Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh
lượt xem 15
download
Luận văn tập trung khám phá nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh với các phương diện: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật tổ chức kết cấu, xây dựng cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. Từ đó xác định và khẳng định được những đóng góp độc đáo của Nguyễn Nhật Ánh cho văn học thiếu nhi. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THƢƠNG NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - năm 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THƢƠNG NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Khánh Thành Hà Nội - năm 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Khánh Thành. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài được thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
- LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Trần Khánh Thành, người đã tận tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trong Khoa Văn học, đặc biệt là các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian 02 năm tham gia học tập của khóa học (2014 - 2016). Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2016 Học viên Nguyễn Thị Thƣơng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3 1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...........................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................9 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..........................................................................10 6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................10 Chƣơng 1: NGHỆ THUẬT XÂY ỰNG NHÂN VẬT ....................................... 11 TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ......................................................... 11 1.1. Nghệ thuật y dựng nh n vật ngƣời kể chuyện .............................12 1.1.1. Khái quát về nhân vật n i hu n .......................................... 12 1.1.2. Nhân vật n i k chuy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh........... 16 1.1.2.1. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ nhất ............................16 1.1.2.2. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ ba ...............................19 1.1.3. i nh n tr n thuật ........................................................................ 20 1.1.3.1. Điểm nhìn không gian .................................................................22 1.1.3.2. Điểm nhìn thời gian ....................................................................25 1.1.3.3. Điểm nhìn bên trong, bên ngoài .................................................26 1.2. Nh n vật đƣợc kể trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .........................30 1.2.1. Khái quát về nhân vật “đ ợc k ’’ .................................................... 30 1.2.2. Cá ph ơn thứ và thủ pháp n h thuật xâ dựng nhân vật “đ ợc k ” ..................................................................................................................... 33 1.2.2.1. h c h a nhân vật qua ngo i hình .............................................33 1.2.2.2. h c h a nhân vật qua nội tâm ..................................................37 1.2.2.3. h c h a nhân vật qua ời n i và hành ộng .............................40 1
- 1.3. Tiểu kết ....................................................................................................44 Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ XÂY ỰNG CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ....................................... 45 2.1. Nghệ thuật t chức kết cấu.....................................................................45 2.1.1. Khái quái về ngh thuật tổ chức kết cấu ......................................... 45 2.1.2. Ngh thuật tổ chức kết cấu trong truy n Nguyễn Nhật Ánh .......... 49 2.2. Nghệ thuật y dựng cốt truyện ............................................................56 2.2.1. Khái quát n h thuật xâ dựng cốt truy n ...................................... 56 2.2.2. Ngh thuật xâ dựng cốt truy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh .. 60 2.2.2.1. Nghệ thuật t o tình huống truyện ầy kịch tính ......................... 60 2.2.2.2. Nghệ thuật tổ chức diễn trình vận ộng cốt truyện .................... 63 2.3. Tiểu kết ....................................................................................................67 Chƣơng 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU......................................................... 69 TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH ......................................................... 69 3.1. Ngôn ngữ trần thuật ...............................................................................69 3.1.1. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ .................................... 69 3.1.2. Khái quát về ngh thuật sử dụn n ôn n ữ nhân vật .................... 70 3.1.3. Ngh thuật sử dụn n ôn n ữ nhân vật trong truy n Nguyễn Nhật Ánh .................................................................................................................... 71 3.2. Giọng điệu trần thuật .............................................................................79 3.2.1. Khái quát về giọn đi u tr n thuật .................................................. 79 3.2.2. Giọn đi u tr n thuật trong truy n của Nguyễn Nhật Ánh............ 82 3.2.2.1. Gi ng iệu hài hước, tinh nghịch, h m hỉnh ..............................82 3.2.2.2. Gi ng iệu ối tho i hồn nhiên, ngộ nghĩnh ..............................85 3.2.2.3. Gi ng iệu triết ý, chiêm nghiệm và suy tư ...............................89 3.3. Tiểu kết ....................................................................................................95 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 99 2
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Xuất hiện trên văn đàn như một hiện tượng văn học đặc sắc, Nguyễn Nhật Ánh là một cây bút tài năng với nỗ lực cách tân nghệ thuật. Mỗi tác phẩm của anh ra đời đều mang đến một ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Với giọng văn hài hước nhẹ nhàng cùng nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc những trang văn của anh thực sự hấp dẫn các độc giả không chỉ là trẻ em mà cả những ai “từng là trẻ em”. Nguyễn Nhật Ánh là cây bút trẻ đa tài, viết ở nhiều lĩnh vực nhưng có thể khẳng định thành công nhất của tác giả vẫn là văn xuôi với những sáng tác cho thiếu nhi. Anh đã từng vinh dự nhận nhiều giải thưởng: giải văn học Trẻ hạng A (1995) do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng cho truyện dài Chú bé r c rối, giải thưởng văn học (2002) của Hội Nhà văn Việt Nam cho bộ ính v n hoa, huy chương Vì thế hệ trẻ (2003) của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, giải thưởng Văn h c của Hội Nhà văn Việt Nam và giải Sách hay của Hội xuất bản Việt Nam (2008) cho tác phẩm Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, giải thưởng Văn h c ASEAN (2010) tại Thái Lan, giải thưởng FAHASA (2012)... Năm 1995, Nguyễn Nhật Ánh còn được bầu chọn là nhà văn được yêu thích nhất trong 20 năm (1975 - 1995) và sau này (2005) là 30 năm (1975- 2005) do Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ tổ chức. Trân trọng, ngưỡng mộ tài năng và ấn tượng với những tác phẩm tự sự của Nguyễn Nhật Ánh viết về thế giới tuổi thơ, từng là người giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn, tôi nhận thức được sự ảnh hưởng của tác giả đối với các em học sinh bậc Trung học cơ sở khi học môn Ngữ Văn nên tôi quyết định chọn đề tài: Ngh thuật tự sự trong truy n của Nguyễn Nhật Ánh với một mong muốn sẽ giải mã được phần nào nghệ thuật tự sự của Nguyễn Nhật Ánh và góp thêm cảm nhận của cá nhân về nhà văn này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 07 tháng 5 năm 1955, tại huyện Thăng Bình, 3
