Luận văn Thạc sĩ Văn học: Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng
lượt xem 39
download
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng nêu lên những nội dung về Hồng lâu mộng trong bối cảnh tiểu thuyết Minh - Thanh; những lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa; thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHU CHIÊU LINH LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA TRONG HỒNG LÂU MỘNG Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn: - Các giáo sư đã giảng dạy, - Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, - Quý Thầy Cô khoa Trung Văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, - Ban Chủ nhiệm cùng quý Thầy Cô khoa Ngoại Ngữ Trường Đại học Tôn Đức Thắng, - Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp Đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. CHU CHIÊU LINH
- TÀO TUYẾT CẦN (1715? – 1763?)
- CAO NGẠC (1738? – 1815?)
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng lâu mộng không nhằm mục đích tạo dấu ấn riêng trên bức tường của sự lãng quên. Nhưng từ khi tác phẩm ra đời và chịu sự thử thách của thời gian, đến nay kiệt tác này đã chứng tỏ được mình là viên đá nặng nhất trong tòa lâu đài văn học của đất nước Trung Hoa chứ không phải là viên đá vô dụng không đủ tài vá trời phải nằm lăn lóc dưới chân núi Thanh Ngạnh. Cùng với thời gian, việc thưởng thức, đánh giá, tranh luận, viết tiếp cùng các hoạt động dịch thuật … đã khẳng định vị trí và giá trị của danh tác Hồng lâu mộng trên văn đàn thế giới. Phùng Kỳ Dung – nhà hồng học Trung Quốc, đồng thời là chủ biên học san Hồng lâu mộng đã dành cho “tuyệt thế kỳ thư” này lời nhận xét đầy trân trọng: “Hồng lâu mộng là một thiên ly tao không vần. Từ khi Hồng lâu mộng ra đời, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc không còn xuất hiện tác phẩm nào khác có thể vượt qua nó. Hồng lâu mộng là một tác phẩm thiên cổ tuyệt bút, tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giả” [chuyển dẫn 69, tr.3]. Dịch giả Maria Carnoguska người Slôvakia hết lời ngợi ca tác phẩm: “Hồng lâu mộng là một bộ tiểu thuyết thiên tài, là bản giao hưởng giữa thơ và văn xuôi, là một bộ bách khoa toàn thư vĩ đại tập trung tất cả nền văn hóa quan trọng vốn có của Trung Quốc, nó là một quyển tiểu thuyết chứa đựng thế giới quan và triết lý nhân sinh quan trọng – mà một tác phẩm văn học ở vị trí “đại sư” như thế này không có ở bất cứ nơi nào trên thế giới” [chuyển dẫn 69, tr.4]. Nhật Chiêu khẳng định: “Nghệ thuật của Hồng lâu mộng trác tuyệt ở chỗ nó tự nhiên như chính đời sống đến mức gần như “phi nghệ thuật”. Hầu như không có dấu vết của công phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nó là mê: Hồng mê” [13, tr. 175]. Những lời nhận xét đánh giá trên cho thấy Hồng lâu mộng đã vượt qua ranh giới quốc gia, thông qua dịch thuật lại vượt lên trên chủng loại ngôn ngữ, tiếp theo là vượt qua những khác biệt về tập quán xã hội và mối quan hệ giữa người và người vốn được hình thành theo khu vực địa lý, lịch sử để được người đọc khắp nơi đón nhận. Thế nhưng, theo Chu Nhữ Xương – nhà nghiên cứu Hồng lâu mộng thuộc thế hệ Tân hồng học thì: “Hồng lâu mộng không phải là một tác phẩm dễ đọc, dễ hiểu” [chuyển dẫn 69, tr.332]. Đây tuyệt đối không phải là lời phát biểu khinh suất mà nhận định này xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của cả đời ông khi nghiên cứu Hồng lâu mộng. Theo nhận xét chủ quan của người viết, Hồng lâu mộng khó đọc không phải chỉ vì phạm vi phản ánh của tác phẩm quá rộng: “Hồng lâu mộng phản ánh kiến trúc
- thượng tầng từ phong tục, tập quán, đạo đức, giáo dục, văn hóa, hội họa, y học, ẩm thực, phục trang cho đến các quan điểm triết học, tôn giáo, kinh học, sử học …” [60, tr.82] mà còn do đặc thù ngôn ngữ và tính dân tộc sâu sắc của tác phẩm. Như chúng ta đã biết “văn chương là nghệ thuật dùng ngôn từ làm phương tiện biểu đạt” [27, tr.10]. Trong khi đó, ngôn ngữ lại là kết tinh của văn minh nhân loại. Do đó, một tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc nào, tất nhiên nó sẽ phản ánh truyền thống, văn hóa, cách sống, lối suy nghĩ của dân tộc đó. Thông qua Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần đã chứng tỏ được khả năng khai thác tiềm năng ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc mình. Nhưng cũng chính những hạt nhân văn hóa đậm đặc trong tác phẩm đã làm hạn chế cái hay của bản dịch. Dịch giả – nhà Hán học người Anh David Hawkes phải thừa nhận trong lời tựa bản dịch tiếng Anh “The story of the stone”: “Nếu như tôi có thể truyền đạt lại phần nào cảm giác thỏa mãn của tôi về bộ tiểu thuyết Trung Hoa này cho độc giả thì thật sống không uổng kiếp này”[chuyển dẫn 69, tr.298]. Lời tâm sự chân thành trên cho thấy dịch Hồng lâu mộng là một công việc đầy khó khăn. Liên hệ đến bản dịch Hồng lâu mộng ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy: Tuy Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, ngôn ngữ, văn tự … nhưng từ khi Latinh hóa tiếng Việt thành công, chữ Quốc ngữ ra đời thay thế chữ Hán, chữ Nôm và việc dùng chữ Quốc ngữ để ghi lại tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm, đã ghi lại một cách chính xác, đơn giản, thuận tiện, kinh tế hơn chữ Nôm. Nhưng cũng chính những thuận lợi này đã khiến cho thế hệ trẻ ngày nay gặp không ít khó khăn khi tìm hiểu văn học cổ nước nhà, càng khó khăn hơn khi tiếp xúc với văn học Trung Quốc nói chung và Hồng lâu mộng nói riêng. Mặt khác, Trung Hoa là một đất nước không chỉ nổi tiếng về nền văn hóa lâu đời, phong phú mà nền văn hóa ấy còn hấp dẫn các dân tộc khác ở tính chất thần bí sâu đậm của nó. Những câu chuyện về ẩn sĩ tiên nhân, kỳ môn độn giáp, tiên tri cấm kỵ, xem tướng đoán chữ … luôn là một mạch ngầm tuôn chảy suốt hàng ngàn năm trong đời sống tư tưởng người dân Trung Quốc. Hấp thu tinh hoa văn hóa truyền thống và chịu sự ảnh hưởng của những tác phẩm ra đời trước, Tào Tuyết Cần đã dệt nên chiếc áo mang màu sắc thần bí để khoác lên kiệt tác Hồng lâu mộng. Nếu khéo léo kéo nó xuống, chúng ta dễ dàng nhận ra: “Tào Tuyết Cần không phải là người mê tín và Hồng lâu mộng là một tác phẩm rất hiện thực” [65, tr.48]. Chính vì những lí do trên, cùng với việc xuất phát từ góc độ người đọc Hồng lâu mộng thông qua bản dịch, chúng tôi hiểu được những khó khăn mà độc giả Việt Nam gặp phải khi thưởng thức danh tác này. Vì thế, chọn đề tài “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng”, chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ vào quá trình “giải mã” tác phẩm, nhằm giúp người đọc có thể cảm nhận Hồng lâu
- mộng một cách thấu đáo hơn. Đồng thời, người viết cũng mong muốn thông qua việc tìm hiểu “tuyệt thế kỳ thư” này để khơi dậy nhiệt tình của bản thân trong việc nghiên cứu rộng hơn và sâu hơn những bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa. 2. Lịch sử vấn đề. Có những tác phẩm văn học thiên tài, kết tinh văn hóa tinh thần của một đất nước, phô bày vẻ đẹp của một thứ tiếng, biểu hiện tài hoa của một dân tộc. Chúng chẳng những trở thành niềm đam mê tự hào của dân tộc đó mà còn là chiếc cầu nối đem lại bao nhiêu tình yêu và lòng kính trọng của các dân tộc khác. Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần là một tác phẩm như thế. Có lẽ vì thế mà trong khối lượng đồ sộ tiểu thuyết đời Thanh “Hồng lâu mộng được nghiên cứu đầy đủ nhất, tỉ mỉ nhất” [61, tr.35]. Thế nhưng, ý thức tư tưởng và ý thức xã hội phát triển đến đâu thì sự nghiên cứu và khám phá tác phẩm sẽ phát triển đến đó. Cho nên, từ khi ra đời đến nay, cuộc sống và ý nghĩa của Hồng lâu mộng luôn nằm trong thế khả năng, trong sự tiếp thu của người đọc từ môi trường này sang môi trường khác, từ thời đại này sang thời đại khác. Chính điều này đã góp phần gợi mở và làm phong phú thêm cho bản thân tác phẩm. Mặt khác, người đọc yêu mến Hồng lâu mộng không ngừng gia tăng khiến cho những công trình nghiên cứu Hồng lâu mộng càng trở nên đồ sộ, phong phú, đa dạng và kỹ lưỡng. Vì thế, chúng tôi khó lòng bao quát hết tài liệu đã được công bố. Do đó, chúng tôi không đặt cho mình nhiệm vụ khảo sát hết các công trình nghiên cứu về Hồng lâu mộng mà chỉ tổng thuật những vấn đề có liên quan đến đề tài. Lịch sử nghiên cứu, phê bình Hồng lâu mộng bắt đầu ngay từ khi tác phẩm còn dang dở. Trong quyển “Chi Nghiễn Trai Hồng lâu mộng tập bình”, nhà Hồng học Du Bình Bá đã thu thập được khoảng ba ngàn lời bình. Sau Chi Nghiễn Trai, hoạt động nghiên cứu Hồng lâu mộng ngày càng sôi nổi hình thành nên ngành nghiên cứu gọi là Hồng học. Lịch sử Trung Quốc trải qua mấy nghìn năm nhưng bất cứ cái gì từ khởi thủy đến giờ đều có thể truy tầm được. Lịch sử nghiên cứu Hồng lâu mộng cũng liên tục như thế nên chúng ta có thể tìm về và dõi theo từng chặng đường phát triển của quá trình nghiên cứu Hồng lâu mộng của các học giả Trung Quốc. Sau phái điểm bình Hồng lâu mộng mà đại diện là Chi Nghiễn Trai thì đến nhóm Cựu Hồng học, tiêu biểu là phái “Sách ẩn”, đại diện là Vương Mộng Nguyễn, Thẩm Bình Am với “Hồng lâu mộng sách ẩn”, Thái Nguyên Bồi với “Thạch đầu ký sách ẩn”. Những nhà Hồng học này cho rằng Hồng lâu mộng viết về người thật, việc thật trong lịch sử nên chỉ cần tìm tòi, khảo chứng được câu chuyện là có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của tác phẩm. Trong quyển “Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc”, Lỗ Tấn đã thống kê có tất cả là ba thuyết được lưu truyền rộng rãi: Thuyết gia sự của Nạp Lan, Thành Đức; thuyết cố sự giữa vua Thanh Thế Tổ và bà Đổng Ngạc Phi;
- thuyết tình hình chính trị đời Khang Hy [54, tr.309-310]. Chính vì mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một nguyên mẫu khác nhau nên không chỉ tạo nên sự khiên cưỡng, phụ họa mà còn cho thấy sự mâu thuẫn giữa các thuyết trên. Đồng thời, thực tiễn cũng không thừa nhận những tìm tòi, suy đoán vô căn cứ của họ. Trào lưu nghiên cứu Hồng lâu mộng sau cuộc vận động Ngũ Tứ đến năm 1954, Hồ Thích với “Hồng lâu mộng khảo chứng”, Du Bình Bá với “Hồng lâu mộng biện” là những đại diện tiêu biểu cho nhóm Tân hồng học. Tân hồng học ra đời khi chủ nghĩa lịch sử xuyên thấm vào mọi ngành khoa học. Trong thời kỳ này thịnh hành quan niệm tác phẩm văn học dùng để ký thác tâm sự, do đó người ta luôn cố tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà văn và tác phẩm. Xuất phát từ góc độ này, phái Tân hồng học đã phê phán cách nghiên cứu của phái “Sách ẩn”, cho đó là phương pháp duy tâm tư sản, họ chủ trương tìm hiểu tác phẩm thông qua thân thế và cuộc đời riêng của tác giả. Bằng phương pháp khảo chứng họ rút ra kết luận Hồng lâu mộng chính là tự truyện của Tào Tuyết Cần, nhà họ Giả chính là nhà họ Tào, Giả Bảo Ngọc chính là Tào Tuyết Cần. Vào thời điểm ấy, cách nghiên cứu trên là tự nhiên và hợp lý. Tuy vậy, phương pháp này chỉ mới thấy được cái trực tiếp ngẫu nhiên mà chưa thấy được cái gián tiếp tất yếu có ý nghĩa quyết định đến chân giá trị của tác phẩm. Vì vậy, phái Tân hồng học khó đi đến những kết luận mang tính khoa học và không thấy được sự ảnh hưởng của thời đại, của cuộc sống đối với sự hình thành tác phẩm. Thế nhưng, những khảo chứng của phái Tân hồng học cũng đã đóng góp rất nhiều cho việc tìm hiểu thân thế Tào Tuyết Cần và khẳng định tính hiện thực của tác phẩm. Những hạn chế của Cựu và Tân hồng học là do chịu ảnh hưởng của truyền thống kinh học Nho gia. Đứng trước một tác phẩm văn học ưu tú, người ta thích tìm những vi ngôn đại ngữ nằm ngoài tác phẩm chứ không chịu thừa nhận một tác phẩm văn học dựa vào đời sống hằng ngày để viết ra nhưng bản thân nó lại bao hàm những giá trị bất hủ. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, việc nghiên cứu Hồng lâu mộng đã có những thành tựu đáng kể. Nổi bật là Thái Ngu, Vương Côn Luân với bài viết phân tích trực tiếp về hình tượng nhân vật Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng, những bài viết trên cho thấy họ đã thâm nhập vào tác phẩm và xem nhân vật là sáng tạo văn học của nhà văn. Thái Ngu chỉ ra rằng “Bi kịch của Lâm Đại Ngọc là do mâu thuẫn giữa tính cách và thời đại” [chuyển dẫn 68, tr.50]. Kết luận trên cho thấy Thái Ngu là người đọc đầu tiên thấu hiểu hình tượng nhân vật Lâm Đại Ngọc. Quan điểm này của ông được nhiều nhà nghiên cứu sau này kế thừa. Còn Vương Côn Luân thì dùng một câu để khái quát sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật Vương Hy Phượng: “Hận Phượng Thư, mắng
- Phượng Thư, không thấy Phượng Thư lại nhớ Phượng Thư” [chuyển dẫn 74, tr.41], và bài viết của ông về nhân vật Vương Hy Phượng đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Năm 1954, Lý Hy Phàm cho đăng bài “Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa – hai điển hình đối lập trong Hồng lâu mộng” trên tạp chí Tân quan sát kỳ 23 nhằm phản bác quan điểm “Thoa – Đại hợp nhất” của Du Bình Bá, bài viết nêu: “Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa là hai tính cách hoàn toàn đối lập nhau, thể hiện hai lực lượng xã hội khác nhau, Lâm Đại Ngọc là kẻ phản nghịch trong xã hội phong kiến, theo đuổi lý tưởng sống cao đẹp, yêu cầu được tự do phát triển cá tính do đó tạo nên mâu thuẫn với thế lực phong kiến, cuối cùng dẫn đến bi kịch. Còn Tiết Bảo Thoa là kẻ kiên quyết bảo vệ chế độ phong kiến, có đầy đủ “đức” “tài” như yêu cầu của lễ giáo phong kiến” [chuyển dẫn 68, tr.50]. Đây là những bài viết đầu tiên đánh dấu bước tiến mới trong việc nghiên cứu Hồng lâu mộng. Năm 2000, giới văn học Trung Quốc đã có một hoạt động lớn kỷ niệm 100 ra đời nền văn học mới Trung Quốc (tính từ Lỗ Tấn) và 100 năm dịch thuật văn học Phương Tây tại Trung Quốc, bên cạnh những vấn đề hiện đại đó, có hoạt động đánh giá lại Hồng học (theo [29]). Hai thập niên cuối thế kỷ XX, giới nghiên cứu phê bình văn học Trung Quốc trên cơ sở “phản tư”, họ nhận thấy lý luận văn học lạc hậu so với sáng tác văn học, vì thế họ ra sức giới thiệu thành tựu của lý luận và phương pháp nghiên cứu văn học Âu Mỹ cho giới nghiên cứu trong nước. Từ đó việc vận dụng phương pháp mới, khám phá tác phẩm dưới góc độ văn hóa, mỹ học, triết học, tâm lý học, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa cấu trúc, phê bình mới, hiện tượng học, giải thích học … đạt nhiều thành tựu đáng kể. Những phương pháp nghiên cứu này cũng được vận dụng để nghiên cứu Hồng lâu mộng và đã mở ra nhiều cánh cửa, nhiều góc độ để người đọc khám phá ra nhiều điều mới mẻ từ bản thân tác phẩm. Trương Thụy Nga và Trần Đức Dụng trong bài “Do nữ tính chủ nghĩa khán “Hồng lâu mộng” phán từ đích Anh dịch”[76] cho rằng Hồng lâu mộng được Tào Tuyết Cần sáng tác trên lập trường, tiêu chuẩn nữ tính. Xuất phát từ quan điểm cơ bản của chủ nghĩa nữ tính là sự bình đẳng giới. Nhưng trong xã hội đương thời, sự phân biệt giới tính, phân biệt đối xử đã dẫn đến sự bất bình đẳng giữa hai giới. Nhận thức được sự bất bình đẳng đó, Tào Tuyết Cần lên tiếng ca ngợi và bênh vực nữ giới. Dưới góc độ văn hóa Trương Diễm Bình trong bài “Thí luận Lão Trang tư tưởng đối “Hồng lâu mộng” đích ảnh hưởng” cho rằng văn học cổ đại Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Lão Trang và Hồng lâu mộng cũng nằm trong khuynh hướng đó. “Bất luận là chủ đề bài “Hảo liễu ca” hay hình tượng nhân vật chính Giả Bảo Ngọc đều chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học nhân sinh Lão Tử. Đồng
- thời quan niệm về sống chết và những mối quan hệ trong luật quy luật phát triển của sự vật cũng ảnh hưởng sâu sắc đến Hồng lâu mộng” [77, tr.87]. Xuất phát từ cội nguồn văn hóa Trung Quốc, yếu tố văn hóa âm dương truyền thống Trung Quốc, Vương Phú Bằng phân tích sự chuyển hóa trong đặc trưng tính cách của Giả Bảo Ngọc và cho đây là nhân vật có đặc trưng “song tính hóa tính cách”. Tác giả kết luận, “Tào Tuyết Cần tôn sùng văn hóa nữ tính và phê phán văn hóa nam tính, đó chính là nguyên nhân, là động cơ tư tưởng trực tiếp để sáng tạo nên hình tượng nhân vật này”[72, tr.45]. Nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu tính bi kịch Hồng lâu mộng nhưng dưới góc độ văn hóa như: “Hồng lâu mộng Trung Quốc cổ đại nữ tính chỉnh thể nhân cách bi cục đích tổng kết” [71]; “Cổ đại tiểu thuyết Trung Quốc phụ nữ mệnh vận đích văn hóa thấu thị”[73]; “Hồng lâu mộng nữ tính quan dữ Minh Thanh nữ tính văn hóa” [74]… Những bài viết trên đã đưa ra những gợi ý đáng quý cho đề tài của chúng tôi. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu Hồng lâu mộng của Trung Quốc được người đọc biết đến ban đầu chỉ là một bộ phận trong Văn học sử, như: “Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc” của Lỗ Tấn, “Lịch sử văn học Trung Quốc” của nhóm tác giả Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Ninh, “Trung Quốc văn học sử” của Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh, “Tiểu thuyết sử thoại Trung Quốc” của Trương Quốc Phong, Thái Trọng Lai … Năm 2002, Nguyễn Phố cho ra mắt bạn đọc bản dịch “Mạn đàm về Hồng lâu mộng” của Trương Khánh Thiện và Lưu Vĩnh Lương. Có thể xem đây là bản dịch đầu tiên công trình nghiên cứu riêng về Hồng lâu mộng ở Việt Nam. “Mạn đàm về Hồng lâu mộng” đã đưa ra những lời bình luận khá sắc sảo và độc đáo xung quanh thủ pháp nghệ thuật của Tào Tuyết Cần về việc miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật. Thập nhị kim thoa được tác giả phân tích dưới nhiều góc độ như: “Lâm Đại Ngọc nghe hát” cho ta thấy được ở “Đại Ngọc kết tụ những đặc trưng có sức hấp dẫn của nền văn hóa Trung Quốc” [56, tr.57], Tiết Bảo Thoa luận về thơ và họa thể hiện “tư tưởng thẩm mỹ và chủ trương nghệ thuật của Tào Tuyết Cần”[56, tr.73]. Tích Xuân và Diệu Ngọc trong bài “Tâm hướng hồng trần và tâm hướng Phật môn” được phân tích dưới cái nhìn so sánh sắc sảo. “Một phương diện khác trong tính cách Lí Hoàn” cho thấy “Tào Tuyết Cần cũng đã miêu tả tính cách của nàng có những khía cạnh khác biệt, khiến cho hình tượng nhân vật này càng phong phú, càng phức tạp, càng hàm súc” [56, tr.143]. Một năm, trước khi Hồng lâu mộng được xuất bản, Nguyễn Đức Vân cho đăng bài: “Giá trị bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng” trên tạp chí văn học số 3 năm 1962. Mục đích của bài viết như tác giả nói là: “Giới thiệu nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của bộ kiệt tác ấy, căn cứ theo công trình của các nhà nghiên cứu Hồng lâu
- mộng ở Trung Quốc” [65, tr.46]. Bài viết đi theo hướng đề cao chủ nghĩa hiện thực, tính nhân dân của tác phẩm. Trong đó có một mục riêng về nghệ thuật nhưng còn rất sơ lược. Bẵng đi một thời gian khá lâu, gần đây chúng ta mới được đọc những bài nghiên cứu về Hồng lâu mộng trên các tạp chí như: “Hồng lâu mộng và Chu Dịch” [3]; “Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng”[4]; “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc” [5]; “Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc”[6]. Trong bài viết này, Trần Lê Bảo nhận định: “ Trong taùc phaåm Hoàng laâu moäng, taùc giaû ñaõ duøng moäng aûo laøm cô sôû soi chieáu cuoäc soáng, ñem laïi toaøn boä noäi dung bieåu hieän ñaët vaøo khuoân vieân cuûa moäng. Möôïn hieän thöïc cuoäc soáng ñan ñaày bi kòch ñeå daãn ñeán phaûn tö saâu saéc vaø phuû ñònh trieät ñeå hieän thöïc” [6, tr.65]; “Một quan niệm nghệ thuật về con người trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần” (2004) của Nguyễn Thị Diệu Linh; “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc” [14] của Phạm Tú Châu. Đây là những hướng nghiên cứu mới, có chiều sâu, đem đến cho người đọc nhiều kiến giải mới mẻ, thú vị và hấp dẫn. Theo sự quan sát của chúng tôi, hiện nay ở Việt Nam chưa có công trình in thành sách nào nghiên cứu riêng về Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng chủ yếu được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu chung về tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa. Tiêu biểu như: “Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”[19] của tác giả Trần Xuân Đề; “Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”[56] của Lương Duy Thứ; “Lịch sử văn học Trung Quốc”[46] của Nguyễn Khắc Phi … Các công trình trên thường đặt Hồng lâu mộng vào hệ thống chung của tiểu thuyết Minh – Thanh để vạch ra những nét đặc sắc cơ bản về nội dung cũng như nghệ thuật, đồng thời đánh giá cao tính hiện thực của Hồng lâu mộng. Đây là những định hướng tốt cho chúng tôi trong việc thực hiện đề tài. Ngoài ra, còn có thể kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp chọn Hồng lâu mộng làm đề tài, như: “Nghệ thuật miêu tả tâm lý các nhân vật nữ chính trong Hồng lâu mộng”(1986) của Đinh Phan Cẩm Vân; “Sự tương đồng về thi pháp nhân vật truyện Kiều và Hồng lâu mộng”(1999) của Hà Thanh Vân; “Nghệ thuật tổ chức không thời gian trong Hồng lâu mộng”(2002) của Nguyễn Thị Minh Hậu; “Thực và hư trong Hồng lâu mộng”(2003) của Nguyễn Thị Diệu Linh; Luận văn tốt nghiệp“Mộng và thực trong Hồng lâu mộng”(2006) của Phạm Vũ Lan Anh. Những luận văn trên đã đưa ra những gợi ý đáng quý cho đề tài của chúng tôi. 3. Phạm vi nghiên cứu.
- Theo Tống Kỳ trong “Hồng lâu mộng thức yếu”, Thập nhị kim thoa bao gồm: chính sách, phó sách, hựu phó sách, tam phó sách, tứ phó sách. Nếu căn cứ vào tư liệu này, ta thấy Thập nhị Kim thoa gồm sáu mươi nhân vật nữ, cụ thể: Kim lăng thập nhị kim thoa chính sách gồm: Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Giả Nguyên Xuân, Giả Thám Xuân, Sử Tương Vân, Diệu Ngọc, Giả Nghênh Xuân, Giả Tích Xuân, Vương Hy Phượng, Xảo Thư, Lý Hoàn, Tần Khả Khanh. Kim lăng thập nhị kim thoa phó sách gồm: Hương Lăng, Tiết Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, Lý Ỷ, Lý Văn, Bình Nhi, Uyên Ương, Vưu Nhị Thư, Vưu Tam Thư, Trí Năng, Vưu Thị, Hạ Kim Quế. Kim lăng thập nhị kim thoa hựu phó sách gồm: Tình Văn, Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tiểu Hồng, Tử Quyên, Oanh Nhi, Kim Xuyến, Ngọc Xuyến, Con Tư, Thu Văn, Tây Tuyết, Bích Ngân. Kim lăng thập nhị kim thoa tam phó sách gồm: Phương Quan, Linh Quan, Ngẫu Quan, Nhuỵ Quan, Dược Quan, Đậu Quan, Ngải Quan, Văn Quan, Bảo Quan, Ngọc Quan, Già Quan, Quỳ Quan. Kim lăng thập nhị kim thoa tứ phó sách gồm: Thuý Lũ, Xuân Yến, Thái Vân, Thái Hà, Hổ Phách, Bão Cầm, Thư Kỳ, Thị Thư, Nhập Họa, Con Năm Liễu, Tố Vân, Con Ngốc [67, tr.402]. Trong số sáu mươi kim thoa ấy, Tào Tuyết Cần đã trực tiếp đưa ra mười bốn lá số tiền định của mười lăm nhân vật. Những lá số đó đề cập đến số phận Kim lăng thập nhị kim thoa chính sách và ba nhân vật còn lại là Hương Lăng, Tập Nhân và Tình Văn. Thông qua việc phân tích Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa chính sách dưới góc nhìn của những phương tiện nghệ thuật, chúng tôi khẳng định lại một lần nữa tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Tào Tuyết Cần. Đồng thời chứng minh Hồng lâu mộng là một tác phẩm hiện thực chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Văn bản chính mà chúng tôi sử dụng là bộ Hồng lâu mộng, 6 tập, của nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Bội Hoàng và Nguyễn Doãn Địch dịch theo bản Trung văn “Hồng lâu mộng bát hồi hiệu bản”, do Nhà xuất bản Văn học nhân dân Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, chúng tôi tham khảo thêm quyển “Hồng lâu mộng” của nhà xuất bản Yên Sơn – Bắc Kinh, năm 2004. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu và khách thể nghiên cứu bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với nhau. Phương pháp nghiên cứu không phải quyết định bởi sự yêu thích hứng thú của cá nhân chủ thể nghiên cứu mà quyết định bởi đặc trưng bản chất của khách thể
- nghiên cứu. Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã lựa chọn và sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp của phương pháp luận nghiên cứu văn học như: Phương pháp khảo sát văn bản. Phương pháp này nhằm đối chiếu kiểm chứng nội dung bản dịch so với nguyên tác để nêu lên những khác biệt, những chỗ khó hiểu hoặc những điểm độc đáo của nguyên tác mà bản dịch chưa chuyển tải được. Phương pháp phân tích – tổng hợp. Đây cũng là một phương pháp quan trọng nhằm làm nổi bật các luận điểm được triển khai. Phương pháp so sánh văn học và phương pháp loại hình (đồng đại và lịch đại). Đặt Hồng lâu mộng trong mối quan hệ với những tác phẩm cùng thời và những tác phẩm ra đời trước để thấy được những đổi mới về tư tưởng, nghệ thuật của Tào Tuyết Cần. Phương pháp liên ngành: đặt tác phẩm trong mối quan hệ với lịch sử, xã hội, văn hóa, triết học, tôn giáo … Vì nhà văn thời cổ thường kiêm nhà sử học, triết học, thư pháp, họa sĩ … Tào Tuyết Cần là người đa tài đa nghệ, giỏi làm thơ, vẽ tranh, có thể diễn kịch đánh đàn, yêu thiên nhiên, thích ngao du sơn thủy … Tất cả những điều ấy được kết tinh trong Hồng lâu mộng. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà Hồng lâu mộng lại được mệnh danh là bộ bách khoa về văn hóa, lịch sử, xã hội … Trung Quốc thế kỷ XVIII. Do đó, nghiên cứu tác phẩm cần vay mượn thành quả của các ngành khác để đem đến bộ mặt mới cho việc tìm hiểu và khám phá Hồng lâu mộng. 5. Đóng góp của luận văn. Kế thừa những thành quả nghiên cứu Hồng lâu mộng của người đi trước, luận văn đưa ra một cách nhìn hệ thống về “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng”. Qua đó, lý giải những kết cấu và tư duy nghệ thuật đặc sắc của Tào Tuyết Cần. Qua quá trình triển khai đề tài, luận văn góp phần làm rõ những giá trị nhân văn, nhân đạo trong quan niệm về người phụ nữ của Tào Tuyết Cần. Đồng thời, thông qua đặc trưng tính cách của Thập nhị kim thoa luận văn chứng minh nghệ thuật sáng tạo hình tượng nhân vật độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, việc phân tích bi kịch của Thập nhị kim thoa, luận văn tái khẳng định số phận bi kịch của họ chính là bi kịch của tính cách, của thời đại, chứ không phải do định mệnh đã an bày. 6. Cấu trúc luận văn. Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được sắp xếp thành ba chương: Chương 1: Hồng lâu mộng trong bối cảnh tiểu thuyết Minh - Thanh. 1.1. Thời đại hoàng kim của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh. 1.1.1. Hồng lâu mộng – bộ bách khoa về văn hóa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII.
- 1.1.2. Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. 1.2. Sự gặp gỡ giữa hai tác giả Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc. 1.2.1. Tào Tuyết Cần – sống trong phồn hoa, chết trong luân lạc. 1.2.2. Cao Ngạc – sự tiếp bút tài hoa với những kỳ vọng ước mơ mới mà cũ. Chương 2: Những lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa. 2.1. “Tiền định” – một quan niệm trong hệ thống triết học Trung Hoa cổ. 2.2. Lá số tiền định dưới góc nhìn của những phương tiện nghệ thuật. 2.3. Những ám chỉ trong mười một lá số tiền định. Chương 3: Thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực. 3.1. Thập nhị kim thoa – những nhân cách lý tưởng “song tính đồng thể”. 3.2. Thập nhị kim thoa – bi kịch của tính cách và thời đại. 3.3. Thập nhị kim thoa – quá trình hưng - vong của Tứ đại gia tộc. 3.3.1. Thập nhị kim thoa – sự hưng thịnh của Tứ đại gia tộc. 3.3.2. Thập nhị kim thoa – sự suy vong của Tứ đại gia tộc.
- Chương 1: HỒNG LÂU MỘNG TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT MINH – THANH Những thể loại văn học nổi lên rồi chìm xuống, nào anh hùng ca, nào sử thi, nào bi kịch … Những đỉnh cao trỗi dậy một thời rồi tàn lụi. Riêng tiểu thuyết đến nay vẫn còn là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” [9, tr.21], nó vẫn đang “nhịp bước cùng con người thường xuyên và chân thành” [44, tr.10]. Quá trình phát triển của tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung luôn mang tính kế thừa. Những tác phẩm ra đời sau bao giờ cũng chứa đựng những kinh nghiệm trước đó. Hồng lâu mộng, tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa là một tác phẩm như thế và còn hơn thế nữa vì kỳ thư này vừa là đứa con cuối cùng trong phả hệ tiểu thuyết Minh – Thanh vừa khởi đầu cho thế hệ mới. Thế nhưng, cuộc sống với vô vàn biến động nên tuy là một tác phẩm vĩ đại nó cũng có phần không hoàn chỉnh. Do đó, dù Hồng lâu mộng có mênh mông như biển cả, dù tiểu thuyết đã ôm trọn vào lòng nó bao yếu tố của thời đại, dù tác phẩm đã đánh một dấu son vào lịch sử tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, dù được xem là “quốc bảo” của Trung Hoa thì tác phẩm gây khoái cảm cho người đọc không phải chỉ bằng những gì mà Tào Tuyết Cần đã hoàn tất mỹ mãn mà còn bằng những gì ông nhằm tới nhưng chưa đạt được. 1.1. Thời đại hoàng kim của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh. Trung Quốc cổ đại là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Từ thời xa xưa, nơi đây đã sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại như: Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử … Tuy vậy, kho tàng triết lý của nhân loại lại nằm trong những tác phẩm văn học nhiều hơn những quyển sách triết. Vì nhà tư tưởng luôn tìm cách hoàn tất một hệ thống tư tưởng cụ thể, còn nhà văn chỉ kể chuyện, câu chuyện lang thang giữa vùng sáng tối của trái tim con người, nó không khẳng định cũng không phủ định. Thế nhưng, câu chuyện ấy vừa nói được với số đông lại vừa nói được với từng người. Tuy vậy, mỗi giai đoạn, mỗi thời đại, con người lại có những nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ khác nhau. Vì thế, một thể loại văn học ra đời, phát triển và mất đi, suy cho cùng là do cuộc sống quy định. Thành tựu của văn chương Trung Quốc là một minh chứng hùng hồn nhất cho nguyên lý này. Các đỉnh cao văn chương Trung Quốc thực chất là thành tựu của các thể loại tương ứng với từng thời kỳ lịch sử. Do vậy, ở đây có sự thống nhất giữa thể loại và thời đại tới mức hễ nhắc tới thể loại là người ta nhớ ngay đến thể loại thành công bao trùm thời đại. Ngược lại, hễ nói tới thời đại nào đó, người ta lại nhớ ngay đến thể loại thành công nhất, tiêu biểu nhất của thời đại đó, như: Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, Minh Thanh tiểu thuyết. Quá trình
- phát triển liên tục ấy chứng minh sức sống, sức sáng tạo không ngừng nghỉ, không mệt mỏi của một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của thể loại tiểu thuyết thì Minh – Thanh xứng đáng được tôn xưng là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Thành tựu của tiểu thuyết giai đoạn này là tiền đề cho sự phát triển của văn học giai đoạn sau. 1.1.1. Hồng lâu mộng – bộ bách khoa về văn hóa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII. Tào Tuyết Cần xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc nhưng cuộc đời dâu bể đã biến một “hào môn vọng tộc” thành một “tế tộc cô môn”. Quá trình biến đổi từ thịnh đến suy, từ thăng đến trầm, từ vinh đến nhục đã thâu tóm trong cuộc đời Tào Tuyết Cần, để lại cho ông những dấu ấn khó phai. Tào Tuyết Cần đã tiếp thu tất cả những biến thiên của thời đại bằng khả năng phân tích và thấu thị phi thường. Dần dần những tích tụ ấy được ông chuyển vào ngòi bút và hóa thân trở lại từ những trang tiểu thuyết. Thông qua tác phẩm Hồng lâu mộng, người đọc vừa cảm nhận được tâm tư tình cảm của tác giả vừa hình dung được gương mặt thời đại mà ông đang sống. Do đó, giá trị của bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng từ lâu đã vượt qua cái khung văn học đơn thuần. Người Trung Quốc còn nhắc đến Hồng lâu mộng như một thành tựu văn hóa bởi tác phẩm có thể coi là một tấm gương phản chiếu và tổng hợp nền văn hóa vật chất lẫn tinh thần của xã hội Trung Quốc. Khi bước vào làng văn - Balzac - nhà văn vĩ đại của văn học Pháp, người khai sinh ra khuynh hướng văn học hiện thực mang sắc thái phê phán, đã sớm có ý định tập hợp những sáng tác của mình thành một tác phẩm lớn với một đề cương chi tiết gồm các phần: khảo luận phong tục, khảo luận triết học, khảo luận phân tích. Ông đã vạch ra những nhiệm vụ cụ thể cho bộ sách chung mang tên Tấn trò đời. Với số lượng hơn 90 tác phẩm, 2209 nhân vật, 515 nhân vật tái xuất hiện, đã khiến cho những tác phẩm độc lập ấy kết nối lại với nhau thành một bức tranh chỉnh thể thống nhất về xã hội Pháp thế kỷ XIX. Còn Tào Tuyết Cần, ngược lại, “Tác giả khéo léo thu hẹp xã hội thượng lưu vương giả thời bấy giờ vào khung cảnh một gia đình quý phái tiêu biểu: Giả phủ” [51, tr.115]. Thế rồi, từ một gia đình, tác giả cho ta thấy“một hiện tượng sinh hoạt xã hội vô cùng phức tạp nhưng vẫn có mạch lạc thứ tự” [65, tr.49]; “Trong Hồng lâu mộng mọi lĩnh vực của xã hội phong kiến từ pháp lệnh chế độ, đạo đức pháp luật, văn hóa giáo dục, tôn giáo tín ngưỡng, tư tưởng quan niệm, cho đến phong tục tập quán … đều được Tào Tuyết Cần đề cập đến một cách rộng rãi sâu sắc”[1, tr.665] ; Vì thế “Hồng lâu mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về xã hội và về con người. Nó là cuốn bách khoa sinh động về xã hội Trung Quốc phong kiến” [62, tr. 101]; Những nhận định đánh giá này đã được chứng minh rõ nét trong những quyển sách viết về Lịch sử văn học Trung Quốc
- mà Hồng lâu mộng là một bộ phận. Chẳng hạn, Lương Duy Thứ nhấn mạnh Hồng lâu mộng là “Bức tranh thu nhỏ của xã hội phong kiến Trung Quốc trên bước đường suy tàn”[57, tr.85]. Trong đó, tác giả tập trung phân tích mối quan hệ và mâu thuẫn nội tại của xã hội thượng lưu; mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc và quần chúng bị áp bức; Gia đình họ Giả - hình ảnh của một giai cấp thối nát suy tàn và bất lực; Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc - những đứa con phản nghịch và dấu hiệu suy tàn của chế độ; Tam giác tình yêu Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa không phải là tấn tuồng “tình yêu tay ba” mà là bi kịch tình yêu và hôn nhân dưới chế độ phong kiến. Quyển Lịch sử văn học Trung Quốc do Dư Quan Anh chủ biên nhấn mạnh đến tính chất phê phán xã hội phong kiến của Hồng lâu mộng. “Hồng lâu mộng phản ánh một cách phức tạp lắt léo nhiều hiện tượng xã hội quan trọng của thời kỳ lịch sử ấy”[1, tr.663]; “Hồng lâu mộng còn vạch trần biết bao hiện tượng đen tối của xã hội phong kiến”[1, tr.664]; “Qua việc miêu tả hàng loạt chi tiết sinh hoạt thường ngày, ông đã khắc họa được cuộc sống thối nát tột cùng của giai cấp thống trị phong kiến, và từ đó vạch trần tình trạng mục ruỗng toàn bộ từ gốc đến ngọn của xã hội phong kiến”[1, tr.665]. Tóm lại, Hồng lâu mộng được mệnh danh là bách khoa về văn hóa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII, vì tác phẩm đã phản ánh xã hội với tầm rộng lớn. Hộ hoa chủ nhân tổng bình Hồng lâu mộng, có đoạn nói: “Trong Hồng lâu mộng, nói về văn học thì có: Thơ từ, ca phú, văn thư, hý khúc, đối liễn, biến ngạch, tửu lệnh, chuyện vui, không lối văn nào là không hay. Nói kỹ thuật thì có: cầm kỳ thi họa, bói toán, thuốc men, làm nhà, trồng cây, nuôi chim, thả cá, nấu nướng thêu thùa, lớn nhỏ đều đủ. Nói về nhân vật thì có: người chính, người tà, người ác, người thiện, người hào cường, người nhu nhược, nữ tướng đời trước, thi nữ ngoại dương, quỷ ma, tiên phật, ni cô, tăng đạo, cô đào, gái hát, tôi tớ, trộm cướp, lưu manh, vô lại, không thiếu một hạng nào. Nói về sự việc thì có: tiệc tùng, yến ẩm, xa xỉ dâm ô, quan tham lại nhũng, nghi lễ cung đình, buồn vui suy thịnh, xử án đánh giặc, kinh kệ đàn tràng, bán buôn chạy chọt, việc gì cũng đủ. Thậm chí những việc như: chết bệnh chết non, thuốc độc, tự vẫn, bị giết, trầm mình, nhảy sông, treo cổ, nuốt vàng, nuốt thuốc, đập đầu, thoát tinh … thảy đều đầy đủ, thật là bao la vạn tượng. Tác giả không nghề gì không biết và không nghề gì không tinh”[chuyển dẫn 65, tr.61]. Với ngòi bút sắc bén và trái tim mẫn cảm, Tào Tuyết Cần không chỉ tạo nên một bộ bách khoa về văn hóa, xã hội Trung Quốc trong Hồng lâu mộng mà tác phẩm còn là bộ bách khoa về trái tim con người. Văn học là lương tâm của xã hội và tâm lý xã hội cũng chính là tâm lý con người. Thế nên, Hồng lâu mộng cũng là câu chuyện về số phận của những cá nhân con người, đó còn là những số phận điển hình cho một giai cấp, một tầng lớp. Điểm mấu chốt chính là chủ nghĩa cảm thương mà tác giả gửi gắm vào nhân vật nữ. Những con người đã nếm trải tất cả những vinh nhục thăng
- trầm, vui buồn của đời người. Đó là những con người biết ước mơ, biết sống cho lý tưởng của đời mình nhưng mơ ước không thành nên điều đọng lại trong tác phẩm chính là nỗi buồn, là bi kịch của đời sống nhân loại. Do đó, Hồng lâu mộng không chỉ phản ánh đơn thuần bộ mặt xã hội mà Tào Tuyết Cần còn thấu hiểu nó trong vô vàn xáo động của thời đại mà ông đang sống. Hồng lâu mộng không chỉ là bộ bách khoa về văn hóa, xã hội mà thông qua bộ bách khoa này, tác phẩm trở thành bản cáo trạng đanh thép, dài dòng và đầy đủ, nhẹ nhàng và sâu sắc đối với xã hội đương thời. Không chỉ tố cáo, phê phán, Hồng lâu mộng còn mang sức mạnh của sự khẳng định và cải tạo xã hội bằng hình ảnh của những con người mới, con người mang tư tưởng dân chủ, dám đấu tranh cho tình yêu tự do, bênh vực lẽ phải và cái đẹp. Đó chính là hình ảnh xã hội Trung Quốc trong tương lai mà tác giả đã chạm đến nhưng chưa nắm giữ được. 1.1.2. Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. Hồng lâu mộng không chỉ chiếm một địa vị nhất định trong lịch sử tiểu thuyết mà còn đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc Trung Quốc – đó là sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. Hồng lâu mộng báo hiệu một sự trở mình giữa tiểu thuyết cổ điển sang tiểu thuyết thời hiện đại. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu rực rỡ của tiểu thuyết trường thiên, sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới của Hồng lâu mộng có thể khái quát ở những điểm cơ bản sau: Đây là sáng tác của một cá nhân, không có sự lưu truyền tích tụ các giai thoại từ nhiều đời thành các thoại bản như tiểu thuyết chương hồi khác. Để có được một hình tượng Tôn Ngộ Không trong sáng tác của Ngô Thừa Ân là một quá trình lâu dài. Tam Quốc chí, Thủy hử với những thoại bản tồn tại trong nhân dân từ lâu đời. Trong khi đó, sáng tác Hồng lâu mộng trong “lưng vốn” của Tào Tuyết Cần chưa hề tồn tại một thoại bản nào. Chỉ dựa vào tài năng, sự trải nghiệm, vốn văn hóa, Tào Tuyết Cần đã sáng tác một thiên cổ kỳ thư cho riêng mình, góp phần hình thành một “loại hình nhà văn” trong sáng tác và đã soi sáng văn học bằng các sự kiện văn hóa. Tuy Hồng lâu mộng không phải là tác phẩm đầu tiên do cá nhân sáng tác. Vì vị trí đó đã được dành cho Kim Bình Mai. Nhưng có thể xem Hồng lâu mộng là sự kế thừa và phát triển những thành tựu của Kim Bình Mai và sự kế thừa ấy không đơn thuần chỉ là kỷ xảo nghệ thuật thông thường mà Hồng lâu mộng chính là kết tinh của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật và tư tưởng mỹ học của Tào Tuyết Cần.“Kim Bình Mai chính là tác phẩm đã xây dựng được những nhân vật mang đặc trưng thời đại, đã miêu tả được những hoạt động tất yếu của nhân vật trong hoàn cảnh điển hình của xã hội phong kiến ruỗng nát; là tác phẩm đồ sộ đầu tiên lấy cái chuyện một gia đình làm trung tâm, đề cập đến một môi trường xã hội rộng lớn, mặt đối mặt với đời sống,
- thấm đượm mùi vị cuộc đời chứ không phải siêu phàm xa lạ như trước kia” [chuyển dẫn 58, tr.59]. So với Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng xây dựng được một thế giới lý tưởng, nhân vật được khắc họa mang nội dung mỹ học sâu sắc. Hồng lâu mộng phê phán toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội phong kiến và phản ánh sự mâu thuẫn, đối lập giữa tư tưởng dân chủ và phong kiến. Trong khi đó Kim Bình Mai chỉ miêu tả những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến. Nếu so sánh với những tác phẩm ra đời trước như Tây sương ký, Mẫu đơn đình, Đào hoa phiến thì kết thúc bi kịch của Hồng lâu mộng đã phá vỡ những hạn chế của tiểu thuyết tài tử giai nhân. Điều này chứng tỏ, tác giả Hồng lâu mộng đã khéo léo thâm nhập vào những tác phẩm ra đời trước và nhận ra những tác phẩm ấy “nghìn bộ đều theo một khuôn sáo”[8, tr.25], “đầy những lời sáo ngữ cũ rích, gán ghép bừa bãi, toàn nói chuyện vụt gặp vụt tan”[8, tr.26]. Do đó, Tào Tuyết Cần đã mở ra một con đường mới cho tiểu thuyết hiện đại bằng phương pháp sáng tác hiện thực, “căn cứ vào hiện thực”, “ghi chép những sự việc và tình cảm tôi đã trải qua”[8, tr.24], “từ đầu đến cuối đều theo sát sự thực không thêm bớt tô vẽ chút nào, không vì chiều lòng người đọc mà xuyên tạc sự thực”[8, tr.25] … với những cách tân đó, Tào Tuyết Cần tin chắc tác phẩm của mình sẽ khiến cho người đời đổi tầm con mắt. Đó còn là sự sáng tạo nhân vật trong Hồng lâu mộng: “mỗi con người một diện mạo, sự phong phú về nội hàm tính cách, sự phơi bày đời sống tâm linh” Nhân vật trong Hồng lâu mộng chiếm một dung lượng đồ sộ với hơn bốn trăm nhân vật, nhưng tất cả đều là những con người có thanh có sắc, có da có thịt không thể nhầm lẫn. Có rất nhiều nhân vật bước từ đời sống văn học ra đời sống sinh hoạt với những đặc tính riêng như Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng … Tất cả đều minh chứng cho sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của cuộc sống con người, sự “đa nhân cách” với những mặt đối lập cùng tồn tại trong bản thân mỗi nhân vật. Từ đây, con người trong văn học không còn là con người đơn giản, một chiều mà đã là con người sinh động, khó đoán, khó nắm bắt. Trần Lê Bảo đã chỉ ra nét độc đáo trong cách khắc họa nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng, đó là kiểu nhân vật “chính tà kiêm phú” “tức chính và tà có cả trong tính cách mỗi nhân vật”[4, tr.120], nhân vật vừa có cái đáng ghét và đáng yêu. Như Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tình Văn … cho ta thấy ở họ vừa có cái đáng yêu vừa có cái đáng quí , khiến ta vừa yêu vừa kính, trong họ còn ẩn chứa sức sống sức đấu tranh với những giáo điều của lễ giáo phong kiến đồng thời cũng chưa thể thoát khỏi sự bao bọc của xã hội ấy. Tuy nhân vật có nhiều điểm đối lập thể hiện sự đa nhân cách nhưng tính cách của họ vẫn thống nhất từ đầu đến cuối tác phẩm. Mặc dù bốn mươi hồi sau dưới ngòi bút của Cao Ngạc biểu hiện bề ngoài của Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Bảo Thoa nhiều khi trái ngược với lúc đầu nhưng vẫn thể hiện được sự kế tục hợp lí những hồi trước.
- Nghệ thuật tự sự của Hồng lâu mộng đã có những biến đổi: sự dung hợp giữa tả thực với thi vị hóa, là một kết cấu mạng lưới hỗn dung nhất thể với sự chuyển biến đổi thay của điểm nhìn tự sự. Và cuối cùng là ngôn ngữ văn học được cá tính hóa. Từ đó, có thể thấy: cá tính, phong cách nghệ thuật của nhà văn và sự sáng tạo của nhà văn trong một thể loại là rất quan trọng. Tất cả đều cấp cho người đọc cái nhìn cuộc sống từ nhiều góc độ. Do đó, tính hiện thực của văn học được cô đúc và hình dung cụ thể hơn. Tự hào mình là đất nước của thơ ca, người Trung Hoa thích chen những đoạn thơ vào giữa những lời văn xuôi. Ngay töø thôøi Ñöôøng, ta thaáy giöõa nhöõng ñoaïn truyeàn kyø coù söï xuaát hieän cuûa moät vaøi ñoaïn thô, baøi thô nho nhoû. Ñieàu ñoù cuõng thaät deã hieåu neáu ta bieát veà moâi tröôøng dieãn xöôùng cuûa truyeän keå. Ngoaøi vieäc ñöôïc aán haønh treân giaáy, ôû Trung Hoa coøn moät hình thöùc löu truyeàn truyeän keå nöõa, ñoù laø thoâng qua nhöõng ngheä nhaân daân gian. Nhöõng ñoaïn thô ñöôïc chen vaøo giöõa nhöõng lôøi keå nhaèm muïc ñích thö giaõn giöõa nhöõng tình tieát gay caán hoài hoäp, laïi vöøa taïo theâm daùng phong nhaõ cho caâu chuyeän. Cuõng khoâng phaûi laø chæ coù nhöõng truyeän giai nhaân taøi töû môùi coù ñoaïn theâm thaét thô ca vaøo maø ngay caû nhöõng truyeän phieâu löu lòch söû, chí quaùi, phong tuïc cuõng coù thô nhö tröôøng hôïp cuûa Taây Du Kyù, Tam Quoác Chí, Kim Bình Mai … Nhöõng baøi thô caâu haùt naøy nhieàu khi khoâng coù aên nhaäp gì ñeán truyeän keå nhaân vaät caû, nhöng cuõng coù tröôøng hôïp thô ca trôû thaønh phöông tieän ñaéc duïng duøng ñeå mieâu taû taâm tình nhaân vaät. Loaïi thô naøy neáu taùch ñöùng rieâng ra moät mình, noù khoù maø coù choã ñöùng trong laøng thô Trung Hoa voán ñaõ quaù nhieàu nhöõng tuyeät phaåm, nhöng noù laïi laøm cho caâu chuyeän trôû neân phong phuù haáp daãn hôn. Noù cuõng chöùng minh cho thaáy söùc dung naïp lôùn cuûa tieåu thuyeát coå ñieån Trung Hoa vôùi caùc theå loaïi khaùc nhö thô, phuù, töø, aâm nhaïc … Tuy nhieân phaûi nhaän thaáy raèng raát nhieàu thô ca, töø, phuù trong tieåu thuyeát coù giaù trò ngheä thuaät khoâng cao laém. Beân caïnh ñoù söùc lieân keát giöõa thô ca vôùi noäi dung chính trong truyeän chaúng maáy chaët cheõ. Ngöôøi ta coù theå boû ñi deã daøng nhöõng ñoaïn thô maø vaãn caûm thaáy heát ñöôïc caùi phong vò cuûa truyeän, khoâng gaây aûnh höôûng gì lôùn laém ñeán ngheä thuaät vaø coát truyeän. Theá nhöng vôùi Hoàng laâu moäng cuûa Taøo Tuyeát Caàn, coù theå noùi, thô ca ñöôïc ñöa vaøo trong truyeän ñaõ trôû thaønh ñænh cao. Goïi laø ñænh cao vì noù phaùt huy heát ñöôïc söùc maïnh ngheä thuaät cuûa mình. Thô ca trong taùc phaåm Taøo Chieâm khoâng phaûi chæ laø ñeå giöõ nhòp thö thaùi cho gioïng truyeän nöõa maø ñaõ trôû thaønh coâng cuï ñaéc
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 307 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 101 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn