intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nông thông Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

86
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nông thông Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000 sau đây để nắm bắt được những nội dung về bức tranh văn hoá làng quê trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma; bi kịch của con người nông thôn; nghệ thuật miêu tả hiện thực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nông thông Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ THANH XUÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ THANH XUÂN Chuyên ngành : LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÍ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực cố gắng của riêng bản thân tôi, còn nhờ sự tận tình giúp đỡ của các cơ quan và của nhiều người, như: PGS.TS Phùng Quý Nhâm, các giảng viên Trường ĐHSP TP. HCM, gia đình và bạn bè... Để tỏ lòng tri ân, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến tất cả mọi người. Xin cám ơn PGS.TS Phùng Quý Nhâm, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập cũng như nghiên cứu đề tài. Xin cám ơn các giảng viên thuộc tổ bộ môn Lý Luận Văn Học, khoa Ngữ Văn và các cán bộ phòng KHCN – SĐH của Trường ĐHSP TP.HCM đã trang bị kiến thức cũng như tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Xin cám ơn Sở Giáo dục Bình Thuận, Ban Giám hiệu cùng các cán bộ, giáo viên Trường trung học phổ thông Chuyên Trần Hưng Đạo Bình Thuận đã ưu ái tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn cũng như khoá học này. Xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân sâu sắc đến tất cả mọi người trong gia đình tôi, những người đã luôn giúp đỡ, chia sẻ mọi khó khăn và luôn động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cuối cùng đó là lời cảm ơn chân thành gửi đến sự giúp đỡ và động viên từ phía bạn bè.
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Thời kì đổi mới được đánh dấu bắt đầu từ năm 1986 và kéo dài đến tận ngày nay. Song song cùng sự biến đổi của xã hội, văn học cũng có nhiều thay đổi. Thời kì này, văn xuôi phát triển mạnh, có nhiều sự đổi mới. Trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã nhận xét về tình hình sáng tác văn xuôi của thời kì này: “mở rộng đề tài và các phương thức tiếp cận, chấp nhận cả lãng mạn, tượng trưng, huyền thoại, viễn tưởng, quan niệm cởi mở hơn về vai trò của chủ thể nhà văn, về điển hình hoá, về các kiểu ngôn ngữ trần thuật, nhìn chung là khuyến khích sự đa dạng về hình thức và phong cách biểu hiện” và “chúng ta được mùa về truyện ngắn và tiểu thuyết”. Đặc biệt là tiểu thuyết. Cũng theo sự thống kê của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ thì từ năm 1980 đến năm 1996, độc giả đã được đón nhận đến 360 cuốn tiểu thuyết, trong đó nổi bật là tên tuổi những nhà tiểu thuyết như: Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Chu Lai, Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường, Triệu Bôn, Ngô Ngọc Bội, Vũ Huy Anh, Bảo Ninh, Hoàng Ngọc Hà, Nhật Tuấn, Ông Văn Tùng, Xuân Đức, Nguyễn Trí Huân, Phan Tứ... Sau này, còn xuất hiện thêm nhiều tác giả, tác phẩm khác. Với số lượng tác phẩm, tác giả như thế, có thể nói, để tìm hiểu, nghiên cứu tất cả các đề tài, nội dung của tiểu thuyết thời kì này là một điều khó, thậm chí không thể. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một khía cạnh nội dung của tiểu thuyết thời kì này, đề tài mang tên: “Nông thôn Việt Nam trong các tiểu thuyết từ năm 1986 đến năm 2000”. Lí do để chúng tôi chọn đề tài này là: Thứ nhất, đề tài này có liên quan đến những tiểu thuyết đoạt giải của Hội Nhà Văn, đã được công bố rộng rãi và được công chúng đón nhận. Thứ hai, các tiểu thuyết đều nằm trong giai đoạn 1986-2000, là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, mở đầu thời kì đổi mới và kết thúc một thế kỉ.
  5. Thứ ba, khi tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết thời kì đổi mới, người ta chủ yếu xoáy sâu vào các nội dung như: vấn đề chiến tranh, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề số phận con người trong thời kì mới, sự thay đổi trong những quan niệm về giá trị con người... Ít người chú ý tới khía cạnh nội dung phản ánh hiện thực nông thôn trong các tác phẩm. Chính vì những lí do kể trên mà chúng tôi quyết định chọn đề tài này. Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài sẽ phần nào đó đóng góp một cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện cho bức tranh xã hội Việt Nam trong thời kì vốn được xem là cực kì nhạy cảm này. 2. Lịch sử vấn đề Đề tài chủ yếu tập trung khảo sát ba tiểu thuyết Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng) và Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), những tiểu thuyết đã đoạt giải chính thức của Hội nhà văn nên thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu và độc giả. Trong quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu, chúng tôi sưu tập được một số bài viết nghiên cứu về các tiểu thuyết này. Cụ thể như: Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu” đăng trên tạp Tạp chí văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 đã tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Thời xa vắng trong giới hạn vấn đề số phận cá nhân, số phận của người nhà quê trước những biến động của xã hội, cụ thể là cuộc đời, số phận của nhân vật Giang Minh Sài. Theo Hoàng Ngọc Hiến thì anh nông dân Giang Minh Sài “ “người nhà quê” của Lê Lựu hai lần khốn khổ, vừa xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa xung đột với thành phố ở bộ phận phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái.”[16, tr119], thế nên cuộc sống của anh cứ bùng nhùng, bế tắc, vướng vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Và từ những vấn đề thuộc về nhân vật, thuộc về tác phẩm, tác giả Hoàng Ngọc Hiến suy luận đến những vấn đề lớn, những vấn đề bức xúc của xã hội suốt một thời: “Lê Lựu chỉ đụng đến đề tài “người nhà quê và đô thị” một cách ngẫu nhiên: chỉ là câu chuyện thương tâm một “anh nhà quê” chơi trèo với thành phố bị bại. Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ tiếp
  6. quản nào cũng trở thành người chủ của thành phố, không ít “người nhà quê” tiếp xúc với đô thị đã bị bại hoàn toàn, sống dở chết dở, điêu đứng bi thảm, sự thất bại của họ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc”[16, tr119]. Thiếu Mai cũng trong Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, năm 1987 có bài: “Nghĩ về một “thời xa vắng” chưa xa”. Bài viết của Thiếu Mai nghiên cứu khá sâu sắc cả khía cạnh nội dung lẫn nghệ thuật của Thời xa vắng. Ở khía cạnh nội dung, tác giả phân tích sự tác động của hoàn cảnh đến quá trình hình thành tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, nhân vật Giang Minh Sài cả cuộc đời đã phải gánh trên vai hệ tư tưởng gia trưởng, những quan niệm, những định kiến... khiến cho anh không lúc nào được sống bằng chính cuộc đời của mình, chỉ biết nghe và chiều ý mọi người, đến nỗi theo lời của tác giả Thiếu Mai thì: “trong con người anh, luôn luôn tồn tại hai thế lực: chống đối và khuất phục. Hai thế lực ấy ngày càng phát triển, càng mâu thuẫn, và đẩy bi kịch trong con người Sài lên một mức độ ngày càng cao hơn.” [32, tr121]. Và cũng theo sự đánh giá của Thiếu Mai thì “ Lê Lựu đã tỏ ra hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc, đến tận những ngọn ngành sâu thẳm nhất của tình cảm, suy nghĩ. Xót xa cho cuộc đời Sài bao nhiêu, tác giả lại giận dữ lên án cách sống, cách ứng xử thiếu bản lĩnh của anh ta bấy nhiêu” [32, tr122]. Mà đâu chỉ có Sài, bên cạnh anh còn biết bao nhiêu người cũng làm những điều mình không muốn chỉ vì không dám làm phật ý hay làm khác với mọi người xung quanh như ông đồ Khang, anh Tính, chú Hà, Chính uỷ Đỗ Mạnh, anh Hiền, anh Hiển... Nói cách khác, Sài và những nhân vật liên quan đến tấn bi kịch của cuộc đời anh vừa là đại diện cho những cá nhân riêng lẻ nhưng cũng là sản phẩm chung của “một thời, thời xa vắng, nhưng chưa xa là bao”, cái thời mà do hoàn cảnh lịch sử của nó, ý thức cá nhân phải tạm lu mờ, nhường chỗ cho những vấn đề lớn lao mang ý nghĩa dân tộc. Đấy là xét về mặt nội dung. Xét về mặt nghệ thuật, mặc dù “nhiều người có ý cho là văn Lê Lựu không chuốt, mộc quá, và không phải là không có những câu què, hoặc trúc trắc, thậm chí có câu ngữ pháp chưa chỉnh” , nhưng tác giả Thiếu Mai vẫn cho rằng tiểu thuyết Thời xa vắng được xây dựng bằng “một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm
  7. chân tình, vừa khách quan, không thêm bớt, tô vẽ, đặc biệt là không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết phục, hấp dẫn của tác phẩm” [32, tr.123]. Tuy chưa thích thú với kết cấu ba phần mà phần kết “khó chấp nhận vì tính chất bất hợp lí của nó, và vì nó thể hiện một sự áp đặt do ý muốn chủ quan của tác giả” [32,tr.125]. Thế nhưng, với tác giả Hiếu Mai, Thời xa vắng “tuy vẫn còn có những nhược điểm, còn thiếu một sự chặt chẽ, nhất quán cần thiết, nhưng với ưu điểm rất trội của nó, nó là một thành công, một đóng góp vào nền văn học đang có đà phát triển khởi sắc cùng chúng ta mấy năm vừa qua.” [32, tr.125] Đinh Quang Tốn trong cuốn Tản mạn và chính kiến văn chương có bài: “Lê Lựu - Thời xa vắng”. Trong bài viết này, Đinh Quang Tốn muốn nói đến sự hoá thân của cuộc đời tác giả Lê Lựu vào trong các tác phẩm của mình. Trong khi giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu, những dấu ấn cá nhân của tác giả để lại trong các sáng tác..., Đinh Quang Tốn có vài dòng nhận xét về tiểu thuyết Thời xa vắng: “Thời xa vắng viết về hậu phương miền Bắc trong cuộc chống Mĩ cứu nước với cả cái vui và cái buồn, cái nồng nhiệt và sự non nớt, những quầng sáng và những bóng mờ, có cả nụ cười và nước mắt...” [49, tr.18]. Nhìn chung, đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mĩ có nhiều người viết, nhưng theo sự đánh giá của Đinh Quang Tốn thì: “Lê Lựu là người viết thành công nhất” [49, tr.22] và “ Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy 30 tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng. Nói thế để thấy, trong văn học Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể.” [49, tr.22] Trung Trung Đỉnh trong bài “Dương Hướng và Bến không chồng” đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991 đã đưa ra một số nhận xét về mặt đề tài, nội dung và kết cấu của tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng. Về mặt đề tài, tác giả Trung Trung Đỉnh nhận xét: “ Có người nói, tiểu thuyết Bến không chồng viết về đề tài nông thôn. Lại có người nói, tiểu thuyết
  8. này viết về đề tài chiến tranh. Có người lại cho rằng đây là cuốn sách viết về đề tài xã hội. Tất cả đều có đấy, nhưng theo tôi Dương Hướng không nhằm vào đề tài. Anh khai thác đến tận cùng thân phận những nhân vật chính....” [8, tr.99]. Để lí giải cho ý kiến của mình, tác giả bài viết đã đưa ra dẫn chứng về cuộc đời, thân phận các nhân vật như: nhân vật Nguyễn Vạn suốt cả đời gìn giữ cái bóng của vinh quang mà đánh mất đi cái chính yếu là bản thân mình, cá nhân mình; các nhân vật nữ như bà Nhân, bà Khiêm, mụ Hơn, cô Hạnh, cô Thủy, cô Dâu..., mỗi người một hoàn cảnh, một thân phận khác nhau và đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc; Về mặt nội dung, tác giả Trung Trung Đỉnh cảm nhận được sự chân thật, giản dị trong ngòi bút hiện thực của Dương Hướng qua việc miêu tả ngôi làng Đông, những con người của làng Đông, những cảnh sinh hoạt thường nhật, những nếp nghĩ, tình cảm, cách cư xử... tự nhiên, gần gũi như nó đang diễn ra trước mắt người đọc, khiến người đọc như đang được sống trong không khí của làng, được hòa nhập vào cuộc sống của người dân; Còn về kết cấu của tiểu thuyết, Trung Trung Đỉnh chỉ ra: “Cuốn sách được kết cấu một cách hồn nhiên, thuận theo chiều thời gian, theo sự kiện chung của đất nước trong khoảng thời gian đó, và theo sự đến với thân phận từng nhân vật. Chính vì thế anh không mất nhiều thời gian trong việc tính toán chương hồi, mặc dù vẫn có chương hồi” [8, tr.99]. Ở đây, tác giả Trung Trung Đỉnh cũng có chỉ ra những mặt hạn chế của cuốn tiểu thuyết này, đó là quá trình dẫn dắt “có những chỗ sắp xếp vụng và đôi khi lại thiếu sự tế nhị của nghề nghiệp”, “ phần đầu dài quá. Câu chữ có chỗ hơi luộm thuộm quá. Cái cười của cô Dâu cứ hi hí thế, e tự nhiên chủ nghĩa quá” [8, tr.100]... Thế nhưng, tác giả bài viết lại đánh giá “đây là nhược điểm của người say”, đấy là biểu hiện cái say của người nghệ sĩ Dương Hướng giữa làng Đông. Nhưng cuối cùng, ưu điểm vẫn là chủ yếu, tác giả Trung Trung Đỉnh thừa nhận: “Anh chiếm lĩnh được tâm hồn người đọc bằng sức hút của tấm lòng yêu thương nhân hậu, tự nhiên, không ồn ào văn vẻ với một bút lực dồi dào đầy trách nhiệm. Dương Hướng là người có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm trước những số phận bi ai, không né tránh nửa vời khiến cho thiên truyện càng tới những trang cuối càng
  9. dồn nén, dồn nén đến nghẹt thở” [8, tr.98] Về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Hữu Sơn, trong cuốn Điểm tựa phê bình văn học có bài: “Bóng đêm - Một phương diện tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma” chủ yếu khảo sát thủ pháp nghệ thuật, cụ thể là thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết này. Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn thì tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma “không có những trang miêu tả, thể hiện thời gian tâm lí, tâm trạng gây ấn tượng như Sầu đong càng lắc càng đầy – Ba thu dồn lại một ngày dài ghê! (Truyện Kiều), song chính mối liên hệ giữa các biến cố, sự kiện với thời điểm nảy sinh các biến cố, sự kiện đó mới là đặc điểm chính yếu tạo nên đặc trưng thời gian cho tác phẩm” [43, tr.131-132]. Và đặc trưng thời gian của tác phẩm là thời gian bóng đêm. Các phân đoạn mở đầu hay kết thúc trong tác phẩm cũng gắn liền với cảnh chiều tà, bóng tối. Phần lớn những thời gian được đặc tả trong tác phẩm là thời gian bóng đêm, hơn thế nữa “chúng lại thuộc về đêm cuối tháng không trăng sao, hoặc có trăng thì chỉ thấy hình hài kì dị, không bao giờ được miêu tả như cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên” [43, tr.133]; Đêm cũng là thời điểm bộc lộ thân phận, tính cách của con người: ngay đầu tác phẩm là những hồi ức về chuyện mấy mươi năm trước lão Quềnh đã từng gặp ma và ăn ở với ma trong đêm, rồi đến cảnh đám ma cụ cố Đại trong đêm, cảnh Thó lợi dụng đêm tối bê trộm hũ rượu, cảnh bí thư Thủ và phó công an Cao đã bày trận địa giả đẩy bà Son phải ra mặt chống ông Phúc - người tình của bà năm xưa nay là là kẻ thù của dòng họ nhà chồng cũng được tiến hành trong đêm, bà Son bị dồn đẩy cũng lao mình xuống sông tự vẫn giữa đêm tối...; Thời gian bóng tối là thời gian của ma quỉ, hắc ám, hiểm họa, là sự đồng lõa với tâm địa đen tối của từng con người, những phe nhóm , những “chi bộ gia đình”, những sự ăn chia ngấm ngầm của các đối thủ, hay nói cách khác nó là thời gian cho phần ma trong con người được bộc lộ....Chính vì thế, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã kết luận: “Thời gian đêm tối là sự thống lĩnh trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, đồng thời nó lấn át ánh sáng của trăng sao, càng vượt qua, thậm chí triệt tiêu sự mô tả ánh bình minh, mặt trời, nắng ấm rực rỡ, hoa nở, chim bay...”. Và trong
  10. khi khảo sát cái không khí hắc ám, ngột ngạt của bóng tối trong tác phẩm, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã tìm ra một tầng giá trị khác của tiểu thuyết này: “phải chăng ý nghĩa thanh lọc, khát khao hoàn thiện tính người, dứt bỏ bóng đêm ma quỉ mới chính là thông điệp tác giả muốn gửi tới bạn đọc”[43, tr.135]. Lê Thị Tâm Hoài trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu đề tài: “Người phụ nữ trong ba tiểu thuyết đoạt giải năm 1991”. Bến không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường là hai trong số ba tiểu thuyết đó. Ở bài viết này, tác giả Lê Thị Tâm Hoài đi sâu khai thác hình ảnh, vẻ đẹp và bi kịch của những người phụ nữ thể hiện trong ba tiểu thuyết. Đọc bài viết này ta sẽ thấy bà Nhân, cô Hạnh...(Bến không chồng), bà Son, cô Đào...(Mảnh đất lắm người nhiều ma) đã được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Họ đều là những người phụ nữ đẹp, đẹp ở hình thể, đẹp ở tâm hồn, đẹp trong bản năng... Nhưng cuộc đời họ cũng đầy bất hạnh, đầy bi kịch chỉ vì họ sinh ra là phụ nữ, họ phải chịu đựng biết bao áp lực, định kiến ở đời.... Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều bài viết chúng tôi muốn lấy làm ví dụ minh họa cho sự quan tâm, những vấn đề nghiên cứu khác nhau của các tác giả về ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Có thể nói, khi nghiên cứu ba tiểu thuyết này, các nhà nghiên cứu hầu như không phân tích sâu bức tranh xã hội nông thôn thể hiện trong các tác phẩm, mà chỉ chạm tới, chỉ nói qua. Dẫu không phải là tiền sử của vấn đề luận văn nghiên cứu, nhưng các bài viết vẫn có giá trị tham khảo rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng vấn đề nông thôn không mới, không đặc biệt trong nghiên cứu văn học, cũng không mới trong phạm vi nghiên cứu các tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Nhưng việc đi sâu nghiên cứu bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam một cách có hệ thống dựa trên ba tiểu thuyết kể trên lại là một việc tương đối mới mẻ, tương đối khái quát. 3. Đối tượng nghiên cứu Viết về nội dung nông thôn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, có thể kể tên nhiều tác phẩm như: Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Người giữ đình làng
  11. (Dương Duy Ngữ), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)... Nhưng, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát bức tranh nông thôn miền Bắc Việt Nam qua ba tác phẩm: Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường). 4. Phạm vi nghiên cứu. Nhìn chung, các tiểu thuyết thời kì đổi mới phản ánh nhiều vấn đề xã hội như: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, vấn đề con người và quan niệm về giá trị con người trong thời kì mới... Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề của nông thôn miền Bắc qua một số tiểu thuyết như đã xác định ở trên. 5. Mục tiêu của việc nghiên cứu - Những đóng góp. Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục tiêu sau: Thứ nhất, trong khi nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn được trình bày trong ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn tại và nảy sinh trong bức tranh văn hoá làng quê Việt Nam thời kì đổi mới. Thứ hai, chúng tôi quan tâm đến vấn đề con người cũng như quan tâm đến việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của người nông dân trước sự thay đổi của xã hội. Thứ ba, bên cạnh những tìm tòi về nội dung thể hiện của tác phẩm, chúng tôi cũng thực sự chú ý đến phong cách chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực của các tác giả. Đạt được những mục tiêu kể trên, đề tài cũng có những đóng góp nhất định, đó là đưa ra một cái nhìn tương đối khách quan, toàn cảnh về nông thôn miền Bắc Việt Nam trong thời kì mới. Thêm nữa, những điểm hạn chế của đề tài, thiết nghĩ, cũng có thể tạo hứng thú cho những ai cùng có mối quan tâm đến vấn đề này.
  12. 6. Phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu và mục đích cần hướng tới của luận văn, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích - loại hình: Nắm vững đặc trưng, phương pháp luận loại hình thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra và phân tích những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con người và những bi kịch mà con người phải chịu đựng sau luỹ tre làng. Phương pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét sự vận động và chuyển biến của xã hội theo xu thế tất yếu của nó, để từ đó cố gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội và con người thể hiện trong các tiểu thuyết. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng không nhiều, nhưng chúng tôi có sử dụng để so sánh ba tiểu thuyết kể trên với một số tiểu thuyết khác cùng thời có phản ánh những vấn đề liên quan đến vấn đề luận văn đang nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có ý thức vận dụng những hiểu biết về thi pháp học hiện đại kết hợp với cảm thụ truyền thống để nghiên cứu, chiếm lĩnh tác phẩm theo quan niệm của mình. Đồng thời, cũng có ý thức tham khảo những ý kiến đánh giá, nhận xét đã có về từng tác phẩm. Nhưng, cái chính yếu là chúng tôi luôn cố gắng cảm nhận tác phẩm dựa trên ý nghĩa bản thân nó. Chúng tôi hi vọng những gì thể hiện trong luận văn này sẽ hạn chế được phần phiến diện chủ quan. 7. Kết cấu luận văn. Luận văn gồm 113 trang. Ngoài hai phần dẫn luận và kết luận, luận văn có ba chương: Chương I: Bức tranh văn hoá làng quê trong ba tiểu thuyết: Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma. Chương II: Bi kịch của con người nông thôn. Chương III: Nghệ thuật miêu tả hiện thực.
  13. Chương 1 BỨC TRANH VĂN HOÁ LÀNG QUÊ TRONG BA TIỂU THUYẾT: THỜI XA VẮNG, BẾN KHÔNG CHỒNG, MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA 1.1 . Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán Nền văn hoá truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nền văn hoá nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi người Việt Nam đều gắn bó mật thiết với xóm làng, quê hương. Chính bởi vậy, nói đến văn hoá làng quê là đề cập đến một bức tranh nhiều màu sắc của sự đa dạng phong phú những phong tục tập quán. Phong tục tập quán là những nền nếp đã lan truyền rộng rãi, thói quen phổ biến, có từ lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác. Nội dung phong tục tập quán bao hàm tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội. Trong văn hoá Việt Nam, phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phong tục tập quán, một thực tế cần phải nhìn nhận là có những phong tục tập quán tốt, tích cực, có những phong tục tập quán không tốt, tiêu cực. Dẫu vậy, dù tốt hay không tốt, dù tích cực hay tiêu cực thì những phong tục tập quán ấy cũng góp phần hình thành nên sự đặc sắc của văn hoá nông thôn, sự đặc sắc của văn hoá dân tộc. Trong cái ý thức tiểu nông tồn tại từ bao đời, người nông thôn thường có quan niệm: “ăn cây nào rào cây ấy”, ở các làng quê Việt Nam, người ta thường có xu hướng thích đề cao làng mình. Với họ, làng mình cái gì cũng nhất, cái gì cũng hơn thiên hạ: “Đình làng Đông to nhất. Cây quéo làng Đông cao nhất. Cầu đá làng Đông đẹp nhất; nước sông Đình cũng mát nhất” [18, tr.9]. Chính vì vậy, bất cứ địa danh nào nổi bật của địa phương cũng được người ta nâng niu bằng vô số những câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết hoá chúng; một mặt, để bồi dưỡng thêm sự gắn bó, lòng tự hào của người dân; mặt khác, để cho bất cứ ai đến làng mình, nghe chuyện làng mình cũng phải nhớ, cũng phải ấn tượng...
  14. Cái làng Đông của Bến không chồng dẫu nhỏ bé và cũng bình dị như bao làng quê khác, nhưng nó lại là cái kho của những huyền thoại. Từ dòng sông, bến nước, đến bãi tha ma của làng đều ẩn chứa bao câu chuyện thần bí. Nào là chuyện về hồ “mắt tiên” quanh năm trong vắt, là nơi mà đàn bà con gái làng Đông có nỗi oan khuất đều trốn ra hồ tắm để được giải oan. Người ta kể rằng, cô Ngần – một người con gái đẹp nhất làng Đông - bị cha mẹ ép gả cho người cô không yêu nên đêm tân hôn cô trốn ra hồ nước giữa đồng tự vẫn, từ đó, cái hồ nước tanh hôi như một vũng nước trâu đằm, lau sậy um tùm, cá rúc, quốc lủi hôi xì, đỉa bơi cung quăng, ếch nhảy chòm chõm... bỗng trở nên trong vắt quanh năm, cỏ lau lụi tàn, quốc, cú lủi sạch, đỉa cũng mất tăm và chính nhờ hồ mắt tiên mà gái làng Đông da cô nào cũng trắng mịn, mang nhiều nét khêu gợi của tiên nữ; Nào là chuyện gò ông Đổng, nơi yên nghỉ của người con trai làng Đông dũng cảm, không chết nơi trận mạc mà chết khi trở về nghe tin vợ ngoại tình. Và người ta bảo trai làng Đông cũng có chí khí khác thường vì mang dòng máu của người chiến binh năm xưa; Nào là chuyện về con ma ở gốc ruối đầu cánh mả Rốt chuyên hãm hiếp những người đàn bà goá chồng; Nào là chuyện ba ba thuồng luồng ngoài bến sông... Rồi đến cái làng Giếng Chùa trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, quanh năm vật lộn với cái ăn cái mặc, với việc chia ruộng đất, với những mưu đồ về địa vị..., cũng tồn tại không ít giai thoại. Làng Giếng Chùa không biết từ bao giờ tồn tại câu ca: “Ai may được ngọc Giếng Chùa , rủi ai núi Bụt thả bùa trêu ma”. Các câu chuyện được kể đều liên quan đến câu ca đó. Người ta kể rằng hồi làng còn chùa, còn chiếc giếng làng to bằng gian nhà kè đá ong trước cửa tam quan, người ta có thể bắt được ngọc ở đó. Hay những câu chuyện ma mãnh trên núi ông Bụt: ma trêu người trần, ma quyến rũ người trần... Mỗi làng đều xây dựng những kho truyền thuyết khác nhau và không thua kém nhau về mức độ hấp dẫn. Những kho truyền thuyết ấy được hình thành từ tình yêu làng quê thôn xóm thiết tha, sâu lắng, xuất phát từ nhận thức giản đơn, ngây thơ của người dân và ý thức muốn tôn vinh làng, tôn vinh những con người của làng mình. Bởi thế nên, thế hệ trước nối thế hệ sau, luôn nhắc nhở nhau một ý
  15. thức: đã là người làng mà “không biết tích làng là hỏng”. Làng không chỉ là những truyền thuyết, cuộc sống thực của các làng quê với sự đa dạng, phong phú về các quan niệm, về đời sống tín ngưỡng, về những mối quan hệ giữa con người với làng, giữa người với người trong đời sống thường nhật... cũng là một cái mỏ vô tận cho ta khai thác, thưởng thức. Trong đời sống tín ngưỡng, người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung tiếp thu tư tưởng phật giáo, thường hay có tục thờ cúng ông bà tổ tiên. Đây là một nét văn hoá đẹp. Đối với các dòng họ ở nông thôn, mỗi năm họ có một ngày giỗ tổ, hay còn gọi là ngày chạp tổ. Việc này do tộc trưởng chủ trì. Người trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Trưởng họ còn thường được hưởng ruộng hương hoả, tự điền để lấy kinh phí lo việc họ. Ruộng hương hoả, tự điền nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược lại. Sau này, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn ruộng hương hoả, những người trong họ sẽ cùng nhau đóng góp theo các xuất đinh của từng gia đình ( gia đình có bao nhiêu nam thì tương đương bằng ấy xuất đinh) để lo sửa sang nhà thờ họ, cúng kính, cỗ bàn... Ngày giỗ tổ hàng năm là ngày con cháu sinh sống, làm ăn ở khắp mọi nơi về họp mặt đông đủ để tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã chết và để những người còn sống trao đổi thông tin về cuộc sống, thắt chặt thêm tình anh em máu mủ ruột già, dây mơ rễ má... Dòng họ Nguyễn trong Bến không chồng cũng có những ngày giỗ tổ như thế. Họ Nguyễn to nhất làng Đông. Từ đường họ Nguyễn cũng to nhất làng Đông. Ngôi từ đường ấy gồm ba gian cùng với một gian hậu cung, nơi đặt bàn thờ tổ: “Ba gian từ đường có hai hàng cột cái và hai hàng cột con, cả thảy là mười sáu cột. Những chiếc cột lim to một ôm đẫy cứ đen bóng lên. Các chân cột đặt tảng đá xanh nổi vân trắng, nền từ đường lát đá đỏ, ngoài thềm lát đá xanh. Gian hậu cung cuốn bằng gạch chỉ vữa trộn mật với vôi, cát, rắn như đá. Trên bệ thờ là những con rồng sơn son thiếp vàng rực rỡ, cỗ ngai đặt ở giữa bệ thờ, có bát hương to lúc nào cũng toả khói thơm ngát. Gian giữa từ đường thêm bốn câu đối trên bốn cột cái” [18, tr.22]. Đấy chính là mồ hôi nước mắt của cả họ tộc qua bao đời đã để lại.
  16. Cái cơ ngơi ấy do cụ Nguyễn Nghiên, người đứng đầu dòng họ Nguyễn lúc bấy giờ cai quản. Gia đình cụ Nguyễn Nghiên mấy đời độc đinh, sau cụ Nguyễn Nghiên, đến con trai ông là Nguyễn Khiên, rồi cuối cùng là Nghĩa – cháu nội ông. Lễ chạp tổ được nói đến trong tiểu thuyết rơi vào đời ông Nguyễn Khiên, khi ông mới hơn bốn chục tuổi. Đấy là cái lễ chạp tổ đầu tiên sau ngày hoà bình, vì vậy, các cụ trong họ bảo phải làm thật to. Họ bàn bạc, tranh cãi và cuối cùng quyết định “chín chục mâm, mỗi mâm hai bát năm đĩa. Ban sắp cỗ gồm bảy tay dao thớt, sáu đàn bà ngồi bếp, hai thanh niên bổ củi, bốn cô gái gánh nước. Ngoài ra còn các nhân vật chén bát sai vặt.” [18, tr.25]. Có thể nói, ngày chạp tổ chính là ngày hội, là thế giới tinh thần, vật chất của cả họ. Mỗi năm có một ngày chạp tổ, mỗi nhà một cảnh, quanh năm làm ăn, bỗng dưng lại tụ tập đánh chén một bữa, đoàn kết, thân mật, không phân biệt sang hèn, không phân chia địa vị: “từ ông giáo Thảo đức độ có tiếng, đến nhà chú Bỉnh chuyên đi trộm khoai, trộm chuối, từ ông Hưng phó chủ tịch đến nhà chú Dĩ ba đời gắp cứt trâu...” [18, tr.27]. Dẫu rằng việc tổ chức giỗ chạp linh đình, rùm beng như vậy có hơi tốn kém về thời gian và tiền bạc, lại dễ nảy sinh mê tín dị đoan... Nhưng chính việc ấy, nếu được tổ chức đúng mức, sẽ phát huy được thuần phong mĩ tục, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân ta. Như đã nói ở trên, cũng như một số nước phương Đông khác, phần đông người dân Việt theo tín ngưỡng phật giáo, có tập tục thờ cúng người chết vì họ tin rằng con người có phần hồn, phần xác, có kiếp trước, kiếp sau. Cái quan niệm ấy có thể khiến người ta sống tốt hơn, lương thiện hơn để tu nhân tích đức cho hậu thế, tránh quả báo ở đời. Thế nhưng, cái suy nghĩ ấy cũng làm hình thành trong nhân dân biết bao điều mê tín, bao hành động ngây thơ, mù quáng đến là tức cười. Bà đồ Khang (Thời xa vắng) thấy con trai bị cảm lạnh, mê man bất tỉnh, không đi kiếm thầy thuốc mà vội vàng ra sân để “gọi hồn, gọi vía” con về. Quan niệm dân gian cho rằng con người ta, con trai có “ba hồn bảy vía”, con gái có “ba hồn chín vía”. Hồn, vía có thể thoát khỏi xác khi giật mình, khi sợ hãi quá, khi ngủ hoặc là khi ngất xỉu... Thằng Sài sợ đòn, trốn cha ngoài cánh đồng trong một đêm
  17. sương giá nên bị cảm đến mức hôn mê. Với niềm tin như thế, bà đồ Khang và mọi người hốt hoảng cầu gọi: “Ba hồn bẩy vía thằng Sài đâu thì về”, Bẩy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi con”, “Bẩy vía ba hồn thằng Sài ở đâu tthì về với bố , với mẹ Sài ơi”... Cũng may, ngoài gọi hồn, gọi vía, người ta còn kết hợp với những cách giải cảm dân gian khác nên thằng Sài mới thoát chết. Cũng từ những quan niệm mê muội, ấu trĩ ấy mà làng Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) lổn nhổn, lẫn lộn người với ma, ma với người. Người ta tin vào cái tài cai trị phần âm của làng của cô Thống Bệu, dù rằng ai cũng biết cô “vừa giỏi việc âm, lại vừa tài việc dương”, bởi cô cũng có vợ và con đàn cháu đống hẳn hoi. Người ta tin vào những câu chuyện ma do người này người kia kể. Người ta cũng tin rằng người chết có thể nhập hồn vào người khác để trả lốt những ân oán, nợ nần trên cõi trần... Bởi vậy mà cái xã hội Giếng Chùa nhỏ bé xảy ra biết bao chuyện lạ lùng, ma nhập vào người, người đội lốt ma, có người mê tín, có người lợi dụng chuyện mê tín..., khiến cho làng Giếng Chùa tồn tại toàn những ma là ma, cả ma sống và ma chết... Bức tranh văn hoá làng quê có lẽ thể hiện sinh động nhất trong các mối quan hệ của con người trong đời sống thường nhật. Tiền thân là một xã hội phong kiến tồn tại suốt hơn một ngàn năm, ảnh hưởng sâu sắc những chuẩn mực đạo đức theo quan điểm Nho, Phật, Đạo nên khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa rồi đến nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời thì những quan điểm ấy vẫn luôn thực sự ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Chính vì thế, trong gia đình người Việt Nam nói chung luôn có sự nề nếp, có trên có dưới, quan hệ cha – con, chồng – vợ, anh - chị – em với vai vế rõ ràng. Chẳng thế mà, cha để di huấn bảo phải đào mộ kẻ thù để giải quyết ân oán, dù sợ run nhưng Trịnh Bá Hàm (Mảnh đất lắm người nhiều ma) vẫn cứ thực hiện. Thủ (Mảnh đất lắm người nhiều ma) đường đường là một bí thư đảng uỷ xã, ai cũng nể, cũng sợ, nhưng lại tuyệt đối “chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả” [52, tr.81]. Rồi tất cả những người phụ nữ như bà đồ Khang, vợ Tính, Tuyết (Thời xa vắng), bà Khiên, bà Nhân (Bến không chồng), bà Son, bà Dần (Mảnh đất lắm người nhiều ma)...cũng cung cúc tuân
  18. theo đạo đức phong kiến tồn tại từ bao đời: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cả đời họ chỉ biết tuân phục, hi sinh và cống hiến. Bên cạnh những người đàn ông của đời mình, họ cam chịu kiếp dây leo, không một lúc nào dám tự sống, sống cho riêng mình. Con người bên cạnh cuộc sống riêng tư, những mối quan hệ riêng tư, còn tồn tại với vai trò là tế bào của xã hội. Nói như vậy có nghĩa là ta đang nói đến mối quan hệ giữa con người với làng xã, hay nói cách khác là nói đến trách nhiệm của người dân khi sống trong làng. Cha ông ta nói: “phép vua thua lệ làng”. Có nghĩa là bên cạnh những luật lệ chung của quốc gia, luôn tồn tại những thứ “hương ước” của riêng từng làng được hình thành và điều chỉnh qua nhiều đời, không người dân nào dám chống đối và nó cũng không dễ gì bị phá bỏ. Và những “lệ làng” ấy hầu như đều hướng tới mục đích xây dựng, phát triển làng tốt hơn, nền nếp hơn, phồn thịnh hơn. Con đường chính giữa làng Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) dài gần một cây số được lát toàn bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh – Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên trải qua bao nhiêu thời gian, nó vẫn chắc khừ. Có một con đường sạch sẽ, đẹp đẽ như vậy là vì từ xưa làng có lệ mỗi đám cưới phải nộp 200 viên gạch: “Trai làng lấy gái làng nộp 200, thế tức là mỗi bên chỉ có 100 viên thôi. Nhưng nếu trai làng gái làng đi lấy vợ lấy chồng ở đất khác, thì gia đình cũng cứ phải chồng đủ 200 viên” [52, tr.5]. Ngoài ra, làng còn qui định những người đỗ tú tài trở lên, những người nhận chức từ lí trưởng trở lên cũng phải mừng làng 200 viên gạch. Những cô gái hoang thai cũng phải tạ làng 200 viên gạch. Đấy là chưa kể những người đi xa về như ông Quản Ngư cũng bày tỏ nỗi nhớ làng bằng việc tặng cho làng 200 viên gạch ... Người ta cống hiến cho làng bằng nhiều cách, có người tự nguyện, có người bị cưỡng ép, có người vui vẻ, có người oán hận... Nhìn chung, đường làng được lát bằng cả những niềm vui, niềm hạnh phúc, sự kiêu hãnh về chức danh, và được lát bằng cả những nỗi khổ đau ê chề, sự tủi cực của những mảnh đời. Nhưng đấy là lệ làng, không ai dám cãi, không dễ phá bỏ, ai không tuân theo thì chỉ có cách bỏ làng mà đi.
  19. Những định chế của làng cùng lối sống thuần nông khiến cho cuộc sống của người nông thôn vừa đa dạng vừa vô cùng phức tạp. Mối quan hệ giữa những con người trong làng trong xã cũng vì thế mà mang nhiều sắc thái, vừa cả nể vừa du di, vừa dễ dãi vừa khe khắt, vừa tình cảm, khắng khít vừa tọc mạch, ti tiện, vừa tự ti vừa tự tôn... Khác với lối sống thờ ơ, đèn nhà nào nhà ấy sáng ở thành phố, ở nông thôn, hầu như cả xóm, cả làng, cả xã đều biết nhau. Chính điều đó tạo nên quan hệ, lối sống tình cảm, gắn bó giữa các gia đình trong cộng đồng thôn, xã; tạo nên cái nếp sống đẹp “tối lửa tắt đèn có nhau” ở các làng quê. Thế nhưng, ngay trong cái tình đoàn kết, cái kiểu sống “tối lửa tắt đèn có nhau” ấy lại nảy sinh vấn đề phức tạp, nảy sinh tình trạng “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”. Hay nói cách khác, người nông thôn hay có thói quen để ý, xét nét, thóc mách chuyện nhà người khác và lan truyền thông tin rất nhanh. Đến cái xóm Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) trong những ngày đói ta sẽ thấy ngay điều đó. Vào những ngày giáp hạt, xóm Giếng Chùa nổi tiếng sung túc nhất xã cũng rơi vào cảnh đói vàng mắt. Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà phải luộc chuối xanh chấm muối. Những nhà thường xuyên túng bấn thì bây giờ đứt bữa hẳn. Cả làng, đi đâu cũng thấy những mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tưởng như đang vội vã đi đâu, nhưng kì thực chẳng có việc gì hết, cứ ra vào quanh quẩn với cái bụng eo sèo. Ấy thế mà họ vẫn còn thời gian, sức lực để “quan tâm” đến cuộc sống của người khác. Họ biết được nhà bà đồ Ngật, “người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách cái làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì cá chép cả con giãy đành đạch” [52, tr.6], nay cũng phải ăn bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chăn gà. Họ cũng biết gia đình ông Quản Ngư, người “với hai bàn tay trắng đã chu du đến nửa vòng trái đất”, nói cái gì cũng “độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứ đá ngược lên tận mái ngói, đến quăn cả mồm miệng” [52, tr.7], giờ cũng phải đóng cửa ăn cháo cám, đến nỗi thằng con bị táo bón phải ôm gốc khế, chổng mông lên cho ông bố lấy que “đào”. Và trong các cuộc họp chi bộ, họp xã..., người đi họp chưa về đến
  20. nhà thì người ở nhà đã tiếp nhận đầy đủ thông tin cuộc họp do “thông tấn xã vỉa hè” đưa lại... Cái gần gũi, tình cảm trong đời sống thôn quê đôi khi trở thành thóc mách, lắm chuyện. Nhưng chính điều đó lại trở thành một nét đặc trưng của văn hoá làng. Song hành với thói quen xét nét cuộc sống của những người xung quanh thì người nông thôn lại rất thích phô trương cuộc sống sung túc của mình cho làng xóm thấy. Bởi vì, trong tâm thức của họ luôn quan niệm rằng: “Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng như anh nhọ đít” [52, tr.75]. Chính vì thế, người ta thích mua sắm, tích cóp được chút tiền nào là lo sắm sửa đồ đạc. Thậm chí, đói cũng bóp bụng sắm. Nhà anh Tính (Thời xa vắng) ở trong cái làng Hạ Vị lụt lội và cũng chẳng giàu có gì, nhưng trong căn nhà của anh vẫn bầy biện và có cung cách ăn ở như bất cứ một nhà khá giả lịch sự nào trên tỉnh. Khi có khách quý đến nhà anh, họ sẽ được đón tiếp một cách khá long trọng, bài bản, đến nỗi, khách dù ăn cơm hay chỉ uống một cốc nước bột sắn cũng không có cảm giác làng Hạ Vị úi xùi. Sở dĩ như vậy là vì, trong khi cả làng Hạ Vị người ta không thể chấm thịt gà bằng thứ nước chấm gì khác ngoài món tiết luộc thì nhà Tính, dưới sự cố vấn của thằng cháu đã được đi tập huấn, tham quan cửa hàng ăn trên huyện, đã có đầy đủ những nguyên liệu bếp núc cần thiết như: hành, tỏi, hồ tiêu, ca ri, ớt khô, chanh, dấm, dâu ngâm, sắn dây, rượu thuốc... Khách đến sẽ được hưởng những mâm cỗ thịnh soạn, thức nào ra thức ấy, chứa chan tình cảm và kiến thức ẩm thực của chủ nhà...; Khách sẽ không thể biết được cái cảnh vợ con Tính sau đấy, đằng sau cánh cửa bếp, xì xụp bên những bát đĩa thừa thãi đã được dồn lại, cùng với bát bánh đúc ngô, một món ăn quen thuộc hàng ngày. Đến một vùng nông thôn đói nghèo như xóm Giếng Chùa (Mảnh đất lắm người nhiều ma) nhưng ngay trong những tháng giáp hạt khó khăn, người ta vẫn thi nhau sắm sửa nào là giường mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Ông bà dạy: “tốt khoe ra, xấu xa che lại”. Người dân ở đây phát triển triệt để ý nghĩa lời dạy đó. Với họ, đói mà được ngồi sa-lông gỗ lát cũng vênh vang, mát
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2