- tỉnh Quảng Nam. Anh đến với diễn đàn văn học trước hết bằng những tập thơ trữ tình ngọt ngào lãng mạn: Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim, 1984), Đầu xuân ra sông giặt áo (1986), Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh (1988), Lễ hội của êm en (1994) và Tứ tuyệt cho nàng (1994). Truyện dài đầu tiên của Nguyễn Nhật Ánh là Trước vòng chung kết (Nhà xuất bản Măng Non 1984) và từ đó anh mải mê viết những tập truyện cho thanh thiếu niên như: Cô gái ến từ hôm qua (1987), Chú bé r c rối (1989), Cho tôi xin một vé i tuổi thơ (2008), Đảo mộng mơ (2009), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2010), C hai con mèo ngồi bên cửa sổ (2012), Ngồi kh c trên cây (2013), Chúc một ngày tốt ành (2014), Bảy bước tới mùa hè (2015) và Con ch nhỏ mang giỏ hoa hồng (2016)... Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đã thu hút sự quan tâm của độc giả và các nhà phê bình văn học. Đến nay độc giả đã biết được nhiều bài viết về tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh trên các phương diện nội dung và nghệ thuật. Tất cả các tác giả khi viết về Nguyễn Nhật Ánh đều giành những lời có cánh cho cây bút tài năng này. Đó là những bài nhận xét, bài báo ph ng vấn, những bản tin được in trong các cuốn sách tư liệu, đăng trên báo, tạp chí, cập nhật trên mạng Internet... Chính những bài viết này đã chứng minh được rằng: Nguyễn Nhật Ánh đã gây được thiện cảm và sự yêu mến từ những tác phẩm văn chương, mộc mạc, tự nhiên, đời thường... nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí inh số 273 ra ngày 26 tháng 12 năm 1996, Nguyễn Thị Thanh Xuân đã viết: “Đi sâu vào các cảm xúc mạnh mẽ và tâm trạng khắc khoải nặng nề không phải là chủ trương mà cũng không phải là sở trường của Nguyễn Nhật Ánh. Anh nắm bắt rất tinh những trạng thái mong manh, niềm vui, nỗi buồn thoáng qua của tuổi mới lớn.... Nguyễn Nhật Ánh viết về cái gì vậy Anh viết về cái đang diễn ra, cái quen thuộc và gần gũi trong thế giới trẻ thơ: những cuộc học, cuộc chơi, những mối tình thơ dại... Trong tiểu thuyết của anh, không gian không rộng lắm, thời gian không dài lắm. Những câu chuyện chẳng có gì là ly k để kích thích trí tưởng tượng của độc giả trẻ thơ như các truyện cổ tích, 4
- truyện phiêu lưu viễn tưởng thế mà trẻ thơ vẫn “say anh như điếu đổ” [61, tr.35]. Hồng Loan trên trang hongloan1103@gmail.com: “Phong cách viết của Nguyễn Nhật Ánh thật trong trẻo, hồn nhiên, đã đưa người đọc về gần với tuổi thơ của mình hơn”. Trong lời giới thiệu sách trên trang: wwwlazada.vn nhận xét: “Có thể không ngoa khi nói rằng Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn của tuổi mới lớn và là nhà văn thành công nhất khi khai thác nghệ thuật tự sự trong truyện. Nhiều thế hệ trẻ đã lớn lên cùng các tác phẩm hồn nhiên, trong sáng của anh". Lã Thị Bắc Lý trong bài Nguyễn Nhật Ánh người gi ửa cho văn h c thiếu nhi đã nhận xét, nổi bật ở Nguyễn Nhật Ánh là tính dí d m, hài hước, lạc quan. Tính hài hước bắt nguồn từ thái độ lạc quan, nhẹ nhõm với cuộc đời: “Tôi quan niệm cuộc đời con người vốn éo le, chẳng việc gì mình phải bi kịch hóa nó thêm lần nữa. Nhìn mọi sự bằng con mắt hài hước, tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy yêu đời hơn, vượt qua những nghịch cảnh cũng dễ dàng hơn...” [41, tr.15,16]. Trên trang Bình uận văn nghệ quân ội http://vannghequandoi.com.vn, Thụy Anh có viết: Trước đây, tôi cho rằng Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn biết cách đáp ứng nhu cầu của người đọc. Ông tìm hiểu bọn trẻ rất kĩ. Theo tôi được biết, nhà văn dành tương đối nhiều thời gian để trò chuyện với tuổi teen, lên mạng đọc, thậm chí, mở diễn đàn để lắng nghe và đối thoại với các em. Vì thế, Nguyễn Nhật Ánh hiểu đứa trẻ cần gì, mong gì khi đến với một cuốn sách. Bên cạnh những khao khát phiêu lưu, tìm hiểu thế giới, đứa trẻ còn có nhu cầu tìm hiểu chính bản thân mình: những cảm xúc kì lạ không tên, những xáo trộn trong các mối quan hệ đang bình ổn bỗng một ngày trở nên rối tung khiến chúng hoảng sợ, những mong muốn nho nh một ngày bỗng trở nên nhức nhối, bức xúc khiến chúng không hiểu nổi mình. Nguyễn Nhật Ánh luôn tìm nhiều cách diễn đạt mới, và tiến hành các thử nghiệm nho nh , tuy khá thận trọng. Các tác phẩm gần đây ẩn dụ nhiều hơn, chiêm nghiệm nhiều hơn dù vẫn giữ cách viết hài hước, trong sáng. Trang tài liệu Thanh niên diễn àn Hội thanh niên Việt Nam, nhà báo Dương Thành Truyền nhận định: Xét về mặt tâm lý - giáo dục, có một điều hết sức quý giá của hệ thống tác phẩm viết cho thanh thiếu niên của Nguyễn Nhật Ánh, vốn rất lớn 5
