intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:321

104
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông) trình bày về vùng đất và sử thi Tây Nguyên; thế giới nhân vật thần linh và mối quan hệ với con người trong sử thi Tây Nguyên; thế giới nhân vật thần linh trong mối quan hệ với thi pháp sử thi Tây Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Hương Thơm THẾ GIỚI THẦN LINH TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Hương Thơm THẾ GIỚI THẦN LINH TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Ngọc Điệp Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Trước hết, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn đến quí thầy cô trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Phòng sau Đại học, Thư viện trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, các thầy cô và bạn bè đã hết lòng nhiệt tình đóng góp ý kiến, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học và luận văn. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các bạn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2012 Học viên Nguyễn Thị Hương Thơm
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Chương 1: VÙNG ĐẤT VÀ SỬ THI TÂY NGUYÊN .........................................19 1.1. Vùng đất Tây nguyên .........................................................................................19 1.1.1. Đặc điểm các tộc người Ba-na, Ê-đê , Mơ-nông ở Tây nguyên ..............19 1.1.2. Đời sống vật chất và tinh thần của tộc người Ba-na, ê-đê, Mơ-nông ở Tây nguyên......................................................................................................20 1.1.3. Tâm thức thần linh, “Vạn vật hữu linh” trong đời sống tinh thần người Tây nguyên ..............................................................................................27 1.2. Sử thi Tây nguyên ..............................................................................................36 1.2.1. Thuật ngữ “Sử thi”....................................................................................36 1.2.2. Đôi nét về sử thi Tây nguyên....................................................................37 1.2.3. Tổng quan về Sử thi của ba dân tộc Ê-đê, Ba-na, Mơ-nông ....................41 Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI CON NGƯỜI TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN ...........................47 2.1. Một số khái niệm ................................................................................................47 2.1.1. Khái niệm thần linh .................................................................................47 2.1.2. Khái niệm nhân vật thần linh – một kiểu nhân vật đặc biệt trong tác phẩm nghệ thuật .......................................................................................48 2.1.3. Khái niệm nhân vật bán thần ...................................................................49 2.1.4. Khái niệm thế giới thần linh ....................................................................49 2.2. Thế giới nhân vật thần linh trong Sử thi Tây nguyên ........................................49 2.2.1. Nhân vật thần linh trong Sử thi Tây nguyên ...........................................49 2.2.2. Nhân vật bán thần linh trong Sử thi Tây nguyên .....................................70 2.2.3. Mối quan hệ giữa nhân vật thần linh với nhau và giữa thần linh với bán thần ..........................................................................................................75 2.3. Mối quan hệ giữa thế giới nhân vật thần linh và con người trong sử thi Tây nguyên .......................................................................................................................79 2.3.1. Thế giới nhân vật thần linh tác động đến cuộc sống của con người .......79 2.3.2. Sự tác động trở lại của con người đến thế giới thần linh .........................86
  5. 2.3.3. Sự hòa hợp giữa người và thần ................................................................89 Chương 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT THẦN LINH TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI THI PHÁP SỬ THI TÂY NGUYÊN ............................................................95 3.1. Thế giới nhân vật thần linh - phương thức nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống tinh thần các tộc người Tây nguyên .................................................................95 3.1.1. Quan niệm về con người...........................................................................95 3.1.2. Quan niệm về thế giới ..............................................................................99 3.2. Thế giới nhân vật thần linh - phương thức nghệ thuật tham gia vào cấu trúc tác phẩm Sử thi Tây nguyên .........................................................................................108 3.2.1. Mở rộng hệ thống nhân vật .....................................................................110 3.2.2. Mở rộng không gian nghệ thuật .............................................................118 3.2.3. Thúc đẩy cốt truyện, giải quyết tình huống sử thi ..................................125 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................133 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................135
