intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

94
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia được thực hiện nhằm khảo sát các kiểu truyện cổ tích của các dân tộc cùng sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia; chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của thể loại này ở hai dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Bích Thủy SO SÁNH MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA CÁC TỘC NGƯỜI SỬ DỤNG NGỮ HỆ NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM VÀ INDONESIA LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Bích Thủy SO SÁNH MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA CÁC TỘC NGƯỜI SỬ DỤNG NGỮ HỆ NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM VÀ INDONESIA Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
  3. LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, người viết đã nhận được sự hướng dẫn tận tình và sự động viên, giúp đỡ của TS.Hồ Quốc Hùng. Tôi xin kính gửi lời tri ân chân thành nhất đến Thầy! Xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, các Thầy Cô giáo khoa Ngữ Văn, các Thầy Cô phòng Sau đại học, Thư viện trường đã luôn tạo điều kiện cho Tôi học tập, tra cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ để Tôi hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn này! Xin chân thành cảm ơn! Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2011 Học viên Nguyễn Thị Bích Thủy
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tài liệu trích dẫn, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và nghiêm túc. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Bích Thủy
  5. MỤC LỤC
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là nơi lưu giữ mối quan hệ văn hóa tộc người và các dân tộc có chung quá trình lịch sử văn hóa. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á trên bình diện chung rất được quan tâm nhưng ở những khía cạnh văn học dân gian chưa thực sự có sự đầu tư nghiên cứu đúng mức. Nhất là những ảnh hưởng qua lại giữa các quốc gia những giai đoạn khởi nguyên. Sự đối sánh nền văn học dân gian các dân tộc giữa các quốc gia là con đường đã và đang được thực hiện cho thấy nhiều hứa hẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định đây là con đường khả dĩ cho sự tiếp cận vấn đề này. Việt Nam là một nền văn hóa đa tộc người. Nhưng chủ yếu trước nay, các nhà nghiên cứu vẫn chú trọng đến văn học dân gian người Việt nhiều hơn. Riêng việc tìm hiểu mối tương đồng, dị biệt giữa văn học dân gian các dân tộc ở Việt Nam với các nước trong khu vực còn hạn chế. Các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam tuy số lượng người không nhiều nhưng đã có những dấu ấn văn hóa riêng tạo nên một bức tranh văn hóa, ngôn ngữ và văn học phong phú, đa sắc của Việt Nam. Khi so sánh với “xứ sở vạn đảo” khác ở Đông Nam Á, chúng tôi bắt gặp những điểm tương đồng thú vị… Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến Indonesia, một quốc gia đa dân tộc nhưng hầu hết đều sử dụng ngữ hệ Nam Đảo. Từ đó, người viết chọn đề tài “So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia” để nghiên cứu trong luận văn này. Chúng tôi kỳ vọng cho việc đặt một hướng đi mới để nhìn nhận hai nền văn hóa ở buổi sơ khai với những điểm tương đồng và khác biệt, được biểu hiện qua bộ phận văn học dân gian dưới góc độ tộc người. 2. Mục đích nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đặt ra mục đích giải quyết những vấn đề sau: - Tìm hiểu các hệ ngôn ngữ Đông Nam Á và vai trò của ngôn ngữ như là một yếu tố tham chiếu có ảnh hưởng đến văn hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng. Trong đó, định hướng vai trò nối kết của ngữ hệ Nam Đảo đối với các tộc người ở Việt Nam và Indonesia là kim chỉ nam cho quá trình tìm hiểu văn học dân gian. - Khảo sát các kiểu truyện cổ tích của các dân tộc cùng sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia. - Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của thể loại này ở hai dân tộc.
  7. 3. Lịch sử vấn đề Đề tài hầu như chưa được nghiên cứu, hiện chúng tôi chưa có thông tin nào ngoài một số công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài đã được công bố như sau: - Luận văn Thạc sĩ của Phan Xuân Viện do Giáo sư Chu Xuân Diên hướng dẫn về “Truyện dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam”, do NXB Đại Học Quốc gia TP.HCM xuất bản thành sách 2007. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này khá rộng, tác giả đi vào tất cả các mảng của truyện dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam gồm Thần thoại, Truyền Thuyết, Truyện cổ tích, Truyện cười và truyện ngụ ngôn. Phần truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo chỉ là một phần nghiên cứu trong luận văn. Khi đi vào nghiên cứu cụ thể, tác giả chia truyện cổ tích thành các tiểu loại nhỏ theo truyền thống: Truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế tục. Ở luận văn này, tác giả Phan Xuân Viện đã công phu khảo sát khá nhiều truyện để đưa ra những tương đồng và khác biệt trong truyện cổ tích giữa các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam. Công trình này tác giả đã có nhiều cố gắng định hướng nghiên cứu theo type và motif. Từ đó, theo từng tiểu loại truyện cổ tích, đã có rất nhiều nhóm truyện và motif được đề cập đến. Tuy nhiên, công trình này lại chưa nhất quán trong tiêu chí phân loại truyện cổ tích, cách triển khai của tác giả không rõ ràng về tiêu chí. Nhất là tác giả tiếp cận các cấp độ không rõ ràng, có lúc đi vào kiểu truyện (type), có lúc lại đi theo đề tài - cốt truyện, có lúc sử dụng motif như một đề mục ngang hàng với hai cấp kia dẫn đến tính hệ thống bị phá vỡ. - Bài nghiên cứu: “Truyện cổ tích Indonesia và Malayixia” của GS.TS Đức Ninh đăng trong sách “Một số vấn đề văn hóa dân gian (Folklore) Đông Nam Á”, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 2008. Trong bài nghiên cứu này, Đức Ninh đã đưa ra một sự đúc kết khá khái quát về truyện cổ tích của Indonesia và Malaisia và xác định những nền tảng dân tộc và văn hóa cho sự ra đời truyện cổ tích ở hai quốc gia này. Hai quốc gia hình thành trên lãnh thổ Nusantara, có cơ tầng văn hóa chung gọi là Mã Lai – Indonesia. Ông phân loại truyện cổ tích Indonesia thành: TCT Thần kỳ; TCT Sinh hoạt; TCT động vật. Theo đó, tác giả cho rằng: “Việc phân loại thành 3 kiểu loại truyện cổ tích theo nội dung và các yếu tố hình thức như trên là cách thức tối ưu để trình bày khái quát về truyện cổ tích Mã Lai – Indo” 1 0F P Đi sâu vào từng tiểu loại, Đức Ninh chứng minh rằng: Truyện cổ tích thần kì ở đây đã có những thay đổi căn bản so với thần thần thoại, một thể loại mà nó trực tiếp có mối quan hệ họ hàng. Chẳng hạn như một loạt truyện cổ tích thần kì đã kể về hôn nhân người và vật, mang ý nghĩa tô tem - 1 trang 84, Một số vấn đề văn hóa dân gian (Folklore) Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 2008.
