ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN LỆ THU
Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2008
Mục lục
Mục lục Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài. 2. Lịch sử vấn đề. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu. 5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn.
Phần nội dung Chương 1: Những chặng đƣờng thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Nguyễn Đức Mậu – từ người chiến sĩ đến nhà thơ mặc áo lính
Con người – Quê hương – Gia đình Người chiến sĩ – Nhà thơ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu trong phong trào thơ ca chống Mỹ.
2. Những chặng đường sáng tác
Những vần thơ ra trận.
2.2. Những vần thơ đi ngược thời gian.
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Cảm hứng về đất nước và con người trong chiến tranh
Cảm hứng về đất nước trong những năm tháng không bình yên. Cảm hứng về con người trong chiến tranh. 2. Cảm hứng về cuộc sống trong hoà bình Dư âm chiến tranh trong cuộc sống hòa bình Cảm hứng về cuộc sống đời thường (đất nước, thiên nhiên thanh bình, những người thân yêu,…). Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Thể thơ 2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thơ 3. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh 4. Giọng điệu
Phần kết luận Thƣ mục tƣ liệu tham khảo
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vốn là thể loại thuộc phương thức trữ tình, thơ ca ra đời rất sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại, ngay từ khi con người có nhu cầu tự biểu hiện. Cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Những bí ẩn của đời sống dần dần được khám phá, được lý giải và cắt nghĩa trên tinh thần của phương pháp luận khoa học. Song không phải vì vậy mà những sản phẩm thuộc về giá trị tinh thần của con người giảm đi sức hấp dẫn. Thơ là một địa hạt như vậy. Ra đời từ sớm và đồng hành cùng con người trong suốt hành trình dài, cho tới tận bây giờ, người ta vẫn tìm thấy những nét mới, tìm thấy sự quyến rũ trong thơ, thậm chí vẫn băn khoăn đi tìm một định nghĩa cho thơ. Bởi những gì thuộc về thơ không phải cao siêu, bí ẩn nhưng nó phong phú, đa dạng, nhiều biến thái và nhiều sắc màu cho nên cũng không dễ nắm bắt và không thể thoả đáng trong một vài câu. Nói như Giáo sư Hà Minh Đức, có thể “ví thơ với một con sông đang chảy qua nhiều phong cảnh khác nhau với lịch sử, và mỗi thời điểm mà nó đi qua đã cho con sông thơ ấy một sắc thái riêng. Nó có thể là mặt hồ yên tĩnh nơi này, mà lại là gào thét nơi khác, tuỳ theo địa hình, tuỳ theo lịch sử. Nếu là sông thì con sông thơ Việt Nam đã chảy qua quá dài thời gian, qua bao địa hình khác lạ. Điều ấy giúp rất nhiều các nhà lý luận vẽ bản đồ con sông nhưng không dễ, đơn giản, xuôi chiều”. [16; 13, 14]. Con sông thơ Việt Nam bắt nguồn dòng chảy bất tận của mình từ ca dao, dân ca, xuôi theo chiều dài của lịch sử dân tộc. Ở mỗi chặng đường, âm hưởng của thơ ca cũng có sự khác biệt. Đến thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, con sông thơ cùng cả dân tộc hát lên những khúc tráng ca hào hùng.
2
Chiến tranh đã qua đi, với một “độ lùi thời gian” cần thiết, thơ chống Mỹ ngày càng trở thành đối tượng hấp dẫn giới nghiên cứu và người đọc. Với âm hưởng hùng tráng, thơ chống Mỹ có sự góp mặt của nhiều thi sĩ tài năng, tâm huyết, với nhiều tác phẩm có sức sống lâu bền cùng thời gian. Góp phần làm nên những thành tựu cả về số lượng và chất lượng, cả nội dung và nghệ thuật của thơ chống Mỹ là sự xuất hiện của những nhà thơ trẻ. Với tuổi trẻ tràn đầy lý tưởng cách mạng, vốn văn hoá, vốn sống thực tế phong phú cùng tài năng của mình, các nhà thơ lứa tuổi 20 – 30 đã đem đến cho thơ một tiếng nói khoẻ khoắn, sôi nổi, hồn nhiên và nhạy cảm, thơ đậm
chất sống của chiến trường với sức sáng tạo và những tìm tòi nghệ thuật mới mẻ. Họ đã làm nên “một vùng sáng rất đẹp trong thơ” [18; 101].
Song song với việc nghiên cứu một giai đoạn thơ, một nền thơ, việc khảo sát, đi sâu nghiên cứu một tác giả có vai trò tiêu biểu và là hướng đi cần thiết. Bởi, với những tác phẩm của mình, mỗi tác giả đã tạo nên một phong cách riêng, một gương mặt riêng, một dấu ấn nghệ thuật riêng biệt của mỗi người nghệ sĩ.
Nguyễn Đức Mậu là nhà thơ xuất hiện vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông là một trong số những người đã viết tiếp truyền thống của cha anh, những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Đường thơ của ông đã trải dài con đường hành quân ra mặt trận, đi hết “một thời đạn bom” oanh liệt, sôi nổi rồi trầm tư bước vào thời kỳ hoà bình. Nguyễn Đức Mậu đã tạo dựng được một phong cách riêng rõ nét và có đóng góp quan trọng cho sự thành công của nền thơ thế hệ. Xuyên suốt từng trang thơ là tấm lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với con người Việt Nam. Tiếng thơ Nguyễn Đức Mậu vừa giản dị chân thành vừa giàu những rung động nội tâm tinh tế và cảm xúc nồng nàn sâu lắng. Ông đã viết những câu thơ từ chiến trường lửa cháy bằng chính những trải nghiệm của bản thân mình. Không cầu kỳ tô vẽ, không một chút giả tạo, thơ ông đượm chất sống của hiện thực và độ sâu của tâm hồn. Giản dị trong thơ, khiêm tốn và thành thực trong đời, Nguyễn Đức Mậu và những vần thơ của ông đã làm người đọc yêu mến và cảm động.
Chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn là: Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu, đánh giá về một gương mặt quen thuộc trong nền thơ ca hiện đại nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Raxun Gamzatốp trong tác phẩm Đaghextan của tôi đã tâm sự ông rất thích câu nói ghi trên sản phẩm vùng Kubatri nói: “Qua giọng hát anh nhận ra người hát. Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”. Nói cách khác, giọng hát ấy, nét khắc ấy chính là dấu ấn phong cách không thể nhòe lẫn của riêng mỗi người làm nghệ thuật.
3
Phong cách là một thuật ngữ không xa lạ đối với người nghiên cứu nghệ thuật nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng. Chúng tôi thống nhất với quan điểm của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình
Sử về khái niệm phong cách trong khoa nghiên cứu văn học: “phong cách là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc…; các dấu hiệu của phong cách dường như nổi lên trên bề mặt tác phẩm, như là một thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật” [20; 207].
Đề cập đến cái nhìn độc đáo trong sáng tác chính là sự khẳng định mọi nhà văn, nhà thơ đều có những tác phẩm của riêng mình, song không phải bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng tạo được cho mình một phong cách riêng. Chỉ những người nghệ sĩ có tài năng, có bản lĩnh trong quá trình sáng tạo nghệ thuật mới tạo được một phong cách riêng độc đáo. Tài năng của mỗi nhà thơ sẽ phụ thuộc vào cái nhìn mang tính phát hiện của họ đối với con người và cuộc sống. Cách nhìn độc đáo ấy lại được thể hiện trong cách sử dụng ngôn từ, cấu tứ, nhịp điệu,… khi nhà thơ tạo ra tứ thơ, hình tượng thơ thể hiện cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm của mình.
Ngôn ngữ thơ ca thể hiện đầy đủ những mặt mạnh trong phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Có được một ngôn ngữ thơ ca đẹp là một vấn đề không thuần tuý thuộc về sự rèn luyện hình thức mà trước hết là một vấn đề thuộc về nội dung cảm nghĩ. Không thể nói đến một hệ thống từ ngữ ở trong thơ với ý nghĩa tách biệt khỏi yêu cầu của nội dung. Ngôn ngữ thơ ca không phải chủ yếu là công cụ mà bản thân nó là mục đích. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là nhân tố năng động, biến hoá và nhiều màu sắc nhất.
4
Sự vận động của hình tượng thơ thường phải có những điểm tựa cụ thể và xác định. Tình cảm là đơn vị cấu tạo chủ yếu của hình tượng thơ. Nhưng nếu không có tứ thì tình cảm không được tổ chức lại một cách chặt chẽ và không phục vụ được cho chủ đề chung của bài thơ. Tứ chính là ý tưởng bao quát của toàn bài biểu hiện trong sự liên kết những cảm xúc, suy nghĩ và hình ảnh, biểu hiện trong dạng cấu tạo và phát triển của hình tượng thơ. Có những tứ thơ được xác lập một cách công phu phức tạp, có tứ thơ giản dị. Song ở dạng nào tứ thơ cũng phải có sắc thái và dáng dấp cụ thể. Sáng tạo được những tứ thơ hay đó là một phương diện của tài năng thi ca. Trong bài thơ Duyệt binh, Chính Hữu không miêu tả trực tiếp cuộc duyệt binh mà xây dựng tứ thơ qua hình ảnh và suy nghĩ của một đồng chí thương binh đứng nhìn cuộc duyệt binh. Anh thương binh không chỉ quan sát cuộc
duyệt binh đẹp đẽ và hào hùng như mọi người mà anh cảm thấy trong tiếng nhạc, trong nhịp chân đều bước của đoàn quân chiến thắng hôm nay có tiếng bước chân mình, đôi chân đã mất sau những năm dài hành quân chiến đấu.
Với thơ, nhịp điệu giữ một vai trò quan trọng. Có những bài thơ, nhịp điệu như ẩn vào âm hưởng bên trong lắng sâu, dào dạt. Huế, quê mẹ (Tố Hữu) có một nhịp điệu riêng vừa đằm thắm yêu thương vừa tha thiết khơi dậy những kỷ niệm qua một ngọn núi, một dòng sông, một điệu hò thân thuộc. Bài ca lái xe đêm lại thể hiện cái sôi nổi, tươi vui của nhịp điệu, nhịp thơ như chuyển động cuồn cuộn, như băng băng lao về phía trước theo chuyến xe đi và hòa vào niềm reo vui của tâm hồn… Có ý thức về nhịp điệu là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với người sáng tác. Nhà thơ phải nắm bắt được nhịp điệu của đời sống với tất cả sắc thái phong phú nhất của nó. Quan trọng hơn, nhà thơ là đại diện của nhịp điệu. Blôc đã ghi nhật ký của mình (7-2-1921): “Nhà thơ là người thế nào? Là người sáng tác thơ? Tất nhiên – không phải như thế. Nhà thơ – đó là vị đại diện của nhịp điệu”.
Đặc biệt, “phong cách thơ còn là một biểu hiện đậm đặc của cái tôi trữ tình trong thơ” [40; 135]. Bởi lẽ trong sáng tác thơ, vấn đề chủ thể - cái tôi trữ tình – luôn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ dưới nhiều dạng thức. Có khi dưới dạng trực tiếp của một tình cảm riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn với cuộc đời riêng của người viết mà nhà thơ thường sử dụng cách bộc lộ trực tiếp qua chữ “tôi” hoặc chữ “ta”, có khi viết về một khách thể nhưng cũng lại nhằm bộc lộ tư tưởng, tâm trạng của mình. Cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả được nghệ thuật hoá. Vì vậy mà cái tôi trữ tình của mỗi tác giả lại khác nhau, Tố Hữu khác Chế Lan Viên và cũng rất khác Hoàng Trung Thông, Huy Cận,… Chính sự khác nhau của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên những tiếng nói thơ ca khác nhau.
Trong thực tế, lập trường quan điểm, giai cấp, thị hiếu thẩm mỹ và cả phong cách sống cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến phong cách thơ của thi sĩ. Nhà thơ để lại dáng dấp riêng trong thơ và ngược lại, nói như Hàn Mặc Tử, đó là: “Người thơ phong vận như thơ ấy”.
5
Tuy nhiên, trong suốt chặng đường sáng tạo nghệ thuật của mỗi nhà thơ, để có thể tạo cho mình một phong cách riêng và độc đáo, chính họ phải tự phát hiện và vươn tới một giọng điệu thơ cho riêng mình và trung thành với nó…
Trên tinh thần tiếp thu những quan niệm về phong cách thơ, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu - một gương mặt thơ tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ và thơ Việt Nam hiện đại. Đó là một nhà thơ có phong cách và có tâm hồn thi sĩ nhạy cảm. Thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ thành công khi viết về chiến tranh với những đề tài mang tầm vóc thời đại lớn lao mà còn đạt đến độ chín trong suy tư cảm xúc giữa bề bộn đời thường nơi cuộc sống hoà bình.
Thơ Nguyễn Đức Mậu dù ra đời trong thời gian nào cũng được người đọc chú ý và có những tiếng vang trong dư luận phê bình. Số lượng những bài phê bình thơ Nguyễn Đức Mậu chưa nhiều nhưng đã phác hoạ được chân dung nhà thơ và đánh giá chính xác những thành công đáng khích lệ trong tác phẩm của ông.
Vũ Quần Phương đã có nhận xét về thơ, về đóng góp của thơ Nguyễn Đức Mậu ở cả hai thời kỳ trước và sau chiến tranh: “Cuộc sống ở chiến trường vô cùng phong phú, Nguyễn Đức Mậu kiên trì tạo ra những bức tranh miêu tả, với nhiều chi tiết cụ thể độc đáo, chỉ có những cây bút sống ở chiến trường mới dễ có các chi tiết ấy” [73; 3]. “Nguyễn Đức Mậu vốn mạnh về tình cảm, xúc cảm. Ông đã phát huy đúng sở trường của mình. Tình cảm ông thấm thía hơn, sâu sắc hơn theo năm tháng từng trải của đời ông. Phần đóng góp của ông chính là ở phía này” [111; 3]. Vũ Quần Phương đã khẳng định rằng: dù là ở thời điểm nào, phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu vẫn sáng lên nét đặc sắc của một nhà thơ mặc áo lính giàu tình cảm, đôn hậu.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã “bắt” được hồn cốt thơ Nguyễn Đức Mậu và nhấn mạnh bản chất thơ ông là thơ của một tấm lòng sâu sắc đầy rung cảm và những xúc động nội tâm. Đó là một tiếng thơ hết sức chân thành.
Tác giả Trần Đăng Suyền lại có nhận xét về một khía cạnh khác trong thơ Nguyễn Đức Mậu, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, đan xen nhiều thể thơ trong trường ca nhằm mở rộng hiện thực, tăng cường tính chính luận, triết lý trong thơ.
6
Một số tác giả lại đi sâu phân tích những hình tượng nghệ thuật độc đáo của thơ Nguyễn Đức Mậu như: tác giả Nguyễn Văn Long, nhà thơ Phạm Hổ cùng chung sự yêu mến với hình tượng Người lính, tác giả Nguyễn Thanh Tú với hình tượng Đất,… hay như trong quá trình tìm hiểu về thơ giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, các nhà nghiên cứu như Giáo sư Mã Giang
Lân, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ,… đều nhắc đến Nguyễn Đức Mậu như là một trong những hiện tượng tiêu biểu của thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và phân tích một số phương diện trong đặc điểm thơ Nguyễn Đức Mậu.
Các nhà thơ Trần Mạnh Hảo, Võ Văn Trực lại chú ý đến sự trở về của quá khứ, đến nỗi ám ảnh về chiến tranh trong thơ Nguyễn Đức Mậu, họ khẳng định: “Chiến tranh đã qua rất lâu nhưng thơ ca của Nguyễn Đức Mậu chưa có được một ngày bình yên. Hầu như trái tim ông đã biến thành quả bom của ký ức đêm đêm ném xuống trang bản thảo tất cả nỗi đau chưa nguôi ngoai của chiến tranh, khiến các con chữ bị thương nghiêng ngả. Những cái chết của đồng đội chính là vết thương không biết cách cầm máu trong tâm hồn nhà thơ” [21; 69]. Nói cách khác như Trịnh Thanh Sơn, sự dằn vặt với quá khứ của Nguyễn Đức Mậu dai dẳng và ăn sâu như “những ám ảnh hoá thạch” – “hoá thạch máu và nước mắt của cả một dân tộc đã vùng lên, giữ vững nền độc lập, tự do cho đất nước mình” [76; 34].
Bản thân nhà thơ cũng đã từng bộc bạch: “Kỷ niệm về cuộc sống chiến đấu nơi chiến trường đã để lại dấu ấn sâu sắc không thể nhạt phai trong tôi. Nghĩ đến cái chết của đồng đội thật thương cảm và mến phục, cho nên tôi viết về chiến tranh, về đồng đội như là sự thôi thúc của lương tâm”. Chiến tranh đã trở thành những nét khắc chạm rất sâu trong cảm xúc và tư duy nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, trở thành một đặc điểm riêng của hồn thơ ông. Các nhà nghiên cứu đã viết về ông bằng những dòng chữ đầy trân trọng: “Anh đã biết sống, biết trân trọng quá khứ của mình và đồng đội. Điều đó thật đáng quý khi chiến tranh đã lùi xa”. [23; 17].
7
Nhìn chung, qua việc khảo sát các bài viết tìm hiểu, nghiên cứu thơ Nguyễn Đức Mậu, chúng tôi nhận thấy thơ Nguyễn Đức Mậu đã nhận được sự quan tâm của độc giả và của giới nghiên cứu. Những bài nghiên cứu tiếp cận thơ Nguyễn Đức Mậu bằng nhiều hướng khác nhau và đưa ra những kết luận ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh trong đặc điểm thơ Nguyễn Đức Mậu. Tuy vậy, những bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc khám phá những bộ phận của thơ ông, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu thơ Nguyễn Đức Mậu với tư cách là một phong cách nghệ thuật hoàn chỉnh từ những yếu tố cấu thành đến phương thức biểu hiện của nó. Đặc biệt là mảng thơ ông sáng tác sau 1975 đến nay chưa nhận được sự quan tâm thoả đáng. Đó chính là gợi ý để chúng tôi tiến hành nghiên cứu Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu một cách có hệ thống.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm phong cách ở góc độ lý luận văn học, luận văn đi sâu nghiên cứu phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu với những biểu hiện trên sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Với yêu cầu của nội dung đề tài, chúng tôi tập trung vào khảo sát toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đức Mậu đã được xuất bản, một số bài thơ lẻ, những bài giới thiệu thơ, bài viết đăng trên các báo, tạp chí gần đây của tác giả. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý tới những tập thơ tiêu biểu được ghi nhận bằng giải thưởng cao quý. Những tập thơ được khảo sát cụ thể gồm: áo trận (1976), Bão và sau bão (1998), Cây xanh đất lửa (1973), Hoa đỏ nguồn sông (1987), Khi bé Hoa ra đời (1984), Mƣa trong rừng cháy (1976), Ngƣời đi tìm chân trời (1982), ở phía rừng Lào (1984), Thơ ngƣời ra trận (1971), Thơ với tuổi thơ (2003), Từ hạ vào thu (1992), Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998), Trƣờng ca Sƣ đoàn (1980), Bầy chim lá màu vàng (2004), Thơ lục bát (2007). Ngoài ra, ở một số tỏc phẩm văn xuôi, chúng tôi không đề cập sâu nhưng sử dụng làm tư liệu để đối chiếu và so sánh khi cần thiết để làm rõ hơn nét độc đáo của thơ Nguyễn Đức Mậu. Chúng tôi cũng sử dụng những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ cùng thời và lệch thời với tác giả Nguyễn Đức Mậu. Những sáng tác này được sử dụng làm tài liệu tham khảo quan trọng để soi sáng, nổi bật vấn đề trong quá trình nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhìn nhận vấn đề trên cơ sở lý luận văn học và văn học sử, bám sát đặc trưng thể loại, luận văn tập trung phác họa một diện mạo, một phong cách thơ của riêng Nguyễn Đức Mậu. Một số phương pháp được sử dụng đồng thời gồm:
- Phương pháp tổng hợp tư liệu nhằm có được một cái nhìn khái quát.
8
- Phương pháp hệ thống: Sử dụng phương pháp này trong việc thực hiện đề tài nghiên cứu phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu như là một thể thống nhất của các yếu tố cấu thành nội dung, hình thức và mối quan hệ giữa các yếu tố ấy. Vận dụng phương pháp này, người viết có thể hệ thống được về sự hình thành, vận động, phát triển của các yếu tố cấu thành phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu: cảm hứng đề tài, hệ thống hình tượng, hình thức biểu hiện,...
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh: Luận văn tiến hành phân tích những sáng tác thơ cụ thể của Nguyễn Đức Mậu trên nhiều chiều kích, trong một hệ thống chung của cá nhân nhà thơ và của thời đại. Bước nghiên cứu đó đồng thời dựa trên kết quả của sự so sánh thơ Nguyễn Đức Mậu với thế hệ các nhà thơ cùng thời, giữa thơ Nguyễn Đức Mậu ở các chặng đường sáng tác.
- Phương pháp lịch sử: Vận dụng phương pháp này để tìm hiểu ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và các yếu tố con người, quê hương,... đối với việc góp phần làm nên một hồn thơ Nguyễn Đức Mậu riêng biệt.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu về Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này hy vọng sẽ đem đến một cái nhìn khái quát, sâu sắc về diện mạo thơ Nguyễn Đức Mậu. Từ đó thấy được sự vận động của thơ ông trong tiến trình thơ đồng thời khẳng định những đóng góp của tiếng thơ Nguyễn Đức Mậu đối với nền thơ Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1: Những chặng đường thơ Nguyễn Đức Mậu
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Đức Mậu
9
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Nguyễn Đức Mậu
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1:
NHỮNG CHẶNG ĐƢỜNG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU
1. Nguyễn Đức Mậu - từ ngƣời chiến sĩ đến nhà thơ mặc áo lính
1.1. Con người – Quê hương – Gia đình
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lấy tên khai sinh làm bút danh, sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948 tại làng Vị Khê – xã Nam Điền - huyện Nam Trực - tỉnh Nam Định.
Quê hương Nguyễn Đức Mậu – làng quê đồng bằng Bắc bộ nghèo như bao làng quê chiêm trũng khác – đã hứng chịu biết bao biến động của lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn của kẻ thù trong chiến tranh. Mảnh đất ấy cũng là nơi quy tụ và sinh thành những ngôi sao sáng chói trong lịch sử văn học nước nhà: Trần Tế Xương, Á Nam Trần Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính,... Mảnh đất Nam Định bên dưới lớp sỏi cằn khô là mạch nước nguồn trong mát nuôi dưỡng bao thế hệ sáng tác suốt cả thời kỳ lịch sử dài. Sức sống dồi dào, sự trỗi dậy kiên cường, bất diệt của quê hương Nam Định khắc khổ mà anh dũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến phẩm chất con người và phẩm chất thơ Nguyễn Đức Mậu.
Nguyễn Đức Mậu sinh ra trong một gia đình trung nông lớp dưới nhưng cha lại là người rất ham học và say mê văn chương. Ngay từ nhỏ, cuộc sống gia đình vốn gắn bó với đồng ruộng đã đào luyện nên ở Nguyễn Đức Mậu một niềm say mê với đất đai và sự nhạy cảm với thiên nhiên tạo vật. Ông còn được thừa hưởng truyền thống văn hoá, tinh thần yêu nước cách mạng của gia đình.
10
Say mê sống và say mê sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu là người đam mê thơ ca từ thủa ấu thơ. Ngay từ nhỏ, ông đã làm thơ và có tác phẩm đăng báo. Mười bảy tuổi lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của tổ quốc, Nguyễn Đức Mậu đã phải sống những tháng ngày gian khổ, đã giáp mặt với chiến tranh, cận kề với bom đạn và cái chết... những thử thách đó, như lửa thử vàng càng làm sáng tỏ lý tưởng cách mạng kiên định trong tâm hồn nhà thơ. Cuộc đời
chiến sĩ cùng với năng khiếu thơ bẩm sinh, Nguyễn Đức Mậu đã biết chắt lọc từ trong khói lửa, trong hy sinh mất mát những vần thơ mang âm hưởng sử thi hào hùng. Nói đến duyên thơ của Nguyễn Đức Mậu không thể không nhắc đến sự song song và thống nhất của con đường văn nghiệp và con đường binh nghiệp. Đến nay, với trên hai chục đầu sách gồm cả thơ, văn, tác phẩm viết cho thiếu nhi,... tất cả đã cho thấy Nguyễn Đức Mậu có một sức sáng tạo thật dồi dào.
Với công việc biên tập thơ cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu càng được góp sức nhiều hơn cho sự nghiệp thơ ca. Bằng kinh nghiệm sáng tác của mình, Nguyễn Đức Mậu góp phần phát hiện và vun đắp những tài năng thơ đương đại. Hiện nay, ông đã nghỉ hưu nhưng ông vẫn tiếp tục bền bỉ trên con đường sáng tác, như ngày nào ông viết những vần thơ trong nỗi đam mê không thể dứt:
Với nhà thơ, thơ là nỗi đam mê
Họ theo đuổi, suốt đời chƣa dứt đƣợc
...Khi kết thúc tập thơ mới nhất
Lại bắt đầu vỡ đất tập thơ sau
(Ghi chép về thơ)
1.2. Người chiến sĩ – Nhà thơ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu trong
phong trào thơ ca chống Mỹ
Ngay sau khi chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp, cả dân tộc ta lại bước vào một cuộc kháng chiến đối mặt với một kẻ thù rất tàn bạo và hùng mạnh là đế quốc Mỹ. Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, đất nước và con người Việt Nam đã phải chịu nhiều đau thương mất mát. Nhưng chính trong sự đau thương và mất mát ấy, lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của nhân dân ta một lần nữa được khẳng định. Nhà thơ Cuba Phêlích Pita Rôđighết đã viết nhiều về Việt Nam với cảm hứng thơ sâu sắc:
Nếu thế giới này tạo đƣợc nhiều Việt Nam
Nỗi tủi thẹn làm ngƣời không còn nữa
Và vị bánh mỳ mà chúng ta ăn đắng cổ sẽ không còn...
11
Nếu thế giới này tạo đƣợc nhiều Việt Nam
Đất nước Việt Nam diệu kỳ với tiềm lực và sức mạnh có tính chất thần thoại ấy là đối tượng ngợi ca của bạn bè năm châu trong những ngày chống Mỹ.
Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, thơ ca trở thành một phương tiện hữu hiệu để phản ánh cuộc chiến đấu anh dũng, sự kiên cường bất khuất của cả dân tộc Việt Nam. Và chính cuộc kháng chiến với những gian khổ, với những tấm gương anh dũng, những chiến tích hào hùng lại là chất liệu và nguồn cảm hứng dồi dào và phong phú, giàu sức sống đối với các nhà thơ.
Có thể nói, đây là thời kỳ rực rỡ của thơ ca Việt Nam “Một không khí sáng tác và sinh hoạt thơ ca rầm rộ, hào hứng chưa từng thấy” [37; 277]. Không chỉ phản ánh cuộc kháng chiến, thơ ca giai đoạn này còn trở thành vũ khí đánh giặc sắc bén: “Khi tiếng súng chống Mỹ cứu nước bùng nổ thì lời ca ngợi và cháy bỏng căm thù cũng vang lên một nhịp, thơ vẫn phát huy được tính chiến đấu kịp thời và tính thời sự nhạy bén. Trên tuyến lửa của lòng căm thù và trong chiều sâu của mỗi trái tim yêu nước, thơ ca có mặt ở khắp mọi nơi” [120; 1].
12
Cuộc sống phong phú, sôi nổi chứa đựng những tư tưởng tình cảm và hành động lớn của dân tộc đã tập hợp được xung quanh rất nhiều nhà thơ. Các nhà thơ đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc. Nhiều thế hệ nhà thơ đã có mặt trong cuộc chiến đấu với những đóng góp xứng đáng. Tố Hữu viết Ra trận và Máu và hoa; Chế Lan Viên viết Hoa ngày thƣờng, Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc; Xuân Diệu có Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt; Huy Cận với Những năm sáu mƣơi và Chiến trƣờng gần đến chiến trƣờng xa; Nguyễn Đình Thi với Dòng sông trong xanh; Hoàng Trung Thông với Đầu sóng và Trong gió lửa; Chính Hữu viết Đầu súng trăng treo,... Thế hệ các nhà thơ lớn lên trong thời kỳ chống Mỹ có đóng góp quan trọng. Giang Nam viết Quê hƣơng; Thanh Hải với Những đồng chí trung kiên; Lê Anh Xuân với Hoa dừa và trường ca Nguyễn Văn Trỗi; Phạm Tiến Duật viết Vầng trăng và quầng lửa; Xuân Quỳnh với Hoa dọc chiến hào và Gió Lào cát trắng; Nguyễn Khoa Điềm với Đất ngoại ô và trường ca Mặt đƣờng khát vọng; Nguyễn Đức Mậu viết Mƣa trong rừng cháy và Cây xanh đất lửa; Dương Hương Ly với Mảnh đất nuôi ta thành chiến sĩ;.... Sự điêu luyện của các nhà thơ lớn tuổi và cái tươi mát của các cây bút trẻ đã tạo nên sự phong phú, đa dạng, giàu màu sắc của thơ ca chống Mỹ. Các nhà thơ có một cái nhìn mới đối với chiến tranh, đối với những mất mát hy sinh và sự
bất tử, lòng căm thù giặc, tình bạn chiến đấu, tình yêu và lòng tin, ước mơ chiến thắng, suy nghĩ về số phận của nhân dân, của Tổ quốc. “Thơ chống Mỹ mang nhiều phẩm chất đẹp, vừa giàu lý tưởng, vừa giàu chất hiện thực, có bề rộng của cuộc đời lẫn chiều sâu của tâm trạng...” [18; 111].
Sự phong phú và sôi nổi của thơ Việt Nam những năm chống Mỹ đã tạo nên hình ảnh đẹp và độc đáo của một dân tộc vừa đánh giặc vừa làm thơ. Tính thời sự nhạy bén bao giờ cũng là yêu cầu trước hết đối với nền thơ chiến đấu. Với một lực lượng sáng tác đông đảo bám chắc mọi vị trí, mọi lĩnh vực của cuộc sống sản xuất và chiến đấu, nhất là những điểm nóng bỏng của hiện thực chống Mỹ nên thơ có sức phản ánh nhạy bén, mang tính thời sự cao. Thực tế chống Mỹ đã gắn bó máu thịt với tâm hồn nhà thơ, vì thế, thơ nói chính trị, nói sự kiện mà sức lay động sâu xa. Các nhà thơ đã tự hào về sự gắn bó của mình với đồng bào, đồng chí trong cuộc ra trận lớn lao:
Tôi cùng xƣơng thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
(Xuân Diệu)
Sung sƣớng bao nhiêu tôi là đồng đội
Của những ngƣời đi vô tận hôm nay
(Chính Hữu)
Có thể nói, những năm chống Mỹ, không một mảnh đất nào, một chiến công lớn nào, một anh hùng tiêu biểu, một sự kiện có tầm quan trọng nào lại không có mặt trong thơ, và có ngay trong cái dáng dấp sống động và không khí nóng hổi chất thời sự. Để có được những thành tựu đáng kể của nền thơ chống Mỹ, các nhà thơ đã có một quá trình tu dưỡng, rèn luyện và bám sát đời sống với ý thức chính trị nhạy bén, tạo được cảm hứng kịp thời trước một sự kiện mới mẻ. Sự nhạy bén, tính thời sự kịp thời của nền thơ chống Mỹ đã thực sự tạo nên một nét mới rất đáng tự hào trong truyền thống chiến đấu của thơ ca cách mạng.
13
Trong ngọn lửa của cuộc chiến đấu vĩ đại, đội ngũ các nhà thơ được tôi luyện và luôn được bổ sung. Ở một số nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ, giai đoạn này chính là giai đoạn giúp họ tìm cho mình hướng đi riêng trong cách nhìn, cách cảm, cách biểu hiện để tạo cho mình một phong cách thơ độc đáo, mới lạ cho bản thân.
Các nhà thơ trẻ - ở mỗi người - vốn văn hoá cùng lý tưởng sống, lý tưởng thẩm mỹ đã được bồi dưỡng và hình thành từ trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã lên đường ra trận, có mặt bên những chiến hào chống Mỹ. Cuộc sống chiến trường đã tôi luyện, bồi đắp cho thơ họ những phẩm chất mới.
Thơ Phạm Tiến Duật vừa hiện thực, vừa phóng túng, tươi trẻ. Đó là hiện thực của tình cảm giữa nhà thơ và đồng đội hòa vào cách nói của quần chúng, của ngôn ngữ đời sống, dân gian. Có thể thấy rõ điều đó qua các bài thơ: Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong,... Giọng thơ Phạm Tiến Duật thường xen vào cái hồn nhiên tinh nghịch của tuổi trẻ. Ông đã sử dụng linh hoạt câu thơ văn xuôi trong nhiều bài:
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch nhọn
(Gửi em cô thanh niên xung phong)
Đặc biệt, các bài thơ của Phạm Tiến Duật thường được xây dựng chủ
yếu theo tứ và dồn sức nặng vào đoạn kết, câu kết:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trƣớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Phạm Tiến Duật đã kết hợp được nhuần nhị giữa lý tưởng và sự kiện, giữa năng lực quan sát và tấm lòng của một người lính trẻ. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ kết hợp một cách hài hoà với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ góc cạnh đầy ấn tượng.
14
Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ của chiến trường Trị Thiên cũng gây được sự chú ý, quan tâm đặc biệt của bạn đọc. Trong thơ ông, nhất là thể loại trường ca, sức hấp dẫn được biểu hiện cụ thể ở sức vang của nội tâm trước hiện thực phong phú. Mặt đƣờng khát vọng đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về Đất nước và Nhân dân. “Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”. Nhà thơ đã nhận diện, phát hiện về Đất nước - chương V trong trường ca Mặt đƣờng khát vọng - trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Ông đã có những khám phá giản dị mà bất ngờ về vẻ đẹp của đất nước từ
ngàn xưa và ý nghĩa của truyền thống đối với cuộc sống hiện đại. Mảnh đất nghèo nhưng là chiếc nôi nuôi dưỡng hoa trái ngọt lành, tình yêu và hạnh phúc... Tác giả đã vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, truyện cổ, phong tục,... cùng với cách diễn đạt bình dị gây ấn tượng vừa gần gũi, vừa mới mẻ cho người đọc. Sự dồi dào trong xúc cảm và chiều sâu trí tuệ đã khiến cho thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa mang tính chính luận, vừa hàm ẩn chất trữ tình. Mặc dù trong kháng chiến chống Mỹ là một nhà thơ trẻ, nhưng qua thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được trách nhiệm của mình, của lớp người mình trước cuộc sống và hoàn cảnh của đất nước trong chiến tranh:
Trong chiến tranh này có ai nói giùm ta
Những kì diệu nhƣ một mùa nƣớc lớn
Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm là ở giọng nói mới mẻ, trẻ trung nhưng cũng nặng những kỷ niệm ưu tư, trằn trọc. Những bài thơ anh viết về quê hương, với những cuộc đời thân thuộc đã thể hiện rõ điều đó. Ở Đất ngoại ô, Thơ ơi, Tiễn bạn cuối mùa đông ta gặp giọng thơ tha thiết, sâu lắng. Ở Mặt đƣờng khát vọng lại giục giã, hào hùng. “Cảm xúc trong thơ anh không dễ dãi mà là một khả năng của lớp trẻ đã thấy nhiều, nghĩ nhiều, từng trải nhiều” [37; 320]. Khúc hát ru những em bé lớn trên lƣng mẹ được hình thành trên cảm hứng về sự sống âm thầm nhưng bất diệt của dân tộc. Tình yêu con của bà mẹ Tà Ôi luôn gắn liền với tình thương yêu bộ đội, bản làng, đất nước, lòng kính yêu Bác Hồ. Nhà thơ trẻ ấy đã mang đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc. Mọi tình cảm cá nhân đều hoà chung trong những tình cảm, ý chí của đất nước, dân tộc.
Với nhà thơ Hữu Thỉnh cũng “từ cái nôi nghệ thuật dữ dội, khốc liệt và thơ mộng là Trường Sơn, anh đã tìm đến những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, nhân dân, về thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ” [89; 32]. Ta nhận ra ở Hữu Thỉnh hồn thơ khoẻ khoắn, giàu nội tâm, “yêu người mến cảnh và nồng nàn một tấm lòng tri kỷ, tri âm” [89; 34].
15
Bao trùm lên sáng tác của Hữu Thỉnh là nguồn cảm hứng về Tổ quốc. Nhà thơ thấm thía nỗi đau khi một mảnh đất nhỏ của Tổ quốc rơi vào tay giặc, dù đó chỉ là một “gốc sim cằn”. Tổ quốc luôn là điều thiêng liêng, không thể mất trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Vì vậy, mỗi thế hệ, mỗi con người đều sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời, cả dòng máu đang cuộn chảy để thắp sáng lên ngọn lửa nồng cháy cho Tổ quốc hôm nay và mai sau:
Nổi chìm bao kiếp ngƣời qua
Qua tháng năm sứt mẻ
Việt Nam
Hai tiếng mẹ
(Trường ca biển)
Hình ảnh người mẹ cụ thể đã trở thành biểu tượng cao đẹp về Tổ quốc thiêng liêng. Sự trong sáng, chân thành ẩn chứa bên trong mỗi câu chữ. Giọng thơ Hữu Thỉnh giản dị như những lời trò chuyện đời thường mà gieo vào lòng người đọc nỗi nghẹn ngào sâu lắng và niềm xúc động khôn nguôi:
Mẹ nén đau
Giấu tờ báo tử
Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ
Bốn nghìn năm đất nƣớc mấy khi yên
(Đường tới thành phố)
Hữu Thỉnh đã viết thật xúc động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hy sinh của con người, của dân tộc. Trong mỗi trang thơ anh viết, ta thấy cả trí tuệ và trái tim, tài năng và nghị lực cùng những khát khao, mơ ước cháy bỏng của anh. Ta ghi nhận ở Hữu Thỉnh một hồn thơ giàu xúc cảm, chân thành, đằm thắm mà cũng rất khoẻ khoắn, rắn rỏi...
Có thể thấy, mỗi nhà thơ, mỗi người cầm bút đều có những sáng tạo
nghệ thuật riêng, thể hiện “cái tôi” độc đáo của mình.
16
Những rung động tha thiết, những điệp khúc ngân vang trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của lớp nhà thơ trẻ đã làm nên những hương ngọt, trái thơm trong vườn thơ nhiều màu sắc của thơ ca chống Mỹ. Thơ của Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh và một số nhà thơ khác... đã in đậm dấu ấn của mọi thời đại, mang hơi thở và tinh thần của cả một thế hệ. Mỗi người trong số họ đã tạo được một phong cách riêng trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình. Và trong vườn hoa muôn màu, muôn sắc của các phong cách thơ ấy, nhà thơ trẻ Nguyễn Đức Mậu cũng đã tạo được cho mình một phong cách riêng. Điều đó được thể hiện trong cả hành trình thơ dài của ông từ núi rừng Trường Sơn khốc liệt đến những năm tháng hoà bình yên ả, từ những cảm hứng nghệ thuật đến các phương thức biểu hiện trong thơ. Nguyễn Đức Mậu đã khẳng định được tên tuổi, tài năng, phong cách của mình.
Năm 1965, Nguyễn Đức Mậu lên đường nhập ngũ, bắt đầu cuộc đời của một người lính – người chiến sĩ chiến đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông cùng biết bao con người trẻ tuổi gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mỹ cùng tâm niệm sắt son:
Ngƣời ta không thể chọn để đƣợc sinh ra
Nhƣng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
Vào những năm 60, khi ngọn lửa chiến tranh lan ra cả nước, thơ Nguyễn Đức Mậu bắt đầu xuất hiện đều đặn trên báo Nhân dân. Chính sự trải nghiệm cuộc sống ở chiến trường, được chia sẻ với nhân dân những gian nan vất vả, đau thương mất mát lại mở ra trước mắt người làm thơ một hiện thực phong phú, vô tận. Những vần thơ của Nguyễn Đức Mậu là những câu chuyện được kể lại một cách thành thực cuộc sống của chính ông ở chiến trường lửa đạn: “Thơ mang lượng thông tin đủ giúp các bậc cha mẹ hình dung con em mình nơi trận mạc. Và lượng tình cảm mang tính phổ cập góp phần yên lòng người ra trận, an ủi người hậu phương” [73; 23]. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đức Mậu không bắt đầu từ “phòng văn” mà nảy mầm, kết trái ở chính nơi đầu sóng ngọn gió của cuộc chiến đấu. Ông đã từng đêm tâm sự một cách trung thực và chân thành:
Tôi yêu những câu thơ mặc áo lính sờn vai
Những câu thơ nằm chiến hào đợi giặc
Những câu thơ trộn mồ hôi, bùn đất
Những câu thơ từ thực chất cuộc đời
Nhƣ cây lá không cần trang điểm
Chùm quả chín rung rinh chùm ánh sáng
Sức xanh tƣơi không kể chi mùa
(Trường ca sư đoàn)
17
Chiến tranh đã cuốn cả dân tộc vào guồng xoáy khốc liệt của nó. Phản ánh cuộc chiến tranh trở thành niềm đam mê và cũng là nơi thử sức lâu dài của người cầm bút. Các nhà văn, nhà thơ đều phải xác định “Sống đã rồi hãy viết” (Nam Cao). Những vấn đề cá nhân với những khát vọng riêng tư trong hoàn cảnh ấy dường như tự lắng xuống nhường chỗ cho những gì lớn lao hơn, chung hơn như vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Thơ Nguyễn Đức Mậu là tiếng nói sống động và đầy tự tin của người trong cuộc. Sống hết mình với hiện thực, rung động tận đáy lòng với cuộc sống và phát huy khả
năng của mình, Nguyễn Đức Mậu đã lưu lại tên tuổi của mình trong thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ với một cái tên giản dị và cao đẹp: “Nhà thơ mặc áo lính”:
Thuở cây bút lớn lên cùng khẩu súng
Nhà thơ và ngƣời lính liền nhau
(Trường ca sư đoàn)
Trong quá trình sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu có ý thức rất cao về những tìm tòi đổi mới, cách tân trong văn học. Ông nhiều lần trăn trở, tự đối thoại với chính mình:
Lối cũ nhiều ngƣời đi
Thôi rẽ sang đƣờng khác
...
Cũ nhƣ câu thơ không còn cảm xúc
Mình muốn phá tung mọi khô cứng chai lỳ
Hay luôn tâm niệm:
Tôi trân trọng sự tìm tòi năng động
Của nhà thơ trên chặng đƣờng thơ
Những thể nghiệm nhƣ luống cày vỡ vạc
Từ trong ý thức sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Đức Mậu đã cố gắng tạo cho mình một phong cách riêng, một con đường đi riêng tới tâm hồn bạn đọc.
18
Nguyễn Đức Mậu là nhà thơ có phong cách rõ nét và có đóng góp quan trọng cho sự thành công của thơ ca chống Mỹ. Thơ ông là những phác hoạ về chiến trường khói lửa và là bức tranh về hiện thực chiến tranh khốc liệt được vẽ lại qua con mắt của người trong cuộc đã chứng kiến và nếm trải. Cùng với đó là những cung bậc cảm xúc của những người lính trẻ: lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, những cảm xúc của tình yêu, nỗi đau thương mất mát trước sự hy sinh của đồng đội,... Những mảng nội dung quan trọng này được thể hiện thông qua một tâm hồn thi sĩ với một ngòi bút tài năng. Thơ Nguyễn Đức Mậu là sự kết tinh của trí tuệ và cảm xúc - một trí tuệ giàu có, tư duy sắc sảo và một tấm lòng, một trái tim có sức lay động tâm hồn người đọc. Thơ ông đã để lại ấn tượng sâu sắc về tiếng nói thơ đầy trách nhiệm
trước đất nước và cuộc sống đồng thời cũng phản ánh rõ những chuyển biến của tư duy thơ thời đại.
2. Những chặng đƣờng sáng tác
Chúng tôi đưa ra mốc thời gian phân chia chặng đường sáng tác của thơ Nguyễn Đức Mậu là năm 1976 – 1 năm sau hơn 30 năm đấu tranh gian khổ của dân tộc. Sự phân định này nhằm mục đích phân biệt, so sánh sự khác nhau về đề tài, cảm hứng nghệ thuật, các hình tượng thơ, cảm xúc trữ tình,... trong thơ Nguyễn Đức Mậu giữa các chặng đường sáng tác.
2.1. Những vần thơ ra trận
Ở phần này, chúng tôi tiến hành khảo sát các tập thơ ra đời thời kỳ trước năm 1976. Giai đoạn này, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu cho xuất bản bốn tập thơ: Thơ ngƣời ra trận (In chung với Vương Trọng năm 1971), Cây xanh đất lửa (1973), Áo trận (1976), Mƣa trong rừng cháy (1976). Do sự xuất hiện trùng lặp của một số bài thơ, chúng tôi chỉ khảo sát những tập: Thơ ngƣời ra trận, Cây xanh đất lửa, Mƣa trong rừng cháy.
Sinh ra từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, được trau dồi tri thức văn hoá trong nhà trường của chế độ mới, Nguyễn Đức Mậu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã từ cánh cửa nhà trường đi thẳng tới chiến trường cầm súng chiến đấu.
Hiện thực đời sống những năm chống Mỹ và ngọn lửa chiến tranh cách mạng đã tôi luyện Nguyễn Đức Mậu thành con người vững vàng trong cuộc sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Giáp mặt với thực tế chiến tranh, Nguyễn Đức Mậu đã ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình, sự xuất hiện đúng lúc của thế hệ mình.
Cùng với giải nhất cuộc thi Thơ do Báo Văn nghệ tổ chức năm 1972 - 1973 cho bốn bài thơ chân thật và cảm động về người lính (Đất, Đôi mắt, Nằm hầm, Ghi ở chiến trƣờng), Nguyễn Đức Mậu đã khẳng định tài năng, vị trí và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời chống Mỹ.
2.1.1. Thơ ngƣời ra trận (NXB Quân đội nhân dân – 1971)
19
Đây là tập thơ đầu tay được in chung với nhà thơ Vương Trọng của anh lính trẻ - nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Lúc này Nguyễn Đức Mậu vừa tròn 23 tuổi và đã đứng trong quân ngũ 6 năm. Phần thơ của Nguyễn Đức Mậu có 19 bài trong đó có những bài rất nổi tiếng: Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc, Âm điệu đồng bằng, Hầm vây lấn, Công sự trên điểm cao,...
Ở tập thơ đầu tay này, ta bắt gặp một giọng thơ vừa trẻ trung, tươi tắn, vừa bồng bột, sôi nổi. Chúng ta cảm nhận được một tâm hồn tươi trẻ, phơi phới lạc quan:
Sông dồn sức trẻ căng ra biển Tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng Tháng ba trống vỡ căng trời rộng Đƣờng đông ngƣời đi khi còn sƣơng (Tháng ba)
Thơ của Nguyễn Đức Mậu thời kỳ này rưng rưng cảm xúc, đậm đà chất trữ tình, chan chứa chất men say nồng của tuổi trẻ. Ông nói tới khao khát của thế hệ trẻ được trực tiếp cầm súng chiến đấu bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng nhất: “Tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng”. “Tôi” được là người lính, được lên đường chiến đấu:
Nghe vụ chiêm đi vào đội ngũ Từ vƣờn ƣơm bồ hạt giống nảy mầm Từ chiếc lƣỡi cày xe cải tiến chở phân Từ đàn cá đớp ao mồi hợp tác Đến đàn trâu khoác bao tải ra đồng Cũng cùng tôi ra trận mùa đông (Mùa đông lên đường)
Không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được gợi lên trong thơ ca của Nguyễn Đức Mậu. Đó là tâm trạng xốn xang, háo hức của anh lính trẻ trong Mùa đông lên đƣờng, là cảm xúc trong trẻo, tươi mát của một người lính trước Mùa xuân Trƣờng Sơn, là cảm nhận tinh tế và con mắt thi vị trước Mƣa Trƣờng Sơn; những gian khổ và thiếu thốn ở chiến trường được ghi lại bằng những cảm nhận thật ngộ nghĩnh và độc đáo trong Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc; giữa đường hành quân bất chợt bắt gặp Hƣơng ổi đƣa đƣờng thân quen như ở chốn quê nhà;... Trong một số bài của tập thơ này, thơ Nguyễn Đức Mậu bắt đầu giàu có thêm nhờ chất suy nghĩ và khả năng khái quát. Đó là những suy nghĩ khá già dặn và sắc sảo:
Suối ơi: in nhịp cầu xa tắp Rừng già bom dội suốt mùa khô Đánh trăm trận đã quen cơn khát Nhƣng vẫn không nguôi khát diệt thù.
(Khát)
20
Tập Thơ ngƣời ra trận đã tái hiện được phần nào không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến đấu vẫn chưa có nhiều ở tập thơ này. Hình ảnh con người và thời đại chống Mỹ chủ yếu được nhấn mạnh ở sự thanh tao, bình dị: hương ổi, nụ cười, tiếng hát của o du kích, nhánh lan rừng,... nhịp đập bình yên ấy làm nổi bật “cái yên trong cái động”, “sự sống át cái chết”, sự bình thản, tự tin của một dân tộc gan góc, bất khuất, kiên cường.
Mặc dù không tránh khỏi những non nớt, nhưng đây là tập thơ đầu tay đầy ý nghĩa, rất đáng ghi nhận, tạo tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển của thơ Nguyễn Đức Mậu ở những chặng đường sau, định hình một phong cách riêng “thơ viết về người lính một cách giản dị, trung thực” [84; 21]
2.1.2. Cây xanh đất lửa (NXB Văn học – 1973)
Tiếp tục khẳng định phong cách của mình từ sau Thơ ngƣời ra trận, Nguyễn Đức Mậu đã cho ra đời tập thơ Cây xanh đất lửa. Cây xanh đất lửa gồm 30 bài thơ và nội dung chủ yếu của nó vẫn là những câu chuyện ở chiến trường, những chuyện sinh hoạt đời thường của người lính. Các bài thơ trong tập này thường là các bài thơ dài hơi. Có những bài thơ đã trở thành tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách của Nguyễn Đức Mậu thời chiến tranh và cả sau này như: Nằm hầm, Anh Pa-thét Lào ngủ trong chum đá, Nấm mộ và cây trầm, Ghi ở chiến trƣờng,..
Có thể nói, chưa có tập thơ nào lại tái hiện và mô tả đầy đủ công việc của những người lính như Cây xanh đất lửa. Tập thơ có lời tâm sự của anh lính công binh:
Đƣờng có tên và đƣờng không tên
Trăm con đƣờng xuyên vào tim giặc
Một cái tên chung mọi ngƣời tự đặt
Là con đƣờng chiến sĩ công binh
(Theo những con đường)
21
Có người chiến sĩ phá bom (Nơi em ở có nhiều bom đến nỗi), chiến sĩ trinh sát (Câu chuyện về cây rau trinh sát), người coi kho (Kho chiến rừng), chiến sĩ pháo binh (Hoa phong lan ở trận địa pháo), bộ binh (Tiểu đội bộ binh trên chốt mùa mƣa), chiến sĩ Pa-thét Lào (Anh Pa-thét Lào ngủ trong chum đá),...
Bên cạnh dòng cảm hứng chủ đạo về người lính, Nguyễn Đức Mậu đã
khắc họa nên tượng đài về Tổ quốc thiêng liêng:
Ơi Tổ quốc - Mẹ hiền sao kỳ diệu thế Từ thủa vua Hùng dựng nƣớc vẫn hành quân
(Tổ quốc)
Một Tổ quốc nhẫn nại, gian khó, hành quân không mỏi cũng là một Tổ quốc anh dũng tuyệt vời và luôn “biết sống ngẩng cao đầu” để “đất Việt Nam này mãi mãi Việt Nam”.
Nhà thơ cũng đã viết nên những vần thơ tha thiết, say mê về Bác - vị
lãnh tụ vĩ đại, người Cha già của cả dân tộc:
Tháng Năm, tháng Năm ở mỗi con ngƣời Nghĩ về Bác tình yêu thêm rộng mở Trời cao, trời cao đong đầy thƣơng nhớ Trái đất này nhƣ xích lại gần nhau
(Tháng Năm nhớ Bác)
Cây xanh đất lửa còn cho ta biết một cái tôi trữ tình rất lãng mạn, đa
tình mà chân thành, tha thiết:
Những ngày gần anh thƣờng đến thăm em Gần nhau thế vẫn có gì thiếu hụt Tình nhỏ hẹp chen vào ta lén lút Ngày không gặp nhau cảm thấy ngày dài
(Những ngày gần, những ngày xa)
một tâm hồn thật tinh tế:
Hoa này anh chƣa biết tên Nhƣ em: khi mới làm quen thủa đầu Nhuỵ vàng đọng nắng thơm lâu Nhƣ em: năm tháng chờ nhau vẫn nồng.
(Hoa gửi em)
Nhìn chung, Cây xanh đất lửa là một tập thơ khá toàn diện và hoàn chỉnh về đời sống chiến trường; nó càng khẳng định tài năng và bản lĩnh người nghệ sĩ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu.
2.1.3. Mƣa trong rừng cháy (NXB Giải phóng – 1976)
22
Tập thơ gồm 25 bài xuất bản năm 1976. Ở tập thơ này, Nguyễn Đức Mậu đã thực sự khẳng định tiếng nói riêng của mình qua những vần thơ giàu
chi tiết chân thực, sinh động như còn vương bụi đất chiến trường và mù khét của bom đạn, mang khí thế hừng hực của cuộc chiến đấu. Nếu như ở hai tập thơ trước, Nguyễn Đức Mậu có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong những mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo thì ở tập thơ này người đọc cảm thấy ông đã nhìn thấy chất thơ ngay cả trong mảng hiện thực trần trụi, thô nhám, dữ dội và đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng thơ vì thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi và sâu sắc hơn. Chính vì vậy có những bài thơ dài hơn, cảm xúc thơ dào dạt: Kỷ niệm về một ngƣời anh hùng, Nói với con, Điệp khúc một con đƣờng, Bến cảng mặt trời,... ý thức về cái Tôi thế hệ cũng rõ nét hơn ở những tập thơ trước. Những bài như: Lời tâm tình, Cánh rừng nhiễm độc, Khoảng trời mùa thu trong trận sốt, Tƣởng nhớ số II,... là những bài thơ vừa mang tâm sự riêng tư của người lính; lại vừa là cái Tôi thế hệ tự ý thức, chiêm nghiệm về vị trí, nhiệm vụ của mình cũng như của tất cả những người lính trong cuộc đối đầu lịch sử với kẻ thù dân tộc. Các chi tiết đời sống mặt trận được Nguyễn Đức Mậu chăm chỉ lưu giữ bằng phương pháp của thơ. Những bài thơ gần nhau về vóc dáng và trùng nhau về chủ đề, nhưng bổ sung cho nhau, tạo dựng hình ảnh của đời sống chiến đấu.
Đặc biệt, bài thơ Nấm mộ và cây trầm đã tổng hợp được nhiều ưu điểm của bút pháp Nguyễn Đức Mậu hồi đó: hiện thực đan xen với tư tưởng, tình cảm, kể chuyện đan xen với trữ tình và đã khái quát lên thành biểu tượng. Mƣa trong rừng cháy đã vươn tới tầm khái quát những mảng hiện thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với tính chất dữ dội, ác liệt của nó đã làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Chưa bao giờ, hình ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại được thơ tập trung khắc họa đạt tới tính chân thực cao như ở tập thơ này. Đó là những người lính xe thồ, người chiến sĩ công binh, cô gái văn công giải phóng, anh lính thông tin, thanh niên xung phong,... Đó là những con người sẵn sàng hy sinh vì nhân dân, đất nước:
Khắp Trƣờng Sơn núi đồi vang tiếng hát
Đƣờng mới in thêm những dấu giày
(Lời tâm tình)
23
Đọc hai câu thơ trên, ta chợt nhớ tới tác phẩm Dấu chân ngƣời lính của nhà văn Nguyễn Minh Châu - một bản hùng ca đầy cảm hứng lãng mạn về không khí của chiến trường vào mùa xuân tổng tiến công năm 1968. Nhà
thơ đã từng tâm sự: “Con đường Trường Sơn và miền đất nóng bỏng kia có dài rộng đến vô cùng. Hai mươi năm qua đất nước mình dồn sức lực và của cải vào đó để làm nên giai đoạn lịch sử hào hùng. So với độ dài của con đường, so với chiến công lớn lao của những trận đánh, chúng tôi cảm thấy mình còn viết quá ít”. Lời tâm sự chân thành cho chúng ta thấy sự trăn trở của nhà thơ về nhiệm vụ chân chính của người cầm bút.
Vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương đất nước nhưng ông đã có một ý thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự thống nhất cao độ giữa ý thức nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách người chiến sĩ cầm súng đã tạo nên trong trang thơ Nguyễn Đức Mậu chiều sâu mới trên bình diện nhận thức và tình cảm. Thấm thía hơn thực tế chiến tranh, ông càng nhận rõ hơn trách nhiệm của thế hệ mình, càng thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân dân, đất nước:
Ngƣời chiến sĩ quê chung: Tổ quốc
Súng trong tay, ngôi sao sáng trên đầu
(Thơ người đi biển gửi người đi rừng)
Mƣa trong rừng cháy chính là tiếng lòng của người lính trực tiếp cầm súng, lấy máu mình để giữ gìn, bảo vệ non sông. Mƣa trong rừng cháy đã đạt tới một mức độ nhất định chiều sâu của suy nghĩ và tầm cao của khái quát. Từ những chi tiết, những hình ảnh thực của chiến tranh, của đời sống chiến trường, Nguyễn Đức Mậu đã soi rọi vào đó luồng ánh sáng của tư tưởng để làm nổi bật lên những ý nghĩa khái quát sâu sắc:
Bàn chân bợt da non, máu ứa
Đã mấy mùa mƣa đi khắp lối mòn
Khởi điểm từ những bàn chân ngắn
Con đƣờng dài hơn mùa mƣa Trƣờng Sơn
(Điệp khúc một con đường)
2.2. Những vần thơ đi ngược thời gian
Ở phần này, chúng tôi khảo sát những tập thơ ra đời sau năm 1976. Mặc dù có sự trùng hợp về đề tài, hình tượng nhân vật song thơ Nguyễn Đức Mậu đã mở rộng về các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, giọng điệu, thể thơ,...
24
Sau năm 1976, Nguyễn Đức Mậu như luôn nhìn thấy những người đồng đội ngã xuống, luôn nghe được những tiếng thì thầm tâm sự của bạn bè
năm xưa trong chiến tranh... Ông vẫn đang viết về chiến tranh, về cuộc đời với những nỗi đau từng trải và niềm tự hào, thương tiếc của chính mình, của cả thời đại với những trang thơ đầy ấn tượng và nhiều khám phá mới lạ.
Từ sau năm 1976, Nguyễn Đức Mậu đã cho ra mắt những tập thơ chính sau: Trƣờng ca sƣ đoàn (1980), Hoa đỏ nguồn sông (1987), Từ hạ vào thu (1992 - Giải thưởng Văn học Quốc phòng an ninh của Hội nhà văn về đề tài chiến tranh năm 1994), Bão và sau bão (1994 - Giải thưởng Văn học Quốc phòng an ninh của Hội nhà văn năm 1996), Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998 - Giải thưởng Văn học Hội nhà văn năm 1998). Và đến năm 2001, ông đã tập hợp, sửa chữa và in trong một tập thơ khá đồ sộ dày gần 600 trang lấy tên chung là Cánh rừng nhiều đom đóm bay. Đây là tập thơ được trao tặng Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2001 - một giải thưởng văn học cao quý của toàn khu vực Đông Nam Á được trao hai năm một lần.
2.2.1. Trƣờng ca sƣ đoàn (NXB Quân đội nhân dân – 1980)
Ra đời sau ngày giải phóng đất nước 5 năm, Trƣờng ca sƣ đoàn mang một cái nhìn bao quát, toàn cảnh về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Tầm nhìn cùng với nhận thức về hiện thực cuộc sống chiến trường được mở rộng và sâu sắc hơn: có hy sinh, có mất mát, có chiến thắng lạc quan tin tưởng. Bản trường ca dài hơn 2.000 câu thơ, được chia làm 5 chương khắc họa không gian chiến trận dọc đường hành quân: từ mặt trận miền Tây, chiến trường Quảng Trị, cánh rừng Trường Sơn, rồi tới thành phố Sài Gòn ngày 30/4/1975. Trƣờng ca sƣ đoàn – viết về sư đoàn của những sư đoàn, của các thế hệ chiến sĩ đã từng có mặt trên khắp các chặng đường của Tổ quốc, để chiến đấu, để giành giật từng hàng cây, từng mảnh đất để đi tới chiến thắng. Số phận mỗi người lính, mỗi sư đoàn, số phận của cả đất nước in đậm trong trường ca.
25
Trƣờng ca sƣ đoàn đã nói nhiều, nói sâu sắc, thấm thía về người mẹ, về nhân dân, về những con người vô danh, những con người bình thường mà bất khuất, kiên cường, về Tổ quốc và về thế hệ mình. Trong bản trường ca của mình Nguyễn Đức Mậu đã kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, đan xen phối hợp nhiều thể thơ, phác hoạ được nhiều chân dung của nhân vật trữ tình nhằm vươn tới xu hướng khái quát, mở rộng hiện thực, tăng cường tính triết lý, chính luận. Qua trường ca này, tính chất dữ dội, khốc liệt của cuộc chiến tranh được khơi sâu nhấn mạnh.
Trong Trƣờng ca sƣ đoàn, Nguyễn Đức Mậu đã có những suy tư về chiến tranh một cách giản dị và chính xác: cuộc chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, giữa khát vọng sinh sôi chống lại sự huỷ diệt cuồng điên, giữa sự che chở chống lại sự bạo tàn... Và tất yếu, chúng ta chiến thắng như “cây mãi xanh tƣơi”, bởi gốc rễ của nó được bám vào đất mẹ cũng như cuộc chiến tranh này bắt đầu và kết thúc bởi lòng dân:
Cuộc đọ sức giữa con ngƣời và sắt thép
Giữa rừng cây và loài thú phá rừng
Cây mãi xanh tƣơi, con ngƣời chiến thắng
Ngôi sao vàng tìm đến lòng dân
(Chương II - Mặt trận miền Tây)
Nguyễn Đức Mậu đã khám phá ra những ngọn nguồn sâu xa nhất tạo nên sức mạnh tinh thần thiêng liêng của dân tộc trong thời đại chống Mỹ, lý giải động cơ cầm súng của con người Việt Nam và nguyên nhân của những chiến công. Trƣờng ca sƣ đoàn được thể hiện bằng những cảm xúc trữ tình thâm trầm, sâu lắng với những suy tư sâu sắc. Tác phẩm đã thể hiện một cái nhìn trầm tĩnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, hiện thực chiến tranh được tái hiện toàn vẹn, đầy đặn, sâu sắc và chân thực hơn.
Chính Trƣờng ca sƣ đoàn đã thể hiện rõ nhất cái tôi trữ tình và cảm hứng chủ đạo của thơ Nguyễn Đức Mậu kể từ Thơ ngƣời ra trận. Nhắc tới Nguyễn Đức Mậu không thể không nhắc tới Trƣờng ca sƣ đoàn và khi nói đến Trƣờng ca sƣ đoàn người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của nhà thơ mặc áo lính này. Cho đến nay, Trƣờng ca sƣ đoàn là tác phẩm dài hơi thành công nhất của Nguyễn Đức Mậu. Trƣờng ca sƣ đoàn chứng tỏ một bước đi mới trong thơ Nguyễn Đức Mậu. Bước đi khiến cho bao đồng nghiệp của ông phải “lạ lùng”: “Chúng tôi thấy thơ anh thật lạ lùng. Nhưng rồi chúng ta hiểu được. Đó là hoa trái mà anh trồng nên, hái được về sau những năm tháng dũng cảm, cần cù, quyết tâm lao vào cuộc sống ác liệt và anh hùng, đã thâu nhận và vun đắp một cách thật đáng quý, đáng trọng” [23; 6].
26
Nhìn lịch sử sư đoàn trên tầm bao quát cùng giọng thơ chân thật, hồn hậu là sức mạnh của Trƣờng ca sƣ đoàn. Từng chiến công oanh liệt, bao khó khăn, vất vả, những niềm vui, nỗi buồn kết hợp với cái tôi trữ tình khá mạnh mẽ được tái hiện sắc nét trong Trƣờng ca sƣ đoàn. Dễ hiểu vì sao ngày sư đoàn họp mặt, Trƣờng ca sƣ đoàn lại được đọc vang lên như bản tráng ca
hào hùng, mạnh mẽ, phấn chấn và đầy hào sảng. Trường ca này chính là niềm tự hào, là đứa con tinh thần chung của những người lính bộ binh đã từng có mặt trong đội ngũ sư đoàn. Với Nguyễn Đức Mậu, đồng nghiệp đã thấy được một hồn thơ thực sự trưởng thành sau khi Trƣờng ca sƣ đoàn ra đời.
2.2.2. Hoa đỏ nguồn sông (NXB Tác phẩm mới – 1987)
Hoa đỏ nguồn sông được viết sau Trƣờng ca sƣ đoàn bảy năm là tập thơ mà Nguyễn Đức Mậu khá tâm đắc. Tập thơ gồm 26 bài với sự mở rộng về đề tài, cảm hứng và mang âm hưởng của quá khứ vọng về.
Chiến tranh đã lùi xa hơn mười năm, song bao trùm Hoa đỏ nguồn sông vẫn là ký ức về một tuổi trẻ của chiến tranh, những vần thơ “đi ngược thời gian”, ngược trở về những năm tháng gió bão chiến tranh, trở về cánh rừng năm xưa với những kỷ niệm về đồng đội, chiến trường. Ngòi bút của ông viết về chiến tranh như đau hơn và tái hiện nó với tất cả sự bi tráng, bi hùng, chiến công lẫn mất mát hi sinh...
“Chiến tranh đã qua rất lâu nhưng thơ ca của Nguyễn Đức Mậu chưa có được một ngày bình yên. Hầu như trái tim ông đã biến thành quả bom của ký ức đêm đêm ném xuống trang bản thảo tất cả nỗi đau chưa nguôi ngoai của chiến tranh, khiến các con chữ bị thương nghiêng ngả. Những cái chết của đồng đội chính là vết thương không biết cách cầm máu trong tâm hồn nhà thơ” [21; 69]. Thật vậy, đọc Hoa đỏ nguồn sông, ta như thấy Nguyễn Đức Mậu luôn trầm tư suy nghĩ về cuộc chiến tranh dữ dội đã qua của dân tộc. Những kỷ niệm về chiến tranh luôn hiện hữu trong ký ức nhà thơ. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống luôn vận động không ngừng nhưng tâm hồn nhà thơ dường như luôn Đi ngƣợc thời gian:
Ta ngồi xuống bóng cây tròn thế kỷ
Năm tháng qua đi hồi tƣởng lại theo về
(Đi ngược thời gian)
Năm tháng qua đi, chiến tranh qua đi và những kỷ niệm chiến trường cũng qua đi. Nhưng những kỷ niệm day dứt ấy sẽ lại trôi về theo dòng hồi tưởng của nhà thơ.
2.2.3. Bão và sau bão (NXB Quân đội nhân dân – 1994)
27
Tập thơ gồm 25 bài thơ và một trường ca Bão và sau bão. Tiếp tục mạch cảm hứng về chiến tranh, ký ức về chiến tranh của một người lính
không nguôi nỗi nhớ, nỗi ám ảnh về quá khứ. Một khoảnh khắc thời gian quá khứ đọng lại cũng là một lần những kỷ niệm chiến trường dội về ngày càng như khắc khoải hơn, đau đớn hơn. Ký ức trong nhà thơ dồn dập, miền tâm tư ấy như cơn sóng và bão gió nổi cồn không chút bình yên:
Đâu mảnh ván thuyền tan trong sóng
Đâu lá tƣơi non bão nát nhàu
Tôi nhƣ con sóng và cơn gió
Tìm mảnh thuyền tan chiếc lá đau
(Bão và sau bão)
Nhà thơ khắc khoải đi tìm lại những “mảnh thuyền tan”, tìm lại “chiếc lá đau”, “khoảng đời mình thủa trƣớc”, với biết bao vui buồn của tuổi trẻ trong chiến tranh:
Năm chiến tranh
Dòng tên khắc trên chuôi dao, vách đá
Ôi, tuổi trẻ bạn bè thật nhiều
Chung sống chết căn hầm sụp đổ
(Từ hạ vào thu)
Nhà thơ nhận ra rằng tất cả những dòng tên khắc trên chuôi dao, vách đá, “những lần trải qua bao hiểm nguy cùng đồng đội… vẫn còn ở lại với cuộc sống của mình, trong máu thịt của mình”:
Anh nhìn lại khoảng đời mình phía trƣớc
Có phải tháng ngày qua không mất
Đã tan vào máu thịt trong anh
Nhƣ vào thu trời vẫn xanh mùa hạ
Anh mang theo anh gìn giữ cho mình
(Từ hạ vào thu)
28
Một thời đau thương, một thời oanh liệt, dù vui, dù buồn, dù khổ đau, khắc khoải nhà thơ vẫn mang theo gìn giữ cho mình như là kho báu vô giá, như là cội nguồn sức mạnh phi thường để nhà thơ bước tiếp chặng đường phía trước. Song song những nội dung viết về những mất mát đau thương của chiến tranh, cả Hoa đỏ nguồn sông và Bão và sau bão còn có sự mở rộng về đề tài. Nhà thơ khắc họa những tâm sự đời tư với những vui - buồn, mừng – lo trong cuộc sống bề bộn, khắc hoạ chân dung của những con
người bình thường mang vẻ đẹp giản dị mà lại cao quý. Đó là: Người mẹ nhân hậu (Dâng mẹ), người cô bất hạnh (Cô tôi), người hát rong (Ngƣời hát rong), người chiến binh già, ông lão nghệ nhân, người bán chổi,… Nhiều khi chỉ là những suy tư rất đỗi “con người” qua những sự vật nhỏ bé: Nhánh xương rồng (Nhánh xƣơng rồng trên cát), hạt lúa (Ngợi ca hạt lúa), pho tượng đá (Nghìn năm tuổi đá), dòng suối (Suối mát), bông hoa quỳnh (Thức với hoa quỳnh)…
Có những lúc lại là lời bộc bạch trực tiếp một cách trung thực, chân thành: Độc thoại đêm 30 Tết, Nhà bạn bên cầu Chƣơng Dƣơng, Tự sự, Thƣ những ngày xa, Tâm sự,…
Phải khẳng định rằng, chính vì những đóng góp về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật nên tập Bão và sau bão được trao tặng Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam.
2.2.4. Cánh rừng nhiều đom đóm bay (NXB Quân đội nhân dân –
1998)
Có thể nói đây là tập thơ tổng hợp nhiều bài hay nhất, thành công nhất
của Nguyễn Đức Mậu kể từ tập Hoa đỏ nguồn sông.
Cánh rừng nhiều đom đóm bay gồm 35 bài thơ với sự mở rộng của đề tài và cảm hứng chủ đạo. Thơ ở tập này mang nhiều triết lý đời sống sâu sắc. Đó là những vần thơ được đúc rút từ tâm hồn của một người từng trải, yêu và đầy trách nhiệm với cuộc sống. Cuộc sống xung quanh biết bao tươi đẹp, nhà thơ cảm thấy “mọi vật quanh ta nhƣ vẫy gọi chào mời”. Bởi vậy, ông muốn phân thân để đón lấy tất cả và hoà nhập với tất cả:
Ta muốn phân thân nghe tiếng vọng hai bờ
Mọi vật quanh ta ríu ran tiếng nói
(Tạp bút)
Ở đây không còn là những rung động của ký ức chiến tranh nữa mà là những vần thơ hướng theo tiếng gọi ríu ran của cuộc sống, là nỗi niềm của một con người có tâm trước cuộc đời. Cuộc sống mới mang đến cho nhà thơ nguồn cảm hứng trữ tình thế sự. Cánh rừng nhiều đom đóm bay đã cho ta thấy một số khía cạnh tâm hồn nhà thơ – những khía cạnh mà ở một số tập thơ khác ta chưa thấy hoặc còn bị khuất lấp:
Xa quê biền biệt tháng ngày
29
Ngủ rừng, ngủ phố, đêm nay ngủ nhà
Mọt kêu rờn rờn thịt da
Tiếng vô tri cũng khiến ta chạnh lòng
(Khúc cảm)
Ta nhận ra một Nguyễn Đức Mậu đầy bản lĩnh nghệ sĩ lại là một người hay suy tư, dằn vặt, thao thức – mà những dằn vặt, suy tư, thao thức ấy chẳng phải cho mình, có khi lại cho nhiều sự vật nhỏ bé trong cuộc sống như: Dòng sông Trƣơng Chi, Một chút Nguyễn Bính, Chuyến bay ngày giáp Tết, Gửi bạn,…
Thậm chí, chỉ một chiếc mũ sắt mà gợi cho ký ức nhà thơ sống dậy
liên tiếp bao hình ảnh thân quen đã lùi xa:
Chiếc mũ sắt màu rêu màu đất
Nắng khô rang pháo thủ đội đầu
Mũ thay thế lính ngồi bên lính
Hầm hập mƣa tuôn, mũ múc nƣớc thay gầu
Ai đó viết tên mình trên mũ sắt
Nghe vọng về tiếng nói tuổi hai mƣơi
(Chiếc mũ sắt ở viện bảo tàng)
Nhà thơ – người chiến sĩ nhớ mỗi khi hành quân vẫn thường gặp những chiếc mũ ở “đèo hay lăn lóc rừng hoang”, nhớ những người đồng đội trong giờ giải lao tinh nghịch lấy mũ sắt làm ghế ngồi bên nhau tào lao câu chuyện. Ông nhớ mỗi khi hầm ngập mưa tuôn, mũ trở thành gầu múc nước và nhớ về những đồng đội tuổi hai mươi viết tên mình trên mũ sắt… Tất cả những hình ảnh đó đang dồn dập hiện về trong dòng hồi tưởng của tác giả.
Và đến những vì sao nhấp nháy, những con đom đóm bay giữa bầu trời đêm thanh bình, yên tĩnh cũng khiến nhà thơ nhớ về cánh rừng đêm đêm chiến tranh rùng rợn năm xưa:
Đêm đơn vị dừng chân trong sâu hút cánh rừng. Có giếng nƣớc ai đào dƣới lòng suối cạn? Múc nƣớc lên chúng tôi uống trong cơn khát khô vòm họng. Nƣớc ngọt mát cơ thể cỗi cằn. Chúng tôi đâu biết lòng giếng có xác ngƣời chết. Đêm mịt mùng, cánh rừng nhiều đom đóm bay, những sợi mỏng chập chờn nhƣ ảo giác
(Cánh rừng nhiều đom đóm bay)
30
Mạch thơ văn xuôi dàn trải như đang diễn giải cái tận cùng của hiện thực chiến tranh tàn khốc. Ta vẫn thường hay gặp hình tượng con đom đóm trong thơ Nguyễn Đức Mậu, nó vừa như làm sáng tỏ hiện thực, vừa làm cho hiện thực trở nên hư ảo để tưởng tượng ra phần bi thương nhất. Cũng như trong miền ký ức của nhà thơ, cái chết của đồng đội như ánh sáng của những con đom đóm chập chờn không bao giờ lịm tắt.
Như vậy, tự nguyện gắn bó với cuộc kháng chiến, con đường văn nghiệp trưởng thành song song với con đường binh nghiệp, Nguyễn Đức Mậu đến với thơ và trường ca như một lẽ tất nhiên. Quan niệm nghệ thuật của người lính trẻ thế hệ thứ ba này thật giản dị: Đến với nghệ thuật chỉ là “ghi lấy cuộc đời mình” - cuộc đời người lính. Nhưng ý niệm ấy không dừng lại mà ông đã cùng đất nước đi suốt cuộc chiến tranh, hoà bình đến ông lại có một ước vọng nghệ thuật lớn lao hơn: khát khao nhận diện lại lịch sử, nhận diện cuộc chiến tranh, dựng lại chân dung của thế hệ mình và cả sự nhập cuộc vào đời sống của bản thân.
31
Điểm qua những tập thơ để ta hiểu rõ hơn về những chặng đường thơ của Nguyễn Đức Mậu, cảm nhận rõ hơn chân dung tinh thần của một nhà thơ mặc áo lính qua hai giai đoạn: Thời chiến và Thời bình.
Chƣơng 2:
NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH
TRONG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU
1. Cảm hứng về đất nƣớc và con ngƣời trong chiến tranh
1.1. Cảm hứng về đất nước trong những năm tháng không bình yên
Thời đại chống Mỹ là thời đại biến động, đau thương, anh hùng và thử thách. Trong không khí cách mạng, chủ nghĩa yêu nước là nguồn động lực tinh thần lớn nhất của hết thảy mọi người và cũng là nguồn cảm hứng lớn bao trùm và thấm sâu trong mọi tác phẩm thơ ca. Tắm mình trong không khí thời đại, Nguyễn Đức Mậu đã nhìn nhận lịch sử dân tộc từ quá khứ đến hiện tại chiến tranh anh dũng để hình thành cách cảm nhận mới mẻ về đất nước.
Cảm hứng về đất nước là một cảm hứng nổi bật trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc ta đặt ra cho mỗi người Việt Nam vấn đề không chỉ ý thức về mình mà còn ý thức về đất nước. Thơ Việt Nam hiện đại đã cất lên tiếng ca bay bổng hào hùng về đất nước trong thời đại đánh Mỹ:
Ôi Việt Nam Tổ quốc thân yêu Trong khổ đau ngƣời đẹp hơn nhiều Nhƣ bà mẹ sớm chiều gánh nặng Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời
(Bài ca xuân 67 - Tố Hữu)
Tố Hữu là nhà thơ đã thể hiện thành công hình ảnh đất nước. Đất nước không chỉ được khắc họa ở nhiều khía cạnh như: vị trí địa lý, núi cao, biển rộng, sông dài với những cánh đồng thẳng cánh cò bay,... Đất nước còn là một cơ thể sống, cũng trăn trở ngẫm suy, cũng phập phồng hy vọng, có khi nổi sóng căm hờn, có khi lại trầm tĩnh tin yêu.
Chế Lan Viên trong Thời sự hè 72 – Bình luận đã miêu tả một đất
nước anh hùng trong những năm chống đế quốc Mỹ:
Cha ông xƣa có bao giờ bố trí các binh đoàn
trên vạn đỉnh Trƣờng Sơn dọc bờ Đông Hải
32
Tên Tổ quốc vang ngoài bờ cõi Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ là nhiệm vụ chung của cả nền văn học thời kỳ kháng chiến trong đó có thơ ca. Trong sự nỗ lực chung ấy “thơ trẻ chống Mỹ đã vượt lên, góp vào nền thơ chống Mỹ những trang thơ viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất ác liệt, dữ dội, những hy sinh của con người Việt Nam trong chiến tranh” [51; 358]. Nguyễn Đức Mậu là một trong số những nhà thơ trẻ viết về đất nước như là nhiệm vụ nhưng cũng như là sự thôi thúc của con tim. Hình ảnh Đất nước trong thơ Nguyễn Đức Mậu giản dị và cao đẹp như hồn thơ của ông. Đất nước là những hình ảnh rất cụ thể như dòng sông, làng xóm thân yêu, mảnh vườn, thửa ruộng, ngôi nhà,... đặc biệt, hình ảnh đất nước được khắc hoạ sâu sắc trong hiện thực chiến tranh qua những chi tiết ngổn ngang bề bộn của đời sống chiến trường.
Sống giữa chiến trường, Nguyễn Đức Mậu đã chứng kiến tận mắt những cảnh tượng dữ dội, ác liệt nhất của chiến tranh. Gắn bó, lăn lộn nhiều năm ở rừng Trường Sơn, Nguyễn Đức Mậu đã ghi lại những hình ảnh đầy chân thực về đất nước:
Trời thấp xuống vỡ ra từng mảng nƣớc
Vẫn mùa mƣa miền gió cát kéo dài
Trông phía làng bồng bềnh nƣớc trắng
Trông phía rừng mƣa khuất màn cây
Nhìn mặt đất sông đầy suối lũ
Nhìn lên trời xám ngắt một màu mây
(Trường ca sư đoàn)
Đất nước trong thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ được khắc hoạ bó hẹp trong bối cảnh chiến trường, không gian đất nước còn được mở rộng tới hậu phương, vùng địch tạm chiếm hay ở cả những vùng địa hình khốc liệt:
Khẩu pháo không một ngày mặc áo
Đồi thông vàng che giàn tên lửa
Trận địa súng trƣờng ở cao, đào sâu
Lƣng rồng toả ra ngang dọc chiến hào
(Trận địa trên lưng rồng)
33
Tưởng như ngay cả thiên nhiên và cảnh vật đất nước cũng không được một ngày nghỉ ngơi mà cùng ngụy trang, cùng chiến đấu với những người lính chống lại kẻ thù.
Cảnh vật thiên nhiên được nhà thơ khắc hoạ trải dọc theo chiều dài
chiến trường:
Cây thông cháy đứng lên làm cột số Vết dao anh khắc gỗ vẫn còn đây Những con số thơm thơm dòng nhựa Hƣơng nồng nàn hơi ấm bàn tay
(Theo những con đường)
Con đường hành quân là lộ trình đầy những thác ghềnh cheo leo, đá
núi gập ghềnh:
Đƣờng qua đèo có đoạn đá tai bèo Giày mới phát đã rách sờn đá cứa Đi bằng chân lại đi bằng tay
(Dòng sông chảy ngược)
Thiên nhiên chiến trường thật khắc nghiệt, nhiều khi bên cạnh những khó khăn về bệnh tật, thiếu thốn vật chất thì thiên nhiên và cảnh vật chiến trường cũng là một thử thách lớn:
Giặc Mỹ thả bom phát quang, bom cháy Gió Lào khắc nghiệt mƣa rừng liên miên
(Hoa phong lan ở trận địa pháo)
Thực tế chiến trường là mảnh đất khốc liệt, người lính cũng như cả
dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường “tiến thẳng mà thôi”.
Nguyễn Đức Mậu luôn có ý thức dùng những tên đất, tên sông cụ thể để khắc họa không khí chiến tranh của đất nước. Đó là những địa danh gắn với không khí chiến tranh: sông Thạch Hãn, Tích Tường, Như Lệ, Động Tiên, đồi Pháo, đồi Tăng, đồi Tròn, đồi Khói, dốc O Hà,... khiến cho thơ trở nên chân thực, sống động và giàu chi tiết:
Ngọn đồi Khói ngày đêm âm ỉ khói Đất đùn lên loài nấm độc dị kỳ Đồi Pháo một ngày hai mƣơi trận bom Cây trút lá, cỏ thay màu cỏ Đồi Tăng còn phơi xác xe tăng Bàn chân đất đuổi theo vòng xích
(Trường ca sư đoàn)
34
Ở thơ ông, đất nước hiện hữu với những con đường được trải bằng
xương máu của biết bao người lính:
Ôi ngã ba Đồng Lộc, ngã ba đƣờng, ngã ba bom, ngã ba máu
và nƣớc mắt
Ngƣời mở đƣờng, ngƣời giữ đƣờng cùng ngã xuống nơi đây
(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc)
Thiên nhiên và cảnh vật chiến trường được Nguyễn Đức Mậu khắc hoạ cũng chính là thể hiện những gian nan nghiệt ngã của cả dân tộc trong chiến tranh:
Lòng sông quặn đau thắt mấy năm rồi Đôi bờ, đôi bờ đạn bom thù cào xé Giặc Pháp rút nhƣng còn đây giặc Mỹ Sông trăm lần bầm tím vết thƣơng sâu ... Tiếng trẻ khóc khản nơi bản vắng Tiếng gió mang mùi lúa cháy trên nƣơng
(Nhịp cầu sông Nậm Ô)
Nhà thơ còn khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh nơi biên giới đất
nước:
Đồng Lộc những ngày chiến tranh khốc liệt Mũ sắt nhấp nhô khắp các ngọn đồi Cây cháy trụi, con đƣờng cháy trụi Những khẩu pháo, những dáng ngƣời xạm khói
(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc)
Ống kính của nhà thơ đã ghi lại cảnh “đêm giao thừa bom trải dày điểm chốt” (Kỷ niệm hoa đào), “bom ở khắp nơi bom rơi khắp đất” (Trƣờng ca sƣ đoàn).
35
Hơn ai hết, hiện thực chiến trường trong thơ Nguyễn Đức Mậu chân thực, rất cụ thể, cho ta thấy những vất vả, đau thương mà trung dũng, anh hùng của đất nước, cho ta thấy thấm thía những hy sinh, gian khổ tột cùng của đời sống chiến tranh.
Thiên nhiên và cảnh vật chiến trường của đất nước trong thơ Nguyễn Đức Mậu nhiều khi không còn là những bức tranh hiện thực thông thường mà nó trở thành những nhân chứng tố cáo tội ác dã man của kẻ thù:
Nếu nối những vòng dây thép gai nơi vành đai Quảng Trị Hẳn sẽ dài hơn đất nƣớc Việt Nam Dây thép gai chia xóm, chia làng Mọc trên đồi cao Mọc trên triền cát Mọc đất phƣơng Nam Mọc lòng phƣơng Bắc
(Trường ca sư đoàn)
Khắc hoạ hình ảnh đất nước trong chiến tranh, Nguyễn Đức Mậu đã sử dụng một số lượng lớn những hình ảnh về chiến trường, chiến tranh hoặc thiên nhiên nơi chiến trường. Điều đó cho thấy ý thức của nhà thơ về trách nhiệm công dân, trách nhiệm của người cầm bút trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
Đất nước trong thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ được khắc hoạ bằng những hình ảnh chiến trường khốc liệt. Ở chiến trường, con mắt tuổi trẻ tươi xanh của nhà thơ cũng nhìn thấy và cảm nhận được những khoảnh khắc yên bình hiếm hoi, đáng quý:
Trƣa vắng vang vọng trƣa bình yên Cây dấu trong cây nốt nhạc nền Cành lá chiếc lá bơi nơi gió Ngỡ khoảng im lìm có tiếng chim
(Nhạc rừng)
Lắng nghe được những âm thanh vi diệu của rừng Trường Sơn, giữa khoảng im lìm của hai trận đánh, nhà thơ thật tinh tế, nhạy cảm và yêu đời. Người lính vừa đối mặt với cái chết bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ say sưa với vẻ đẹp của thiên nhiên:
Mƣa xuân dịu dàng rơi Đọng tròn trên mũ vải Rừng vƣơng vƣơng làn khói Xanh khoảng trời nơi xa
(Mùa xuân dọc đường)
36
Nếu như viết về chiến trường, về thiên nhiên đất nước bị tàn phá, nhà thơ sử dụng những câu thơ dài ngắn khác nhau, trong mỗi câu thơ nhiều thanh trắc, thì viết về những khoảnh khắc yên bình trong chiến tranh, ta thấy nhà thơ hay sử dụng nhịp thơ đều (thường là 5 chữ, 7 chữ), nhiều thanh bằng và nhiều từ láy gợi tả.
Có những câu thơ tưởng như viết về thời hoà bình không tiếng súng,
không tiếng đạn bom:
Lá xanh khâu ngàn sợi mƣa rơi
Rồi tụ lại từng giọt tròn trong suốt
Mƣa khép miệng vũng bom màu gỉ sắt
Bao hạt chồi từ đất chuyển thành cây
(Lời tâm tình)
Nhắc đến rừng Trường Sơn là nhắc đến những ác liệt gian khổ, nhưng
trong trái tim đôn hậu của Nguyễn Đức Mậu:
Trƣờng Sơn giờ hoá quê hƣơng
Khói vƣơng ngày nắng bập bùng lửa đêm
(Chuyện nhỏ trong rừng)
Những vần thơ Nguyễn Đức Mậu viết về khoảnh khắc, phút giây yên
bình hiếm hoi của thiên nhiên nơi chiến trường thật trong trẻo, tươi sáng.
Viết về đất nước trong chiến tranh bằng cách dựng lại hiện thực chiến trường khốc liệt, Nguyễn Đức Mậu cũng đã thể hiện được thế giới nội tâm phong phú của mình: có phút giây say sưa với vẻ đẹp trong trẻo của thiên nhiên, có những rung cảm tinh tế trước những biến thái vi diệu, có phút giây đau đớn nghẹn ngào trước sự khốc liệt của chiến tranh, trước những mất mát, đau thương của đất nước. Qua đó, ta chợt hiểu rằng, Nguyễn Đức Mậu là người nghệ sĩ luôn biết rung cảm, biết đau và biết yêu tự đáy lòng. Là một người đồng đội thuỷ chung, một người con hiếu thảo, một người chồng, người cha tốt, Nguyễn Đức Mậu còn thể hiện qua thơ một tấm lòng yêu nước, một công dân có trách nhiệm đối với đất nước.