- về số lượng, đa dạng về thể loại, từ truyện tâm lý, tình cảm đến truyện pháp thuật, truyện phiêu lưu, truyện thể thao và phong phú về không gian biểu hiện từ làng đến phố, từ gia đình đến lớp học: đó là chúng có thể đồng hành theo quá trình phát triển tâm lý lứa tuổi của các bạn trẻ. Trên trang văn http://Tôn vinh văn h a c.com.vn có bài viết: Nguyễn Nhật Ánh - nh Bồ câu a tài. Đọc bài viết này, Nguyễn Nhật Ánh đã được độc giả đánh giá là một trong những nhà văn viết cho thiếu nhi thành công nhất hiện nay ở nước ta. Nhưng không chỉ có thế các tác phẩm tự sự của Nguyễn Nhật Ánh còn được đánh giá là giúp trẻ “lớn lên” theo từng nấc thang của cuộc đời với một thế giới trẻ thơ hết sức trong sáng, không có cái ác, cái xấu, cái thấp hèn, chỉ ngập tràn yêu thương và tôn trọng con người, như chính cái khát khao mà mỗi con người luôn muốn hướng tới dù ở lứa tuổi nào. Chính nghệ thuật tự sự của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã giúp các bạn trẻ yêu đời hơn, tự tin hơn, bình thản hơn trong cuộc sống thường nhật hôm nay vốn đầy ắp những bộn bề lo toan và không thiếu những khắc nghiệt. Vân Thanh, nhà nghiên cứu văn học thiếu nhi, trên T p chí Văn h c đã từng nhận xét: Truyện của Nguyễn Nhật Ánh có khả năng đi vào lòng người bởi tình cảm nồng hậu của tác giả đối với các lứa tuổi trẻ thơ mà anh luônyêu quý và tôn trọng. Có trái ngược chăng, ở tuổi trưởng thành, Nguyễn Nhật Ánh đã phải chịu đựng biết bao gian lao, vất vả và cay đắng, nhưng viết về lứa tuổi này, anh lại không hề đi vào những chua chát, mỉa mai, oán hận đời. Anh luôn muốn truyền cho các em lòng tin vào cuộc sống và nghị lực vượt mọi khó khăn. Lòng tin yêu cuộc sống và nghị lực vượt khó khăn là những đức tính tốt đẹp của thiếu nhi đã được nhà văn Nguyễn Nhật Ánh truyền tải qua câu chuyện của mình một cách gần gũi với thiếu nhi nhất. Lê Phương Liên trong bài viết Văn xuôi và trẻ em đã nhận xét: “Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một tác giả thành công với bạn đọc trẻ, anh là người có một “khóe văn” riêng. Anh chiếm được tình cảm của hàng triệu người đọc cũng không ngoài quy luật tự sự và đối thoại nội tâm của tuổi thơ, không ngoài sự tự phát hiện 6
- ra chất hài hước của chính mình” [38, tr.39]. Nhà nghiên cứu Vân Thanh đã từng nhiều lần nhắc đến thành công của Nguyễn Nhật Ánh trong sáng tác dành cho thiếu nhi. Trong bài viết Nguyễn Nhật Ánh nhà văn ôi cuốn trẻ thơ, tác giả đã đề cập đến đề tài, chủ đề, nhân vật, giọng điệu và giới thiệu khái quát về tập truyện ính v n hoa. Nguyễn Nhật Ánh đã làm được một điều kì diệu, đó là đem đến cho bạn đọc trẻ thơ sự thú vị và niềm vui háo hức mong chờ những tác phẩm tiếp theo của anh. Và quả nhiên, Nguyễn Nhật Ánh đã không làm bạn đọc thất vọng. Anh tiếp tục trình làng Cho tôi xin một vé i tuổi thơ. Vẫn với lối viết dí d m kiểu ính v n hoa, Tôi à Bêtô nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ. Đây là tập sách được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam và giảithưởng ASEAN, 2010. Cùng với Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Lá nằmtrong á, C hai con mèo ngồi bên cửa sổ… Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện sức viết bền bỉ của mình. Nguyễn Thị Thúy Hằng (ThS. Trường PTTH u Lạc, thành phố Hồ Chí Minh), có bài Tâm hồn tuổi thơ trên trang sách Nguyễn Nhật Ánh. Mở đầu bài viết, cô đã giới thiệu về Nguyễn Nhật Ánh như sau: Nguyễn Nhật Ánh đến với văn học thiếu nhi như một lẽ tự nhiên. Đó là sự trở về của ký ức, của những hoài niệm, là sự thôi thúc của ý tưởng và hơn hết là tấm lòng của nhà văn. Trong một lần trả lời ph ng vấn trên báo Sài Gòn Giải Phóng, Nguyễn Nhật Ánh nói rằng: “Nhà văn viết cho thiếu nhi bao giờ cũng đồng thời là nhà giáo dục”, thậm chí là “nhà giáo dục bẩm sinh”. Ông viết với trách nhiệm của một người thầy, người nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ” [31, tr.70]. Nhà văn Lê Minh Khuê trên báo Tiền phong đã nhận xét: “Nguyễn Nhật Ánh trong sáng từ cách nghĩ, cách cảm, từ ngôn ngữ đối thoại, từ cách miêu tả đến xây dựng nhân vật. Tất cả đều đầy sức khơi gợi tới cái đẹp. Anh khơi dậy sự tự tin, tin vào sức mạnh của trí tuệ, tin vào con đường của mỗi người trong đời. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh in hàng chục ngàn bản mỗi cuốn, là sự chờ đợi háo hức như chờ đợi người “hò hẹn” của các em. Mấy ai được hạnh phúc như anh” [35, 7