  6. MỞ ĐẦU 1. LÍ do chọn đề tài 1.1. Sử thi là tài sản vô cùng quý báu không chỉ của riêng kho tàng văn học dân gian mà còn của văn hóa nhân loại nói chung. Được tìm thấy muộn hơn so với những sử thi trên thế giới như Mahabharata, Ramayana (Ấn Độ), Iliat, Ôđixê (Hy Lạp), … nhưng sử thi Tây Nguyên nói chung cũng đã góp cho kho tàng sử thi nhân loại thêm phong phú, đa dạng. Mặc dù được phát hiện và sưu tầm cách đây không lâu nhưng những sử thi các dân tộc trên “vùng đất thiêng” này lại được xác định là sử thi cổ sơ, ra đời trong giai đoạn tiền giai cấp, chưa hình thành nhà nước. Nghiên cứu về sử thi của các dân tộc này, chúng tôi được tiếp cận với cái đẹp theo cách nguyên sơ, thuần phác nhất. 1.2. Một lí do mang tính cá nhân là người viết sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tây Nguyên huyền thoại này. Nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên là cách giúp người viết có cơ hội hiểu sâu hơn về quê hương, xứ sở; về nền văn hóa “đặc sản” “có một không hai” này. 1.3. Sử thi là thể loại được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, đồng thời là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều nhà nghiên cứu với mục đích gặt hái những thành tựu về văn hóa cũng như văn học dân gian. Nghiên cứu về thế giới thần linh trong các sử thi Tây Nguyên một cách có hệ thống để khám phá cái đẹp hấp dẫn đầy lôi cuốn của tư duy thần thoại và tâm thức thần linh “tươi mát và sinh động” của con người nơi đây. Những kết quả của nghiên cứu có thể sử dụng trong việc giảng dạy thể loại sử thi. Đi vào một số sử thi, đặc biệt là sử thi anh hùng, người viết thấy rằng: nhân vật thần linh xuất hiện với một tần số dày đặc trong các tác phẩm. Đây là một đặc điểm quan trọng góp phần thể hiện tư duy nguyên thủy thô sơ, hồn nhiên của nhân dân trong một thời kỳ lịch sử “một đi không trở lại”. Nghiên cứu về thế giới thần linh trong các sử thi tiêu biểu của Ê-đê, Ba-na, Mơ- nông để thấy được những nét đặc sắc riêng về văn học dân gian cũng như văn hóa các dân tộc thiểu số sống trên vùng đất cao nguyên đầy nắng và gió này. Với những hứa hẹn và hấp dẫn mà vấn đề đem lại, người viết mạnh dạn thực hiện đề
  7. tài: “THẾ GIỚI THẦN LINH TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN” (Sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông). 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu về thế giới thần linh trong sử thi Quan niệm về thế giới thần linh của một số nhà nghiên cứu nước ngoài: trong công trình Sử thi thần thoại M’Nông, NXB KHXH, 1996, Đỗ Hồng Kỳ đã nhắc đến yếu tố phi lí trong sử thi mà Arixtôt bàn đến. Tuy không đề cập yếu tố thần linh nhưng Arixtôt đã chỉ ra cái khác thường trong sử thi. Theo ông, sử thi có thể biểu hiện cái phi lí, nguồn gốc của sự khác thường. Thiết nghĩ, đây cũng là xuất phát điểm của yếu tố thần linh trong tác phẩm sử thi. Qua công trình này, Đỗ Hồng Kỳ cũng nêu lên nhận định của Hêghen “con người trong sử thi chứa trong lồng ngực nó tất cả các thần”. Như vậy, yếu tố thần linh và kho tàng thần thoại là cơ sở, là chất liệu trong việc nhào nặn nên con người trong sử thi. Tuy không đề cập trực tiếp về thế giới thần linh nhưng Hêghen đã nêu lên vai trò của các yếu tố thần linh trong sử thi anh hùng. V.Prôp khi bàn về đặc tính chủ yếu của sử thi anh hùng đã cho rằng mức độ con người chinh phục và làm chủ tự nhiên tỉ lệ thuận với mức độ suy sụp lòng tín ngưỡng của con người với các thần chủ: “các vị thần này từ chỗ là những người phân phát những của cải và hạnh phúc đã biến thành những quái vật hung tợn mà nhân vật anh hùng trong sử thi phải giao tranh” [117; tr.122]. Theo Mê-lê-tin-xki, đề cập đến nhân vật thần linh nhưng nhận xét của Prôp ở một số trường hợp còn chưa phù hợp. Bởi lẽ không phải tất cả những quái vật đánh nhau với người anh hùng đều là những thần linh bị “thất sủng”. Những cuộc chiến tranh này không phải bao giờ cũng thể hiện sự tan vỡ về niềm tin tâm linh mà ngược lại nó là biểu hiện của tư duy nguyên thủy của con người trong việc lí tưởng hóa cái quá khứ dân chủ, tuyệt đối. Xét từ thực tế tác phẩm sử thi, nhận xét trên của Mê-lê- tin-xki là hoàn toàn có cơ sở. Nghiên cứu về thế giới thần linh trong sử thi của một số nhà nghiên cứu trong nước: Phan Đăng Nhật với bài viết Mo lễ tang – một pho thần thoại và sử thi Mường – Việt đồ sộ cho rằng thần thoại Mường và thần thoại Hy Lạp sở dĩ có giá trị tinh thần vô cùng quý báu, là niềm tự hào của từng dân tộc là vì nó có “một thế
