Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai
lượt xem 16
download
Mời các bạn nắm bắt những nội dung về nhân vật văn học và diện mạo nhân vật văn học trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975; đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai; nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai thông qua luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai sau đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thị Thanh Trúc NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của quí thầy cô và bạn bè. Xin chân thành cảm ơn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Phùng Quý Nhâm, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình, người đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011 Phan Thị Thanh Trúc
- MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................................... 2 0T T 0 MỤC LỤC ......................................................................................................................................................... 3 0T T 0 DẪN NHẬP ...................................................................................................................................................... 4 0T T 0 1.Lí do chọn đề tài ......................................................................................................................................... 4 0T 0T 2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu .......................................................................................................................... 5 0T 0T 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................. 7 0T 0T 4.Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................................................. 8 0T 0T 5. Đóng góp của luận văn .............................................................................................................................. 8 0T 0T 6. Kết cấu của luận văn .................................................................................................................................. 9 0T 0T CHƯƠNG 1: NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO NHÂN VẬT VĂN HỌC TRONG TIỂU THUYẾT 0T VIỆT NAM SAU 1975 .................................................................................................................................... 10 0T 1.1. Nhân vật văn học và nhân vật văn học trong tiểu thuyết ........................................................................ 10 0T T 0 1.1.1. Nhân vật văn học ............................................................................................................................ 10 0T 0T 1.1.2. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết ................................................................................................. 14 0T T 0 1.2. Diện mạo nhân vật văn học trong tiểu thuyết sau 1975 .......................................................................... 19 0T T 0 1.2.1. Nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 ................................................................................ 19 0T T 0 1.2.2. Diện mạo nhân vật văn học trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 ................................................... 28 0T T 0 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI ..................................................... 38 0T T 0 2.1. Nhân vật có xu hướng lí tưởng .............................................................................................................. 39 0T 0T 2.2. Nhân vật với những cảnh ngộ bi kịch .................................................................................................... 49 0T 0T 2.2.1. Nhân vật với bi kịch tổn thương ..................................................................................................... 51 0T 0T 2.2.2. Nhân vật với bi kịch lạc lõng .......................................................................................................... 56 0T 0T 2.2.3. Nhân vật với bi kịch tự đánh mất mình ........................................................................................... 59 0T T 0 2.3. Nhân vật hiện thân cho cái ác ................................................................................................................ 65 0T 0T CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI....................... 75 0T T 0 3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật .................................................................................................................. 75 0T 0T 3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình của nhân vật .................................................................................... 75 0T T 0 3.1.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm của nhân vật ........................................................................................ 80 0T T 0 3.2. Lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai ................................................................................... 86 0T T 0 3.2.1. Lời đối thoại................................................................................................................................... 86 0T 0T 3.2.2. Lời độc thoại .................................................................................................................................. 93 0T 0T KẾT LUẬN ................................................................................................................................................... 102 0T T 0 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................................. 106 0T 0T
- DẪN NHẬP 1.Lí do chọn đề tài Chu Lai vốn là một cái tên quen thuộc với người đọc tiểu thuyết Việt Nam những năm sau 1975. Cùng với Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Dương Hướng, ...thế hệ nhà văn khẳng định mình trong giai đoạn văn học sau 1975, nhà văn quân đội Chu Lai được người đọc biết đến với tư cách là một tác giả tiểu thuyết khá thành công. Là con trai của nhà viết kịch Học Phi, Chu Lai từng công tác ở đoàn kịch nói Tổng cục chính trị nhưng sau đó ông vào Nam chiến đấu và trở thành chiến sĩ đặc công chiến trường miền Đông Nam Bộ. Chiến tranh kết thúc, Chu Lai trở về Hà Nội học khóa 1 ở trường viết văn Nguyễn Du và từ đó ông gắn cuộc đời mình với nghề văn. Ông vừa biên tập vừa sáng tác cho tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim nhưng cái tên Chu Lai trước nhất vẫn được khẳng định ở lĩnh vực tiểu thuyết Có thể nói Chu Lai là nhà văn có sức viết khỏe và bền bỉ. Trong khoảng thời trên dưới hai mươi năm, Chu Lai đã liên tục cho ra đời nhiều tiểu thuyết như Nắng đồng bằng (1978), Đêm tháng hai (1982), Gió không thổi từ biển (1985), Sông xa (1986), Vòng tròn bội bạc (1990), Bãi bờ hoang lạnh (1990), Ăn mày dĩ vãng (1992), Phố (1993), Ba lần và một lần (1999), Cuộc đời dài lắm (2001), Khúc bi tráng cuối cùng (2004), Chỉ còn một lần (2006), Hùng Karo (2007),…Trong số đó, có những tiểu thuyết nhận được những giải thưởng cao như giải thưởng hội đồng văn học chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang cho tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” (1992), giải thưởng tiểu thuyết nhà xuất bản Hà Nội với tiểu thuyết “Phố” (1993). Ngoài ra nhà văn Chu Lai còn vinh dự nhận được giải thưởng văn học Bộ quốc phòng năm 1994, giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007. Từng là một chiến sĩ đặc công, sau hơn mười năm cầm súng, trở về cuộc sống đời thường, Chu Lai hăm hở lao vào cầm bút. Thực tế cũng như những trải nghiệm trong khoảng đời chiến tranh đã trở thành hành trang thiết thực cho nhà văn trên con đường sáng tác của mình. Chu Lai viết nhiều tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính. Tiểu thuyết của ông đề cập đến nhiều vấn đề, thể hiện cuộc sống của con người nhất là người lính ở cả hai giai đoạn trong và sau chiến tranh. Ở mỗi tiểu thuyết, nhà văn đều xây dựng những hình tượng nhân vật sinh động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc và chuyển tải những vấn đề cuộc sống, con người mà ông quan tâm. Vấn đề tìm hiểu nhân vật trong một tác phẩm, một thể loại văn học hay trong những sáng tác của một tác giả không phải là vấn đề xa lạ, mới mẻ. Trong sáng tác văn học, nhân vật luôn là yếu tố nghệ thuật có vai trò quan trọng và được nhà văn dụng công xây dựng. Nhân vật là sự hình tượng hóa và cụ
- thể hóa ý tưởng nghệ thuật của nhà văn, nhân vật nói lên rất nhiều điều về nội dung tác phẩm, về những vấn đề nhà văn trăn trở và muốn hướng đến người đọc. Mặt khác, hình tượng nhân vật còn cho thấy quan niệm nghệ thuật về con người và cách nhìn nhận những vấn đề cuộc sống của nhà văn. Nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai cũng thế. Với hệ thống nhân vật chủ yếu là nhân vật người lính, Chu Lai đã xây dựng thật sinh động hình ảnh người lính ở cả hai giai đoạn trong và sau chiến tranh. Tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, chúng tôi muốn góp một tiếng nói để chỉ ra những thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết của nhà văn cũng như qua đó khái quát lên một số đặc điểm tiêu biểu của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai nói chung. Hơn nữa tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai còn để thấy được những nỗi trăn trở về cuộc sống và con người mà nhà văn quân đội này thể hiện thông qua hình tượng nhân vật. Đó là lí do để chúng tôi chọn đề tài “Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai” làm đề tài nghiên cứu. 2.Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nằm trong xu hướng phát triển của tiểu thuyết giai đoạn sau 1975, tiểu thuyết Chu Lai ngay từ khi xuất hiện đã nhận được sự đón nhận của độc giả cũng như sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Có thể tìm thấy một số bài viết về tiểu thuyết Chu Lai nói chung và những ý kiến về nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai nói riêng trên một số báo, tạp chí như báo Văn nghệ hay tạp chí Văn nghệ quân đội. Các ý kiến được trình bày ở những cuộc hội thảo về các tác phẩm của Chu Lai cũng phần nào tập trung nói đến những vấn đề này. Ngoài ra, tiểu thuyết Chu Lai cũng trở thành đề tài nghiên cứu của một số luận văn chuyên ngành. Nhìn chung, qua những bài viết và luận văn trên các tác giả đều khẳng định sự thành công của tiểu thuyết Chu Lai ở đề tài chiến tranh và người lính cũng như khẳng định những thành công và đóng góp của tiểu thuyết Chu Lai nói chung. Riêng về nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai, tuy chưa có một bài viết hay công trình nào nghiên cứu chuyên sâu nhưng chúng tôi vẫn ghi nhận được một số ý kiến quan trọng. Ở bài viết “Nội lực Chu Lai” in trên tạp chí Nhà văn số 8 năm 2006, tác giả Bùi Việt Thắng đã đưa ra những nhận định khá bao quát về tiểu thuyết Chu Lai nói chung, trong đó ông đặc biệt chú ý đến hai phương diện nghệ thuật là nhân vật và giọng điệu. Riêng về yếu tố nhân vật, Bùi Việt Thắng khẳng định nhân vật người lính và nhân vật nữ là hai nhân vật thành công của tiểu thuyết Chu Lai. Trong bài viết “Trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai” in trên báo Văn nghệ số 29 năm 1992, một số nhà nghiên cứu và các tác giả như Bùi Việt Thắng, Lê Thành Nghị, Hồng Diệu, Nguyễn Trí Huân, Lê Minh Khuê,… đã nêu ra những ý kiến về tác phẩm được đánh giá cao này của Chu Lai. Trong đó, Nguyễn Trí Huân cho rằng thành công của Ăn mày dĩ vãng chính là “những trang
- viết xúc động về chiến tranh và người lính” [67,6]. Còn nhà nghiên cứu Lê Thành Nghị lại đi vào nhận xét về những nhân vật của tiểu thuyết và ông khẳng định rằng “nhân vật của Chu Lai quyết không phải là những viên gạch nung ra từ một lò” [67,6]. Lý Hoài Thu ở bài viết “Tập truyện ngắn Phố nhà binh” in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 7 năm 1993 cũng nhận xét về nhân vật trong sáng tác của Chu Lai nói chung thông qua tập truyện Phố nhà binh. Theo Lý Hoài Thu thì nhân vật trong sáng tác của Chu Lai có sự thay đổi. Nếu như trước kia các nhân vật của Chu Lai chủ yếu được mô tả ở cốt cách anh hùng trận mạc thì hiện nay Chu lai lại tập trung đi vào khai thác cuộc sống thời bình nhưng lại không hề bình lặng của những con người trở về từ chiến tranh. Tác giả Nguyễn Thanh Tú trong bài viết “Cuộc đời dài lắm - một tiểu thuyết có tính hấp dẫn” in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số ra tháng 01 năm 2002 cũng nêu ra những nhận xét mang tính đúc kết về nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai: “Ngòi bút tiểu thuyết Chu Lai vẫn cách xây dựng nhân vật đẩy đến tận cùng của bi kịch. Có thể nói một cách khái quát là con người trong tiểu thuyết Chu Lai là con người của bi kịch, con người của những mâu thuẫn, có khi thật quyết liệt dữ dội, có khi số phận tận cùng ngang trái, có nhân cách vô cùng cao thượng, lại có loại người tận cùng của sự gian xảo” [82,101]. Ngoài ra, các bài viết “Vấn đề tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc” in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 5 năm 1991, “Những trang viết về người lính” của Nguyễn Trí Huân in trên báo Văn nghệ số 41 năm 1994, “Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới” của Nguyễn Hương Giang in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 4 năm 2001 hay “Hình tượng người lính trong văn học cần một cái nhìn thực tế” của Bùi Vũ Minh in trên báo Văn nghệ số 6 năm 2006 cũng ít nhiều đề cập đến một số nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai. Trong số những bài viết hay đề tài nghiên cứu về tiểu thuyết Chu Lai kể trên, có lẽ đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai” của tiến sĩ Nguyễn Đức Hạnh trường Đại học sư phạm Thái Nguyên năm 2006 là một công trình khá công phu. Ở đề tài nghiên cứu này, Nguyễn Đức Hạnh đi vào tìm hiểu hành trình sáng tác tiểu thuyết và sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong tiểu thuyết Chu Lai cũng như sự thể hiện của những yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết. Đặc biệt hơn, ở đề tài này, Nguyễn Đức Hạnh còn đi vào khái quát các loại cảm hứng nghệ thuật song hành - hô ứng với kiểu nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Chu Lai. Theo Nguyễn Đức Hạnh, tiểu thuyết Chu Lai có các kiểu cảm hứng tương ứng với các kiểu nhân vật sau: cảm hứng anh hùng và cảm hứng lãng mạn hô ứng - tương giao với kiểu nhân vật anh hùng - lãng tử trong chiến tranh, cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương
- hô ứng - tương giao với kiểu nhân vật bi kịch, cảm hứng phê phán hô ứng - tương giao với kiểu nhân vật phản diện, lưỡng diện hoặc tha hóa. Qua sự khái quát đó, Nguyễn Đức Hạnh đã phần nào chỉ ra và phân tích cặn kẽ những điểm nổi bật của các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai. Có thể thấy đã có nhiều bài viết và một số đề tài nghiên cứu nhưng nhìn chung lại chưa có nhiều những công trình nghiên cứu tổng thể, đầy đặn về tiểu thuyết Chu Lai nói chung và nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai nói riêng. Đây thật sự là “khoảng trống” mà những ai quan tâm đến tiểu thuyết Chu Lai cần phải bổ sung. Thực hiện đề tài “Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai”, dựa trên cơ sở những ý kiến đã có được, chúng tôi đi vào tìm hiểu một cách khá khái quát về nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai với mong muốn góp một tiếng nói để chỉ ra những điểm nổi bật và thành công trong hình tượng nhân vật của nhà văn quân đội này. 3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Là một nhà văn có sức viết khỏe, Chu Lai viết và khẳng định tài năng của mình ở khá nhiều tiểu thuyết. Có thể thấy nổi rõ lên thành đề tài chủ đạo trong sáng tác của nhà văn quân đội này không gì khác hơn là đề tài chiến tranh và người lính, mà theo như cách mọi người vẫn gọi đùa thì Chu Lai là nhà văn “thâm canh” ở mảng đề tài này. Thế nhưng những vấn đề đặt ra trong tiểu thuyết Chu Lai lại khá phong phú. Dù viết về giai đoạn trong hay sau chiến tranh thì người đọc luôn nhận thấy rằng cuộc sống và con người trong tiểu thuyết Chu Lai không hề đơn điệu mà luôn được nhà văn nhìn nhận và thể hiện ở nhiều chiều hướng và góc độ khác nhau. Từ đó, thế giới nhân vật hiện lên trong tiểu thuyết Chu Lai cũng vô cùng đa dạng. Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai với đối tượng khảo sát là những tiểu thuyết đã xuất bản của ông. Trong đó, chúng tôi tập trung nhiều vào những tác phẩm được cho là tiêu biểu như Nắng đồng bằng, Sông xa, Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng, Phố, Cuộc đời dài lắm, Ba lần và một lần. Bên cạnh đó, khi tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai chúng tôi cũng có sự liên hệ đến nhân vật trong một số tiểu thuyết của các tác giả khác cùng thời và viết cùng đề tài để tìm ra những đặc điểm riêng của nhân vật tiểu thuyết Chu Lai. Với khoảng thời gian trên dưới hai mươi năm, số lượng tiểu thuyết xuất bản của Chu Lai vượt trên con số hàng chục và số lần tái bản cũng ở mức cao. Từ Nắng đồng bằng đến Hùng Karo đánh dấu quá trình “lăn xả” vào văn chương hăng hái và nhiệt huyết của nhà văn quân đội Chu Lai. Nhận định một cách khách quan, có những tác phẩm được đánh giá cao cũng như có tác phẩm chưa thật sự tạo được tiếng vang nhưng nhìn chung sự ra đời của số lượng lớn tiểu thuyết Chu Lai trong khoảng thời gian nhất định đã cho thấy sự đón nhận của đông đảo người đọc đối với tiểu thuyết của nhà văn quân đội này. Như đã nói, nhân vật trong các tiểu thuyết của Chu Lai chủ yếu là nhân vật người lính nên khi
- thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi cũng chủ yếu tập trung vào nhân vật người lính để từ đó khái quát lên những đặc điểm của nhân vật, nêu ra những vấn đề nhà văn thể hiện qua hình tượng nhân vật cũng như chỉ ra những thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết của Chu Lai. Có được một tiểu thuyết hay không phải là điều dễ dàng, trong đó việc xây dựng được những hình tượng nhân vật thành công càng không phải là điều đơn giản. Ở tiểu thuyết Chu Lai, người đọc nhận thấy các nhân vật đều được nhà văn chăm chút kĩ càng và ít nhiều đều để lại những ấn tượng nhất định trong lòng người đọc. Có thể khẳng định rằng nhân vật là một trong những yếu tố nghệ thuật thành công của tiểu thuyết Chu Lai. 4.Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, khi thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự ra đời và đặc điểm của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai trong tương quan với hoàn cảnh xã hội và văn học Phương pháp phân tích: phương pháp phân tích được sử dụng nhiều trong quá trình khảo sát để đi sâu vào tìm hiểu nhân vật, từ đó khái quát lên thành những đặc điểm nổi bật của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai. Phương pháp so sánh: phương pháp so sánh được sử dụng để khu biệt những đặc điểm của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai với nhân vật của các nhà văn khác cùng thời và viết cùng đề tài. Ngoài ra, các phương pháp và thao tác khác cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài như tổng hợp, thống kê, vận dụng những lí thuyết của thi pháp học trong nghiên cứu nhân vật,… 5. Đóng góp của luận văn Như đã nói, nhân vật là yếu tố nghệ thuật không thể thiếu trong tác phẩm văn học, đặc biệt đối với tiểu thuyết thì vấn đề nhân vật càng có vai trò quan trọng. Thông qua hình tượng nhân vật người đọc nhận ra được những vấn đề nhà văn quan tâm và muốn chuyển tải. Là một nhà văn đi qua chiến tranh, sống và viết phần nhiều bằng sự trải nghiệm và chiêm nghiệm, Chu Lai đã xây dựng được những hình tượng nhân vật thành công và qua những nhân vật đó ông luôn thể hiện sự nhìn nhận và trăn trở của mình về những vấn đề cuộc sống, con người. Tiếp xúc với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, người đọc thấy được cuộc sống không lúc nào bình lặng, cũng như con người cả trong và sau chiến tranh luôn phải đối mặt với những vấn đề không hề đơn giản, dễ dàng. Chiến tranh là một hoàn cảnh
- không bình thường, ở đó hàng ngày, hàng giờ con người phải luôn đối mặt với mất mát, hi sinh thế nhưng trong cuộc sống thời bình thì vấn đề mà con người, nhất là những con người vừa bước ra từ cuộc chiến gặp phải cũng có lắm mất mát và đau đớn. Vì thế, cuộc sống và con người trong tiểu thuyết luôn được Chu Lai nhìn nhận bằng cái nhìn đa diện, đa chiều mà cái trục chính dùng để soi chiếu không gì khác hơn chính là phẩm chất người lính, những người đã hi sinh rất nhiều cho cuộc chiến để rồi khi chiến tranh kết thúc không ít người trong số họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ hay sa ngã vì nhiều lí do. Trên cơ sở đó, qua việc tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai chúng tôi không chỉ nhằm khái quát những đặc điểm chung của hệ thống nhân vật cũng như chỉ ra những thành công nghệ thuật của nhà văn mà còn nhằm vào một mục đích không kém phần quan trọng khác. Tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai để thấy được cái nhìn đa diện và nhân bản của nhà văn về con người nói chung và người lính nói riêng ở cả hai giai đoạn trong và sau chiến tranh. Chiến tranh luôn đầy rẫy hiểm nguy, chết chóc nhưng cuộc sống đời thường cũng là một hành trình không hề đơn giản đối với những nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai, nhất là những nhân vật người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến và phải đối mặt với rất nhiều những vấn đề có tên và không tên để có thể hòa nhập với cuộc sống mới thời hậu chiến. Tìm hiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai để một lần nữa thấy được rằng dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì bản lĩnh và phẩm chất người lính cũng luôn là vấn đề được nhà văn quan tâm. Tiểu thuyết Chu Lai đã xây dựng thành công những hình tượng nhân vật mà thông qua đó nhà văn đã thể hiện một cách sinh động, chân thực nhiều mảng hình ảnh về con người và cuộc sống. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn “Nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai” gồm có ba chương: Chương 1- Nhân vật văn học và diện mạo nhân vật văn học trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 Chương 2- Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai Chương 3- Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai
- CHƯƠNG 1: NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ DIỆN MẠO NHÂN VẬT VĂN HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 1.1. Nhân vật văn học và nhân vật văn học trong tiểu thuyết 1.1.1. Nhân vật văn học 1.1.1.1. Văn học là hoạt động sáng tạo nghệ thuật của nhà văn và tác phẩm văn học là thành quả của hoạt động sáng tạo đó. Tác phẩm văn học được tạo nên từ sự phức hợp của nhiều yếu tố dưới ngòi bút nghệ thuật của nhà văn, tất nhiên trong đó không thể thiếu yếu tố nhân vật. “Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng” [53,277]. Thật vậy, một tác phẩm văn học có thể có nhiều hoặc ít nhân vật nhưng không tác phẩm nào lại hoàn toàn không có nhân vật. Nhân vật hiển nhiên xuất hiện trong tác phẩm như một mặc định nghệ thuật. Và trong tác phẩm văn học thì “hình tượng nhân vật là kết quả của sự sáng tạo có tính chất hư cấu của tác giả về những đối tượng có một đời sống riêng” [19,184]. “Những đối tượng” này có thể là con người nhưng cũng có thể là con vật, đồ vật hay thiên nhiên được nhân hóa giống như con người. Tuy nhiên khái niệm “nhân vật” chủ yếu nhất vẫn được dùng để chỉ những con người được nói đến trong tác phẩm văn học vì “nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học” [53,277]. Nhân vật - con người ở đây có thể là nhân vật được miêu tả đầy đủ từ tên tuổi, lai lịch, ngoại hình đến hành động, nội tâm,…vì thế chúng hiện lên trong tác phẩm như những con người thật của cuộc đời. Hoặc đó cũng có thể là những nhân vật được nhắc đến gián tiếp qua lời của nhân vật khác hay chỉ được thể hiện qua các yếu tố như giọng điệu, cảm xúc, nỗi niềm…Chính vì vậy, hình tượng nhân vật được xây dựng trong tác phẩm văn học luôn đa dạng. Trong tác phẩm văn học, nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng. Nó là sự hình tượng hóa và cụ thể hóa ý tưởng nghệ thuật của nhà văn, là nơi để qua đó nhà văn chuyển tải và người đọc tiếp nhận những vấn đề nội dung tác phẩm. Do đó, nhân vật luôn là yếu tố được nhà văn dụng công xây dựng và là yếu tố thường để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Nhân vật nói lên sự nhìn nhận và đánh giá về con người của nhà văn nhưng nó không đơn giản chỉ là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người mà nhân vật còn là nơi khái quát và thể hiện mọi giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn học cũng như tư tưởng của nhà văn. Có thể nói tài năng của nhà văn và sự thành công của tác phẩm thể hiện ở chỗ nhà văn có xây dựng được những nhân vật thành công hay không. Không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi của nhà văn luôn gắn liền với tên tuổi của nhân vật này hay nhân vật khác do nhà văn tạo ra và khi nhắc đến nhà văn thì người đọc lại nhớ ngay đến những nhân vật điển hình - đứa
- con tinh thần ưu tú của họ. Chính sự thành công trong xây dựng hình tượng nhân vật là một dấu hiệu chứng tỏ tài năng nghệ thuật của nhà văn. Không chỉ là con người được miêu tả trong văn học bằng các phương tiện văn học, không chỉ là tiêu chí đánh giá tài năng nghệ thuật của nhà văn, nhân vật trong tác phẩm văn học còn là phương tiện khái quát hiện thực. “Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện những hiểu biết, những ao ước và kì vọng về con người” [53,279]. Nói cách khác nhân vật là phương tiện nghệ thuật để qua đó nhà văn khái quát các vấn đề đời sống và con người, là nơi để nhà văn gởi gắm những quan niệm, những băn khoăn, trăn trở trước các vấn đề cuộc sống. Tùy vào mục đích nghệ thuật, nhà văn có thể xây dựng những hình tượng nhân vật khác nhau và những nhân vật được xem là thành công, có sức sống với thời gian thường là những nhân vật được xây dựng với những nét tính cách độc đáo riêng biệt. Nhân vật trong tác phẩm văn học là một hiện tượng vừa có tính độc đáo lại vừa đa dạng. Vì vậy việc phân chia loại hình nhân vật cũng không phải là điều dễ dàng và cũng không thể dựa vào một tiêu chí duy nhất. Tuy thế, dựa vào những tiêu chí nhất định có thể phân chia nhân vật trong tác phẩm văn học thành các loại nhân vật khác nhau như nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm (dựa vào vai trò của nhân vật đối với kết cấu và cốt truyện của tác phẩm); nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật trung gian (dựa vào phương diện hệ tư tưởng và quan hệ đối với lí tưởng); nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng (dựa vào cấu trúc nhân vật)… Với những đặc điểm và vai trò như thế, rõ ràng trong tác phẩm văn học nhân vật là một yếu tố không thể thiếu. Dù văn học có những cách tân hay thay đổi thế nào thì hình tượng nhân vật vẫn là cơ sở để thông qua đó nhà văn thể hiện những vấn đề đời sống một cách nghệ thuật. Trong tác phẩm văn học nhân vật bao giờ cũng là nơi tập trung mọi sự miêu tả của nhà văn và sự chú ý của người đọc. 1.1.1.2. Bàn về vấn đề nhân vật, tuy không phải là sự tranh luận gay gắt nhưng lí luận văn học vẫn tồn tại hai ý kiến khác nhau về nhân vật trong tác phẩm văn học và nhân vật văn học. Theo suy nghĩ thông thường, người ta vẫn quen gọi tất cả những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm văn học là nhân vật văn học. Cách gọi như thế từ trước đến giờ vẫn được chấp nhận, tuy nhiên có lẽ nó chưa thể hiện được hết nội hàm của khái niệm nhân vật văn học. Rõ ràng xét trên phương diện lí luận, ta thấy khái niệm nhân vật văn học không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học có thể có một, một số nhân vật hay có đến hàng chục, thậm chí hàng trăm nhân vật. Chẳng hạn những tác phẩm có qui mô lớn như Chiến tranh và hòa bình (L.Tônxtôi) có hơn 570 nhân vật hay Thủy hử (Thi Nại Am) cũng có hơn
- 400 nhân vật nhưng không phải tất cả những nhân vật đó đều là nhân vật văn học. Vậy nhân vật văn học là gì? Nhân vật văn học có gì khác so với nhân vật trong tác phẩm văn học? Trước hết, nhân vật văn học là nhân vật trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học không gì khác hơn chính là những nhân vật đã được nhà văn xây dựng trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học để chuyển tải những giá trị tư tưởng, thẩm mĩ và khái quát các vấn đề đời sống. Tác phẩm văn học thường không chỉ có một mà có nhiều nhân vật. Các nhân vật này tạo thành một hệ thống nhân vật hoàn chỉnh và chính mối liên hệ giữa chúng thông qua những sự kiện đã làm nên nội dung tác phẩm. Mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm thường có một vai trò nhất định nhưng không phải bất cứ nhân vật nào cũng được chăm chút như nhau. Có nhân vật được nhà văn miêu tả kĩ càng với đầy đủ các yếu tố từ lai lịch, ngoại hình, hành động đến diễn biến tâm tư, tình cảm nhưng cũng có nhân vật chỉ được nhắc thoáng qua. Vì thế nên có nhân vật xuất hiện đậm nét nhưng cũng có nhân vật mờ nhạt. Và cũng vì thế mà không phải bất cứ nhân vật nào xuất hiện trong tác phẩm văn học cũng là nhân vật văn học. Nhân vật văn học vốn có những đặc trưng riêng của nó. Nhìn chung cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về nhân vật văn học. Xét về loại hình nhân vật thì nhân vật văn học có thể là nhân vật trung tâm, nhân vật chính hay thậm chí cũng có thể là nhân vật phụ. Nhân vật văn học cũng có thể là nhân vật chính diện hay nhân vật phản diện nhưng đặc biệt một nhân vật chỉ trở thành nhân vật văn học khi nó thật sự “sống” trên trang viết. Nói cách khác nhân vật văn học phải được xây dựng một cách chân thực với những nét tính cách rõ rệt, với những hành động và tâm tư, suy nghĩ và tình cảm đậm chất người chứ không phải chỉ là những nhân vật mờ nhạt hay minh họạ cho một tư tưởng nào đó của nhà văn. Trong tác phẩm văn học, nhân vật văn học hiện lên với tư cách vừa là “những bản dập của những con người sống” vừa là “những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả” (dẫn lại theo Pospelov, [74,210]). Đã là nhân vật văn học thì một yêu cầu tất yếu là nhân vật đó phải có sức sống, phải chân thực. Nhân vật có thể xuất hiện với tần số ít hoặc nhiều trong tác phẩm, cuộc đời nhân vật có thể ngắn hay dài, có thể yên bình hay trải qua những biến cố, thăng trầm nhưng một điều bắt buộc là nhân vật phải hiện lên sinh động và chân thực. Những suy nghĩ, hành động của nhân vật trong tác phẩm phải xuất phát từ động cơ, tình cảm của bản thân nhân vật và phù hợp với sự phát triển tính cách nhân vật ngay từ đầu được nhà văn thể hiện chứ đó không thể là sự gán ghép tùy tiện của nhà văn. Nhân vật văn học vì thế không thể là những nhân vật thụ động, mờ nhạt hay đơn giản chỉ mang tính minh họa cho một ý đồ nghệ thuật nào đó mà nó sẽ có một quá trình phát triển tính cách và có con đường đi riêng của mình trong tác phẩm. Tất nhiên quá trình phát triển tính cách này không thể hoàn toàn do nhân vật tự quyết mà phải được diễn ra dưới ngòi bút có chủ ý hay không chủ ý của
- nhà văn nhưng nó phải phù hợp với logic vận động của tính cách nhân vật. Điều này cũng đồng nghĩa với việc khẳng định yêu cầu về tính cách là một yêu cầu thiết yếu đối với một nhân vật văn học. Thuật ngữ tính cách ở đây được hiểu với nghĩa là một phương diện quan trọng của nhân vật để phân biệt với các phương diện khác như chân dung, ngoại hình hay hành động. Tính cách là nhân vật được khắc họa có chiều sâu với những đặc điểm rõ nét, là cơ sở để nhận ra nhân vật và để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác. Nhân vật văn học là nhân vật phải có tính cách và tính cách này cũng phải được thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Nhân vật văn học còn là nhân vật có đời sống nội tâm phong phú. Đời sống nội tâm này thể hiện ở những suy nghĩ, tình cảm, ở diễn biến tâm trạng của nhân vật trong quá trình tác phẩm. Mỗi nhân vật văn học phải là một con người với những băn khoăn, trăn trở nội tâm, với những suy nghĩ rất người chứ đó không thể là những nhân vật chỉ được chăm chút bề ngoài mà nội tâm trống rỗng hay chỉ được nói đến một cách sơ lược. Nếu không được khắc họa thế giới nội tâm, không có đời sống tinh thần phong phú thì nhân vật chỉ là những hình mẫu mang tính đơn điệu hay chỉ có tính chất phụ họa mà không có chiều sâu và độ sắc nét cần có của một nhân vật văn học. Vì thế, nhân vật đó cũng không để lại nhiều ấn tượng hay thậm chí không đọng lại được lâu trong tâm thức người đọc. Sự khác nhau của hình tượng nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân, Từ Hải và Kim Trọng trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du có lẽ cũng chính ở điểm này. Nếu như Thúy Vân hay Kim Trọng được thể hiện chủ yếu qua những sự kiện tác phẩm, qua hành động hay lời nói mà ít được chú trọng thể hiện nội tâm thì ngược lại Thúy Kiều, Từ Hải là những nhân vật văn học có đời sống nội tâm phong phú. Thế giới nội tâm của nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du khắc họa kĩ càng và sắc nét từ buổi đi hội đạp thanh gặp nấm mồ Đạm Tiên và chàng nho sinh Kim Trọng đến những rung động và say đắm trong tình yêu, những dằn vặt và đau đớn khi phải trao duyên lại cho Thúy Vân để làm tròn chữ hiếu. Để rồi từ đó trong suốt mười lăm năm lưu lạc “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, trải qua không biết bao nhiêu đắng cay và xót xa tủi nhục không lúc nào nội tâm nhân vật không có những trăn trở, dằn vặt, những suy nghĩ rất con người. Chính sự phong phú trong đời sống nội tâm này đã làm cho hình tượng nhân vật Thúy Kiều trở nên chân thực và sinh động hơn bao giờ hết. Là một tiểu thư con nhà nền nếp, “tường đông ong bướm đi về mặc ai” nhưng khi phải đem thân vào chốn phong trần và đối mặt với đủ mọi hạng người trong xã hội thì suy nghĩ và hành động của Thúy Kiều cũng thật phù hợp và “đời thường” như những con người thật của cuộc đời. Nhân vật Từ Hải cũng được Nguyễn Du xây dựng với những diễn biến nội tâm phong phú. Điều này đã làm cho Thúy Kiều và Từ Hải trở thành những nhân vật văn học sinh động và có sức sống mạnh mẽ qua cả thời gian và không gian. Và như thế càng có cơ sở để khẳng định rằng đời sống nội tâm là một đặc trưng tiêu biểu của nhân vật văn học.
- Tóm lại, tuy không có sự đối lập một cách gay gắt nhưng khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học và nhân vật văn học là hai khái niệm không hoàn toàn giống nhau. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học là một khái niệm rộng bao hàm cả khái niệm nhân vật văn học nhưng ngược lại khái niệm nhân vật văn học lại có một độ sâu riêng mà khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học có thể không thể hiện được trọn vẹn. Nhân vật văn học là nhân vật trong tác phẩm văn học được nhà văn xây dựng với những nét tính cách tiêu biểu và đời sống nội tâm phong phú. Nhân vật văn học hiện lên trong tác phẩm vừa là những con người văn học để qua đó nhà văn thể hiện và chuyển tải ý đồ nghệ thuật vừa là những con người chân thực như con người thật của cuộc đời. Nhân vật văn học vì thế bao giờ cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Có thể mượn ý kiến của Phùng Quý Nhâm sau đây như một nhận định có tính chất khái quát để kết luận về nhân vật văn học: - Nhân vật văn học là nhân vật phải có những nét tính cách hoặc tính cách nhất định được nhà văn thể hiện trong tác phẩm. - Nhân vật văn học là nhân vật phải có đời sống tâm linh, một đời sống tư tưởng - tình cảm phong phú. - Nhân vật văn học là nhân vật phải để lại ở người đọc những ấn tượng nhất định, ấn tượng này có thể là thiện cảm hay ác cảm. (Bài giảng chuyên đề Cao học 2010) 1.1.2. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết “Tiểu thuyết là một thể loại lớn trong phương thức tự sự, có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động, tái hiện những bức tranh về đời sống thông qua những tính cách và hoàn cảnh điển hình rộng rãi” [7,78]. Trong tiến trình văn học tiểu thuyết đặc biệt phổ biến trong thời kì cận và hiện đại. Ngày nay tiểu thuyết vẫn là mảnh đất được nhiều nhà văn hướng đến và là thể loại thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng văn học. Nếu như nhân vật là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong tác phẩm văn học thì tiểu thuyết lại càng không thể không có nhân vật. Hơn nữa với đặc trưng là thể loại có qui mô lớn nên trong tiểu thuyết số lượng nhân vật thường nhiều hơn và được xây dựng đậm nét hơn so với nhân vật trong các thể loại văn học khác. Ở tiểu thuyết, nhân vật hầu như luôn được nhà văn miêu tả tỉ mỉ từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết cũng vô cùng quan trọng. Điều này đã được khẳng định một cách rõ ràng trong ý kiến của nhà văn Nguyễn Đình Thi: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật viết tiểu thuyết là miêu tả con người và con đường đi của họ trong xã hội. Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề phải thông qua nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc. Một cuốn tiểu
- thuyết có đứng được hay không là ở chỗ nó có tạo ra được những nhân vật làm cho bạn đọc nhớ được hay không” [76,103]. Đi vào tìm hiểu nhân vật văn học trong tiểu thuyết (xin được gọi tắt là nhân vật tiểu thuyết), chúng tôi nhận thấy nhân vật văn học trong tiểu thuyết trước hết là nhân vật văn học. Vì thế, nó có những đặc điểm của nhân vật văn học nói chung nhưng bên cạnh đó nhân vật văn học trong tiểu thuyết còn mang những đặc trưng riêng. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết trước tiên cũng phải là một nhân vật sống. Khái niệm “nhân vật sống” này được lí giải khá rõ trong ý kiến của nhà văn Vũ Bằng: “Một nhân vật sống là một nhân vật phản chiếu cái hình ảnh của đời, là một nhân vật như chúng ta đây, một nhân vật rất gần, rất thân thiết chúng ta, một nhân vật mà nhìn vào lòng thấy như nhìn vào lòng ta vậy. Một nhân vật sống cứ không phải nói nhiều, hò hét nhiều, hành động nhiều nhưng tự gây ra sự tình, biến cố, chỉ định lấy những cảnh ngộ và cảm nghĩ rất phiền phức. Sống ở đây là sống cả vật chất lẫn tinh thần, sống cái đời sống bên ngoài và sống cả cái đời sống bên trong nữa, mà có khi lại sống cái đời sống bên trong nhiều hơn bên ngoài” [6,73]. Hay nói cách khác, “nhân vật sống” trong tiểu thuyết là nhân vật được khắc họa một cách sinh động và chân thật, vì thế hình ảnh nhân vật hiện lên trong tác phẩm cũng thật cụ thể và sắc nét. Bên cạnh đó, nhân vật còn phải có một đời sống nội tâm phong phú. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết không thể xa lạ mà phải được đặt trong những mối quan hệ cụ thể, đời thường. Nó không gì khác hơn chính là hình ảnh của con người đời thường với những nỗi niềm, suy tư, trăn trở được phản chiếu thông qua lăng kính văn học. Chính những đặc điểm này đã làm cho nhân vật văn học xuất hiện trong tiểu thuyết trở nên cụ thể và chân thực như những con người thật của cuộc đời. Những nhân vật văn học trong tiểu thuyết thường không nguyên phiến, một chiều mà nó lại hiện lên với tất cả sự phong phú, sâu sắc. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết thường không chỉ có một tính cách duy nhất mà nó có thể mang trong mình tất cả những đức tính tốt xấu đời thường như những con người thật của cuộc đời. Những nhân vật này có thể vừa là thánh nhân lại vừa là những kẻ tính toán nhỏ nhen, ti tiện, có thể tiêu biểu cho một phẩm chất nào đó nhưng không hoàn toàn chỉ mang một phẩm chất duy nhất. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết phải là sự tổng hợp tất cả những phẩm chất của con người. Nói như nhà nghiên cứu M.Bakhtin thì “nhân vật tiểu thuyết cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn đặc điểm phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc” [4,31]. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết là nhân vật có quá trình phát triển tự thân. Tất nhiên không có nhân vật tiểu thuyết nào là tự thân sinh ra mà không do nhà văn sáng tạo cũng như không có tính cách nào của nhân vật tiểu thuyết là tự có mà không xuất phát từ ý định ban đầu của nhà văn. Tuy
- nhiên, vì có một cuộc đời khá dài và sinh động như cuộc đời thật nên nhân vật văn học trong tiểu thuyết cũng có một quá trình phát triển tính cách như con người thật. Và xét ở một góc độ nhất định thì quá trình phát triển tính cách này nhiều khi không phụ thuộc vào ý định chủ quan ban đầu của nhà văn mà lại do bản thân nhân vật qui định, lại phụ thuộc vào những hoàn cảnh, sự kiện tác động đến nhân vật và những gì mà nhân vật đã thể hiện trước đó. Nhiều hình tượng nhân vật tiểu thuyết trong quá trình phát triển tính cách của mình đã trở thành những hình tượng độc lập hay thậm chí có thể đối lập với ý định ban đầu của nhà văn. Điều này chứng tỏ bản thân nhân vật văn học trong tiểu thuyết có một sức sống nội tại và có khả năng phong phú trong việc tham gia vào các hành động, các tình huống để có thể tìm lấy cho mình con đường đi phù hợp với quá trình phát triển tính cách chứ không chỉ là hoàn toàn thụ động. Là yếu tố nghệ thuật do nhà tiểu thuyết tạo ra, tất nhiên nhân vật văn học trong tiểu thuyết ít nhiều phải là hình ảnh, là hiện thân cho tư tưởng của nhà văn. Thế nhưng tư tưởng của nhân vật văn học trong tiểu thuyết không phải bao giờ cũng luôn đồng nhất với tư tưởng nhà văn. Khi nhà văn tạo ra nhân vật văn học nghĩa là nhà văn đã tạo cho nhân vật một hình hài và một đời sống riêng, từ đó nhân vật sẽ có thể định liệu lấy số phận của mình một cách hợp lí. Về nhân vật trong tiểu thuyết, nhà nghiên cứu M.Bakhtin có nêu lên nhận xét: “Trong tiểu thuyết con người được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ, tính chủ động này sẽ làm biến đổi hình tượng con người” [4,73]. Có thể thấy tính chủ động được nói đến ở đây không gì khác hơn chính là khả năng phát triển tự thân của nhân vật văn học trong tiểu thuyết. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết không thể là những con người thụ động, là sự minh họa đơn thuần cho tư tưởng của nhà văn mà nó phải là những con người như con người thực thụ của cuộc đời và “nhân vật tiểu thuyết thường ở mức này hay mức kia phải là một nhà tư tưởng”[4,74]. Biết được điều này, chúng ta càng thấy được rằng hình tượng nhân vật văn học trong tiểu thuyết luôn sinh động và có sự vận động về tính cách, tư tưởng cũng như “nhiệm vụ của nhà tiểu thuyết là phải mở đường cho nhân vật phát triển theo đúng logic nội tại của nó và cũng là logic của đời sống” [7,97]. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết còn là những con người nếm trải. Nếm trải ở đây được hiểu với nghĩa là sự đối mặt với những biến cố, sự kiện của cuộc đời mà nhân vật tiểu thuyết trải qua. Tiểu thuyết là thể văn tự sự xây dựng khá tỉ mỉ về cuộc đời nhân vật với nhiều sự kiện diễn ra trong một đoạn đời hay trong cả cuộc đời của nhân vật từ lúc thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Có thể thấy dù tiểu thuyết ít hay nhiều trang, đề cập đến khoảng thời gian ngắn hay dài thì nhân vật văn học trong tiểu thuyết luôn có một cuộc đời mà thường thì cuộc đời này lại ít khi nào bình lặng. Cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết luôn gắn với những biến cố, thăng trầm, ở đó có cả những điều được và mất, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, cay đắng và vinh quang. Dường như tất cả những buồn vui
- sướng khổ của cuộc đời con người đều được nhà văn thể hiện ở cuộc đời của nhân vật tiểu thuyết. Có thể thấy trong quá trình diễn biến cốt truyện, nhân vật tiểu thuyết luôn phải đối mặt với hàng loạt những sự kiện, những vấn đề có khi quyết liệt, có khi lại diễn ra âm thầm. Từ đầu đến cuối, nhân vật văn học trong tiểu thuyết như một con người luôn nếm trải những điều cuộc đời tác động và trưởng thành lên sau những tác động ấy. Đây là một đặc trưng nổi bật của nhân vật văn học trong tiểu thuyết so với nhân vật của các thể loại tự sự khác. Nếu như nhân vật của các thể văn tự sự khác thường là nhân vật hành động thì nhân vật tiểu thuyết lại là những con người nếm trải. Nói như thế không có nghĩa là nhân vật trong tiểu thuyết không có hành động, trái lại ở tiểu thuyết hành động của nhân vật được xây dựng khá nhiều và hành động còn là yếu tố làm nên diễn biến cốt truyện. Nhưng điều quan trọng là sau những hành động ấy thì cái chính mà các nhà tiểu thuyết muốn thể hiện ở nhân vật là “miêu tả nhân vật như một con người đang trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo”[53,387]. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết vì thế luôn là những con người nếm trải, chịu mọi sự tác động của cuộc đời và lớn lên cùng với những tác động ấy. Tóm lại, có thể thấy trong tiểu thuyết nhân vật văn học được nhìn nhận, miêu tả cặn kẽ từ góc độ đời tư. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết là nhân vật sinh động như con người thật của cuộc đời, là nhân vật có quá trình phát triển tự thân và là nhân vật nếm trải. Đây là những đặc trưng của nhân vật văn học trong tiểu thuyết, làm cho nhân vật tiểu thuyết có phần đặc biệt hơn so với nhân vật trong các thể loại khác. Nhưng thật khách quan mà nói, từng đặc điểm trên có lẽ cũng không phải chỉ riêng có ở nhân vật tiểu thuyết. Nhân vật văn học trong truyện ngắn, truyện vừa cũng có thể là nhân vật sống, nhân vật có quá trình phát triển tính cách hay chịu nhiều sự tác động của cuộc đời. Như thế thì đâu mới là điều đặc biệt nhất của nhân vật văn học trong tiểu thuyết? Có lẽ điều làm nên sự đặc biệt cho nhân vật văn học trong tiểu thuyết chính là khả năng tổng hợp nhiều đặc điểm của các loại nhân vật trong nhân vật tiểu thuyết. Nhân vật tiểu thuyết không hiện lên như nhân vật chỉ mang một đặc điểm mà nó còn có khả năng to lớn trong việc tổng hợp các đặc điểm của các nhân vật trong các thể loại văn học. Nghiên cứu về tiểu thuyết, nhà nghiên cứu M.Bakhtin đã từng nhận định “tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình” [4,21]. Nhận định này cũng đồng nghĩa với việc khẳng định rằng thể loại tiểu thuyết vẫn còn nhiều tiềm năng và vẫn là “miền đất hứa” của văn học nói chung. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết vì thế cũng sẽ còn hứa hẹn rất nhiều điều mới mẻ trong nghiên cứu, mà có lẽ một trong những điều mới mẻ ấy là tính chất chưa hoàn tất. Bakhtin cho rằng nhân vật trong tiểu thuyết còn là một điều bí ẩn, ở nó bao giờ cũng còn lại “những tiềm năng chưa thành hiện thực và những đòi hỏi chưa được đáp ứng [4,72]”. Điều này có nghĩa nhân vật văn học trong tiểu thuyết không hiện ra như một con người đã giải quyết xong xuôi, rốt ráo mọi vấn đề. Tiểu
- thuyết có thể đã kết thúc, cuộc đời của các nhân vật tiểu thuyết có thể đã được nhà văn giải quyết theo xu hướng “có hậu” nhưng dường như nó vẫn chưa hoàn toàn xong xuôi. Thành công của nhà tiểu thuyết chính là ở chỗ tạo nên được sức ám ảnh và buộc người đọc phải suy nghĩ về nhân vật sau khi ông ta đã “mở nút” cho những biến cố của cuộc đời nhân vật. Nói cách khác, sức sống của nhân vật văn học trong tiểu thuyết không chỉ được gói gọn ở việc nhà văn đã giải quyết cuộc đời nhân vật ra sao mà nó được thể hiện ở chỗ nhân vật đó tồn tại như thế nào trong suy nghĩ của người đọc. Ở tiểu thuyết, không phải bất cứ nhân vật nào trong quá trình xây dựng được nhà văn giải quyết rốt ráo mọi vấn đề cũng là nhân vật thành công và để lại ấn tượng cho người đọc. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết là nhân vật phải có sức gợi, phải tiềm tàng nhiều khả năng trong suy nghĩ và hành động. Nó chỉ thật sự là những nhân vật thành công và có được sức sống mạnh mẽ khi nó “thực sự là những con người từ đời sống bước vào trang văn và từ trang văn trở lại với cuộc đời”[1]. Nhân vật văn học trong tiểu thuyết rõ ràng có những ưu thế và tiềm năng nhất định so với nhân vật của các thể loại văn học khác. Có lẽ đây chính là một trong những lí do để tiểu thuyết luôn là thể loại thu hút được nhiều sự quan tâm của người đọc. Cùng với sự phát triển của văn học, nghệ thuật tiểu thuyết cũng có nhiều đổi mới và sự đổi mới này trước hết thường được diễn ra ở yếu tố nhân vật. Một trong những sự đổi mới về nhân vật tiểu thuyết được nói đến là quan điểm của các nhà tiểu thuyết mới ở Pháp thế kỉ XX. Các nhà tiểu thuyết này muốn loại bỏ nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết, muốn thay thế thế giới nhân vật là con người bằng thế giới đồ vật hay ngôn từ. Tuy nhiên thực tế sáng tác đã chứng minh rằng đây là một điều không thể thực hiện. Tiểu thuyết không thể không có nhân vật. Nhân vật là yếu tố nghệ thuật để qua đó nhà tiểu thuyết thể hiện và chuyển tải những vấn đề, tư tưởng về cuộc sống, con người. Nhân vật cũng chính là chiếc cầu nối để người đọc bước vào và tiếp cận với những vấn đề nội dung tác phẩm. Và đối với bản thân cấu trúc của thể loại tiểu thuyết thì nhân vật lại luôn đóng một vai trò quan trọng. Biết được điều này cũng như nắm được những đặc trưng của nhân vật văn học trong tiểu thuyết, chúng ta càng thấy được rằng trong tiểu thuyết nhân vật là yếu tố không thể phủ nhận. Đối với nhân vật, các nhà tiểu thuyết chỉ có thể đổi mới bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật trong quá trính xây dựng. Nhân vật hiển nhiên xuất hiện trong tiểu thuyết và nó cũng hiển nhiên trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá sự thành công của tác phẩm và tài năng nghệ thuật của nhà tiểu thuyết nói chung.
- 1.2. Diện mạo nhân vật văn học trong tiểu thuyết sau 1975 1.2.1. Nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 Năm 1975 là thời điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lịch sử dân tộc. Thời điểm này với chiến thắng mùa xuân lịch sử đã mở ra một thời kì mới và đem lại những chuyển biến sâu sắc trong mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có cả văn học. Văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng trong giai đoạn này đã có những bước chuyển mình đáng kể. Dường như không quá bỡ ngỡ trước những thay đổi lớn lao, tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 tiếp tục phát triển trên cái nền vững chải của tiểu thuyết giai đoạn trước đồng thời có những bước chuyển cho phù hợp với tình hình mới. Sau ba mươi năm dốc hết sức phục vụ cho lí tưởng độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở giai đoạn sau 1975 tiểu thuyết dường như đã có điều kiện để phát triển với tất cả ưu thế và nội lực tiềm tàng của nó. Nhìn chung, đây là giai đoạn tiểu thuyết “bội thu” về nhiều mặt: tác giả, số lượng và chất lượng tác phẩm. 1.2.1.1. Về đội ngũ tác giả tiểu thuyết, có thể thấy giai đoạn sau 1975 đánh dấu sự thành công của rất nhiều những tên tuổi tác giả tiểu thuyết như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Trọng Oánh, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng,…Trong số đó, Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu là hai tác giả đã rất thành công ở giai đoạn trước và tiếp tục có nhiều đóng góp cho tiểu thuyết giai đoạn này. Tiếp tục những Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính của giai đoạn trước 1975, Nguyễn Minh Châu liên tục cho ra đời nhiều tiểu thuyết như Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu khẳng định sức viết cũng như tình cảm đối với cuộc sống và con người sau chiến tranh. Có thể nói Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn đi tiên phong và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và nhất là thời kì đổi mới văn học. Cùng với Nguyễn Minh Châu, trong giai đoạn này nhà văn Nguyễn Khải có Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Điều tra về một cái chết, Một cõi nhân gian bé tí. Với những sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Khải dường như đang tìm đến sự thể hiện mới cho tiểu thuyết khi ông cố gắng và thành công trong việc đổi mới tiểu thuyết ở một số phương diện nghệ thuật. Đồng thời, cũng phải khẳng định Nguyễn Khải là một trong những nhà văn đi đầu trong việc đưa tiểu thuyết trở về với cảm hứng đời thường và các đề tài thế sự ở giai đoạn sau 1975. Bên cạnh những nhà văn đã thành danh ở giai đoạn trước như Nguyễn Khải hay Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết giai đoạn này còn đánh dấu sự góp mặt của đội ngũ đông đảo những tác giả mà tài năng chỉ thật sự nở rộ ở giai đoạn sau 1975. Một trong những tác giả tiêu biểu đó là Ma Văn Kháng. Trong giai đoạn này nhà văn vốn có sở trường ở mảng đề tài miền núi cho ra đời hàng loạt tác phẩm
- chứng tỏ sức viết dồi dào của một tài năng đang vào độ chín. Từ Đồng bạc trắng hoa xòe đến Gió rừng, Mưa mùa hạ, Vùng biên ải, Trăng non, Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ cho thấy Ma Văn Kháng đã không ngừng tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật. Những tiểu thuyết thế sự với xu hướng khẳng định con người cá nhân trong những mối quan hệ đời thường như Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng thật sự là một trong những thành công của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. Chu Lai cũng là nhà văn có sức viết vô cùng khỏe khoắn. Nếu xét về số lượng tác phẩm thì có lẽ nhà văn quân đội này là một trong những người dẫn đầu vì ở giai đoạn này số lượng tiểu thuyết xuất bản của ông vượt trên con số hàng chục. Trong đó, có không ít tác phẩm được đánh giá cao như Nắng đồng bằng, Sông xa, Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng, Phố, Ba lần và một lần. Trong giai đoạn này, Lê Lựu thật sự là một tác giả thành công với các tiểu thuyết Mở rừng, Ranh giới, Thời xa vắng, Đại tá không biết đùa, Chuyện làng Cuội, Sống ở đáy sông. Nhưng đặc biệt nhất trong số các tiểu thuyết ấy là Thời xa vắng. Có thể nói Thời xa vắng là một thành công lớn của Lê Lựu mà với nó ông đã đi sâu vào thể hiện con người trong những mối quan hệ riêng tư đời thường cũng như nhu cầu nhận thức lại về bản thân và cuộc sống trong sự chuyển động của dòng chảy xã hội. Và cũng với Thời xa vắng Lê Lựu đã chứng tỏ được tài năng của một nhà tiểu thuyết đồng thời khẳng định vị trí của mình trong giai đoạn tiểu thuyết sau 1975. Nguyễn Mạnh Tuấn cũng là nhà văn được người đọc tiểu thuyết giai đoạn này biết đến với nhiều tác phẩm, trong đó tiêu biểu nhất là Đứng trước biển và Cù lao Tràm. Không khẳng định được vị trí như Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng hay Thời xa vắng của Lê Lựu nhưng Đứng trước biển và Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn là hai tác phẩm đã gây được tiếng vang và làm xôn xao văn học một thời bởi những tranh luận đặt ra từ những vấn đề nội dung tác phẩm. Nguyễn Trọng Oánh trong giai đoạn này cũng khẳng định mình với tiểu thuyết hai tập Đất trắng được đánh giá cao. Bên cạnh đó, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân cũng có những tác phẩm được người đọc tiểu thuyết đón nhận như Thung lũng thử thách, Họ cùng thời với những ai, Còn lại với thời gian của Thái Bá Lợi hay Năm 75 họ đã sống như thế nào, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân. Khuất Quang Thụy cũng là nhà văn có nhiều sáng tác thành công và được yêu thích như Trong cơn gió lốc, Trước ngưỡng cửa bình minh, Không phải trò đùa hay Góc tăm tối cuối cùng. Trong giai đoạn này, một số tác giả trước đây vốn chưa sáng tác hoặc sáng tác ở thể loại khác cũng tìm đến và thử sức mình với tiểu thuyết như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Đức Mậu, Võ Văn Trực, Trần Huy Quang,...Và một điều không thể phủ nhận là họ cũng đã có được một số thành công nhất định. Cũng nằm trong nhóm các tác giả tiểu thuyết này, Trung Trung Đỉnh có Ngược chiều cái chết, Tiễn biệt những ngày buồn, Lạc rừng. Hoàng Lại Giang có Gương mặt cuộc đời, Ký ức tình yêu.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: So sánh hình tượng anh hùng Từ Hải và Lục Vân Tiên dưới góc nhìn văn hóa
118 p | 597 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn