intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Giễu nhại trong truyện khoa học huyễn tưởng của M.Bulgakov (Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích chính của luận văn là làm nổi bật vấn đề giễu nhại trong truyện khoa học huyễn tưởng của M.Bulgakov với tư cách là một đặc điểm thi pháp của nhà văn. Do đó, luận văn sẽ tập trung vào việc xác định nội dung, đặc điểm, phương thức, biện pháp thể hiện sự giễu nhại trong 2 tác phẩm của ông. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Giễu nhại trong truyện khoa học huyễn tưởng của M.Bulgakov (Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ THOAN GIỄU NHẠI TRONG TRUYỆN KHOA HỌC HUYỄN TƢỞNG CỦA M. BULGAKOV (Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRẦN THỊ THOAN GIỄU NHẠI TRONG TRUYỆN KHOA HỌC HUYỄN TƢỞNG CỦA M. BULGAKOV (Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài Mã số: 60 22 30 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Gia Lâm Hà Nội - 2015
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của các thầy cô giáo cùng gia đình và bạn bè. Tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS. TS. Phạm Gia Lâm, người đã hướng dẫn tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời biết ơn thành kính nhất đến các thầy cô giáo trong khoa Văn học đã truyền dạy cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong quá trình học tập cũng như có những góp ý cho tôi khi hoàn thành luận văn. Và tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã hết sức động viên, an ủi, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện trong suốt quá trình học tập cũng như khi tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2015 Trần Thị Thoan
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 5 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.................................................... 6 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................... 6 5. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................... 7 Chƣơng 1: GIỄU NHẠI VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA NHỮNG QUẢ TRỨNG ĐỊNH MỆNH, TRÁI TIM CHÓ ...................................................... 8 1.1. Giễu nhại và văn học giễu nhại........................................................................ 8 1.1.1 .Khái niệm giễu nhại, các kiểu giễu nhại ........................................... 8 1.1.2.. Văn học giễu nhại .......................................................................... 16 1.2. ..... Vấn đề thể loại của Những quả trứng định mệnh và Trái tim chó …..19 Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG GIỄU NHẠI TRONG NHỮNG QUẢ TRỨNG ĐỊNH MỆNH, TRÁI TIM CHÓ ................................................................... 29 2.1. Giễu nhại Kinh Thánh, Faust của Goethe và Biến dạng của Kafka........ 30 2.1.1. Giễu nhại các motif Kito giáo ........................................................ 30 2.1.2. Giễu nhại Faust của Goethe ........................................................... 47 2.1.3. Giễu nhại motif biến dạng của Kafka ............................................. 53 2.2. Giễu nhại hiện thực và con ngƣời đƣơng thời ............................................ 57 2.2.1.Giễu nhại hiện thực xã hội đương thời ............................................ 57 2.2.2. Giễu nhại con người đương thời ..................................................... 70 2.3. Tự giễu nhại ...................................................................................................... 77