  8. giáo; cách xây dựng nhân vật chính diện và quan niệm thiện thắng ác; thể hiện những xung đột gia đình sau khi chế độ thị tộc-bộ lạc hay “đại gia đình” tan vỡ. Sau đó, tác giả này khẳng định rằng nhân vật truyện cổ tích thần kỳ của Indo - Malai cũng không đi ngoài nhận định của Melechinski (Nhân vật truyện cổ tích thần kỳ, Matxcova): “hình tượng con người dần thay thế đường nét màu nhiệm, con người đạt được mục đích bằng chính sức lực của mình, chiến thắng và điều khiển được con vật”. Truyện cổ tích sinh hoạt và động vật phản ánh đầy đủ hơn, toàn diện hơn những mối quan hệ giữa con người với con người và với con vật so với truyện cổ tích thần kì. Thế giới động vật mang sắc thái của con người và qua đó để phê phán những thói hư tật xấu, đề cao luân lý. Hình tượng con can chi ( Cerita Kancil - con hươu, đối với Mã Lai là con Pelanduk) phổ biến thành chuỗi truyện; đây là con vật đại diện cho trí thông minh của con người, đây là cách quy chụp “phiên bản” xã hội con người. Những đánh giá này của Đức Ninh mở ra những nền tảng cho việc nghiên cứu truyện cổ tích Indonesia, dù ở những góc độ nhất định không phải là đầy đủ nhưng giúp cho người viết trong quá trình lý giải từng kiểu truyện cổ tích cụ thể được khảo sát trong luận văn này. Có thể thấy, lịch sử việc nghiên cứu về vấn đề rất hạn chế. Thời gian gần đây đã có những nghiên cứu về sơ khởi về truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam, bắt đầu từ những tổng hợp về văn bản truyện đến những công trình nghiên cứu theo các góc độ khác nhau như dân tộc học, loại hình học... Đối với truyện cổ tích Indonesia, những nghiên cứu ở Việt Nam càng hiếm hoi. Những bất đồng về ngôn ngữ cũng là một chướng ngại lớn dẫn đến những hạn chế khi có thể tham khảo những nghiên cứu của Indonesia về truyện cổ tích. Nhưng đó được xem là những viên gạch nền để mở ra nhiều hướng nghiên cứu khác nhau và tri nhận những lớp ẩn tàng về văn hóa, con người thông qua truyện cổ tích. 4. Phạm vi đề tài - Đề tài được giới hạn trong phạm vi truyện cổ tích của các tộc người cùng sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia. - Quá trình nghiên cứu chỉ so sánh một số (không phải toàn bộ) kiểu truyện cổ tích dựa trên nguồn tư liệu hiện có. 5. Phương pháp nghiên cứu a. Các phương pháp nghiên cứu khoa học văn học: - Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê các truyện cổ tích các dân tộc sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia. Quá trình thống kê này gắn liền với việc thu thập dữ liệu để tạo nên một “mẫu” đủ làm nền tảng cho quá trình khảo sát. Trong quá trình nghiên cứu,
  9. phương pháp thống kê được áp dụng ở các cấp độ khác để mô hình hóa kiểu truyện và làm nền tảng cho những phân tích lý giải. - Phương pháp so sánh: được sử dụng với tư cách là phương pháp chính với các thao tác của đề tài mang tính chất của văn học so sánh. Quá trình đi vào cấu tạo truyện sẽ được đánh giá trên cơ sở so sánh các kiểu truyện của các dân tộc sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia, từ đó giúp hiểu rõ được bản chất, vị trí của các truyện cổ của các tộc người Nam Đảo trong cái nhìn đối sánh với truyện cổ Indonesia. Những sự so sánh này dựa trên nguyên tắc khách quan phi định kiến, không lấy nền văn học nào làm điểm quy chiếu cho nền văn học khác với cái nhìn thiên lệch. Tất nhiên, khi so sánh dựa trên sự tương quan cùng thứ bậc của các truyện cổ, không có sự phân hạng cao thấp. Nguyên tắc so sánh liên ngành được sử dụng trong quá trình khảo sát mang lại cái nhìn toàn diện và đánh giá vấn đề chính xác hơn. Quá trình so sánh các kiểu truyện của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia được nghiên cứu từ sự so sánh ở nhiều cấp độ nên nguyên tắc so sánh tổng hợp được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu với sự so sánh từ kiểu truyện (type) và motif đồng thời với quá trình so sánh trong nhiều hệ thống sẽ giúp nhìn nhận ý nghĩa tiềm ẩn và đánh giá tương quan giá trị của nó. - Phương pháp cấu trúc được sử dụng trong quá trình phân giải mỗi tác phẩm để định hình cấu trúc của truyện. Cấu trúc nội tại của mỗi truyện là nền tảng cho những khái quát và mô hình hóa thành những kiểu truyện; cũng như sự đối sánh các thành tố cấu thành nên tác phẩm là cơ sở khoa học cho những kết luận chi tiết. b. Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian: - Nghiên cứu văn học dân gian theo vùng văn hóa: đặt văn học dân gian tộc người trong sinh quyển văn hóa của nó để nghiên cứu với các dân tộc sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia có sự ảnh hưởng từ văn hóa ngôn ngữ Nam Đảo đã dẫn đến những tương đồng như thế nào. Quá trình biến đổi theo sinh quyển văn hóa đã tạo nên những nét riêng ghi dấu trong truyện cổ tích các tộc người. - Nghiên cứu theo phương pháp loại hình học trong văn học dân gian được áp dụng để làm nền tảng định hình cho những cấu trúc truyện theo loại hình truyện cổ tích và phân chia thành các yếu tố, cũng như tìm hiểu mối quan hệ giữa chúng. Sự xác định từ loại hình sẽ giải quyết vấn đề từ sự giới thuyết ở loại hình truyện cổ tích và áp dụng các lý thuyết thi pháp để phân loại nhỏ hơn, quá trình di chuyển, biến dạng của thể loại theo thời gian, không gian để phân thành truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích sinh hoạt. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dụng để nghiên cứu truyện cổ tích của văn học dân gian trong sự tác động không ngừng của các ngành khác trong folklore. Các tác động của
  10. văn hóa học, lịch sử và đặc biệt dân tộc học sẽ đặt cơ sở cho những kiến giải về các vấn đề về nội dung truyện cổ tích của các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở hai quốc gia. 6.Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Những kết quả đạt đến của đề tài hy vọng giúp ích cho các vấn đề sau: - Tìm ra mối liên hệ và sự khác biệt giữa truyện cổ các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia để thấy được mối liên hệ cội nguồn văn hóa, ngôn ngữ và những ảnh hưởng đến truyện cổ dân gian cũng như ứng xử văn hóa tộc người hiện đại; - Góp một cách nhìn so sánh về mối liên hệ của truyện cổ tích giữa Việt Nam và Indonesia, hy vọng từ đó mở ra hướng nghiên cứu có ý nghĩa hơn không chỉ đối với ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam, Indonesia mà ở các bộ phận khác; - Những kết quả của đề tài góp phần mở rộng cách nhìn nhận, công tác giảng dạy Văn học dân gian Việt Nam nói chung và truyện cổ tích nói riêng trong sự đối sánh với Indonesia cũng như các nước Đông Nam Á khác.
  11. Chương 1: SỰ PHÂN BỐ CỦA CÁC TỘC NGƯỜI SỬ DỤNG NGỮ HỆ NAM ĐẢO Ở VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á 1.1. Ngôn ngữ - văn hóa Đông Nam Á: bức tranh đa sắc diện 1.1.1. Các ngữ hệ và sự phân bố các tộc người theo ngữ hệ ở Đông Nam Á Việc tiến hành so sánh truyện cổ tích giữa hai dân tộc trên cùng khu vực sẽ bắt đầu từ cội nguồn văn hóa – lịch sử mà ngôn ngữ là nhân tố quan trọng. Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, Đông Nam Á là khu vực có chữ viết muộn, chủ yếu là mượn từ nguồn chữ Hán và các văn tự Ấn Độ. Việc nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á chỉ thực sự bắt đầu từ khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Các học giả phương Tây khi nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á thường tập trung vào hai nội dung chính là miêu tả các ngôn ngữ cụ thể và biên soạn các sách công cụ. Họ cũng đã sử dụng phương pháp so sánh ngôn ngữ học lịch sử để tìm ra mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ. Nhìn chung, sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam Á là công việc khó khăn nhất. Trước đây, các học giả thường xếp các ngôn ngữ của khu vực này vào ba ngữ hệ: ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Nam Đảo và Ngữ hệ Hán – Tạng. Sau nhiều tranh cãi cuối cùng, Tiếng Việt được xếp hẳn vào ngữ hệ Nam Á; còn tiếng Thái thì tách thành một ngữ hệ riêng. Như vậy, hiện nay ở Đông Nam Á có 4 ngữ hệ: 1. Ngữ hệ Nam Á 2. Ngữ hệ Nam Đảo 3. Ngữ hệ Hán – Tạng 4. Ngữ hệ Thái Riêng ngữ hệ Nam Đảo (Malayo – Polinêdia) được phân bố ở các nước như: Ngữ hệ Nam Đảo tập trung đông nhất ở các nước Philippin, Indonesia, Malaixia. Ngoài ra, ngữ hệ này còn được sử dụng ở một số nước: Campuchia, Việt Nam và Xingapo. Nhóm Pôlinêdia chủ yếu ở đại lục Úc và các đảo Nam Thái Bình Dương. Có thể thấy, bức tranh ngôn ngữ Đông Nam Á vô cùng đa sắc đã gần như là một thế giới thu nhỏ với nhiều tộc người sử dụng các hệ ngôn ngữ khác nhau. Điều đặc biệt là địa bàn phân bố ngôn ngữ không mang tính tập trung theo một địa vực, tính chất phân tán của tộc người đã làm nên sự phân tán của ngôn ngữ. Nhưng chính điều này đã làm nên nền văn hóa và văn học đa dạng phong phú của từng vùng lãnh thổ, đồng thời quá trình thiên di của tộc người với ngôn ngữ đã mang theo những nét truyền thống và những đặc điểm thích nghi mới. Văn hóa của các tộc người Nam Đảo (sử dụng ngữ hệ Nam Đảo), với sự khỏi phát từ vùng biển đảo đã để lại dấu ấn trong văn hóa đa đảo rõ nét đến ngày nay như ở Indonesia, Malaysia, Mianma, Philippin; Singapor… Riêng các tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam, quá trình phát triển văn hóa không chỉ dừng lại ở đó khi đến
  12. Việt Nam. Do điều kiện sống, nền văn hóa hải đảo của họ không tiếp tục phát triển mạnh. Sự thích nghi của một nền văn hóa rừng núi đã tạo thêm nét văn hóa đặc thù cho những tộc người này khi di chuyển địa bàn sinh tụ đến miền rừng núi dọc Trường Sơn – Tây Nguyên. Vì vậy sự hòa trộn, chồng lắp các chồng văn hóa trong truyện dân gian trở thành thách đố cho công việc khảo cứu. 1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với quá trình tư duy và phát triển của loài người Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện vật chất để biểu đạt tư duy mà còn là công cụ hoạt động tư duy, tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển của tư duy con người. Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng quan trọng nhất để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Một ngôn ngữ cụ thể bao giờ cũng gắn liền với một tộc người nhất định. Ngôn ngữ là một biểu hiện của văn hóa dân tộc. Cho nên, mối quan hệ giữa lịch sử ngôn ngữ và lịch sử dân tộc là mối quan hệ tương hỗ, có thể đi từ lịch sử ngôn ngữ đến lịch sử dân tộc và ngược lại. Cũng có thể đi từ lịch sử dân tộc để làm sáng tỏ những hiện tượng quá trình và các biến hóa của ngôn ngữ… Những sử liệu về ngôn ngữ sẽ giúp chúng ta trả lời một số câu hỏi về các vấn đề: 1. Môi trường sinh thái mà dân tộc đó đã tồn tại và phát triển; 2. Quan hệ về mặt nguồn gốc giữa các dân tộc anh em (trong một ngữ hệ); 3. Lịch sử phát triển của nền văn hóa dân tộc về các mặt: phạm vi, mức độ phát triển, tính chất và phương hướng chủ yếu của nền văn hóa ấy nh thế nào, đặc trưng cơ bản của nền văn hóa ấy là gì? 4. Mối quan hệ giữa các dân tộc về mặt ngôn ngữ và sự giao tiếp giữa các ngôn ngữ đó như thế nào? Bởi vì, mọi hiện tượng xã hội đều có nghĩa thông tin, truyền đạt, trao đổi … mà ngôn ngữ lại là công cụ để chuyển tải và biểu đạt tất cả những lượng thông tin đó của đời sống con người một cách hiệu quả và hoàn hảo nhất. Do đó, ngành dân tộc học nói riêng và các khoa học nhân văn nói chung có thể sử dụng nguồn tài liệu của ngôn ngữ để nghiên cứu xã hội của các dân tộc. Mặt khác, ngôn ngữ không chỉ là công cụ biểu đạt của những hiện tượng và hoạt động xã hội mà ngôn ngữ còn là một hiện tượng xã hội đòi hỏi được cắt nghĩa bởi những yếu tố xã hội khác. Qua đó, chúng ta thấy rằng giữa lịch sử ngôn ngữ và lịch sử tộc người là mối quan hệ nội sinh, ngôn ngữ là của một dân tộc nhất định, không có ngôn ngữ chung chung. Từ ngôn ngữ, ta có điểm nhìn tham chiếu cho các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn và tất nhiên, văn học dân gian không phải là ngoại lệ.
  13. 1.2. Việt Nam là một bức tranh thu nhỏ của Đông Nam Á: văn hóa đa tộc người và nhiều ngôn ngữ Việt Nam có thể nói là một Đông Nam Á thu nhỏ. Nói một cách khái quát văn hóa Việt Nam là một phức thể gồm 3 yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa miền biển, trong đó yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Điều khác biệt cho phép chúng ta nhận diện văn hóa Việt Nam chủ yếu là do bức tranh cấu tạo tộc người với nền văn hóa của họ và quá trình tích hợp văn hóa để hình thành nên văn hóa quốc gia dân tộc mang tên là Việt Nam. Quả thật, chỉ có ở Việt Nam trong khung cảnh Đông Nam Á mới có một bức tranh đa dạng, đa sắc, đa hương, đa vị như vậy. Đó là những gam màu đậm nhạt khác nhau: nơi giàu chất núi, nơi thấm đượm chất biển, nơi mỡ màng chất đồng bằng. Nói cách khác, cũng là màu xanh nhưng có xanh núi rừng, xanh màu lúa, xanh nước biển. Hơn thế nữa ở đây không chỉ có “đa” mà còn có “ẩn” trong ký ức của thời gian. Thời gian đã dệt nên những bức màn lịch sử với bao sự biến động thăng trầm cũng là nơi hội tụ đủ các bộ tộc thuộc tất cả các dòng ngôn ngữ Đông Nam Á: Nam Á, Nam Đảo, Hán – Tạng, Môn – Khơ me, Việt Mường… Khó có thể đi đến tận cùng sự miêu tả chi tiết văn hóa tộc người. Người Tày – Thái đã có một đóng góp cực kỳ quan trọng vào nền văn hóa Việt Nam. Đó là văn hóa lúa nước. Chính người Việt đã áp dụng mô hình này vào vùng Châu thổ Bắc Bộ và sau này nhân rộng ra cả nước. Trong khi đó các nhóm Môn Khmer đại diện cho văn hóa núi, sống rải rác trên vùng cao làm nương rẫy, ngôn ngữ bị vỡ vụn ra thành từng mảnh. Nhưng đó chính là những cư dân bản địa cổ nhất, còn bảo lưu được những yếu tố tiền cốc loại và những người chủ thực sự của Cao Nguyên. Đặc biệt, người Chăm cùng với các dân tộc Êđê, Giarai, Raglai, Churu tạo thành nhóm ngôn ngữ Nam đảo trên lục địa. Văn hóa Chăm đậm chất biển. Chính người Chăm đã có đóng góp to lớn vào phức thể văn hóa Việt Nam - yếu tố văn hóa biển, làm cho nền văn hóa Việt Nam hội đủ ba yếu tố: núi, đồng bằng và biển. Trong bức tranh đa sắc tộc của Việt Nam, ở phía Bắc có một số bộ tộc nói ngôn ngữ Hán - Tạng, phần lớn là cư dân Tạng Miến và Mèo Dao. Họ là những người chuyển tải văn hóa từ Bắc xuống Nam, mang lại cho văn hóa Việt Nam một chút hương vị phương Bắc, nối Cao nguyên Vân Quý với Châu thổ Sông Hồng và biển Đông. Nhóm H’mông – Dao là một nhóm hỗn hợp mà ngôn ngữ của họ có cơ tầng Môn Khmer và cơ chế Tạng Miến. Người Dao vào Việt Nam sớm hơn người H’mông, sống du canh du cư, làm rẫy, ở nhà đất, nửa đất nửa sàn hay nhà sàn, thờ Bàn vương, khi chết vẫn được đưa hồn về Dương Châu, Trung Quốc. Rất nhiều dân tộc ít người sống xen kẽ với nhau, thậm chí có những nhóm nhỏ bị tách biệt, có nguy cơ bị mất tiếng mẹ đẻ, nhưng họ lại bảo lưu những ngôn ngữ và văn hóa rất xưa và có giá trị lịch sử…
  14. Chỉ với từng ấy thôi chúng ta đã thấy được bức tranh đa sắc tộc của Việt Nam với những nét đặc sắc, phong phú, đa dạng và những mối quan hệ cội nguồn, quan hệ tiếp xúc đan xen chằng chịt trong diễn trình lịch sử của các tộc người sử dụng các ngữ hệ khác nhau. Đặc biệt, người Kinh – những cư dân đồng bằng đã tích hợp được để cùng với các dân tộc khác dệt nên bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam ngày nay. 1.3. Ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia Ngữ hệ Nam Đảo còn gọi là “ngữ hệ Austronesian” hoặc ngữ hệ “Malayo - Polynesian” địa bàn phân bố tương đối rộng lớn: từ Madagasca đến đảo Pacur, từ Đài Loan và Hawaii đến New Zealand (không kể Úc và phần lớn New Papua Guinea), những quốc gia và đảo nhỏ nằm trong khu vực này đều thuộc địa bàn phân bố của ngôn ngữ Nam Đảo. Nhìn từ góc độ khu vực phân bố, số lượng ngôn ngữ (500 - 700 loại) và số lượng người sử dụng (khoảng 200 triệu), ngữ hệ Nam Đảo được xem là một trong những ngữ hệ lớn nhất thế giới. Người Nam Đảo (Austronesian), còn gọi là người Mã Lai – Đa Đảo hoặc Malayo – T 0 1 Polynesien là một nhóm cư dân quan trọng ở Đông Nam Á. Hình thành ở miền duyên hải Hoa Nam, trong vùng từ cửa sông Thanh Giang tới cửa sông Dương Tử, người Nam Đảo tràn đi chiếm cứ một vùng rộng lớn của thế giới. Phía tây họ làm chủ đảo quốc Madagasia (Madagasca hay Malgache) ở 10T vùng biển Đông châu Phi. Họ chiếm cứ bán đảo Mã Lai, Nam Dương quần đảo nam đảo Indonesia và Philippin, tiến xa vào châu Đại Dương. Văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ nước ta và văn hóa Calanay ở Philippin được coi là cùng một hệ, có niên đại mở đầu khoảng năm 1500 TCN. Mộ vò hay chum (tục mai táng người chết trong chum hoặc vò) là một đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh – Calanay. Những kiểu mộ chum này còn tìm được tại đảo Okinawa (Nhật Bản). Rất có thể không chỉ Okinawa mà cả quần đảo Nhật Bản cũng thuộc về phạm trù văn hóa Nam Đảo trong một giai đoạn lịch sử. Địa bàn của người Nam Đảo còn bao gồm cả hải đảo Đài Loan và một số hải đảo hay miền duyên hải Trung Quốc. Trên đảo Đài Loan hiện còn có 15 tộc người thuộc nhóm Nam Đảo. Trong ngữ hệ Nam Đảo, việc xác định nguồn gốc tên họ của ngôn ngữ tương đối khó khăn. Đây không chỉ có vấn đề làm thế nào phân định ranh giới ngôn ngữ và phương ngữ mà còn là vấn đề làm thế nào phán đoán tên gọi ngôn ngữ và danh xưng của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó có phải một hay không. Chẳng hạn tên gọi các phương ngữ tiếng Dayak phía Tây Bắc Kalimantan và Sarawak, theo các số liệu điều tra có đến 70 tên, nhưng qua nghiên cứu cho thấy trong đó một số “phương ngữ” khác nhau rất xa, đến nỗi nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, nên xem chúng là hững ngôn ngữ độc lập riêng biệt. Do đó, chỉ một “ngôn ngữ Dayak” có lẽ đã chứa trong đó cả chục ngôn ngữ khác nhau. Tình hình này gây khó khăn rất lớn trong công tác thống kê ngôn ngữ. Một nguyên nhân
  15. khác dẫn đến tình trạng ngôn ngữ phức tạp này là địa bàn phân bố của ngữ hệ Nam Đảo vẫn còn sử dụng rất nhiều ngôn ngữ Creole và Pidgin, do hoạt động thương mại khu vực này phát triển, nên việc sử dụng tiếng Creole và Pidgin cũng có chiều hướng tăng lên. Ngoài ra, mọi người còn dùng rộng rãi các ngôn ngữ giao tiếp khác nhau (lingua franca)- đặc biệt tiếng Indonesia, tiếng Bazaar Malay, tiếng Hán, tiếng Anh và tiếng Pháp, đây là ngôn ngữ dùng để giao lưu giữa những người nói tiếng mẹ đẻ khác nhau. Tính tương đồng về nguồn gốc một số ngôn ngữ trong ngữ hệ Nam Đảo, do một nhà nghiên cứu người Hà Lan phát hiện đầu thế kỉ XVIII. Trong hơn một thế kỉ sau, số ít các nhà nghiên cứu lấy lý do về mặt nhân chủng, tin rằng tiếng nói của người Indonesia và Polynesia có quan hệ thân thuộc nhưng không có quan hệ gần gũi với tiếng của người Melanesia. Giữa thế kỉ XIX, một nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra các ngôn ngữ Polynesia và Melanesia có nguồn gốc chung. Vào thế kỉ XX, có nhà nghiên cứu đã mô tả tiếng Nam Đảo nguyên thủy (Proto- Austronesian) và bắt đầu tiến hành so sánh các loại hình trong toàn bộ ngữ hệ. song về thành phần cụ thể trong ngữ hệ Nam Đảo, các nhà nghiên cứu có những ý kiến khác nhau. Thông thường có hai phương pháp phân loại, một là chia thành 4 nhóm: Indonesia, Micronesia, Melanesia, Polynesia, hai là chia thành hai nhóm lớn” nhóm Tây (còn gọi là nhóm Indonesia) và nhóm Đông (còn gọi là “nhóm đại dương”, với đảo New Guinea là ranh giới. Sau đây là phần giới thiệu khái quát hai nhóm này: 1. Nhóm Tây (nhóm Indonesia): về số lượng ngôn ngữ trong nhóm này, hiện nay vẫn chưa có số thống kê chính xác, các dự đoán của các nhà ngôn ngữ học có độ chênh lệch khá lớn, thông thường cho vào khoảng 200-400 loại với số người sử dụng gần 200 triệu. phân bố ở Madagascar, Malaysia, Indonesia, Philppin, đài Loan, một phần Việt Nam, Campuchia, cực tây New Guinea. Gồm những ngôn ngữ chính: tiếng Indonesia, tiếng Java, tiếng Sudanese, tiếng Malayo, tiếng Madurese, tiếng Bali, tiếng Madagascar, tiếng Chăm, tiếng Tagalog (tiếng Philippin), tiếng Bicol, tiếng Hiligaynon, tiếng Ilocano, tiếng Pangasinan, tiếng Pampangan, tiếng Minankabau, tiếng Batak, tiếng Maranao, nhóm ngôn ngữ hoặc phương ngữ của dân tộc Cao Sơn – Đài Loan (bao gồm tiếng A – mei, tiếng Paiwan, tiếng Bunun…0, tiếng Jarai…v.v., và tiếng Chamoro, tiếng Palau tuy được sử dụng ở khu vực Micronesia phía Đông nhưng về ngữ hệ lại gần với nhóm Tây hơn. 2. Nhóm Đông (còn gọi là “nhóm Đại Dương”): gồm khoảng 300 ngôn ngữ, tổng số người sử dụng chỉ trên 1 triệu. Phân bố phần lớn các vùng thuộc New Guinea, và trên 10000 đảo thuộc Melanesia, Micronesia và Polynesia. Nhìn từ góc độ địa bàn phân bố và ngôn ngữ học, các ngôn ngữ nói trên thật vô cùng phong phú và đa dạng. Nhóm Đông còn được chia thành ba nhánh: Polynesia, Micronesia và Melanesia.
  16. (1) Nhánh Polynesia: Gồm khoảng 16 ngôn ngữ, phân bố khắp khu vực phía Đông đường phân chia ngày quốc tế. địa bàn này có hình tam giác, ba góc là Hawaii, đảo Pacua và New Zealand, trong đó có toàn bộ những đảo thuộc Trung Bộ và phía Đông Thái Bình Dương. Gồm các ngôn ngữ chính sau: tiếng Maoris, tiếng Samoa, tiếng Tonga, tiếng Tahiti, tiếng Uvean (còn gọi tiếng Wallisian), tiếng Hawaii, tiếng Niue, tiếng Rarotonga, tiếng Rarotonga, tiếng Tuamotuan, tiếng Marquesan… Nhìn từ góc độ địa lý, dù nằm cách xa nhau nhưng các ngôn ngữ Polynesia vẫn có tính thống nhất khá cao trong nội bộ, thậm chí một số ngôn ngữ có thể trao đổi và hiểu nhau ở mức độ nhất định. (2) Nhánh Microesia: gồm 9-10 ngôn ngữ, phân bố phía Bắc Melanesia, nằm giữa Philippin và khu tam giác Polynesia. Các ngôn ngữ chính có tiếng Gilberese (Ikiribati), tiếng Marshallese, tiếng Truk, tiếng Ponapean, tiếng Nauru,… Tiếng Chamoro sử dụng ở đảo Guam và tiếng Palau sử dụng ở quần đảo Palau, tuy nhìn từ góc độ địa lý là thuộc khu vực Micronesia nhóm Đông nhưng về phổ hệ gần với nhóm Tây (nhóm Indonesia) hơn, vì thế không ít các nhà ngôn ngữ học chủ trương xếp chúng vào nhóm Tây. (3) Nhánh Melanesia: chúng ta còn hiểu biết rất ít về các ngôn ngữ thuộc nhánh này, do đó hiện nay chưa thể thống kê chính xác số lượng ngôn ngữ của khu vực. Song có thể khẳng định đại đa số các ngôn ngữ thuộc nhóm Đông đều tập trung vùng này. Ước tính nhánh Melanesia có hơn 200 ngôn ngữ. Chúng phân bố ở Fiji – phía Nam xích đạo, New Guinea, New Britain, New Ireland, quần đảo Sosomon, quần đảo New Hebrides và đảo New Caledonian,… Các ngôn ngữ đều có số lượng người sử dụng rất ít, từ vài trăm đến vài ngàn, chỉ có tiếng Fiji là có số người sử dụng nhiều: tiếng Motu, tiếng Kerebuto. Rất khó đưa ra một mô tả khái quát về những đặc điểm chung của ngữ hệ Nam Đảo do tính chất muôn hình vạn trạng của các ngôn ngữ thành phần. Nói chung nhóm ngôn ngữ Đại Dương có rất ít; sự thay đổi hình thái của các danh từ và động từ thường khá đơn giản; việc lặp lại từ gốc động từ có thể diễn đạt nhiều chức năng từ thường dùng phần nhiều song âm tiết; trong hệ thống đại từ, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số nhiều có hai hình thức “chúng ta” (inclusive personal pronoun) và chúng tôi (exclusive personal pronoun); tên riêng, danh từ chung, danh từ chỉ phương hướng phải them vào đó những quán từ khác nhau; trật tự từ thông thường là chủ ngữ - động từ - tân ngữ, tuy nhiên, ở nhóm ngôn ngữ Polynesia là động từ - chủ ngữ - tân ngữ; đa số từ gốc vừa có thể dùng làm danh từ, vừa có thể dùng làm động từ, nhánh Tây về ngữ âm và hình thái càng tỏ ra bảo thủ hơn, càng ít biến hóa hơn so vói nhánh Đông. Do khác biệt quá lớn về kết cấu giữa những ngôn ngữ Nam Đảo, nên các nhà nghiên cứu ước đoán lịch sử phát triển ngữ hệ Nam Đảo trải qua ít nhất 4000 năm. Những chứng cứ khảo cổ học và ngôn ngữ học cho thấy ngữ hệ Nam Đảo có khả năng hình thành từ New Guinea. Nhưng dù những
  17. năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu rộng rãi ngữ hệ Nam Đảo, lịch sử sơ khởi của ngữ hệ này vẫn còn nhiều điểm khá mơ hồ, luôn gây tranh cãi, việc phân loại trong nội bộ ngữ hệ cũng không thống nhất. Về bối cảnh và chi tiết cuộc di dân các dân tộc ngữ hệ Nam Đảo cho đến nay vẫn còn mơ hồ. Song có vết tích chứng tỏ, từ hơn 1500 năm trước, họ đã lần lượt định cư trên các đảo thuộc Thái Bình Dương. Sau đó một nhánh trong tộc Malay – Polynesia tách ra từ Kalimantan – Indonesia ngày nay di cư về phía Tây, sau cùng đến đảo Madagascar châu Phi; họ chính là tổ tiên của cư dân quần đảo Madagascar ngày nay. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao địa bàn phân bố ngữ hệ Nam Đảo lại rộng lớn đến thế. Chữ Indonesia xuất phát từ từ Indus trong tiếng Latinh, có nghĩa "Ấn Độ", và từ nesos T 7 T 7 trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa "hòn đảo". Tên gọi này đã có từ thế kỷ 18, rất lâu trước khi nhà nước T 7 7T P P Indonesia độc lập hình thành. Năm 1850, George Earl, một nhà phong tục học người Anh, đã đề T 7 T 7 xuất thuật ngữ Indunesians — và, từ được ông thích hơn, Malayunesians — để chỉ những người dân sống trên "Quần đảo Ấn Độ hay Quần đảo Malaya". Cũng trong bài viết đó, một sinh viên của Earl là James Richardson Logan, đã sử dụng Indonesia như một từ đồng nghĩa với Quần đảo Ấn Độ. Tuy nhiên, các tài liệu của viện hàn lâm Hà Lan viết về Đông Ấn đã lưỡng lự trong việc sử dụng T 7 T 7 Indonesia. Thay vào đó, họ dùng thuật ngữ Quần đảo Malay (Maleische Archipel); Đông Ấn Hà Lan (Nederlandsch Oost Indië), khái quát chung Indië; phương Đông (de Oost); và thậm chí Insulinde. Indonesia là một kết hợp của khoảng 250 chủng tộc, phần đông có họ hàng gần gũi với nhau trên phương diện ngữ học và nhân chủng học thuộc nhóm tộc Mã Lai. Nhiều chủng tộc còn giữ được truyền thuyết là tổ tiên họ di cư đến bằng thuyền từ phương bắc. Trên đảo Java đã đào được nhiều trống đồng cùng kiểu với trống đồng Đông Sơn. Nhiều sách giáo khoa lịch sử Indonesia dạy 7T T 7 bài mở đầu với nền văn minh trống đồng. Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy 7T T 7 T 7 T 7 quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước. Người Austronesian, là T 7 T 7 cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesian bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi T 7 T 7 họ mở rộng lãnh thổ. Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm T 7 T 7 từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với T 7 7T nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên. Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia.
  18. Indonesia ở Đông Nam Á là quần đảo giữa Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương, Tây Bắc giáp Malaysia, Đông giáp Papua New Guinea. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Indonesia ( tiếng Bahasa Indonesia) có nguồn gốc tiếng Malay (ngôn ngữ thương mại Malaysia thời thuộc địa). Do phạm vi sử dụng rộng rãi tiếng Indonesia được xem là nền tảng tiếng nói chung của các dân tộc. Ngoại trừ một số ngôn ngữ miền Đông (chủ yếu là tiếng Marinde và tiếng Ningbola) có quan hệ với ngôn ngữ Papua, các ngôn ngữ khác đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (hoặc gọi là ngữ hệ Malayo – Polynesian). Phạm vi phân bố của ngữ hệ này khá rộng từ đảo Madagasca chạy đến Đông Nam Á và các quần đảo Melanessia, Micronesia và Polynesia. Tuy nhiên, 80% số người sử dụng các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo đều sinh sống ở Indonesia và trên 50% số đó tập trung ở đảo Jawa. Tiếng Jawa, một ngôn ngữ lớn ít được nhiều người biết đến trên thế giới, có đến hơn 80 triệu người sử dụng (gồm cả những người dùng làm ngôn ngữ thứ hai). Mẫu tự, ngữ pháp và thay đổi thanh điệu đều hoàn toàn không giống với tiếng Indonesia. Tiếng Jawa, tiếng Sundanese và tiếng Madurese đều có truyền thống văn học rất lâu đời. Ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam có 5 dân tộc sử dụng : Giarai, Êđê, Chăm, Ra-glai, Churu. Dân tộc Chăm ở việt nam còn có tên gọi khác là Chàm, Chim Thành, Hời, sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân cư là người Chăm; Tây Nam Bình Định và Tây Bắc Phú Yên có người Chăm thuộc nhóm Hroi. Ngôn ngữ: Tiếng Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo ( Malayô – Polinêsien) của ngữ hệ Nam Đảo ( Autronesian). Tôn giáo: Bên cạnh tôn giáo bản địa, người Chăm theo đạo Hồi và đạo Bà – La – Môn. Đạo Hồi có hai nhóm: Bàni ( Hồi giáo cũ), Ixlam (Hồi giáo mới), đạo Bà – La – Môn thu hút khoảng 3/5 dân số Chăm vùng Ninh Thuận, Bình Thuận. Dân tộc Ê đê hay còn có tên gọi khác là Rađê, Đê, Kpa, Adham, Krung, Ktul, Dlie Ruê, Blô, Êpan, Mdhur, Bich, cư trú tập trung ở tỉnh Đaklak, phía nam của tỉnh gia lai và miền tây của 2 tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên của Việt Nam. Tại một số quốc gia khác như Campuchia, Thái lan, Hoa kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một số người Ê đê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức. Ngôn ngữ: người Ê đê thuộc ngôn ngữ mã lai- polinesia, so với các dân tộc ít người khác tại việt nam, người Ê đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái la tinh khá sớm, có chữ viết từ thập niên 1920. Năm 2006 đã phát hành 20 ngàn cuốn kinh thánh tân ước song ngữ Ê đê - việt tại Việt nam. Dân tộc Giarai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi tây nguyên, có khoảng 24 vạn người sinh sống tập trung ở tỉnh gia lai (90%), một sổ ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía bắc tỉnh Đaklak (4%). Ngoài ra, dân tộc Giarai còn cư trú rải rác ở các tỉnh Bình định, Ninh thuận, Bình Thuận….khoảng vài ngàn người sinh sống tại khu vực Karatanakiri, Campuchia nhưng chưa có số
  19. liệu chính thức. Dân tộc Giarai cón có tên gọi khác La giơ – rai và gồm các nhóm địa phương: tơ – buăn, mthur, hdrung, chor, arap. Người Giarai có tiếng nói gần gũi với tiếng Ê đê, Chăm, Raglai, Churu, thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo và nằm trong nhóm ngôn ngữ Malayô – Polinesia. Dân tộc Ra glai còn viết Lá ra - Glai hoặc Raglai. Còn có tên gọi khác là Ra Glây, Hai, Noana, La vang. Là dân tộc thiểu số thuộc hệ ngôn ngữ Malayo – Polinêsia. Cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận, phía nam tỉnh Khánh Hoà và phía bắc tỉnh Bình Thuận. Dân tộc Churu là một dân tộc ít người ở Lâm Đồng và một số ít ở tỉnh ninh thuận, bình thuận. Ngoài ra còn có tên gọi khác là Chơru, Kru, Thượng. Ngôn ngữ: tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô – polinesia, gần với tiếng chăm. một bộ phận người Churu sống gần với người Cơ ho nên nói tiếng cơ ho (thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer). Theo những giải thích về nhân chủng học như trong bài viết “Cuộc xâm lăng của Thủy Tinh”, những nghiên cứu của PGS TS Đặng Việt Bích về con đường di chuyển của người Nam Đảo được diễn giải như sau: Nhìn chung, sự phân bố cư dân thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam đã được thống nhất trong giới khoa học. Các nhà khoa học đã xác nhận có một sự tiến công của người Nam Đảo vào bán đảo Đông Dương. Họ đã tiến công và chiếm cứ được duyên hải miền Trung suốt từ sông Gianh qua Hải Vân vào tới Nam Bộ. Cả vùng này vốn là lãnh thổ cư trú của các nhóm Môn – Khơme. Từ Quy Nhơn người Nam đảo theo nhiều con đường tràn lên Tây Nguyên, tranh chấp đất đai với các nhóm Môn – Khơme cư trú lâu đời trên cao nguyên. Tại duyên hải Trung Bộ, từ sông Gianh trở vào Nam, về sau này người Nam đảo đã thiết lập được quốc gia riêng của họ, đó là vương quốc Chăm Pa (hay còn gọi là Chiêm Bà, Chiêm Thành, nước Hồ Tôn Tinh…) tồn tại từ cuối thế kỷ II (193), chấm dứt hoàn toàn ở cuối thế kỷ XVII (1693). Người Nam đảo cũng tiến công vào vùng vịnh Bắc Bộ, song không thu được kết quả như ở phía Nam. Họ chiếm cứ được vùng Vân Đồn và vùng đất của tỉnh Quảng Ninh ngày nay (rất có thể người Nam đảo là chủ nhân của văn hóa Hạ Long), song không chiếm sâu được vào vùng đất sông Hồng, sông Mã. Không thể phủ nhận, tộc người Nam đảo là một trong ba nhóm tộc người – ngôn ngữ lớn chủ T 0 1 yếu ở Đông Nam Á. Tộc người này đóng vai trò quan trọng ở Malaysia, Indonexia, Philippines. Việc tìm hiểu nguồn gốc xuất phát của những người Nam Đảo ở Việt Nam, không tách rời công cuộc nghiên cứu nguồn gốc và những đợt di dân của những người Nam Đảo trên thế giới. Chính vì vậy, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc giải quyết vấn đề nguồn gốc xuất phát của những người Nam Đảo ở Việt Nam. Những nhà nghiên cứu ủng hộ giả thuyết của
  20. R.Heiner Geldern cho rằng họ từ miền duyên hải Nam Trung Hoa trên đường di cư xuống phía Nam và dừng chân trên địa bàn miền Nam Đông Dương. Ý tưởng thứ hai cho rằng họ từ miền duyên hải Nam Trung Hoa trên đường di cư đến các vùng đảo ở Đông Nam Á, sang Tân Madagasca rồi từ đó mới di cư đến miền Nam Đông Dương… Những ý tưởng gần gũi với quan điểm của W.G.Solheim II thì cho rằng nguồn gốc xuất phát của người Nam Đảo ở Việt Nam là từ các vùng hải đảo thuộc châu Úc di cư về phía Bắc… Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, những người Nam Đảo ở Việt Nam là một bộ phận cư dân Malayo – Polinesien ở Indonesia, đặc biệt từ các đảo phía Đông Kalimantan (Brunei) di cư đến… Đây là ý kiến của W.F. Stutterheim được đăng tải trong bài viết Lịch sử những mối tương quan giữa Đông Dương và Java trong thời cổ, Văn hóa Á Châu, số 10 năm 1959, trang 77-85. Theo tác giả Nguyễn Tuấn Triết, “cội nguồn lịch sử của những người Mã Lai – Đa đảo ở Việt Nam là một trong những hệ quả từ quá trình thiên di của lớp người Deutero – Malais vào thời đồ đá. Trong quá trình thiên di ấy, một bộ phận của lớp người này đã tiếp cận và dừng chân trên vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Bộ phận này tụ cư thành nhiều nhóm trên khắp địa bàn miền Trung và Nam trung bộ. Chính những người này và con cháu của họ đã sáng tạo ra phức hệ văn hóa bàu Trám – Sa Huỳnh được các nhà Khảo cổ học xếp vào thời sơ sử2” F 1 P P Từ những chiến thuyền trên biển, người Nam đảo đổ bộ xuống đất liền, tiến hành xâm nhập vào miền Trung nước ta bây giờ vào khoảng 1500 TCN. Lúc bấy giờ, đây là địa bàn sinh sống của các nhóm Môn – Khơme. Ban đầu chỉ là những nhóm nhỏ, sống đan xem với các nhóm Môn – Khơme. Người Nam đảo dần quần tụ lại, thành một thế lực lớn mạnh, bắt đầu phát động tấn công đánh đuổi người Môn – Khơme, chiếm cứ đất đai của họ. Trước sự tấn công dồn dập, mãnh liệt của người Nam đảo dũng mãnh, hiếu chiến, các bộ lạc người Môn – Khơme tồn tại một cách đơn lẻ do địa hình duyên hải miền Trung bị chia cắt thành những châu thổ nhỏ hẹp của nhiều con sông, không quy tụ được sức mạnh nên lần lượt bị đánh bại. Người Nam đảo chiếm lĩnh một vùng đất suốt từ vùng Nam đèo Ngang cho đến Bình Thuận, có thể lên đến cả Tây Nguyên, chia cắt nhóm Môn – Khơme vốn cư trú lâu đời tại đây thành hai nhóm Nam và Bắc như ta thấy ngày nay. Trong vài trăm năm, người Nam đảo đã xây dựng được một thế lực hùng hậu ở miền Trung nước ta, họ cũng phát triển nhiều mặt về kinh tế và quân sự, có thể được coi là một liên minh bộ lạc hoặc một nhà nước riêng tại duyên hải miền Trung, có sức mạnh không thua kém gì bộ Văn Lang của Hùng Vương thời bấy giờ. Và khi đạt tới độ phát triển cực thịnh, ý đồ Bắc tiến tấn công vào vùng đồng bằng Bắc Bộ của người Nam đảo dần được hình thành. Theo ý kiến của PGS. Đặng Việt Bích, cuộc tiến công của người Nam đảo vào miền Bắc có thể diễn ra vào thời kỳ văn hóa Gò Mun 2 Trang 18, Nguyễn Tuấn Triết (2000), Lịch sử phát triển xã hội các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam, NXB Khoa học – Xã hội Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0