  8. giới thần đi lại, bay lượn hoạt động rất nhộn nhịp” [61; tr.187]. Bài viết dừng lại ở mức độ trích kể tóm lược quá trình đoàn người đưa hồn người chết lên Mường Trời, đi qua các mường thần linh có các vị thần ngự trị. Cuối cùng, tác giả kết luận “thế giới thần là tấm gương phản chiếu xã hội loài người” [61; tr.196]. Mục đích của bài viết là mượn yếu tố thần linh để giải thích quá trình hình thành và phát triển con người và lịch sử xã hội loài người chứ không đi vào phân tích vai trò của yếu tố thần linh. Bên cạnh đó, Phan Ngọc trong bài “Đẻ đất đẻ nước”- bản sử thi đầu tiên của nền văn học Việt – Mường đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1986 cũng nhắc đến mối quan hệ giữa thế giới trần gian và thế giới thần linh. Ông cho rằng thần linh trong sử thi Mường không hề chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán hay Ấn Độ mà là do tư tưởng vạn vật hữu linh của Đông Nam Á. Giống như những nhà nghiên cứu trên, Phan Ngọc mới nêu lên nhận định chứ chưa giải quyết luận điểm. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, 2005, có đề cập về thế giới thần linh nói chung dưới góc độ vai trò của thần thánh và yếu tố thần linh trong các sử thi. Tuy nhiên, phần viết này chỉ là một điểm nhỏ trong những đặc điểm về nội dung của sử thi anh hùng nói chung mà tác giả trình bày. Các nhà nghiên cứu chủ yếu nêu ra vấn đề mà chưa giải quyết một cách hệ thống vấn đề. Khía cạnh này người viết sẽ thể hiện chi tiết, cụ thể trong luận văn của mình. 2.1. Nghiên cứu về thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật, bảo quản, biên soạn và xuất bản về sử thi diễn ra cũng hết sức khẩn trương và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trên tinh thần đó, thế giới thần linh cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập đến. Có thể kể đến Phan Đăng Nhật với một loạt những bài nghiên cứu. Trong bài viết Sử thi Tây Nguyên với hiện thực lịch sử Tây Nguyên (Nghiên cứu sử thi Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001), tác giả trình bày quan niệm về thế giới siêu nhiên của con người Tây Nguyên bao gồm ba cấp độ: thần (thần ông Trời, thần sấm, thần mưa, thần chiến tranh, thần diều hâu, …), giàng (các thần cây cối và thần săn bắn, …) và hồn (Pơ Ngol). Ông cho rằng thế giới siêu nhiên này có mối quan hệ mật thiết, hòa hợp với đời sống con người bởi dù miêu tả
  9. thần hay người, sử thi đều xuất phát từ hiện thực lịch sử, xã hội và con người. Cùng chung ý kiến với Phan Đăng Nhật là Tô Ngọc Thanh. Trong công trình Giữ gìn phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc do Ty Văn hóa và thông tin Gia-lai - Kon-tum, xuất bản năm 1981, tác giả Tô Ngọc Thanh cho thấy yếu tố thần linh ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống tâm linh con người Tây Nguyên. Họ quan niệm muôn vật, bất kỳ cái gì cũng có hồn ngự trị: hòn sỏi, hòn đá, lá cây, giọt sương, …. Tìm hiểu cụ thể một số sử thi thì ý kiến của Phan Đăng Nhật và Tô Ngọc Thanh đưa ra là rất chính xác. Trong công trình nghiên cứu của Viện Dân tộc học Các dân tộc ít người ở Việt Nam (1984), các tác giả khi viết về một số tộc người ở Tây Nguyên đã cho rằng thần K’du hay Gơhônh là những vị thần tối cao? Theo người viết gọi như thế là chưa chính xác vì sử thi Tây Nguyên ra đời trong giai đoạn tiền nhà nước, chưa phân chia giai cấp và cũng chưa có mâu thuẫn xã hội gay gắt. Và như vậy, chưa thể tập hợp một hệ thống thần linh có đẳng cấp hay một điện thần như đỉnh Olympia trong sử thi Hy lạp, thì cũng không thể có thần linh tối cao. Hơn nữa, vũ trụ quan của người Tây Nguyên là tín ngưỡng ba tầng (trời, mặt đất, dưới đất), mỗi tầng đều có buôn thần linh trị vì, không ai là nhân vật thần linh cai quản của cả ba tầng này cả. 2.1.1. Nghiên cứu thế giới thần linh trong sử thi Ba-na Phan Thị Hồng trong công trình Nhóm sử thi dân tộc Bahnar đã nêu lên vai trò của yếu tố thần linh “người Bahnar KonTum như các cư dân Tây Nguyên khác, có niềm tin về sự tồn tại của thế lực siêu nhiên với đông đảo các vị thần (Yàng)” [65; tr.26]. Theo tác giả, thần thánh vừa là nỗi kinh sợ vừa là chỗ dựa, niềm tin của con người nơi đây. Hướng tiếp cận mà Phan Thị Hồng đặt ra thiên về phong tục, tín ngưỡng. Yếu tố siêu nhiên, thần thánh góp phần làm phong phú thêm văn hóa, đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Cũng trong tác phẩm này, khi trình bày về nhân vật anh hùng – nhân vật trung tâm của sử thi, tác giả khẳng định thế giới thần thánh, tâm thức thần linh chính là nền tảng để người dân khắc họa hình ảnh người anh hùng: “từ thế giới của thần linh đến thế giới của người trần nơi các buôn làng, đó là sự hình dung về
  10. nguồn cội của nhân vật người anh hùng sử thi Bahnar”[65; tr.64]. Có thể nói, Phan Thị Hồng khi đề cập đến yếu tố thần linh là nhằm nhấn mạnh nguồn gốc xuất thân thần thánh của nhân vật anh hùng trong sử thi Ba- na. Như vậy, nữ tác giả của công trình nghiên cứu về Nhóm sử thi dân tộc Bahnar đã có nhắc đến thế giới thần linh nhưng dưới hình thức lướt qua nhằm phục vụ cho việc làm rõ luận điểm của mình. Tác giả không có ý định trình bày vấn đề thần linh một cách hệ thống, chuyên sâu. Mới đây, trên tạp chí Văn hóa dân gian số 5/2010, trong bài viết “Giấc mơ và việc giải mã những giấc mơ của người Ba na”, tác giả Trung Thị Thu Thủy cho rằng giấc mơ là cầu nối tâm linh giữa con người và thần linh: “giấc mơ chính là khoảnh khắc được biệt đãi, trong đó con người, thông qua linh hồn mình, có thể tiếp xúc với thần linh hay linh hồn của tổ tiên” [144; tr.43]. Mục đích của bài viết là bàn về giấc mơ và ý nghĩa của những giấc mơ đó trong đời sống tinh thần của người dân Ba-na. Qua đó thấy được trong tâm thức của người Ba-na, thế giới thần linh luôn có mối quan hệ gần gũi với con người. Tuy nhiên, vấn đề mà tác giả bài viết đặt ra chủ yếu xét trên bình diện dân tộc học, văn hóa học. 2.1.2. Nghiên cứu thế giới thần linh trong sử thi Ê-đê Đỗ Hồng Kỳ với phần nghiên cứu về Văn học dân gian Ê-đê, Mơ Nông khi trình bày những nét chung về tộc người Ê-đê, trong phần đời sống tinh thần, có nêu lên tín ngưỡng ba tầng của dân tộc này (tầng trời, tầng mặt đất, tầng dưới đất và mỗi tầng đều có thần linh ngự trị). Ở phần khác, nhà nghiên cứu có phân loại và mô tả về một số nhân vật thần linh trong quan niệm tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” của tộc người Ê-đê. Tuy nhiên, Đỗ Hồng Kỳ cũng chỉ trình bày về các nhân vật thần linh dựa trên những kiến thức tổng hợp điền dã thực tế tại buôn làng, tức là những kiến thức về dân tộc học. Đến phần nói về nhân vật thần linh trong sử thi Ê- đê, tác giả chỉ đề cập đến hai nhân vật phụ là ông Trời và bà Duôn Sun. Phan Đăng Nhật trong bài Tín ngưỡng dân gian Ê-đê và nghệ thuật sử thi Ê- đê cho biết tín ngưỡng của người Ê-đê rất nặng về nghi lễ thờ cúng. Thậm chí, nghi lễ diễn ra suốt năm suốt tháng, việc gì cũng cúng lễ. Và nguyên nhân sâu xa của tình hình này là do “quan niệm về hồn, thần linh và cả giới thần linh của người Ê-
  11. đê” [61; tr.166]. Quan niệm vạn vật đều có hồn vía, thần linh đem lại nhiều hệ quả trong đời sống của họ. Cũng tác giả này, trong bài viết Chi Lơ Kôk – một trong những sử thi tiêu biểu – 1999, khi bàn về đề tài mối quan hệ xã hội trong sử thi trên, ông có nêu lên mối quan hệ giữa thần linh và con người “Xét về mặt quan hệ đối với thần linh, tức là các vật trong tự nhiên được siêu nhiên hóa, họ cũng có những quan niệm dân chủ và bình đẳng hơn con người của xã hội có áp bức giai cấp” [61; tr.346-347]. Năm 2006, trên tạp chí Văn hóa dân gian số 2, Phan Đăng Nhật có thêm bài viết “Phương pháp nghệ thuật hữu sinh của sử thi Xing Nhã 3”. Ở bài viết này, sau khi chỉ ra những biểu hiện của phương pháp hữu sinh trong sử thi Xing Nhã 3 thông qua một số biện pháp nghệ thuật (vật thể hóa, thao tác hóa và tương đồng hóa), Phan Đăng Nhật đã lí giải cội nguồn của phương pháp này là những quan niệm tâm linh “vạn vật hữu linh” của người Tây Nguyên: giàng, thần, hồn, … Tạp chí Văn hóa dân gian số 5/2003 có đăng bài viết “Ý nghĩa không gian – thời gian của con số bảy trong đời sống dân tộc Ê đê” của Phạm Đặng Xuân Hương. Theo tác giả bài viết, con số bảy có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Ê-đê, nó không chỉ là cách thức để con người liên lạc nhanh nhất khi cần sự hỗ trợ của thần linh mà còn là cầu nối giữa con người và thần linh, góp phần cải thiện mối quan hệ này thêm tốt đẹp, gần gũi. Cũng theo tác giả, con số bảy thường xuyên xuất hiện trong văn học dân gian Tây Nguyên, nhất là sử thi (Đăm Săn, Xing Nhã, Đăm Di, …). 2.1.3. Nghiên cứu thế giới thần linh trong sử thi Mơ-nông Trong công trình nghiên cứu Văn học dân gian Ê-đê, Mơ Nông, Phan Đăng Nhật khi viết phần đại cương về tộc người Mơ-nông có nêu lên quan niệm tín ngưỡng ba tầng của người Mơ-nông (tầng trời, tầng mặt đất, tầng dưới mặt đất) và ở mỗi tầng như thế tác giả đã liệt kê những tên nhân vật thần linh ngự trị ở đấy. Đến phần viết về sử thi Mơ-nông, ông đã trình bày về các nhân vật thần linh. Chỉ với độ dài hai trang giấy nhưng những nhận xét mang tính khái quát của tác giả về nhân vật thần linh cũng đã cung cấp cái nhìn cụ thể hơn về kiểu nhân vật này trong sử thi. Bài viết của Phan Đăng Nhật phần lớn mang tính chất giới thiệu tổng hợp về
  12. những tài liệu đã thu thập được khi điền dã và mới chỉ liệt kê tên các nhân vật thần linh, chưa đi vào miêu tả chi tiết các đặc điểm về nhân vật, đời sống của thần linh. Trong phần nói về các nhân vật thần linh, tác giả có viết: “tính cách của một số nhân vật thần linh cũng được xây dựng theo những khuôn mẫu nhất định” [64; tr.227]. Tuy nhiên, về điều này người viết cho rằng tùy trường hợp cụ thể mà cần phải thận trọng. Vì đặc trưng của sử thi Mơ-nông nói riêng và sử thi Tây Nguyên nói chung là sử thi cổ sơ. Các nhân vật thần linh trong trí tưởng tượng của con người trong quá khứ hết sức hồn nhiên, ngây thơ. Thần linh trong giai đoạn này được miêu tả tương đối đơn giản, chủ yếu là đặc điểm về ngoại hình, thần thái, quyền năng, sức vóc, … Hay nói cách khác là mỗi nhân vật thần linh đều có đặc điểm riêng nhưng chưa phải là tính cách phức tạp, điển hình. Và như thế, tính cách các nhân vật này không phải bao giờ cũng được xây dựng theo những khuôn mẫu định hình. Cũng bàn về sử thi Mơ-nông, Tô Đông Hải trong bài viết “Những phát hiện mới xung quanh sử thi nrong” cho rằng: “nội dung chính xuyên suốt bộ sử thi nrong chính là sự phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa các thế giới thần linh với bon Tiăng” [142; tr.36]. Trong bài viết, tác giả đưa ra luận điểm “hệ thống thần linh trong sử thi nrong”: thế giới thần linh trong sử thi nrong “được chia thành hai tầng (dưới mặt đất, trên trời), mỗi tầng gồm nhiều bon làng” [142; tr.37] và giữa hai tầng đó “là một khoảng ranh giới, tại đó diễn ra cuộc tranh chấp liên miên giữa Nước và Lửa” [142; tr.38]. Theo các tài liệu dân tộc học và văn học dân gian Mơ-nông mà chúng tôi được biết thì đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng tín ngưỡng thần linh của người Mơ-nông chia thành ba tầng: dưới đất, mặt đất, trên trời. Qua quá trình đọc các tác phẩm sử thi Mơ-nông, chúng tôi cũng nhận thấy quan niệm tâm linh của họ về thế giới ba tầng chứ không phải là thế giới hai tầng như Tô Đông Hải đã trình bày. Có thể thấy ý kiến người Mơ-nông có hai tầng thế giới tâm linh mà Tô Đông Hải đã nêu là chưa thống nhất với ý kiến của phần lớn các nhà nghiên cứu về sử thi Mơ-nông như Phan Đăng Nhật, Đỗ Hồng Kỳ, Ngô Đức Thịnh, Trương Bi, …
  13. Giới thiệu về sử thi “Mùa rẫy bon Tiăng”, Ngô Đức thịnh (Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, NXB Trẻ, 2007) khi tóm lược nội dung của sử thi đã đề cập đến sự tác động của thần linh đối với đời sống con người: một mặt, thần xấu hãm hại con người: gây thiên tai, phá hoại sản xuất còn thần tốt phù hộ con người: hỗ trợ cứu đói dân làng và đánh thắng kẻ thù. Đúng như mục đích giới thiệu của tác giả, bài viết chỉ dừng lại ở mức độ tóm tắt nội dung mà chưa giải quyết hệ thống, cụ thể những vấn đề đặt ra. Tóm lại, những bài viết của các nhà nghiên cứu trên về thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên hầu như chưa có một công trình nào chuyên biệt, chưa phải là một hệ thống nghiên cứu hoàn chỉnh về đối tượng thần linh. Đó mới chỉ là những giới thiệu một cách khái quát nhất hoặc là những hình thức lướt qua, điểm qua vài ý rất ít ỏi trong khi đang trình bày vấn đề chính mà thôi. Chính vì thế, việc nghiên cứu thế giới thần linh trong một số sử thi Tây Nguyên tiêu biểu một cách có hệ thống là công việc rất cần thiết và ý nghĩa. 3. Phương pháp nghiên cứu (1) Phương pháp loại hình: dùng phương pháp này để xác định thể loại và đặc trưng thể loại những tác phẩm tiến hành khảo sát. Từ đó thấy được: sử thi Việt Nam nói chung và sử thi Tây Nguyên nói riêng vừa có những đặc điểm chung mang tính phổ quát của nhân loại lại vừa có những điểm riêng đặc sắc, độc đáo. (2) Phương pháp so sánh: Khi tiến hành tìm hiểu về thế giới thần linh biểu hiện trong sử thi Tây Nguyên người viết thấy rằng đề tài đang thực hiện có nhiều điểm tương đồng và dị biệt với các sử thi trong nước như sử thi Mường, Thái, với các sử thi thế giới như sử thi Ấn Độ (Mahabharata, Ramayana); Hy Lạp (Iliat, Ôđixê); … Chính vì vậy, dùng phương pháp so sánh, người viết mong muốn đối chiếu để thấy được điểm chung với nhân loại và đặc biệt là mô tả điểm độc đáo, “đặc sản” của thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên. (3) Phương pháp cấu trúc: Người viết xác định đề tài là tìm hiểu về thế giới thần linh ở các khía cạnh: nhân vật, đời sống và biểu hiện cụ thể của nó qua tín ngưỡng, phong tục tập quán…Phần quan trọng trong luận văn là mô tả thế
  14. giới nhân vật thần linh – yếu tố thi pháp quan trọng trong thi pháp tác phẩm. Coi nhân vật thần linh cũng là một kiểu nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật. Vì thế chúng tôi dùng phương pháp cấu trúc để tiếp cận vấn đề một cách đầy đủ các phương diện của nhân vật: xuất thân, ngoại hình, hành động, lời nói, …. Ngoài ra, chúng tôi cũng chú ý tới tác động của thế giới nhân vật thần linh đến thi pháp sử thi Tây Nguyên. (4) Phương pháp thống kê: dùng phương pháp để thống kê tần số xuất hiện của nhân vật thần linh, thống kê những điểm giống và khác nhau về nhân vật thần linh trong sử thi Tây Nguyên với sử thi trong cùng khu vực, vai trò của thần linh đối với cấu trúc tác phẩm sử thi…. Từ đó có thể kết luận số lượng các nhân vật thần linh xuất hiện trong tác phẩm và những đặc điểm độc đáo của thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên. (5) Phương pháp nghiên cứu liên ngành: để lí giải những nguyên nhân tương đồng và khác biệt giữa sử thi Tây Nguyên với một số sử thi trong nước và ngoài nước, chúng tôi dựa trên những yếu tố chi phối về mặt văn hóa, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, …. Từ đó thấy được đặc điểm đặc sắc của thế giới thần linh sử thi Tây Nguyên. Như vậy, muốn nghiên cứu chi tiết về thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên, tác giả luận văn phải đi từ tác phẩm sử thi cụ thể cho đến việc tìm hiểu những kiến thức dân tộc học, văn hóa học về nhân vật thần linh cũng như quan niệm về thần linh của người Tây Nguyên trong thực tế xã hội. (6) Phương pháp thực tế điền dã: trong quá trình tìm hiểu các áng sử thi được sưu tầm, ghi chép, biên tập, … , chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải tiến hành điền dã thực tế. Tháng 5/2011, chúng tôi đã tiến hành đi tìm hiểu thực địa tại một số xã: Dun, Ia Blang, Ia Pa tại huyện Chư Sê – tỉnh Gia lai. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của các dân tộc Ba-na, Ê-đê, Gia-rai. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một thực tế đáng tiếc là hầu hết người nơi đây khi được phỏng vấn đều trả lời là không biết và chưa được nghe hát kể khan, hơmon hay ot ndrong. Trong trí nhớ mang máng, họ cho biết thời xa xưa, ông bà của họ từng được nghe hát kể sử thi. Nhưng khi được hỏi là có tin vào thần linh, giàng không thì đa số đều trả lời là có. Một niềm vui lớn mà chúng tôi thu được khi đi thực tế là: tất cả người
  15. dân bản địa dù chưa được nghe kể sử thi nhưng khi nói đến thể loại này, họ đều dùng những lời lẽ hay với tình cảm trân trọng. Đời sống của các cư dân nơi đây cũng có nhiều đổi khác: phần lớn họ đã chuyển sang sống trong các ngôi nhà xây kiên cố thay vì nhà sàn, ti vi, máy tính đã xâm nhập đến từng làng buôn, … Chúng tôi cho rằng trong tình hình xã hội hiện tại mà người dân vẫn giữ được tình cảm yêu mến đối với sử thi là một tín hiệu đáng mừng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (1) Đối tượng nghiên cứu: Thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên (sử thi Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông). Thế giới thần linh là thế giới mà các nhân vật thần linh, bán thần linh sinh sống, hoạt động, tác động đến nhau, đến cuộc sống con người và vai trò của thế giới nhân vật này trong hệ thống thi pháp sử thi Tây Nguyên. (2) Phạm vi nghiên cứu: chúng tôi tiến hành lựa chọn khảo sát trong một số sử thi tiêu biểu của ba dân tộc: Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông. Lí do mà chúng tôi chọn các sử thi này trước hết vì đây là ba dân tộc có trữ lượng sử thi được tìm thấy là rất lớn. Hơn nữa, những sử thi của ba dân tộc này có tần số xuất hiện các nhân vật thần linh tương đối nhiều, tiêu biểu cho thế giới thần linh các dân tộc Tây Nguyên. Trong các sử thi khảo sát đó có 9 sử thi Ba-na, 7 sử thi Ê-đê, 6 sử thi Mơ- nông. Đa số các sử thi thuộc bộ Kho tàng sử thi Tây Nguyên được NXB Khoa học xã hội công bố từ năm 2004 – 2007. Bộ sách đồ sộ, giá trị này có tổng số 75 sử thi đã xuất bản của 6 dân tộc: Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông, Xơ-đăng, Ra-glai, Chăm. Đây là kết quả của Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên do Viện Khoa học xã hội chủ trì, phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận tiến hành. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng hai sử thi trong Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam là sử thi Bia Brâu và Đăm Kteh Mlan. Bảng 1.1. Danh sách một số sử thi thuộc đối tượng khảo sát STT Tên sử thi Dân tộc Nghệ nhân hát kể 1 Đăm Noi Ba-na Bok Angẽp 2 Giông đi tìm vợ Ba-na A Đen
  16. 3 Giông cứu nàng Rang Hu Ba-na A Hon 4 Giông nhờ ơn thần núi làm cho giàu có Ba-na A Lưu 5 Giông đánh hạ nguồn cứu dân làng Ba-na A Lưu 6 Giông bọc trứng gà Ba-na A Lưu 7 Giông, Giỡ mồ côi từ nhỏ Ba-na A Lưu 8 Bia Brâu Ba-na Đinh Gang 9 Anh em Glang Mam Ba-na Y HNhẽo 10 Đam Kle Mlan Ê-đê Y Yung Adrỡng 11 Đăm Tiông Ê-đê Y ber 12 Xing Nhã Ê-đê Oi Chun (Ama Hoa) 13 Anh em Đăm Trao, Đăm Rao Ê-đê Y Djao Niê 14 Khing Dũ Ê-đê Y Nuh Niê 15 Mrông Đăm Ê-đê Y Nuh Niê 16 Ama H’wứ Ê-đê Y Top 17 Bing con Măch xin làm vợ Yang Mơ-nông Me Luynh 18 Mùa rẫy bon Tiăng Mơ-nông Điểu Glơi - Điểu Mpiơih 19 Kră, Năng cướp Bing, Kông con Lông Mơ-nông Điểu Klưt 20 Cướp chăn Lêng của Jrêng, Lông con Ốt Mơ-nông Điểu Glơi 21 Lêng, Kong, Mbong lấy ché voi trắng Mơ-nông Điểu Klung 22 Lấy hoa bạc, hoa đồng Mơ-nông Điểu Klung 5. Đóng góp của luận văn Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể, hệ thống về thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên. Luận văn cung cấp cái nhìn hệ thống, toàn diện về thế giới thần linh trong sử thi Tây Nguyên. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi giải quyết được những vấn đề sau: xác định được một số vấn đề lí thuyết về thế giới thần linh; tiến hành khảo sát, mô tả, nhận xét quan niệm về các nhân vật thần linh, bán thần linh, mối quan hệ giữa hai kiểu nhân vật này qua quan niệm của các tộc người; chỉ ra mối quan hệ giữa thế giới thần linh với con người và nhất là chỉ ra mối liên hệ giữa thế giới thần linh như là một yếu tố thi pháp với hệ thống thi pháp sử thi Tây Nguyên. Ngoài ra, luận văn cũng góp phần cung cấp cái nhìn tương
  17. đồng mang tính phổ quát và những khác biệt đặc sắc của sử thi Tây Nguyên trong tương quan so sánh với một số sử thi thế giới. Qua tìm hiểu về thế giới thần linh trong sử thi, sẽ thấy được thế giới quan, vũ trụ quan cũng như niềm tin, tín ngưỡng của con người Tây Nguyên hết sức hồn nhiên, ngây thơ. Đó cũng chính là cách tìm hiểu về văn hóa – con người nơi đây, khẳng định giá trị tinh thần, vai trò của sử thi trong đời sống cộng đồng. Từ đó, thấy được nhiệm vụ quan trọng của các nhà nghiên cứu, trí thức dân gian trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa Tây Nguyên. Văn học dân gian là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn học Việt Nam. Tìm hiểu về văn học dân gian nói chung và sử thi nói riêng góp phần cung cấp thêm những kiến thức về văn học dân tộc nước nhà. Những thành tựu, kết quả của việc nghiên cứu có thể ứng dụng trong công tác giảng dạy sử thi trong nhà trường, giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong những tác phẩm sử thi trích dạy. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn bao gồm các phần: Mở đầu, Nội dung chính, Kết luận. Phần Nội dung chính có 3 chương: Chương 1: Vùng đất và sử thi Tây Nguyên Ở chương này, chúng tôi giới thiệu một cách khái quát về vùng đất cũng như về sử thi Tây Nguyên. Khi giới thiệu về vùng đất Tây Nguyên, chúng tôi sẽ trình bày những đặc điểm các tộc người Ê-đê, Ba-na, Mơ-nông; đời sống vật chất, đời sống tinh thần và tâm thức thần linh trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Giới thiệu về sử thi, chúng tôi sẽ trình bày khái quát về thuật ngữ, đặc điểm sử thi nói chung và đi sâu vào giới thiệu sử thi của ba dân tộc khảo sát (Ba- na, Ê-đê, Mơ-nông). Chương 2: Thế giới nhân vật thần linh và mối quan hệ với con người trong sử thi Tây Nguyên Ở chương 2, chúng tôi trình bày những nghiên cứu, tìm hiểu của mình về thế giới nhân vật thần linh và mối quan hệ của thế giới này với cuộc sống con người được thể hiện trong các tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Đầu tiên, trình bày về thế
  18. giới nhân vật thần linh, người viết sẽ làm rõ một số khái niệm liên quan đến thế giới thần linh; mô tả, nhận xét và giải thích thế giới các nhân vật thần linh, bán thần linh. Trong phần mối quan hệ giữa thần linh với con người, chúng tôi trình bày mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại giữa thần linh và con người. Để thấy được điểm đặc sắc của nhân vật thần linh Tây Nguyên, chúng tôi tiến hành so sánh với một số sử thi khác trên thế giới (chủ yếu là sử thi Ấn Độ - Ramayana). Chương 3: Thế giới nhân vật thần linh trong mối quan hệ với thi pháp sử thi Tây Nguyên Trong chương 3, chúng tôi trình bày mối liên hệ giữa thế giới nhân vật thần linh và hệ thống thi pháp tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Để làm rõ vấn đề, chúng tôi tiến hành khảo sát các sử thi và nhận thấy thế giới nhân vật thần linh đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh đời sống tinh thần của con người Tây Nguyên và là phương thức nghệ thuật độc đáo tham gia vào cấu trúc tác phẩm sử thi như: mở rộng không gian; mở rộng hệ thống nhân vật sử thi Tây Nguyên, thúc đẩy cốt truyện và góp phần giải quyết tình huống sử thi. Về vai trò của thế giới nhân vật thần linh trong việc phản ánh đời sống tinh thần con người Tây Nguyên, chúng tôi chú ý đến quan niệm về con người và thế giới. Phần thế giới thần linh tham gia cấu trúc tác phẩm, chúng tôi quan tâm chủ yếu đến việc xây dựng nhân vật thần linh qua một số công thức khuôn mẫu. Ngoài ra, thế giới thần linh còn góp phần mở rộng không gian và thúc đẩy cốt truyện, giải quyết tình huống sử thi, …
  19. Chương 1: VÙNG ĐẤT VÀ SỬ THI TÂY NGUYÊN 1.1. Vùng đất Tây Nguyên 1.1.1. Đặc điểm các tộc người Ba-na, Ê-đê , Mơ-nông ở Tây Nguyên Có diện tích hơn 20.000 km2, với địa hình chủ yếu bao gồm các bình nguyên rộng lớn, hùng vĩ, khu vực Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Đây là vùng đất lí tưởng để nhiều tộc người sinh sống. Theo thống kê gần đây, khu vực này có đủ 54 dân tộc anh em cư ngụ. Tuy nhiên, số dân tộc bản địa, sinh sống lâu đời, tiêu biểu cho văn hóa truyền thống Tây Nguyên thì chỉ có vài dân tộc: Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông, Gia-rai, Xơ-đăng. Trong đó, chúng tôi quan tâm đến văn hóa, văn học của ba dân tộc là Ê-đê, Ba-na và Mơ- nông. Có thể nói, văn hóa mà ba tộc người trên thể hiện là văn hóa tiêu biểu cho vùng đất Tây Nguyên. Tìm hiểu về ba tộc người này sẽ giúp ta có cái nhìn tổng quát về truyền thống văn hóa các tộc người ở Tây Nguyên. 1.1.1.1. Tộc người Ba-na Tộc người Ba-na phân bố chủ yếu ở một số tỉnh Tây Nguyên như: Gia Lai, Kon Tum. Ngoài ra, tộc người này còn phân bố ở Quãng ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, … Ngôn ngữ Ba-na thuộc ngữ hệ Nam Đảo, nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme [17; tr.19]. Ba-na là dân tộc có số dân đông nhất trong các tộc người nói ngôn ngữ Môn-Khơme ở Tây Nguyên. Ba-na cũng là tộc người có số dân đông thứ ba (sau Ê-đê và Gia-rai) trong số các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên. Theo số liệu thống kê, dân số tộc người Ba-na là 180.000 người (4/1999) [63; tr.28]. Người Ê-đê phân chia thành nhiều nhóm địa phương nhỏ như: Tơ Lô, Krem, Vân Canh, Thồ Lồ, Gơ lar, Kon KơĐeh, Kon Tum, Jơ Lơng, Rơ Ngao, … 1.1.1.2. Tộc người Ê-đê Không gian sinh sống của người Ê-đê chủ yếu tập trung ở tỉnh Đắc Lắc. Ngoài ra, tộc người này còn phân bố ở một số tỉnh khác như: Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Khánh Hòa, … Theo số liệu thống kê của Ban Dân tộc Đắc Lắc, dân số người Ê-đê là 271.111 người (12/2003). Ngôn ngữ Ê-đê thuộc ngữ hệ Nam Đảo,
  20. dòng Malayo – Pôlinêđi [17; tr.19]. Tộc người Ê-đê cư trú ở Tây Nguyên phân chia thành khoảng gần 20 nhóm địa phương nhỏ như: Kpă, Atham, Krung, Mthur, Ktul, Dlie, Kue, Kdung, Bih, Kah, Blô, … Tuy nhiên, dù có sự phân chia nhưng khác biệt giữa các nhóm địa phương là không đáng kể, không ảnh hưởng đến sự giao lưu, liên hệ giữa các nhóm với nhau. Nhìn chung, tộc người Ê-đê ở Tây Nguyên là tộc người có đời sống cộng đồng, có truyền thống văn hóa chung, thống nhất. 1.1.1.3. Tộc người Mơ-nông Không gian sinh sống của người Mơ-nông chủ yếu tập trung ở tỉnh Đắc Nông, ngoài ra tộc người này phân bố ở một số tỉnh khác như: Bình Định, Đắc Lắc, Lâm Đồng và tỉnh Môndulkari (Campuchia). Người Mơ-nông ở Tây Nguyên còn giữ được rất nhiều bản sắc truyền thống riêng của tộc người mình. Ngôn ngữ Mơ-nông thuộc ngữ hệ Nam Á [17; tr.40]. Người Mơ-nông phân chia thành các nhóm địa phương nhỏ như: Nong, Nơr, Biat, Đĩp, R’ong, Preh, Rlâm, Kuănh …Các nhóm Preh, Rlâm, Kuănh sinh sống ở Đắc Lắc, Đắc Nông sống gần người Ê-đê nên ngôn ngữ có sự vay mượn một số từ vựng của người Ê-đê [63; tr.120] 1.1.2. Đời sống vật chất và tinh thần của tộc người Ba-na, Ê-đê, Mơ-nông ở Tây Nguyên 1.1.2.1. Đời sống vật chất Đời sống vật chất của các tộc người Tây Nguyên được thể hiện qua các mặt: cách thức sinh tồn, hình thức cư trú và thói quen ăn, uống, mặc, … Về cách thức sinh tồn, người Tây Nguyên chủ yếu là dựa vào nền nông nghiệp thô sơ: săn bắn, hái lượm và sản xuất nương rẫy. Tuy nhiên, trình độ canh tác thấp kém, mọi hoạt động sản xuất nương rẫy phần lớn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết nên năng xuất chưa cao. Theo quan niệm đa thần, vào vụ mùa, lần thu hoạch đầu tiên, người Tây Nguyên dùng tay tuốt lúa (để tránh làm đau thần lúa), những lần thu hoạch sau, họ mới dùng liềm gặt. Không gian sinh sống chủ yếu của người Tây Nguyên là những bình nguyên rộng lớn, có núi, có sông và đặc biệt là có rừng. Với người Tây Nguyên nói chung, rừng không chỉ là không gian sống, sinh hoạt mà còn là không gian thiêng, mang tâm thức tín ngưỡng độc đáo.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2