1.2. Cảm hứng về con người trong chiến tranh
37
Văn học là tấm gương phản chiếu thời đại. Thơ ca chống Mỹ của dân tộc ta đã phản ánh bức tranh hiện thực rộng lớn: từ hậu phương miền Bắc
đến tiền tuyến miền Nam, từ thành phố đến vùng nông thôn... “cả thế hệ dàn hàng gánh đất nƣớc trên vai” (Bằng Việt).
Thơ trẻ chống Mỹ là một hiện tượng đặc biệt bởi chưa có giai đoạn nào trong thơ lại cùng một lúc xuất hiện một đội ngũ đông đảo đến thế. Giữa chiến trường rộng lớn, mỗi nhà thơ chọn cho mình một mảng hiện thực phù hợp để sáng tác, tạo ra những vùng thẩm mỹ riêng. Nếu như vùng thẩm mỹ của Phạm Tiến Duật là đường Trường Sơn với cuộc sống của những anh lính lái xe, của những cô thanh niên xung phong, vùng thẩm mỹ của Nguyễn Khoa Điềm là phong trào học sinh, sinh viên đô thị bị tạm chiếm thì khơi nguồn sáng tạo cho Nguyễn Đức Mậu là những con người bình dị “không tên không tuổi” như anh lính pháo binh, bộ binh,... như những người dân. Chọn cho mình một mảng hiện thực riêng nên tiếng nói của Nguyễn Đức Mậu có một giọng điệu riêng. Con người hiện lên trong thơ ông có vẻ đẹp giản dị, chân thành, có một mối liên lạc bền chặt từ hậu phương tới tiền tuyến, ở mỗi hình tượng con người đó còn có cả niềm tự hào cùng những nỗi buồn thương chính đáng của bản thân nhà thơ. Nếu nói như nhà thơ Êgeixaep: “Thơ là linh hồn của nhân dân” thì đó chính là cái đích hướng tới mà Nguyễn Đức Mậu đã đặt ra cho mình.
1.2.1. Hình tƣợng ngƣời lính
Thơ ca chống Mỹ đã khắc hoạ nhiều hình tượng lớn: hình tượng Tổ quốc vĩ đại, hình tượng vị lãnh tụ kính yêu, hình tượng người mẹ và hình tượng anh bộ đội cụ Hồ. Trong đó, hình tượng anh bộ đội là nơi tập trung rõ nét nhất phẩm chất, tâm hồn đẹp đẽ và cao quý của con người Việt Nam trong đấu tranh.
Nguyễn Đức Mậu là người rất thành công khi khắc hoạ hình tượng người lính với những nét chân dung chân thực, rõ nét. Cái chân thực ấy trước hết là của một trái tim ấm tình đồng đội, đồng chí sau nữa là kết quả của một quá trình vào sinh ra tử, lăn lộn với chiến trường đầy bom đạn của Trường Sơn, của biên giới phía Nam, biên cương phía Bắc. Là người trực tiếp cầm súng chiến đấu, Nguyễn Đức Mậu rất thấu hiểu những gì đồng đội phải trải qua. Bởi vậy, thơ ông viết cho đồng đội cũng là viết cho chính mình.
38
Nếu như Tố Hữu viết về những chiến sĩ Việt Nam – người chiến sĩ anh hùng với cảm hứng ngợi ca thì Nguyễn Đức Mậu lại viết về Anh - người lính chiến tranh bằng cảm hứng hiện thực. Tố Hữu viết về Anh bằng những
vần thơ tươi thắm nhất, ngợi ca nhất của lòng mình bởi: Anh là Tổ quốc, Anh là Hôm nay, Anh là Mãi mãi. Nguyễn Đức Mậu lại viết về Anh bằng sự giản dị, khắc hoạ Anh trong những phút giây chiến đấu ở chiến trường. Người lính trong thơ Nguyễn Đức Mậu luôn lạc quan và tâm hồn phơi phới tin yêu:
Bộ đội bàn nhau tìm lá gói bánh chƣng Đoàn dân công gánh gồng thêm hƣơng nếp Ơi cô gái tên gì anh chẳng biết Nghe tiếng chào cứ ngỡ quen quen
(Mùa xuân Trường Sơn)
Người lính đón mùa xuân nơi Trường Sơn không có cái ồn ào, tấp nập của phố xá, làng hoa, thôn xóm đón xuân nhưng họ có cái rộn rã, ríu rít riêng như quên đi bao âu lo gian khổ. Họ có những bức tranh tự họa, có khẩu hiệu mừng xuân khắc trên cây Săng-lẻ, có những bồn hoa bằng vỏ đạn thật đáng yêu và mộc mạc, tự nhiên. Nhưng hơn cả là niềm vui từ trong chính tâm hồn và trẻ trung trong từng ý nghĩ:
Quán trọ giữa rừng là trạm giao liên Bệnh viện văn công ở trong hang đá Bộ đội gọi nơi đây là thành phố Dù không có một ngôi nhà
(Thành phố trong rừng)
Người lính trong thơ Nguyễn Đức Mậu thông minh, sôi nổi. Họ tưởng tượng ra một thành phố giữa rừng với đầy đủ những đồ dùng, hàng hoá của một thành phố. Phải là những người yêu sâu sắc quê hương, yêu những phố phường tấp nập trong yên bình thì những người lính bền bỉ ý chí cách mạng mới có nguồn sống mạnh mẽ đến thế.
Chủ nghĩa lạc quan được biểu hiện trong muôn vàn sắc thái phong phú, đôi khi nó chỉ là điệu bộ nghịch ngợm thanh thản, vô tư của người lính giữa chiến trường.
Nhìn những người lính nằm chồng chất trong căn hầm chật hẹp gian khổ, nhọc nhằn, nhà thơ tìm thấy trong những dáng nằm đó nét độc đáo và ngộ nghĩnh:
39
Chữ I nằm thẳng đã quen Đông ngƣời hầm chật nằm nghiêng cũng đành
Một ngƣời thao thức năm canh Nằm co chữ Z là mình nhớ ta
(Nằm hầm)
Phải là người trong cuộc và cũng từng chịu cảnh nằm hầm như vậy Nguyễn Đức Mậu mới có được liên tưởng độc đáo đến thế. Trong thơ ông, tinh thần lạc quan biểu hiện thật dễ thương qua dáng điệu của các anh bộ đội trẻ:
Lá cây sao tạm thay trà
Ống bơ bát sắt bày ra tƣng bừng
Chát chao ngụm nƣớc chè rừng
Cũng vui hể hả cho lòng nhớ lâu
(Trường ca sư đoàn)
Ấy là những năm tháng con người tuy đứng trong gian khổ tột cùng nhưng tâm hồn lại sống trong niềm vui ấm áp của tình đồng chí như ruột thịt một nhà. Bên cạnh nụ cười lạc quan, tươi trẻ ta thấy tình cảm giữa những người lính thật đáng trân trọng:
Họ chia sẻ từ nắm cơm viên đạn
Biết đổ máu mình cho phút xung phong
(Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc)
Họ thậm chí nhận lấy cái chết về mình để đồng đội được sống:
Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù Nhận cái chết cho đồng đội sống Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng Đồng đội xông lên nhìn rõ Hùng cƣời
(Nấm mộ và cây trầm)
Nhiều khi thơ của Nguyễn Đức Mậu còn vẽ nên những bức tranh sinh
hoạt vui vầy, đầm ấm:
Đêm mƣa lạnh hầm sâu thắp lửa Chiến sĩ quây quần bên rá cơm thơm
(Bếp Hoàng Cầm đào theo hình hang chuột)
40
Có trải qua những ngày mưa lạnh liên miên, trải qua những ngày ăn gạo rang, lương khô trên chốt, Nguyễn Đức Mậu và đồng đội mới thấm thía mùi thơm của cơm vừa chín tới.
Những người lính trẻ ra trận cũng giống như bao lớp cha anh đã lên đường. Họ gửi lại sau lưng mình quê hương, hậu phương nơi đó có mẹ cha, có vợ con và người thân. Trên những chặng đường hành quân, trước những trận đánh ác liệt hay sau những trận càn của giặc trong đáy sâu tâm hồn người lính nỗi nhớ những người thân yêu và tình cảm đối với hậu phương lại ùa về.
Những ngƣời lính gối đầu võng bạt Nhớ quê hƣơng gặp trăng sáng lƣng trời Đƣờng biên giới quanh co cây khuất lá Một tấm lòng thƣơng nhớ chẳng hề nguôi (Trường ca sư đoàn)
Không thể không nhắc đến những khó khăn, gian khổ nơi chiến trường mà người lính phải đối chọi. Họ đã phải trải qua bao gian lao của chiến trường, phải đối mặt với bao khốc liệt của cuộc sống chiến đấu. Lời của người trong cuộc kể về chính mình, đồng đội mình do đó những điều ông viết ra mang được niềm tin đến cho người đọc:
Đôi giày không khô, áo quần không khô Chiếc mũ sắt thành gầu múc nƣớc Mƣa trắng xoá bầu trời mặt đất Lòng núi ầm ầm nƣớc réo ở bên trong
(Tiểu đội bộ binh trên chốt mùa mưa)
Sau mỗi trận chiến đấu, hành trang của người lính chỉ còn:
Khẩu súng cháy, chiếc ba lô cháy Chiếc bình tông lỗ chỗ vết bom bi Chiếc xẻng moi hầm đôi giầy rách nát Là gia tài ngƣời lính lúc ra đi
(Chân dung I)
Con đường Trường Sơn là lộ trình hành quân của người lính với đầy những ghềnh thác cheo leo, đá núi gập ghềnh. Lộ trình vất vả này in đậm trong trái tim họ như những kỷ niệm, những dấu ấn không thể nào quên. Núi nối nhau cao lên đến tận trời khiến cho mặt đất hoá thành trời cao khi người lính hành quân lên đỉnh núi:
Những đỉnh núi nối dài
41
Tôi nhìn lên đỉnh núi
Tôi nhìn lên dấu chân đồng đội
Có một thời gian mặt đất hoá trời cao
(Trường ca sư đoàn)
Nhiều khi ác liệt, gian khổ đã trở thành hơi thở quen thuộc, nhịp điệu
trong công việc hàng ngày của những người chiến sĩ công binh phá bom:
Nơi em ở nhiều bom đến nỗi Em phá bom nhƣ việc cấy cày thôi Nghe em kể về bom anh lạ quá Bom nổ nhỏ hơn bởi tiếng em cƣời
(Nơi em ở nhiều bom đến nỗi)
Trong thơ ca chống Pháp, những thiếu thốn, khó khăn về vật chất cũng đã được nhắc tới nhưng đến giai đoạn chống Mỹ, những thiếu thốn này hiện lên chân xác hơn với cảm hứng hiện thực. Chất bi tráng đã đi vào thơ với sự hy sinh máu xương của người lính. Ở mỗi nhà thơ nỗi đau mất mát đều cất thành lời. Hoàng Nhuận Cầm khóc bạn:
Cho mình thắp nén nhang này Khóc Văn nƣớc mắt đã đầy quả tim
(Nhớ Vũ Đình Văn)
Nguyễn Duy đã khắc rất sâu nỗi đau vào tâm hồn khi đồng đội nằm
lại rừng đước:
Đắp cho anh nắm đất mặn nơi này Nơi anh ngã muối ngấm vào vết đạn Xót thịt, xót xƣơng, xót ngƣời nằm xuống Thuỷ triều lên nấm mộ cũng ngập chìm
(Nấm mộ trong rừng đước)
Còn Nguyễn Khoa Điềm, khi người bạn thân nhất ngã xuống, trong
tâm tưởng nhà thơ dội về những kỷ niệm:
...Mình nhớ một trang Kiều hai đứa đọc ...Mình nhớ bếp lửa hồng đốt ngày gặp lại ...Mình nhớ chúng ta vẫn thầm lựa bao điều để nói
(Chúng ta vẫn sẵn sàng cho bài giảng đầu tiên)
42
Thơ Nguyễn Đức Mậu viết trong chiến tranh về hình ảnh bạn bè, đồng chí rất đỗi thiêng liêng cảm động. Nhà thơ gửi nỗi niềm thương tiếc xót xa vào hương trầm bên mộ người bạn, người đồng chí ngã xuống:
Đất đắp mộ Hùng, bom trộn lẫn Cây trầm cháy dở thay nén nhang
(Nấm mộ và cây trầm)
Nỗi đớn đau trước những hy sinh của đồng đội tưởng như ngoài sức
chịu đựng của người người lính trẻ Nguyễn Đức Mậu:
Đêm Thành cổ ngổn ngang gạch vụn
Đoạn chiến hào đầy tiếng chuột kêu,
bầy chuột đói gặm xƣơng ngƣời
Sau tiếng thét Bƣờng lịm dần rồi tắt thở
Tôi gọi hoài tên nó, gọi khàn hơi
Tôi gọi cả hai bàn chân đã mất
Hai bàn chân lạc trong hố bom cày
Đêm Thành cổ mƣa rơi lấp mặt
Tôi ôm Bƣờng rụng buốt cả bàn tay (Đêm Thành cổ năm 72)
Trong thơ Nguyễn Đức Mậu, bên cạnh nỗi đau mất mát, hy sinh, ta
còn bắt gặp những cơn khát thực đến kinh hoàng:
Họ ngồi nghe tiếng suối ngập ngừng
Những dòng suối giặc trải đầy thuốc độc
Nơi có nƣớc thì nƣớc không uống đƣợc
Con suối nằm trong cơn khát bầm đen
(Cơn khát)
Con mắt thơ của người trong cuộc đã khiến cho nhà thơ nhìn chiến tranh không hề đơn giản, một chiều. Qua thơ Nguyễn Đức Mậu, chân dung tinh thần, ý thức trách nhiệm của người lính hiện lên thật sự sâu sắc, đầy đặn. Con người của các anh được hình dung ở sự kiên trung, tinh thần quả cảm, ý chí, nghị lực và nhận thức sâu sắc tính mục đích của hành động:
Nhiều vô tƣ gian khổ đi qua
Có lúc nhìn nhau thấy lạ cho mình
(Ghi ở chiến trường)
43
Họ nguyện gắn bó với hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng của dân tộc và con đường ra trận trở thành không thể khác. Dẫu có được tái sinh người lính chỉ ước một điều giản dị thôi:
Chúng tôi đi con đƣờng không thể khác
Qua chiến tranh giành lấy hoà bình
Đƣợc cầm súng vì linh thiêng đất nƣớc
Xin ƣớc mong tuổi trẻ có hai lần
(Trường ca sư đoàn)
Một tiếng lòng đầy tự nguyện, đầy hăm hở quyết tâm lên đường. Không hề có sự dằn lòng, chỉ thấy có sự thanh thản, nhẹ nhõm từ bên trong. Hình tượng người lính trong thơ Nguyễn Đức Mậu mang vẻ đẹp bình dị, thiêng liêng. Người lính luôn được đặt trong không gian chiến trường với những gian nan, thử thách khắc nghiệt hòng đè bẹp ý chí, nhưng lòng dũng cảm của anh bộ đội cụ Hồ lại chiến thắng. Chính trong bước đường gian nan đó nghị lực của người lính được tôi luyện trở nên vững vàng. Người lính hiểu, yêu cuộc sống và thấm thía sức mạnh của tình đồng đội. Nhà thơ thành công hơn cả trong việc khắc hoạ những gian lao mà người lính phải đối mặt trong suốt cuộc chiến tranh. Linh hoạt trong cách sử dụng ngôn ngữ, táo bạo trong cách xây dựng hình tượng, Nguyễn Đức Mậu đã thực sự tạo ấn tượng tốt ở những đoạn thơ viết về gian khổ hy sinh của người lính nói riêng và dân tộc nói chung.
1.2.2. Hình tƣợng nhân dân
44
Thơ Nguyễn Đức Mậu viết về nhân dân lúc nào cũng chân thành, tha thiết bởi nhân dân là máu thịt của mình. Những con người Việt Nam ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi chính là biểu tượng của dân tộc. “Nhận thức về đất nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân đó cũng là nét nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước của thơ thời kỳ này. Cuộc kháng chiến chống Mỹ một lần nữa thể hiện sức mạnh vô tận, phẩm chất tuyệt vời và những hy sinh vô cùng to lớn của nhân dân” [50; 205]. Chính ở cuộc kháng chiến gian khổ này, chúng ta tìm được những rung cảm trữ tình lắng đọng, những suy tư sâu sắc về phạm trù nhân dân. Trong suy tư đó, Nguyễn Đức Mậu muốn cắt nghĩa vai trò to lớn của nhân dân trong suốt chiến tranh. Chiến thắng chúng ta giành lại được chính là chiến thắng của nhân dân. Những trang sử hào
hùng mà chúng ta dệt nên là những trang sử viết bằng máu, mồ hôi, công sức của nhân dân.
Hình tượng nhân dân không mới trong văn học. Từ Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đều đề cập tới hình tượng nhân dân và vai trò của hình tượng này trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Đến với thơ Nguyễn Đức Mậu, chúng ta vẫn bắt gặp hình ảnh nhân dân ở những điều giản dị nhất mà cũng mạnh mẽ nhất, mang đậm dấu ấn khác biệt của thời đại mới. Nhân dân không chỉ được khắc hoạ ở những nét khái quát mà còn ở những hình ảnh cụ thể với những hoàn cảnh, số phận, tính cách rõ ràng. Tạo dựng hình ảnh từ nhiều góc độ như thế khiến cho thơ của ông có được bức phác hoạ đầy đặn và phong phú về nhân dân.
Nhân dân trong thơ Nguyễn Đức Mậu là cô giao liên chèo xuồng, ông lão nông dân, người mẹ già ở nghĩa trang, là người vợ hai mươi năm đợi chồng “quay mặt vào đêm”...
Là nhà thơ gắn bó với nhân dân bằng cả cuộc đời, với tấm lòng yêu thương, kính trọng dân mình, Nguyễn Đức Mậu đã tạc nên bức tượng đài về nhân dân trong sáng, nhân hậu, thuỷ chung và thắm đượm nghĩa tình. Có khi đó chỉ là một bà mẹ nơi hậu phương mà tác giả gặp trên đường hành quân:
Một sớm tôi qua sông rộng
Bà mẹ chở tôi sang không lấy tiền đò
Mẹ gọi tôi là con. Tôi chào mẹ
Đi xa rồi bóng mẹ sáng trong mƣa
(Ý nghĩa của một chiến sĩ)
Nhân dân chính là những con người biết hy sinh thầm lặng, chăm chỉ,
cần cù để gây dựng cho con cháu đời sau:
Nghìn năm mong đƣợc cấy trồng
Nhân dân xuống biển lên rừng chia xa
Bao đời gieo hạt dựng nhà
Bàn tay lam lũ mở ra núi đồi
(Khúc hát cội nguồn)
Giọng thơ đầy xúc cảm và giản dị khi hát khúc sử thi về nhân dân, đất
45
nước.
Hình tượng nhân dân trong thơ Nguyễn Đức Mậu không hiện lên qua những định nghĩa, triết lý thấm đẫm yếu tố văn hoá - lịch sử như thơ Nguyễn Khoa Điềm, mà đó là những điều hết sức giản dị:
Đất nghèo dành cho cháu con
Lũy thành chặn giặc cao hơn mái nhà
Góp gom hạt gạo nhành hoa
Mà dƣ sắt thép đúc ra ngựa thần
(Khúc hát nguồn cội)
Đó là lịch sử và cũng là hiện thực của dân tộc, của nhân dân đang
sống và chiến đấu giành lấy sự sống.
Viết về nhân dân, hầu hết các nhà thơ đều tập trung vào hình tượng người mẹ với tình cảm trân trọng nhất. Bởi mẹ là nơi quy tụ những phẩm chất tốt đẹp từ trong truyền thống của dân tộc. Và thơ Nguyễn Đức Mậu cũng không nằm ngoài quy luật tình cảm ấy.
Từ những người mẹ tiễn con ra trận, đến những người mẹ trực tiếp tham gia cách mạng, tham gia đội du kích, những người mẹ ở hậu phương mòn mỏi mong tin con, những người mẹ cô đơn đã tiễn bao đứa con lên đường ra trận rồi chẳng trở về. Hình ảnh những người mẹ được xây dựng và chiếu sáng ở những khía cạnh khác nhau nhưng họ cùng chung ở một phẩm chất đó là sự lo toan, sức chịu đựng gian khó, đức hy sinh cao cả:
Mẹ thƣơng chúng con mặc áo lính bạc màu Chúng con thƣơng mẹ bạc màu áo vá Mẹ thƣơng chúng con nhạt muối sốt rừng Chúng con thƣơng dáng lƣng còng vất vả
(Trường ca sư đoàn)
Trên mảnh đất hình chữ S này, mẹ luôn là biểu tượng cho đức hy sinh, sự nhẫn nại, tình thương vô bờ bến. Những phẩm chất này đặc biệt cháy sáng trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ. Trên chặng đường hành quân đi qua mọi nẻo của Tổ quốc ruột thịt, người lính trẻ chợt phát hiện ra những điều thật thiêng liêng:
46
Tôi có tình thƣơng của mẹ của em Dù chƣa quen, chƣa một lần gặp gỡ Tôi có ngôi nhà đón tôi vào ở
Cả những miền tôi chƣa đến chƣa qua
(Ý nghĩ của một chiến sĩ)
Phải chăng chính những tình cảm quân dân đầm ấm ấy đã làm nên cội
nguồn sức mạnh để đưa dân tộc ta tới chiến thắng.
Thơ viết về nhân dân của Nguyễn Đức Mậu giản dị và khiêm nhường nhưng không kém phần sâu sắc. Có khi đó chỉ là tâm sự của người chiến binh già nhưng chứa đựng biết bao suy tư, trân trọng:
Tôi làm sao chép đƣợc cuộc đời ông Cả những nỗi buồn vui sâu nặng nhất Từ ngƣời lính mũ nan chân đất Đến vị tƣớng cầm quân nơi biên giới bây giờ Sau cấp bậc thăng trầm trên ve áo Một chặng đƣờng máu lửa ngày tháng qua.
(Một chiến binh già)
Trải qua bao giai đoạn khó khăn đau thương, nhà thơ ý thức rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với nhân dân. Dường như được soi mình vào trong nhân dân, nhìn ra cái vô cùng lớn lao của nhân dân – nhân dân chính là nơi giúp ta hình dung ra Tổ quốc:
Những khu rừng, dòng sông, cánh đồng và những vỉa than Là của cải mẹ dành nuôi chúng con đánh giặc Lòng mẹ rộng vô cùng, chúng con đi suốt đời chƣa hết Lời mẹ vang trầm, mắt mẹ nhìn xuyên suốt xƣa, sau
(Tổ quốc)
Bằng giọng mộc mạc, bình dị, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã xây dựng nên hình tượng nhân dân – những con người bình thường, giản dị nhưng mang vẻ đẹp cao cả và thấm đượm nghĩa tình. Bên cạnh những cá nhân riêng lẻ, nhà thơ đã dựng lên bức tượng đài về nghệ thuật đối với nhân dân bằng những hình tượng tập thể, hay các hình ảnh tượng trưng:
Từ mảnh đất mênh mông bờ cõi
Nhân dân mình đƣa đất nƣớc lên ngôi
(Khúc hát nguồn cội)
47
2. Cảm hứng về cuộc sống trong hoà bình
2.1.Dư âm chiến tranh trong cuộc sống hòa bình
Trong tiểu thuyết Tiếng rền của núi, Y.Kaoabata, nhà văn Nhật Bản đầu tiên được giả Nôbel văn chương đã dùng hình tượng quả núi để ẩn dụ cho chân lý cuộc đời. Sau những trải nghiệm cuộc sống của mình, nhà văn nhận ra có một điểm tương đồng giữa việc ngắm nhìn quả núi và sự nhận thức chân lý cuộc sống. Để chiêm ngưỡng hết dáng vẻ của núi, ta phải rời xa nó, cách xa nó một khoảng không gian nhất định. Cũng như vậy để nhận thức một chân lý cuộc sống, con người cần phải trải qua một quãng đời nào đó, cần phải có một độ lùi nhất định.
Những tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh cùng những nỗi buồn đau nó để lại trong thời hậu chiến đã có một độ lùi cần thiết như vậy. Mặc dù chiến tranh đã đi qua, các nhà thơ, đặc biệt là các nhà thơ mặc áo lính trong đó có Nguyễn Đức Mậu vẫn chung thuỷ với đề tài chiến tranh và quân đội. Với họ, chiến tranh vẫn như là một cảm hứng nguồn cội cứ lay trở, day dứt khôn nguôi trên trang viết của các anh. Bản thân Nguyễn Đức Mậu cũng có một số tập thơ (Từ hạ vào thu, Hoa đỏ nguồn sông, Cánh rừng nhiều đom đóm bay) tạo được ấn tượng với độc giả và được khẳng định giá trị bằng những giải thưởng cao quý dành cho tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh và quân đội.
Với độ lùi của thời gian, cách cảm nhận của Nguyễn Đức Mậu về chiến tranh có sự từng trải, thấu đáo và đa dạng hơn. Ông viết về chiến tranh và người lính trên những bình diện mới, cấp độ mới và cách diễn đạt mới. Ở đó có sự đồng cảm âm thầm mà mãnh liệt của sức sống nội tâm. Tác giả đã ký thác, gửi gắm những tình cảm, tâm trạng làm thức dậy một thời đạn bom đã qua và khai thác sâu thêm vào hiện thực tâm trạng, phẩm chất người lính trong chiến tranh cũng như trong hoà bình.
48
Tựa đề của những tập thơ viết về chiến tranh sau 1975 của Nguyễn Đức Mậu đều không nghiêng về chiến trường, trận mạc, những bài thơ cũng không ào ạt, dữ dội như trước đây. Bình dị và hiền hoà nhưng đau đớn khôn nguôi. Mỗi bài thơ là nỗi nhớ da diết những đồng đội đã ngã xuống, là hồi ức, là chiêm nghiệm về nỗi đau thể xác và tinh thần mà người lính trở về phải chịu đựng trong hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Bởi thế, Nguyễn Đức Mậu luôn luôn dằn vặt về trách nhiệm với cây bút của mình:
Tôi viết gì trên cây, tôi viết gì trên đất
Khi dƣới chân tôi ngang dọc luỹ thành
Lời non nƣớc khắc vào cột mốc
Xƣơng máu đời hoá thạch chốn rừng xanh
(Trên mái nhà Tổ quốc)
Chiến tranh thực sự là nỗi đau buồn mênh mang. Nó để lại những vết thương đau đớn không bao giờ có thể lành trên thể xác và trong tâm hồn những ai đã phải đi qua nó. Bởi thế mà bao năm chiến tranh đã đi qua, nhịp sống mới ồn ào xô đẩy, nhưng vẫn:
Còn lại những chiếc đinh gỉ han ký ức
Nhƣ vết đạn găm nhƣ giọt máu bầm
(Bức tường câm)
Trong ký ức nhà thơ vẫn còn hằn rõ những dấu vết của một thời gian khổ. “Đó là một buổi trƣa rừng Lào năm chiến tranh”, người chiến sĩ hành quân trong cơn khát:
Mình đi một thôi đƣờng, tóc bơ phờ cỏ cháy
Giày rách, áo quần nhoà bụi đỏ
(Suối mát)
Đó là những trận rét ớn lạnh mà cả đơn vị cùng lên cơn sốt:
Tuổi trẻ anh đi qua vùng rừng nƣớc độc
Con suối Trƣờng Sơn lá mục rơi đầy
Căn hầm võng nƣớc mƣa
Đêm khuya ngồi đập muỗi
Chân không giày gỡ vắt đỏ bàn tay
Tƣởng tất cả tan thành cơn sốt
Tất cả hằn trên da mặt anh đây
Môi anh sạm vầng trăng đêm nguyệt thực
Mắt anh nhoà đi, sông núi cũng hao gầy.
(Nhật ký sau cơn sốt)
49
Nhưng sâu sắc và đau đớn hơn cả vẫn là những vần thơ viết về sự hy sinh của đồng đội trong chiến tranh. Những cái chết chứng tỏ sự khốc liệt của chiến trường khiến nhà thơ không thể nào quên:
Mùi tóc cháy, mùi thịt da khét lẹt
Ngọn gió qua đồi hoá ngọn gió mồ côi
Khuôn mặt bạn cháy đen, chỉ đôi mắt nhìn tôi không chịu khép
Nhƣ hai hốc đất sâu, hai vết thủng vòm trời
Đâu đâu cũng thấy sự hy sinh, thấy nỗi đau mất mát. Có những người chết còn được đồng đội vuốt mắt, chôn cất và đánh dấu mộ phần. Nhưng có những người hy sinh chẳng để lại một chút thông tin cá nhân, một lời nhắn gửi:
Sáng. Tổ anh nuôi múc nƣớc nấu cơm và hoảng hốt nhận ra xác hai cô gái. Tiểu đội tôi sục vào các hốc đá, lùm cây, tìm thấy xác ba chàng trai nữa. Chúng tôi đắp năm ngôi mộ không ngày sinh ngày mất, không họ tên, không địa chỉ thôn làng. Nhìn những cuộn dây điện, những chiếc máy bộ đàm im lặng. Chúng tôi đoán họ là lính thông tin bị giặc chặn đƣờng.
(Cánh rừng nhiều đom đóm bay)
Mỗi người lính ngã xuống có khi cùng một thời điểm nhưng lại ở nhiều trạng huống khác nhau. Điều đó càng làm ký ức nhà thơ thêm nhức nhối mỗi khi nhớ về họ:
Hà Nội, ba mƣơi năm trƣớc Bao bạn bè ta đã khuất Có ngƣời bị cháy thành than Có ngƣời cụt chân, nát ngực Ta chôn đồng đội trong đêm Tàn hƣơng đỏ hoe nhức buốt Ta chôn đồng đội trong ngày Ngƣời không còn mắt để vuốt
(Tâm sự)
Cùng với nỗi đau đớn, viết về sự hy sinh của đồng đội, thơ Nguyễn Đức Mậu cũng nói lên niềm kính yêu, trân trọng vô bờ. Tưởng nhớ 268 pháo thủ đã hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc, ông viết:
50
Các anh chết khi nạp đạn, chỉnh tầm, khi phất cao cờ lệnh Khi giấc ngủ, bữa ăn, khi khênh cáng bạn mình Những dáng đứng, dáng ngồi, dáng nằm của ngƣời pháo thủ Những bàn chân giập nát, những đôi mắt mở trừng Những mái tóc khét diêm sinh
... Đài tƣởng niệm hai trăm sáu mƣơi tám ngƣời pháo thủ Dựng ở tầng sâu mặt đất này
(Khúc bi tráng ở ngã ba Đồng Lộc)
Những vần thơ của Nguyễn Đức Mậu giản dị như một lời kể:
Binh trạm Trƣờng Sơn năm 69 Có bảy ngƣời con gái trúng bom Đám tang họ không ai đƣa tiễn Giữa rừng chiều ngổn ngang núi non
(Bảy vầng trăng khuyết )
Giản dị là thế mà bùi ngùi, xúc động khôn nguôi. Nỗi xót xa như thấm đẫm mỗi dòng thơ:
Những lá thƣ tình, những manh áo mới
Bảy cô gái chết rồi chẳng kịp mang đi
Chết tuổi đang yêu, chết còn quá trẻ
Tuổi mộng mơ không kịp trối trăng gì
(Bảy vầng trăng khuyết )
Năm tháng qua đi, những hoài niệm, ký ức âm thầm mà mãnh liệt bừng thức trong tâm hồn Nguyễn Đức Mậu, mở đường cho cảm xúc nhà thơ tìm về với quá khứ, tìm về với thời gian không thể nào quên. Ông tưởng niệm về sự hy sinh vô giá của đồng đội và ước ao:
Nếu tất cả trở về đông đủ
Sƣ đoàn tôi sẽ thành mấy sƣ đoàn
(Gửi sư đoàn cũ)
Ước ao đó đã cho ta thấy một Nguyễn Đức Mậu thuỷ chung và giàu tình yêu thương, luôn hướng về đồng đội, về những điều quý giá và thiêng liêng trong quá khứ bằng tất cả trái tim, tâm huyết của mình.
51
Bên cạnh việc khắc hoạ hình ảnh người lính trong chiến trận, thơ Nguyễn Đức Mậu còn viết về sự trở về và hoà nhập của người lính vào cuộc sống hoà bình. Môtíp này quá quen thuộc với nhiều tác phẩm văn học nói chung và với thơ nói riêng. Nhưng sự trở về hôm nay của những người lính có những nét khu biệt so với trước đây. Họ dường như phải đón nhận những
thử thách mới không kém phần gay go và ác liệt đối với bản thân và gia đình.
Sau những chiến công, người lính không thể hình dung nổi một khung cảnh làng quê: “Gió đói cứ hun hút; thổi rỗng trời quê hƣơng” và một thực trạng đau lòng với chính mình:
Mƣời mấy năm trận mạc
Anh lính trở về làng
Mẹ già thì mới mất
Nhà cửa thì tan hoang
(Khúc bi ca – Văn Lê)
Nguyễn Đức Mậu đã viết những bài thơ bùi ngùi, xúc động về tâm tư người “chiến binh già”, về chân dung “một vị tướng về hưu” sau khi đã trải qua những thâm niên binh nghiệp, trở về với đời sống gia đình:
Huân chƣơng xếp vào góc tủ
Nay hàm tƣớng tá mà chi
Tuổi già công danh xem nhẹ
Cuộc đời nhƣ nƣớc trôi đi
Có thể nói, cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh còn là sự gánh chịu những thiệt thòi, những đau đớn trong sự cô đơn và chờ đợi của người phụ nữ. Những tập thơ viết về chiến tranh của Nguyễn Đức Mậu đã có những bài khắc hoạ khá sâu sắc hình tượng người phụ nữ cam chịu như một định mệnh khắt khe của số phận khi đất nước đang có chiến tranh. Trong hoàn cảnh ấy, thiên chức của người phụ nữ mai một dần theo năm tháng. Chiến tranh, không chỉ có bom đạn tàn phá, huỷ diệt đời sống, Nguyễn Đức Mậu đã phát hiện thêm sức phá hoại vô hình khác, đó chính là nỗi cô đơn, lẻ loi:
Mƣời năm vần vũ nắng mƣa Chiến tranh qua bóng ngƣời xƣa chẳng về
(Người ấy)
52
Hình ảnh nàng Tô Thị hơn một lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Đức Mậu là biểu tượng của sự chờ đợi, ngóng trông trong xa thẳm thời gian và không gian. Ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần ca ngợi một cách tượng trưng, khái quát tình yêu trong huyền thoại mà còn là sự cảm mếm, thương xót đối với người phụ nữ trong hiện tại. Những bài thơ nói về người goá phụ
trong thơ Nguyễn Đức Mậu đã khơi gợi một ý tưởng mới, chạm vào tâm thức độc giả với những rung cảm ngậm ngùi:
Tình yêu trên núi chon von Thƣơng ai hoá đá làm hòn Vọng Phu Có mùa trở gió về thu Bao ngƣời vợ trẻ hát ru phận mình
(Khúc tình yêu)
Nguyễn Đức Mậu đã thực sự cảm thông với nỗi đau của người phụ nữ và qua những câu thơ viết về thân phận của họ, di hại của chiến tranh đã hiện ra cụ thể và khốc liệt hơn trong đời sống hôm nay:
Chiến tranh đã tắt từ lâu Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon Nửa đêm gió lạnh, trăng mòn Có ngƣời nghe tiếng ru con... khóc thầm.
(Người ấy)
Hoà bình đã về nhiều năm, nhưng hậu quả và di chứng của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, đè nặng lên đời sống, số phận của con người không chỉ hôm nay mà còn nhiều năm sau nữa. Là một người lính, vì thế, Nguyễn Đức Mậu có cái nhìn từng trải hơn trước cuộc chiến tranh vừa đi qua cuộc đời mình, để có một nhận thức sâu sắc, mang tính trải nghiệm hơn về bản chất của nó. Và do vậy, viết về chiến tranh vẫn là niềm thôi thúc đối với ông.
2.2. Cảm hứng về cuộc sống đời thường (đất nước, thiên nhiên
thanh bình, những người thân yêu,…)
2.2.1. Đất nƣớc với thiên nhiên và cảnh vật thanh bình
Đất nước hoà bình, bước vào công cuộc xây dựng và đổi mới. Dõi theo sát sao những bước chuyển mình khó khăn nhưng đầy cố gắng của dân tộc, Nguyễn Đức Mậu đã có những vần thơ hoà nhịp cùng thời cuộc.
Ông cảm nhận được và tự hào khi lắng nghe một cuộc sống mới đang
hồi sinh, nảy mầm:
53
Vốc nắm đất lên, vò nhàu lá cỏ tƣơi Tôi choáng ngợp trƣớc luống cày mới mở Hôm qua chúng tôi còn ôm bọc phá Còn xẻ hào – những mảnh đất này đây Cái biên giới hoà bình và súng nổ
Nối nhau bằng những luống cày Ngày hoà bình đầu tiên chiến tranh chấm dứt Ngày lƣỡi cày phá vòng dây thép gai ... Sau tội ác nằm phơi trần han gỉ Tôi nghe trong đất hạt cây thầm thì...
(Cảm xúc mùa cày)
Trong sự vận động của đất nước đi lên sau chiến tranh, những làng quê Việt Nam cũng có nhiều đổi mới. Viết về phiên chợ đủ đầy, dân dã, ta nghe như trong mỗi dòng thơ Nguyễn Đức Mậu có chất chứa cả niềm tự hào và tình yêu thương trìu mến:
Chợ quê bán những rau dƣa
Trầu không mới hái chuối vừa chín cây
Chợ quê bán thúng khoai đầy
Bán đôi lợn giống, bán bầy gà con
(Chợ quê)
Khắp nơi nơi, từ vùng quê nông thôn đến thành thị, chiến tranh đã thực sự lùi xa. Từ giã tiếng đạn bom, đất nước non sông liền lại một dải,... trong cảm hứng ấy, Nguyễn Đức Mậu vui sướng cùng hoà nhịp reo hò, và nỗi vui mừng không phải chỉ dành riêng cho trận bóng:
Cùng khán giả tôi reo hò khản giọng
Trận đấu này không tiếng đạn bom
Này núi liền sông, này Nam liền Bắc
Trái bóng bay lên, trái bóng lăn tròn
(Trên sân cỏ hoà bình)
Những địa danh đất nước đi vào thơ Nguyễn Đức Mậu tự nhiên và giản dị. Ta gặp sông Hương, Vĩ Giạ của Huế, gặp Ba Vì, Tam Đảo, gặp Sa Pa, Điện Biên, gặp Hà Giang, gặp Củ Chi... Ở địa danh nào cũng chất chứa những kỷ niệm chiến trận, những thiên nhiên tươi đẹp, những chuyển mình đi lên, và có cả những vất vả, lam lũ:
54
Trắng trời một dải miền Trung Nƣớc dâng, sóng dựng khắp vùng lũ xô Cánh buồm lạc biển nơi mô
Mịt mờ mƣa xối, nhấp nhô sóng tràn ... Cho tôi gọi những thôn làng Xám đen cơn gió lật ngang vòm trời Đêm ngày lũ quét mƣa rơi Tên làng chìm hút chơi vơi giữa dòng
(Gửi miền Trung)
Trong sáng tác của Nguyễn Đức Mậu, những bài thơ viết về đất nước
hoà bình với cảnh thiên nhiên tươi đẹp chiếm một số lượng không nhỏ.
Vẫn còn con mắt tươi non của người lính - nghệ sĩ, nhà thơ nghe, cảm
nhận được tiếng mùa đi:
Tƣởng nhƣ nghe thấu đƣợc
Tiếng mùa xuân thầm thì
Tƣởng nhƣ nhìn rõ đƣợc
Sắc màu mùa xuân đi
(Đi dọc mùa xuân)
Bằng trải nghiệm cá nhân, bằng rung cảm tâm hồn, Nguyễn Đức Mậu đã cảm nhận được bước đi tinh tế và sắc màu của thời gian. Thiên nhiên thanh bình có khi được hồi tưởng lại trong ký ức nhà thơ:
Nơi cầu ao, cây bƣởi nở giêng hai
Bầy ong mật đọng màu hoa trắng
Trứng ếch giăng lấm tấm vạt ao bèo
Gốc sung già ứa dòng nhựa trắng
(Tuổi thơ, nhìn lại)
Ký ức tuổi thơ với những hình ảnh thiên nhiên đồng quê giản dị nhưng đong đầy kỷ niệm của một thời đầu trần, chân đất. Hương hoa bưởi tháng giêng hai, tiếng vo ve của bầy ong giữa trưa nắng, dòng nhựa từ gốc sung già,... vẫn như vương vấn không rời ký ức nhà thơ. Đó là những hình ảnh bình dị gắn với biết bao làng quê, biết bao tuổi thơ nhưng đối với Nguyễn Đức Mậu, phải có một tình cảm gắn bó sâu nặng đến nhường nào nhà thơ mới nhớ khắc ghi từng chi tiết nhỏ đến thế.
Những con sông lịch sử gắn với bao chiến công hào hùng trong thơ
55
Nguyễn Đức Mậu được miêu tả thật êm ả, thanh bình:
Sông Lô xanh biếc nhƣ trời vỡ
Từng mảng mây nào rơi xuống đây
Mùa đông sông hát lời chi đó
Hai bờ cây cỏ mải mê say
(Thi khúc sông Lô)
Cảnh vật tĩnh lặng đến nỗi soi bóng xuống dòng sông mà tưởng như “từng mảng mây” rơi xuống dòng sông. Đứng trước dòng sông ấy, ta không thấy cảm giác “rờn rợn vời con nƣớc” mà chỉ thấy lòng “mải mê say” theo lời sông hát.
Nhiều khi thiên nhiên trở nên đẹp hơn, có hồn hơn khi có con người tô
điểm:
Gió ru hoa cỏ đôi bờ
Dòng sông thu một con đò chờ ai
Có em núi cũng thành đôi
Mùa thu ơi có theo tôi sang đò
(Mùa thu)
Khi những tia nắng gay gắt của mùa hạ nhạt dần, làn gió heo may hây hẩy thổi cũng là lúc mùa thu về. Nguyễn Đức Mậu không tả mùa thu trên sắc lá - một điều mà các nhà thơ thường làm – mùa thu trong thơ Nguyễn Đức Mậu được cảm nhận qua hoa cỏ hai ven bờ sông, qua dòng sông, con đò, dáng núi,... Nguyễn Đức Mậu được biết đến bởi những vần thơ viết về người lính chân thực, xúc động nhưng chúng tôi có thể khẳng định rằng ai đã từng đọc những vần thơ của ông viết về thiên nhiên cũng phải thừa nhận rằng Nguyễn Đức Mậu viết về thiên nhiên cũng thật tinh tế, thật đẹp, thật trong sáng:
Đàn bò vàng trên đồng cỏ xa xanh
Gặm cả hoàng hôn, gặm buổi chiều sót lại
Mùa rạo rực chỉ đàn bò biết đƣợc
Vị cỏ râm ran đầu lƣỡi ngọt mềm
(Đàn bò vàng trên đồng cỏ hoàng hôn)
56
Đoạn thơ như một thước phim quay chậm trên thảo nguyên vào một buổi chiều. Nó cho ta cảm giác thanh bình, yên ổn khi ngắm chiều về cùng đàn bò thong thả gặm cỏ, cùng lắng nghe “vị cỏ râm ran đầu lưỡi ngọt mềm”.
Viết về làng quê, viết về các mùa, Nguyễn Đức Mậu còn cảm nhận
được bước đi của thời gian qua màu hoa cải:
Dập dài cây cải đơm hoa
Thời gian nhón bƣớc chân qua dịu dàng
(Không đề II)
Nguyễn Đức Mậu là một nhà thơ luôn trăn trở suy tư. Có đôi khi nhìn những bông hoa - vẻ đẹp tinh hoa của tạo vật thiên nhiên – nhà thơ băn khoăn:
Ôi màu sắc hƣơng thơm, vẻ đẹp mỗi loài hoa
Ôi tình ngƣời, tình đất ở vùng hoa
Vạt áo mỏng làm sao ta đứng hết
Bàn tay ta nhỏ quá biết cầm sao
(Mỗi loài hoa nói gì với ta...)
Viết về hoa quỳnh, về hương hoa se sẽ, về làn gió phơ phất cũng là
viết về tâm sự của chính mình:
Dƣờng nhƣ trong hoa có nỗi niềm trinh bạch
Hoa nở về khuya cánh mở sẽ sàng
Cả mùi hƣơng cũng tan vào gió
Gió cũng đong đƣa, gió dịu dàng
(Thức với hoa quỳnh)
Về bốn mùa của đất nước, Nguyễn Đức Mậu đã có những câu thơ rất hay. Mùa thu của Hà Nội dường như khiến nhà thơ trở thành một người lãng mạn, đa tình và dễ xúc cảm:
Dƣờng nhƣ trong gió pha men rƣợu
Tôi uống mùa thu mấy giọt lành
Con đƣờng hay sợi dây giăng mắc
Hồn ngƣời xao động mãi âm thanh
(Sáng thu nay)
57
Có những câu thơ được xem là tuyệt bút về mùa thu, Nguyễn Đức Mậu cũng có những vần thơ rất đặc sắc về mùa đông. Phải là con người đậm chất Bắc, nếm trải biết bao cái rét của mùa đông mới có được cảm nhận tinh tế đến thế:
Bƣớm vàng cánh rét lơi trong gió
Thảng thốt chiều buông phía Ngọc Hà
Huệ trắng nhƣ em màu áo trắng
Rót vào vƣờn cúc chợt vàng hoa
(Nói với hoa)
Trong thơ, ta gặp một màu trắng đến nao lòng và rồi màu vàng của hoa cúc lại làm lòng ta ấm lại. Cái rét mùa đông không còn tê buốt mà trở nên nhẹ nhàng, dịu dàng.
Đất nước hoà bình, thiên nhiên tươi sáng, lòng người nghệ sĩ như thư thái, rộng mở, như đi vào chiều sâu của những cảm xúc, những suy tư. Nguyễn Đức Mậu đã thể hiện rất sâu sắc một tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, gắn bó và say mê với những vẻ đẹp của thiên nhiên. Khắc hoạ thiên nhiên của đất nước chính là một dạng thức của cái tôi trữ tình Nguyễn Đức Mậu.
2.2.2. Con ngƣời trong cuộc sống sau chiến tranh
Nhà văn Sêkhốp đã từng nói: “Nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Và hoạ sĩ Hà Lan Vangohn cũng khẳng định rằng: “Không nghệ thuật nào hơn lòng nhân bản, yêu thương con người”. Thơ Nguyễn Đức Mậu là một minh chứng cho những khẳng định đó. Yêu thương cuộc sống, yêu thương con người, ân tình, gắn bó, thuỷ chung là chân dung Nguyễn Đức Mậu qua những trang thơ.
Trong nguồn cảm hứng thi ca của mình, Nguyễn Đức Mậu dành phần tình cảm thiêng liêng, sâu sắc nhất cho hình ảnh người mẹ. Từ xưa đến nay, Mẹ là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. “Mẹ là chỗ nhạy cảm nhất của trái tim con người, là cái đầu tiên và là cái cuối cùng của mọi điều cao cả, là điểm tựa, nơi trở về, chốn nương thân, nơi đặt niềm tin” (V.Huygô). Mẹ là nơi hiện hữu những tình cảm thiên kính nhất. Thơ Nguyễn Đức Mậu viết về mẹ khá nhiều nhưng những bài thơ viết về mẹ sau này người đọc lại tìm thấy những rung cảm khác nhau. Mỗi lần viết về mẹ, ông thể hiện sự khám phá riêng, những suy tư rất sâu lắng, khi ngọt ngào, khi đằm thắm thiết tha. Với Nguyễn Đức Mậu, mẹ là ngọn nguồn tất cả. Mẹ là niềm tự hào, là nỗi mong nhớ khôn nguôi, là tình yêu thương khôn xiết, là ngọn lửa sưởi ấm lòng người lính trẻ Nguyễn Đức Mậu:
58
Ta chẳng đƣợc làm ngọn đèn khuya an ủi mẹ
Mẹ vẫn suốt đời nhen lửa ấm cho ta
Cúi đầu xin lạy mẹ
Đứa con trai xa nhà
(Dâng mẹ)
Nguyễn Đức Mậu viết về người mẹ trước tiên là để bày tỏ nỗi lòng tình cảm của mình đối với người mẹ đã mang nặng đẻ đau, đã tảo tần gian khổ hy sinh cho mình. Khi đang ở cách mẹ rất xa, hồi ức về mẹ vẫn hiện lên rất rõ trong tâm trí nhà thơ:
Khói lên nhớ một dáng nhà
Mây in tóc mẹ trời xa bay về
(Trường ca sư đoàn)
Nguyễn Đức Mậu nhớ mẹ và nhớ cha – người cha nghèo khổ lam lũ tha phương – hình ảnh ấy vẫn in đậm trong ký ức nhà thơ với những câu lẩy Kiều trong đêm trăng, những chiều “bện gió đưa diều lên cao”,...
Cha tôi áo vá nón mê
Bàn chân quen nẻo đƣờng quê ruộng lầy
(Cha tôi)
Người mẹ trong thơ Nguyễn Đức Mậu bao giờ cũng gắn với những lam lũ, tảo tần; Đó cũng chính là bóng dáng của người mẹ nghèo vùng Nam Trực – Nam Định của nhà thơ:
Cha khuất núi đã mƣời năm
Mẹ thƣờng nhang khói viếng thăm mộ chồng
Sƣơng nhoà dấu cỏ chiều đông
Liêu xiêu dáng mẹ trên đồng vắng xa
(Dáng mẹ)
Xa nhà, xa mẹ nhưng trong trái tim nhà thơ luôn mang theo hình ảnh của mẹ. Có khi chỉ là những mong ước nhỏ bé, giản đơn mà chan chứa yêu thương:
Xin gió bấc đừng rối bời tóc mẹ Xin mƣa đừng rơi ƣớt vạt áo mẹ già Xin mùa xuân dài thêm, mùa đông ngắn lại Mẹ tám mƣơi rồi con vẫn xa
(Dâng mẹ)
59
Nguyễn Đức Mậu viết về mẹ bằng sự thấu hiểu sâu sắc bao nỗi đắng cay, bao sự hy sinh vất vả trong cuộc đời mẹ. Phải biết ơn, trân trọng, nâng niu bao nhiêu sự hy sinh đằng đẵng, sự chịu đựng lớn lao của người mẹ mới có được những câu thơ như thế này:
Cỏ xanh trên mộ ông bà
Cha già khuất bóng mẹ già lẻ loi
(Khúc cảm)
Giữa phố phường đô hội, giữa dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, giữa bộn bề công việc lo toan của cuộc sống, con người ta rất dễ quên đi những gì đã một thời gắn bó cho dù đó là quê hương, là nguồn cội, là “phương trời mẹ”. Nhưng với Nguyễn Đức Mậu, ta thấy ông thật nặng lòng, thật thuỷ chung - sự thuỷ chung trước sau như một - đối với quê hương. Ông luôn mang nặng nỗi niềm tha hương, nỗi “xa xót ngóng về phương trời mẹ”. Tâm sự ấy của Nguyễn Đức Mậu thật đáng quý, đáng trân trọng xiết bao:
Xa quê biền biệt tháng ngày
Ngủ rừng ngủ phố đêm nay ngủ nhà
Mọt kêu rờn rợn thịt da
Tiếng vô tri cũng khiến ta chạnh lòng
(Khúc cảm)
Ta giật mình bởi cái “chạnh lòng” rất “người” của ông và chợt nhận ra có nhiều điều thật nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng nhiều khi lại có ý nghĩa lớn lao và thiêng liêng vô cùng. Thơ Nguyễn Đức Mậu đi sâu vào lòng độc giả bởi những điều rất nhỏ như thế.
Không chỉ nghĩ về mẹ mình với tình cảm tha thiết nhất, Nguyễn Đức Mậu còn dành những tình cảm tốt đẹp, những trân trọng, những yêu thương trìu mến đối với mẹ của người đồng đội đã hy sinh:
Mẹ Hùng tóc trắng mẹ hiền tôi
Tôi thƣờng thay Hùng biên thơ thăm hỏi
Mong về phép ăn bát cơm mẹ xới
Giúp mẹ lợp dày mái cọ che mƣa
(Nấm mộ và cây trầm)
60
Đó không còn là trách nhiệm của những người cùng chiến đấu mà trở thành nghĩa tình đồng đội, là nghĩa cử cao đẹp của một người con hiếu thảo.
Những người mẹ đau khổ mà anh hùng ấy đã đi vào thơ Nguyễn Đức Mậu với biết bao tình cảm yêu thương sâu nặng:
Tre gẫy cành trắng xác cò non
Thƣơng cánh đồng xơ xác hoàng hôn
Thƣơng mảnh đất không nơi cò đậu bóng
Thƣơng bao mẹ hiền lƣng còng tóc trắng
(Nói thêm về cánh cò)
Những người mẹ đã hy sinh cả chồng, con, cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc – Nguyễn Đức Mậu viết về họ với rưng rưng niềm xúc động chân thành:
Dáng mẹ liêu xiêu giữa hàng bia mộ Núi bạc đầu tóc mẹ trắng sƣơng rơi Ôi! Đời mẹ không chồng con đơn lẻ Tám mƣơi năm dài dặc kiếp ngƣời.
(Mẹ già coi nghĩa trang)
Cùng với hình ảnh người mẹ, trái tim người lính – nhà thơ còn có sự hiện diện của người thương như là nguồn động lực thứ hai về tinh thần. Chiến tranh, người đi không hẹn được ngày trở lại, nỗi nhớ thương trở nên day dứt, dày vò những trái tim yêu:
Thƣơng em biết mấy cho vừa Tôi đi xa lắm mà chƣa hẹn về Lời em ở phía miền quê Lời tôi rừng thẳm bốn bề mƣa giăng
(Thư những ngày xa)
Nhưng người lính hiểu ra rằng, sự xa cách này không phải chỉ là của riêng họ mà còn là nỗi đau chia cắt của cả dân tộc. Vì vậy, nỗi nhớ trở nên đẹp hơn, cao cả hơn:
Phải đâu xa cách riêng ta Đất đai mình cũng cắt ra hai miền
(Trường ca sư đoàn)
61
Cũng có khi nỗi nhớ ập đến cồn cào. Nhiều khi đang chiến đấu cũng không thể xua đi cảm giác nhớ thương mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính:
Những ngày xa, những ngày xa... em ơi Nơi mặt trận lòng anh thanh thản nhất Chỉ cần nhận một lá thƣ em viết Anh cũng vui nhƣ hạnh phúc đủ đầy
(Những ngày gần, những ngày xa)
Nhớ lại những kỷ niệm, cảm động biết bao khi nhà thơ nói về những
ngày đầu:
Bao kỷ niệm cứ theo anh ra trận Ngôi sao nào anh ngỡ mắt em xanh Buổi mới bên nhau bên hàng rào đêm ấy Tàu cau rung hai đứa giật mình.
(Hòm thư bưu điện ở trạm giao liên)
Đó là tiếng vang của nỗi nhớ, của tình yêu với người vợ nơi hậu phương. Giữa đạn bom chiến trường, giữa ác liệt chiến tranh, niềm tin về tình yêu bất diệt làm cho họ thật đẹp:
Những ngày hai đứa hai nơi
Tình yêu mãi mãi xanh tƣơi thuở đầu
(Hoa gửi em)
Những vần thơ Nguyễn Đức Mậu viết về người vợ thân yêu mộc mạc,
giản dị mà rất đỗi thiêng liêng, bình thường mà sâu lắng, thấm thía.
Nguyễn Đức Mậu cũng viết những câu thơ trĩu nặng yêu thương về
đứa con yêu dấu.
Là người lính, mong ước giản dị là có mặt trong ngày con chào đời cũng không có được. Có lẽ vì vậy mà tình phụ tử trong thơ Nguyễn Đức Mậu như thiêng liêng hơn bởi sự dồn nén tình cảm trong xa cách. Ông đã mường tượng ra ngày con chào đời:
Sinh con ra trọn đƣợc ngày
Con ra đời lúc sông đầy nƣớc lên
Mái nhà ta chẳng bình yên
Cây cao trận bão triền miên đổ dồn
(Ngày con ra đời)
62
Nguyễn Đức Mậu viết về con không nhiều, nhưng bài nào cũng thấm đượm tình cảm dạt dào của người cha, của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau.
Trong hành trang ít ỏi của người lính, thứ quý nhất có lẽ đó là nỗi nhớ về những người thân yêu và người con là thứ tài sản quý giá hơn cả. Cũng có khi nhà thơ “nhập vai” vào nhân vật trữ tình người mẹ để nói lên những lo lắng phấp phỏng:
Áo con mẹ biết may vừa
Hình con mẹ đoán khi chƣa lọt lòng
Gối êm đậu cánh bƣớm hồng
Quạt xinh chờ mở gió nồng về con
(Nói với con)
Có lẽ, mỗi chúng ta sẽ đều cảm thấy mềm lòng khi đọc những câu thơ
viết về trẻ thơ như thế này:
Mắt con khéo mở đêm dài
Mẹ tìm thấy ánh trăng trời ở trong
Mẹ nhƣ xa tắp cánh đồng
Tay con nhỏ xíu làm bông lúa mềm
(Trường ca Côn Đảo)
Bên cạnh dòng hồi ức chiến tranh, những dòng thơ viết về người vợ, người con thân yêu cũng là những dòng thơ được đốt nóng bởi sức nặng của nỗi nhớ mong và tình yêu thương.
Nguyễn Đức Mậu còn viết về người chị, người cô của mình. Ông thấm thía và chia sẻ nỗi khổ đau, cơ cực của cuộc đời họ. Ông còn có những bài, những đoạn viết về người bạn thân thiết, người đồng đội rất ấm áp, chân thành, cảm động. Không chỉ là một người con, một người chồng, một người cha giàu tình cảm, đôn hậu, nhà thơ còn là một người bạn thuỷ chung, đằm thắm và luôn sống trọn nghĩa vẹn tình:
Một thời mắc võng rừng sâu
Bây giờ hai đứa hai đầu Bắc Nam
Bạn rằng nhớ lắm mùa cam
Cho tôi thƣơng nhánh mai vàng chờ hoa
(Gửi bạn đầu năm)
63
Thiết nghĩ, dù có bị xa cách bởi không gian và thời gian, nhưng tình cảm trong họ sẽ mãi không thay đổi, họ sẽ luôn nhớ về nhau, nhớ về những kỷ niệm gắn bó trong quá khứ.
Bởi chiến tranh, gian khổ đã là chất keo gắn kết tâm hồn những người đồng đội, đồng chí lại với nhau. Nhất là với những người luôn suy tư, trăn trở như Nguyễn Đức Mậu, nghĩ về đồng đội luôn là trách nhiệm và cũng là sự thôi thúc từ trong lương tâm của ông. Ông đau đáu về những người đồng đội đã hy sinh mà chưa tìm ra phần mộ, trong đó có nhà thơ Thâm Tâm:
Hơn bốn mƣơi năm chƣa tìm ra phần mộ
Hài cốt nhà thơ lạc ở nơi nào
Tôi hỏi núi, núi thắt vòng tang trắng
Tôi hỏi gió, gió rối bời lau xám
Hơn bốn mƣơi năm cây mục đá mềm
Xƣơng thịt con ngƣời lẫn vào cỏ dại
Tôi mong tìm một vuông đất có tên riêng
Có ai đó đã từng nói: “Khi bạn nhớ về ai đó là bạn đã dành cho người ấy một phần đời của mình rồi”. Như vậy, chắc chắn Nguyễn Đức Mậu đã dành trọn đời cho những người thân yêu, những bạn bè, đồng đội thân yêu:
Bạn bè, bao số nhà tôi nhớ,
Công việc nhiều ít gặp vẫn thƣơng nhau
(Hà Nội, chiều nay...)
Thơ ca viết về tình bạn xưa nay không phải là ít. Nhưng đọc thơ Nguyễn Đức Mậu ta vẫn nhận ra những sắc thái rất riêng. Kỷ niệm đẹp nhất trong trái tim mỗi người lính vẫn là những kỷ niệm về tình đồng đội. Tự nguyện gắn mình với cuộc chiến đấu của dân tộc, người lính đã đi trong cuộc hành trình chiến đấu gian khổ, trong hành trình đó, họ đã có biết bao kỷ niệm vui buồn. Ngày tấn công thần tốc vào thành phố Sài Gòn, Nguyễn Đức Mậu đã ghi lại phút giây vội vàng, thực mà thơ, vất vả nhưng vẫn vui của người lính:
Sáu ngƣời khiêng một cáng thƣơng binh
Lối mòn bốn mƣơi độ dốc
Thay nhau đi pháo sáng chập chờn
Đƣờng lên đèo dốc dựng, mƣa trơn
Chiếc đòn khênh lừa qua vách đá
64
Võng bết đất trách bàn chân vấp ngã
Chỗ bạn nằm mƣa rơi nhiều hơn.
(Trường ca sư đoàn)
Tình đồng đội là như thế: người khiêng cáng thương người nằm trong cáng, người nằm trong cáng lại thương người khiêng cáng. Tình cảm ấy thật chân thành, chất phác và đôn hậu.
Tình cảm của nhà thơ được thể hiện ở những lo lắng rất đời thường
cho bạn của mình khi mùa lũ đến:
Bao giờ cho cơn lũ đi qua
Trên tƣờng ngấn nƣớc phù sa rút dần
(Nhà bạn bên cầu Chương Dương)
Câu thơ như một lời nói thường, không có chút gì dụng công nghệ thuật mà vẫn neo lại trong lòng người đọc nhờ sức nặng của sự chân thành trong tình cảm.
Nguyễn Đức Mậu còn chia sẻ cảm giác cô đơn với người bạn đón tết
một mình:
Căn phòng cô quạnh, chiếc bình đầy hoa
Một mình tha thẩn vào ra Ngẩn ngơ cái ấm pha trà lạnh tanh ... Giá chuông điện thoại reo lên Giá ai gõ cửa trong đêm giao thừa Nhƣng không, chỉ ngọn gió đùa Ra đƣờng lại gặp ngƣời chƣa biết mình (Gửi người đón tết một mình)
Nguyễn Đức Mậu là thế đó: giản dị và chân thành, yêu thương sâu sắc những người xung quanh bằng tình yêu thương mộc mạc mà sâu nặng. Không một chút cầu kỳ, ông hiểu tâm sự của họ và chia sẻ, phấp phỏng cùng họ như đó là tâm sự của chính mình.
Với cả một người bạn phía bên kia chiến tuyến, khi chiến tranh đã qua
đi, họ ngồi lại cùng nhau, Nguyễn Đức Mậu cũng thật chân thành:
65
Ồ cốc bia chúng ta cầm tay Không phải là trái mìn chớp nổ Và xúc xích, khoai tây, đồ hộp trên bàn Không phải là những cỡ đạn sát thƣơng
Và không gian âm nhạc êm đềm Không có tiếng rú gầm sắt thép
(Với một nhà thơ Mỹ)
Có nhiều tình huống thật éo le mà xúc động, đau đớn:
Ta may mắn đƣợc chia đất
Nhớ hôm đào móng dựng nhà
Gặp hài cốt bạn ta khóc
Ngƣời chết nói gì cùng ta
(Tâm sự)
Viết về những người đồng đội đã ngã xuống, Nguyễn Đức Mậu muốn người đọc hiểu và nhớ được rằng sự hy sinh của các anh là cả một quá trình lâu dài lăn lộn trong chiến đấu gian khổ chứ không phải khoảnh khắc chiến đấu và ngã xuống nhất thời. Những dòng thơ chân thành, xúc động của Nguyễn Đức Mậu chính là tấm bia bằng thơ ghi công đồng đội đã hiến dâng cả tuổi trẻ, tính mạng của mình cho độc lập, tự do của đất nước.
Nguyễn Đức Mậu luôn sống chân thành, có trách nhiệm. Ông chưa
bao giờ thờ ơ với số phận của những người xung quanh:
Ơi thành phố tổ ong số phận
Có ngƣời bới rác kẻ buôn vàng
Ông lão ngồi cân cuộc đời nặng nhẹ
Đứa trẻ đánh giày cơ nhỡ lang thang
(Người bán chổi)
Ông đau nhói lòng khi chứng kiến số phận của người bán chổi mù loà giữa nơi phố phường nhộn nhịp, xót thương cho thân phận của một người hát rong.
Trước kia, khi chứng kiến đồng đội hy sinh, nỗi đau đớn như cào xé tâm hồn Nguyễn Đức Mậu. Nay, nhìn những con người cô đơn và lẻ loi ra đi, trái tim ông thắt lại. Vẫn là sự đau đớn của mất mát đó thôi nhưng dường như những cảm xúc ngày hôm nay ở một cung bậc khác, nó lặng lẽ mà thấm thía vô cùng:
Ông lặng lẽ ra đi. Cây bút vẽ khô cong, chiếc bình rạn nứt.
(Ông lão nghệ nhân)
66
Ngƣời chèo đò đã khuất rồi
Bơ vơ bến cũ mồ côi con đò
(Người lái đò)
Ta còn bắt gặp trong thơ Nguyễn Đức Mậu nỗi xót xa đến lặng người
trước những mất mát hy sinh không gì bù đắp nổi:
Chiến tranh đã tắt từ lâu
Cau vàng trái rụng, giàn trầu héo hon
Nửa đêm gió lạnh trăng mòn
Có ngƣời nghe tiếng ru con ... khóc thầm
(Người ấy)
67
Hình tượng con người được khắc họa trong cuộc sống hoà bình hôm nay ở mỗi trang thơ Nguyễn Đức Mậu đều là những người bình dị, có tình cảm sâu sắc, nồng nàn, biết hy sinh. Qua đó, chúng ta càng khẳng định được rằng tiếng nói yêu thương chính là một nét phong cách riêng biệt của hồn thơ Nguyễn Đức Mậu - một hồn thơ đôn hậu, đằm thắm.
Chƣơng 3:
Nghệ thuật biểu hiện
trong thơ Nguyễn Đức Mậu
Nguyễn Đức Mậu luôn đứng cạnh các nhà thơ tên tuổi cùng thời như Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy… nhưng thơ ông không bị lẫn vào đó. Bởi ông biết xây dựng hình tượng bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị, các hình ảnh chân thực, giàu cảm xúc… vừa mang “chất lính”, vừa đậm màu sắc đời thường. Chính những điều đó đã tạo nên một giọng điệu thơ ca đa dạng, một phong cách mang bản sắc riêng không thể lẫn trong nền thơ hiện đại. Để lý giải sâu hơn về cách xây dựng hình tượng của thơ ông, chúng tôi đi vào một số đặc điểm nổi bật của các yếu tố thể loại, giọng điệu, các biện pháp nghệ thuật. Qua đó khẳng định thêm giá trị của thơ Nguyễn Đức Mậu.
1. Thể thơ
Thơ ca là hình thức độc đáo của văn học ở cơ chế vận hành bộ máy ngôn ngữ. Từ thời cổ - cận đại, các học giả vĩ đại như Aritôt, Điđơro đã bàn nhiều đến các vấn về của thơ ca. Sự phong phú của ngôn ngữ thơ ca Việt Nam về mặt thanh điệu, nhịp, hình ảnh thơ… đã tạo cơ sở để hình thành nhiều thể loại thơ giàu năng lực, biểu hiện. Thơ Nguyễn Đức Mậu đã phát huy tối đa về mặt hình thức thể loại với nhiều thể thơ: thơ cổ truyền dân tộc (lục bát), thơ tự do, thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ, trường ca.
Bảng thống kê khảo sát các hình thức thể loại thơ Nguyễn Đức
Mậu
5 chữ
6 chữ
7 chữ
8 chữ
Tự do
4 chữ
2 bài 2 bài 1 bài 1bài 1bài
Lục bát 5bài 3bài 4bài 8bài 2bài 9bài
5bài 5bài 4bài 5bài 4bài 5bài 3bài 8bài 3bài 4bài 7bài 5bài 6bài 13bài 10bài 7bài 11bài 14bài
Tổng số 19bài 30bài 25bài 26 bài 25bài 34bài
Thể thơ Tập thơ Thơ ngƣời ra trận Cây xanh đất lửa Mƣa trong rừng cháy 2 bài Hoa đỏ nguồn sông Bão và sau bão Cánh rừng nhiều đom đóm bay
2 bài (1,25%)
5 bài (3,14%)
2bài (1,25%)
31bài (19,5%)
28bài (17,6%)
30bài (18,9%)
61bài (38,4%)
159bài (100%)
68
1.1. Thơ lục bát
Trong các thể loại thơ truyền thống thì thơ lục bát có một vị trí quan trọng. Cấu tạo và nhịp điệu câu thơ lục bát Việt Nam mang tính chất độc đáo. Trên nền của thanh bằng câu thơ lục bát có âm hưởng trữ tình ngân vang, khi dìu dặt tha thiết, khi trong sáng vui tươi. Câu thơ lục bát giàu nhạc tính, thể thơ này có ưu điểm lớn để diễn tả nội dung tư tưởng thuần nhất, rất thích hợp trong việc diễn tả tình cảm. Bên cạnh những ưu điểm như trên đã nói, thể lục bát có những hạn chế trong việc biểu hiện cái quyết liệt sôi nổi của hiện thực khách quan. Chẳng hạn thơ Nguyễn Đức Mậu hay đề cập đến cuộc sống chiến tranh bề bộn bom đạn ác liệt. Vì vậy những mảng hiện thực ấy gặp khó khăn khi đưa vào thơ lục bát. Thể thơ này thích hợp để diễn tả cảm xúc trữ tình thuần nhất hơn là chất suy tư chính luận.
Chúng tôi đã khảo sát được 31 bài lục bát trên tổng số 159 bài thơ ở các tập. Như vậy, thơ lục bát chiếm 22,6%. Có thể nói thơ lục bát của Nguyễn Đức Mậu cũng có những thành công nhất định, có được nét riêng.
Trong 39 bài lục bát được tuyển chọn có những bài khá dài như: Câu thơ tìm ở hồ sâu, Lời tâm tình, Nói với con, Dọc miền quan họ… (từ 40 câu trở lên). Những bài có độ dài trung bình như: Những cô gái mở đƣờng và bầy chim núi, Rƣợu cần, Nhà bạn bên cầu Chƣơng Dƣơng, Gửi ngƣời đón tết một mình (28 - 40 câu). Và những bài ngắn (từ 26 câu trở xuống): Khúc cảm, Suối mát, Hoa gửi em, Không đề, Thƣ những ngày xa.
Thơ lục bát Nguyễn Đức Mậu thường ít khi có sự phá cách, ngắt nhịp
khác với truyền thống (2/2/2; 4/2). Thơ ông thường ngắt nhịp chẵn:
Thƣơng vầng trăng khuyết đêm đêm Không gian vời vợi nỗi niềm nhớ nhau Thƣơng loài hoa muộn rừng sâu Mong manh cánh mỏng có màu nắng mƣa. (Thư những ngày xa) Chỗ sáng tạo của ông lại là hình ảnh thơ; ông thường có những liên
tưởng thú vị, độc đáo:
69
Cho tôi gọi đó là em Hỡi hình vũ nữ của miền xa xƣa Thuở đấy chƣa hóa rừng già
áo nâu lam lũ tìm ra đền đài (Nghìn năm tuổi đá) Chính nhịp thơ chẵn ấy đã tạo cho Nguyễn Đức Mậu một giọng thơ
đằm thắm yêu thương:
Chân đi khắp nẻo đƣờng mòn Cha thƣờng mƣờng tƣợng ngày con ra đời ồ con còn ở trong thai Yêu thƣơng đã có hình hài sớm hôm
(Nói với con)
Thỉnh thoảng lắm, Nguyễn Đức Mậu mới có sự thay đổi nhịp điệu
trong câu thơ:
Trời xanh: áo mỏng vừa thay Từ xuân qua Tới xuân này tròn năm
(Gửi bạn đầu năm)
Có lẽ chính vì sự đằm thắm, mượt mà, tình cảm của thơ lục bát cho nên ông hay dùng thể lục bát để tâm sự, để gửi gắm tình cảm của mình với những người thân yêu. Ngay cách đặt tên bài thơ cũng đã nói lên điều ấy: Khúc cảm, Dâng mẹ, Hoa gửi em, Ngày con ra đời, Lời tâm tình,…
Thơ lục bát Nguyễn Đức Mậu rất phù hợp với đạo đức, tình cảm, nếp
cảm, nếp nghĩ của người Việt Nam.
1.2. Thơ tự do
Cùng với việc sử dụng thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, Nguyễn Đức Mậu sử
dụng kiểu thơ tự do có sự kết hợp của nhiều thể.
Thể thơ này không bị ràng buộc về số lượng câu chữ. Số câu chữ hình thành do nội dung và chịu sự quy định của tình cảm. Trong thời hiện đại, thơ tự do rất năng động, dễ dàng đi vào ngõ ngách của đời sống tâm hồn con người. Nằm trong dòng chảy chung của thơ tự do giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ là tăng cường chất chính luận và tư duy thơ vượt ra khỏi những rung động trực tiếp đến luận bàn, phân tích và triết luận, thơ Nguyễn Đức Mậu giàu chất sống thực tế, đậm chất chính luận, suy tưởng có sức lắng đọng cao, mạch thơ phóng khoáng, tứ thơ dào dạt:
70
Vì những vết thƣơng trên mình mẹ bầm đau Chúng con hành quân qua mùa khô oi nồng, mùa mƣa ẩm ƣớt
Ngàn cây số đƣờng rừng chân bƣớc mòn trăm dốc Đội ngũ điệp trùng khắp núi Trƣờng Sơn.
(Tổ quốc)
Các đoạn trong bài vừa có cả tả, vừa có cả bình như: Nấm mộ và cây trầm, Ghi ở chiến trƣờng, Anh Pa-thét Lào ngủ trong chum đá, Nói về cánh cò… Kiểu phối hợp này không chỉ giúp cho hình tượng thơ tự nhiên như vốn có ngoài đời mà còn làm cho cuộc sống hiện lên cụ thể, sinh động, lời thơ đậm chất trữ tình ngay cả trong những hình ảnh tưởng chừng như chẳng thơ chút nào.
Lính xe tăng tóc đỏ, áo nâu
Một vũng hố bom ngày mấy lần cạn nƣớc
Bữa cơm gạo trắng đổi mầu
Chiến dịch lớn bắt đầu:
Tuổi quan lớn theo mùa súng nổ.
(Ghi ở chiến trường)
Những hình ảnh chẳng thơ chút nào ấy chính là hiện thực khắc nghiệt
của chiến trường.
Họ nằm bên xác ngƣời đã khuất
Nƣớc mắt lƣng tròng nối với bƣớc xung phong
Họ lật xác thù
Tìm nƣớc uống, lƣơng khô…
(Trường ca sư đoàn)
Một điều đáng lưu ý trong thơ tự do của ông là độ dài của dòng thơ. Có dòng thơ chỉ có 2 chữ, có dòng thơ lên tới 14 chữ. Sự có mặt của các chữ, tùy thuộc vào nội dung cảm xúc của chủ thể. Việc mở rộng số chữ vừa tạo cho bài thơ hình thức mới, vừa biểu hiện tốt tình cảm của nhà thơ.
Mùa xuân, có đốm lửa từ đâu đó nhóm lên
Những đụn khói đốt đồng của đám trẻ chăn trâu,
những thuyền chài đỏ lửa
Riêng mắt em lạc vào ta nhƣ đốm lửa nhiệm màu, ngôi sao lạ
Trái tim ta có khi là đĩa dầu dễ bén, có khi nhƣ tảng đá ven đƣờng
(Tam khúc mùa xuân)
71
Như vậy, tâm hồn trẻ trung, phóng khoáng, sức suy nghĩ dồi dào của Nguyễn Đức Mậu tìm đến thể thơ tự do như một đòi hỏi tất yếu. Vì vậy, nó đã đem đến cho thơ Nguyễn Đức Mậu những vẻ đẹp và giá trị riêng.
1.3. Thơ văn xuôi
Từ trước đến nay, chúng ta thường hiểu thơ văn xuôi là: “một trong ba hình thức cơ bản của thơ xét về phương diện tổ chức ngôn ngữ, là loại sáng tác dùng văn xuôi để biểu hiện một nội dung tư tưởng, tình cảm đầy chất thơ”. Trên thực tế sáng tác, thơ văn xuôi phát triển có phần chậm chạp và thưa vắng hơn các thể thơ cách luật và thơ tự do. Thơ văn xuôi đòi hỏi người viết phải biết chọn lọc những hình thức phô diễn thích hợp. “Viết thơ văn xuôi cần phải nắm vững nhịp điệu, tiết tấu của câu thơ dài rộng phá thể, và phải tinh vi nghe được cái nhạc bên trong của câu thơ: khi nhạc ấy không thể hiện ra những vần mà lỗ tai cảm thấy ngay thì nó lại càng phải dồi dào, đầy căng như nhựa mật của trái làm nứt vỏ” (Xuân Diệu).
Trong sự vận động của thơ Việt Nam hiện đại, thơ văn xuôi đã có những bước chuyển mình đáng kể, có mặt trong sáng tác của hàng loạt các nhà thơ trẻ thế hệ chống Mỹ. Trong sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, thơ văn xuôi cũng được sử dụng, được người đọc chấp nhận và đạt những giá trị nghệ thuật nhất định.
Chiến tranh đã qua đi nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc đời của những người lính đã từng tham gia trận mạc. Những hồi ức đau thương, những thực tế dữ dội của chiến tranh luôn ám ảnh họ. Bài thơ Cánh rừng nhiều đom đóm bay đã miêu tả cái tâm thế đó bằng những hình ảnh rất cụ thể. Không gian của bài thơ là một góc rừng Trường Sơn thời chiến tranh chống Mỹ, thời gian chỉ trải dài trong một ngày đêm, nhân vật trữ tình là người lính trong một đơn vị hành quân qua khu rừng… Tất cả những cảnh huống ấy phải đòi hỏi một hình thức thể hiện thích hợp:
72
Đêm. Đơn vị dừng chân trong sâu hút cánh rừng. Có tiếng nƣớc ai đào dƣới dòng suối cạn. Múc nƣớc lên, chúng tôi uống trong cơn khát cháy khô vòm họng. Nƣớc ngọt mát râm ran cơ thể cỗi cằn. Chúng tôi đâu biết lòng giếng có xác ngƣời chết. Đêm mịt mùng, cánh rừng nhiều đom đóm bay, những sợi mỏng chập chờn nhƣ ảo giác.
Tôi rời võng khoác súng vào phiên gác. Khi bƣớc giữa hàng cây tối đen, tôi vấp phải vật gì mềm nhũn, một mùi tanh lờm lợm xông lên. Có lẽ xác một con hoẵng trúng bom? Tôi mệt mỏi nghĩ thầm. Hết phiên gác tôi ngủ vùi trong võng. Đom đóm rơi đầy giấc mơ của lính. Tôi đang ngủ, đang mơ, tôi nào hay bên những gốc cây bầy mối đục mòn đêm trên những xác ngƣời?
Sáng. Tổ anh nuôi múc nƣớc nấu cơm và hoảng hốt nhận ra xác hai cô gái. Tiểu đội tôi sục vào các hốc đá, lùm cây, tìm thấy xác ba chàng trai nữa. Chúng tôi đắp năm ngôi mộ không ngày sinh ngày mất, không họ tên, không địa chỉ thôn làng. Nhìn những cuộn dây điện, những chiếc máy bộ đàm im lặng. Chúng tôi đoán họ là lính thông tin bị giặc chặn đƣờng.
Chiến tranh lùi xa, con đƣờng mòn Trƣờng Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái giếng nƣớc hoà máu ngƣời tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp bằng nỗi đau và nƣớc mắt. Nơi cánh rừng nhiều đom đóm bay.
(Cánh rừng nhiều đom đóm bay)
Cũng chính bài thơ văn xuôi này với những giá trị nghệ thuật đã được thẩm định góp thêm phần khẳng định tài năng, đóng góp, dấu ấn riêng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
1.4. Trường ca
“Bản thân thi liệu của cuộc sống cùng với nội dung, tính chất hiện thực của đời sống buộc nhà thơ phải tìm đến một phương thức thể hiện tương ứng của nó. Từ sau năm 1975, nhiều nhà thơ trẻ đã tìm đến với thể loại trường ca” [50; 376]. Nguyễn Đức Mậu cũng đã dùng trường ca để tổng kết chiến tranh, phản ánh những bức tranh hiện thực rộng lớn của cuộc kháng chiến như: Trƣờng ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo. Chính vì dung lượng đồ sộ với cảm hứng mãnh liệt, mang đậm chất sử thi, nội dung hoành tráng, âm điệu hào hùng, có khả năng ôm chứa nhiều hình thức thể loại khác nhau, nên hai bản trường ca sử dụng rất nhiều thể loại thơ khác nhau : thơ lục bát, thơ tự do…
73
Tính chất tổng hợp của Trƣờng ca sƣ đoàn, Trƣờng ca Côn Đảo không chỉ ở phương thức thể hiện, ở liên tưởng đa dạng phong phú mà còn ở sự biến hóa linh hoạt của câu thơ cùng với một ngôn ngữ thơ đa giọng điệu.
Người đọc không rơi vào cảm giác nhàm chán khi đọc Trƣờng ca sƣ đoàn nhờ câu thơ liên tục thay đổi, giọng thơ không rơi vào độc thoại cảm xúc một chiều. Chúng ta có cảm giác thú vị đôi khi quên đi hình thức của câu thơ, chăm chú theo dõi diễn biến của tình cảm, cảm xúc mà không nghĩ rằng chính sự thay đổi hình thức tạo nên điều đó. Các thể thơ dân tộc như lục bát, bảy chữ, năm chữ, được đặt cạnh các thể thơ hiện đại khác như thơ tự do, thơ văn xuôi, tạo không khí riêng cho từng đoạn, từng khúc và cho cả trường ca.
ở Trƣờng ca sƣ đoàn, thơ lục bát được dùng ở những khúc tâm tình, những khúc hát ru, những suy tư về nhân dân, đất nước, về những điều gần gũi thân thương… thể thơ 4 chữ, 5 chữ lại thường dễ diễn tả hành động khẩn trương, những nhịp gấp của cảm xúc. Thơ tự do, thơ văn xuôi biến đổi linh hoạt khi thì để kể chuyện, khi lại diễn tả cảm xúc.
Dòng thơ đầu tiên trong Trƣờng ca sƣ đoàn là lời thủ thỉ tâm tình được viết bằng những câu lục bát. Khúc tâm tình là dòng tâm sự lắng đọng của nhà thơ như một hành động trả nghĩa cho sư đoàn đã cưu mang mình, đất nước che chở mình suốt những năm tháng gian nan. Và cũng là để được sống lại thuở hai mươi đầy sức trẻ:
Là cây tôi biết nhớ rừng
Là con nƣớc chảy nhớ dòng nƣớc sâu
Tuổi hai mƣơi tôi ở đâu
Nhớ chăng cái thuở ban đầu ra đi
Câu thơ lục bát ngọt ngào tình nghĩa còn xuất hiện thành khúc dài: Lục bát đƣờng rừng, cả những khúc ca về tình yêu người lính trong năm tháng chiến tranh và một phần khúc hát ở chương cuối. Trường ca của Nguyễn Đức Mậu lúc nào cũng đầy ắp sự kiện, đầy ắp diễn biến căng thẳng. Những câu thơ lục bát xuất hiện đan xen trong tác phẩm làm dịu đi không khí ấy. Người đọc thấy đỡ căng thẳng hơn nhờ âm hưởng nhịp nhàng, nhà thơ đôi khi cũng được thoát khỏi dòng sự kiện để đến với cảm xúc một cách tự nhiên hơn :
Có khi mƣa xối rừng xanh
Mà anh thấy nắng ngọt lành phƣơng em
Có khi khoảnh khắc bình yên
74
Mà anh nghe tiếng bom rền em qua
Bên cạnh đó, nhiều đoạn thơ năm chữ khỏe khoắn, làm bật khí thế
hành quân ra trận đầy anh dũng của người lính:
Không có mũ: đội trời
Không dép giày: đạp đất
Ba lô chƣa kịp phát
Gói võng làm ba lô
Hay những cơn khát đầy kịch tính vào mùa mưa năm 1972 :
Nƣớc trộn mùi chuột chết
Hôi hám mùi phân ngƣời
Mƣa nhiều khát vẫn khát
Nhịp thơ nhanh, gấp như những thước phim, nhà thơ đã tạo được ấn tượng hùng mạnh của đoàn quân ra trận, bao đau thương địch đã reo rắc cho dân tộc ta, những bước cản người lính gặp suốt dọc đường chiến đấu. Ngoài ra nhịp đều của thơ bảy chữ giúp Nguyễn Đức Mậu có được nội dung phản ánh mới trong một hình thức cũ.
Sự thay đổi liên tục câu thơ kéo dài theo hệ quả tất yếu là ngôn ngữ thơ cũng biến đổi. Là một bài thơ dài, trường ca sẽ rơi vào nhàm chán nếu chỉ sử dụng đều đều một giọng thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của các thể thơ không mất đi hơi thở dân tộc nhờ những thể thơ truyền thống nhưng vẫn hiện đại, mới mẻ nhờ những câu thơ tự do. Truyền thống và hiện đại, hiện thực nhưng giàu chất thơ, giàu chi tiết cụ thể mà vẫn khái quát là điểm cần ghi nhận ở trường ca của Nguyễn Đức Mậu.
2. Ngôn ngữ thơ
75
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki). Ngôn ngữ là công cụ trực tiếp của tư duy. Ngôn ngữ là chất liệu đầu tiên, không thể thiếu của những sáng tác văn chương. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn học là ngôn ngữ của nhân dân được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của các nhà văn nên ngoài tính nhân dân, ngôn ngữ còn mang dấu ấn chủ quan của nhà văn. Tuy nhiên, dù cùng là ngôn ngữ nghệ thuật nhưng ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi có những đặc trưng khác nhau. Trong thơ ngôn ngữ có những đòi hỏi khắt khe riêng, hàm súc, gợi tả, giàu nhạc điệu, giàu liên tưởng… Ngôn ngữ thơ được đánh giá là ngôn ngữ tiêu biểu nhất của ngôn ngữ văn học bởi những thuộc tính ấy tập trung cao độ với yêu cầu cao nhất của thơ ca.
Thơ trữ tình là tiếng nói của tình cảm, hình tượng thơ là hình tượng của cảm xúc. Một đặc điểm quan trọng phân biệt ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ thơ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu nên rất giàu nhạc tính. Đặc điểm này thể hiện rất rõ ở sự cân đối giữa các dòng thơ, sự trầm bổng trong các thanh điệu, sự trùng điệp ở vần điệu và các từ ngữ. Bên cạnh đó, độ dài của văn bản thơ đòi hỏi sức nén của nội dung trong câu chữ. Vì vậy, ngôn ngữ thơ bao giờ cũng cô đọng, hàm súc. Đặc điểm này đòi hỏi sự lao động sáng tạo nghiêm túc của nhà thơ để ngôn ngữ thơ mang thêm nhiều ý nghĩa mới. Cũng giống như tất cả các thành tố cấu tạo nên một tác phẩm, ngôn ngữ thơ luôn luôn vận động, biến đổi cùng thời gian. Có những từ ngữ bị mất đi, có từ ngữ được dùng theo nghĩa khác, có những từ kết hợp mới được ra đời phù hợp với lối tư duy mới.
Nhìn vào lịch sử thơ ca, ta thấy, ngôn ngữ thơ có sự vận động qua một hành trình khá dài. Từ ngôn ngữ hồn nhiên, dân dã trong ca dao đến ngôn ngữ mang tính quy phạm của thơ trung đại, ngôn ngữ thơ ca có sự cách tân nhảy vọt khi bước vào thời kỳ hiện đại. Ngôn ngữ thơ của phong trào Thơ Mới đã phá vỡ những quy tắc ràng buộc để cảm xúc tràn ra câu chữ. Nhưng Thơ Mới chưa nối lại được chất hồn nhiên, gần gũi, đậm đà của thơ ca dân gian. Sau cách mạng Tháng Tám, thơ ca Việt Nam có sự thay đổi cơ bản và quan trọng. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Ngôn ngữ thơ ca trút bỏ những khuôn sáo, những hoa mỹ bóng bẩy và trở nên khoẻ khoắn, gần gũi với ngôn ngữ đời sống. Nhờ đó ngôn ngữ thơ ca được trở về với cội nguồn đích thực của nó. Được đánh giá là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ngôn ngữ thơ Nguyễn Đức Mậu vừa nằm trong dòng chảy chung của ngôn ngữ dân tộc vừa có những đặc điểm rất riêng mang dấu ấn phong cách của nhà thơ.
Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Đức Mậu nằm trong khuynh hướng chung của nền thơ hiện đại Việt Nam. Đó là khuynh hướng đưa ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn ngữ đời sống.
76
Với sứ mệnh thiêng liêng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, các nhà thơ kháng chiến đã đưa thơ ca trở về với đời sống thường nhật. Sự cầu kỳ, khó hiểu sẽ là không phù hợp với một thời đại như thế. Thơ điệu nói đã mở đường cho lời văn xuôi, chất văn xuôi tràn vào thơ. Khi ngôn ngữ đời sống hàng ngày được đưa nhiều vào thơ, tính cổ điển của
ngôn ngữ thơ ca mất dần, đưa thơ về gần với cuộc sống, trở thành tiếng nói trực tiếp của quần chúng nhân dân. Nguyễn Đức Mậu đã có những đóng góp quan trọng cho đặc điểm ngôn ngữ thơ ca thời kỳ ấy. Ngôn ngữ thơ ông giản dị, mộc mạc, gần với đời sống, gần câu nói thường ngày. Đặc điểm này bộc lộ rõ ở hệ thống từ ngữ đời thường và cấu trúc câu thơ gần với câu thơ văn xuôi.
Khảo sát các tập thơ của Nguyễn Đức Mậu, ta bắt gặp rất nhiều những hư từ, quán ngữ vốn được sử dụng nhiều trong cuộc sống thường ngày. Đó là những phụ từ, quan hệ từ: hơi, đã, cứ, để, mà, thì, là, nào… những quán ngữ: hoá ra, vẫn là, đến nỗi… chính nhờ hệ thống từ ngữ này mà thơ ca trở nên gần gũi với lời nói, thể hiện sự chân thành của cảm xúc. Sau này, độc giả có thể quên nhiều bài thơ, câu thơ của Nguyễn Đức Mậu nhưng hình ảnh cô gái bộ đội phá bom sẽ còn đọng mãi bởi chính cách dùng từ đó của tác giả:
Nơi em ở nhiều bom đến nỗi
Em phá bom nhƣ việc cấy cày thôi
(Nơi em ở nhiều bom đến nỗi)
Thơ Nguyễn Đức Mậu là thơ của một người lính, thơ viết giữa chiến trường. Vì thế, ngôn ngữ thơ ông không chỉ gần gũi với đời sống sinh hoạt mà còn mang đậm chất lính. Sự khoẻ khoắn, tự nhiên cũng là một đặc điểm khá đậm nét của thơ ông. Ông đã đưa vào thơ mình mọi tên gọi thông thường của vật liệu, kỹ thuật công tác ngổn ngang ngoài mặt trận, làm cho thơ ông bật ra tự nhiên, không mất công sức gọt rũa:
- Hòm đạn ngả xuống vai ngƣời bốc vác
Xe pháo ì ầm
Xẻng cuốc thức thâu đêm
Cần ăng – ten lẫn vào cây cỏ
Máy bộ đàm phát sóng truyền tin
(Trường ca sư đoàn)
- Một ngày bảy mƣơi lần máy bay oanh tạc
Bom tấn, bom trùm, bom phá, bom hơi
(Công sự trên đỉnh cao)
77
Ngôn ngữ đời thường, giản dị, tự nhiên trong thơ Nguyễn Đức Mậu không chỉ được thể hiện qua lớp từ ngữ của phong cách sinh hoạt mà còn thể hiện qua sự gia tăng của chất văn xuôi trong ngôn ngữ thơ. Chính chất văn xuôi đã đưa thơ đến gần với đời hơn và có thêm những sắc thái tươi mới. Ta có thể thấy, ở nhiều bài thơ, thơ Nguyễn Đức Mậu mấp mé văn xuôi nhưng vẫn ở bên này ranh giới thơ, vẫn chan chứa ý tình, vẫn tha thiết sâu lắng. Câu thơ của ông được tổ chức dưới dạng điệu nói, dưới hình thức câu trần thuật, câu đối thoại. Song nét riêng của ngôn ngữ thơ Nguyễn Đức Mậu có vai trò như là một yếu tố tiêu biểu tạo nên phong cách thơ ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn của sự giản dị, mộc mạc với những tình cảm sâu lắng. Không chỉ là những từ ngữ bụi bặm của đời sống chiến trường, ngôn ngữ thơ Nguyễn Đức Mậu uyển chuyển, mềm mại, ẩn chứa những tình cảm tha thiết, trìu mến. Nhà thơ đã dụng công đưa vào thơ một lớp từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Vì vậy dù là dưới dạng trần thuật, hay đối thoại, thơ ông vẫn rất chứa chan, sâu lắng. Những câu thơ kể về quá trình xa nhà của Cô tôi như những giọt buồn lắng đọng lại trong tâm tưởng người đọc:
Nhƣng một lần
Sau ba mƣơi năm
Cô tôi dẫn đàn con về chào họ hàng
Đàn con xƣa giờ lớn khôn rồi
Trong ngôi nhà khói nhang quạnh quẽ
Chúng lớn cùng nỗi đau khổ của cô tôi
Cùng đàn con vòng quanh xóm mạc
Cùng đàn con nhận mộ ông bà
Nén hƣơng cháy lặng thầm trên cỏ rối
Cô tôi lặng thầm chiếc bóng mờ xa
Không chỉ thành công trong việc sử dụng từ ngữ của cuộc sống đời thường và kiểu câu trần thuật với sự gia tăng của chất văn xuôi, Nguyễn Đức Mậu còn làm bạn đọc ngạc nhiên bởi chất đối đáp hô ứng trong ngôn ngữ. Kiểu câu có cấu trúc đối thoại được sử dụng khá nhiều trong thơ ông:
Con nƣớc xoáy, dòng sông đầy đạn nổ
Chớp lửa loé ngang mặt nƣớc, mặt ngƣời
78
Những giọng nói bồng bềng sóng vỗ
- Bom toạ độ!
- Cậu bám vào vai tớ!
- Khẩu súng mày đâu?
- Nƣớc cuốn rồi…
Sóng oà theo hòng nuốt lấy lời
(Trường ca sư đoàn)
Những câu gọi đồng đội bị bom vùi sẽ còn vang vọng mãi:
ở đây công sự đào không sâu
Để khi bom vùi còn bới đất tìm nhau
Chiếc mũ sắt nhiều lần thay xẻng
- Nền ơi ở đâu?
- Kháng ơi ở đâu?
Những Nền, những Kháng, những Bường, những Hùng – những cái tên đồng đội đã hy sinh đi vào thơ Nguyễn Đức Mậu tự nhiên và giản dị như tình cảm của người lính với nhau. Trong những câu thơ đó, chất chứa biết bao niềm đau, nỗi thương xót, sự trân trọng của Nguyễn Đức Mậu đối với sự hy sinh anh dũng của đồng đội mình:
Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc
Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng
…
Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm
Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá
Trận đánh trƣờng kỳ vắng Hùng tham dự
Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta
(Nấm mộ và cây trầm)
Ngay khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh, nhớ về bạn, viết về bạn, gọi nhau “mày”, “tao” như những ngày còn chung chiến hào, thơ Nguyễn Đức Mậu chan chứa một niềm xúc động chân thành:
Giá mày sống một giờ khi ngừng chiến tranh
Đạp xe cùng tao đến nhà bè bạn
Uống với nhau một cốc cà phê nóng
79
Đến Quảng trƣờng xem đất nƣớc duyệt binh
Chắc mày sẽ sung sƣớng lắm
Bởi tháng ngày mày sống
Bởi phút cuối cùng mày hy sinh
(Khóc một người đồng chí đã hy sinh)
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đức Mậu giản dị, mộc mạc nhưng nhà thơ
không chấp nhận sự đơn điệu:
Chữ và chữ ngôn từ nhiều nhƣ thóc, nhƣ cát
Mình thoả sức thả gieo trên giấy trắng mỗi ngày
Rồi lại xoá đi để những chữ vô hồn, những hạt thóc thui mầm,
những hạt cát mọc gai trong mắt…
(Thể nghiệm)
Nhà thơ luôn tìm tòi, lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng. Vì vậy, ngôn
ngữ thơ ông có sự tinh tế, giàu sắc thái biểu cảm, giàu tính sáng tạo:
áo con mẹ đã may rồi
Ƣớm vào trời đất hình hài trẻ thơ
(Người mẹ mang thai và đứa trẻ ra đời)
Ông có những liên tưởng thi vị độc đáo, giàu chất thơ:
Gió lùa đom đóm rừng sâu
Trong hầm nhấp nháy nhƣ bầu trời riêng
Thôi nằm nói chuyện triền miên
Tiếng gà kéo mảnh trăng liềm vào mây
(Nằm hầm)
Và ngôn từ sinh động còn thể hiện trong cách nhà thơ thưởng ngoạn
thiên nhiên, hình ảnh thiên nhiên hiện lên đẹp đẽ, bay bổng:
Có sƣơng trắng làm mây bay làm biển
Núi nhƣ cánh buồm qua cơn bão nằm chơi
Bầu trời rộng nghiêng mái nhà muôn thủa
Thiên nhiên trong xanh bầu bạn với con ngƣời
(Với thiên nhiên trong xanh)
80
Sự sáng tạo trong sử dụng ngôn ngữ đã khiến tác giả tìm đến với thủ pháp trùng điệp các đơn vị ngôn ngữ. Khai thác sức gợi, sức tả của ngôn từ qua việc tạo ra những nhịp cộng hưởng từ sự kết hợp, trùng điệp về mặt âm
thanh. Cảm xúc thơ ca trở nên sâu hơn, đậm hơn, tha thiết hơn trong hệ thống ngôn ngữ mềm mại, uyển chuyển. Đó có thể là tình cảm hồn nhiên mà cũng đậm đà của người lính xe thồ:
- Bánh xe thồ quay, bánh xe thồ quay
- Này cô gái làm đƣờng, cô gái làm đƣờng
- Này anh pháo binh, anh pháo binh canh trời
- Xe đi xuyên rừng, đi xuyên rừng
- Gặp dòng suối sâu, gặp dòng suối sâu
(Khúc hát của người lính xe thồ)
Đúng là ngôn từ không thể tự nó thành thơ. Chất thơ có được lại chính ở lòng người. Sự trùng điệp ngôn từ ấy khiến ta liên tưởng đến những vòng đều quay của chiếc bánh xe thồ, nó nhấn mạnh tâm hồn tươi trẻ của anh lính xe thồ “lứa tuổi hai mươi” trên con đường hành quân. Này là người, này là cảnh các anh gặp trên đường hành quân; người nào, cảnh nào cũng được nhắc đến tha thiết, sôi nổi như chính tâm hồn các anh.
Ngôn ngữ là thứ được chắt lọc, được bồi đắp từ hồn thơ rộng mở trước cuộc đời, cũng là cái gần với nếp cảm, nếp nghĩ, cũng gần với nhân cách của nhà thơ. Nhìn vào ngôn ngữ thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ta dễ nhận ra ngôn ngữ hiền hậu, bình dị của Nguyễn Duy, ngôn ngữ tinh tế, mang đầy tâm trạng của Xuân Quỳnh, ngôn ngữ đằm thắm thiết tha của Nguyễn Khoa Điềm. Và người đọc cũng nhận thấy một ngôn ngữ đời sống giản dị, mộc mạc, chân thành và chan chứa, lắng sâu của Nguyễn Đức Mậu. Sử dụng thành công thứ chất liệu có nhiều ưu thế này, Nguyễn Đức Mậu đã tạo dựng được cho mình một phong cách với những cách nói riêng, có sức hấp dẫn đối với bạn đọc.
3. Phƣơng thức chuyển nghĩa và sáng tạo tình ảnh.
Nguyễn Đức Mậu đã khai thác có hiệu quả khả năng thể hiện cảm xúc, tình cảm cũng như phản ánh hiện thực đời sống phong phú, phức tạp của ngôn ngữ thơ ca, đồng thời tạo được sự bất ngờ, thú vị đối với người đọc. Trong thơ Nguyễn Đức Mậu mở ra trước mắt người đọc những liên tưởng đằm thắm mà biết bao thú vị:
Đất phẫn nộ ném lên trời trăm tiếng nổ
81
Đất rung nghiêng ngả cây rừng.
Đồng đội nhìn mắt nhau gặp đất
Có sấm sét và một vùng chớp giật…
Nhƣng cứ đêm đêm những phút bình yên
Đất cƣời nói, đất phập phồng ca hát
Đất bồng bế chúng tôi trong chiếc nôi êm
Đất nắm ngủ nhƣ cuộc đời rất thực
(Đất)
Trước hết, liên tưởng là một đặc điểm chung của sáng tạo, của thể loại thơ ca và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Quy luật lớn nhất trong phát triển cảm xúc của thơ là liên tưởng. Chính nhờ liên tưởng, cảm xúc của người viết được mở rộng và trở nên đa dạng, phong phú hơn.
Trong thơ của mình, Nguyễn Đức Mậu sử dụng nghệ thuật liên tưởng để chuyển hóa, liên kết ý thơ và liên kết toàn bộ các phần. Liên tưởng giúp ông tạo được sự phong phú trong các hình tượng thơ đặc biệt là trong Trƣờng ca sƣ đoàn. Liên tưởng giúp cho kết cấu của trường ca thêm chặt chẽ, các hình tượng thơ rời rạc tưởng chừng không liên quan có thể gắn bó lại với nhau. Kết cấu của Trƣờng ca sƣ đoàn hẳn không theo trật tự nào, thường là theo cảm xúc. Có thể nhà thơ đang theo mạch trình tự thời gian lại hướng sang mạch tự sự, đang miêu tả chuyển sang bình luận, đang đối thoại chuyển sang độc thoại… nhưng người đọc vẫn hiểu được ý của tác giả nhờ sợi dây liên tưởng. Liên tưởng trở thành chất kết dính gắn các chương, các đoạn trong Trƣờng ca sƣ đoàn lại với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất từ những mảnh rời rạc.
Trƣờng ca sƣ đoàn của Nguyễn Đức Mậu có đường dây liên tưởng dựa vào lịch sử có thật của sư đoàn: từ bốn năm ở chiến trường C, qua thành cổ Quảng Trị khốc liệt, tới Trường Sơn để tiến vào thành phố. Từ đó chúng ta thấy rõ hơn tầm vóc của đất nước, của người lính trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Để rồi người lính hiểu rằng:
Đất nƣớc trải đắng cay cơ cực
Ngƣời cho tôi biết mấy ngọt lành
82
Cảm xúc của Nguyễn Đức Mậu về sư đoàn mình ùa lên trang giấy. Cảm xúc đồng hiện, khiến tác giả cùng một lúc đưa vào trong trường ca hàng loạt sự kiện. Sự kiện này gọi ra sự kiện khác để cùng lúc xuất hiện
trong trang thơ. Liên tưởng giúp thơ của Nguyễn Đức Mậu mở rộng được cảm xúc đa dạng và phong phú đồng thời vẫn giữ được bố cục chặt chẽ:
Từ mùa hạ trong xanh
Xác con ve lột vỏ
Từ mùa thu đầy gió
Hoa dẻ rừng thơm đêm
Từ mùa đông súng nổ
Đoàn quân đi trăm miền
Đến mùa xuân dồn nhựa
Cành mai vàng hoa lên…
(Mai vàng đất lửa)
Liên tưởng không chỉ giúp nhà thơ tạo được bố cục chặt chẽ mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng hình ảnh. Nhờ liên tưởng, Nguyễn Đức Mậu đã tạo dựng tầng lớp hình ảnh từ một cơ sở ban đầu. Có thể từ một sự vật cụ thể nhà thơ liên tưởng đến các khái quát, tượng trưng như :
Chiếc mũ sắt phòng không tôi thƣờng gặp
ở đỉnh đèo hay lăn lóc rừng hoang
Nhƣ nhân chứng một thời gửi lại
Nằm lặng yên trong viện bảo tàng
(Chiếc mũ sắt ở viện bảo tàng)
Từ suy nghĩ, cảm xúc chung liên tưởng đến cái cụ thể.
Ban tay anh in lên đất chiến hào
Thành ngôi sao nở xòe năm cánh đẹp
Trong lòng tôi sáng mãi: những ngôi sao
(Bàn tay biết đi)
83
Có khi là những liên tưởng trực tiếp, gián tiếp làm cảm xúc thơ thêm đa dạng. Liên tưởng trong thơ Nguyễn Đức Mậu có nhiều dạng. Nhà thơ thường xây dựng hình ảnh trên cơ sở liên tưởng tương đồng, liên tưởng trực tiếp và liên tưởng gián tiếp. ở những bài thơ sáng tác trong thời bình, Nguyễn Đức Mậu đã tái hiện lại cuộc chiến tranh, trí tưởng tượng đưa ông về với quá khứ. Giữa một không gian thực ở hiện tại, và một không gian
tưởng tượng trong quá khứ, nhà thơ hay liên tưởng đối lập để từ đó cảm xúc được khơi sâu thêm:
Đêm giao thừa bom trải dày điểm chốt
Mƣời hai lính trẻ hy sinh
Cành hoa đón xuân thành cành hoa tƣởng niệm
Nhƣ mây xót hoa rơi trên mồ bạn
Cả rừng Lào lã chã hoa rơi
(Kỷ niệm hoa đào)
Không gian, thời gian, quá khứ, hiện tại cùng lúc được mở ra. Sau khi sống qua bao tháng ngày gian nan cùng dân tộc, Nguyễn Đức Mậu càng thấm thía, càng thấu hiểu đất nước mình. Nhà thơ tự hỏi có nơi đâu như đất nước mình, để có một ngày vui hòa bình cả dân tộc phải đổi bằng 30 năm gian khó hy sinh. Liên tưởng đối lập thường dễ dẫn đến việc xây dựng hình ảnh thơ có tính chất tương phản:
Đã là lính chiến trƣờng tự biết Phải làm gì khi đơn vị đào sâu Đơn vị đào sâu Bớt gạo và mang thêm đạn Ngày nào tắc đƣờng thì ăn bốn lạng Súng no đạn diệt thù, cái đói cũng nguôi đi
(Ghi ở chiến trường)
Hình ảnh thơ đối lập giúp ta hình dung được hoàn cảnh gian khổ và ác liệt ở chiến trường, và cao hơn là niềm tin sắt đá, ý chí quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Liên tưởng đối lập được tạo dựng trên những trạng thái tương phản của cảm xúc, của hình ảnh, góp phần nâng cao cảm hứng sáng tạo.
Ngoài ra, nhà thơ cũng rất hay dùng liên tưởng tương đồng khái quát. Nhìn những chiếc võng tre ở rừng sâu “hai đầu cây bắc, cây nam”, Nguyễn Đức Mậu liên tưởng tới những cây cầu nối liền vết cắt bom đạn. Bao người ngã xuống đã lấy thịt da mình vá lành vết thương của đất:
84
Trong cuộc chiến này Triệu chiếc võng rừng sâu Làm những cây cầu Nối liền vết cắt
Da thịt ngƣời vá lành da thịt đất Trong khát khao của đất có ngƣời.
(Trường ca sư đoàn)
Thơ Nguyễn Đức Mậu rất hay có những liên tưởng như vậy. Tính chất tương đồng của liên tưởng rõ ràng đã có tác dụng mở rộng cho cảm xúc trong thơ của ông đa dạng hơn, phong phú hơn. Nhà thơ có cảm giác đi từ dòng cảm xúc này sang dòng cảm xúc khác mà vẫn đảm bảo tính lô gíc nhờ liên tưởng.
Chính vì vậy mà Nguyễn Đức Mậu có thể đi từ thế giới nội tâm sang thế giới ngoại cảnh, từ âm thanh sang hình ảnh, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình, dùng cách nói về giác quan này thay cho giác quan khác:
Chiều bớt lạnh hoa hồng nhen lửa ấm
Hoa cúc vàng thảng thốt cả trời thu
Khi ta đứng giữa ngày hoa tƣơi rói
Ran ríu quanh ta những tiếng giao mùa.
(Mỗi loài hoa nói gì với ta)
Không chỉ có hình ảnh con người mà ngay cả những cảnh vật cũng trở lên có hồn, sinh động, hấp dẫn nhờ được xây dựng bằng đường dây liên tưởng.
Nguyễn Đức Mậu sẽ không thể duy trì được cảm xúc cho thơ của mình nếu không tạo được những liên tưởng thú vị. Đằng sau mỗi liên tưởng chúng ta bắt gặp nhịp điệu khỏe khoắn của trái tim cùng suy nghĩ từng trải của người viết. Liên tưởng đa dạng góp phần làm cho thơ ông mở rộng cảm xúc, trở lên phong phú hơn. Ngược lại, nhờ có chiều sâu và tính chân thực của cảm xúc, mở rộng những liên tưởng làm cho chúng trở lên hợp lôgic, tạo được sức cuốn hút cho bạn đọc.
85
Bằng cảm xúc trữ tình mãnh liệt và khả năng tổng hợp khái quát cao, Nguyễn Đức Mậu đã tạo nên một hệ thống hình ảnh biểu tượng phong phú. Đó là hình ảnh mẹ, đất, biển, suối, sông, cát… nhằm thể hiện sức mạnh của nhân dân, của dân tộc trong thời đại chống Mỹ cứu nước. Hình ảnh người mẹ Việt Nam vừa là niềm an ủi, vỗ về, vừa là nguồn tiếp thêm sức mạnh cho những đứa con. Xây dựng hình ảnh người mẹ như là biểu tượng cho Tổ quốc, đất nước - một biểu tượng vừa gần gũi, thân thương và biết bao hùng
vĩ đó là tài năng, và sâu xa hơn, đó là tình cảm gắn bó máu thịt, là tình yêu thiết tha, sâu sắc nhất của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu với quê hương, đất nước.
Đất là một hình tượng được Nguyễn Đức Mậu xây dựng với nhiều lớp nghĩa biểu trưng đặc sắc. Trong thơ ông, hình tượng Đất có khi được chỉ những mảnh đất mà ông đã từng yêu thương, gắn bó như trong bài: Đất Thuận Vi, Mỗi loài hoa nói gì với ta,... nhưng làm nên đặc sắc, sức hấp dẫn của hình tượng này lại ở lớp nghĩa biểu tượng độc đáo của nó. Đất được hình dung với con người – một con người với cả dáng vẻ bề ngoài và nội tâm sâu sắc bên trong, một con người luôn trăn trở và suy nghĩ với những nỗi đau thầm lặng. Nguyễn Đức Mậu đã có những câu thơ thật giàu hình ảnh:
- Máu ngƣời lính ƣớt đầm ngực đất
(Chân dung II)
- Những mặt ngƣời hốc hác Nhƣ mặt đất khô gầy, xơ xác
(Trường ca sư đoàn)
- Da thịt ngƣời vá lành da thịt đất Trong nỗi đau của đất có con ngƣời
(Gửi sư đoàn cũ)
- Đất khắc khoải
Con ngƣời cần phải sống
(Trường ca sư đoàn)
Nguyễn Đức Mậu đã dùng hình tượng Đất để khắc họa sự hy sinh thầm lặng của đồng đội mình. Có khi là cách nói hình ảnh: “nắm đất”, “vuông đất”, “tấc đất”,… có khi là sự miêu tả: “máu người lính ướt đầm ngực đất”, “máu người lính trải dài trăm dặm đất”,… dù là sử dụng hình ảnh hay cách nói nào ta vẫn thấy một Nguyễn Đức Mậu chân thành trong cách diễn đạt, và nỗi đau về sự hy sinh mất mát được khắc họa rõ nét hơn bao giờ hết.
“Sự sống nảy mầm từ cái chết” - Không chỉ là biểu tượng cho nỗi đau mất mát, Đất còn là hình ảnh gợi mở một tương lai mới, một cuộc sống mới. Nguyễn Đức Mậu diễn tả trong thơ mình hình ảnh của những vùng đất mới với một tương lai đầy hứa hẹn:
86
- Vốc nắm đất lên vò nhàu lá cỏ tƣơi
Tôi choáng ngợp trƣớc luống cày mới mở
…
Nhƣng bóng tối quân thù sao phá nổi
Sức cuộc đời xé đất luống cày đi
(Cảm xúc mùa cày)
- Đƣờng biên giới mở vòng tay bè bạn
Mặt đất bình yên tiếng trẻ con cƣời
(Trường ca Côn Đảo)
- Mây trời lật từng trang giấy trắng
Mặt đất in đầy dấu chân trẻ con
(Trường ca Côn Đảo)
Đất là một hình tượng độc đáo và xuyên suốt các tập thơ của Nguyễn Đức Mậu, góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của ông - đó chính là sự chân thành trong cảm xúc nghệ thuật và sự giản dị trong cách biểu hiện, liên tưởng.
4. Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, một yếu tố thuộc phong cách nghệ thuật biểu hiện tài năng và nét đặc sắc riêng của từng nhà văn. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc” [20;134]. Trong lý luận văn học cổ phương Đông, chúng ta thường gặp những thuật ngữ: hơi văn, khí văn, điệu văn khi nói đến phong cách và giọng điệu của các nhà văn. Người xưa quan niệm, qua giọng điệu văn chương có thể đoán biết được khí chất của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quan niệm, những cách đánh giá có tính chất cảm tính. Với quan niệm hiện đại, giọng điệu trong văn chương được giới nghiên cứu quan tâm và xác định đó là một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nhà văn. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ, lập trường của chủ thể và có mối quan hệ đến các mô típ, hình tượng, cảm hứng chủ đạo, kiểu sáng tác.
87
Giọng điệu có vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học. Các yếu tố tư tưởng, hình tượng chỉ được cảm nhận trong một phạm vi giọng điệu cụ thể và nhờ đó mà người đọc thâm nhập vào thế giới tư tưởng của tác giả.
Các tác phẩm văn học có giá trị đều thể hiện giọng điệu đặc biệt, tiêu biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả.
Giọng điệu trữ tình chịu sự quy định của chủ thể trữ tình, cảm hứng chủ đạo và góc độ giao tiếp. Giọng điệu in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nghệ sĩ - vì cá tính sáng tạo là sự thể hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất của cái cá biệt chủ quan.
Thơ ca kháng chiến chống Mỹ cũng xuất hiện nhiều giọng thơ ấn tượng: Bằng Việt suy tư, Lê Anh Xuân ngọt ngào, Xuân Quỳnh sôi nổi chân thành,… và Nguyễn Đức Mậu mộc mạc, giản dị nhưng cũng không kém phần lắng đọng, suy tư, giàu tính triết lý.
Khi vừa xuất hiện, thơ Nguyễn Đức Mậu lập tức trở thành một hiện tượng độc đáo, đặc biệt “một điệu thơ khác các điệu thơ khác”, qua từng thời kỳ, giọng điệu thơ ấy thể hiện nhất quán mà biến hóa, thống nhất mà đa dạng.
Không phải chỉ là quan niệm “Thơ là tiếng nói bên trong, tiếng nói tâm hồn với chính nó”, thực tế sáng tác của Nguyễn Đức Mậu cho thấy thơ ông là tiếng nói thầm với chính ông. Giọng điệu thơ Nguyễn Đức Mậu là giọng bộc bạch, tâm tình. Ông nói với mình nhiều điều riêng tư nhất đã đành, nhưng ngay cả khi ông nói về đất nước, về nhân dân, nói những tình cảm lớn lao đối với thời đại, dân tộc thì cũng vẫn cứ là “nói với chính mình”, những điều ông nghĩ. ở bài thơ Nằm hầm, ông viết:
Tay quờ hơi ấm cho nhau
Là chăn của bạn đắp đầu hở đuôi
Cựa mình: hầm động, đất rơi
Hồn nhiên giấc ngủ nói cƣời trong mơ.
Ông nói thầm với mình tình cảm giữa những người đồng đội trong căn hầm chật chội thật hồn nhiên mà cũng ấm áp tình người. Kể cả những bài thơ có giọng vui đùa như Nơi em ở nhiều bom đến nỗi:
Nơi em ở nhiều bom đến nỗi
Em nhìn ra bom phá: lửa nằm ngang
Bom bi lửa từng chùm tiếp nối
88
Tọa độ từ xa lửa nhoáng nhoàng.
Hàng loạt những bài thơ: Kỷ niệm về một ngƣời anh hùng, Điệp khúc con đƣờng, Cánh rừng nhiễm độc, Khóc một ngƣời đồng chí hy sinh… cũng vẫn là giọng bộc bạch tâm tình. ở đây những tiếng thơ vẫn cất lên là để “ta nghe ta hát một mình”. Ngay cả trong Trƣờng ca sƣ đoàn dường như nhà thơ đứng ở một tầm rất cao của thời đại để nhìn ngắm, chiêm nghiệm về tư thế vươn mình kỳ diệu của sư đoàn, của cả dân tộc, vậy mà giọng thơ vẫn cứ là tiếng vang vô cùng sâu lắng từ nội tâm nhà thơ cất lên. Ông viết :
Nếu tất cả trở về đông đủ
Sƣ đoàn tôi sẽ thành mấy sƣ đoàn
Có khi là lời tự nhủ :
Cho tôi gặp biển quê mình
Khi rừng cây giữa bồng bềnh sƣơng bay
Cho tôi nỗi nhớ vơi đầy
Lá thƣ xa nối tháng ngày chờ mong
(Khúc rừng)
Có khi là một chút hối lỗi :
Ta nói cùng ngƣời đã khuất
Rằng ta tƣớng tá vƣơng hầu
(Tâm sự)
Bạn không ngày sinh ngày mất
Vong hồn phiêu bạt nơi đâu?
Cũng nhiều khi, Nguyễn Đức Mậu cơ hồ như muốn đối thoại, nhưng
thực ra là đối thoại ngầm để “chân lý” có vẻ khách quan hơn :
Quán trọ giữa đƣờng là trạm giao liên
Bệnh viện, văn công ở trong hang đá
Bội đội gọi nơi đây là thành phố
Dù không có một ngôi nhà.
(Thành phố trong rừng)
89
Như vậy, bộc bạch tâm tình là giọng điệu chủ đạo của thơ Nguyễn Đức Mậu. Giọng điệu này cho thấy một Nguyễn Đức Mậu hay nghĩ ngợi, băn khoăn, trăn trở. Nó góp phần tạo nên “dòng ý thức” mang tính chất hiện đại trong thơ ông. Vì “anh luôn cảm thấy mắc nợ cuộc sống, đồng đội” [55;
43] nên Nguyễn Đức Mậu luôn băn khoăn, suy tư làm sao để viết ngày một nhiều hơn, hay hơn về người chiến sĩ, về quê hương và về những người thân yêu xung quanh mình. Ông tự đối thoại với chính mình để bộc bạch những suy ngẫm về trách nhiệm của người cầm bút:
Tôi nghĩ gì, viết gì trƣớc trang giấy trắng
Đêm cô đơn, cùng ngọn đèn khuya khoắt giữa cô đơn
Sau mỗi chuyến đi, mỗi ngả đƣờng chợt hiện
Sự cô đơn khơi nguồn cho tƣởng tƣợng
Cho mọi vui buồn thấm tận tâm hồn
(Những đoạn ghi chép)
Ông luôn dằn vặt, luôn chiêm nghiệm đến khắc khoải:
Nhiều đêm thức với mênh mông
Trắng tinh trang giấy chong chong ngọn đèn
(Gửi bạn đầu năm)
Và rồi:
Mỏng manh trang giấy đêm dài
Ngọn đèn thức với đầy vơi tâm tình
Chợt vui buồn, chợt lặng thinh
Chữ đầy trang lại tự mình xoá đi
(Không đi)
Nghĩ về chiến tranh, nghĩ về sự hy sinh, sự hoá thân của đồng đội cho dáng hình Tổ quốc, nghĩ về những điều giản dị nhưng linh thiêng, Nguyễn Đức Mậu luôn luôn băn khoăn tự hỏi liệu mình đã viết đủ đầy và đúng chưa cho những mất mát ấy. Căn nguyên ấy phần nào lý giải sự thường trực của giọng điệu tâm tình, bộc bạch trong thơ Nguyễn Đức Mậu.
Thời khắc ấy chủ thể trữ tình đối diện với chính mình, và con người thật của nhà thơ hiện lên rõ hơn bao giờ hết, cũng như những sự kiện, những hiện tượng của đời sống đã diễn ra, được nhà thơ nhìn nhận bình tĩnh hơn, soi chiếu từ nhiều góc độ để ý thức sâu sắc hơn. Dễ hiểu vì sao trong suốt mấy chục năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, khi mà nhiều nhà thơ chỉ nói lên cái vui chiến thắng, Nguyễn Đức Mậu vẫn nói thêm về cái xót xa, mất mát trong ngày chiến thắng:
90
Ngày 30 tháng 4
Đất nƣớc!
Chúng tôi kết nên đài hoa dâng Ngƣời
Có bàn chân không giày
Có ngọn cờ rách nát
Có mái đầu quấn băng
Có màu áo phủ nhòa bụi đất
(Trường ca sư đoàn)
Khi mọi người náo nức, hân hoan, ông lại bâng khuâng :
Hỡi những ngƣời hôm nay không trở về
Lồng ngực các anh chắn luồng đạn bắn
Cái đích con đƣờng các anh ngã xuống
Chúng tôi vào thành phố kéo cờ lên
(Trường ca sư đoàn)
Thơ Nguyễn Đức Mậu vì thế không mấy khi ồn ào, và ông làm thơ cũng không phải dễ. Nó là những tiếng nói dội lên từ cõi lòng sâu thẳm của nhà thơ. Những tiếng nói nội tâm sâu lắng như thế, trong thơ Việt Nam hiện đại không phải là nhiều.
Vì là tiếng nói thầm với chính mình nên Nguyễn Đức Mậu thành thực phơi trải nỗi lòng mình. Thơ ông bày tỏ cảm xúc mãnh liệt của ông “khi vui, khi buồn, khi hy vọng”. Những cách nói “ta yêu”, “ta nhớ”, “tôi thƣơng”… trở thành điệp khúc chan chứa tha thiết:
- Tôi yêu em không thấu hết lo buồn
Tôi yêu em không sợ vầng trăng khuyết
Vòng tay ta đủ nối một trăng tròn
Tôi yêu em không ngại gì xa cách
Thương nhớ đầy vơi khắp núi non
Tôi yêu em chƣa hẹn ngày gặp mặt
(Đề tựa)
- Thương em biết mấy cho vừa
Tôi đi xa lắm mà chƣa hẹn về
(Thư những ngày xa)
91
- Tôi nhớ:
Ngọn đa cao
(Tuổi thơ nhìn lại)
- Tôi nghe sông hát sôi lòng đất
(Thi khúc sông Lô)
- Tôi nhớ gì, nghĩ gì trƣớc trang giấy trắng
- Những buổi buồn lo, những mộng mơ
Tôi gìn giữ nhen nhóm thành lửa ấm
- Tôi tin mùa màng dành cho ngƣời làm lụng
(Những đoạn ghi chép)
- Tôi yêu thời gian cái lá rơi, sợi tóc bạc âm thầm
- Tôi yêu thời gian con tàu nhịp bƣớc
(Tấm vé vào sân cỏ)
- Những ngƣời lính về đâu không hẹn trƣớc
Cũng nhƣ tôi phấp phỏng nỗi thương nhà
(Chuyến tàu đêm giao thừa)
- Hỡi ngọn lửa đêm đêm từ heo hút cánh rừng
Tôi yêu hơn mọi hành tinh xa lạ
(Trường ca sư đoàn)
Giọng bộc bạch tâm tình nào cũng tạo nên cách xưng hô phổ biến của chủ thể trữ tình. Trong tiếng Việt “ta” có khi là “chúng ta” nhưng có khi lại là “tôi”. Nó vừa là lời tự nói với mình, vừa hướng ra ngoài để giãi bày, trò chuyện.
- Ta yêu mến, giữ gìn - không thể khác
Tàu Việt Nam, tàu bè bạn kề vai
(Bến cảng mặt trời)
- Ta mơ ngày mai đôi bờ mở hội.
(Nhịp cầu sông Nậm Ô)
- Gặp hài cốt bạn, ta khóc
Ngƣời chết nói gì cùng ta
(Tâm sự)
92
- Ta về lời hẹn hò xƣa
Trắng xao xác gió, trời vừa heo may.
(Trắng và trắng)
- Ta ƣớc chi là con gà nhặt đƣợc…
(Nhặt và gặt)
Nguyễn Đức Mậu còn là nhà thơ hay sử dụng đại từ nhân xưng “mình” trong thơ bên cạnh “tôi”, “ta” hay “chúng ta”. Những tiếng “mình” trong thơ nghe tha thiết và chân thành, nghe như tác giả đang tâm tình, giãi bày:
- Bạn ngã xuống rừng dày
Mình ôm bạn
Vuốt đôi mắt khép
(Viết tặng một người thương binh)
- Mình đi qua buồn vui thƣờng gặp
…
Bƣớc thăng trầm, khôn dại
Trái tim mình chƣa vô cảm, thờ ơ
(Từ nhà sang cơ quan) - Đôi khi mình vơ vẩn nhớ về cây
Nhớ đau đáu khoảng trời đã mất
(Trên đường phố cũ)
- Nhƣng nhiều lúc mình vô tâm chẳng nhớ!
(Cây đại trước hiên nhà)
Khi cảm xúc đến cao trào thì tiếng gọi, những thán từ cũng đến rất tự
nhiên trong thơ:
- ơi mùa đông sửa soạn đón mùa xuân (Mùa đông lên đường)
- ơi cô gái tên gì anh chẳng biết
(Mùa xuân Trường Sơn) Hỡi ai đi tới tiền phƣơng
Có mang mùa lá quê hƣơng theo cùng
(Lá)
93
- Trƣờng Sơn ơi…
- Bạn bè ơi…
Rõ ràng, bộc bạch tâm tình trong thơ Nguyễn Đức Mậu cho ta một cái nhìn toàn diện hơn, và có lẽ “chân xác hơn” về ông, một con người có tâm hồn trong sáng, nhân hậu thủy chung, sôi nổi và mãnh liệt trong tình cảm nhưng cũng rất dễ xúc động và nhiều khi cũng yếu đuối như bất kỳ ai.
Giọng bộc bạch tâm tình - những tiếng nói về mình, nói với chính
mình trong thơ Nguyễn Đức Mậu tạo nên một phong cách riêng.
Thơ là những rung động của trái tim kết lại thành vần, thành điệu. Thơ rất cần cảm xúc, nhưng biết nâng tầm trí tuệ cho mỗi câu thơ là một cách tạo ra chiều sâu cho tình cảm. Sự gắn bó mật thiết trí tuệ với tình cảm thông qua những suy tưởng triết lý, khái quát đem đến cho thơ những khám phá mới mẻ về chân lý cuộc đời.
Điệu thơ dịu dàng, tha thiết của Nguyễn Đức Mậu chắc phải là biểu hiện của một thái độ sống thật đẹp và một cảm nhận tinh tế. Nó là lòng gắn bó máu thịt của nhà thơ với đất nước mình, nhân dân mình, là thái độ ân cần trong cuộc sống, trong tình yêu, là ý thức chắt chiu vun đắp hướng tới một cuộc sống xứng đáng hơn cho mỗi con người.
Tình cảm ấy của nhà thơ tự nó đã làm nên một triết lý nhân sinh nhẹ nhàng mà sâu sắc. Coi thơ là những thì thầm sâu sắc về đất nước, về tình yêu, về lẽ sống, về cái đẹp, về chiến tranh. Thơ Nguyễn Đức Mậu thật sự là tiếng nói của một tâm hồn “tìm đến những tâm hồn đồng điệu”. Cho đến nay, thơ Nguyễn Đức Mậu cũng là một món ăn tinh thần thấm sâu vào trái tim người yêu thơ. Và qua thời gian ông vẫn là ông - một con người hay nghĩ, hay chất vấn từ lòng mình để lắng nghe tiếng nói cất lên từ cuộc sống, cất lên từ cốt lõi của cuộc sống đa chiều, phức tạp và kỳ thú này. Đó thực sự là một nỗ lực đưa thơ về gần với cuộc sống để thơ “biểu đạt một cách tự nhiên những cảm nghĩ tự nhiên của con người trong cuộc sống hàng ngày”.
94
Bằng sự cảm nhận của riêng mình, thơ Nguyễn Đức Mậu đã phản ánh trên những phương diện nhất định hình ảnh con người và đất nước Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Đó là cảm xúc, suy nghĩ chân thành và tha thiết của nhà thơ - người chiến sĩ Nguyễn Đức Mậu. Qua những trang thơ của ông, người đọc có thể tìm thấy bức tranh hiện thực, tâm hồn và tính cách con người Việt Nam, đặc biệt là chân dung của thế hệ của chính nhà thơ.
95
Đây là những dòng thơ chắt lọc ra từ chính tâm hồn tươi trẻ của nhà thơ, những vần thơ mà ông đã phải đánh đổi bằng cả cuộc đời của mình.
PHẦN KẾT LUẬN
Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã từng nói: “Người thơ phong vận như thơ ấy”, cái chất của thơ nói lên cái tạng của người. Nguyễn Đức Mậu là con người mộc mạc, đôn hậu và giản dị, cùng với thời gian ông được trang bị vốn kiến thức khá vững vàng, vốn sống phong phú. Tất cả những điều đó được hội tụ vào thơ ông. Ông không được đánh giá là một nhà thơ lớn nhưng cũng là một gương mặt thơ quen thuộc, tiêu biểu cho thơ ca một thời. Cùng với các nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật,… Nguyễn Đức Mậu đã góp phần thực hiện sứ mệnh quan trọng của thơ ca, cổ vũ cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Đức Mậu đã rất thành công khi viết về người lính, về chiến trường với cuộc sống chiến đấu, dù rằng những bài thơ ấy được sáng tác ở giai đoạn nào. Bởi Nguyễn Đức Mậu không phải suy nghĩ nhiều cho sự lựa chọn của mình. Ông vào chiến trường để chiến đấu chứ không phải đi thực tế để làm thơ. Ông là người lính làm thơ chứ không phải nhà thơ viết về người lính. Vì thế, thơ ông có độ đậm, độ sâu, có nhựa sống và chất tươi mát từ hiện thực. Sau khi chiến tranh đã qua đi, thơ ông viết về người lính, về chiến trường vẫn là sản phẩm tinh thần được thôi thúc từ bên trong một tâm hồn nhạy cảm, giàu trách nhiệm. Với mảng thơ ấy, Nguyễn Đức Mậu đã khẳng định được phong cách của mình. Từ đề tài, cảm hứng nghệ thuật, hình tượng các nhân vật tiêu biểu,… đều được xây dựng trên nền tảng của những xúc cảm mộc mạc, chân thành và tắm trong bầu không khí hào hùng đậm chất sử thi của Trường Sơn ngày ấy.
96
Từ những vần thơ tươi xanh của người ra trận với tâm hồn lạc quan trong sáng, tươi sáng của người lính giữa hiện thực chiến trường đầy bom đạn đến những vần thơ đầy khắc khoải của ký ức chiến tranh đều khẳng định một tâm hồn đam mê sáng tạo nghệ thuật và đau đáu những nỗi niềm của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Đọc thơ Nguyễn Đức Mậu, hiện thực chiến tranh hiển hiện trong từng trang, từng bài với những hình ảnh “ra trận”, “sư đoàn”,… những người lính lấm lem mà nụ cười tràn lạc quan, ánh mắt đầy tin cậy,…có cả những tận cùng của mất mát hy sinh,…Tất cả được ghi lại
bằng một giọng thơ chân thành, sâu lắng yêu thương, được chắt chiu từ một tâm hồn giàu rung cảm, giàu suy ngẫm và trải nghiệm.
Nguyễn Đức Mậu giản dị trong đời, giản dị trong thơ. Ông không cầu kỳ làm dáng cho câu thơ, thơ Nguyễn Đức Mậu lấy ngôn ngữ từ đời sống, lấy chất liệu từ hiện thực, lấy cảm xúc từ trái tim. Tất cả trong thơ ông đều chân thành và giàu tình thương mến, nó tác động tới trái tim và tầng sâu nhạy cảm trong tâm hồn người đọc, nó làm người đọc xúc động và ám ảnh.
Cùng với thời gian, có nhiều giá trị của cuộc sống sẽ được định giá lại. Có những thứ sẽ tiếp tục được đem vào tương lai nhưng cũng có những giá trị sẽ vĩnh viễn ở lại với quá khứ. Nghệ thuật thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Chúng ta có thể thấy, phần tinh tuý nhất của thơ Nguyễn Đức Mậu đã đến được với thế giới tâm hồn bạn đọc và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của họ. Những bài thơ tiêu biểu của ông: Nấm mộ và cây trầm, Nằm hầm, Trƣờng ca sƣ đoàn, Cánh rừng nhiều đom đóm bay,… có thể được xem là những bài thơ đi cùng năm tháng.
97
Nói tóm lại, qua quá trình khảo sát phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu, chúng ta nhận thấy những đóng góp khá quan trọng của ông đối với nền thơ hiện đại nước nhà. Ông góp phần tạo dựng một lối viết mộc mạc, giản dị mà sâu lắng về cuộc sống trong cả chiến tranh và hoà bình, trong đó, những sáng tác về đề tài chiến tranh mang giá trị hơn cả. Tôi muốn mượn lời của nhà thơ Phạm Tiến Duật để kết thúc cho luận văn của mình: “Ở bất cứ thời kỳ nào và bất kỳ ở đâu, văn học viết về chiến tranh luôn dựng đứng một khối sáng in đậm vào trí nhớ của người đương thời và hậu thế” [9; 225]. Sẽ còn rất nhiều điều thú vị trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ mà tác giả của luận văn này chưa phát hiện được. Nhưng như một độc giả trung thành của Nguyễn Đức Mậu, tôi tin tưởng rằng thơ ông sẽ tiếp tục cuộc hành trình đi vào tương lai cùng bạn đọc.
thƣ mục tham khảo
I. Tƣ liệu nghiên cứu, lý luận và phê bình
1. Vũ Tuấn Anh, Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945-1995, NXB. KHXH, H, 1997. 2. Aritxtot, Nghệ thuật thơ ca, NXB. Văn học, H, 1964. 3. M.Arnauđôp, Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB. Văn học, 1978. 4. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB. ĐHQG Hà Nội,1999. 5. Lại Nguyên Ân, Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca, Tạp chí Văn học, Số 6 /1982. 6. Phạm Quốc Ca, Thơ trữ tình công dân trong nền thơ Việt Nam đổi mới, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 3/1999.
7. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB . KHXH, 2004. 8. Phạm Tiến Duật, Nửa thế kỷ thơ Việt Nam (1945-1975) – sự bừng tỉnh của
cảm hứng dân tộc, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ, Số 45/1995. 9. Phạm Tiến Duật, Vừa làm vừa nghĩ, NXB. Giáo dục, H, 1996. 10. Hồng Diệu, Thơ một thời không quên, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 6/1994 11. Hữu Đạt, Nhân đọc Nguyễn Đức Mậu nghĩ về “cũ” và “mới” trong thơ, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 3/1999.
12. Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB. Giáo dục, H, 1996. 13. Hữu Đạt, Phong cách học với việc dạy văn và lý luận phê bình văn học,
NXB. Hà Nội, H, 1998.
14. Phan Cự Đệ (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB. Giáo dục, H, 2004. 15. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lý luận văn học (In lần thứ tƣ), NXB. Giáo dục, 1997. 16. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB. Giải phóng, H, 1998. 17. Hà Minh Đức, Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, NXB. Văn học,
1977.
18. Hà Minh Đức, Thời gian và trang sách, NXB. Văn học, 1977. 19. Giải thưởng thi thơ Báo Văn nghệ (1972-1973), Báo Văn nghệ, Số 10/1973. 20. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Từ điển Thuật ngữ Văn học,
NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2006.
21. Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu – Cuộc chiến tranh chưa kết thúc, Tạp
chí Văn hoá Văn nghệ Công an, Số 12/1992.
98
22. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, NXB. Văn học, 1999.
23. Phạm Hổ, Nghĩ về thơ Nguyễn Đức Mậu, Tạp chí Văn học, Số 5/1982. 24. Phạm Hổ, Người lính trong Trường ca sư đoàn, Báo Văn nghệ, Số 15 ngày 14/4/1981. 25. Bùi Công Hùng, Bàn thêm về tứ thơ, Tạp chí Văn học, Số 1/1986. 26. Bùi Công Hùng, Hình tượng thơ, Tạp chí Văn học, Số 4/1986. 27. Bùi Công Hùng, Những đặc điểm cơ bản của thơ Việt Nam hiện đại (1945-1975),
Tạp chí Văn học, Số 1/1985.
28. Bùi Công Hùng, Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB. Văn hoá thông tin, H, 2000 29. Mai Hương, Nghĩ về đóng góp của đội ngũ thơ trẻ trong thơ chống Mỹ, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 1/1981.
30. Mai Hương – Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng – Tạp chí
Văn học – Số 6/2001.
31. Lê Đình Kỵ, Đường vào thơ, NXB. Văn học, H, 1969. 32. Krapchenco, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,
NXB. Tác phẩm mới, H, 1978.
33. Tôn Phương Lan, Văn chương và cảm nhận, NXB. Khoa học xã hội, 2005. 34. Mã Giang Lân, Chữ và nghĩa trong thơ, Tạp chí Văn học, Số 4/2000. 35. Mã Giang Lân, Nhận xét ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam, Tạp chí Văn học, Số 3/2003. 36. Mã Giang Lân, Nhịp điệu thơ hôm nay, Tạp chí Văn học, Số 3/2007. 37. Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB. Giáo dục, 2003. 38. Mã Giang Lân, Thơ - Hình thành và tiếp nhận, NXB. ĐHQG Hà Nội, 2004. 39. Mã Giang Lân, Thơ - Những cuộc đời, NXB. Văn học, 1992. 40. Mã Giang Lân, Thơ Việt Nam 1945 - 1975, NXB. Giáo dục, 1995. 41. Mã Giang Lân, Tìm hiểu thơ, NXB. Văn hóa thông tin, 2000. 42. Mã Giang Lân, Suy nghĩ thêm về tứ thơ, Tạp chí Văn học, Số 6/1983. 43. Mã Giang Lân, Sự biến đổi thể loại trong thơ Việt Nam thế kỷ XX, Tạp chí
Văn học, Số 9/2003.
44. Mã Giang Lân, Văn học hiện đại Việt Nam Vấn đề – Tác giả, NXB. Giáo dục, H, 2005. 45. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thơ Việt Nam hiện đại,
NXB. Lao động, H, 2002.
46. Nguyễn Văn Long, Hướng đi của một số nhà thơ trẻ, Báo Văn nghệ, Số 539/1973. 47. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB. Giáo dục, 2001. 48. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn
99
đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB. Giáo dục, H, 2006.
49. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà,
Thành Thế Thái Bình, Lý luận Văn học, NXB. Giáo dục, 1997.
50. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà văn,
NXB. Giáo dục, H, 1999.
51. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam tập III, NXB. Đại
học Sư phạm, H, 2002.
52. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB. Văn học, 1983. 53. Nguyễn Đăng Mạnh, Văn học Việt Nam 45-75, NXB. Giáo dục, 1983. 54. Nguyễn Đức Mậu, Những vùng đất chiến trường, Báo Văn nghệ, Số 50, ngày
12/12/1981.
55. Nguyễn Đức Mậu, Tâm sự dọc đường, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số
7/1974.
56. Nguyễn Xuân Nam, Thơ-Tìm hiểu và thưởng thức, NXB. Tác phẩm mới, 1985 57. Anh Ngọc, Nghĩ về thơ đọc đường hành quân, Tạp chí Văn nghệ Quân đội,
Số 9/1972.
58. Hoàng Kim Ngọc, Những đóng góp của thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, NXB. ĐHQG Hà Nội, 1998.
59. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể loại),
NXB. KHXH, 1971.
60. Đinh Nguyên, Thơ của một người sống và viết ở chiến trường, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, Số 1/1974.
61. Lã Nguyên, Diện mạo văn học Việt Nam 1945-1975 nhìn từ góc độ thi pháp
thể loại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 9/1995.
62. Nhiều tác giả, 50 năm nền văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám,
NXB. ĐHQG, H, 1996.
63. Nhiều tác giả - Chiến trường sống và viết – NXB Hội nhà văn, H, 1995. 64. Nhiều tác giả, Nhà văn Quân đội (Kỷ yếu và tác phẩm), NXB. Quân đội nhân dân, 1998. 65. Nhiều tác giả, Bài thơ báng súng, NXB. Quân đội nhân dân, 1974. 66. Nhiều tác giả, Thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, NXB.
Thanh niên, H, 1967.
67. Nhiều tác giả, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, NXB. Văn học, H, 1985 68. Nhiều tác giả, Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB. Giáo dục, H, 1992. 69. Nhiều tác giả, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,
100
NXB. Giáo dục, H, 1999.
70. Lê Lưu Oanh, Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, NXB. Giáo dục, H, 1998. 71. Vũ Quần Phương, Đọc thơ của mấy cây bút trẻ Quân đội mới xuất hiện gần
đây, Tạp chí Văn học, Số 4/1973.
72. Vũ Quần Phương, Đọc Trường ca Sư đoàn, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 6/1981. 73. Vũ Quần Phương, Một số đóng góp của thơ Quân đội vào thơ Việt Nam: Sự đổi mới thi liệu, xu hướng tiếp cận đời sống, Tạp chí Văn học, Số 6/1979.
74. Poxelop, Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB. Giáo dục.1990. 75. Xuân Sách, Thơ bộ đội 1965 – 1969, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 6/1970. 76. Trịnh Thanh Sơn, Những ám ảnh hoá thạch trong “Bầy chim lá màu vàng”,
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 10/2004.
77. Trần Đăng Suyền, Mấy ghi nhận về thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ: Nhà văn, Hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, NXB. Văn học, H, 2002. 78. Trần Đăng Suyền, Nhà văn – Hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, NXB.
Văn học, 2002.
79. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB. ĐHQG, H, 2001. 80. Trần Đình Sử, Văn học và thời gian, NXB. Văn học, H, 2001. 81. Trần Đình Sử, Về bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con đường của
thơ, Tạp chí Văn học, Số 11/1994.
82. Nguyễn Bá Thành, Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, NXB. Văn học,
1996.
83. Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng, Văn học Việt Nam 1965-1975, NXB. Đại
học Tổng hợp Hà Nội.1990.
84. Xuân Thiêm, Suy nghĩ về “Thơ người ra trận”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Số 7/1972. 85. Nguyễn Ngọc Thiện, Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật, Tạp
chí Văn học, Số 4/1974.
86. Hoàng Trung Thông, Cảm hứng và cảm xúc trong thơ, Tạp chí Văn học, Số 3/1986. 87. Hoàng Trung Thông (Chủ biên), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, NXB.
KHXH, H, 1979.
88. Bích Thu, Chiến tranh trong thơ hôm nay, Tạp chí Văn học, Số 12/1994. 89. Lý Hoài Thu, Đồng cảm và sáng tạo, NXB. Văn học, 2005. 90. Vũ Duy Thông, Cái đẹp trong thơ kháng chiến, NXB. Giáo dục, 2000. 91. Phan Trọng Thưởng, Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học trong điều
kiện chiến tranh 1945-1975, Tạp chí Văn học, Số 1/1996.
101
92. Võ Văn Trực, “Từ hạ vào thu” tới “Hoa đỏ nguồn sông”, Tạp chí Tác phẩm mới, Số
6/1987.
93. Nguyễn Thanh Tú, Văn học Việt Nam hiện đại một góc nhìn, NXB. Quân đội
nhân dân, H, 2003.
94. Bùi Thị Tịnh, Bùi Thị Phương Thanh, Từ điển tiếng Việt, NXB. Giáo dục, 2001. 95. Viện Văn học, Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, NXB. KHXH, H,
1979 II. Tác phẩm văn học
96. Phạm Tiến Duật, Tuyển tập thơ một chặng đường, NXB. Quân đội nhân dân, H, 1994. 97. Phạm Tiến Duật, Tiếng bom và tiếng chuông chùa, NXB. Hội nhà văn,1997. 98. Phạm Tiến Duật, Thơ với tuổi thơ, NXB. Kim Đồng, H, 2001. 99. Phạm Tiến Duật, Đường dài và những đốm lửa, NXB. Hội nhà văn, H, 2002. 100.
101.
102.
103.
104.
105.
106.
107.
108.
109.
110.
111.
112.
113.
114.
115.
116.
117.
118.
102
119. Phạm Hữu Đại, Trường Sơn ngày ấy, NXB. Thanh niên, H, 1999. Nguyễn Đức Mậu, áo trận, NXB. Quân đội nhân dân, 1976. Nguyễn Đức Mậu, Bão và sau bão, NXB. Quân đội nhân dân, 1998. Nguyễn Đức Mậu, Cây xanh đất lửa, NXB. Văn học, 1973. Nguyễn Đức Mậu, Con đường rừng không quên (Tập truyện ngắn), NXB. QĐND, 1984. Nguyễn Đức Mậu, Hoa đỏ nguồn sông, NXB. Tác phẩm mới, 1987. Nguyễn Đức Mậu, Khi bé Hoa ra đời, NXB. Kim Đồng, 1984. Nguyễn Đức Mậu, Mưa trong rừng cháy, NXB. Giải phóng, H, 1976 Nguyễn Đức Mậu, Người đi tìm chân trời (Truyện thơ),NXB.Kim Đồng,1982. Nguyễn Đức Mậu, ở phía rừng Lào, NXB. Kim Đồng, 1984. Nguyễn Đức Mậu, Thơ người ra trận, NXB. Quân đội nhân dân, 1971 Nguyễn Đức Mậu, Thơ với tuổi thơ, NXB. Kim Đồng, 2003. Nguyễn Đức Mậu, Từ hạ vào thu, NXB. Quân đội nhân dân, 1992. Nguyễn Đức Mậu, Cánh rừng nhiều đom đóm bay, NXB. Quân đội Nhân dân, 1998. Nguyễn Đức Mậu, Trường ca Sư đoàn, NXB. Quân đội Nhân dân, 1980. Nguyễn Đức Mậu, Bầy chim lá màu vàng, NXB. Quân đội Nhân dân, 2004. Nguyễn Đức Mậu, Thơ lục bát, NXB. Quân đội Nhân dân, 2007. Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh, NXB. Văn học, H, 1992. Nhiều tác giả, Đường đỏ Trường Sơn, NXB. Thanh niên, H,1970. Nhiều tác giả, Thơ giải thưởng báo Văn nghệ 1969 – 1970, NXB. Văn học, 1970.
120.
121.
122.
123.
124.
103
125. Nhiều tác giả (Hà Minh Đức biên soạn và giới thiệu), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, NXB. Giáo dục, 1984. Nhiều tác giả (Ngô Văn Phú biên soạn và giới thiệu), Tuyển tập thơ chống Mỹ, NXB. Giáo dục, H, 1984. Nhiều tác giả (Nguyễn Văn Long biên soạn và giới thiệu), Tư liệu thơ hiện đại Việt Nam 1955 – 1975, NXB. Giáo dục, 1983. Nhiều tác giả, Tuyển tập thơ Việt Nam 1975–2000 (3 tập), NXB. Hội nhà văn, 2001. Thanh Thảo, Dấu chân qua trảng cỏ, NXB. Tác phẩm mới, 1978. Hữu Thỉnh, Từ chiến hào đến thành phố, NXB. Văn học, H, 1985.