  5. Chƣơng 3: NGUYÊN TẮC GIẢ CARNIVAL TRONG PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN .................................................................................................... 83 3.1. Cốt truyện giả tƣởng ....................................................................................... 85 3.2. Thủ pháp xây dựng nhân vật nghịch dị ....................................................... 88 3.3. Giọng điệu giễu nhại........................................................................................ 92 3.4. Sự kết hợp đặc sắc các mặt đối lập ............................................................... 96 KẾT LUẬN .................................................................................................. 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 106
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mikhail Bulgakov (15/5/1891 – 12/3/1940) là một trong những nhà văn lớn nhất và kì bí nhất của nước Nga. Cuộc đời và văn nghiệp của ông biểu hiện rõ nhất cho mối quan hệ của nghệ thuật và số phận. Mỗi tác phẩm của ông đều có một số phận thăng trầm như chính cuộc đời của ông vậy và luôn là “những bản thảo không cháy”. M.Bulgakov sinh ra và trưởng thành tại thành phố Kiev, ông tốt nghiệp y khoa loại xuất sắc năm 1916 nhưng lại được biết đến nhiều hơn với vai trò của một nhà văn tại Moskva (từ năm 1921 đến cuối đời). Thủa nhỏ, M.Bulgakov đã sớm có thiên hướng viết văn, ông thích văn trào phúng của N.Gogol, Saltykov-Shchedrin. Những tác giả này đã có những ảnh hưởng không nhỏ trong các sáng tác của ông. Trong thời gian đi học và tham gia nội chiến, M.Bulgakov viết nhiều tiểu phẩm và truyện ngắn nhưng tại thời gian đó, ông không giữ lại được nhiều truyện hoặc do chính tay ông đốt bỏ. Những năm 1925 -1929 là giai đoạn vinh quang đỉnh cao của văn nghiệp mà M.Bulgakov được tận hưởng khi còn sống. Năm 1925, phần đầu của tiểu thuyết Bạch vệ được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Ngay lập tức, ông chuyển thể thành vở kịch Những ngày của anh em Turbin. Tác phẩm phản ánh khách quan quá trình tan rã của những mưu toan chống cách mạng và số phận bi kịch của những tri thức khi bị lầm đường lạc lối. Sau sự thành công vang dội của vở kịch Những ngày của anh em Turbin, M.Bulgakov tập trung 3
  7. vào viết kịch. Ông lần lượt cho ra đời các vở: Căn hộ của Zoya (năm 1927, in năm 1928), Chạy trốn (năm 1928, dựng năm 1957, in năm 1962), Molier (năm 1929)... Ông trở thành một nhà soạn kịch tầm cỡ thời đó. Nhưng đến cuối năm 1929, các tác phẩm của M.Bulgakov trở thành chủ đề phê bình theo hướng thù địch nhiều hơn là tán đồng, ông bị buộc tội theo Bạch vệ để bôi nhọ cách mạng. Những vở kịch của ông bị cấm diễn. Cuộc sống của nhà văn trở nên khó khăn và bế tắc. Tháng 3/1930, M.Bulgakov viết một bức thư cho Chính phủ Liên Xô tuyên bố ông sẽ im lặng, ngừng viết và xin một công việc, dù là công nhân sân khấu cũng được. Nhưng phải tới sau khi vụ tự tử của thiên tài Mayakovsky, J.Stalin mới đích thân gọi điện cho M.Bulgakov và vài ngày sau ông được làm đạo diễn tại Nhà hát nghệ thuật Moskva. Nhưng sự im lặng đó chỉ kìm nén được hơn 1 năm. Tháng 5/1931, ông viết cho Stalin một bức thư khác, thông báo “sự lên tiếng” của mình và đề nghị chính phủ giúp đỡ để thực hiện chúng. Từ cuối những năm 20 và cho tới khi qua đời mặc dù không được in một dòng nào, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác, với 14 vở kịch, hai tiểu thuyết (Molier, Những ghi chép của người quá cố) và đặc biệt là tác phẩm bất hủ Nghệ nhân và Margarita. Năm 1962 (22 năm sau ngày ông mất) đánh dấu “sự lên tiếng trở lại” của M. Bulgakov. Cho tới tận bây giờ, ông vẫn là một “hiện tượng văn học” của Liên Xô. Các tác phẩm của ông được in ấn, nghiên cứu và chuyển thể điện ảnh. Các nhà văn lớn của thế kỷ, từ Ch.Aitmatov đến G.Marquez, đều công nhận M.Bulgakov có nhiều ảnh hưởng lớn lao tới sáng tác của mình. Khám phá chất thần bí, tìm hiểu, đánh giá và khẳng định tài năng của bậc thiên tài này đang là mối quan tâm của các độc giả, nhà nghiên cứu thời hiện đại. Một trong những tài năng được nhắc tới nhiều nhất là khả năng viết 4
  8. truyện khoa học huyễn tưởng, biểu hiện cụ thể qua những tác phẩm được viết ra trong các năm 1924, 1925: Ổ quỷ, Những quả trứng định mệnh và Trái tim chó. Chìa khóa thành công cho các truyện này là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố: giễu nhại và huyễn tưởng. Tìm hiểu thủ pháp giễu nhại thông qua nghiên cứu trường hợp 2 tác phẩm của M.Bulgakov về đề tài khoa học huyễn tưởng có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn. Về lý luận, khám phá đề tài này sẽ giúp làm rõ một trong những đặc điểm thi pháp tác giả với tư cách là một bộ phận của chỉnh thể nghệ thuật. Về thực tiễn, đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề luôn mang tính thời sự cấp thiết: vấn đề những thay đổi căn bản trong đời sống xã hội và trong cuộc đời con người dưới tác động của các cuộc cách mạng: cách mạng và khoa học, cách mạng và kỹ thuật, cách mạng và văn hóa. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề M.Bulgakov đã trở thành mối quan tâm của nhiều độc giả, tác giả, nhà nghiên cứu văn học, điện ảnh… của Nga và nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là từ sau năm 1962. Xuất hiện ngày càng nhiều công trình “Bulgakov học”, nghiên cứu những phương diện phong cách và thi pháp, lịch sử và loại hình, văn bản học và văn hóa học… Ông là một trong số ít nhà văn được làm “Bách khoa toàn thư”1, các tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy ở trong và ngoài nước Nga2. Tại Việt Nam, các tác phẩm của M.Bulgakov được biết đến qua bản dịch của Đoàn Tử Huyến (Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó, Nghệ 1 Булгаковская энциклопедия [http://www.bulgakov.ru/] 2 Xem, chẳng hạn, “Chuẩn Liên bang giáo dục phổ thông môn Văn học” [https://ru.wikisource.org/ wiki/Викитека:Школьная_программа] hoặc chương trình của Middlebury College [http://www.middlebury.edu/search?q2=M.Bulgakov],… 5
  9. nhân và Margarita, Thư gửi chính phủ Liên Xô). Các bài nghiên cứu phê bình của Vũ Công Hảo [29, 30], Phạm Gia Lâm [45], Nguyễn Thị Như Trang [69, 70] tập trung nhiều vào tác phẩm Nghệ nhân và Margarita ở các vấn đề motif, những liên hệ liên văn bản, vai trò của yếu tố kỳ ảo… Riêng nhà nghiên cứu Vũ Công Hảo có cái nhìn khái quát văn xuôi M.Bulgakov trong chuyên khảo Văn xuôi Mikhail Bulgakov: từ “Ổ quỷ” đến “Nghệ nhân và Margarita” [30]. Một số khóa luận tốt nghiệp của sinh viên có đề cập đến yếu tố huyền thoại trong cấu trúc tác phẩm Những quả trứng định mệnh; nghệ thuật trào phúng của truyện vừa Trái tim chó. Trong phạm vi quan sát của mình, chúng tôi chưa thấy có công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam và nước ngoài bàn về vấn đề giễu nhại trong truyện khoa học huyễn tưởng của Mikhail Bulgakov, đặc biệt là trong hai tác phẩm Những quả trứng định mệnh và Trái tim chó. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Mục đích chính của luận văn là làm nổi bật vấn đề giễu nhại trong truyện khoa học huyễn tưởng của M.Bulgakov với tư cách là một đặc điểm thi pháp của nhà văn. Do đó, luận văn sẽ tập trung vào việc xác định nội dung, đặc điểm, phương thức, biện pháp thể hiện sự giễu nhại trong 2 tác phẩm của ông. Trong quá trình giải quyết đề tài, phạm vi khảo sát chủ yếu của chúng tôi là hai tác phẩm Những quả trứng định mệnh và Trái tim chó. Ở một số trường hợp cần thiết, chúng tôi có đề cập đến tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita. Những nghiên cứu và khảo sát của chúng tôi được tiến hành dựa trên bản dịch của Đoàn Tử Huyến. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp thi pháp học, phương pháp nghiên cứu tiểu sử và phương pháp tiếp cận liên văn bản để tiến hành nghiên 6
  10. cứu biểu hiện của nghệ thuật giễu nhại trong tác phẩm của M. Bulgakov. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn vận dụng các thao tác: thống kê, so sánh… 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có ba chương: Chương 1: Giễu nhại và vấn đề thể loại của Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó Chương 2: Đối tượng giễu nhại trong Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó Chương 3: Nguyên tắc giả carnival trong phương thức biểu hiện 7
  11. Chƣơng 1: GIỄU NHẠI VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA NHỮNG QUẢ TRỨNG ĐỊNH MỆNH, TRÁI TIM CHÓ 1.1. Giễu nhại và văn học giễu nhại 1.1.1. Khái niệm giễu nhại, các kiểu giễu nhại Theo các từ điển thuật ngữ văn học, giễu nhại là hình thức tạo tiếng cười quen thuộc trong cuộc sống. Theo nghĩa thông thường, giễu là nói ra, đưa ra để đùa bỡn, châm chọc hoặc đả kích; nhại là bắt chước tiếng nói, điệu bộ của người khác để châm chọc, giễu cợt. Giễu nhại là thuật ngữ đôi tồn tại mối quan hệ mật thiết của hai thành tố giễu (châm biếm) và nhại (bắt chước): giễu bằng nhại và nhại để giễu. Mục đích cuối cùng của giễu và nhại là tìm, vạch ra những thói xấu của đối tượng để châm chọc, cười cợt. Thực tế, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp hiện tượng giễu nhại trong các hoạt động đời thường hoặc ở nhiều lĩnh vực khác nhau… Tuy nhiên, tùy từng trường hợp và đối tượng, giễu – nhại có độ đậm nhạt khác nhau. Đôi khi sự giễu nhại chỉ nhằm mang lại tiếng cười giải trí đơn giản, song cũng có trường hợp đây lại là phương tiện thể hiện thái độ phê phán sâu sắc đối tượng giễu nhại. Trong nghiên cứu văn học, giễu nhại (parody) hay còn gọi là phỏng nhại hoặc biếm phỏng, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “paroidia” có nghĩa là “một bài hát được hát cùng bài hát khác”. Đây là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng và phức tạp trong văn học nghệ thuật. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách kiến giải khác nhau và ngày càng mở rộng hơn về nội hàm khái niệm của thuật ngữ này. Theo M. Bakhtin, parodia – phỏng nhại – “cũng giống như trong sự phong cách hóa, nói bằng giọng của kẻ khác, nhưng khác ở sự phong cách hóa, anh ta đưa vào lời đó một khuynh hướng nghĩa đối lập hẳn với khuynh 8
  12. hướng của lời người đó. Giọng thứ hai sau khi chuyển vào trong lời của người khác thì xung đột, thù nghịch với chủ nhân vốn có của nó và buộc nó phục vụ trực tiếp cho các mục đích đối lập của mình”[3; tr.187]. Ông nhấn mạnh đến sự “xung đột”, “thù địch” của “giọng thứ nhất” và “giọng thứ hai” để “tấn công”, “hạ bệ” đối tượng phê phán. Theo ông, với lời giễu nhại, bản chất của đối tượng bị lột tả một cách tự nhiên, sống động; những cái nghiêm túc, đẹp đẽ, hào nhoáng sẽ bị “giải thiêng”, bị lột bỏ, bị rớt xuống để lộ ra cái tầm thường, kệch cỡm, lố bịch và tức cười. M. Bakhtin cho rằng phỏng nhại xuất hiện từ thời văn hóa Hi Lạp cổ đại, “là yếu tố không thể tước bỏ của “trào phúng Mênippê” và của mọi thể loại carnival hóa nói chung”[3; tr.124]. Ông vạch ra sự phát triển của văn học nhại qua ba thời kỳ: cổ đại, trung đại và cận đại; giúp người đọc có cái nhìn xuyên suốt về quá trình phát triển của lịch sử nhại. Ông còn chỉ ra hiện tượng nhại ở hai tác giả tiêu biểu: ở Rabelais là tiếng cười trào tiếu, ở Dostoievski là những cặp hình tượng khác nhau, nhại theo những cách khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu của mình, Bakhtin luôn nhấn mạnh mối liên quan của phỏng nhại với tiếng cười – vấn đề bản chất của carnival. Theo ông, các tác phẩm giễu nhại đều gắn bó với quảng trường hội giả trang, sử dụng rộng rãi hơn các hình thức và biểu tượng hội giả trang. Giễu nhại còn được xem là khuynh hướng sáng tác nổi bật của văn học hậu hiện đại. Thời kỳ này xuất hiện hai quan điểm đối lập về nhại của Fredric Jameson và Linda Hutcheon. Jameson cho rằng pastiche (nhại văn hay nhại lại hoặc có dịch giả Việt dịch là “hợp thể huyền thoại”) là một trong những khái niệm trung tâm của lý thuyết hậu hiện đại, “là sự bắt chước một phong cách đặc thù cụ thể, một chỉ dấu của sự mòn mỏi ngôn ngữ, sự phát ngôn trong ngôn ngữ chết. Nó là một thực hành bắt chước trung tính, không hàm 9
  13. chứa động cơ giễu nhại, bị cắt rời khỏi cảm hứng châm biếm, không có cả tiếng cười” [31]. Như vậy, theo quan điểm của Jameson, pastiche chỉ đơn thuần là nhại chứ không có giễu, sự bắt chước không mang màu sắc chính trị. Giễu nhại (parody) theo quan điểm của Linda Hutcheon là thuật ngữ đôi mang màu sắc chính trị. Trong cuốn The Theory of Parody, bà đã đưa ra những bàn luận khá sâu và hệ thống về giễu nhại. Bà coi nhại hay biếm phỏng là một dạng thực hành nghệ thuật hiện đại. Nó không chỉ xuất hiện trong văn học mà còn là sở hữu chung của hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh… Đặc biệt, trong công trình nghiên cứu của bà có đề cập đến hai vấn đề cơ bản của biếm phỏng là: tự hàm chiếu và diễn ngôn liên nghệ thuật, có nghĩa biếm phỏng là một hình thức của liên văn bản. Theo đó, tác phẩm giễu nhại có một sợi dây ràng buộc vô hình với các tác phẩm được coi là mẫu gốc. Để hiểu được tác phẩm nhại, chúng ta phải quy chiếu tác phẩm đó với “mẫu gốc”. Nhiều tác giả khác, điển hình là G.D. Kiremidjian lại nhận xét trong một số trường hợp giễu nhại tiến dần đến cái nghịch dị (grosteque). Đây là một đặc điểm quan trọng để chúng tôi tìm hiểu bản chất của hiện tượng giễu nhại trong tác phẩm của M. Bulgakov. Tại Việt Nam, giễu nhại ngày càng trở nên quen thuộc với độc giả và các nhà nghiên cứu, đặc biệt trong văn học hiện đại và hậu hiện đại. Thời gian đầu, nhiều dịch giả Việt chú thích pastiche là giễu nhại. Song về sau, sự khác biệt giữa patstiche và parody đã được phân biệt rõ ràng. Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Đặng Anh Đào công nhận: “Ranh giới giữa chúng khá mơ hồ và cả parodie lẫn pastiche đều sử dụng lối bắt chước, song sự khác biệt nằm ở chỗ parodie thường thiên về bóp méo và hạ bệ còn pastiche thường không 10
  14. hàm ý đó” [25]. Quan điểm này giống với quan điểm giễu nhại mang tính chính trị của Linda Hutcheon. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên, mục “nhại” có giải thích đây là “một thể văn châm biếm dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc cả một trào lưu nghệ thuật. Phương tiện chủ yếu về nhại là bắt chước phong cách”[28; tr.225]. Định nghĩa về giễu nhại được Lê Huy Bắc trích dẫn rõ hơn với nhiều đặc điểm nổi bật: “Nhại là hình thức phê bình châm biếm hoặc là hình thức chế giễu khôi hài bằng cách bắt chước phong cách (style) và bút pháp (manner) của một nhà văn hoặc một nhóm nhà văn đặc biệt để nhấn mạnh đến sự non yếu của nhà văn ấy hoặc của những quy ước bị lạm dụng của trường phái ấy. Nhại khác với chế giễu (burlesque) ở độ sâu từ sự xâm nhập kỹ thuật của nó và bởi độ sâu của sự bôi bác, được dùng để xử lý những vấn đề được đề cao trong bút pháp tầm thường, nhại thật sự bóc trần một cách tàn nhẫn những mách lới của bút pháp lẫn tư tưởng của những nạn nhân của nó, nhưng nhại sẽ không thể được thực hiện nếu không có sự đánh giá thấu đáo tác phẩm mà nó chế giễu” [8; tr.82]. Không chỉ làm sáng rõ quan điểm về giễu nhại, các nhà nghiên cứu Việt Nam còn đi sâu vào các kiểu giễu nhại, cấp độ nhại. Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra hai kiểu giễu nhại chủ yếu: “kiểu khôi hài trong đó đối tượng thấp được trình bày bằng phong cách cao; và kiểu chế nhạo trong đó đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp”[28; tr.225]. Cấp độ giễu nhại có thể nhằm vào đề tài, cười nhạo những thủ pháp thi ca đã trở thành khuôn sáo, lỗi thời hoặc có thể nhại thi pháp, tác giả, thế giới quan… Các tác phẩm nhại thường có dung lượng ngắn nhưng yếu tố nhại lại có mặt rất nhiều trong những tác phẩm lớn. 11
  15. Kế thừa ý kiến của các học giả phương Tây, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào lại cho rằng cấp độ nhại chỉ đơn giản là: “nhại ngôn từ, nhại tác phẩm, nhại thể loại”[23; tr.158]. Theo bà, ở Việt Nam “chưa xuất hiện kiểu viết nhại cả một thể loại như Don Quijote của Xecvantex”. Nhại mới chỉ là hiện tượng đậm nét, một vệt sáng trong bức tranh văn học từ sau năm 1987. Mở rộng hơn về kiểu giễu nhại, Lê Huy Bắc chỉ ra: ngoài “kiểu nhại giữa tác phẩm này với tác phẩm khác (bao gồm hình tượng nhân vật, chi tiết, ngôn từ…), còn có kiểu nhại khác, nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con người ngoài đời. Các cấp độ nhại có thể được triển khai đến mức độ chi tiết. Thậm chí ngay trong chính một tác phẩm, nhại vẫn có thể được thực hiện giữa nhân vật này với nhân vật khác, hay giữa người kể chuyện với các nhân vật…”[8; tr. 82]. Tuy nhiên, cách phân loại của Lê Huy Bắc có phần chưa thấu đáo, bởi ông chia các kiểu nhại không cùng cấp độ: nhại trong văn học (giữa các tác phẩm, tác giả) và nhại giữa văn học và cuộc sống, trong khi đang bàn về giễu nhại với tư cách là một (tiểu) thể loại văn học. Vả chăng “nhại ngay chính những thói hư tật xấu của con người ngoài đời” chỉ là một trong các phương thức phản ánh hiện thực của văn học, có ở bất kỳ tác phẩm thuộc thể loại trào phúng nào. Như vậy, mỗi thời đại lại có quan điểm khác nhau về giễu nhại. Qua việc tìm hiểu giễu nhại trên cả lý luận và thực tiễn sáng tác, chúng tôi nhận thấy: giễu nhại là vấn đề quan trọng và phức tạp của nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật hậu hiện đại. Dù nhìn nhận ở góc độ nào, hầu hết các nhà nghiên cứu đều công nhận: giễu nhại có hai đặc điểm chính: giễu và nhại, tức châm biếm và bắt chước. Với từng loại đối tượng phong phú và đa dạng khác nhau, nhà văn sẽ tạo nên nhiều kiểu nhại khác nhau. Do vậy, để xác định yếu tố 12
  16. nhại, chúng ta cần xác định đối tượng nhại và các nguyên tắc hình thức để thực hiện giễu nhại. Cùng thuộc phương thức hài hước (humour) và lấy nguyên liệu từ quá khứ nhưng giễu nhại (parody) thuộc quan hệ biến đổi và mang màu sắc chính trị còn nhại văn (pastiche) thuộc quan hệ bắt chước và không mang màu sắc chính trị. Giễu nhại không chỉ là sao chép, bắt chước mà còn mang nghĩa giễu cợt, không nghiêm túc. Sự mô phỏng, bắt chước của giễu nhại là để làm rõ hơn cái vênh lệch giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa bên trong và bên ngoài… chỉ ra cho người đọc cái lỗi thời, cái khiếm khuyết, cái bất hợp lý của đời sống xã hội và cái méo mó ngay trong chính bản thân con người. Ở giễu nhại có sự bắt chước, thậm chí làm biến dạng tác phẩm gốc. Tuy nhiên, giễu nhại không có mục đích phủ định hay triệt tiêu tác phẩm gốc mà chỉ đề xuất một cách ứng xử, một cách nhìn khác với các văn bản ngôn từ. Chính ở đây, giễu nhại có liên quan đến vấn đề liên văn bản. Lúc này buộc chúng ta phải có sự hiểu biết nhất định để quy chiếu văn bản nhại với tác phẩm gốc. Để hiểu giễu nhại một cách thấu đáo hơn, cần phải xác định mối quan hệ giữa thuật ngữ này với các thuật ngữ hài hước, trào phúng và biếm họa. Quan hệ với hài hước (humour): hài hước là “một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng, chủ yếu gây cười, mua vui”[28; tr. 136]. Trong lịch sử, các nhà nghiên cứu xem hài hước là một cảm hứng đối trọng của cái nghiêm nghị hoặc cái bi thương. Hài hước giống giễu nhại ở chỗ: cả hai cùng thuộc phạm trù cái hài (comique), cùng tạo tiếng cười từ sự mất hài hòa cân đối giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt là lý tưởng và thực tế. Hài hước khác giễu nhại ở mức độ tiếng cười: hài hước cười ở mức 13
  17. độ nhẹ nhàng mua vui, thiện ý, là dấu hiệu của tài năng và tinh thần lạc quan, giễu nhại lại thiên về tiếng cười chế giễu, cợt nhạo. Xét về thứ tự cấp độ tiếng cười trong cái hài (cái hài có rất nhiều cấp độ cười): hài hước ở vị trí đầu tiên, tới giễu nhại và cuối cùng là châm biếm. Dù chế giễu ở mức độ nào, tiếng cười trong giễu nhại cũng không thể sâu cay, thẳng thắn và gay gắt bằng tiếng cười trong châm biếm. Quan hệ với trào phúng (satire): “Trào phúng theo nghĩa nguyên dùng là lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác.” [2; tr.363]. Trào phúng là “một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng… những cái xấu xa, tiêu cực, độc ác, lỗi thời trong xã hội” [2; tr.363]. Trong khi đó, giễu nhại có phương thức đặc trưng: mô phỏng, giễu cợt để tạo ra tiếng cười đả kích, châm biếm đối tượng. Tiếng cười ra nước mắt. Thực tế, giễu nhại thường rất dễ bị lẫn lộn với trào phúng. Trong khi giễu nhại là sự yêu thích, hài hước hóa và cùng lắm là châm biếm đối tượng bị giễu nhại, thì trào phúng quyết liệt hơn hẳn khi công kích những thói hư, tật xấu của đời sống xã hội. Nhưng cũng có không ít trường hợp giễu nhại và trào phúng hòa quyện một cách khéo léo qua tài năng và dụng ý của người sáng tạo. Quan hệ với biếm họa (caricature): “Biếm họa là một loại hình mỹ thuật sử dụng thủ pháp cường điệu nhằm phản biện, có quan điểm riêng và có chất trào lộng về một vụ việc, một sự kiện xã hội mang tính tinh thần hay vật chất. Hiệu quả của nó phụ thuộc vào nhân thức của người xem.”[22]. Hiểu một cách đơn giản thì biếm họa là tranh châm biếm – vũ khí sắc bén của báo chí. Đối tượng của biếm họa là không biên giới từ thể chế, chính quyền, tôn 14
  18. giáo cho đến vua chúa, nguyên thủ quốc gia, chính khách, ngôi sao… và cả thường dân. Mục đích chính của biếm họa là nêu bật được sự sai trái, khiếm khuyết, trì trệ của đối tượng. Nhiều người coi biếm họa là đặc thù riêng của báo chí vì độc giả có thể không đọc hết bài báo nhưng sẽ xem hết bức tranh. Thông điệp trong mỗi bức biếm họa truyền tải nhanh gọn và dễ tiếp nhận dưới góc độ hài hước. Văn học giễu nhại gần gũi với tranh biếm họa ở cách xây dựng những chân dung nhân vật điển hình với đặc điểm ngoại hình và tính cách kỳ quái, khác lạ. Các yếu tố, hiện tượng lệch pha cao độ, các chi tiết phóng đại, thậm chí là nghịch dị được sử dụng một cách tối đa để bộc lộ cái sai trái, kệch cỡm của đối tượng. Giễu nhại khác biếm họa ở hình thức biểu hiện, tính thời sự và mức độ tiếng cười. Đứng trước một bức tranh biếm họa, người xem sẽ ngay lập tức hiểu được thông điệp mà họa sỹ biếm muốn gửi gắm. Tiếng cười đả kích được thể hiện sâu sắc, trực diện, rõ nét và cô đọng trong từng nét vẽ. Tiếng cười trong văn học giễu nhại có phần nhẹ nhàng và cần thời gian hơn vì đặc trưng thể hiện là ngôn ngữ. Giọng điệu giễu nhại thẩm thấu trong từng câu, từng chữ, từng khoảng trống của tác phẩm. Vì vậy, để hiểu hết được những điều tác giả muốn giễu nhại, độc giả phải đọc trọn vẹn tác phẩm và có tầm hiểu biết sâu rộng. Dù là biếm họa hay giễu nhại thì đều mang đến cho người thưởng thức tiếng cười trí tuệ, tiếng cười mà con người ở mọi thời đại cần có để phản tỉnh và hoàn thiện chính mình. Như vậy, giễu nhại vừa có điểm tương đồng vừa có sự khác biệt với các khái niệm hài hước, trào phúng và biếm họa. Cùng tạo tiếng cười dựa trên sự đối lập, nghịch dị, lố bịch… nhưng giễu nhại khác hài hước ở độ sâu sự thâm nhập vào đối tượng giễu nhại, khác trào phúng và biếm họa ở mức độ sâu cay, gay gắt của sự phê phán và ý nghĩa sâu sắc của hình tượng nghệ thuật. Đối tượng giễu nhại rất phong phú và đa dạng trong cả đời sống và 15
  19. nghệ thuật. So với các khái niệm gần nó, giễu nhại thường tạo nên “độ mờ hóa” cao cho các sự kiện và hình tượng trong tác phẩm. Đây là điều khó khăn cho độc giả trong quá trình tìm kiếm và đánh giá thấu đáo giá trị của tác phẩm nhại. Bản chất của giễu nhại là sự châm biếm và bắt chước. Tuy nhiên, sự bắt chước và châm biếm đó không phải để bài xích, phủ định đối tượng mà là sự sáng tạo và đánh động lối tư duy quen nhàm của người thưởng thức. Nói một cách khái quát hơn, giễu nhại không chỉ đề cập vấn đề về nhận thức mà còn đặt ra vấn đề bản thân vận động của nghệ thuật. Lúc này, giễu nhại được coi là nghệ thuật về nghệ thuật. 1.1.2. Văn học giễu nhại Hiện tượng nhại trong văn chương xuất hiện từ rất sớm và “đây chẳng phải là độc quyền của trào lưu hay giai đoạn sáng tác văn chương nào” [8; tr.83]. Ngay từ thời cổ đại, phỏng nhại gắn chặt với sự thụ cảm carnival về thế giới và mang “tính lưỡng trị” (divalence). Phỏng nhại hóa ở carnival là tạo ra những “kẻ đồng dạng bị hạ bệ” – nguyên tắc này giống với hình ảnh trong gương dị dạng, vuốt dài ra, thu nhỏ lại, làm méo mó theo hướng khác nhau và mức độ khác nhau. Thời cận đại, mối quan hệ này hầu như bị cắt đứt. Nhưng trước đó, thời Phục hưng, ngọn lửa phỏng nhại carnival vẫn còn cháy sáng. Phỏng nhại vẫn mang tính lưỡng trị, có sự liên kết giữa cái chết và sự đổi mới. Rabelais (1494 - 1553) là tác giả sử dụng thủ pháp giễu nhại nhiều nhất trong những tác phẩm của mình. Theo Bakhtin, Rabelais đã đưa được những nét trào tiếu của văn hóa dân gian trong lễ hội giả trang thời trung cổ vào trong văn chương. Ông gọi hiện thực Rabelais là hiện thực trào tiếu. “Đặc trưng của hiện thực trào tiếu là sự méo mó, dị dạng. Mỹ học trào tiếu là nghệ thuật làm méo mó, xiên vẹo, dị dạng đối tượng, làm cho dị hợm, tức cười.”[6]. Trong 16
  20. những tác phẩm của mình, Rabelais đã kết hợp tài tình, độc đáo cái cười carnival với biếm họa. Ông biến những cái nghiêm trọng, đứng đắn trở thành bù nhìn, hình nộm. Bằng ngôn ngữ sỗ sàng, con số giễu nhại, motif, sự ám gợi, hình tượng nghịch dị... Rabelais không chỉ giễu nhại những nhân vật lịch sử đương thời như vua Francois Đệ Nhất (Gargantua), Henri d'Albert (Le Motteux), các Đức Hồng y (Panurge)... mà còn chống lại, đạp đổ cái “cường quyền” sâu xa và độc địa nhất. Ông hướng ngòi bút giễu nhại đến cả những dạng thức của đạo lý, bí truyền Thiên Chúa giáo, hạ bệ những mảnh cao cả trong trong Thánh Kinh Cựu Ước, Tân Ước; trong những thiên anh hùng ca, trong kinh kệ, trong các sách thánh hiền... Ông cho cái chết trong những mầm non vừa nảy nở, mỗi hình ảnh đều lập lờ hai nghĩa như một sự giễu nhại sâu cay: Cha con người Gargantua và Pentagruel “ăn tục nói phét” lại có dòng dõi “cứu thế”, hệt như đức Chúa trời; có nguồn gốc gia phả theo đúng truyền thống Thánh kinh: Gargentua chui từ tai mẹ ra sau khi bà này ăn tham, xơi quá nhiều lòng bò, bị bội thực. Gargantua cực kỳ thông minh, mới năm tuổi đã sáng tạo ra nhiều cách chùi đít. Gargantua đái chết ngập hàng trăm ngàn người dân Paris... Don Quijote của M. Cervantes (1547 - 1616) được coi là tác phẩm nhại lớn nhất thời kỳ này. Và trên thế giới cũng chưa có tác phẩm nào giễu nhại thể loại tiểu thuyết kiếm hiệp sâu sắc và mạnh mẽ hơn tác phẩm này. Đây là “tác phẩm mỉa mai cay đắng nhất mà chỉ con người mới có thể diễn tả được”. Sự giễu nhại, châm biếm nằm trên mọi cấp độ của tác phẩm: nhan đề, địa điểm, nhân vật, kỹ thuật kể chuyện, các cặp đối lập… Đặc biệt, cặp nhân vật lưỡng hóa Don Quijote và Sancho Panza là một sáng tạo độc đáo của Cervantes. Cặp đôi này không chỉ mang lại những tràng cười thích thú cho độc giả mà còn mang trong mình cả giải pháp cho vấn đề chính của tác phẩm – vấn đề thực tế và lý tưởng. Qua Don Quijote, Cervantes đã biến nhà quý tộc 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2