các công trình: Lịch sử nghề diễn kịch nước Pháp: bàn về hí kịch của ông Moliére (Nam phong, số 35, tháng 5/1920), Khảo về diễn kịch: lối diễn kịch châu Âu (Nam phong, số 51, tháng 9/1921), Một bài kịch mới bằng chữ Pháp (Nam phong, số 67, tháng 1/1923), Nghề diễn kịch ở nước Mĩ (Nam phong, số 77, tháng 11/1923). Với những công trình này, khái niệm “kịch”, “bi kịch”, “hí kịch” được phân tích, mổ xẻ; các chuẩn tắc của bộ môn (nhất là luật tam duy nhất), cách phân chia các thể loại kịch, kết cấu, ngôn ngữ, cách hành văn của kịch,… đều được Phạm Quỳnh đề cập. Cũng như vậy, lí luận về thơ được Phạm Quỳnh giới thiệu trong hai bài nghiên cứu: Thơ là gì? (Nam phong số 48, tháng 6/1921) vốn được ông biên dịch từ bài diễn thuyết của Paul Géraldy - một nhà thơ Pháp và Thơ ta thơ tây (Nam phong, số 5/1917) - bài viết chỉ ra sự khác biệt giữa một bên là sự gò ép, khuôn sáo của thơ ta với một bên là thơ tự do của phương Tây. Cả hai bài nghiên cứu cho thấy Phạm Quỳnh ủng hộ lối thơ nói được “cái giọng thiên nhiên” của con người. Những giới thiệu của Phạm Quỳnh là tiền đề lí thuyết vô cùng quan trọng; đặt trong bối cảnh văn chương quốc ngữ đang tìm đường đi, chúng hướng hoạt động sáng tác và thưởng thức theo các tiêu thức Âu Tây, mở ra cánh cửa hiện đại cho đời sống văn học nước ta buổi giao thời.
  20. Nghiên cứu nhiều về văn học phương Tây nhưng Phạm Quỳnh cũng rất trân trọng các giá trị văn chương truyền thống. Các công trình khảo cứu Tục ngữ ca dao (Nam phong số 46, tháng 4/1921, Nam phong tùng thư, 1932), Văn chương trong lối hát ả đào (Nam phong số 69, tháng 3/1923) cho thấy tinh thần tồn cổ, hướng về cội nguồn của nhà trí thức. Ở khu vực văn học cổ điển, Phạm Quỳnh đặc biệt chú ý đến Truyện Kiều, tác phẩm ám ảnh ông suốt cuộc đời, bắt đầu từ bài viết nổi tiếng: Bài diễn thuyết bằng quốc văn của ông Phạm Quỳnh (Nam phong, số 86, tháng 8/1924), được ông đọc nhân dịp Hội Khai Trí Tiến Đức kỉ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du. Câu nói “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” của ông đã ám ảnh nhiều thế hệ, bởi nó không chỉ ứng chiếu với kiệt tác của tiền nhân mà nói lên cả thân phận của dân tộc. Từ bài nói này đã tạo nên cuộc đối thoại về Truyền Kiều giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế năm 1924 (chúng tôi nghiêng về cách gọi đối thoại thay vì tranh luận bởi cả Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế không “lời qua tiếng lại" mà mỗi bên chỉ thể hiện chủ ý của mình trong một bài viết, đăng ở hai tờ báo “lãnh địa” của mình), và sau đó là bài Trả lời bài: Cảnh cáo các nhà học phiệt trong Phụ nữ tân văn (Nam phong, số 152, tháng 7/1930) Phạm Quỳnh đáp lời Phan Khôi nhân Phan Khôi khơi lại sự kiện ấy. Bên cạnh các bài viết nghiên cứu đi vào chiều sâu, Phạm Quỳnh còn có nhiều bài bình luận văn học. Ông là người mở đầu mục “Văn học bình luận” với bài phê bình Một bộ tiểu thuyết mới: “Nghĩa cái chết” của nhà văn Pháp Paul Bouget (Nam phong số 1, tháng 7/1917). Tiếp sau đó là nhiều bài giới thiệu tiểu thuyết Pháp. Ngoài ra, ông cũng bình luận về một số hiện tượng văn học ở Việt Nam đương thời, có thể kể: Bàn về văn Nôm của ông Nguyễn Khắc Hiếu (Đông Dương tạp chí, số 120, năm 1915), Bình phẩm “Một tấm lòng” của Đoàn Như Khuê (Nam phong số 2, tháng 8/1917), Mộng hạy mị? (phê bình Giấc mộng con của Tản Đà, Nam phong số 7, tháng 1/1918). Trong khi phẩm bình, Phạm Quỳnh sử dụng các thao tác của phương Tây để phân tích chứ không dùng lối bình, tán như cách bình văn thời trung đại. Các bài viết của ông thường vượt lên phạm vi bình phẩm một tác phẩm, tác giả cụ thể để khái quát các vấn đề thuộc lí luận văn học. Chẳng hạn, khi phân tích cuốn Vua bể của Eugéne Menchior De Vogue (Nam phong số 3, tháng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2