- tr.17]. Nhà văn có một khoảng trời riêng và thực sự làm chủ khoảng đất sáng tạo của mình đó chính là lý do người đọc háo hức chờ đón tác phẩm mới của Nguyễn Nhật Ánh. “Mỗi cuốn truyện là một tuổi thơ trọn vẹn, lần nào cũng như bắt đầu lại từ đầu, với những ký ức lung linh hoa lá và những trải nghiệm khóc cười rất thật tưởng chừng không có bóng dáng của “hư cấu văn học”. Cũng vì thế mà khó có thể xác định nhà văn viết cho hế hệ nào, về thời đại nào. Có cảm tưởng, người đọc sau trăm năm nữa vẫn sẽ có được một Nguyễn Nhật Ánh đồng hành với ký ức tuổi thơ của mình như thế này mà thôi” [35, tr.17]. Bên cạnh các ấn phẩm trên, các bài viết về Nguyễn Nhật Ánh và các tác phẩm của anh còn xuất hiện trên các báo như báo Lao ộng, Thanh niên,các tạp chí và nhiều trang thông tin điện tử như Evan.net, Phongdiep.net... bộ truyện ính v n hoa đã được dựng thành phim truyền hình nhiều tậpcho thiếu nhi, các tác phẩm khác cũng được dựng thành phim như Cô gái ến từ hôm qua, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh và một số truyện của Nguyễn Nhật Ánh đang có dự án chuyển thể thành truyện tranh. Có thể thấy Nguyễn Nhật Ánh là tác giả đang rất được quan tâm và giành được nhiều tình cảm ưu ái của độc giả ở mọi lứa tuổi. Đặc biệt là sức hút, sự ảnh hưởng rất lớn của truyện Nguyễn Nhật Ánh đối với độc giả trẻ tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thống kê kết quả khảo sát ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh tại các trường trung học cơ sở (83,33 học sinh biết và yêu thích nhà văn Nguyễn Nhật Ánh), trung học phổ thông (93,87 học sinh biết và yêu thích nhà văn Nguyễn Nhật Ánh)... Có thể khẳng định rằng: “Thành công của Nguyễn Nhật Ánh chính là lối kể chuyện hấp dẫn, rất hay, dễ đi vào lòng người, trong mỗi mẩu chuyện mang một ý nghĩa giáo dục sâu sắc” (Theo nh hưởng của truyện Nguyễn Nhật Ánh ối với ộc giả trẻ ở thành phố Hồ Chí inh [22, tr.128]). Trong bài viết Nguyễn Nhật Ánh và truyện thiếu nhi của Lê Huy Bắc có đoạn viết: “Phải thừa nhận, ở thời điểm thực tại, viết truyện cho trẻ em (thiếu nhi) ở Việt Nam, chẳng ai sánh bằng Nguyễn Nhật Ánh. Ông không chỉ viết kh e mà còn viết hay và rất đều tay. Đã rất lâu, bạn đọc Việt Nam mới có thể tiếp xúc được với một cây bút truyện thiếu nhi có một phông văn hóa, một nền tảng kiến văn rộng, cộng 8
- với một cảm xúc trẻ thơ chân thành, sâu sắc với lối tư duy đậm chất triết lí, đầy ngỗ nghịch và mang tính đột biến cao”. Một ý kiến khác về cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Nhật Ánh: Trong truyện, Nguyễn Nhật Ánh sử dụng ngôn ngữ rất dễ hiểu. Ở đó, ngôn ngữ trần thuật thường được biểu hiện bằng những câu văn ngắn, đơn giản nhưng vẫn biểu đạt được các sắc thái tình cảm rõ rệt.. Dù đứng ở góc độ nào, chúng ta nghiên cứu ở nội dung nào thì chúng ta cũng đều khẳng định được tài năng độc đáo của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Vì vậy trên cơ sở tiếp thu những ý kiến đi trước, tôi mong muốn ở đề tài này phần nào lý giải được Nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh và hiểu hơn nữa về các tác phẩm tự sự của anh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đối với đề tài này, tôi tập trung khám phá nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh với các phương diện: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật tổ chức kết cấu, xây dựng cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. Từ đó xác định và khẳng định được những đóng góp độc đáo của Nguyễn Nhật Ánh cho văn học thiếu nhi. Chỉ ra những nét độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn Nhật Ánh đồng thời giúp người đọc thấy được những đóng góp tích cực cũng như lý tưởng sống, tài năng và tấm lòng nhân hậu của nhà văn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng luận văn hướng đến là Nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh. - Phạm vi: Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Nhật Ánh vô cùng phong phú song ở đề tài này, tôi chủ yếu tập trung khảo sát nghệ thuật tự sự của anh qua một số tác phẩm như: Cho tôi một vé i tuổi thơ, ính v n hoa, Đảo mộng mơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Bảy bước tới mùa hè, Thằng qu nhỏ, Tôi à Bêtô... đồng thời tham khảo thêm những bài viết của các nhà khoa học về Nguyễn Nhật Ánh. Từ 9
- đó có thể thấy rõ nghệ thuật tự sự trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh cũng như những đóng góp của anh cho văn học nước nhà. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Ở luận văn này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp liên ngành: đối tượng miêu tả trong truyện Nguyễn Nhật Ánh là tuổi thơ và tuổi mới lớn - những đối tượng phức tạp trong văn chương và ngoài đời thực. Do vậy, khi thực hiện đề tài, tôi kết hợp với phương pháp của các ngành khoa học khác như: văn hóa học, giáo dục học... - Phương pháp tiếp cận thi pháp học và lý thuyết tự sự: Khám phá thế giới nghệ thuật nhà văn từ các yếu tố hình thức đến nội dung, tìm hiểu đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật tự sự của tác giả. - Phương pháp so sánh: nhằm chỉ ra những nét chung và nét độc đáo riêng của Nguyễn Nhật Ánh về nghệ thuật tự sự so với các nhà văn khác ở các giai đoạn văn học khác nhau và đặc biệt là nhà văn khác cùng viết cho thiếu nhi. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn được triển khai trên ba chương: Chương 1: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Chương 2: Nghệ thuật tổ chức kết cấu và xây dựng cốt truyện trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. 10
- Chƣơng 1: NGHỆ THUẬT XÂY ỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH Đặc điểm của tác phẩm tự sự là phản ánh cuộc sống thông qua các yếu tố sự kiện biến cố và hành vi con người; thường có cốt truyện gắn với hệ thống nhân vật. Loại hình tự sự thể hiện tâm trạng, tư tưởng của chủ thể thông qua phản ánh hiện thực khách quan, tức là cái chủ quan ẩn đi hoặc hoà vào cái khách quan. Nhà văn phải dùng đến các yếu tố như sự kiện, nhân vật trong một thời gian và không gian nghệ thuật nhất định. Chính vì thế truyện phải có chuyện và nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người kể chuyện, các yếu tố nghệ thuật khác như điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,… làm nên những đặc trưng riêng cho loại hình tự sự. Theo Từ iển thuật ng văn h c của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: “trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả… Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả” [26, tr.275]. Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể, khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà văn. Nói đến nghệ thuật tự sự là nói đến nghệ thuật kể chuyện hay nghệ thuật trần thuật, một phương thức nhằm làm cho các sự việc, tình tiết trong tác phẩm được diễn ra và sống dậy. Để tạo nên phong cách riêng cho các tác phẩm của mình, các nhà văn phải tạo dựng được nghệ thuật kể chuyện riêng của mình. Và nghệ thuật kể chuyện chính là phương thức kể, mà được xây dựng lên bởi lời kể, lời nhân vật... được thể hiện 11
- bằng các biện pháp nghệ thuật phục vụ cho việc kể. Để xây dựng được nhân vật kể chuyện trong sáng tác của mình các nhà văn đã sử dụng nhiều hình thức tự sự khác nhau. Có khi đó là người hoàn toàn bên ngoài tác phẩm nhưng cũng có khi nhân vật xưng “tôi”. Tuy nhiên với từng loại văn, từng kiểu nhân vật, đặc biệt với từng dụng ý nghệ thuật và từng tài năng sáng tạo riêng, mỗi nhà văn lại có cách sử dụng biện pháp thể hiện nghệ thuật riêng. Song mục đích cuối cùng của nghệ thuật tự sự - nghệ thuật kể chuyện là làm nổi bật nên nhân vật tự sự trong mỗi tác phẩm để từ đó ta hiểu được tư tưởng, quan điểm sáng tác của mỗi nhà văn. 1.1. Nghệ thuật y dựng nh n vật ngƣời kể chuyện 1.1.1. Khái quát về nhân vật n i hu n Thuật ngữ người kể chuyện trong tác phẩm tự sự tương ứng với thuật ngữ người trần thuật, người thuật chuyện, người mang thông iệp, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện… Theo Từ iển thuật ng văn h c của Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử thì người kể chuyện có thể là hình tượng của chính tác giả, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra. Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú. Hay: “Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác với người kể chuyện thực tế trong đời sống” [22, tr.197]. Hoặc “Người kể chuyện là chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học”. Nguyễn Thái Hoà thì cho rằng: “người kể là người biết tất cả, biết hết cả cốt truyện, nhân vật và dẫn nhân vật hành động”. Tuy nhiên anh ta có thể là người thuyết minh, là một nhân chứng hoặc giả vờ không dính líu đến câu chuyện kể tu vào mức độ khác nhau, tức là “tạo một khoảng cách giữa người kể và chuyện”. Để kể chuyện, người kể phải có một điểm nhìn bao quát để lựa chọn, điều khiển các 12
