Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát
lượt xem 26
download
Mục đích của luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát là nhằm tìm hiểu thấu đáo về con người Cao Bá Quát cũng như thế giới nghệ thuật trong sáng tác thơ chữ Hán Cao Bá Quát; nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát phục vụ cho việc giảng dạy, học tập.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------- ĐOÀN DUY LINH KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
- ơ Lời cảm ơn Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa học tận tình, chu đáo của cô Lê Thu Yến, người trực tiếp hướng dẫn chúng tôi hoàn thành luận văn khoa học này. Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập thể Thầy, Cô khoa Ngữ văn và Phòng khoa học công nghệ Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn những đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô trong Hội đồng chấm luận án đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình hoàn thành luận văn khoa học. Chúng tôi cũng xin cảm ơn quý đồng nghiệp, bạn bè đã động viên và khích lệ chúng tôi trong quá trình học tập và viết luận văn. Xin chân thành cảm ơn tất cả!
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Thơ chữ Hán chiếm phần lớn trong tổng thể sáng tác của Cao Bá Quát. Con số hơn 1267 bài thơ đủ để khẳng định ông là cây bút sáng tác bằng chữ Hán nhiều nhất trong lịch sử văn học dân tộc, nhà thơ lớn của văn học trung đại. Việc nghiên cứu, khảo sát bộ phận thơ này là một việc cần thiết và là niềm vinh hạnh cho người đi sau. Trước nay, qua văn học đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng, quan niệm của Cao Bá Quát ở mảng thơ chữ Hán. Nhìn chung, các công trình này thường nhằm mục đích giúp minh họa và soi sáng cho cuộc đời Cao Bá Quát hơn là xem thơ chữ Hán như một đối tượng nghệ thuật cần nghiên cứu. Các tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc độ tiểu sử, hành trạng về tư liệu, về con người và nội dung thơ văn, tập trung ở một số bài quen thuộc. Đến đây, chúng tôi tiến hành khảo sát 418 bài thơ chữ Hán trong tổng số 1267 bài thơ. Số lượng lớn những bài thơ này thể hiện những tâm tư – tình cảm, nỗi niềm, khát vọng từ những cảm hứng nghệ thuật của chính Cao Bá Quát trước cuộc đời. Mặc khác, việc đi tìm một hệ thống giải mã tương đối hữu hiệu cho thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát nhằm phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy cũng là vấn đề cấp thiết. Bên cạnh đó, còn có sự ham mê hứng thú của người viết với tác gia này. Những thế giới nghệ thuật còn nhiều tiềm ẩn từ những câu thơ, hình ảnh, ngôn ngữ… cứ như khêu gợi, thôi thúc người viết. Mong muốn hiểu biết thì nhiều. Song khả năng lại có hạn. Người viết nghĩ nếu thực hiện tốt đề tài này sẽ là sự đóng góp, bổ sung hiểu biết về tác gia lớn Cao Bá Quát, giúp việc giảng dạy, học tập tốt hơn. Đó là lý do thực hiện đề tài: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 2. Mục đích nghiên cứu: 2.1. Người viết muốn tìm hiểu thấu đáo về con người Cao Bá Quát cũng như thế giới nghệ thuật trong sáng tác thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 2.2. Việc nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát phục vụ cho việc giảng dạy, học tập của bản thân. 2.3. Người viết muốn bày tỏ lòng kính trọng trước một nhân cách đáng quý và một tài thơ lỗi lạc. 3. Lịch sử vấn đề: Có nhiều công trình nghiên cứu thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tập trung theo ba hướng sau: Hướng đi vào văn bản: Hướng này có một số bài viết và công trình nghiên cứu: - Thái Trọng Lai (2004), “Vấn đề chú thích trong việc dịch thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát – Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
- - Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, Tập I, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. - Nguyễn Ngọc Quận (2004), “Vài nhận xét về tập thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học. - Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), Nhóm tuyển dịch gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, Nxb. Văn học, Hà Nội. - Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1984), Nhóm biên soạn gồm Vũ Khiêu và nhiều người khác, Nxb. Văn học. - Trần Đại Vinh (2004), “Văn bản Cao Chu Thần thi tập”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. Các bài viết, công trình nghiên cứu này tập trung tìm kiếm một văn bản tốt nhất, đúng nhất cho thơ văn Cao Bá Quát nói chung và thơ chữ Hán nói riêng. Hướng đi vào nội dung: có các bài viết, công trình sau: - Nguyễn Kim Châu (2004), “Không gian đường đời và sự thể hiện nhận thức con người phi lí trong thơ Cao Bá Quát”, Cao Bá Quát – Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. - Nguyễn Huệ Chi (1961), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 6. - Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, Số 5. - Đinh Thị Thái Hà (2003), “Lương tâm và khí phách qua thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. - Hồ Sĩ Hiệp (2005), “Thi tiên trong thơ Thánh Quát”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2. - Tố Hữu (2001), “Cao Bá Quát - Một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc”, Văn nghệ, số 17. - Nguyễn Hữu Sơn (2004), “Cao Bá Quát và những câu hỏi trong thơ”, Văn nghệ, số 35, 36. - Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cao Bá Quát và những suy tưởng trong thơ”, tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2. - Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát con người và tư tưởng, Nxb. Khoa học Xã hội, H. - Phạm Quang Trung (2003), “Bước đầu tìm hiểu quan niệm văn chương của Cao Bá Quát”, tạp chí Văn học, số 10. ……………… Những công trình này thường đi vào một số bài thơ tiêu biểu cho khí phách, lương tâm, tình cảm … trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
- Hướng đi vào từng bài cụ thể: có một số bài viết sau: - Trịnh Bích Ba (2004), “Đọc bài Dương phụ hành của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. - Lê Bảo (1991), “Bài ca cái roi song”, trong sách Những bài thơ hay, Nxb. Hà Nội. - Mai Quốc Liên (2005), “Một bài thơ kỳ tuyệt, một số phận khác thường”, Văn nghệ, số 19, 20. - Nguyễn Thu Phương (2001), “Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát với thi pháp văn học trung đại qua Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành”, trong sách Những bài làm văn chọn lọc 11, Nxb. Giáo dục. - Nguyễn Đức Quyền (2003), “Đề Sát Viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu”, trong sách Bình giảng, bình luận Văn học, Nxb. Giáo dục. - Vũ Dương Quỹ (2001), “Mộng vong nữ”, trong sách Giảng văn chọn lọc – Văn học Việt Nam (Văn học dân gian và văn học cổ, cận đại), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội . - Trần Thị Băng Thanh (1998), “Dương phụ hành”, trong sách Giảng văn Văn học Việt Nam (Văn học dân gian và văn học cổ đại, cận đại), in lần thứ 3, Nxb. Giáo dục. -Trần Thị Băng Thanh (2004), “Một thoáng nhìn của Cao Bá Quát: Giữa đường gặp người đói”, Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. …………………. Hướng đi này thường bộc lộ cảm hứng riêng đối với một số bài thơ hoặc tranh luận về một vấn đề chưa nhất trí… Gần đây là công trình của Nguyễn Ngọc Quận (2005), “Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học”, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một mặt đã sưu tầm, xử lý và công bố tác phẩm Cao Bá Quát nói chung thơ chữ Hán nói riêng; mặt khác bước đầu tìm hiểu đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ văn Cao Bá Quát cũng như bộ phận thơ chữ Hán. Nhìn chung, nhiều công trình đề cập đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Trong đó, các tác giả chú ý về mặt tiểu sử, hành trạng, văn bản, về nội dung, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm để hiểu về con người và cuộc đời Cao Bá Quát. Những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát hầu như là một vấn đề chưa được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống và chưa được khai thác sâu. Tiếp thu những công trình trên, người viết đặt vấn đề nghiên cứu những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát trên một số phương diện nổi bật: hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật…, ở phạm vi rộng hơn: 418 bài thơ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn khảo sát toàn bộ 418 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát trong cuốn Cao Bá Quát toàn tập, tập 1, do Mai Quốc Liên chủ biên, Nhà xuất bản Văn học, 2004. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở những vấn đề liên quan đến văn bản trong một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật được tìm thấy như hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ thuật… 5. Phương pháp nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh… kết hợp với các thao tác như phân loại, thống kê, phân tích, so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp… Các phương pháp và thao tác này này được dùng suốt ở các chương. Đầu tiên là phân loại đối tượng, tiếp theo là thống kê các yếu tố có tính chất lặp đi lặp lại nhiều lần. Sau đó, ở tùy từng loại, chúng tôi khảo sát theo những phương diện khác nhau, kết hợp phân tích từng đối tượng, khái quát và rút ra những kết luận, đặc điểm quan trọng. Trong quá trình khảo sát, nhận xét, đánh giá đối tượng, chúng tôi còn so sánh đối chiếu từng phương diện với các tác phẩm của các tác giả khác để làm rõ thêm sự khác biệt cũng như những nét đặc sắc nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 6. Những đóng góp của luận văn: 6.1. Luận văn bước đầu khảo sát những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát ở phạm vi rộng - 418 bài thơ. 6.2. Luận văn đi sâu vào khảo sát từng phương diện trong thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Qua đó, rút ra được những nét đặc sắc về quan niệm nhân sinh, về sáng tạo nghệ thuật của tác gia lớn Cao Bá Quát. 6.3. Từ những kết quả đạt được có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy, vào lĩnh vực tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 7. Kết cấu luận văn: Phần mở đầu. Chương 1: Thời đại, con người và sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát. 1.1. Thời đại. 1.2. Con người. 1.3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát. 1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát. 1.3.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát. 1.3.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Chương 2: Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 2.1. Con người trách nhiệm. 2.2. Con người khí phách.
- 2.3. Con người bi phẫn. 2.4. Con người tình cảm. 2.4. Con người suy tưởng. Chương 3: Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát. 3.1. Thời gian nghệ thuật. 3.1.1. Thời gian kiểm nghiệm. 3.1.2. Thời gian tĩnh tại. 3.1.3. Thời gian toan tính. 3.2. Không gian nghệ thuật: 3.2.1. Không gian “tầm cao”. 3.2.2. Không gian nỗi niềm. Chương 4: Ngôn ngữ nghệ thuật. 4.1. Tiêu đề bài thơ. 4.2. Câu thơ. 4.2.1. Câu trần thuật. 4.2.2. Câu nghi vấn. 4.2.3. Câu cầu khiến. 4.2.4. Câu cảm thán. 4.3. Từ ngữ. 4.3.1. Từ tự xưng. 4.3.2. Từ biểu cảm. Phần kết luận.
- Chương 1: THỜI ĐẠI, CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT 1.1. Thời đại: Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam có nhiều biến chuyển lớn lao. Họ Mạc sụp đổ. Vua Lê lên trị vì, dẫn đến sự phân chia Đàng ngoài, Đàng trong. Ở Đàng ngoài, Chúa Trịnh lộng quyền dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với vua Lê, nội bộ nhà Chúa lại tranh giành quyền hành lẫn nhau. Trong Đàng trong, nhà Nguyễn cùng nhân dân khai khẩn đất hoang, đời sống khó khăn, khổ cực, lầm than. Cuộc khởi nghĩa của anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ như một “trận mưa nhuần” dẹp yên “thù trong giặc ngoài”, lập nên triều đại Tây Sơn tiến bộ vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến. Thành quả quý báu ấy lại nhanh chóng bị hủy hoại trong tay vị vua trẻ Quang Toản ít tài lắm tật, tin tưởng nịnh thần. Năm 1802, nhờ sự viện trợ của nhà Thanh, Nguyễn Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn thống nhất giang sơn, thành lập vương triều Gia Long. Một vương triều nói như Nguyễn Tài Thư “có một không hai trong lịch sử” cai trị. Về chính trị, các thế hệ nhà Nguyễn luôn chuyên chế, độc đoán, vị kỷ. Mọi quyền hành đều tập trung vào nhà vua: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát trong tay. Quy định “bốn không” cũng được ban hành: không đặt chức tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy đỗ trạng nguyên, không phong tước vương cho người hoàng hoàng tộc. Không chỉ vậy, pháp luật nhà Nguyễn còn dã man, bạo tàn với “bộ luật Gia Long” tư thù, phản động và một đội quân khát máu dùng trong những cuộc đàn áp nông dân. Đối nội là vậy, còn đối ngoại thì triều Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thần phục” nhà Thành, “bế quan tỏa cảng” với Phương Tây. Nhiều chính sách, thiết chế chính trị, tư tưởng văn hóa xã hội của nhà Thanh được các vua triều Nguyễn tiếp thu, vận dụng một cách rập khuôn, cứng nhắc, xem nó như là “khuôn vàng thước ngọc” trong cai trị. Trong khi ấy, triều đình nhà Thanh đã lỗi thời trước sự phát triển của lịch sử, bản thân đang gặp nhiều khó khăn bởi “thù trong giặc ngoài”. Thần phục mù quáng nhà Thanh, nhà Nguyễn ra sức ngăn chặn các trào lưu phát triển của thế giới lúc bấy giờ, cố tình giữ đất nước trong tình trạng cổ hủ và trì trệ. Chính do vậy, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ngày một suy sụp và khốn đốn. Nhà Nguyễn Ánh cũng có ước vọng xây dựng một triều đại vững mạnh, lâu bền như Nghiêu, Thuấn nên đã thực hiện những cải cách về nông nghiệp, kinh tế cùng với chính sách thu hút nhân tài nhằm làm đổi mới tình hình, tạo thế mạnh cho đất nước. Song, đó chỉ là những cải cách mang tính nửa vời, thô sơ và thiếu căn bản chẳng có cách gì bổ trợ thêm cho cơ sở nông nghiệp và đời sống kham khổ của lê dân, mà chỉ có lợi cho giai cấp thống trị; nên hệ quả của nó là nền kinh tế ngày một
- tiêu điều, nông nghiệp mất mùa liên tiếp, tiểu công nghiệp và thương nghiệp đình đốn, bế tắc. Chính sách văn trị, đề cao khoa cử, trọng vọng nho sĩ, phục hưng Hán học cũng chẳng ích nước lợi dân, chủ yếu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của tầng lớp Nho sĩ đối với vương triều mới. Về văn hóa – tư tưởng, nhà Nguyễn khôi phục và phát triển mạnh hệ tư tưởng Nho giáo, nâng nó lên địa vị độc tôn trong hệ tư tưởng Nho, Đạo, Phật. Những giáo lý “tam cương”, “ngũ thường” và khẩu hiệu “ái quốc”, “trung quân”… được ngợi ca, phổ biến rộng trong nhân dân. Chế độ học hành, thi cử… được chấn chỉnh. Nhà Nguyễn mong muốn có những con người mang lẽ sống và tính cách của Nho giáo để có thể trung thành và tận tụy với sự nghiệp của mình. Nhưng dù cố gắng đến đâu nữa, triều Nguyễn vẫn không thể thực hiện được điều đó. Thế nên, ý thức hệ của Nho giáo tồn tại từ xưa đến nay ngày một suy đồi, khủng hoảng cuối cùng đã sụp đổ. Chính trị hà khắc, kinh tế sa sút tồi tệ, xã hội rối ren, văn hóa – tư tưởng suy đồi đã đẩy dân chúng đến cảnh trăm bề điêu đứng, nghèo xác, đói rét, bệnh tật, tinh thần hoang mang. Cuộc sống tức thở vô cùng. Nhiều người rơi vào bước đường cùng, đại đa số là nông dân. Họ đấu tranh chống bắt lính, bắt phu; họ rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực; họ gia nhập phong trào nông dân ngày càng nhiều… Trong khi ấy vua chúa, quan lại, cường hào lại xa hoa lãng phí, ra sức vơ vét, bóc lột, hoành hành… Kết quả tất yếu của chế độ hà khắc, của đói nghèo, áp bức, bóc lột là tranh đấu, khởi nghĩa. Nông dân, giới trí thức bất bình, phẫn nộ và hành động chống trả bằng lời nói, bằng hành động. Nếu trước kia, nông dân khởi nghĩa vì không chấp nhận sự thống trị của tân triều thì nay họ đấu tranh chính vì bản chất phản động trong cai trị của triều Nguyễn. Thời Gia Long (1802 - 1819) mới chỉ có khoảng 50 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, nhưng đến Minh Mệnh (1820 – 1840) đã có trên 200 cuộc, sang Thiệu trị (1841 – 1846) chỉ có 7 năm mà có gần 50 cuộc khởi nghĩa… Giới trí thức Nho học cũng có những mối bất mãn sâu xa, những nỗi thất vọng chua chát với nhà Nguyễn. Họ không tha thiết với việc làm quan: Ví như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (Nam Định) đương chức sử quan, nhân bàn luận về sử không hợp ý mà cáo quan về; Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (Nam Định) vì can việc trường thi bị cách hết quan chức, trở về lành dạy học, viết sách; Nghè Tân Nguyễn Quý Tân (Hải Dương) làm Tri phủ nhưng rồi chán việc quan, bỏ đi chơi, phải bãi chức; Nguyễn Văn Giai (Hà Nội) học rất giỏi mà không thiết gì thi cử đỗ đạt, sống rất phóng túng theo khuynh hướng lãng mạn, châm biếm, làm cho giới tay mắt ở Hà Nội hồi ấy phải điên đầu về những trò chơi ngông của ông… Hoặc họ có thái độ bất đồng với đồng liêu, khinh khi những con người bất tài, luồn cúi, nịnh bợ như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Lạc; hoặc miệt thị cả vua như Phan Văn Trị… Một số Nho sĩ khác mạnh mẽ hơn, muốn thay đổi nước cờ, tạo dựng cuộc đời đã đứng lên khởi nghĩa như anh em Đoàn Trưng, Đoàn Hữu Ái, Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Cao Bá Quát…
- Những phong trào khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn đã làm cho tình thế đất nước ngày một suy yếu. Triều Thiệu Trị, Tự Đức khủng hoảng, suy sụp, nhanh chóng lụi tàn. Phương Tây đang lâm le dòm ngó. Các Nho sĩ tan vỡ giấc mộng công danh. Họ gửi gắm nỗi niềm thất vọng vào văn thơ. Những lời than vãn về chí nam nhi, về “hùng tâm, sinh kế” thường thấy trong văn học lúc này. Không chỉ vậy, các Nho sĩ tiến bộ còn hướng đến tầng lớp bình dân, viết về thân phận con người, nhất là người phụ nữ và thân phận của họ. Văn học nửa cuối XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX vì vậy mà đơm hoa kết trái ngọt ngào từ mảnh đất cằn khô sự sống, nói như Mai Quốc Liên, đó là “nền văn học có tính chất phục hưng với một chủ nghĩa nhân đạo trác tuyệt”; và “lần đầu tiên trong văn học, con người cá nhân được đặt vào vị trí trung tâm, được soi sáng từ bên trong, từ nội tâm và nhu cầu hạnh phúc, nhu cầu phát triển nhân cách tài năng được đặt ra”. Đối tượng của văn học thay đổi. Theo đó, những gì trước đây được coi là quy phạm, tao nhã, phi ngã cũng bị phá vỡ. Thời kì này xuất hiện nhiều văn hào tên tuổi Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Những nhân vật tiếng tăm này họ đã sống và chứng kiến những biến đổi thăng trầm của thời đại. Đặc biệt, các sáng tác của họ cùng với tiếng nói đồng cảm, chia sẻ, trân trọng, thách thức, ngất ngưởng, tự do đã thật sự xoa dịu nỗi đau và mở ra một chân trời mới cho con người. Vấn đề quyền làm người, quyền được tự do, con người cá nhân… rất được xem trọng. Chất nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo được xem là những tư tưởng tiến bộ, mở đường… Những khát vọng, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống tự do được chấp cánh từ văn học… Trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động lớn lao ấy, Cao Bá Quát xuất hiện như một hiện tượng lạ. Là một Nho sĩ, lý ra Cao Bá Quát phải luôn lấy chữ “trung quân ái quốc” làm đầu. Thế nhưng, ông lại vùng lên chống trả quyết liệt chế độ phong kiến. Hành động này xuất phát từ sự ý thức về bản nhất bạo tàn của triều Nguyễn, về xu thế tất yếu của lịch sử, nhất là từ lương tâm và khí phách của ông. Có thể nói, những hoạt động thực tiễn của Cao Bá Quát cũng như những tư tưởng và nguyện vọng của ông đã làm rõ xu thế đi tới tất yếu của thời đại, đồng thời cũng góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển của xu thế đó. 1.2. Con người: Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Chu Thần sinh năm nào không rõ. Ông Chu Thiên căn cứ vào một bài thơ của Cao Bá Quát nhan đề “Cảm tác” trong Mẫn Hiên thi tập, có những câu: “Tự Đức tứ niên, thư ký lạp/ Nguyên tiêu tứ ngũ, biệt kinh đô” (Năm Tự Đức thứ tư vào tháng chạp gửi thư đi/ Ngày rằm tháng giêng, từ biệt kinh đô, đã 45 tuổi), dự đoán ông sinh năm 1908. Ông Tảo Trang rồi Vũ Khiêu căn cứ vào bài “Thiên cư thuyết” có đoạn viết: “Dữ di niên phủ nhị kỷ nhi sơn hà thành quách chi cựu, tam duyện kỳ biến cải…” (Với cái tuổi của ta, mới hai kỷ mà núi sông
- thành quách cũ đã thay đổi đến ba lần), phía cuối bài có ghi: “Nhâm thìn mạnh thu Chu Thần thị thuyết” (Năm Nhâm thìn, tháng mạnh thu, Chu Thần viết bài thuyết), tính ra Cao Bá Quát sinh năm 1809. Căn cứ vào một số giai thoại về tuổi trẻ, việc đi thi và về cái chết của Cao Bá Quát để tính năm sinh của ông, cũng thấy ông sinh vào quãng này. Xuất thân trong một dòng dõi khoa bảng nhưng cha chỉ là một ông đồ hay chữ. Ngay từ nhỏ, Cao Bá Quát đã được bố cho theo nghiệp nghiên bút, với mong muốn sẽ đỗ đạt, sống có ích cho đời. Cao thông minh, học giỏi, lại sớm có ý thức về tài văn chương của mình. Câu chuyện về ba bồ chữ mà người ta thường truyền tụng, tuy có cái kiêu căng tự phụ đáng chê trách nhưng cốt lõi là nói lên một phần sự thật tài năng và cá tính của ông. Thêm nữa, lời khen của ông vua Tự Đức hay chữ “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”; sự suy tôn của người đời “Thánh Quát”; sự giao du thân thiện của hai ông hoàng Tuy, Tùng trong nhóm thi xã Mặc Vân và sự ngưỡng mộ, ngâm phục của bạn bè trong giới kẻ sĩ càng khẳng định thêm cái tài hơn người của họ Cao. Không những có tài, Cao Bá Quát còn là một con người có hoài bão, khát vọng lớn. Nối chí của thân phụ, ông ôm ấp canh cánh một nỗi niềm thờ vua giúp nước. Cái tâm lớn ấy cùng với bản lĩnh của một nhà nho tràn đầy khí phách luôn háo hức trên con đường đi tìm vẻ đẹp đời mình. Cao Bá Quát còn là một người năng động, phóng khoáng, thích tự do. Bởi vậy, ông ưa làm theo ý mình, ít khi chịu theo khuôn phép. Nết ấy, ngay từ nhỏ, ông thân sinh của Cao Bá Quát đã nhận thấy trong lời văn của con: “…Văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng kém về khuôn phép”. Sau này, nó biểu lộ trong mọi hành động của ông: đi thi làm bài thì cứ lấy ý riêng của mình mà suy luận, đi chấm thi thì muốn vượt qua những nguyên tắc của trường thi. Cao Bá Quát gặp nhiều trắc trở trong việc thi cử và trên con đường hoạn lộ cũng bởi do tính cách này. Chuộng tự do, cởi mở nên Cao Bá Quát hay quan sát, tìm tòi, khám phá cuộc sống xung quanh mình. Ông đi nhiều nơi, trải qua những cảnh sóng gió trên quê hương mình, nước ngoài. Những dịp này đã giúp Cao Bá Quát có cái nhìn sâu sắc hơn về đời sống của nhân dân mình, về những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời cũng nới rộng một tầm nhìn, một cách nghĩ trước những cái lạ mắt. Những cái mới tiến bộ ở nước ngoài đã tác động và ngấm ngầm lay chuyển ý nghĩ, tình cảm, thái độ trong Cao Bá Quát. Ông nhận thấy những mối nguy cơ đe dọa từ phương Tây. Ông hưởng ứng những cái tiến bộ, sẵn sàng cởi bỏ những ràng buộc có hại… Ở Cao Bá Quát có sự phá vỡ cách sống, cách nghĩ của một tri thức Nho gia. Chính lẽ đó, về sau, ông dám đứng lên đấu tranh, hi sinh vì dân, vì nước. Cuộc đời không như ý nguyện nhưng Cao Bá Quát vẫn cứ lạc quan trước mọi hoàn cảnh dù khi thất chí, khi nghèo đói, khi bị tù đày, tra trấn. Bản lĩnh của con người giàu nghị lực, có lý tưởng sống cao đẹp đâu chịu khuất phục trước mọi hoàn cảnh, lúc nào cũng phấn đấu vươn lên, lúc nào cũng canh cánh tâm sự lo đời thái bình, người người no ấm. Với Cao Bá Quát, vào đời ví như “thân
- ngựa ngàn dặm” vậy. Và tinh thần xem sách như “ngọn đèn muôn năm”. Quả đúng là tâm niệm đáng ca ngợi của một nhân cách cao quý hết lòng vì mọi người. Tuy nhiên, Cao Bá Quát có lúc bất mãn sinh ra kiêu ngạo vì chí nguyện không thành nhưng đó chỉ là ngững ý nghĩ thoáng qua. Nguyễn Tài Thư đã rất tinh tế khi nhìn nhận khía cạnh này. Đi đôi với một tinh thần giàu nghị lực, lạc quan, một lý tưởng sống có ích là một nhân thanh cao, một phí phách hào hùng. Cao Bá Quát muốn có danh để thi thố tài năng, cống hiến cho đời nhưng không vì thế mà ông khom lưng, cúi đầu nịnh nọt. Mến kẻ có tài có đức, Cao Bá Quát ghét bọn nịnh nọt, luồn cúi, tham lam, hống hách. Sự việc dùng muội đèn chữa bài thí sinh tại trường thi Thừa Thiên năm 1841, và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương về sau đã làm rõ nhân cách, bản lĩnh đó. Cao Bá Quát sống trong cảnh bần hàn ngay từ thuở nhỏ nên ông biết quý trọng những tình cảm thân thuộc từ phía gia đình, bạn bè, quê hương. Đó cũng chính là cái nôi để nuôi dưỡng ở ông những tình cảm tốt đẹp sau này đối với những đồng bào cùng khổ, những ai bị áp bức và bất hạnh trên đời. Quả thật, Cao Bá Quát có những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho con người Việt Nam: vì dân vì nước, trung dũng, kiên cường giàu nghị lực mà vẫn đậm tình người, tình đồng loại. Con người ngoài đời và con người trong văn chương Cao Bá Quát luôn nhất quán trong ý nghĩ và hành động, trước sau như một: Tất cả vì cơm no áo ấm, vì hạnh phúc của nhân dân. Có thể nói, suốt cuộc đời Cao Bá Quát là một cuộc hành trình không nghỉ, không ngừng, lúc náo nức phấn khởi tràn đầy hi vọng, khi chán nản ê chề, nhưng kết quả cuối cùng là tìm được đường đi đúng đắn cho mình để thực hiện khát vọng suốt một đời người. Dẫu kết quả là thất bại nhưng đó chính là tất yếu của một Cao Bá Quát, của một thời đại nửa đầu thế kỉ XIX. Một con người từng biết: “Thẹn mình là một nhà nho mà lại tầm thường đến thế” (Độc dạ) đã không đi theo lối mòn của đại đa số sĩ phu để ẩn dật mà đã vùng lên khởi nghĩa. Cao Bá Quát hi sinh. Cả cuộc đời ông đã hiến dâng cho lẽ sống của thời đại đang tới. 1. 3. Sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát: 1.3.1. Quan niệm sáng tác thơ văn của Cao Bá Quát: Cao Bá Quát là một cây bút lớn của văn học trung đại, một tài danh của đất Bắc “giỏi thơ văn hay chữ”. Bản lĩnh văn chương của ông không chỉ dừng lại ở số lượng tác phẩm mà còn thể hiện ở chất lượng tư tưởng bên trong. Cởi mở, phóng khoáng, nhạy bén cùng với một tinh thần chủ động canh tân của thời đại đã hình thành nên một phong cách độc đáo, có thể nói là “phun châu nhả ngọc” để lại những tác phẩm bất hủ cho đời, như Trúc Khê từng nói: “Cao Chu Thần là người có một thiên tài. Điều đó, không ai còn chối cãi nữa rồi. Cái thiên tài ấy đã biểu lộ ra ở phương diện văn chương, để lại cho văn học giới chúng ta ngày nay một tập thi ca vừa Hán văn, vừa Việt văn; nhất là Hán văn, ta phải nhìn nhận là một áng văn kiệt xuất”.
- Từng xem văn chương là “vật báu lớn” (lời của Cao Bá Quát) vô giá nên trong suốt cuộc hành trình của đời mình, Cao Bá Quát luôn tìm thấy ở nó những ý nghĩa sự sống thật sự cần cho mình và cho đời. Quan niệm về thơ, Cao Bá Quát viết: “Bàn về thơ, tuy có phải trọng về quy cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình”. Điều đó có nghĩa là: thơ phải gắn với “tính linh”, thơ là kết quả của “tâm chí” được đúc thành, tức là thơ phải nói lên cái gì sâu xa nhất của tâm hồn, của chí hướng người làm thơ trước thời thế, trước vận mệnh của đất nước. Xem “tính tình” là gốc của thơ, Cao Bá Quát đã đề cập đến một vấn đề cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Đó là sự rung cảm của nghệ sĩ. Nghệ sĩ có rung cảm thật sự thì tác phẩm mới có hồn, mới có khả năng truyền cảm và mới có tính chất độc đáo. Trong Thiên cư thuyết, Cao Bá Quát viết: “Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm đến việc, rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên như thế!”. Do vậy, đối với Hoa tiên và truyện Kiều, ông có sự đồng càm sâu xa. Ví như, đọc Hoa tiên, Cao Bá Quát viết: “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó của đời không gì bằng sự gặp gỡ. Đem cái đó mà giải thích ra, theo loại mà suy rộng ra, thì cái lí trong thiên hạ cũng đã biết quá nửa rồi. Ta đối với truyện Hoa tiên có một mối cảm là vì thế”. Coi trọng chữ “tình” trong văn chương, Cao Bá Quát nhấn mạnh yếu tố “chân” trong sáng tác. Phải chân thật, phải xúc động thì hãy làm thơ, không nên gượng ép, giả tạo - Văn tất kỷ xuất (Văn phải từ mình mà ra). Trong bài Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh tọa đàm, Cao Bá Quát mượn chuyện chọn bạn tâm giao: “Kén bạn không nên chuộng khí, chuông khí sẽ không thấy đức tính của người”, chuyện uống chè: “Uống chè không nên ướp hoa, ướp hoa sẽ mất chân vị của chè” để nói chuyện văn chương. Ông coi trọng cái thực, không muốn để các mùi thơm khác làm mất bản chất đích thực của chè, không vì “một nắm của hiếm mà bắt mũi mình xem mãi những thứ không thực”. Từ đó, Cao Bá Quát đi đến một kết luận trở nên nhất quán trong suy nghĩ về văn chương của đời mình: “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ Đại nhã”. Thơ phải có hình thức đẹp và được sáng tác dưới sự chỉ đạo của một quan niệm đẹp. Nhưng Cao Bá Quát phản đối chủ nghĩa hình thức trong sáng tác, phản đối lối sáng tác cầu kì, kiểu cách, chỉ biết chạy theo câu chữ mới lạ và âm điệu khác thường, bởi vì: “Nếu tấm lòng cầu kỳ như Mạnh Đông Dã/ Sẽ khiến cho ngòi bút của bác chỗ nào cũng hoang mang bất định (Phục dụng tiền vận họa Di Xuân); “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rờm rà làm mất thể thơ Đại nhã” (Vị mính tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa). Chủ trương của ông là sáng tác phải bình dị, mộc mạc như Tô Đông Pha và Hoàng Đình Kiên vậy: “Khí phách như Tô, Hoàng bác đừng cười/ Phong cách bình dị, mộc mạc tưởng cũng không hại gì!” (Phục dụng tiểu vận họa Di Xuân).
- Cao Bá Quát phê phán lối văn chương khoa cử, ủy mị, yếu ớt, mô phỏng đề cao tính “sáng tạo” trong thơ. Trong lời đề bạt cuối tập thơ Rừng chuối, ông viết: “Cái bản chất của cây chuối luôn luôn làm cho bẹ mới, nõn mới. Có cái mới mà làm cho nó mới lên, đó là nghĩa vậy”. Chu Thần cho rằng cái học của khoa cử đã xâm nhập vào lĩnh vực văn thơ nên “Tiếng vang của phong nhã hầu như đã tắt hẳn”. Dẫn một câu của Tô Thức “không học là hơn” cũng như một câu của Khổng Tây Minh: “Người say thơ của các nhà không biết sáng tạo thì chẳng khác gì ăn món ăn của cổ nhân mà không tiêu hóa được”. Ông muốn nói rằng đọc thơ văn người trước là cần, nhưng người làm thơ tự mình phải sáng tạo, phải tìm ra cái mới. Chính do vậy đối với di sản văn học dân tộc, ông luôn tỏ thái độ kính trọng, biết ơn: “Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chấp lòng nối cánh cho văn chương của ta, mà lại coi thường được sao?” Từ đó, ông phê phán ba loại người thơ: một là “người kém thì khổ về nỗi nhân tuần, dễ dãi”; hai là “người có hào khí thì mắc vào bệnh nuốt sống, ăn tươi”; còn những người có sức học gọi là dồi dào, hí hửng tự đắc, thì chỉ muốn vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi thể, thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo, nhưng tinh thần còn thấp. Ba loại người này làm hỏng thơ. Cao Bá Quát không chỉ yêu cầu tính sáng tạo của cá nhân mà còn yêu cầu nhà thơ phải là người sống nhiều, từng trải, phải đọc nhiều, nghĩa là phải bắt nguồn từ thực tế với những cảm xúc thành thật nhất. Được vậy, nhà thơ mới có cái nhìn mở rộng, không rơi vào tình cảnh: “lải nhải nhai lại từng câu từng chữ” như “con sâu đo muốn đo cả đất trời” (Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu), như “nhìn con báo chỉ thấy một vằn” (Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình chư hữu). Thến nên, trong thơ, ông hay nói về sự trải đời của bản thân: “Đời ta sống không bở trải đời mà than thở” (Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự), “Tuổi tuy còn ít, song rõ ràng là đường đời đã biết qua bờ bến” (Hí tặng Phan Sinh). Bàn về cái hay của văn chương, Cao Bá Quát cho rằng cái hay của văn chương là do chủ thể quyết định. Do vậy, ông không bằng lòng với cách nghĩ bao lâu nay: “Người cùng thơ mới hay”. Ông nghi vấn: “Ôi! Đúng như vậy chăng! Cũng đâu hết thảy đều hay. Đạt chưa thường là dở”. Ở đây, Cao Bá Quát không hoàn toàn phủ nhận quan niệm “Thơ cùng rồi sau mới hay”. Trong một bài thơ làm ở quê nhà sau thời gian xuất dương hiệu lực, Cao Bá Quát từng viết: “Văn chương là đạo nhỏ, nhưng lại nhờ lúc cùng mà nâng cao” (Đắc Hà Thành cố nhân thư thoại cập gia tình kiêm vấn cận tác). Ông yêu cầu xem xét tận cùng cho thấu nhẽ, để vừa biết cái hay dễ thấy của cùng, lại vừa biết cái khó thấy của đạt, nhằm tự định đoạt cho khéo với mong mỏi thuyết phục người đời. Chủ thể quyết định cái hay của văn chương. Bởi thế, ông viết: “Xem người thì có thể biết thơ. Cúc được họ Đào để mắt tới nên cúc trở thành ẩn sĩ trong hoa, Sen được họ Chu để mắt tới, nên Sen trở thành bậc quân tử của Hoa, Chuối đươc họ Hủ để mắt tới nên chuối trở thành rừng của thơ….”. Nói thì dễ nhưng nhận thức cho sâu, hành động cho thấu lại lại không hề đơn giản. Cao Bá Quát nhắc nhở
- người đời một lẽ thường không phải ai cũng rút ra được, lại càng không ai cũng có điều kiện thấm nhuần rằng: “Nghĩ lại, người ta sống ở trên đời, dài ngắn có hạn, mà tính chất sự việc thì có lâu có chóng, có đi có lại, cứ nối tiếp không cùng; đem cái có hạn ứng phó với cái không cùng, lòng với cảnh gặp nhau, tình cảm tự nhiên vấn vít”. Con người dẫu là thiên tài, cũng nhỏ nhoi, là hữu hạn so với cái lớn lao của đất trời, cái vô tận của vũ trụ. Người khôn ngoan chính là người biết tận dụng cái mà đời cho anh, bồi đắp cái vốn có của mình, đừng so đo, tính toán hơn thiệt, để làm cho nó lớn lên, giúp cho nó thành chất thành hình, thế là đã đạt rồi. Người làm văn chương cũng vậy. Bàn tới cái hữu hạn có thể có của người cầm bút, Cao Bá Quát nói tới ba điều kiện. Một là đi nhiều, vết chân đã in trên khắp non sông muôn dặm, cũng có nghĩa là trải đời để “Kim cổ sự đa tu thức định” (Việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc). Hai là, đọc nhiều, trong bụng chứa đầy sách vở, cũng có nghĩa là biết thâu thái, chắt lọc để giúp cho sức nghĩ của bản thân: “Khán thư song nhãn vạn niên đăng” (Xem sách, đôi mắt như ngọn đèn muôn năm). Ba là, biết sáng tạo theo đặc trưng của nghệ thuật, lời nói bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đem hun đúc thành gạch ngói. Và bốn là rất cần sự cảm thông, chia sẻ của người sáng tạo. Cao Bá Quát biểu lộ điều này trong bài thơ nổi tiếng lấy tên là từ một câu trong Kinh Dịch: “Đồng tâm chi ngôn kỳ khứu như lan” (Lời nói đồng tâm thơm tựa hoa lan). Mở đầu bài thơ Cao Bá Quát viết: “Ngã đắc đồng nhân đạo/ Bằng lai dự hạp trâm” (Ta được đạo của kẻ đồng nhân/ Bạn đến vui vầy há chẳng khuyên bảo). Theo Cao Bá Quát, thơ có một chức năng xã hội riêng, có một sứ mệnh riêng. Thực hiện chức năng và sứ mệnh đó là nhà thơ. Nhà thơ phải có trách nhiệm trước sự phát triển của lịch sử. Điều đó ngụ ý rằng: Văn chương có ý nghĩa lớn đối với đời. Trước đó, Lê Quý Đôn từng nói: “Văn chương là việc lớn để sửa đời”. Thánh Quát cũng có cách nghĩ như vậy. Ông viết: “Thi tửu phá nhàn sầu” (Thơ và rượu đánh tan nỗi buồn vẩn vơ). Tác dụng của văn chương là góp phần nâng con người dậy, hướng con người về phía trước. Trong bài thơ Đông Pha Xích Bích du ông có viết: “Ngâm lưu khởi sa châu” (Tiếng ngâm thơ còn lại làm bãi cát nhổm dậy). Ngụ ý thơ hay vượt biên giới, nó làm cho “đá cứng gật gù”1, như “nói pháp củ cải cũng nghe”2. Tác dụng của thơ nói chung không chỉ đối với ngoại cảnh mà con đối với con người là vậy. Tác dụng kì lạ ấy được Cao Bá Quát diễn tả qua chính sự trải nghiệm của bản thân khi ông đọc Khúc Yên Đài anh ngữ của ông Đô sát Bùi Ngọc Quỹ: “Rồi bỗng đang ốm, ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên/ Nhắm hai mắt lại, bịt hai tai lại/ Tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng, lặng lẽ cho tâm hồn giong ruổi/ Tưởng như chính mình bước chân đến tận nơi ấy” (Đề sát viện Bùi Công Yên Đài anh ngữ khúc hậu)… Cao Bá Quát đề cập đến chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ của thơ ca, nhấn mạnh và đề cao tính tích cực 1 Truyện cổ Phật giáo Ngoan thạch điểm đầu 2 Câu nói dân gian
- của chủ thể sáng tạo. Điều đó cho thấy sự gắn bó giữa Cao Bá Quát và thơ văn rất bền chặt, sâu nặng. Quan niệm về văn chương của Cao Bá Quát nói chung, về thơ nói riêng có thể nói thật toàn diện và nhất quán. Nó gần với quan điểm sáng tác những nhà văn, nhà thơ hiện đại sau này. 3.1.2. Tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát: Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, có tài. Số lượng tác phẩm để lại đồ sộ. Nhưng sau vụ khởi nghĩa Mỹ Lương, thơ văn ông bị triều Nguyễn cấm đoán và thủ tiêu. Số lượng tác phẩm thất thoát nhiều, giờ còn lại chỉ là những bản thảo chép tay. Nhưng đó là di sản đáng quý của một tài thơ trác tuyệt. Sau khi tập hợp, sưu tầm lại, Thư viện Khoa học Trung Ương còn giữ được 12 tập thơ, 11 bài văn xuôi viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Để giới thiệu với bạn đọc và tìm hiểu về con người tài hoa khí phách này, nhóm tác giả Vũ Khiêu đã tiến hành lựa chọn, loại trừ và tổng kết di sản của Cao Bá Quát gồm 1353 bài thơ và 21 bài văn chữ Hán. Năm 1970, nhóm Vũ Khiêu lại sàng lọc, chọn dịch ra 161 bài, tập hợp trong cuốn Tuyển dịch thơ ca chữ Hán Cao Bá Quát để giới thiệu với bạn đọc. Tuy số lượng không đầy đủ nhưng nó cũng góp phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu Cao Bá Quát một cách toàn diện hơn. Năm 2004 đánh dấu cho bước đường nghiên cứu, thẩm định và dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát. Cuốn Cao Bá Quát toàn tập được ra đời do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học tiến hành nghiên cứu công phu trong 5 năm, với sự góp sức của đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật hàng đầu nhiều thế hệ. Công trình khoa học này đã xác định: thơ văn Cao Bá Quát còn lại 1327 bài trong 27 bộ sách tay đã được sưu tầm, đối chiếu, giám định thật giả. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học cũng đã cho xuất bản cuốn Cao Bá Quát toàn tập (tập 1) với 23 tác phẩm chữ Nôm (tồn nghi là 8 bài) và 418 bài thơ chữ Hán có phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và chú thích. Năm 2005, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Quận tiếp tục khảo sát, thẩm định tác phẩm Cao Bá Quát. Theo tác giả luận án, tác phẩm của Cao Bá Quát (phần viết bằng chữ Hán) không chỉ dừng lại ở 12 quyển theo công bố của Nhóm Vũ Khiêu khi biên soạn Thơ chữ Hán Cao Bá Quát mà con số lên đến 33 đầu sách. Sau khi khảo sát và thẩm định lại thì số lượng tác phẩm của Cao Bá Quát được xác định cụ thể như sau: Về chữ Nôm có 1 bài phú, 10 bài hát nói; về chữ Hán có 2 bài phú, 14 câu đối, 11 truyện ký, 18 bài kinh nghĩa, 4 bài ký, 5 bài tự, 1 bài văn tế, 1 bài thuyết, 2 bài văn, 1267 bài thơ. Nhìn chung, tình hình dịch thuật tác phẩm Cao Bá Quát đến nay có thể nói là khá đầy đủ. Chúng tôi xin mượn lời của Giám đốc tâm Nghiên cứu Quốc học – Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên chốt lại phần này:“Qua toàn bộ văn bản đã sưu tầm, dịch thuật ấy, chúng ta ngày nay có thể ôm trọn trong tay mình cái di sản vĩ đại của một nhà thơ kỳ tuyệt. Nó làm hiện lên, tuy dường như đã
- quen mà bất ngờ, cái tầm vóc sừng sững, ít người sánh kịp, dường như cô đơn giữa rừng tác giả thơ hàng ngàn năm của chúng ta”. 3.1.3. Nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát: Cao Bá Quát sáng tác bằng chữ Nôm lẫn chữ Hán, với số lượng lớn, thể loại phong phú. Nhưng đáng lưu ý là ở thể loại thơ, nhất là thơ chữ Hán với số lượng 1267 bài. Trước đây, qua mảng sáng tác chữ Nôm, nhiều người có cái nhìn lệch lạc về con người Cao Bá Quát. Những vần thơ Nôm của ông thường hài hước, chua chát, đắng cay. Mảng sáng tác chữ Hán, nhất là thơ chữ Hán mạnh mẽ và hùng tráng, phản ánh bản chất con người Cao Bá Quát với khí phách và lương tâm cao cả, nói như Giáo sư. Tiến sĩ. Mai Quốc Liên: “Trong hàng ngàn bài còn lại ấy, hiện lên chân dung, tính cách một nhà thơ vĩ đại”. Sau đây, chúng tôi xin điểm qua những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát. Về nội dung: Thơ Cao Bá Quát phong phú nội dung cảm hứng. Trước hết, văn thơ của ông là tiếng nói của một cá nhân trước cuộc đời, trước thời đại. Một cá nhân ý thức về mình, có trách nhiệm với đời, lòng tràn ngập tư tưởng nhập thế tích cực với khát vọng cống hiến tài năng cho đất nước. Một cá nhân muốn vươn mình lên trong cuộc sống, lạc quan, kiên trì, giàu nghị lực trong mọi hoàn cảnh. Cá nhân đó còn là một con người có tinh thần tự do, khí phách. Thơ văn ông còn bộc lộ tâm hồn phóng khoáng và một trí tuệ sáng suốt tiếp nhận những hương vị, những màu sắc xa lạ với cái nhìn truyền thống. Không chỉ vậy, trong thơ Cao Bá Quát còn cho thấy tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương xứ sở, với gia đình, bạn bè và những con người cùng khổ; niềm tự hào với quá khứ lịch sử dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ triều chính đương thời. Cao Bá Quát đã tỏ rõ khí phách hiên ngang, tư thế hào hùng vượt hoàn cảnh trong không khí thơ ca của nhiều người nặng mang màu sắc bi quan, mang nặng tinh thần chán nản và uể oải, do sự thống trị nặng nề của tư tưởng thần quyền và thế quyền. Ngoài những bài thơ thể hiện tâm sự cá nhân của mình, Cao Bá Quát viết nhiều bài thơ về thiên nhiên, thể hiện tình yêu, tình cảm gắn bó với nét trữ tình sâu lắng, mạnh mẽ, hào hùng. Về nghệ thuật: Một điều dễ thấy ở thơ văn Cao Bá Quát là dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán, thể loại nào thì “ý tứ” rất phong phú, rất lãng mạn nhất là thể Hát nói và thơ chữ Hán. Điều này cho thấy cảm xúc của ông dạt dào, những khuôn khổ hình thức cứng nhắc không thể bó buộc cá tính và bản lĩnh của ông. Một phần đóng góp không nhỏ cũng là nét đặc sắc trong văn thơ của Cao Bá Quát chính là ngôn ngữ thơ. Nếu như ngôn ngữ trong thơ Nôm giàu sắc thái dân tộc, phong phú uyển chuyển, giàu nhạc điệu thì ngôn ngữ trong thơ chữ Hán chắc nịch, mạnh mẽ, linh hoạt, giàu sắc thái biểu cảm và mang đậm tính cá nhân, bản lĩnh của ông. Giọng điệu trong thơ văn ông, nhất là thơ chữ Hán cũng có nhiều sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu như thơ Nôm giọng điệu mới mẻ, trào tiếu thì trong thơ chữ Hán sục sôi, hào sảng, trầm lắng, suy tư…. Chất tự sự trong văn thơ Cao Bá Quát
- cũng là một điều đáng nói. Nó hòa quyện trong mạch trữ tình sâu lắng, làm bật nên tình và cảnh, số phận và tâm trạng, hiện thực và mong ước… Thủ pháp nghệ thuật cũng được sử dụng phong phú, nhất là hình thức liên tưởng với nhiều cấp độ; biện pháp nhân hóa được sử dụng một cách độc đáo, có hiệu quả nghệ thuật cao. Nhìn chung, thế giới hiện thực trong thơ Cao Bá Quát, nhất là thơ chữ Hán hiện lên rất sinh động, đa dạng, nhiều sắc thái, nhiều cung bậc, mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Quyết định sự thành công này chính là do bản lĩnh cá nhân, sự sáng tạo nghệ thuật miệt mài và tâm hồn nhạy bén mẫn cảm trước cuộc đời. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã làm rõ “một tài thơ hiếm thấy” với vẻ đẹp lương tâm và khí phách sáng ngời.
- Chương 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan trọng của thi pháp học. Nó hướng ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học, trung tâm quan niệm thẩm mỹ của nghệ sỹ. Hình tượng nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm của tác giả. Quan niệm nghệ thuật gắn liền với thế giới quan, với quan niệm chính trị, triết học nhưng nó có sự chuyển hóa từ quan niệm triết học, chính trị sang quan niệm nghệ thuật. Và quan niệm nghệ thuật này được thể hiện ở sự lặp đi lặp lại nhiều lần, một cách tiếp cận, cách lí giải đối với con người. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát chính là tìm hiểu quan niệm của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm. Vì là hình tượng con người, nhân vật trong thơ trữ tình nên chúng ta có thể xem xét ở nhiều góc độ: cái tôi đối với bản thân, cái tôi đối với người khác, cái tôi đối với tự nhiên bên ngoài. Hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát phong phú và khá phức tạp khó mà tìm hiểu cặn kẽ. Chất chứa qua lời thơ là những khát vọng, hoài bão lớn lao; những suy tư, trăn trở, dằn vặt; những tình cảm, những trách nhiệm… của một cá nhân lỗi lạc “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Có thể nói đó là hình tượng con người có tầm cao rộng, thoáng đạt muốn chiếm lĩnh và thống trị thế giới trước những thực tại với những bất công, đói nghèo, lạc hậu, những ước nguyện không thành để rồi trăn trở, day dứt và hành động quyết liệt. Có lẽ bao trùm lên tất cả là cái tôi tự ý thức của cá nhân, sự nhạy bén, mẫn cảm trước cuộc đời, thời cuộc. Sự tự ý thức, mẫn cảm ấy đã chi phối hình tượng nghệ thuật con người trong tác phẩm. Giải mã hình tượng nghệ thuật phức tạp này chúng ta cần thâm nhập vào thế giới trữ tình của tác giả. 2.1. Con người trách nhiệm: Cao Bá Quát luôn sống có trách nhiệm với chính mình, gia đình và xã hội. Bởi vậy, thơ chữ Hán của ông tràn ngập hình tượng con người trách nhiệm. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát con người trách nhiệm đối với bản thân và xã hội. Chu Thần sống có trách nhiệm với chính bản thân mình. Đó là lẽ dĩ nhiên. Bởi con người không biết quan tâm đến mình, không chăm lo tu bổ công danh tài đức cho bản thân mình thì làm gì nói đến việc giúp ích cho người, lo cho đời. Trong thơ, Cao Bá Quát luôn có tinh thần tiến thân công danh bằng con đường văn chương khoa cử; lại luôn rèn luyện bản lĩnh cá nhân, trao dồi đạo đức lối sống ở đời. Cao Bá Quát sớm mong đỗ đạt làm quan, thực hiện chức trách kẻ sĩ. Ông coi " Chuyện chữ nghĩa là mưu tính của tuổi trẻ" (Mộ ý) và nhận thấy "Vào đời chỉ có con đường khoa mục" (Nhập Vĩnh Lợi kiều). Sau này vào kinh ứng thí, Cao Bá Quát cũng từng nói "Trốn danh thì còn ham muốn gì?" (Phó Nam Cung xuất giao môn chư biệt đệ tử). Nhưng văn chương là đất cay
- đắng khổ ải, như cô gái đẹp trên nhà quá kiêu hoa (Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan huyện thí). Lại thêm chốn quan trường nhiều đố kị. Do vậy, Cao Bá Quát nhiều lần lận đận. Không cam chịu số phận, ông luôn vượt qua bao khó khăn, rèn luyện thử thách. Cao Bá Quát đã 7 lần thể hiện thái độ kiên nhẫn trên con đường công danh. Tinh thần này được thể hiện ở những bài Hoành Sơn vọng hải ca, Chí nhật đồng Chí Đình tiểu ẩm tẩu bút thứ vận, Tạp hứng, Ký Lê Hy Vĩnh, Vũ hậu tẩu bút ký viên cư nhị hữu, Phục tặng... Cao Bá Quát quyết tâm có công danh dù đã thất bại “mười năm đi thi Hội”. Trượng phu tam thập bất thành danh, Đạp biến thiên nhai khí vị bình… Ngâm bãi thất ca cánh hồi thủ Mang mang thân thế độc du hành (Du Đằng Giang dữ hữu nhân đàng Kim Chung tự, túy hậu lưu đề, tính tự) (Trượng phu ba mươi tuổi chẳng nên danh gì! Dạo khắp ven trời, khí bất bình chưa dịu!.. Ngâm xong bảy bài ca, ngoảnh đầu nhìn lại. Thấn thế mịt mờ, chỉ đáng trừng mắt trong đời) Cao Bá Quát tin tưởng ở chính mình. Ông “há chịu mặc cái áo tơ bám bụi” (Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị tẩu bút họa chi), tin vào một ngày kia đỗ đạt công danh (Phục tặng). Sau này khi bước chân vào đời, tinh thần Cao Bá Quát vẫn vậy. Có đến 4 lần ông đọ sức cùng gian nan. Ông xem khó khăn là chuyện thường tình nên thản nhiên với cảnh ngộ (Mộ phạn bất cấp hí bút ký sự). Ông thân ốm vẫn cứ ngược xuôi (Đáp Trần Ngộ Hiên), lại muốn đọ sức với đường dài để xem ai khỏe hơn (Thuyền hồi quá bắc dữ, dư bão bệnh sổ nhật hỹ, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên), rồi cười xòa trước gian nan, hát vang khúc “Hành lộ nan” (Ẩm tửu đắc chư hữu gia tác tức phục tẩu bút thư nhị). Lúc ở tù, Cao Bá Quát cũng tỏ rõ trách nhiệm với chính mình. Ông không buông xuôi mà cố vượt lên, tin rằng “Tạo vật nặn ra mình hẳn là có ý” (Tội định – kỳ nhất), nên thay vì đau buồn đã lăn mình cùng cảnh tù đày “Đem chí bên trong kìm giữ khí bên ngoà/ Không để cho những sự lo nghĩ nhỏ nhen nó kích thích” (Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm), lại tổ chức mừng “sinh nhật” một năm tù (Cửu nhật chiêu khách tính tự). Cao Bá Quát thật cứng cỏi, nguy hiểm không sợ, khó khăn không chùng bước, trong hiểm nguy vẫn vươn tới. Quả đúng là “tinh thần thép” như Thương Sơn từng nhận xét: “Vốn có tính của cây Tùng Bách/ Không trái với tư thế hiên ngang trong buổi trời đông giá lạnh”3. Và sau này, ông cũng có lần ví mình như cây Tùng, cây Bách, với tư thế hiên ngang giữa trời rét mướt (Bài ca cái roi song). 3 Bài Đề Cúc đường thi hậu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 307 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 101 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn