intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện thực chiến tranh trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:146

43
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu tìm hiểu đặc trưng thi pháp của hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn để thấy được sự vận động và cách tân của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện thực chiến tranh trong Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG MIỀN HOANG CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY CỦA ĐOÀN TUẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 8229030.04 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng Hà Nội – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu, tham khảo thành quả khoa học của các tác giả với sự trân trọng và biết ơn, nhưng những nội dung tôi nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học viên
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý báu của các tập thể và cá nhân. Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã và đang giảng dạy trong chương trình Cao học môn Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – những người đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học. Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Đức Phương – người Thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai luận văn. Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của Thầy/ Cô và các anh chị học viên. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học viên
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu.................................................... 6 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7 5. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7 Chƣơng 1: VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN 1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 .................................................. 8 1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh ...................................... 8 1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới .......................... 11 1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự .......................... 11 1.1.2.2. Hiện thực chiến tranh từ góc nhìn văn hoá, tâm linh ........................ 16 1.2. Sáng tác của Sƣơng Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn ................................... 21 1.2.1. Sáng tác của Sương Nguyệt Minh ........................................................ 21 1.2.1.1. Vài nét về Sương Nguyệt Minh........................................................... 21 1.2.1.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 22 1.2.2. Sáng tác của Đoàn Tuấn........................................................................ 26 1.2.2.1. Vài nét về Đoàn Tuấn......................................................................... 26 1.2.2.2. Hành trình sáng tạo ........................................................................... 27 Chƣơng 2: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM TRONG MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY 2.1. Bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ..................... 33 2.1.1. Hoàn cảnh chiến trường ........................................................................ 33 2.1.1.1. Chiến trường dữ dội, khốc liệt ........................................................... 33 2.1.1.2. Sự hi sinh, mất mát ............................................................................. 41 2.1.2. Cuộc chiến đấu vì Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế ................................... 45 2.1.2.1. Nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng ............................................................ 45 2.1.2.2. Sống và chiến đấu hết mình ............................................................... 49
  6. 2.2. Hình tƣợng ngƣời lính Việt Nam .......................................................... 51 2.2.1. Hình tượng người lính trong cuộc đấu tranh với kẻ thù ....................... 51 2.2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất ................................................................ 51 2.2.1.2. Những góc khuất tâm hồn người lính ................................................ 64 2.2.2. Hình tượng người lính trở về sau chiến tranh ....................................... 70 2.3. Hình tƣợng kẻ thù .................................................................................. 73 2.3.1. Hình tượng kẻ thù với bản chất xấu xa ................................................. 73 2.3.2. Hình tượng kẻ thù trong hiện thực chiến trường .................................. 76 2.3.2.1. Những kẻ độc ác, tàn bạo................................................................... 76 2.3.2.2. Những kẻ đê tiện, thô bỉ ..................................................................... 80 Chƣơng 3: MIỀN HOANG VÀ MÙA CHINH CHIẾN ẤY NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 84 3.1.1. Khắc hoạ nhân vật qua ngoại hình ........................................................ 84 3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 90 3.2. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ........................................... 94 3.2.1. Người kể chuyện ................................................................................... 94 3.2.2. Điểm nhìn trần thuật............................................................................ 103 3.3. Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................. 109 3.3.1. Ngôn ngữ có tính hiện thực ................................................................. 110 3.3.2. Ngôn ngữ dung tục, đời thường .......................................................... 114 3.3.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ ....................................................................... 118 3.3.4. Ngôn ngữ đậm chất triết lí .................................................................. 122 3.3.5. Ngôn ngữ ma mị, ám ảnh .................................................................... 126 KẾT LUẬN .................................................................................................. 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 133
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chiến tranh là một địa hạt văn chương khá màu mỡ, thu hút nhiều cây bút tài năng. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, chúng ta đã thấy một số lượng tác phẩm hùng hậu, mang chiều sâu về nội dung. Văn học đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của mình trở thành vũ khí đắc lực trong cuộc chiến với kẻ thù. Phần lớn các tác phẩm đã phản chiếu trung thành những năm tháng hào hùng của dân tộc, xây dựng những hình tượng đẹp đẽ về đất nước và nhân dân anh hùng. Khi hoà bình lập lại, văn học viết về chiến tranh vẫn có một chỗ đứng riêng với những cách tân về tư duy nghệ thuật. Đất nước bước vào thời bình, các nhà văn đã có một độ lùi nhất định để nhìn nhận chiến tranh một cách bình tĩnh hơn, sâu lắng hơn và phản ánh vấn đề toàn diện hơn. Các tác phẩm viết về chiến tranh ở thời kì này đã có những tìm tòi, đổi mới về nội dung tư tưởng, quan niệm về thể loại và đổi mới về “kĩ thuật”, có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới văn học nước nhà. Chính vì vậy, những năm gần đây, văn chương viết về đề tài chiến tranh có khá nhiều thành tựu, là khu vực đặc biệt thú vị và đầy hứa hẹn, bắt kịp với trình độ của văn học đương đại trên thế giới. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở vùng biên giới Tây Nam (1975 – 1979) có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Mỗi người lính ra trận không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ biên giới của Tổ quốc mà còn gánh trên vai nghĩa vụ quốc tế cao cả. Thế nhưng, trong cuộc chiến ấy, bao nhiêu người lính đã ngã xuống, bao nhiêu những đau thương vây bủa ngay cả khi những người còn sống được trở về. Hiện thực ấy đã được thể hiện một cách chân thực qua văn học, dù mới chỉ là một “mảnh đất nhỏ” với những tác phẩm như Dòng sông Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thuỵ, Khoảng rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở Pratthana của Văn Lê, Bên dòng sông mê của Bùi Thanh Minh, Mùa xa nhà của Nguyễn Thành Nhân, Hồi ức lính của Vũ Công Chiến,…Có thể thấy, chiến tranh biên giới Tây Nam đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng những kí ức về cuộc chiến đấu vì nhiệm vụ quốc tế cao cả ấy vẫn còn là nỗi trăn trở của nhiều cây bút hiện đại. Một số tác phẩm viết về chiến tranh ra đời như một “món nợ” với đồng đội, với những 1
  8. người đã ngã xuống. Món nợ văn chương được các nhà văn bù lấp bằng những tác phẩm có “tâm” và có “tầm” với lối tư duy nghệ thuật hiện đại. Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là những tác phẩm như thế. Chân thực, sâu sắc, toàn diện, thấm thía, cảm xúc,…hai tác giả không chỉ mang đến cái nhìn về hiện thực chiến tranh, mà hơn hết mỗi trang văn đều được hình thành từ cái tâm và lương tri của người lính - những lính hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng từ chiến trường K năm ấy và bây giờ, họ dành những trang văn đẹp đẽ nhất viết về đồng đội mình, về chiến tranh, …từ cái nhìn của một người trong cuộc. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn là hai cây bút tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Họ viết văn bằng ý thức nghề nghiệp của mình. Nhưng điều đặc biệt họ từng là người lính, họ từng trực tiếp tham gia chiến đấu, họ từng dấn thân trên chiến trường nước bạn, gánh trên vai nhiệm vụ chiến đấu thiêng liêng. Họ cầm bút cũng là khi “Hàng vạn đồng đội của họ đã chết để họ được sống và kể lại câu chuyện của thế hệ mình”, họ là những người “được chọn” để viết về đồng đội của mình và viết để “trả nợ” đồng đội. 40 năm qua đi, những kí ức về chiến tranh, về đồng đội…vẫn vẹn nguyên và thôi thúc những người lính – nhà văn ấy cầm bút trong một thực tại hoàn toàn khác. Tài năng, lương tri của người lính kết hợp với những cách tân mới mẻ về nghệ thuật đã giúp Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn viết một cách chân thực nhất, thấm thía nhất về chiến tranh biên giới Tây Nam. Nghiên cứu, tìm hiểu chủ đề chiến tranh trong hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, một mặt khai thác những mảng hiện thực đa bộn, nhiều chiều về chiến tranh biên giới Tây Nam nói riêng và đề tài chiến tranh nói chung, mặt khác thấy được sự độc đáo, mới lạ trong những cách tân nghệ thuật, những “kĩ thuật” khai thác hiện thực chiến tranh rất hiệu quả của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn. Qua đó khẳng định sự phát triển của văn học chiến tranh với những cách tân đáng chú ý, bắt kịp với trình độ đương đại của văn học thế giới. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài “Hiện thực chiến tranh trong Miền hoang của Sƣơng Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn” để thực hiện. 2
  9. 2. Lịch sử vấn đề Miền hoang ra mắt bạn đọc vào năm 2014, sau đó được Nhà xuất bản Trẻ in thành sách cùng tên. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tác giả. Cuốn tiểu thuyết đoạt giải Sách hay năm 2015 và được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, nhà báo quan tâm giới thiệu, phân tích, bình luận. Trong buổi toạ đàm Nhà văn Sương Nguyệt Minh với tiểu thuyết „Miền hoang‟ được tổ chức vào ngày 17/12/2014 tại Đại học Văn hoá Hà Nội, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã bày tỏ ý kiến nhận định về tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận định Miền hoang là cuốn tiểu thuyết được viết tâm huyết, công phu, độc đáo về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến ở chiến trường Campuchia… Cuộc chiến Miền hoang là cuộc chiến giữa văn minh và bạo tàn, chỉ có cuộc lạc rừng loanh quanh của 4 người mà viết được hơn 600 trang, đọc vẫn bất ngờ, cuốn hút, hấp dẫn. Nguyễn Văn Thọ đánh giá cao sự “khôn ngoan” của tác giả Miền hoang trong việc lựa chọn ngôi kể, quy chiếu được nhiều góc nhìn, điểm nhìn, nhờ đó nội dung câu chuyện được kể thoải mái hơn, thật hơn, khách quan hơn. Đỗ Bích Thuý cũng nhận xét thấu đáo về tác phẩm Miền hoang. Theo nhà văn, sở trường giỏi nhất về truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh lại một lần nữa được thể hiện trong tác phẩm, đặc biệt là các chi tiết. Chi tiết trong Miền hoang kĩ lưỡng, sắc nét, và chị cho rằng, với Miền hoang, Sương Nguyệt Minh thêm một lần nữa khẳng định tên tuổi ở thể loại tiểu thuyết. Đặc biệt, nhà phê bình Lã Nguyên có bài biết công phu về tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh. Trong đó, ông đánh giá cao tác giả, tác phẩm:“Đặt bên cạnh những tập truyện ngắn trước kia của ông, thấy „Miền hoang‟ vẫn nằm trong văn mạch của một cây bút đã định hình phong cách”; “Tôi cho rằng điểm mới lạ, độc sáng trong thiên tiểu thuyết này là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn trần thuật”; “Sẽ không tìm thấy trong văn xuôi Việt Nam hiện nay một tiểu thuyết thứ hai có hệ thống nhân vật người kể chuyện được dụng công xây dựng như vậy” [55]. Còn Lê Minh Quốc, nhà văn, nhà thơ, đồng đội của Sương Nguyệt Minh thời ở chiến trường K đã dành những lời chia sẻ: “Miền hoang của nhà văn Sương Nguyệt Minh là cuốn tiểu thuyết…viết chân thành. Sự việc tàn khốc, bi thảm và hào hùng từ chất liệu vốn có. Hãy đọc. Nên đọc” [70]. 3
  10. Nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ đánh giá cao nghệ thuật tự sự của Miền hoang khi cho rằng, tuy là lần đầu tiên viết tiểu thuyết nhưng Sương Nguyệt Minh đã trổ hết những “ngón nghề” về thể loại. Cả nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ và nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan đều cho rằng tác giả Miền hoang “khôn ngoan” khi dùng những bản tin thông tấn ngắn gọn làm đề từ như một sự hỗn dung thể loại: văn chương - báo chí, tiểu thuyết tư liệu - tiểu thuyết phiêu lưu; bản thân những bản tin đã có sức khơi tạo được không khí, bối cảnh của sự kiện, tiết kiệm được công sức của nhà văn. Nhà báo Việt Quỳnh (báo Thể thao Văn hoá) trong bài viết Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tiểu thuyết từ ám ảnh của người lính lạc rừng cho rằng: “Cảm hứng để viết cuốn tiểu thuyết định mệnh này, có lẽ bắt nguồn từ những ám ảnh ký ức của nhà văn, khi từng là „người lính lạc rừng lang thang đói khát, mặt quắt như ngón tay chéo ở những cánh rừng Campuchia‟ như tác giả đã chia sẻ. Những mảnh vụn còn sót lại trong trí nhớ lúc thể hiện, lúc mờ nhạt qua từng trang viết tạo nên một thế giới nội tâm đầy ấm ức. Trải nghiệm lạ thường trong dòng chảy cảm giác và cảm xúc được kể lại bằng chất văn mềm mại, bình dị, pha cả trong sáng ngây thơ” [74]. Có thể nói, khi ra đời tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh nhận được khá nhiều ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Qua đó người đọc dần dần khám phá những nét đặc sắc trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh nói chung và tiểu thuyết Miền hoang nói riêng. Mùa chinh chiến ấy là cuốn sách đầu tay của Đoàn Tuấn. Ngày 22/7/2017, hơn 330 cựu binh thuộc thuộc tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307 tham gia chiến đấu trên chiến trường Campuchia đã có buổi gặp mặt kỉ niệm 40 năm ngày nhập ngũ tại Đà Nẵng. Cũng trong dịp này, nhà văn Đoàn Tuấn đã ra mắt và tặng hơn 300 cuốn sách Mùa chinh chiến ấy cho đồng đội mình. Trong lời đề tựa ra mắt cuốn sách Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, Xuân Thân đã trích dẫn lời nhận xét của nhà thơ - nhà báo Lê Minh Quốc, cựu binh Đại đội 7, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư 307: “Với tư cách người lính từng cầm súng chiến đấu và sống những năm tháng thanh xuân thơ dại trên quê hương Chùa Tháp, tôi dám nói rằng…hồi ức chiến binh Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn là một trong những tập bút ký xuất sắc nhất, có vị trí quan trọng trong các tác phẩm viết về chiến sĩ quân 4
  11. tình nguyện Việt Nam”. Đồng thời, cũng trong bài viết, Xuân Thân cho rằng: “ Có thể xem Mùa chinh chiến ấy như những thước phim về một giai đoạn lịch sử của đất nước được nhìn dưới con mắt của một người lính ở tầng thấp nhất”, là “hồi ức một thời của tác giả, cũng như những đồng đội của mình, ông đã có khoảng thời gian rất dài để chiêm nghiệm về những gì đã qua. Dù vẫn còn đó những ám ảnh về mất mát, hi sinh nhưng những người lính cũng đã thanh thản và nhẹ nhàng hơn, đã có thể nhìn được đằng sau những ngày tháng khốc liệt ấy là tình người, là những giá trị cuộc sống mà chỉ khi trải qua những ngày tháng gian nan của cận kề cái chết họ mới hiểu hết được”. Đó cũng là lí do mà cựu binh Hiền Nhân nhận xét: “Mùa chinh chiến ấy…ngỡ như một giấc mơ khốc liệt mà tuyệt đẹp” [ 82]. Tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài viết „Mùa chinh chiến‟ ấy và khúc tráng ca người lính đã có những chia sẻ: “Bằng sự nhạy cảm và điềm tĩnh trước mọi tình huống cùng khả năng quan sát tinh tường, ghi chép tỉ mỉ - những tố chất sẵn có của một người lính thông tin, Đoàn Tuấn đã tái hiện “mùa chinh chiến” nơi biên giới Tây Nam trong những năm 1978 - 1983 khốc liệt mà tuyệt đẹp, lôi cuốn và giàu sức ám gợi. Gương mặt chiến tranh hiện lên hào hùng nhưng không kém phần khắc nghiệt… Ở đó, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong nháy mắt; nơi mỗi phum làng được giải phóng, từng giây từng phút bình yên của người dân đều phải trả giá bằng xương máu của quân tình nguyện Việt Nam. Có sự hi sinh anh dũng, đẹp đẽ, rạng ngời nhưng cũng có cái chết tức tưởi, nghẹn uất, phi lí. Chiến tranh là vậy, và Đoàn Tuấn đã không né tránh mảng hiện thực gai góc, trần trụi, nghiệt ngã đến tận cùng ấy”. Với Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn trở thành người thư kí trung thành của thời đại anh, nói về thế hệ mình - tiếng nói được cất lên từ lương tâm người lính, từ ý thức trách nhiệm của một con người. Tác phẩm vang lên như một khúc tráng ca để thế hệ của anh tự hào, kiêu hãnh về những năm tháng đã sống, chiến đấu và hi sinh một phần tuổi thanh xuân. Nó còn là một khúc nguyện cầu an ủi, xoa dịu, hoá giải cho những thiệt thòi, mất mát, đau thương của các linh hồn đã khuất. Lắng nghe và nghiệm suy tiếng nói, người đọc hôm nay sẽ nhận diện được gương mặt lịch sử, thấu hiểu, đồng cảm với những đau thương và vinh quang, nhọc nhằn và kiêu hãnh của một thế hệ, để nhắc nhở trách nhiệm với Tổ quốc và gia đình” [31] . 5
  12. Phạm Quang Long trong bài viết Mùa chinh chiến ấy – những trang sách được viết ra từ chiến hào đã đánh giá “Mùa chinh chiến ấy là hồi ký nhưng hấp dẫn và giàu chất truyện như một cuốn tiểu thuyết” [43]. Còn PGS.TS Phạm Xuân Thạch khi trả lời phỏng vấn của tạp chí Văn nghệ quân đội, đã cho rằng Mùa chinh chiến ấy là một tập xuất sắc về một cuộc chiến qua cái nhìn của người lính. Điểm qua các bài viết về Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn, có thể thấy phần lớn là các bài giới thiệu, điểm sách, chưa đi sâu vào khai thác tư tưởng, thẩm mĩ đặc sắc của tác phẩm Trên tinh thần kế thừa người đi trước, với đề tài Hiện thực chiến tranh trong „Miền hoang‟ của Sương Nguyệt Minh và „Mùa chinh chiến ấy‟ của Đoàn Tuấn, luận văn tập trung khai thác hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam qua hai tác phẩm trên, đồng thời khám phá những phương thức phản ánh hiện thực mới mẻ ở hai tác phẩm, từ đó người đọc có cái nhìn chân thực nhất về chiến tranh cũng như sự đổi mới và phát triển của văn học chiến tranh ở thể kỉ XXI. 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề hiện thực chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam đương đại, cụ thể qua hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Lựa chọn hai tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi đương đại viết về đề tài chiến tranh, người viết hướng tới hiện thực chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam và phương thức phản hiện thực chiến tranh của văn xuôi Việt Nam hiện đại từ đó có cái nhìn sâu sắc, toàn diện nhất về chiến tranh cũng như góp phần khẳng định tài năng của các nhà văn hiện đại như Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn,…trên địa hạt văn chương đương đại. 3.2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu đặc trưng thi pháp của hai tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn để thấy được sự vận động và cách tân của văn xuôi viết về đề tài chiến tranh hiện nay. Từ đó luận văn khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn vào thành tựu của văn xuôi chiến tranh cùng tiến trình hiện đại hoá tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 6
  13. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát hai tiểu thuyết Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn. Hai tác phẩm có một điểm chung là đều viết về chiến tranh biên giới Tây Nam. Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã viết bằng tâm thế của người trực tiếp tham gia chiến đấu. Chính vì vậy, khi nghiên cứu hai tác phẩm, người viết có thể có một cách nhìn khái quát hơn, chân thực hơn về cuộc chiến đã qua đi. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử - xã hội: Tác phẩm Miền hoang của Sương Nguyệt Minh và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn ra đời gắn với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt – cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Chính vì vậy, sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội sẽ là một phương pháp hiệu quả khi khai thác hiện thực chiến tranh trong hai tác phẩm. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu. Ở chương 2 của luận văn, người viết tập trung khai thác phương thức nghệ thuật của hai tác phẩm trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh. Phương pháp tiếp cận thi pháp học sẽ là chìa khóa giúp người viết vận dụng thi pháp học vào tìm hiểu tác phẩm văn chương. - Ngoài ra, trong luận văn người viết còn dùng các phương pháp khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê; phương pháp tự sự học. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 và sáng tác của Sương Nguyệt Minh, Đoàn Tuấn Chương 2. Hiện thực chiến tranh biên giới Tây Nam trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy Chương 3. Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy nhìn từ phương diện nghệ thuật biểu hiện 7
  14. Chƣơng 1 VĂN HỌC VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU 1975 VÀ SÁNG TÁC CỦA SƢƠNG NGUYỆT MINH, ĐOÀN TUẤN 1.1. Văn học về đề tài chiến tranh sau 1975 1.1.1. Cơ sở của việc phản ánh hiện thực chiến tranh Sau năm 1975, cuộc kháng chiến 20 năm kết thúc, đất nước hoàn toàn giải phóng nhưng đồng thời cũng phải đối diện với muôn vàn khó khăn thử thách. Một mặt chúng ta vừa phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải đối mặt với muôn vàn những khó khăn, thử thách trong công cuộc dựng xây đất nước. Nhân dân ta vừa hàn gắn vết thương do chiến tranh, vừa dựng xây đất nước trong sự hoang tàn, xơ xác, vừa phải giải quyết những vấn đề của thời hậu chiến. Mặt khác, không bao lâu sau, chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam lại nổ ra, dân tộc lại gồng mình lên đường chiến đấu để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ. Nhận biết tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng đề ra những chủ trương, đường lối phát triển đất nước phù hợp với thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” phù hợp với xu thế phát triển của đất nước lúc bấy giờ. Những đặc điểm về hoàn cảnh xã hội tác động không nhỏ đến văn học, làm thay đổi diện mạo của nền văn học sau năm 1975. Văn học viết về chiến tranh có sự chuyển mình đáng kể, mở ra một thời kì mới cho sáng tác văn học trong yêu cầu tái tạo thời kì lịch sử hiện nay. Sau năm 1975, văn học viết về chiến tranh có những chuyển động đáng chú ý. Trong đó phải kể đến sự thay đổi về chủ thể sáng tạo. Văn học từ 1975 đến nay đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm đi từ thời chiến bước vào thời Đổi mới với bao va đập qua những bước ngoặt lịch sử. Nhà văn viết về chiến tranh là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu. Họ viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh quang thăng trầm quá khứ một cách chân thực và sâu sắc. Họ đã đem vào trong văn xuôi về chiến tranh những trải nghiệm từ chiến hào của cá nhân mình và của thế hệ mình. Hơn ai hết, họ hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, hiểu về sự hi sinh lớn lao và nghĩa tình của đồng bào, đồng chí. Và họ viết bằng tất cả cảm xúc chân 8
  15. thật của mình, viết bằng trái tim, viết bằng sự tri ân đối với những người đồng đội còn nằm lại chiến trường. Những trang viết vì thế mà ấm nóng, những trang viết vì thế mà phản ánh một cách chân thực nhất về sự dữ dội của chiến tranh và những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc của tình đồng chí, tình quân dân…trong những năm tháng khốc liệt ấy. Nói như Sương Nguyệt Minh: “Viết bằng tâm thế người can dự trong cuộc đi suốt cuộc chiến tranh với nỗi phấp phỏng băn khoăn giày vò, chứ không viết vằng thứ tình cảm đi xem người ta đánh nhau rồi sáng tác, cũng không viết như mấy ông nhà văn ngồi ở Hà Nội tưởng tượng về chiến tranh sáng tác như vẽ rắn thêm chân và viết nhăng cuội” [ 52, tr. 231]. Mặt khác, văn học sau 1975 tiếp tục mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực chiến tranh. Các tác phẩm viết về chiến tranh không chỉ dừng lại ở hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đường biên chiến tranh được mở rộng khi các nhà văn hướng đến khai thác cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc. Tuy số lượng tác phẩm viết về chiến tranh biên giới ít hơn so với tác phẩm viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhưng những tác phẩm này đã thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người cầm bút, họ viết về chiến tranh bằng những day dứt, trăn trở, bằng những nếm trải của người “người trong cuộc”, bởi thế những trang văn của họ chân thực và thấm thía. Không ít tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi chất hiện thực ngồn ngộn, tươi ròng cùng cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và chân dung người lính như Dòng sông Xô Nét của Nguyễn Trí Huân, Không phải trò đùa của Khuất Quang Thụy, Khoảng rừng có những ngôi sao và Ngôi chùa ở Pratthana của Văn Lê, Lính Hà (Nguyễn Ngọc Tiến), Mùa chinh chiến ấy (Đoàn Tuấn), Hồi ức lính (Vũ Công Chiến),…Trong đó, theo Sương Nguyệt Minh, có thể xem Dòng sông Xô Nét của Nguyễn Trí Huân viết năm 1980 là tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến tranh biên giới Tây Nam. Có thể nói, đây chính là một dòng văn học dù ít, dù nhiều đã góp phần tái hiện lại những năm tháng gian nan trong cuộc chiến đấu ở “đất bên ngoài Tổ quốc”. Ở giai đoạn này, các nhà văn cũng có nhu cầu nhận thực lại hiện thực chiến tranh và viết về chiến tranh với cảm quan mới. Nếu như trước 1975, hiện thực chiến tranh chủ yếu được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan lãng 9
  16. mạn thì đến nay, văn học viết về chiến tranh đã có sự đổi mới rõ rệt trên phương diện tiếp cận, miêu tả và phản ánh hiện thực. Trong các trang viết về chiến tranh đã bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở nhiều góc độ: bi tráng, khốc liệt; đời tư, thế sự, nhân văn; văn hóa, tâm linh. Các tác phẩm viết về chiến tranh đã không còn né tránh hiện thực, mặt khác các nhà văn đã tái hiện hiện thực chiến tranh với tất cả sự khốc liệt, những tổn thất, hi sinh nặng nề của nó. Hiện thực ấy không chỉ là những ngày tháng nơi trận mạc, mà nó còn tiếp tục đeo bám người lính khi chiến tranh kết thúc và mang đến cho người đọc cảm nhận chân thực nhất về hệ lụy của chiến tranh. Có thể thấy, văn học đã nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh bằng những trải nhiệm và cái nhìn cá nhân, tái hiện lại cái chiều kích đau thương và bộ mặt tàn khốc không thể quy giản của chiến tranh, nói lên tiếng nói cảnh báo về những hiểm hoạ của chiến tranh để lại trong thời hậu chiến. Văn học đương đại Việt Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Hiện thực chiến tranh được tiếp cận, giải mã không đơn điệu, một chiều mà phức tạp, đa dạng; hình tượng con người được miêu tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú. Bên cạnh việc nhận thức lại hiện thực, văn học viết về chiến tranh sau 1975 còn hướng tới thân phận của từng con người trong cuộc chiến ác liệt chống lại kẻ thù. Các tác phẩm văn học chiến tranh viết về những số phận bi thảm, những con người mang trong mình những vết thương về hình hài, thân xác, về tâm hồn. Những vết thương ấy không chỉ hiện hình trong chiến tranh mà thậm chí ngay cả khi người lính đã trở về, nỗi đau vẫn không hề nguôi ngoai. Hình tượng con người được miêu tả trong cái nhìn đa chiều, phong phú. Hàng loạt kiểu con người mới nghiêng về tính chất đời tư, thế sự, cá nhân, thân phận lần lượt được miêu tả. Tất cả đã khắc họa đậm nét hệ lụy của chiến tranh và bi kịch của con người thời hậu chiến. Nhà phê bình Tôn Phương Lan đã nhận xét: “Văn học viết về đề tài chiến tranh trong những năm chiến tranh ít nói về buồn vui của cuộc sống thường nhật, ít nói về những đau thương, mất mát, hi sinh trên chiến trường, ít quan tâm đến số phận con người mà tập trung đến số phận đất nước. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài này mới có xu hướng viết về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn ác liệt, 10
  17. sau lầm, vấp ngã, thiếu sót của người lính trong chiến tranh cũng như trước sự cám dỗ của cuộc sống đời thường” [39]. Hiện thực chiến tranh được nhìn nhận qua thế giới nội tâm, những số phận cá nhân con người. Tiếp cận chiến tranh từ bên dưới, từ những số phận, những mảnh đời…nhà văn có điều kiện nhìn con người tham gia chiến tranh từ hai phía và lí giải chiến tranh trên nguyên tắc nhân bản. Văn học sau 1975 có những cách tân đáng kể về mặt nghệ thuật. Trước tiên là ở điểm nhìn trần thuật, các nhà văn đã sử dụng khá linh hoạt các điểm nhìn. Sự gia tăng điểm nhìn, dịch chuyển điểm nhìn linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật phong phú cho tiểu thuyết viết về chiến tranh, bộ mặt chiến tranh hiện lên một cách khách quan và toàn vẹn hơn. Mặt khác, văn học thời kì này cũng có sự đổi mới về ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Những cách tân về nghệ thuật tạo ra những góc nhìn đa chiều về chiến tranh, góp phần làm thay đổi diện mạo của văn học sau năm 1975. Có thể thấy, khi chiến tranh kết thúc, văn học có “độ lùi” cần thiết để viết về chiến tranh, đánh giá và nhìn nhận lại chiến tranh một cách toàn diện hơn. Đó cũng chính là lí do khiến chiến tranh trở thành “siêu đề tài, người lính trở thành siêu nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung không mòn nhẵn” [37]. 1.1.2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới Viết về chiến tranh, văn học đương đại Việt Nam đã có những dịch chuyển về góc nhìn nghệ thuật. Nếu như trước năm 1975, hiện thực chiến tranh chủ yếu được soi rọi bằng cái nhìn sử thi, hào hùng và cảm hứng lạc quan, lãng mạn; đến nay mặc dù cái nhìn và cảm hứng sử thi ấy vẫn được duy trì trong những trang viết về chiến tranh, song đã bắt đầu xuất hiện cái nhìn đa chiều, trần trụi hơn ở những góc độ: đời tư, thế sự và văn hóa, tâm linh. Những góc nhìn này khiến cho hiện thực chiến tranh trở nên chân thực hơn, sâu sắc hơn, khai thác được bề sâu, bề xa và bề sau của mỗi cuộc chiến, đặc biệt là chiến tranh biên giới Tây Nam. 1.1.2.1. Hiện thực chiến trường qua góc nhìn đời tư, thế sự Sau năm 1975, văn học bắt đầu có sự chuyển mình, từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư. Ở giai đoạn này, văn học không còn ngợi ca mà chuyển sang chiêm nghiệm, phê phán, lấy vấn đề của cuộc sống hàng ngày, bình thường 11
  18. của con người bình thường làm đối tượng khám phá. Chất hiện thực đời thường theo khuynh hướng đời tư, thế sự được khai thác nhiều hơn. Chính vì vậy, chiến tranh được nhìn nhận đánh giá lại một cách đầy đủ và nghiêm túc. Trong lịch sử dân tộc, hiện thực chiến tranh là hiện thực hào hùng với những trang sử vẻ vang, với những bản anh hùng ca cách mạng. Nhưng bên trong hiện thực ấy chất chứa cả những nỗi đau, những mất mát, những giằng xé nội tâm và thậm chí cả những xấu xa, thấp hèn trong mỗi người lính. Văn học đương đại Việt Nam viết về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Các tác giả văn học đương đại đã chú ý nhiều hơn đến cái gọi là “đời” mà trước đây ít nói đến. Họ viết về chiến tranh bằng sự giày vò, day dứt của những người trong cuộc, của những người đi qua chiến thắng và may mắn sống sót, nên hơn ai hết họ hiểu rõ về chiến tranh. Những tác phẩm của họ là một quá trình tìm tòi, trăn trở về chiến tranh, về số phận con người. Chính vì vậy hàng loạt tác phẩm trong giai đoạn này không đơn giản là những bức tranh về chiến tranh đầy ắp sự kiện mà chiến tranh chỉ làm “bức phông” để các nhà văn khai thác số phận con người trong nỗi đau nhân bản nhất. Điểm chung trong Miền hoang và Mùa chinh chiến ấy là cả hai nhà văn đều tiếp cận, miêu tả hiện thực cuộc sống qua góc nhìn đời tư, thế sự. Phía sau mỗi trận đánh là cuộc sống sinh hoạt bình dị nhưng không kém phần sôi nổi, vui vẻ. Đó là những bữa cơm trắng nuốt không trôi, những đêm tát suối nhớ đời hay lần đầu được chén thịt voi…Đó là những hình ảnh rất bình dị thuộc về cuộc sống, là những trải nghiệm của lính tráng ở nơi đất bạn tuy vất vả nhưng không kém phần thú vị. Người lính đã hòa mình vào sinh hoạt cộng đồng của người dân. Họ cùng ăn một bữa cơm, uống cùng bình rượu, cùng nhau nhảy múa hát ca,...trong tình quân dân ấm áp. Họ xúc động trước một tiếng hát ngọt ngào, vỡ òa cảm xúc trong thanh âm tiếng Việt trong trẻo, họ trân trọng từng nét đẹp văn hóa của nhân dân Campuchia. Cuộc sống của họ trở nên tươi mới như suối nguồn tươi trẻ, giảm đi phần nào sự khốc liệt và dữ dội của chiến tranh. Các tác giả không chỉ dựng lại bức tranh sinh hoạt thời chiến mà còn cho người đọc thấy được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính trẻ chiến đấu trên mảnh đất không phải quê hương. 12
  19. Mặt khác, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn thiên về khai thác những mặt còn khuất lấp, đặc biệt là những tâm tư, cảm xúc rất chân thực của người lính. Trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn, người lính không phải là những người truyền bá lí tưởng, ngược lại họ là những con người rất đỗi bình thường. Bởi thế, họ được khắc họa với những suy tư, khao khát, ước mơ, với những xúc cảm rất chân thực trong đời sống nội tâm phức tạp, nhiều chiều. Đó là khoảnh khắc sau những ngày tháng khô hạn, thiếu nước, người lính hạnh phúc khi được dầm dưới cơn mưa rào để cơ thể như được tái sinh. Đó là niềm vui khi nghe giai điệu quen thuộc từ đài phát thanh Campuchia và nghiêng ngả hát theo. Đó là giây phút hạnh phúc khi được nhận thư nhà và sẻ chia cùng đồng đội. Đó là những nỗi nhớ miên man về gia đình, về người yêu thương, … Thậm chí cả những sợ hãi, bất lực hay tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốc liệt nhất. Có thể nói, trên trang viết của nhà văn, người lính đã sống với những cảm xúc thành thật, riêng tư nhất. Họ suy ngẫm về cuộc chiến với tất cả những bi hùng, họ ước ao được trở về quê hương, gia đình, được ăn bữa cơm mẹ nấu, được sống một cuộc sống bình yên. Trong những câu chuyện của người lính chiến đấu nơi đất bạn, khát khao được trở về đất nước luôn thôi thúc họ. Không phải họ là những kẻ hèn yếu, không phải họ quên đi nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng, không phải họ không dám vượt qua những khó khăn thử thách mà thực ra phía sau họ là quê hương, là gia đình. Khát khao ấy cũng là dễ hiểu với những chàng trai trẻ tuổi phải đối diện với muôn ngàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy trên đất bạn. Tuy nhiên, ước mơ khát khao ấy không khiến họ thoái lui, bỏ cuộc, hàng ngày họ vẫn đấu tranh để bảo vệ từng tất đất, đánh đuổi kẻ thù, họ vẫn gánh trên vai trách nhiệm thiêng liêng bởi: “tất cả mọi người lính Việt Nam ai cũng muốn trở về nhà thì bọn Pol Pot quay trở lại Phnom Pênh ngay. Người Khmer sẽ sống ra sao với bọn man rợ ấy. Bỏ thì thương, vương thì tội. Bỏ cuộc chiến đồng nghĩa với ... trắng tay”. [ 52, tr. 231]. Có thể nói, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn đã chạm vào phần sâu nhất trong mỗi người lính, khiến trang viết của họ lấp lánh giá trị nhân bản trong cuộc chiến tranh khốc liệt nơi chiến trường K. Soi chiếu chiến tranh dưới góc nhìn đời tư, Sương Nguyệt Minh và Đoàn Tuấn không giấu giếm những chuyện thầm kín riêng tư, những góc khuất bản năng 13
  20. của những người lính trẻ. Bởi xét cho cùng, họ đều là những thanh niên, chưa biết đến cảm giác yêu thương từ bạn khác giới, cho đến khi vội vã tham chiến, giữa không gian núi rừng mênh mông rộng lớn, họ khát khao một vòng tay ấm, một cử chỉ âu yếm, một ánh mắt thân yêu. Trong Mùa chinh chiến ấy, Đoàn Tuấn đã khắc họa khá chân thực cảm xúc của người lính khi nghe tin đoàn văn công đến. Không sao giấu nổi sự háo hức ở những chàng trai suốt ngày chỉ quen với súng đạn, họ háo hức, họ phấn đấu, họ chu đáo với những cô gái của đoàn văn công. Và khi đoàn văn công rời đi, họ tiếc nuối ngẩn ngơ giống như những cô gái ấy “như một đám mây, từ trên trời rơi xuống”. Hình ảnh đoàn dân công cũng chính là những khát khao của tuổi trẻ, là những cảm xúc rất đời, bởi lẽ họ đã “để lại trong lòng lính tráng cái cảm giác về đời thường, về sự cân bằng âm dương thiết yếu của mọi thứ tạo vật trên đời, không chỉ riêng con người” [96, tr. 377]. Còn ở Miền hoang, Sương Nguyệt Minh cũng không cố che giấu những cảm xúc, bản năng của nhân vật Tùng - chàng trai Hà thành còn rất trẻ. Trong một khoảnh khắc đặc biệt, con người bản năng của Tùng trỗi dậy. Vẻ đẹp của cô gái Sa Ly đã cuốn hút anh “Tôi đang sống trong cảm giác được mơn man khơi gợi, kích thích bản năng tính dục thức dậy trong niềm thích thú đê mê âm thầm” [ 52, tr. 280]. Có thể nói, chiều sâu tâm hồn của những người lính ấy đã được Đoàn Tuấn và Sương Nguyệt Minh khắc họa một cách chân thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Họ đã soi chiếu chiến tranh từ góc nhìn đời tư thầm kín của những người lính trẻ, đã khai thác góc khuất nơi bản năng của những chàng thanh niên vừa mới rời ghế nhà trường, từ đó hình tượng người lính trở nên chân thực hơn. Mặt khác, chiến trường K cũng chính là nơi để thử thách, để nhận diện giá trị của mỗi người. Trong bối cảnh ác liệt ấy, hình ảnh người lính hiện ra với tất cả các hành vi, tình cảm, nhận thức về nghĩa vụ, trách nhiệm, quan hệ với đồng đội, bạn bè, sống chết, đúng sai, cao cả và thấp hèn, dũng cảm và hèn nhát, sự thực và dối trá ở mỗi người lính. Khi cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt, ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mong manh, hàng loạt cảnh tượng chết chóc kinh hoàng cứ liên tiếp nối nhau đè nặng lên trí óc người lính khiến tâm hồn của họ chao đảo, mông lung. Trong Miền hoang, không ít lần Tùng gục ngã giữa rừng hoang hiểm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2