intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Cảm quan hậu hiện đại trong “Cuộc đời của Pi” (Y. Martel)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

29
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn của chúng tôi hướng đến lí làm rõ cách tri nhận hiện thực và các phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Cuộc đời của Pi mang dấu ấn của tư duy triết học hậu hiện đại. Từ đó, luận văn cũng chỉ ra sự riêng biệt trong cách hình dung về mô hình thế giới và về con người của nhà văn Yann Martel. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Cảm quan hậu hiện đại trong “Cuộc đời của Pi” (Y. Martel)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ BẠCH TUYẾT CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG “CUỘC ĐỜI CỦA PI” (Y. MARTEL) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học nước ngoài Hà Nội-2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ BẠCH TUYẾT CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG “CUỘC ĐỜI CỦA PI” (Y. MARTEL) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nước ngoài Mã số: 60 22 02 45 Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Như Trang Hà Nội-2015 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 4 4. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 4 6. Bố cục luận văn ............................................................................................. 5 CHƢƠNG 1: CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI ........................................................................................................ 6 1.1. Từ hoàn cảnh hậu hiện đại đến triết học hậu hiện đại .......................... 6 1.2. Cảm quan hậu hiện đại và những biểu hiện trong tiểu thuyết phƣơng Tây đƣơng đại .......................................................................................................... 13 CHƢƠNG 2: PI VÀ TRIẾT HỌC TÔN GIÁO ĐA NGUYÊN ................ 23 2.1Triết học tôn giáo đa nguyên và chủ nghĩa hậu hiện đại ....................... 23 2.2.Triết lí của Pi về đạo Hindu, về Thiên Chúa giáo và về đạo Hồi ......... 27 2.3. Mối liên hệ giữa thuyết đa tôn giáo của Pi và chủ nghĩa hậu hiện đại47 CHƢƠNG 3: TRIẾT LÍ VỀ NIỀM TIN - HIỆN THỰC VÀ TỰ SỰ PHI TRUNG TÂM ................................................................................................ 57 3. 1. Hai câu chuyện về một cuộc hành trình ............................................... 57 3.2. Ngƣời kể chuyệnkhông đƣa ra đáp án .................................................. 65 3.3. Ngƣời kể chuyện hƣớng ngƣời đọc đến sự “tự nhận thức” ................. 68 3.4. Lối tƣ duy hòa trộn các phạm trù đối lập ............................................. 71 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hậu hiện đại là khái niệm được dùng để chỉ một giai đoạn phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật, nghệ thuật cao… của nhân loại. Theo Lyotard – triết gia người Pháp: “Hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự.” Sau cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, cả Thế giới không an bình với những cuộc chiến, cuộc chạy đua vũ trang, với sự ra đời của hàng loạt thứ vũ khí hủy diệt... Xã hội loài người bước vào giai đoạn phát triển khoa học kĩ thuật siêu tốc, vào thời đại “hậu công nghiệp”, những thành tựu khoa học – công nghệ cùng cuộc sống thương mại hóa biến động không ngừng nghỉ đã dần làm biến chất nhiều quan điểm hay những giá trị nhân văn vốn có. Tất cả đem lại “chất liệu” cho sự hình thành nhận thức luận của chủ nghĩa hậu hiện đại, góp phần làm thay đổi sâu sắc tư tưởng, tình cảm, tâm lí và tư duy của con người. Con người cần một cảm quan mới để cảm nhận và lí giải hiện thực đầy biến động và phức tạp. Con người trở nên hoài nghi tất cả, hoài nghi lí trí, hoài nghi chân lí, hoài nghi những giá trị được xem như vĩnh hằng. Đó cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo chúng tôi, chủ nghĩa hậu hiện đại thực chất cũng là một cảm quan. Với quan điểm hoài nghi lí trí, chân lí cũng như các giátrị được cho là chuẩn mực và vĩnh hằng, chủ nghĩa hậu hiện đại nỗ lực xóa bỏ ranh giới độc lập giữa nhận thức lí tính và nhận thức cảm tính; bởi vì, cả lí tính lẫn cảm tính đều chỉ xuất phát từ một cơ thể sống. Nó đề xuất nhiệm vụ đi tìm bản nguyên của con người và vũ trụ, nền tảng của nhận thức và cách thức tri nhận thế giới, qua đó hòng cắt nghĩa đâu là tự do, hạnh phúc đích thực của con người. Một mặt nó thúc đẩy tri thức nhân loại tiến thêm, dùng khoa học – kĩ thuật làm nền tảng cho hành động, một mặt khách quan hóa cái nhìn về cuộc đời, giải phóng con người khỏi những định chế đã trở nên lỗi thời, kìm hãm bước tiến của nhân loại. “Chủ nghĩa hậu hiện đại dần dần tích tụ một chủ nghĩa tương đối cực đoan về mặt nhận thức và màu sắc hư vô về mặt nhân sinh” [33, tr.61]. Đã có nhiều “bậc tiên phong” góp phần tạo nên nền tảng hình 1
  5. thành và củng cố triết học hậu hiện đại, như Jean-Francois Lyotard, Jacque Derrida, Jean Baudrillard, Jurgen Harbamas, Frederic Jameson… Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học theo đó cũng xuất hiện và được xác định vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhằm miêu tả một khuynh hướng văn học tiếp nối chủ nghĩa hiện đại, thách thức những quy ước và truyền thống của văn học một cách quyết liệt. Nền văn học phương Tây giai đoạn này đặc biệt chịu ảnh hưởng của dòng chảy văn học hậu hiện đại, chủ yếu là trong tiểu thuyết. Lê Huy Bắc nhận định trong công trình của mình: “Bắt đầu từ cuối thập niên 1910 với thơ Đa Đa (1916), văn xuôi Franz Kafka (Biến dạng, 1915), và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi, 1952), chủ nghĩa hậu hiện đại tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên 1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở đi. Đây là khuynh hướng đối địch với chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ chấp nhận tính hư vô, hỗn độn, trò chơi và liên văn bản của tồn tại…” [11,tr. 32]. Life of Pi – Cuộc đời của Pi là cuốn tiểu thuyết được đánh giá cao của nhà văn Yann Martel, giúp ông nhận được giải thưởng văn học uy tín Man Booker năm 2002. Cuốn tiểu thuyết cũng là một tác phẩm nằm trong dòng chảy và sự chuyển biến của văn học hậu hiện đại. Nhiều tờ báo, chuyên san và các nhà phê bình đã dành những dòng viết đầy trân trọng đối với tác phẩm cũng như tác giả. Yann Martel sử dụng lối viết hậu hiện đại mang đến thành công cho cuốn tiểu thuyết, khơi gợi được trí tưởng tượng lẫn khả năng khám phá và cảm nhận thế giới, đồng thời góp phần làm rung động tâm hồn cùng cảm nhận của người đọc. Với đề tài Cảm quan hậu hiện đại trong tác phẩm “Cuộc đời của Pi” (Yann Martel), luận văn của chúng tôi tập trung làm rõ khía cạnhcảm quan hậu hiện đại được tác giả thể hiện trong cuốn tiểu thuyết. 2. Lịch sử vấn đề Cuộc đời của Pi là cuốn tiểu thuyết phiêu lưu kì ảo của Yann Martel được xuất bản vào năm 2001. Nó từng bị ít nhất 5 nhà xuất bản ở London từ chối trước khi được nhà xuất bản Knopf Canada (trực thuộc Tập đoàn Random House Canada) đồng ý xuất bản. Cuốn sách không chỉ mang lại cho tác giả Yann Martel nhiều giải 2
  6. thưởng cao quý và còn được hàng triệu độc giả trên thế giới yêu thích. Tính đến năm 2013, cuốn sách đã được dịch ra 41 thứ tiếng tại nhiều quốc gia khắp các châu lục. Đây chính là thành quả xứng đáng cho tài năng cũng như những cố gắng của tác giả. Rất nhiều phương diện của tác phẩm được các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu quan tâm khảo sát trong nhiều công trình. Có thể kể đến các phương diện như liên văn bản, giải cấu trúc, người kể chuyện không đáng tin… Ở tuyển tập Dialogues with traditions in Canadian literatures (Đối thoại với truyền thống trong nền văn học Canada) do Anna Branach và Piotr Sadkowski biên tập, Rata Slapkauskaite đã có bài viết về vấn đề liên văn bản trong tác phẩm Cuộc đời của Pivới bài “Investigating Intertextuality in Yann Martel‟s Life of Pi” (Nghiên cứu liên văn bản trong tác phẩm Cuộc đời của Pi của Yann Martel). Bài nghiên cứu này đã chỉ ra mối tương quan giữa tác phẩm Cuộc đời của Pi với các tác phẩm Robinson Crusoe của Daniel Defoe và Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea) của Ernest Hemingway cũng như mối tương quan giữa Pi Patel với Robinson Crusoe và ông già Santiago. McCollister trong“Pi‟s Individuality in his Personal Societies and a Postmodern World” (Cá tính của Pi trong xã hội cá nhân và thế giới hậu hiện đại) nghiên cứu về nhân vật Pi trên nhiều phương diện như tên gọi, tôn giáo, đức tin, nhân cách… Với Rebecca Duncan, bài viết Life of Pi as Postmodern Survivor Narrative (Cuộc đời của Pi với tư cách là câu chuyện của người sống sót hậu hiện đại) hướng về khám phá nhân vật Pi với tư cách là người kể chuyện không đáng tin, không đưa ra đáp án cuối cùng cho câu chuyện. Một số công trình khác nghiên cứu về tác phẩm này; chẳng hạn như Małgorzata Schulzvới The search for Identity in Life of Pi by Yann Martel năm 2009, The Intertwining of Incommensurables: Yann Martel‟s Life of Pi của James Mensch….cũng góp phần làm rõ những đặc trưng hậu hiện đại có trong tác phẩm Cuộc đời của Pi. Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về tác phẩm Cuộc đời của Pi chưa nhiều. Bài viết “Về Cuộc đời của Pi” của chính dịch giả Trịnh Lữ tham gia tham luận tọa đàm Dịch văn học – Lí tính hay cảm tính (2007) đưa ra những băn khoăn, 3
  7. hoài nghi cho chính bản thân mình trong quá trình tiếp cận và tiến hành dịch cuốn tiểu thuyết sang tiếng Việt. Đó là: liệu chăng ông có hay không có điều kì diệu đầu tiên của đời mình; là khi ông tự hỏi mình có hay không tín ngưỡng, có thì là gì và không có thì vì sao; hay trong đời ông đã có bao nhiêu cuộc giã biệt giống như cuộc chia li giữa Pi và con hổ Richard Parker… Bên cạnh bài viết của dịch giả, đa số các công trình có nghiên cứu về tác phẩm này thường đặt nó trong mối quan hệ với điện ảnh,tham luận “Hai chiều tiếp nhận hai tác phẩm Mật mã Da Vinci (Dan Brown) và Cuộc đời của Pi (Yann Martel) trong mối quan hệ biện chứng giữa Văn học - Điện ảnh” của tác giả Hoàng Hữu Phước, Đào Lê Na “Từ tác giả văn học đến tác giả điện ảnh – Tri âm và sáng tạo” được in trong tập “Những vấn đề ngữ văn” nhắc tới tác phẩm trong mối quan hệ cải biên tác phẩm văn học. Các công trình đó đã gợi ý cho chúng tôi một số phương diện khi tiếp cận tiểu thuyết Cuộc đời của Pi từ góc nhìn hậu hiện đại. Tuy nhiên, công trình của chúng tôi nhấn mạnh nhiều đến cảm quan triết lí hậu hiện đại và sự khúc xạ của nó trong cả phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn của chúng tôi hướng đến lí làm rõ cách tri nhận hiện thực và các phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Cuộc đời của Pi mang dấu ấn của tư duy triết học hậu hiện đại. Từ đó, luận văn cũng chỉ ra sự riêng biệt trong cách hình dung về mô hình thế giới và về con người của nhà văn Yann Martel. 4. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng khảo sát cho đề tài của chúng tôi là cuốn tiểu thuyết Cuộc đời của Pi (Life of Pi) – tác giả Yann Martel, Trịnh Lữ chuyển ngữ, nhà xuất bản Văn hóa cùng công ty Nhã Nam phát hành bản tái bản năm 2014. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp thi pháp học, liên văn bản và thông diễn học . 4
  8.  Thi pháp học: nghiên cứu về đặc trưng, tổ chức, các phương thức, phương tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của tác phẩm; nghiên cứu quy luật nội tại, cấu tạo và phong cách của tác phẩm.  Liên văn bản: nghiên cứu những mối liên hệ khác nhau có thể có giữa văn bản tiểu thuyết với những văn bản khác. Các thao tác nghiên cứu được vận dụng: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… 6. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương sau: CHƢƠNG 1: Cảm quan hậu hiện đại và tiểu thuyết hậu hiện đại. CHƢƠNG 2: Pi và triết học tôn giáo đa nguyên. CHƢƠNG 3: Triết lí về niềm tin – hiện thực và tự sự phi trung tâm. 5
  9. CHƢƠNG 1: CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI 1.1. Từ hoàn cảnh hậu hiện đại đến triết học hậu hiện đại Chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là sản phẩm của kỉ nguyên truyền thông đại chúng và công nghệ thông tin. Jean-Francois Lyotard, tác giả cuốn La Condition postmoderne (Hoàn cảnh hậu hiện đại) từng nhiều lần nhấn mạnh: “Hậu hiệu đại không phải là sự cáo chung của hiện đại... mà là một quan hệ khác với hiện đại” [34, tr.15]. Ông cho rằng hậu hiện đại có mối quan hệ mật thiết với chủ nghĩa hiện đại thế kỉ XX. Điều đó có nghĩa, ông không xem chủ nghĩa hậu hiện đại là kết quả, là con đẻ hay sự phủ nhận chủ nghĩa hiện đại mà là “xử lí lại một số đặc điểm của hiện đại, nhất là tham vọng của nó trong việc đặt cơ sở cho đề án giải phóng toàn bộ nhân loại bằng khoa học kĩ thuật”. Và cũng theo ông, chính triết học hậu hiện đại thoát thai từ tinh thần của nghệ thuật hiện đại: “Triết học hậu hiện đại diễn đạt một cách suy lý những gì nghệ thuật hiện đại đã thể nghiệm bằng phương tiện nghệ thuật” [34, tr. 17]. Phần lớn các học giả đều đồng thuận về sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu vào khoảng thập niên 1950 (khi Châu Âu kết thúc sự tái thiết) và có ảnh hưởng từ khoảng thập niên 1960. Trước đó, từ hậu hiện đại đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng như nhà phê bình văn học người Tây Ban Nha Federico de Onis đưa từ này những bài viết của mình khoảng những năm 1930 để chỉ phong trào đổi mới văn học Tây Ban Nha – Châu Mỹ Latinh khoảng từ 1905 đến 1914. Nhưng phải đến Lyotard cùng với cuốn Hoàn cảnh hậu hiện đại, thuật ngữ hậu hiện đại này mới mang nội dung ý nghĩa như ngày nay. Lyotard cho rằng hậu hiện đại chính là “chỉ trạng thái của văn hóa sau những biến đổi tác động đến các quy tắc trò chơi [các luật chơi] của khoa học, văn học và nghệ thuật từ cuối thế kỉ XIX” [34, tr.53]. Theo Bùi Văn Nam Sơn, cuốn sách của Lyotard đã mô tả được “sự biến chuyển từ Hiện đại sang Hậu hiện đại: về phương diện xã hội học, những biến đổi nhanh chóng của xã hội tất yếu dẫn đến sự khủng hoảng về “tâm trạng” và hình thành nên một tâm thức (esprit) mới: tâm thức hậu hiện đại; về phương diện triết học, các 6
  10. hình thức “hợp thức hóa” cho khoa học cũng lâm vào tình trạng bế tắc, đặt ta vào một hoàn cảnh (condition) mới: hoàn cảnh hậu hiện đại, cần được giải quyết về mặt khoa học luận và triết học để thoát ra khỏi hoàn cảnh bế tắc ấy.”[34, tr.9] Sự xuất hiện và ảnh hưởng của thuật ngữ hậu hiện đại kéo theo những tranh luận sôi nổi, đôi khi khá gay gắt giữa những quan điểm đối lập nhau, bảo vệ và phản đối của các nhà triết học đương thời. Dẫu vậy, trải qua hành trình dài, hai khái niệm “thời hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại” dần khẳng định được vị trí, đưa sức ảnh hưởng lan tỏa khắp thế giới, trở thành khái niệm toàn cầu. Thuật ngữ hậu hiện đại khi mới xuất hiện trước tiên nhằm chỉ một khuynh hướng nghệ thuật ở phương Tây, ý tưởng cơ bản của nó là sự gợi mở, sự phá cách, sự sáng tạo vượt qua những chuẩn mực của chủ nghĩa hiện đại. Mặc dầu thuật ngữ hậu hiện đại xuất hiện khá sớm, song chủ nghĩa hậu hiện trở thành một trào lưu tư tưởng, văn hóa trong các ngành khoa học, văn học nghệ thuật phải tính đến những thập niên cuối thế kỉ XX khi hội tụ đủ các điều kiện về lịch sử – xã hội, khoa học – văn hóa, lí luận triết học. Về lịch sử xã hội: những cuộc chạy đua vũ trang liên tiếp của các cường quốc, đế quốc, các thiết chế chính trị nhằm đạt đến mục đích bành trướng thế giới, khống chế toàn cầu về quyền lực chính trị, kinh tế đã gây nên những cuộc chiến tranh thảm khốc, khiến loài người bị đặt trước nguy cơ khủng bố và diệt chủng. Nhân loại đã phải trải qua những thời khắc đen tối, đã có những trải nghiệm ghê sợ với những gì bộ phận độc tài gây ra cho nhân loại trong suốt Thế chiến thứ Hai. Những sự kiện vũ trang do các thế lực chính trị nhúng tay vào gây nên những chấn thương tinh thần cho con người,trong đó cần nhắc đến là những thảm họa ghê rợn như quá trình diệt chủng người Do Thái do phát xít Đức thực hiện và vụ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố ở nước Nhật là Hiroshima và Nagasaki của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ II, việc phát triển và sử dụng vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học. Cho đến thời đại ngày nay, những hậu quả chúng để lại vẫn khiến nhân loại rùng mình, những di chứng của chúng còn đặt con người vào trạng thái bất an, nghi ngờ đối với các đại tự sự. Ở đó, đại tự sự có thể hiểu đơn giản là những chân lí được coi là phổ biến, đúng đắn để hợp thức hóa, chính đáng hóa một yếu tố 7
  11. hay vấn đề nào đó, bao gồm cả chính trị và khoa học. Thời gian này, con người đẩy mạnh lạm dụng khoa học kĩ thuật để phục vụ cho mục đích chính trị, kinh tế có tính phi nhân bản. Với những sự kiện đó, tình hình thế giới tiếp tục chuyển động sang các đối cực khác nhau, tâm trạng căng thẳng luôn đặt trong xã hội lẫn con người. “Thế giới không còn an ninh, chiến tranh lạnh, đối kháng đông – tây, chạy đua vũ trang, bóng ma của vũ khí hạt nhân, chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam, Algiery, chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa quân phiệt, sự đàn áp các nhân sĩ tiến bộ” [33, tr.59, 60]. Trong lòng các nước tư bản phát triển và trên toàn thế giới, phong trào đấu tranh vì quyền con người, vì sự bình đẳng giới tính, chủng tộc, bảo vệ môi trường, môi sinh, phong trào công nhân… diễn ra hết sức gay gắt nhằm chống lại các khẩu hiệu mang tính chất ngụy trang tự do, dân chủ, văn minh đã phần nào làm lung lay thiết chế chính trị. Chính điều này tác động không nhỏ đến kết cấu tâm lí con người, từ chỗ duy lí về lí trí chuyển sang vào trạng thái hoài nghi, lo âu ngay trong thời hiện tại và tương lai. Những câu hỏi thế giới sẽ đi về đâu, con người sẽ sống thế nào, con người thực chất là ai; phải chăng khi đời sống vật chất càng cao, đời sống tinh thần càng nghèo nàn; đạo đức, tính nhân văn, niềm tin có còn đáng tin và có còn đáng để theo đuổi nữa không… đã và đang ám ảnh con người. Theo thời gian, không khí hoang mang, hoài nghi, bi quan, bất tín bao trùm lên hết thảy, vô hình chung trở thành thế giới quan chủ đạo của con người thời đại này. Về khoa học văn hóa: những thập niên cuối thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường. Sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực truyền thông – thông tin và sinh học cùng với sự tan rã của nhiều thế lực đối kháng trong chiến tranh lạnh chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đối tác kinh tế, thế giới bước vào một hệ thống mới, ở đó quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Vấn đề tiếp cận và hội nhập với sự vận động không ngừng của thế giới trở thành điều kiện tiên quyết cho nhân loại tồn tại và phát triển. Nếu không, con người sẽ trở thành kẻ cô độc và “hoang dại”, tưởng như không khác kẻ lạc giữa hoang đảo. Con người luôn cần có sự tương tác với nhau, và điều kiện phát triển của khoa học kĩ thuật giai đoạn này đáp ứng cho con người thực hiện điều ấy càng thêm dễ dàng. Hầu hết các tương tác 8
  12. của con người với nhau đều được thực hiện qua công cụ trung gian là các phương tiện truyền thông. Những thông tin, những tri thức, những sự kiện… được truyền tới con người qua những phương tiện đó đã góp một phần không nhỏ trong quá trình hình thành nhận thức cho con người. Điều đáng nói chính là những hiểu biết đó không còn giữ được tính khách quan nữa mà đa phần có tính chủ quan. Con người chịu ảnh hưởng của nền văn hóa họ tiếp xúc và tiếp thu nên tất cả những tri thức, những niềm tin… họ có được cũng đều chịu ảnh hưởng của chính nền văn hóa kia. Trong bối cảnh văn hóa hậu hiện đại, nhận thức của con người thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là khi những phát minh khoa học mới được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Những lí thuyết mới như thuyết hỗn độn của Eward Lorentz (1960) , thuyết điều khiển học của Nobert Weiner (1964), thuyết hình học Fractal của nhà toán học Benoit Mandelbrot (1977), những khám phá về vật lí học đã góp phần không nhỏ mở ra những cái nhìn đa chiều về hiện thực. Những thành tựu về khoa học công nghệ từ đó cũng đã đem tới nhiều chất liệu cần và đủ cho sự hình thành của nhận thức luận chủ nghĩa hậu hiện đại. “Đó là quan niệm về thực tại phi tuyến tính, bất định, xác suất, đa tầng, chủ quan được gợi mở từ thuyết tương đối và cơ học lượng tử, là sự tỉnh táo trước tham vọng xây dựng những lí thuyết phổ quát có tính chặt chẽ, nhất quán, tuyệt đối từ định lí bất toàn, là chiến lược nghiên cứu mới với định hướng tìm ra những quy luật đặc thù trong từng tình huống cụ thể từ lí thuyết tai biến, là việc tìm kiếm các quy luật xác suất trong các đối tượng hỗn độn và hình học fractal” [45, tr.23]. Trong hoàn cảnh mới dường như giá trị nhân văn trở nên lu mờ, con người càng trở nên hoài nghi, lo âu, ích kỉ, dần sụp đổ niềm tin trước thời đại. Về lí luận triết học: các nhà lí luận triết học hậu hiện đại kế thừa chủ nghĩa hư vô với các quan điểm về chân lí, giá trị đạo đức, về bản ngã, với họ “mọi chân lí đều mang tính hình ảnh, biểu tượng là những ẩn dụ, hoán dụ, những ảo tưởng bị lãng quên, mục đích của tri thức phải được xem xét dưới góc độ văn hóa chứ không phải là sự phản ánh tương đương một lí tưởng nào đó”. Mặt khác, họ tìm thấy sự tác động của chủ nghĩa cấu trúc, triết học Max, phân tâm học S.Freud, triết học ngôn 9
  13. ngữ Wittgenstein, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận hay chủ nghĩa chứng thực logic... đã góp phần hình thành chủ nghĩa hậu hiện đại với vai trò là các điều kiện lí luận nền tảng. Càng ngày, chủ nghĩa hậu hiện đại càng có tác động rõ nét trên nhiều phương diện và lĩnh vực, tạo được sự quan tâm, chú ý của giới trí thức Tây Âu và Bắc Mỹ. Ở phương diện kinh tế, nó là con đẻ của chủ nghĩa tư bản hậu kì, theo Lyotard, nó coi tri thức là một sản phẩm hàng hóa. Trong cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại”, Lyotard bàn về thân phận tri thức, hay “hoàn cảnh của tri thức trong các xã hội phát triển nhất” [34, tr.53] ông quyết định gọi đó là hoàn cảnh hậu hiện đại, “nó chỉ trạng thái của văn hóa sau những biến đổi tác động đến các quy tắc trò chơi [các luật chơi] của khoa học, văn học và nghệ thuật…” [34, tr.53]. Ở thời đại khoa học và tin học nắm quyền tuyệt đối trên mọi lĩnh vực thông tin, tri thức trở thành món hàng tiêu dùng, buôn bán, cung cấp lợi nhuận như những thứ hàng hóa khác, vượt khỏi sự kiểm soát của chính con người. Ở phương diện chính trị, nó ra đời trong hoàn cảnh tồn tại những đối cực: xã hội chủ nghĩa – tư bản chủ nghĩa và phát triển khi những đối cực này không còn nữa. “…Tri thức đang thay đổi vị thế ngay khi các xã hội bước vào thời đại gọi là hậu công nghiệp và các nền văn hóa bước vào thời đại gọi là hậu hiện đại” [34, tr.59]. Chủ nghĩa hậu hiện đại mở rộng phạm vi, thâu tóm nhiều mặt đời sống, tự mang cả hai nhiệm vụ xóa bỏ (hoặc kế thừa) và xây dựng. Điều này có thể thấy rõ nhất trong các bài viết, các công trình của Jean-Francois Lyotard – một trong những người có công đầu phát hiện và phát triển chủ nghĩa hậu hiện đại, triết học hậu hiện đại. Sống trong giai đoạn Châu Âu có nhiều biến động, phải đối mặt với xung đột, nghịch lí, đổ nát, mất mát, vỡ mộng trước những vận động lịch sử cũng như sự chuyển biến nhanh chóng và phức tạp về kinh tế, xã hội, văn hóa, đời sống thế giới giai đoạn nửa sau thế kỉ XX, ông cùng những người theo thuyết hậu hiện đại phải đặt ra nhiều câu hỏi, đặt lại hàng loạt vấn đề. Từ đây, “mối hoài nghi” hình thành và phát triển, trở thành một trong những tâm thức của các nhà triết học hậu hiện đại. “Nói một cách thật đơn giản,“hậu hiện đại” là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự” [34, tr.54] nghĩa là Lyotard thông qua 10
  14. nghiên cứu của mình đã đả phá những hệ thống quan điểm, lý thuyết cố hữu cùng những phương pháp luận cứng nhắc nhưng tự cho mình là chuẩn mực. Từ đây, Lyotard sẽ đưa ra những quan điểm và biện luận về đại tự sự và tiểu tự sự với chiều hướng ủng hộ tiểu tự sự. Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn học, dựa trên cơ sở lí luận thực tiễn của chủ nghĩa hậu cấu trúc, giải cấu trúc, các nhà lí luận hậu hiện đại đưa ra những khái niệm cơ bản “thế giới là một sự hỗn độn”, “cảm quan hậu hiện đại”, “thế giới như là một văn bản”, “ý thức như là một văn bản”, “tính liên văn bản”, “bất tín nhận thức”... Trên những cơ sở đó, các nhà văn hậu hiện đại đi tìm cho bản thân những phương thức thể hiện hoàn toàn mới. Trước hết, đó chính là cảm quan cảm nhận thế giới. Không có nguyên tắc nào mang tính phổ quát, đại tự sự không có chỗ đứng, tiểu tự sự lên ngôi, văn bản không bị áp đặt chủ đề hay tư tưởng. Văn học hậu hiện đại là hình thái ý thức xã hội – thẩm mỹ đặc thù phản ánh cuộc sống bằng hình tượng thông qua chất liệu ngôn từ cũng rất đặc thù của chủ thể sáng tạo, chưa kể sự khúc xạ và đặc thù riêng của từng nước nên quá trình nhận diện, trừu xuất chúng thành những quan niệm, khái niệm, hệ thi pháp chung là vô cùng khó. Chủ nghĩa hậu hiện đại đề cao nguyên tắc biện chứng và phản tư, họ không có niềm tin với nhận thức và tính khách quan của hiện thực đương thời, đề xuất quan điểm “phi lí” và cách nói “mỉa mai” trở thành một thuộc tính của chủ nghĩa này. Chủ nghĩa hậu hiện đại luôn đặt con người vào những hoàn cảnh hay môi trường cụ thể để phát huy năng lực bởi nó coi trọng con người cá nhân. Song cái “Tôi” được khẳng định trong đó lại là cái “Tôi” tan vỡ, cái tôi này ý thức được cái tôi khác. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hậu hiện đại, nỗ lực xóa bỏ ranh giới nhận thức lí tính và nhận thức cảm tính để chỉ ra tất cả đều xuất phát từ cơ thể sống. Nó hướng đến hình thành “tính nhục thể”, từ đó coi tính dục là một trong những diễn ngôn quan trọng để xác lập các giá trị và chi phối hành vi, nhận thức của con người. Chủ nghĩa hậu hiện đại còn đưa ra quan điểm đề cao chân lí khách quan. Những gì các nhà hậu hiện đại làm là mong muốn giải phóng khả năng sáng tạo, tạo sự bình đẳng cho con người với việc sử dụng hiệu quả tri thức, tùy thuộc vào mỗi cá nhân. 11
  15. Lyotard cho rằng tất cả mọi khía cạnh của xã hội hiện đại, bao gồm cả khoa học, hình thức căn bản của tri thức, hoàn toàn tùy thuộc vào những đại tự sự; trong khi đó, chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán, phủ nhận tính áp đặt của đại tự sự, cổ xúy cho những tiểu tự sự. Ông đưa ra “siêu tự sự” với cặp khái niệm đại tự sự và tiểu tự sự với những đặc tính phân biệt như sau: Đại tự sự Tiểu tự sự - Những gì được đúc kết, định hình - Những gì đang trên quá trình hình thành nguyên lí, có khả năng “hợp thức thành, chỉ đề xuất, gợi mở khả năng trở hóa” tư tưởng, quan điểm. thành chân lí, nguyên tắc. - Thuộc về chủ nghĩa hiện đại - Thuộc về chủ nghĩa hậu hiện đại - Diễn ngôn: đầy tự tin, mạch lạc, logic - Diễn ngôn: rụt rè, đầy hoài nghi, không lên gân - Chấp nhận tính trung tâm - Chấp nhận tính dị biệt - Chỉ chấp nhận phi trung tâm tất cả - Thừa nhận tính tất nhiên trung tâm - Tôn sùng tính ngẫu nhiên Đại tự sự được coi là có vai trò lớn trong cách tư duy của con người, cách con người cảm nhận thế giới và xã hội xung quanh; là nền tảng của nền triết học hiện đại. Trong quan điểm của Lyotard, đại tự sự là những câu chuyện, có tính cách thần thoại do một nền văn hóa tự kể về niềm tin và hành động thực tế; nhưng, mọi khía cạnh của xã hội hiện đại, ở đó gồm cả khoa học – hình thức cơ bản nhất của tri thức, luôn vận hành theo cách riêng chứ không hoàn toàn tùy thuộc vào những đại tự sự. Bản thân đại tự sự có thể coi là “những tham vọng bá chủ, độc tài muốn quy những tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng nào đó vào một mối và dùng nó để chi phối tất thảy đời sống con người… Đương nhiên, việc làm của các đại tự sự sẽ là lực cản đối với sự phát triển của nhân loại… Sự cố định của các đại tự sự đều lỗi thời, thuộc về quá khứ và không còn phù hợp với con người hậu hiện đại” [11, tr.38]. Thuật ngữ đại tự sự (grands récits) J.F. Lyotard đưa ra, nhìn chung được các nhà nghiên cứu phương Tây quy về ba phương diện: đó là đại tự sự về huyền thoại duy lí tính, về nhận thức luận và về sự giải phóng con người; cả ba đã chi phối và 12
  16. tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo của phương Tây trong hai thế kỉ qua; hay dưới một góc độ khác, là đại tự sự về khả năng vô hạn của phép biện chứng tinh thần (liên quan đến huyền thoại Hégel), huyền thoại về Giải thích học (hay Thông diễn học) về nghĩa và sự giải phóng chủ thể lí tính và chủ thể lao động. Từ sự già cỗi của cơ chế siêu tự sự, những quan điểm hoài nghi xuất hiện khiến vị thế của siêu tự sự, đại tự sự bị lung lay. Lyotard đã kết luận, hoàn cảnh hậu hiện đại chính là “sự hoài nghi đối với mọi đại tự sự”. Và đây chính là cơ sở cho sự hình thành của nền triết học hậu hiện đại trên thế giới. Từ đó, nghệ thuật hậu hiện đại ra đời trên cơ sở phá bỏ “đại tự sự” của chủ nghĩa hiện đại về “chân lí cuối cùng” trong nhận thức thế giới và con người. 1.2. Cảm quan hậu hiện đại và những biểu hiện trong tiểu thuyết phƣơng Tây đƣơng đại Cảm quan hậu hiện đại (hay cảm thức hậu hiện đại) là một trong những định đề quan trọng của triết học hậu hiện đại được Lyotard đề xuất và được các nhà triết học hậu hiện đại khác hưởng ứng. Nó là hình thức cảm nhận thế giới mang tính chất đặc thù và là phương thức phản xạ tư duy lí thuyết tương ứng với nó. Nó tiêu biểu cho tư duy khoa học của các nhà nghiên cứu văn học thuộc định hướng hậu cấu trúc, hậu hiện đại. Do cảm quan hậu hiện đại có hình thức cảm nhận thế giới đặc thù, phản xạ tư duy lí thuyết hậu hiện đại nên nó luôn hướng đến thể hiện trạng thái tinh thần của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, tính áp đặt của cái chính thống, của các phát ngôn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và tình trạng bất an của con người… Cảm quan hậu hiện đại vì thế có thể bao gồm cảm quan về hiện thực và cảm quan về con người. “Nhưng trước khi trở thành một hệ hình tư duy, một phương pháp khoa học… hậu hiện đại hiện diện trước hết với tư cách là một tâm thức, một thế giới quan mới đối với hiện thực” [11, tr.35] Tâm thức hậu hiện đại được xây dựng với những bước trưởng thành từ quan niệm mới về nghệ thuật và mĩ học tiếng lên triết học hậu – hiện đại. Cảm quan hậu hiện đại nhận thức về tính hỗn độn của thế giới, sự tồn tại của sự vật chồng chéo, hỗn loạn hoàn toàn 13
  17. ngẫu nhiên và sự bất tín nhận thức của con người trước các đại tự sự đã dẫn đến quan niệm và hành động giải trung tâm Lyotard đã khái quát trong tác phẩm Hoàn cảnh hậu hiện đại. Các nhà hậu hiện đại xem tồn tại của thế giới là một khối hỗn mang (chaos). Các sự vật, hiện tượng luôn đan cài, chồng chéo lên nhau, xuất hiện, biến mất rồi lại xuất hiện tự do; ở đó không có bất kì tiêu chuẩn giá trị nào, không có ý nghĩa được xác định, không có gì bất biến. Theo họ, sự tồn tại đó hoàn toàn ngẫu nhiên nên họ không thiết lập trật tự cho sự hỗn độn đó; từ đây, dấu ấn của một cơn “khủng hoảng niềm tin” ngày càng trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, con người hoài nghi mọi trật tự, mọi giá trị vốn có, từng tồn tại từ trước. Không có sự sắp xếp trật tự, khó có thể tìm ra trung tâm, nghĩa là lúc này sẽ không có gì là trung tâm hay thậm chí không có cả xu thế trở thành trung tâm. Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận tất cả các nhận thức từ Thượng đế đến tồn tại khách quan và hoài nghi tất cả (Lyotard hoài nghi đại tự sự, Ihab Hassan hoài nghi chính trị xã hội, hệ thống nhận thức và tinh thần, tâm lí cá nhân, các khái niệm…). Trong ý thức nghệ thuật, cảm quan hậu hiện đại mang tới niềm tin mới, quan điểm mới. Đối với các nhà nghệ thuật hậu hiện đại, sẽ là vô nghĩa nếu cứ muốn áp đặt hay thiết lập một mô hình thế giới “chuẩn mực”, một trật tự đẳng cấp hay ưu tiên nào đó; bởi vì, thế giới không tồn tại theo một chuẩn mực duy nhất, một cách hiểu duy nhất hay tuân theo một thế giới quan duy nhất. Thế giới, nếu coi là một mô hình thì đó là mô hình có độ bất định tối đa, với nhiều góc cạnh, phương diện đa dạng không ai có thể “quan sát” hết được. Vì vậy, những nhà hậu hiện đại coi thế giới là một khối hỗn mang, chứa đựng trong đó sự hỗn độn vô định dẫn đến hình thành phạm trù thế giới quan bất tín nhận thức. Bất tín nhận thức (epistemologiacal uncertainty) được coi là phạm trù thế giới quan tiêu biểu cho ý thức hậu hiện đại, được nảy sinh trong quá trình “khủng hoảng niềm tin” vào những giá trị đã tồn tại trước đó. Con người hoài nghi tất cả, không còn niềm tin vào sự siêu nhiên, coi Thượng đế như đã chết; theo đó, mọi chân lí đều bị lãng quên, tín ngưỡng không còn được sùng bái như trước. Hậu hiện đại chính là sự mất niềm tin, bất tín nhận thức sâu sắc vào tri thức khoa học, vào lí 14
  18. tính, không tin vào các giá trị truyền thống, phê phán hiện thực, tố cáo các hiện tượng xã hội và chỉ cảm nhận được thế giới hỗn độn bị xé nhỏ, bị phân mảnh. Vì thế, hậu hiện đại chấp nhận cái hữu hạn như một lẽ tất nhiên. Trong tư tưởng của mình, hậu hiện đại cho rằng tất cả những gì được gọi là hiện thực song thực tế, chỉ là sự hình dung dựa vào những gì não bộ con người ghi nhận lại; nhưng mỗi người đều có cảm nhận riêng, không giống nhau trong khi thực tế lại luôn luôn biến đổi. Sự biến đổi nhanh chóng đó làm cho con người khó lòng nắm bắt đúng và đầy đủ bản chất, dấu hiệu, quy luật cơ bản trọn vẹn của thực tế. Con người càng lúc càng trở nên hoang mang, băn khoăn giữa tin tưởng với hoài nghi, cái gì là thực cái gì là ảo, đâu là đúng đâu là sai… Những niềm tin bị phá vỡ khiến cảm quan của con người với thế giới xung quanh càng nhiều hoài nghi hơn trước, niềm tin đứng trước sự sụp đổ hiển nhiên. Cũng tựa như thế giới hỗn độn xung quanh, con người trong chủ nghĩa hậu hiện đại càng dị thường, tha hóa. Cái “Tôi” bị hoài nghi và con người bị phân tán thành “chủ thể phi trung tâm”, đặc tính phi trung tâm xuất hiện. Cùng với khái niệm phi trung tâm hóa, văn học hậu hiện đại coi trọng sự đa dạng, các giá trị khác nhau, đề cao nữ quyền... nên được coi là chủ nghĩa đa nguyên văn hóa, chấp nhận giá trị truyền thống. Có thể hiểu phi trung tâm hóa nghĩa là tạo ra nhiều trung tâm, mỗi nhân vật trong tác phẩm trở thành một trung tâm của một câu chuyện nào đó; giữa các câu chuyện này có thể có hoặc không có mối liên hệ nào và không có khả năng kết hợp lại với nhau; tất cả tạo thành các mảnh vỡ được khớp nối theo sở thích của tác giả. Nói cách khác, bản thân mảnh vỡ mang trong nó nội hàm của sự phi trung tâm. Vì thế, khi đọc tác phẩm hậu hiện đại, người đọc sẽ phải phiêu lưu trôi dạt theo các mảnh vỡ mà không nắm bắt được câu chuyện; vả lại, cũng chẳng có một câu chuyện nào theo mô hình kể chuyện truyền thống được đưa ra ở đây. Người đọc rơi vào trạng thái bất định mà nguyên lí bất định trong toán học đã được E. Thom đưa ra. Trạng thái bất định đó cũng là hiện thực của cuộc sống đương diễn ra. Khi các nhà hậu hiện đại chấp nhận trạng thái đó, nghĩa là họ phải chấp nhận những sắp đặt lại những trật tự đã bị hỗn độn, chấp nhận sự dịch chuyển và những tồn tại 15
  19. tự do, ngẫu nhiên, nên theo đó họ phải chấp nhận tính phi trung tâm của sự vật hoặc trở thành trung tâm trong những vận động li tán. Khi thế giới là sự hỗn độn, lẽ dĩ nhiên nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ ai, nhưng nó vẫn cần phải được “khuôn” lại nhằm dễ tiếp nhận. Từ đây, khái niệm hiện thực thậm phồn (hay còn gọi là phì đại) xuất hiện đi cùng với đó là những yếu tố “đa” (đa nguyên, đa trị, đa điểm nhìn…). Hiện thực thậm phồn là sự bất khả phân biệt giữa hiện thực và những sản phẩm tái tạo hiện thực vì những sản phẩm này tựa như thật, đôi khi chính xác và đáng tin hơn cả hiện thực. Trong giai đoạn trước đây, khi khoa học chưa phát triển mạnh mẽ, hiện thực đối với con người không nằm ngoài những gì con người mắt thấy tai nghe trong không gian và thời gian họ tồn tại. Nhưng khi khoa học phát triển mạnh, nhiều phát minh ra đời làm cho nhận thức của con người về hiện thực hoàn toàn cải biến. Hiện thực – thứ thay thế hiện thực hay hiện thực khác lạ song song tồn tại khơi gợi trí tưởng tượng của con người, mang tới nhận thức đúng sai, thật giả về hiện thực, kiểu hiện thực đa chiều kích có thể mở rộng đến bất cứ nơi nào trí tưởng tượng của con người có thể vươn tới được. Từ đây, nó hướng con người ý thức được quá trình “tự nhận thức” để tiếp cận với thế giới. Quá trình ấy dễ dàng hơn rất nhiều với sự bùng nổ của thời đại công nghệ thông tin, thời đại kĩ thuật số, khi đó, con người chỉ cần ngồi ở nhà cũng có thể biết được sự vận động của thế giới, hiểu được quá khứ đã xảy ra những gì, dự cảm được tương lai của nhân loại… làm cho khái niệm không gian và thời gian dần trở nên mơ hồ, khó nắm bắt, dần mang tính tương đối, đôi khi lại trở thành nghịch lí. Thế giới do các thành tựu công nghệ tạo ra trở thành “thế giới ảo” mang theo những tiêu chí của thế giới thật, thỏa mãn khát vọng tưởng tượng vô hạn của con người dù nó không có thực nên đôi khi nó mê hoặc và cải biến con người khỏi những giới hạn, chuẩn mực đương thời. “Hiện thực thậm phồn ra đời trên cơ sở phản đối khái niệm ta quen dùng bấy lâu „hiện thực” mà theo các nhà hậu hiện đại là không đảm bảo yêu cầu của hiện thực đúng nghĩa. Họ cho rằng hiện thực đó vốn không phải là bản chất của cuộc sống mà luôn bị bóp méo theo quan điểm, lợi ích của ai đó hay một nhóm thiểu số nào đó. Do vậy khi đòi hỏi văn chương phản ánh 16
  20. hiện thực một cách chân thực thì thật là nực cười. Bởi lẽ, còn đâu hiện thực “tinh” để mà phản ánh” [11, tr.40] Đến đây, các nhà hậu hiện đại nhận ra có một hiện thực huyền ảo tồn tại song hành với hiện thực thậm phồn. Hiện thực huyền ảo là những gì con người có thể tri giác và linh giác được về tất cả sự vật trong thế giới xung quanh theo cách thế giới đó được nhìn từ góc nhìn bản thể và được nâng lên thành “hiện thực”, ấy là thế giới ảo, thế giới vô thức, thế giới ma quái, thế giới huyền diệu không thể nắm bắt… Điều này góp phần mở rộng dân chủ cho hiện thực và đưa văn chương tới gần hơn với nguyên tắc trò chơi, tạo nên tính “đại chúng” trong các sáng tác. Nỗi mơ hồ về thế giới, về hiện thực và hiện thực huyền ảo đặt các nhà hậu hiện đại tại ngã ba đường về nhận thức và quan điểm đúng – sai, thật – giả, ổn định – bất ổn… Thật hay không thật, đúng hay sai… đều phụ thuộc hoàn toàn vào quan điểm hay cảm quan chủ quan của mỗi cá nhân tiếp thu và gán cho sự vật, cho môi trường. Vạn vật tồn tại trong sự hỗn độn, chúng là sự tổng hòa của nhiều khía cạnh, nhiều phương diện nên khi chấp nhận sự hỗn độn có nghĩa là các nhà hậu hiện đại phải tiếp nhận việc nhìn nhận sự vật với bản chất khách quan nhất và đặt chúng trong hiện thực thậm phồn thách thức mọi khả năng tri nhận của con người. Chủ nghĩa hậu hiện đại coi thế giới là một văn bản được trình bày theo một diễn ngôn nào đó. Đối với các nhà hậu hiện đại, tri thức là nền tảng xã hội, là sự phản ánh năng lực tri nhận cuộc sống của con người được dựa trên ngôn ngữ - nền tảng của mọi tri thức. Có thể hiểu lí thuyết hậu hiện đại được xây dựng trên ngôn ngữ và khả năng hành chức của nó, như Lyotard khẳng định “Tri thức khoa học là một loại diễn ngôn” [34, tr.60]. Nhưng diễn ngôn luôn có tính định hướng, trở thành đại tự sự nên chủ nghĩa hậu hiện đại cần giải các đại tự sự, đưa cuộc sống về bản thể (vật tự nó) và vì thế nên hậu hiện đại bất tín nhận thức của con người, nêu lên cái chết của chủ thể và cho rằng khách thể vừa là khách thể vừa là chủ thể của chính nó mà không có sự phân biệt. Quay lại với quan điểm tri thức được thực hiện thông qua các diễn ngôn, nhà triết học người Áo Ludwig Wittgenstein (1889 – 1951) gọi các loại phát ngôn khác nhau là các trò chơi ngôn ngữ. Có nghĩa là “mỗi một loại phát ngôn khác nhau đó có thể phải được xác định theo các quy tắc chuyên biệt cho 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1