- nhân vật hành động và một khi đã có chuyện thì không thể thiếu người kể chuyện và tất yếu sẽ phải có điểm nhìn. Sự lựa chọn điểm nhìn và ngôi kể sẽ chi phối đến việc viết cái gì và viết như thế nào của nhà văn để đạt được hiệu quả tối ưu cho tác phẩm tự sự. Người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Nếu như người kể chuyện thực tế trong đời sống là những con người cụ thể, hữu hình, có hình hài, giọng nói, điệu bộ… thì đến người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, tất cả những yếu tố hữu hình, cụ thể này đều được chuyển vào trong văn bản thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Chính vì thế, khác với người nghe - đối tượng của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự sẽ có điều kiện phát huy tối đa khả năng liên tưởng của mình, có khả năng thâm nhập, đồng sáng tạo với người kể chuyện. Điểm khác biệt thứ hai giữa người kể chuyện trong tác phẩm tự sự với người kể chuyện thực tế là người kể chuyện trong thực tế hoàn toàn có thể điều chỉnh câu chuyện theo phản ứng của người nghe còn người kể chuyện trong tác phẩm nghệ thuật thì hầu như không có cái quyền đó. Câu chuyện mà họ kể ra đã được cố định trong văn bản, không thể thêm bớt hay sửa chữa gì… Thứ ba, người kể chuyện thực tế trong đời sống thường kể câu chuyện theo tuần tự thời gian, theo trật tự tuyến tính để cho người nghe dễ theo dõi còn người kể chuyện trong tác phẩm nghệ thuật thì có thể sử dụng lối kể đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai để làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Tính chất đặc biệt của nhân vật người kể chuyện được thể hiện cụ thể như: Người kể chuyện không chỉ là nhân vật tham gia trong tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về các nhân vật khác. Người kể chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả. Người kể chuyện thống nhất với tác giả bởi người kể chuyện là người nêu quan điểm của tác giả. Đặc biệt trong tác phẩm tự truyện, sự thống nhất giữa người kể chuyện và tác giả lại càng bộc lộ rõ. Người kể chuyện và tác giả không đồng nhất với nhau. Tác giả viết truyện bao giờ cũng có tư tưởng rộng hơn tư tưởng của người kể chuyện. Nếu chúng ta chỉ dựa 13
- vào cách kể của người kể chuyện để đánh giá, phán xét thì sẽ là cực đoan, phiến diện. Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa người kể chuyện với tác giả vẫn có những nét khác nhau. Những hành động, tâm trạng, cảm giác mà người kể chuyện kể lại trong tác phẩm tự truyện có thể là của nhà văn nhưng đó là những gì đã xảy ra với nhà văn trong quá khứ chứ không phải ở thời khắc hiện tại bây giờ... Có thể khẳng định rằng: Người kể chuyện là một sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể chuyện có các chức năng như: tổ chức kết cấu tác phẩm, môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật và thay mặt nhà văn trình bày những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Giữa người kể chuyện với tác giả có một mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng ta tuyệt đối không đồng nhất giữa hai đối tượng này. Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Và tất nhiên, với tính chất hư cấu, “tôi” không hẳn là tác giả mà chỉ là một nhân vật của truyện. Lời trần thuật ở đây vừa là ngôn ngữ trần thuật của tác giả vừa là ngôn ngữ trần thuật của nhân vật, tức vừa là lời trực tiếp, vừa là lời gián tiếp (của nhân vật). Ngoài ra tác giả còn trần thuật ở ngôi thứ ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hoá và trung tính. Người trần thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người… tái hiện và phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác. Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là gián tiếp một giọng, là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng. Loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này 14
- cho phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngoài việc tác giả trần thuật theo hai dạng thức nói trên, nhân vật còn có vai trò là người trần thuật. Trong tiểu thuyết, nhân vật có vị trí rất quan trọng, là then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Có nhân vật thì có ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật là một trong những phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Tác giả của tác phẩm tự sự là một giả định, không cần thiết cho một tổ chức trần thuật. Trong trần thuật, viết mang tính chất văn học. Tư cách của người trần thuật là kết quả của hành vi trần thuật của chính mình, là sản phẩm của bản thân hành vi của mình, là một người trần thuật được trần thuật ra. Người trần thuật được chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người…, tái hiện và phân tích, lý giải lời nói ý thức người khác. Lời văn trần thuật gián tiếp này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là gián tiếp một giọng, là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng, loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật, tức là trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý thức khác của cùng một đối tượng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Có thể chia ra thành người trần thuật lộ diện và người trần thuật ẩn tàng. Theo thuật ngữ thông dụng thì người trần thuật lộ diện là người trần thuật theo“ngôi thứ nhất” còn người trần thuật ẩn tàng là người trần thuật theo“ngôi thứ ba”. Nhưng hai thuật ngữ này ngày nay không có ý nghĩa chặt chẽ. Bởi vì bất cứ người kể nào và bất cứ ai nói về mình đều xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất mà không dùng ngôi thứ ba, còn cái gọi là kể theo ngôi thứ ba chỉ có ý nghĩa là không nói đến mình mà thôi. 15
- Để kể chuyện, người kể phải có một điểm nhìn bao quát để lựa chọn, điều khiển các nhân vật hành động. Vì thế, một khi đã có chuyện thì không thể thiếu người kể chuyện và tất yếu sẽ phải có điểm nhìn. “Điểm nhìn” theo Nguyễn Thái Hòa là tọa độ thời gian được lựa chọn cho hành động kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp bố cục, hư cấu thành truyện. 1.1.2. Nhân vật n i k chuy n trong truy n Nguyễn Nhật Ánh 1.1.2.1. Nhân vật người kể chuyện ở ngôi kể thứ nhất Trong truyện dài Cho tôi xin một vé i tuổi thơ, Nguyễn Nhật Ánh không giới thiệu tên hay những đặc điểm về ngoại hình, tính cách của nhân vật ngay khi nhân vật xuất hiện mà mở đầu tác phẩm bằng một cảm giác của người trần thuật xuất hiện ở ngôi thứ nhất xưng là tôi: “Một ngày tôi chợt nhận thấy cuộc sống thật buồn chán và tẻ nhạt. Năm đó tôi lên tám” [1, tr.10]. “Tôi” ở đây là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. “Tôi” chính là thằng cu Mùi và cùng với nó là Tý sún, Hải cò, con Tủn làm nên những cuộc phiêu lưu k thú cho riêng mình: Đặt tên cho thế giới, lập trang trại chó hoang... Nhân vật cu Mùi đã tham gia và kể lại diễn biến những trò chơi, những kỷ niệm vui buồn vì thế mà tính chất sự việc thật hơn. Người đọc chúng ta cảm thấy sự chính xác trong những lời kể đó. Nhân vật “tôi” - thằng cu Mùi đã rất quả quyết khẳng định rằng: “Tôi không phải là trái đất. Tôi là thằng cu Mùi” [1, tr.98]. Tham gia là vai trò người kể chuyện còn có một nhân vật xưng là cu Mùi khi đã ở tuổi trưởng thành. Cu Mùi dẫn dắt câu chuyện về quá khứ. Thêm vào đó là sự so sánh dí d m đã làm nổi bật lên sự khác biệt giữa hai thế giới trẻ em và người lớn: “Với người lớn ý nghĩa và giá trị của mọi thứ trên đời đều thu gọn vào hai chữ chức năng... Trẻ con không quan tâm đến chức năng. Đơn giản vì trẻ con có kho báu vô giá: óc tưởng tượng”. Sử dụng ngôi kể thứ nhất để kể chuyện, nhưng dường như Nguyễn Nhật Ánh không phải chỉ kể về riêng mình, về thời thơ ấu của bản thân mà nói đến một thằng cu Mùi nào đó. Có thể nói, Nguyễn Nhật Ánh đã sáng tạo nên một nhân vật “tôi” trẻ hóa và rất điển hình với mong ước cũng rất điển hình của trẻ nh . Nhân vật “tôi” 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 263 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 305 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 154 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 145 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 158 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn