intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày tiểu thuyết viết về nông thôn trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại; nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn từ phương diện nội dung; nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn từ phương thức thể hiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM VĂN THIỆU NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội, 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM VĂN THIỆU NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Tôn Phƣơng Lan Hà Nội, 2014 2
  3. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành được luận văn này không chỉ là những nỗ lực cá nhân của người viết mà còn có sự giúp đỡ to lớn của các thầy, cô trong khoa Văn học nói chung và PGS.TS Tôn Phương Lan nói riêng. Trước tiên chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Tôn Phương Lan. Cô là người đã tận tình chỉ bảo trong quá trình chọn đề tài, đồng thời là người cố vấn khoa học vô cùng quan trọng, giúp cho người viết luận văn có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong khoa Văn học đã tạo điều kiện, giúp đỡ về mặt tư liệu cũng như những góp ý quý báu trong quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng chúng tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ về mặt tư liệu cũng như hoàn thiện khâu đánh máy để luận văn này có thể hoàn thành được như ngày hôm nay. Hà Nội, Ngày ..... tháng ..... năm ..... Tác giả luận văn Phạm Văn Thiệu 3
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Tôn Phương Lan . Tất cả những số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về các kết quả nghiên cứu của mình Học viên Phạm Văn Thiệu 4
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 7 1.1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 7 1.2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 8 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................13 1.4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................14 1.5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................14 NỘI DUNG ......................................................................................................... 15 Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ....................................................................15 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam và diện mạo của tiểu thuyết viết về nông thôn .....15 1.1.1. Sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam .....................15 1.1.2. Tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. ..................................................................................................21 1.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tƣờng trong bức tranh chung của tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới ..............24 1.2.1. Đôi nét về cuộc đời và văn nghiệp của Hoàng Minh Tường ...........24 1.2.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường ....................25 1.2.3. Hoàng Minh Tường trong tương quan với một số tác giả viết về nông thôn sau đổi mới ................................................................................28 Chƣơng 2: NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG .........................................33 2.1. Góc nhìn mới về hiện thực nông thôn của Hoàng Minh Tƣờng ......33 2.1.1. Hiện thực nông thôn dưới góc nhìn lịch sử - xã hội.........................33 2.1.1.1. Quá trình chuyển mình từ kinh tế tập thể sang kinh tế hộ gia đình ....34 2.1.1.2. Hình ảnh nông thôn từ mô hình bao cấp sang kinh tế thị trường.......41 2.1.2. Hiện thực nông thôn được tái hiện dưới góc nhìn văn hóa .............45 2.1.2.1. Mô hình làng truyền thống đang bị phá vỡ ................................47 5
  6. 2.1.2.2. Sự thay đổi chức năng và đặc điểm của mô hình gia đình Việt.53 2.2. Các kiểu con ngƣời trong tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão..58 2.2.1. Con người trung thực .......................................................................60 2.2.2. Con người tha hóa ............................................................................64 2.2.3. Con người bi kịch .............................................................................68 2.2.4. Con người mới mang phong cách thị dân ........................................72 Chƣơng 3: NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN ........................................77 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...........................................................77 3.1.1. Những thủ pháp truyền thống..........................................................77 3.1.1.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình ..................................77 3.1.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua đời sống nội tâm ........................79 3.1.2. Những tìm tòi mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ..................81 3.2. Không gian - thời gian nghệ thuật ......................................................85 3.2.1. Không gian – thời gian hiện thực đời thường ..................................86 3.2.2. Không gian – thời gian hồi tưởng ....................................................90 3.2.3. Không gian – thời gian tâm linh. .....................................................94 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật ....................................................97 3.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................97 3.3.1.1. Ngôn ngữ mang phong cách riêng biệt ......................................98 3.3.1.2. Ngôn ngữ nội tâm.....................................................................101 3.3.2. Giọng điệu nghệ thuật ....................................................................103 3.3.2.1. Giọng điệu giễu nhại, hài hước ................................................103 3.3.2.2. Giọng điệu buồn thương ..........................................................107 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................113 6
  7. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Đề tài nông thôn vốn là một đề tài truyền thống trong văn học, là mảng hiện thực ghi danh nhiều tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam. Không chỉ vậy, với một nước đi lên từ nông nghiệp, dân số hơn 70% là nông dân như Việt Nam thì đề tài nông thôn luôn có nhiều khoảng trống hứa hẹn và thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ cầm bút. Thành tựu văn học trong mảng đề tài về nông thôn đã ghi danh nhiều truyện ngắn, nhiều tiểu thuyết nổi tiếng của nhiều thế hệ nhà văn khác nhau như: Chí Phèo, Lão Hạc (Nam Cao), Làng (Kim Lân), Thư nhà (Hồ Phương), Mưa mùa hạ (Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Thời xa vắng (Lê Lựu) .... Trong số những nhà văn viết thành công về mảng đề tài này không thể không nhắc tới nhà văn Hoàng Minh Tường. Hoàng Minh Tường thuộc thế hệ nhà văn hậu chiến. Trong ba mươi năm cầm bút, ông đã có một sự nghiệp văn chương khá lớn với mười ba tiểu thuyết, chín tập truyện ngắn, năm tập bút kí, phóng sự. Tiểu thuyết là mảng ông có nhiều thành tựu và Thủy hỏa đạo tặc là tác phẩm đã được hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải thưởng . Có thể coi ông là nhà văn viết về nông thôn tiếp nối được những nhà văn lớp trước và có một phong cách riêng. Trong những tác phẩm của mình, Hoàng Minh Tường đã phản ánh chân xác những những biến đổi phức tạp của đời sống nông thôn cũng như cuộc sống của người nông dân trên rất nhiều khía cạnh của đời sống xã hội từ khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới (1986) và hội nhập với thế giới. Từ năm 1975 tới nay, tiểu thuyết viết về nông thôn đã có sự đổi mới mạnh mẽ từ cảm hứng, đề tài, cấu tứ, thi pháp ... để tạo nên cách nhìn và tái tạo hiện thực đầy đủ, sinh động hơn so với tiểu thuyết giai đoạn trước. Sự nở rộ các tác phẩm viết về nông thôn có giá trị đã tạo nên không khí văn học sôi động cũng như làm nên một giai đoạn văn học thành công. Hoàng Minh Tường không phải 7
  8. là nhà văn thời hậu chiến duy nhất viết và thành công với mảng đề tài này. Tuy vậy chọn tiểu thuyết của nhà văn này làm đối tượng nghiên cứu chúng tôi hướng tới hai mục đích chính sau. Thứ nhất, những đóng góp của nhà văn Hoàng Minh Tường đối với tiểu thuyết sau đổi mới là không thể phủ nhận, thế nhưng cho tới nay, những công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông chưa nhiều, thiếu tính hệ thống. Thứ hai, cách khai thác hiện thực nông thôn và xây dựng hình ảnh người nông dân của nhà văn tuy không vượt trội hẳn so với nhiều nhà văn khác nhưng có những điểm nhìn mới mẻ, riêng biệt. Chính vì thế, chọn đề tài Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường chúng tôi sẽ đi tìm hiểu cách xây dựng hình ảnh nông thôn và người nông dân của nhà văn này dưới góc nhìn lịch sử - xã hội, dưới góc nhìn văn hóa. Đồng thời chúng tôi cũng xác định những thủ pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên một hiện thực nông thôn khác so với những nhà văn cùng thế hệ. Qua đó, chúng tôi mong muốn góp một cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện về bức tranh xã hội Việt Nam trong thời kì đổi mới, nhất là giai đoạn hội nhập nền kinh tế thị trường với những vấn đề mà cho tới hiện nay, chưa bao giờ mất đi tính thời sự. Từ đó đề tài hướng đến khẳng định tên tuổi nhà văn và phần nào nhận diện được sự vận động phong phú của tiểu thuyết viết về nông thôn đương đại. Trong phạm vi luận văn của mình, chúng tôi không có tham vọng giải quyết tất cả vấn đề được đặt ra trong hệ thống tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường mà chỉ chọn những tác phẩm tiêu biểu nhất để phân tích, tìm hiểu. Tuy thế, chúng tôi cũng luôn cố gắng đặt vấn đề trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết của nhà văn nói riêng và dòng chảy của văn xuôi giai đoạn sau đổi mới nói chung. 1.2. Lịch sử vấn đề 1.2.1. Những nghiên cứu chung về tác giả Hoàng Minh Tường Bài viết của tác giả Dương Thị Kim Huệ với nhan đề Cái tôi tác giả trong bút kí Canada màu phong đỏ đã chú trọng giải mã những biểu hiện phong phú về bản ngã của văn sĩ họ Hoàng. Theo đó Hoàng Minh Tường: “Là một cây bút 8
  9. giàu tài năng, có cá tính và đam mê sáng tạo nhưng Hoàng Minh Tường vẫn luôn học hỏi, kế thừa tinh hoa của các bậc tiền bối văn chương. Trong số những thần tượng mà ông ngưỡng mộ có: Nam Cao - một nhà văn có biệt tài miêu tả "con người bên trong con người", Giắclơndơn - một nhà văn hành động, và đặc biệt nhất là Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ luôn "tôn thờ chủ nghĩa xê dịch", bậc thầy của thể loại tùy bút. Hoàng Minh Tường tự coi mình là đệ tử trung thành của Nguyễn Tuân. Bởi lẽ ông cũng là người luôn thích đi, ham đi và ham ghi chép. Trong mỗi chuyến đi thực tế, ông thường là người luôn muốn đi đến tận cùng. Khi có điều kiện đến bất kì đâu nhà văn đều muốn khám phá đến sơn cùng, thủy tận” [58. Tr87]. Xuất hiện trên trang mạng bài viết Ngư Phủ - sức mạnh của người dân biển, bút lực của nhà văn, tác giả Đặng Hiển đã khẳng định Ngư phủ là một tác phẩm hay. Nó đại diện cho một nền văn học và chứng minh được tài năng của nhà văn. “Đọc Ngư phủ, ta vui vì có trong tay mình cuốn tiểu thuyết hay. Nó chứng minh sức sống của nền văn học hiện đại, sức bút của cây bút văn xuôi Hoàng Minh Tường. Cuốn sách 299 trang đọc liền một mạch không nghỉ chẳng những vì có nhiều chi tiết sống, nhiều tình tiết phong phú khéo cài đặt và thủ pháp kể chuyện biến hoá, đa dạng, mà trước nhất vì cảm xúc yêu ghét của tác giả từ trái tim đầy nhiệt huyết thắm đượm vào từng câu chữ, lay động lương tâm, dù vẫn phải tuân thủ phương thức khách quan của thể loại tác phẩm”. [63]. Bài Phê bình tiểu thuyết Thời của thánh thần của tác giả Vũ Nho, nhà phê bình đã khẳng định Hoàng Minh Tường là một người từng trải, có vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết và một thái độ tập trung làm việc trên con đường nghệ thuật của mình. Theo tác giả Vũ Nho thì tác phẩm vượt trội này sẽ được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi sự bứt phá mà ông cho là rất ngoạn mục của nó. Nhà phê bình này viết: “Cải cách ruộng đất; đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống xét lại; giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước; Hòa hợp dân tộc… Những vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy 9
  10. đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết. Nhưng những hiểu biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và suy ngẫm một đời viết, mới là yếu tố quyết định làm nên thành công của tác phẩm này” [64]. Trong khi đó nhà văn Nguyễn Khắc Trường cũng đánh giá rất cao cuốn tiểu thuyết này. Bản thân là người biên tập và đọc cuốn tiểu thuyết trên ngay từ bản thảo, có thể nói những nhận xét của nhà văn này đối với tác phẩm rất chân thành, sâu sắc. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cho rằng: “Đáng lẽ tên của tiểu thuyết phải là “Những người khốn khổ” hay “Những kẻ khốn khổ”. Quả vậy, nguyên cuốn tiểu thuyết, Hoàng Minh Tường đã thành công phác họa nên những số phận nghiệt ngã trong một gia đình có nề nếp gia phong. Đọc những mánh khóe xảo quyệt, lừa dối trẻ con, mưu mô hại nhau giữa những người từng quen biết nhau mà ngán ngẩm cho thế thái nhân tình trong thời bao cấp. Thật ra, những “thói đời” này hoàn toàn có thật ngoài đời, không phải ngày xưa thời bao cấp, mà còn ngay ngày nay. Những nghiệt ngã này do thời thế gây nên, cũng như là những cành cây bị gió bụi làm cho ngã bên này, nghiêng bên kia, và khi cơn gió bay qua thì để lại trên cành cây đầy thương tích. Tôi nghĩ có lẽ đó chính là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc, và nếu đó là chủ đích thì tác giả đã thành công” [64]. Tác giả Hà Thế trong bài viết Nếu chỉ tâng bốc, tô hồng trên báo Quân đội nhân dân cuối tuần đã gián tiếp nhận xét về tiểu thuyết của nhà văn: “Đọc anh, thấy rõ tính nhân bản vẫn là một yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm. Nhưng ngược lại, sự bặm trợn, thô thiển đến thô tục, nhân cách méo mó-thể hiện trong một số nhân vật của tiểu thuyết” [66]. Cũng trên báo này khi bàn về Thời của thánh thần, tác giả Thái Dương có ý kiến rằng tiểu thuyết này đã đi sâu, khai quật lại lịch sử, nhắc lại những gì sai lầm của quá khứ một thời mà chúng ta hầu như muốn quên đi. “Đọc xong cuốn sách của tác giả, có bạn đọc sẽ thấy chạnh buồn, nhớ về một thời khốn khó với những chuyện đau lòng. Người ít hiểu biết và nhất là thế hệ trẻ hôm nay đọc cuốn sách loại này dễ hoang mang, nghi hoặc. 10
  11. Như vậy, “Thời của thánh thần” chỉ làm khuấy động lại quá khứ đau buồn chứ không phải gợi mở ánh sáng cho tương lai. Tác giả không tô hồng nhưng đã sa đà vào cảm hứng bôi đen”.[65] Tác giả Phương Ngọc đăng một bài viết về cuốn sách trên một tờ báo mạng trực thuộc VietnamNet (tuy nhiên khi cuốn sách này bị đồn là phải thu hồi thì bài này này cũng bị gỡ bỏ - người viết) cho rằng tiểu thuyết Thời của thánh thần đã chấm dứt những sự kiện của thời cải cách ruộng đất bằng những chi tiết độc đáo đến nỗi các nhà văn khác không thể khai thác gì thêm được nữa trong sự kiện lịch sử này. Trong khi đó tác giả Ngô Minh trong bài viết Trò chuyện với tác giả tiểu thuyết Thời của thánh thần thì cho rằng, đây là tác phẩm rất trung thực, nhân hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực mình để viết. Dù bị “phạt thẻ vàng”, bị cảnh cáo, nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn, “thoáng hơn” trong việc phán xét và thẩm định tác phẩm văn học của các cơ quản lý của Đảng và Nhà nước ta. 1.2.2. Những nghiên cứu liên quan tới tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão Bàn về Thủy hỏa đạo tặc, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã có nhận xét rất xác đáng về tinh thần sáng tạo nghệ thuật và tài năng của Hoàng Minh Tường trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX. Theo đó, bằng ngòi bút của mình nhà văn đã cày tung lên những mảng đen, bóng tối, nỗi đau con người trong một xã hội mà những định kiến, giáo điều vẫn còn đè nặng lên con người từ cách sống cho tới lối tư duy làm ăn kinh tế. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng trong Giáo trình Văn học Việt Nam sau 1975 (giáo trình lưu hành nội bộ) đã khẳng định Thủy hỏa đạo tặc nằm trong xu hướng xông thẳng vào thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản xuất, quản lý kinh tế xã hội. “Xu hướng văn xuôi này thể hiện sự dấn thân, nhập cuộc của nhà văn vào khả năng đáp trả nhanh nhạy các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội”. 11
  12. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng trong bài viết Bức tranh nông thôn một thời qua Gia phả của đất, Tạp chí Nhà văn, số 12/2012 từng khẳng định rằng: “Đây chính là bức tranh sinh động và sâu sắc của Hoàng Minh Tường khắc họa lại hiện thực cuộc sống nông thôn và người dân lao động vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những thập niên 80 của thế kỉ XX một cách chân thực”. Luận văn Nông thôn Việt Nam sau 1975 trong một số tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tác giả Hoàng Văn Tuân khi nghiên cứu tiểu thuyết Đồng sau bão đã khẳng định Hoàng Minh Tường có cái nhìn thấu đáo và tin tưởng về sự vươn lên của nông dân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong đó tác giả này cho rằng tiểu thuyết Đồng sau bão bên cạnh xây dựng được những con người biết đấu tranh vì lý tưởng tốt đẹp thì cũng xây dựng được những bộ mặt tương phản của xã hội. Nằm trong cảm hứng phê phán, châm biếm của một xu hướng văn học nhận thức lại thực tại nên tác phẩm không xây dựng nên một xã hội lý tưởng mà dồn vào đó tất cả những bộn bề của hiện thực với những mặt trái, mặt tiêu cực của nó. Thông qua cuộc đấu tranh giữa tốt – xấu, thiện – ác, nhà văn đã xây dựng nên bộ mặt nông thôn đầy tính biểu tượng và đặc trưng cho một thời đại đã từng xuất hiện trong lịch sử xã hội chúng ta chưa lâu nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự. Luận văn Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm đạt giải), tác giả Phùng Thị Hồng Thắm đánh giá cao giá trị hiện thực của tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc cũng như sự dũng cảm của người viết trước bối cảnh mà xã hội vẫn còn những định kiến tư tưởng khá nặng nề. Tác giả này cho rằng: “Trở lại đề tài nông thôn ở Thủy hỏa đạo tặc, nhà văn Hoàng Minh Tường như muốn nói hết những băn khoăn của cây bút là con đẻ của đồng ruộng. Tác phẩm đã phản ánh trung thực, cắt nghĩa và dự báo trước sự tan rã tất yếu của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp theo lối bao cấp” [55. Tr42]. Tác giả này cũng đánh giá cao sự dũng cảm, trung thực của người cầm bút đã khiến cho Thủy hỏa đạo tặc là tác phẩm nhiệt thành viết về thời kỳ suy vi của mô hình kinh tế bao cấp nông thôn. 12
  13. Bên cạnh đó còn có những luận án, luận văn tuy không trực tiếp viết về hai tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão nhưng khi đề cập tới những tiểu thuyết tiêu biểu viết về nông đều nhắc tới hai cuốn này. Các tác giả đánh giá khá cao thành công của tác phẩm, đặc biệt là ở phương diện nội dung khi đã lột tả chân thực bức tranh nông thôn Việt Nam trước và sau đổi mới. Đặc biệt là thái độ dám đương đầu với những định kiến cũ trong xã hội và giới sáng tác. Điều đó một phần giúp tác giả tạo nên thương hiệu cũng như phong cách riêng trong mảng tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới. 1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Lựa chọn đề tài này, chúng tôi sẽ chọn hai tiểu thuyết là Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão làm đối tượng để khảo sát những vấn đề hiện thực và con người nông thôn. Tất nhiên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh nhiều tiểu thuyết khác của Hoàng Minh Tường cũng như của các tác giả cùng thời để làm sâu hơn vấn đề mình tìm hiểu. Sở dĩ chọn hai tác phẩm này vì chúng được coi là những tác phẩm xuất sắc nhất của Hoàng Minh Tường viết về đề tài nông thôn. Đặc biệt là tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc đã nhận được giải thưởng của hội Nhà văn năm 1997. Không những vậy hai tác phẩm trên cũng là hai tiểu thuyết sáng tác gần đây nhất của Hoàng Minh Tường nên nó tích hợp trong mình những tư tưởng, những nội dung quan trọng đã được nhà văn thể hiện ở những tác phẩm trước. Đặt trong hệ thống các tiểu thuyết của ông, có thể nhận thấy tuy nội dung mỗi tác phẩm khác nhau nhưng đều hướng chung tới hiện thực nông thôn và cuộc sống người nông dân. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu Từ đối tượng nghiên cứu như vậy, chúng tôi xác định phạm vi của luận văn là nghiên cứu đặc điểm của nông thôn trong tiểu thuyết dưới hai góc độ là nội dung và phương thức thể hiện. Bằng việc đi phân tích cách xây dựng hiện thực nông thôn và người nông dân của nhà văn Hoàng Minh Tường chúng tôi sẽ khái quát 13
  14. được những đặc điểm chung nhất trong tiểu thuyết viết về mảng đề tài này của nhà văn. Qua đó thấy được những đóng góp quan trọng, có ý nghĩa của Hoàng Minh Tường trong tiến trình đổi mới văn xuôi Việt Nam sau năm 1986, đặc biệt trong mảng tiểu thuyết viết về nông thôn. 1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, khảo sát, thống kê. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học - Phương pháp lịch sử - xã hội - Thi pháp học 1.5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được triển khai thành ba chương: - Chương 1: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại - Chương 2: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn từ phương diện nội dung - Chương 3: Nông thôn trong tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường nhìn từ phương thức thể hiện 14
  15. NỘI DUNG Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam và diện mạo của tiểu thuyết viết về nông thôn 1.1.1. Sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam Tiểu thuyết từ khi xuất hiện trong nền văn học Việt Nam với tư cách là một thể loại văn học có rất nhiều lợi thế trong việc tái tạo lại hiện thực đời sống xã hội đã nhanh chóng xác lập được vai trò, vị trí, thành tựu của mình. Những hình thái đầu tiên của tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ được hình dung ban đầu là: “một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay những sự lạ tích kỳ, đã làm cho người đọc hứng thú” [19. Tr 123]. Minh chứng cho nhận định này là sự ra đời của các tiểu thuyết như Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Truyện đời xưa (1886), Kiếp phong trần (1882) của Trương Vĩnh Ký, Truyện giải buồn (1886) của Huỳnh Tịnh Của. Tuy nhiên tiểu thuyết không chỉ dừng ở phóng tác, ở việc miêu tả ngoại cảnh đơn thuần mà dần hướng vào chiều sâu tâm lý con người và dần thay đổi theo hướng hiện đại. Sự thành công của tiểu thuyết Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách cho thấy một bước tiến mới của tiểu thuyết Việt nam trong buổi đầu. Tất nhiên trong ba thập niên đầu của thế kỷ trước, nông thôn vẫn là đề tài chủ yếu trong văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Đến giai đoạn văn học 1930 – 1945 thì tiểu thuyết Việt Nam đã chuyển mình sang hiện đại với kỹ thuật viết được các trí thức tây học người Việt áp dụng triệt để. Tư tưởng sáng tác của lớp nhà văn trẻ gần như “đoạn tuyệt” hẳn so với những thời kỳ trước đó khi mà cảm hứng cá nhân được đề cao và biên độ hiện thực được các nhà văn mở rộng và đào sâu. Nếu như các nhà văn của Tự lực văn đoàn tập trung khai thác đời sống cá nhân với những khát vọng hạnh phúc, khát vọng tư do yêu đương, khát vọng một tinh thần dân chủ thực sự trong 15
  16. cuộc sống như tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Gánh hàng hoa, Đôi bạn của Nhất Linh ... thì các nhà văn hiện thực lại tập trung vào phản ánh những mảnh đời cơ cực của người nông dân bị giai cấp địa chủ chèn ép, bóc lột đến tận cùng như tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Chí phèo của Nam Cao, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng .... Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, xã hội Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã bước sang một giai đoạn mới. Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự chủ. Hiện thực sau cách mạng và hai cuộc kháng chiến đã làm cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng có bước chuyển biến quan trọng. Từ chỗ bộc lộ khát vọng giải phóng cá nhân, mưu cầu hạnh phúc (thể hiện thông qua các tiểu thuyết của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo ...); miêu tả đời sống người nông dân nghèo trong cảnh sưu cao thuế nặng, bị bóc lột trắng trợn, dã man của chế độ phong kiến (thể hiện thông qua tiểu thuyết của các nhà hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao ...), tiểu thuyết đã chuyển mình sang thời kỳ mới: Đề tài công – nông – binh trở thành một đề tài xuyên suốt của văn học. Đây là thời kỳ dân tộc ta thoát khỏi ách ngoại xâm và trở thành một quốc gia độc lập, Văn học cách mạng đã đặt những bước chân non trẻ đầu tiên trong một hành trình mới. Với đối tượng là công – nông – binh, các nhà văn bước đầu thâm nhập vào thực tế cuộc sống sản xuất và chiến đấu. Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi là những tiểu thuyết tiêu biểu của giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Những năm miền Bắc hòa bình bước vào công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa rồi bước vào cuộc chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, một mùa gặt mới với nhiều tác phẩm ở những đề tài khác nhau ra đời như Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đi bước nữa, Nắng của Nguyễn Thế 16
  17. Phương… rồi tiếp đến là Dấu chân người lính, Cửa sông của Nguyễn Minh Châu, Bão biển của Chu Văn, Những tầm cao của Hồ Phương, Vùng trời của Hữu Mai, Chiến sỹ của Nguyễn Khải, Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi, Hòn Đất của Anh Đức, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Đất Quảng (tập I) của Nguyên Ngọc ... Nhà văn, với tư cách chiến sỹ, làm nghĩa vụ của một công dân, đã sử dụng văn chương như một vũ khí hữu hiệu. Sử thi là cảm hứng, cũng là âm hưởng chủ đạo của văn học thời kỳ này. Bên cạnh đề tài về chiến tranh cách mạng và người lính thì nông thôn cũng là một đề tài lớn. Nông thôn với việc “vào, ra” hợp tác xã trong thời kỳ trước chiến tranh, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn trong những năm chống Mỹ đã được các nhà văn tái hiện. Các tiểu thuyết viết về nông thôn thời kỳ này đã thể hiện được vai trò của người nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ và bảo vệ Tổ quốc. Đương nhiên, vì viết theo cảm hứng sử thi nên những vấn đề tiêu cực, vấn đề thân phận con người ở nông thôn còn chưa được đề cập nếu không muốn nói đấy là vấn đề nhạy cảm (do suy nghĩ nó sẽ ảnh hưởng tới nhiệm vụ cổ vũ cho cuộc chiến đấu) nên nhà văn chưa được phép nói tới. Thế cho nên mới có một Cái sân gạch được ca ngợi, một Đi bước nữa bị phê phán kịp thời. Và bức tranh nông thôn, trong xu hướng chung của bức tranh văn học toàn cảnh mang vẻ đẹp sử thi không có nhiều hình khối, màu sắc mặc dù càng về cuối cuộc kháng chiến, tiểu thuyết viết về nông thôn cũng bắt đầu đi vào những vấn đề của một hiện thực nông thôn có phần bộn bề, phức tạp. Cùng với bước chuyển mình của đất nước vào thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết với tư cách là một loại hình tự sự cỡ lớn cũng đã có sự chuyển động. Đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là quan niệm về hiện thực và con người không chỉ là nhiệm vụ đặt ra với nhà văn mà thực tế là đòi hỏi của tự thân văn học và công chúng. Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền đổi mới (1975 – 1985) không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một loạt tiểu thuyết gây tiếng vang một thời như những tín hiệu dự báo mở ra một thời kỳ mới trong 17
  18. sáng tạo và tiếp nhận văn chương hiện đại như Miền cháy (1977) của Nguyễn Minh Châu, Cha và con và ... (1979) của Nguyễn Khải, Đứng trước biển (1984) của Nguyễn Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) của Ma Văn Kháng ... các tác phẩm thời kỳ này đã có khuynh hướng vừa mở rộng đề tài, vừa tiếp tục phát huy cảm hứng từ văn học giai đoạn trước. Đề tài nông thôn lúc này đáng chú ý nhất là tiểu thuyết Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn. Cuốn tiểu thuyết này gây tiếng vang lớn vì nó động đến những hạn chế trong quản lý, điều hành, là tình trạng mất dân chủ ở nông nghiệp và nông thôn, khiến cho đất nước ra khỏi chiến tranh đã không ít năm rồi mà sản xuất ở nông thôn vẫn đình trệ. Căn bệnh cố hữu kéo dài đã mấy thập niên và để lại những di chứng không nhỏ trong đời sống. Đây chính là vấn đề đã được Hoàng Minh Tường trở lại, ở một góc nhìn khác và cấp độ khác trong Thủy hỏa đạo tặc và Đồng sau bão. Từ năm 1986 trở đi, chủ trương “cởi trói” cho văn nghệ được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu tại buổi gặp mặt hơn 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội đã trở thành một động lực để họ phát huy khả năng sáng tạo. Có thể khẳng định rằng tư duy nghệ thuật của các nhà văn sau năm 1986 đã vận động theo hướng dân chủ hóa trên tất cả các cấp độ từ thể tài, nội dung cho tới hình thức tác phẩm. Điều này đã làm thay đổi về cơ bản cả cốt truyện, hệ thống nhân vật, lời văn, giọng điệu. Tiểu thuyết giai đoạn này cũng tập trung miêu tả vấn đề cách sống, cách quản lý sản xuất, vai trò của gia đình và bản lĩnh cá nhân. Cùng với cảm hứng ngợi ca, đã xuất hiện cảm hứng phê phán. Biên độ hiện thực được mở rộng. Điểm nhìn tới con người được dịch chuyển dần về nhiều phía, nhiều góc độ. “Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề mất – còn trong chiến tranh, vấn đề đạo đức, nhân cách và thân phận con người. Các tác phẩm của Nguyễn Khải được tổ chức như một cuộc đối thoại giữa những lối sống và lối nghĩ khác nhau. Ma Văn Kháng đặt con người trong quan hệ đời thường, 18
  19. Nguyễn Mạnh Tuấn đặt ra những vấn đề quản lý kinh tế ở nông thôn và xí nghiệp ... Đó là một dấu hiệu cho thấy ý thức đổi mới về thể loại đang rõ dần” [53. Tr22]. Tư duy nghệ thuật những năm sau đổi mới đã thay đổi. Từ cảm hứng sử thi là chủ đạo, các tác phẩm thời kỳ này đã cho thấy có nhiều cảm hứng khác đến với nhà văn, như cảm hứng thế sự, đời tư; con người cá nhân với đầy đủ tâm tư, suy nghĩ, bản tính “người” nhất thay thế cho con người tập thể, con người cộng đồng. Chính nhà văn Nguyễn Khải đã từng thừa nhận: “Thời nay rộng cửa gợi được rất nhiều thứ để viết. Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, ánh sáng và bóng tối, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút mặc sức khai thác” [21. Tr 23]. Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết không chỉ được thể hiện ở phương diện tiếp cận hiện thực mà còn được thể hiện ở sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn. Nếu như con người trong tiểu thuyết giai đoạn 1945- 1975 được miêu tả ở phương diện con người cộng đồng, con người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn và ít có dịp đối diện với chính bản thân mình thì trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới con người được nhận thức như một thực thể riêng tư, “được nhà văn đi vào thế giới nội tâm, đi vào số phận của họ,tìm đến những vấn đề cụ thể, đời thường mà vẫn mang ý nghĩa nhân loại” [62. Tr43]. Có thể khẳng định sự thay đổi quan niệm về con người đã phản ánh chân xác những thay đổi trong tư duy sáng tác của các nhà văn giai đoạn này. Hướng tiểu thuyết vào những giá trị nhân bản, những phần giá trị sâu nhất trong bản thể mỗi con người không chỉ trở thành mục tiêu mà còn là nhu cầu bức thiết của mỗi nhà văn trên hành trình khám phá lại con người. Con người trong tiểu thuyết giai đoạn này được đặt trong mối quan hệ riêng – chung, gia đình – xã hội, được quan sát kỹ càng từ nhân phẩm, tính cách đến đời sống riêng tư. Nhân vật trong tiểu thuyết là những con người với trăm nghìn mảnh đời khác nhau với những số phận khác nhau như Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Khuê trong 19
  20. Dòng sông Mía của Đào Thắng, Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu… Nhà văn từ các góc nhìn khác nhau đã đưa đến cho độc giả một cái nhìn đa dạng về cuộc sống và của thân phận con người. Con người hiện lên với những biểu hiện đời sống nội tâm phong phú. Sự hòa hợp giữa con người tự nhiên và con người xã hội đã khiến cho hình tượng về con người trở nên hoàn thiện hơn, đa diện và chân thực hơn. Bởi thế con người được hình dung từ nhiều chiều, được tái hiện với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, đan xen cái tốt- cái xấu, biết yêu thương - căm thù, biết lừa lọc – thành thực và luôn đấu tranh giằng xé giữa đúng – sai, thiện – ác, hạnh phúc – khổ đau. Người nông dân thì nhìn thấy mặt tích cực ở bản tính tư hữu trong lao động sản xuất, trong sự vun vén cho cuộc sống gia đình. Đó là nét nổi bật mang đậm ý nghĩa nhân văn khi nhìn nhận con người, khiến cho nhân vật trong văn học không còn mặc đồng phục. Bức tranh xã hội nói chung và bức tranh nông thôn nói riêng đã có màu sáng - tối. Những tiểu thuyết tiểu biểu có thể kể đến như: Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc của Chu Lai, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Bến không chồng của Dương Hướng…Và Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão của Hoàng Minh Tường cũng nằm trong số đó. Ngoài một số tiểu thuyết có xu hướng quay về với mô hình tự sự truyền thống, kết cấu rõ tràng, mạch lạc như Thời xa vắng của Lê Lựu, Giời cao đất dày của Bùi Thanh Minh, Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Bến không chồng của Dương Hướng thì tiểu thuyết bắt đầu chuyển sang những kết cấu phức hợp hơn. Kết cấu tiểu thuyết như một trò chơi rubich, tạo nên sự lỏng lẻo, rời rạc, lắp ghép, gấp khúc, khó nắm bắt như tiểu thuyết Giã biệt bóng tối, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh ... Kết thúc mở, bỏ lửng nhằm đưa người đọc tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo riêng theo quan niệm của mỗi cá nhân như Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Dòng sông Mía của Đào Thắng. “Chính tư duy tiểu thuyết và những biến đổi thi pháp đã chi phối nguyên tắc xây dựng tác phẩm, tạo ra nhiều mô hình cấu trúc mới mẻ: Cấu trúc theo đường đời nhân vật, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0