intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

129
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore gồm có 3 chương trình bày về R.Tagore với trẻ thơ; vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non; nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN AN THỤY THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007
  2. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể loại. 1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “ người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ. Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63 tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ. Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ. Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”. 1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn… Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích: Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217],
  3. “nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ. Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Tagore. 2. Lịch sử vấn đề: Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới. Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm 1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là “a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời, nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam. 2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam: Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore, khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non: “ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] . Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ:
  4. “ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ” [42, tr. 211]. Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính những hình ảnh, những câu chuyện mang âm hưởng cổ tích đã bộc lộ rõ sự am hiểu tâm lí trẻ thơ của Tagore. Viết về Trăng non, ông còn nhấn mạnh đến thủ pháp đối lập, tương phản được sử dụng trong tập thơ: “Tagore muốn đem tâm hồn trong sáng, bản chất Chân – Thiện – Mĩ đang tồn tại trong trẻ thơ đối lập với bản chất xấu xa, đê tiện đáng khinh của xã hội đồng tiền và quyền lực chi phối”[ 59, tr.158]. Tiếp nối với những nhận định của PGS. Lưu Đức Trung, trong bài “ Chất trí tuệ, điểm sáng thẩm mĩ trong thơ Tagore”, TS. Nguyễn Thị Bích Thuý cũng phân chia thơ Tagore thành ba nội dung lớn: thơ triết luận, thơ tình yêu và thơ viết cho trẻ em. Với mảng thơ trẻ em, tác giả tập trung vào tập thơ The Cressent Moon ( Trăng non) và nhận xét: “ Với Trăng non, gồm 40 bài viết về trẻ em, Tagore được coi là V.Hugo của Ấn Độ. Tình thương, tấm lòng trìu mến nâng niu của ông đối với trẻ em thấm đẫm trong từng chữ, từng câu”[ 50, tr.59]. Đồng thời tác giả cũng dẫn lời của nhà thơ Ailen, W. B. Yeats nói về Trăng non để khẳng định một lần nữa ý kiến của mình: “ Khi thi sĩ nói đến trẻ thơ, đặc tính này như một phần của chính thi sĩ thì ta không rõ có phải thi sĩ nói đến thánh nhân hay không?”[50, tr.59]. TS. Đỗ Thu Hà trong quyển “ Tagore, văn và đời” cũng tuân thủ cách phân chia thơ Tagore thành 3 nội dung như trên. Tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật của tập Trăng non: “ Tagore đã viết những bài thơ để trả lời và lí giải cho các em với những lời thơ dịu dàng, thơ mộng và tràn đầy tình yêu thương, trong đó, ông sử dụng một bút pháp đặc biệt. Ông là người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa hiện thực và huyền ảo: để thể hiện hiện thực Tagore đã dùng những huyền thoại, những viền giát xung quanh hiện thực của cuộc sống, đem lại cho nó một chiều sâu có tầm vũ trụ.”[26, tr.73]
  5. Như vậy, qua những nhận xét của những dịch giả và những nhà nghiên cứu về thơ Tagore ở Việt Nam, chúng ta phần nào có được cái nhìn tổng quát và toàn diện về tập thơ Trăng non ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Các tác giả đều tập trung đề cao tính hồn nhiên, trong sáng của thế giới trẻ thơ và chú ý nhấn mạnh đến những thủ pháp nghệ thuật cơ bản mà Tagore đã sử dụng trong cả tập thơ như một sự gợi mở, định hướng cho những nghiên cứu chuyên sâu về tập thơ Trăng non ở bậc Đại học và sau Đại học. 2.2. Các công trình nghiên cứu tập thơ Trăng non ở các trường Đại học: Ở các trường Đại học, tập thơ Trăng non được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau: + Luận văn thạc sĩ “ Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chương Tagore” của Nguyễn Phương Liên [65] đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật đã được Tagore sử dụng trong việc xây dựng thế giới trẻ em được thể hiện trong sáng tác văn chương của Tagore ở cả 3 thể loại: thơ, văn xuôi và kịch. Tác giả khẳng định: “ nhiệm vụ của chúng tôi là phân tích các tác phẩm thơ, văn, kịch của Tagore viết về trẻ em, chỉ ra những thủ pháp khác nhau mà Tagore vận dụng trong 3 phương thức sáng tác ấy để thấy được tính đa dạng trong tài năng Tagore”[65, tr.2]. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của R.Tagore” của Trần Kim Dung [ 11] quan tâm đến tác dụng của thủ pháp huyền ảo, làm cho thế giới trong Trăng non lung linh, huyền diệu và giàu màu sắc hơn. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non” của Nguyễn Thị Ngọc Diệp [ 12] chủ yếu đi vào khai thác nội dung tư tưởng, tình cảm của Tagore dành cho trẻ nhỏ được thể hiện trong cả tập thơ. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non” của Trần Thị Hoài Phương [38] tập trung tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện trong Trăng non qua thủ pháp so sánh để làm bật nổi sự sáng tạo độc đáo của Tagore trong việc xây dựng một thế giới trẻ thơ hồn nhiên và kì diệu. * Nhìn chung, các công trình này chưa đặt việc nghiên cứu tập thơ Trăng non trong một hệ thống một cách toàn diện. Cho đến nay ở bậc sau đại học( thạc sĩ và tiến sĩ) chưa có luận văn nào đi sâu vào nghiên cứu Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của Tagore ở cả hai phương diện : nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
  6. Đề tài luận văn đi sâu vào nghiên cứu nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong tập thơ Trăng non Sử dụng nguyên bản tiếng Anh tập thơ The Cressent Moon do Tagore chuyển dịch từ tiếng Bengali . Đối chiếu với tập thơ đã được dịch sang tiếng Việt ( gồm 40 bài) của các dịch giả Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung… trong tập 2, quyển R. Tagore – Tuyển tập tác phẩm [ 45]. Bên cạnh đó, tham khảo thêm bản dịch Mảnh trăng non [46] của Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tác phẩm viết về trẻ thơ của Tagore in trong các tập Thơ Dâng, Hái quả, Người thoáng hiện… và trong các sáng tác khác của ông. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát văn bản, giúp thống kê phân loại một cách tỉ mỉ, cụ thể, đầy đủ các hình tượng thơ, những thi pháp đặc trưng mà nhà thơ dùng để chuyển tải ý tưởng của mình trong Trăng non. 4.2. Phương pháp phân tích Qua việc phân tích những bài thơ tiêu biểu trong Trăng non để thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong cả tập thơ. 4.3. Phương pháp đối chiếu – so sánh Đối chiếu – so sánh cách sử dụng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá giữa các nhóm đề tài trong Trăng non và giữa Trăng non với các tập thơ khác của Tagore để thấy được nét độc đáo riêng của một tập thơ thiếu nhi. Đối chiếu – so sánh thơ thiếu nhi của R. Tagore với thơ thiếu nhi của các nhà thơ khác để thấy được những sáng tạo riêng của R. Tagore. 5. Cấu trúc luận văn; Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: R. Tagore với trẻ thơ Chương 2: Vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non. Cuối cùng là danh mục tư liệu tham khảo.
  7. CHƯƠNG 1 R.TAGORE VỚI TRẺ THƠ 1.1. R. Tagore – Thời thơ ấu và những ước vọng của tuổi thơ 1.1.1 Thời thơ ấu của một thiên tài R. Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 trong một gia đình trí thức giàu sang tại vùng Calcutta, xứ Bengal miền Đông Ấn Độ. Gia đình ông thuộc đẳng cấp quý tộc Bà la môn nổi tiếng và được mến phục vì đây là gia đình của những thiên tài, đã có nhiều cống hiến cho công cuộc cải cách xã hội ở Bengal và Ấn Độ. Cha ông, Devendranath, là một lãnh tụ của phong trào cải cách Hindu ở Ấn Độ cuối thế kỉ XIX, đồng thời là một nhà triết học nổi danh đã dốc hết sinh lực, trí tuệ và tiền của để làm việc thiện và hoạt động văn hóa xã hội. Trong gia đình, R. Tagore là con trai út được yêu quý và chiều chuộng nhất. Khi R. Tagore chào đời, cha ông đã xem đó là phúc trời nên đặt tên cho ông là Rabindranath, có nghĩa là mặt trời với mong muốn cậu bé sẽ trở thành nhân tài mang ánh sáng trí tuệ soi rọi sự tăm tối của đất nước Ấn Độ nghèo nàn và đau khổ . Thuở nhỏ, R. Tagore được sống trong thế giới của các gia nhân. Trong Hồi ức sau này, R. Tagore gọi họ là “ vương quốc đầy tớ” một cách kính trọng. Là một cậu bé thích tự do, R. Tagore thường lang thang bắt bướm hái hoa ngoài trời và tụ tập với bọn trẻ cùng phố chơi bi, chơi đáo. Vì thế, mọi người cai quản cậu rất nghiêm ngặt. Những giờ bị phạt trong nhà, cậu thường phóng tầm mắt nhìn ra ngoài cửa sổ ao ước tự do hoặc tìm đến góc nhà ngồi đọc sách. Hễ cầm được cuốn sách nào là Tagore đọc nghiến ngấu suốt ngày. Là cậu bé nhạy cảm, Tagore thường rơi lệ khi đọc những trang sách kể về nỗi đau khổ, chia li của người khác. Ngoài những quyển truyện cổ Ấn Độ, Tagore thường tìm đọc sách nước ngoài viết cho thiếu nhi đã được dịch ra tiếng Bengali. Cậu thích sách của Dickens, V. Hugo và nhất là tác phẩm Rôbinxơn Cruxô của Defoe. Hình ảnh Rôbinxơn chống chọi với bão táp, hòa nhập với thiên nhiên trên hoang đảo khiến Tagore xúc động. Cậu bé lấy đó làm tấm gương cho cuộc sống tự lập của mình. Cuốn sách đã kích thích trong lòng cậu ý tưởng được ra khỏi nhà, được tự do bay nhảy. Vào khoảng thời gian ở Cancutta xảy ra nạn dịch hạch, gia đình Tagore phải qua lánh nạn bên kia bờ sông Patma, một nhánh của con sông Hằng. Sống trong biệt thự gần sông gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp, cậu bé Tagore sung sướng vô cùng. Như một con chim sổ lồng, cậu chạy nhảy khắp nơi. Chuyến đi đó là bài học đầu
  8. tiên về thiên nhiên của cậu. Trong Hồi kí, Tagore kể lại: “ Cứ mỗi ngày khi màn đêm đã vén lên, tôi thức dậy có cảm giác như chân trời kia đang đem đến cho tôi một bức thư báo nhiều tin tức tốt lành khi tôi bóc nó ra. Tôi vội vàng không để chậm trễ một giây phút ngồi chễm chệ trong chiếc kiệu chuẩn bị đi ra ngoài trời. Ngày nào cũng như ngày nào, tôi được nhìn nước sông Hằng dâng lên hạ xuống, tàu bè xuôi ngược đôi bờ thật rộn rịp, cây ngả bóng xuống dòng sông lấp lánh khi mặt trời lên cao. Hoàng hôn buông xuống rừng cây như ngủ lặng trong một màu đen nhờ nhờ. Có lúc, bất chợt một cơn mưa ập tới xóa nhòa cả chân trời rực sáng. Dòng sông trở nên âm u cuộn lên những con sóng, gió ào tới lay động cả một rừng cây, đôi lúc có cảm giác sợ hãi”. [60, tr. 442] Cảm giác ban đầu về thiên nhiên từ thuở ấu thơ đã gợi cho Tagore một ý niệm : thiên nhiên nhiên cũng có linh hồn giống con người. Sự tươi thắm, kì diệu của hoa, lá của ánh sáng mặt trời … đã thức dậy nơi tâm hồn non nớt của cậu bé Tagore một tình yêu thiên nhiên sâu nặng. Cuộc sống bó hẹp trong khuôn viên biệt thự làm cậu cảm giác như bị cầm tù và khi đến tuổi đến trường cậu càng chán ghét không khí buồn tẻ, ngột ngạt của lớp học giữa bốn bức tường. Trong kí ức của Tagore trường học không lưu lại những ấn tượng tốt đẹp: “ Cái khổ của tôi là phải học trong những nhà trường như thế. Tôi đã từng thấy vũ trụ như đã biến mất quanh mình, chỉ được thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường vôi trắng xoá. Tôi cương quyết không muốn mình trở thành một đứa bé bị thầy giáo gõ đầu… May sao tôi thoát ra được những ngôi trường chật hẹp như cái chuồng hoặc như chiếc giầy bó chân của một người đàn bà Tàu…”[45, tr. 459]. Ba lần R.Tagore được gửi đến trường là ba lần cậu bỏ học. Cuối cùng, gia đình phải mời gia sư lại nhà. Gyan Babu, con trai của học giả Vedantavaghish là người thầy đầu tiên của Tagore. Biết Tagore là cậu bé thông minh không thích cách học của trường lớp nên ông đã giảng các tác phẩm văn học nổi tiếng cho Tagore nghe trước rồi yêu cầu cậu dịch từ tiếng Anh , tiếng Sanskrit sang tiếng Bengali. Cách học này đã lôi cuốn Tagore và truyền cho cậu niềm say mê, yêu thích văn chương. Năm lên bảy tuổi, Tagore bắt đầu tập tễnh làm thơ. Làm được bài nào là nhét vào túi áo bài đó. Nhiều người trong vùng rất thích thơ của cậu. Từ nhỏ, Tagore đã nổi tiếng là cậu bé thần đồng của xứ Bengal. Mười ba tuổi, Tagore đăng trường ca Bông hoa rừng ( Benaphul) dài 1600 câu trên tạp chí Mầm kiến thức ( Gyânanka). Tiếp sau đó, cậu sáng tác hai tập thơ Tiếng hát buổi sáng (Prabhat Sangit) và Tiếng hát buổi chiều ( Sandya Sangit). Hai tập thơ nhỏ này đã bộc lộ tài năng và lòng yêu đời, yêu cuộc sống của Tagore.
  9. Cha Tagore cũng là một người thầy đắc lực trong việc nâng cao học vấn cho Tagore. Ông luôn tôn trọng tự do của con cái. Từ năm 11 tuổi, ông đã cho Tagore theo mình trong những chuyến du lịch dài ngày lên đỉnh Himalaya, dạy cho Tagore bài học đầu tiên về tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Thuở nhỏ, Tagore không chỉ tự trao giồi ngoại ngữ để học trong sách vở mà còn chú trọng học những người xung quanh, những người lao động bình thường trong “ vương quốc những người đầy tớ “. Tagore rất thích nghe họ kể và ngâm vịnh sử thi Ramayana, hát những bài ca dân gian đầy chất trữ tình, giàu lòng yêu con người. Cái “ vương quốc đầy tớ” này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm hồn và tài năng của Tagore. Có thể nói rằng, cuộc đời của Tagore phân nửa gắn liền với môi trường sáng tạo của những thiên tài, phân nửa gắn liền với văn hóa truyền thống: “Bước đầu của tôi đi vào văn học có nguồn gốc của nó trong những cuốn sách được lớp người tôi tớ yêu thích và truyền tụng”[60, tr. 443]. Suốt quãng đời thơ ấu, Tagore chủ yếu là tự học. Ngoài sách vở thì mảnh vườn thân thiết sau nhà là “ngôi trường” lí tưởng của cậu bé Tagore. Trong “ngôi trường” đó, Tagore được tự do mơ mộng. Những sắc màu kì diệu của thiên nhiên đã đem đến cho cậu những câu hỏi ngây thơ về cuộc sống, cậu ao ước khám phá tất cả bằng trí óc non nớt của mình và từ chối những bài học gò ép nơi lớp học: “ Chúng tôi có một khu vườn nhỏ liền tiếp với nhà chúng tôi, đối với tôi, nó là mảnh đất thần tiên, hàng ngày hiện ra không biết bao nhiêu vẻ đẹp kì diệu...Bầu trời như đem lại cho tôi tiếng gọi bạn bè và cả trái tim tôi, cả cơ thể tôi nữa quen uống vào cái nguồn ánh sáng và yên tĩnh tràn trề của những giờ phút lặng lẽ đó. Tôi lo lắng không bao giờ để quên mất một buổi sáng nào, vì mỗi buổi sáng đều quý cho tôi, còn quý hơn vàng đối với một kẻ cùng khổ… tôi được trời phú cho tính hay kinh ngạc, nó giúp cho đứa bé có quyền được vào trong kho tàng huyền bí trong lòng cuộc sống. Tôi lơ là với những bài học vì chúng muốn lôi tôi ra ngoài thế giới ở quanh tôi…nó muốn cầm tù tôi trong những bức tường đá của các bài học”[ 45, 449]. Nơi trường học thiên nhiên, Tagore học được nhiều điều quan trọng. Ngoài sự yêu thương, chỉ dẫn của gia đình, cậu còn được tự do hoà nhập với thiên nhiên. Điều đơn giản này không phải bất cứ đứa tre nào cũng đều có được. Vì thế, sau này trưởng thành, Tagore đã thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường mới theo lí tưởng của mình: một ngôi trường bình yên cho trẻ thơ Ấn Độ.
  10. 1.1.2. Hướng tới một nền giáo dục của người Ấn Độ Giáo dục trẻ bằng tình yêu thương và sự khoan dung chính là tư tưởng chủ đạo mà Tagore muốn chuyển tới những bậc làm cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về việc “ trồng người”. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan điểm giáo dục truyền thống của người Ấn Độ và từ trái tim giàu lòng trắc ẩn của nhà thơ bởi vì “ Tình ông bà yêu cháu, già yêu trẻ là một nét cảm động nhất của văn hoá Ấn Độ” [ 13, tr.186]. Thuở nhỏ, Tagore được nhận hưởng một nền giáo dục tốt đẹp từ người cha đáng kính của mình. Chính phương pháp giáo dục của gia đình và truyền thống văn hoá của dân tộc đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Tagore. Ông luôn quan niệm: giáo dục trẻ nhỏ phải cần tình thương và sự khoan dung. Roi đòn không thể thay đổi và hoàn thiện con người mà chỉ có tình yêu mới làm con ngưởi trở nên tốt đẹp: “ Một đứa bé sinh ra phải nuôi mình bằng sữa mẹ, do đó nó vừa biết thứ sữa mình ăn vừa biết cả người mẹ mình nữa. Thứ đồ ăn của bé đó vừa nuôi được cơ thể vừa nuôi được cả tâm hồn đứa bé. Con người khi buớc vào đời cũng phải thế, nghĩa là phải lấy tình thương làm gốc, chứ không phải lấy quan hệ nhân quả làm nguyên tắc..”[45, tr. 458] Trong kí ức của Tagore, người cha luôn là một tấm gương lớn về nhân cách: “ Người muốn chúng tôi yêu sự thật bằng cả tấm lòng mình. Cũng như trước kia, Người để tôi tự do leo núi thì bây giờ Người cũng để tôi tự do chọn con đường đi đến sư thật. Người không hoảng sợ khi thấy tôi lầm đường, lạc lối, không quá băn khoăn trước việc tôi có thể gặp khó khăn gian khổ dọc đường. Người cầm trong tay ngọn cờ chỉ đạo cứ không phải một chiếc roi kỉ luật như ai”[ 45, tr. 424]. Ông học hỏi và thừa hưởng ở cha mình một tấm lòng nhân đạo và ái quốc, một tình yêu thương gia đình chung thuỷ, một tâm hồn vĩ đại và một tình yêu Con người cao cả. Phương pháp giáo dục trọng tự do cá nhân của cha đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan điểm giáo dục của Tagore . Năm 40 tuổi(1901), R.Tagore thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường do chính mình làm chủ. Khi ngôi trường Santiniketan ( chốn bình yên) ra đời, Tagore đã thực hiện một phương pháp giáo dục khác trước mà ông từng ấp ủ: dạy cho học sinh ý thức được hai mối quan hệ cơ bản của con người trong cuộc sống. Đó là mối quan hệ hoà đồng giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Ông muốn học trò của ông phải biết yêu thương, tôn trọng con người và phải biết đề cao, ngợi ca tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống.
  11. Theo Tagore “ Sự giáo dục phải lấy tình thương làm đầu”[45, tr. 465]. Ông chú trọng đến việc hoàn thiện nhân cách con người. Ông cho rằng mục đích giáo dục lớn nhất dành cho trẻ không phải chỉ là tri thức mà điều quan trọng hơn là giáo dục các em có được đời sống tâm hồn phong phú. Chính vì quan niệm này mà Tagore rất chú trọng đến việc dạy văn học, nghệ thuật và âm nhạc cho trẻ nhỏ. Ông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ bằng vần điệu của lời thơ, tiếng hát. Và thơ về trẻ em của ông bao giờ cũng là những bài học dạy làm người. Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm, sự chân thật, và tình yêu thương của con người và đặc biệt là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý . Chính ông cũng từng khẳng định giáo dục trẻ bằng tình thương mới là cách giáo dục tốt nhất bởi vì chỉ những ai thật sự yêu thương thì người đó mới có quyền trừng phạt: “Khi tôi trừng phạt nó. Thì nó lại càng trở nên một phần của bản thân tôi. Và khi tôi làm cho nó khóc. Thì lòng tôi cũng khóc cùng với nó. Chỉ tôi mới có quyền rầy la và trừng phạt. Bởi vì chỉ có ai thương. Thì người đó mới có quyền trừng phạt.” ( Quan toa) Là một nhà thơ đồng thời là một nhà giáo dục, Tagore cho rằng trường học tốt nhất để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ nhỏ là trường học thiên nhiên. Tư tưởng này xuất phát từ quan điểm giáo dục truyền thống của văn hóa Ấn Độ cổ xưa: “Thời xưa , ở Ấn Độ, con người sinh hoạt ở đâu là trường học ở đó. Trường học không phải là một học viện, cũng không phải là chốn tu hành khổ hạnh. Nơi đó, chính là để học cách nuôi dưỡng sinh vật, tự nuôi sống mình bằng cách nhặt củi, hái rau quả… Cuộc sống đó gọi là trường đại học ( tiếng Phạn là Chatuspathis)”. Như vậy, trong cách nhìn của người Ấn Độ, thiên nhiên không chỉ là nơi con người quan sát, chiêm nghiệm cuộc đời mà còn là nơi họ học cách tự giúp mình tồn tại bởi vì : “ giáo dục không phải chỉ học bài ở trong lớp học mà còn trong cuộc sống” [ 45, tr.465]. Trên cở sở kế thừa và tiếp nối quan điểm giáo dục truyền thống của văn hoá dân tộc, Tagore đã mở ra một cái nhìn mới về vấn đề giáo dục trẻ thơ theo tinh thần tự do, hoà nhập vào vũ trụ. Theo ông, thiên nhiên là bà mẹ đời thứ hai tác động rất nhiều vào trẻ nhỏ và là trường học lí tưởng nhất để hoàn thiện nhân cách một con người. Chính nơi trường học thiên nhiên này, ông đã học được rất nhiều điều quan trọng, trong đó có cả tôn giáo của riêng ông mà ông gọi là Tôn giáo Con người: “ Trong bụng mẹ, đứa trẻ được tự do lần thứ nhất do sự sinh trưởng của nó. Thế nhưng, sau khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã bị xã hội can thiệp vào, kéo ra khỏi cái công nuôi dưỡng của Tao hoá, của trời xanh, của ánh sáng, của không khí mát lành. ..Nhà trường cửa đóng kín, nó sống chung quanh các đồ vật ngày càng nhiều.
  12. Nó không hiểu cuộc sống đó sẽ dần dần làm cho tâm hồn tê lạnh, làm mất đi cuộc sống tự nhiên, sinh động”[ 45, tr. 460]. Từ những quan niệm, tư tưởng về việc xây dựng một nền giáo dục mới cho Ấn Độ, Tagore đã thể hiện sâu sắc tình yêu thương và trách nhiệm của mình đối với trẻ thơ. Ông muốn các em phải biết yêu thương và trân trọng cuộc sống. Đó chính là lí tưởng giáo dục cao đẹp của ông, là kinh điển của Tôn giáo Con người mà ông muốn gởi gắm và thực hiện nơi ngôi trường Santineketan – ngôi trường của sự bình yên. 1.2. R. Tagore – Nhà thơ của thiếu nhi 1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tập thơ Trăng non Nghĩ về tập thơ Trăng non, người ta thường nhớ đến những câu thơ Tagore viết trong Những cánh chim bay lạc: Cõi đời hôn lên hồn tôi với nỗi đau thương Và đòi hỏi tôi đáp lại bằng lời ca, tiếng hát [45, 731] Và thật vậy, Trăng non chính là tiếng ca được cất lên từ những nỗi đau thương. Năm 1904 Tagore mất đứa con gái thứ hai, năm 1907 đứa con trai đầu của nhà thơ cũng từ giã cõi đời. Cùng với cái chết của người vợ (1902) và cái chết của người cha (1905), Tagore gần như suy sụp. Thế nhưng, kì diệu thay ông vẫn làm thơ! Chính ông đã từng nói: “Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ”. Và Trăng non chính là thơ được cất lên từ cõi lòng Tagore nhiều đau thương mất mát. Tập thơ ra đời năm 1909 và ban đầu có tựa đề là Sisu ( Trẻ thơ). Đến năm 1915, nó được Tagore chuyển từ tiếng Bengali sang tiếng Anh và đổi tên là The Cressent Moon ( Trăng non) gồm 40 bài. Trăng non là tập thơ viết về trẻ thơ , là biểu tượng cho tâm hồn bản nguyên, thuần khiết của các em. Với Trăng non, Tagore đã tái hiện lại một thiên đường đã mất trong mỗi chúng ta, đó là thiên đường của tuổi ấu thơ tràn ngập tình yêu thương mẫu tử. 1.2.2. Trăng non – Những cảm nhận tinh tế về trẻ thơ Trăng non là tập thơ thể hiện sâu sắc tình thương yêu và niềm mong ước của Tagore về một thế giới tươi đẹp dành riêng cho trẻ. Trong thế giới ấy, trẻ thơ thoát ra mọi ràng buộc của cuộc sống đời thường và tự do đi về trong tưởng tượng. Trẻ thơ là hiện thân của nước, của tinh khiết, vô vi và trong thế giới của trẻ mọi quyền uy, toan tính của con người đều trở nên vô nghĩa. Với Tagore, trẻ thơ là điều kì diệu mà Thượng đế đã ban tặng con người, là sợi dây nối kết mối giao hoà vĩnh cữu của thế giới thực tại và mộng tưởng, của mặt đất và bầu trời, của
  13. con người và thiên nhiên, của tình yêu giữa cha và mẹ… Trong vòng tay và trái tim của mọi người, trẻ thơ là thiên thần, là niềm vui, là buổi ban sơ của một đời người… Và trong trái tim Tagore, trẻ là tất cả những gì ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong trẻo. Tagore không chỉ nhìn trẻ bằng cái nhìn trìu mến của một người ông dành cho cháu như V.Hugo trong Nghệ thuật làm ông, không chỉ bao bọc, chở che bằng vòng tay, tình yêu của một người mẹ như Xuân Quỳnh (Ru con), không chỉ thì thầm về những giấc mơ như Hoàng Trung Thông (Những cánh buồm ) …mà với Tagore, Trăng non là phép cộng của tất cả những thứ tình cao quý đó. Nếu ngày trước V.Hugo từng ngạc nhiên khi khám phá ra vị trí của trẻ trong vũ trụ: “Bé chính là bình minh và hồn ta là cánh đồng bát ngát/ Cánh đồng đã ướp hương những loài hoa dịu mát vào trong hơi thở của em ( Khi em bé hiện ra) thì đến Tagore ông lại cho rằng trẻ thơ là một thiên thần , đến từ xứ sở thần tiên như một kẻ ăn mày để có thể đến xin cả kho báu tình thương của mẹ. Dường như trong cách cảm nhận của Tagore, trẻ thơ có phần gần gũi, chân thật và đáng yêu hơn cả. Được mệnh danh là V.Hugo của Ấn Độ, Tagore không chỉ xúc động nghẹn ngào trước cô bé bán củi nghèo hèn: “ Em gái da sạm đen răng trắng/ Cánh tay bé nhỏ quắp sau lưng/ Kéo lê run rẩy một bó củi/ Dịu dàng em chiếc bóng của hãi hùng” ( Em bé bán củi – V. Huygo) mà ông còn hoá thân vào những vui buồn thơ dại để phát hiện ra ước mơ, khát vọng của các em. Tagore còn cho rằng chỉ có nỗi buồn tủi của chúng là đáng kể nhất bởi lẽ từ khi sinh ra trẻ đã có quyền được chơi đùa, yêu thương, được chăm sóc, nâng niu: Nỗi buồn tủi của đám người đông đảo Cũng không sao lớn bằng Nỗi buồn tủi của chú bé kia Chú không có nỗi một xu Để mua một chiếc gậy tô màu Đôi mắt thèm thuồng của chú Làm cho tất cả đám người kia Thương xót ( Người làm vườn, 1914) Là một nhà thơ luôn đấu tranh không mệt mỏi vì tự do của con người, trong Trăng non , Tagore mong muốn mang đến cho trẻ em một thế giới tự do tuyệt đối: tự do trong tưởng tượng, tự do trong vui chơi, tự do bày tỏ tình cảm, ước vọng của mình. Giữa cuộc sống bộn bề lo toan của người lớn, trẻ là sự hiền minh. Sự tự do của trẻ là mong muốn mãnh liệt của người lớn khi họ vọng tưởng về thời ấu thơ. Đó là sự tự do tuyệt đối không bị những
  14. vật chất tầm thường ràng buộc. Trong bài Bản hợp đồng cuối cùng, R. Tagore kể lại một câu chuyện lí thú. Một chàng thanh niên làm thuê vừa đi vừa rao lớn : “ Nào, ai thuê tôi thì đến thuê?”. Một ông vua “ ngồi trên xe đi tới và bảo: “ Ta muốn thuê ngươi bằng quyền lực của ta”. Nhưng quyền lực của y có gì đáng kể và y lại ra đi “. Đến trưa “ dưới trời nóng bỏng”, anh ta gặp một tay triệu phú, hắn nhắc túi vàng lên và bảo: “ Ta thuê ngươi bằng tiền bạc của ta”. Nhưng anh vẫn quay lưng. Khi chiều xuống, anh gặp một cô gái đẹp và hứa sẽ thuê anh bằng một nụ cười . Nhưng “ nụ cười của cô ta đã nhạt đi và tan thành nước mắt”, “ cô trở về trong bóng tối một mình”. Anh đã từ chối tất cả từ quyền lực, của cải và sắc đẹp. Cho đến khi anh gặp cậu bé, mọi việc đã hoàn toàn đổi thay: Ánh mặt trời long lanh trên cát Và sóng vỗ rì rào Một cậu bé chơi với dăm vỏ ốc Cậu ngẩng lên và dường như cậu nhận ra tôi rồi nói: Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé Tôi đã trở thành người tự do ( Bản hợp đồng cuối cùng) Như vậy, sự lựa chọn cuối cùng của anh ta là tự do. Trong Trăng non, sự tự do của trẻ thơ đồng nghĩa với một tâm hồn thuần khiết và thánh thiện. Tagore ca ngợi bản chất này ở trẻ và cho rằng chính nó đã đem đến cho trẻ cái nhìn trong trẻo về cuộc sống và những điều quý giá mà người lớn không thể nào có được: tự do, hạnh phúc, niềm vui và cao hơn cả là tình yêu trong sáng dành cho mẹ: Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng Bé tự do không hề ràng buộc chút nào Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ Có chứa một niềm vui vô tận vô cùng Và được ghì được ôm trong chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do ( Cung cách của bé ) Khi sáng tác Trăng non, Tagore đã để tâm hồn tự lan toả thành thơ. Chính tình yêu và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông đã giúp ông có được những cảm nhận tinh tế về
  15. trẻ nhỏ. Nhập vai vào trẻ, Tagore đã nói lên được ước mơ khát vọng của các em. Có thể nói, trong thơ ông trẻ thơ thật sự được tự do trong thế giới mộng tưởng của chính mình, được ban phước lành từ bàn tay tạo hoá: Ban phước cho trái tim bé nhỏ, cho linh hồn trong trắng Nhờ nó mà khiến trời hôn đất Nó yêu ánh dương, nó yêu gương mặt mẹ hiền Nó chưa biết khinh khi cát bụi và chạy theo bạc vàng …Hãy giữ lòng tin của nó, dẫn nó đi thẳng và cầu chúc cho nó Có đe dọa tới đâu linh khí từ trên trời cao cũng sẽ tới Thổi căng buồm đưa nó tới cõi bình yên ( Ban phước) Bàn tay tạo hóa đã ban cho trẻ sự sống giữa cõi đời này nhưng tâm hồn trẻ lại lớn lên nhờ tình yêu của mẹ. Cho nên cuộc hành trình từ thiên đường của trẻ đến trần gian cũng chính là hành trình truy tìm Trái tim tình thương từ Mẹ. Chính mẹ và cõi đời trần thế này mới là thiên đường thực sự mà trẻ cần tìm đến. Tạo hoá có thể ban tặng trẻ mọi thứ từ vòng hoa rực rỡ sắc màu đến những phúc lành tràn trề bất tận nhưng điều trẻ cần lại chính là hương thơm tình yêu từ trái tim của Mẹ: Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận trên trời. Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta. Bé thích đặt đầu vào trong lòng mẹ. Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ….Cái điều bé thích nhất là được học những lời của mẹ nói ra. từ trên đôi môi của mẹ…Bé có hàng đống vàng đống ngọc. Thế nhưng bé đã đến mặt đất này. Như một kẻ ăn xin….Để có thể đến xin cả kho báu tình thương của mẹ.(Cung cách của bé). Là những bài thơ ghi lại bản chất thánh thiện của trẻ thơ, Trăng non thể hiện sâu sắc tấm lòng nhân đạo Tagore dành cho trẻ nhỏ. Trong cái vô cùng của vũ trụ, ông đã mang đến cho trẻ khát vọng được hoà nhập vào mây và sóng, được gửi gắm giấc mơ của mình trên những con thuyền giấy dưới ánh sao khuya, được thể hiện tình yêu dành cho mẹ…Trong sắc màu hư ảo của mảnh Trăng non, trẻ là hiện thân của muôn vàn vẻ đẹp, là buổi sớm mai của một đời người mà ai cũng một lần bước qua và không bao giờ quay trở lại. 1.2.3. Trăng non – Tiếng thơ kì diệu của tuổi thơ
  16. Là một tập thơ viết cho thiếu nhi Trăng non hội đủ các yếu tố mang tính đặc trưng của một tác phẩm văn học thiếu nhi. Khi viết Trăng non, Tagore đã thực sự sống với đời sống của lứa tuổi thiếu nhi. Ông cảm nhận sâu sắc, trọn vẹn những đặc trưng tâm lí của các em. Bằng tình cảm chân thật của một người cha ông đã hồi tưởng và làm sống lại kí ức những năm tháng tuổi thơ một cách kì diệu và trong trẻo nhất. Đọc Trăng non, độc giả được sống trong một thế giới thần tiên và nghệ sĩ, một thế giới pha trộn giữa hư và thực, giữa sự tưởng tượng và cuộc sống thực tại phong phú. Công trình nghiên cứu của Coócnây Trucôpxki ( 1882- 1969), nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô cũ cho chúng ta thấy Trăng non thật sự là một tập thơ viết cho thiếu nhi và viết về thiếu nhi. Trăng non là một tập thơ giàu hình ảnh, màu sắc của hội hoạ. Nhưng những sắc màu , hình ảnh này khác với những sắc màu, hình ảnh ngoài cuộc sống vì nó được cảm nhận bằng trí tưởng tượng của trẻ thơ. Chỉ có các em mới nhìn thấy nơi những vật vô tri vô giác cả một thế giới sống động, diệu kì : Tường điện bằng bạc trắng, mái điện bằng vàng ròng Hoàng hậu sống trong cung có bảy sân chầu và đeo một hạt ngọc quý bằng châu báu của cả bảy nước … Cô công chúa nằm ngủ trên bờ xa tít cách bảy biển không ai vượt nổi… … Nàng mang vòng ở cổ tay, tay đeo ngọc trai và tóc dài chấm đất Nàng sẽ thức giấc khi con khẽ chạm chiếc gậy thần và mỗi khi cười môi nàng tuôn trào châu báu… … Nhà bác phó cạo …Ở góc hè kia ngay chỗ chậu cây cảnh ( Xứ thần tiên) Bằng sự tưởng tượng, trẻ đã thổi hồn cho sự vật và tạo ra trong thế giới của mình một không gian kì diệu, không gian huyền thoại của những ước mơ. Nhận xét về vấn đề này, trong quyển Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, Xukhômxlinxki, nhà giáo dục Nga đã viết: “ Mỗi đứa trẻ không chỉ tri giác mà còn khắc hoạ, sáng tạo và xây dựng. Sự nhìn nhận thế giới của trẻ là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Hình ảnh mà trẻ tri giác đồng thời xây dựng mang trong nó sắc thái tươi sáng của cảm xúc. Trẻ trải nghiệm một niềm vui dữ dội khi tri giác những hình ảnh của thế giới xung quanh và bằng trí tưởng tượng bổ sung vào những hình ảnh ấy một điều gì đó”[ 63, tr.16]. Như vậy, trong sự phát triển thể chất và tinh
  17. thần của trẻ, tưởng tượng là một yếu tố không thể nào vắng mặt. Bởi vì, trong cái nhìn của trẻ, cuộc sống vốn chứa nhiều bí mật. Trẻ muốn khám phá nó qua sự tưởng tượng của mình. Vì thế, mỗi câu hỏi của trẻ đều ngộ nghĩnh, hồn nhiên : “Em hỏi: “ Buổi tối khi trăng tròn, treo lơ lửng giữa lùm cây, có ai ôm được nó không?”/ Thế là anh cười chế nhạo: “ Ngốc ơi, mày là đứa bé, ngốc nghếch nhất trần gian/ Mặt trăng xa vời vợi/ Làm sao mà với tới…”(Nhà thiên văn) Là “nhà lãng mạn sáng tạo” trẻ đã xây dựng nên trong thế giới của mình một xứ xở thần tiên với “ những cánh đồng lúa chín vàng” bên bờ suối óng ánh hay ““hoa chàm vàm rụng rơi” trên lối mòn râm mát, còn những giọt sương long lanh trong ánh bình minh là “ ngọc trai run rẩy trên đồng, ngọc trai rơi trên nội cỏ non” và sóng biển dạt dào là “ ngọc trai trải xoè trên bờ cát”… Có thể nói, bằng những dòng thơ lấp lánh sắc màu cổ tích, Tagore đã tạo cho các em một thế giới diệu kì. Trong thế giới đó các em được tự do vui chơi với sự tưởng tượng cuả mình. Đó là thế giới của trăng non, của những giấc mơ tươi đẹp, lạ kì. Trăng non còn là một tập thơ giàu chất trữ tình ( giàu chất thơ, chất nhạc). Với đặc điểm của thể loại thơ văn xuôi ( A prose poem), một hình thức được xem là tự do, dân chủ nhất trong thể loại trữ tình, là loại “ thơ du dương không điệu, không vần, hơi mềm và hơi cứng, để có thể thích ứng với những chuyển động trữ tình của tâm hồn, với làn sóng nhấp nhô của mơ mộng, với những cảm xúc bất thường của lương tri”[ 22, tr. 578] chất thơ trong Trăng non được “tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi gợi, bất ngờ, chất triết lí thâm thuý, thơ mộng.”[27, tr.319]. Sức hấp dẫn của một bài thơ văn xuôi là ở vẻ đẹp của tư tưởng, tình cảm, ở những rung động tinh tế của cảm xúc, những khám phá mới mẻ, độc đáo của hình ảnh. Thơ văn xuôi giàu tính nhạc, theo Xuân Diệu, đó là “cái nhạc bên trong của câu thơ… không thể hiện ra ở vần mà lỗ tai cảm thấy ngay” [14, tr. 619]. Giả Bình Ao, một nhà văn hiện đại của Trung Quốc đã dùng thể loại thơ văn xuôi dưới hình thức đối thoại để viết về tình mẫu tử: “Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chin đỏ là nhờ có mặt trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà nó đỏ? Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng? Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao giờ nói sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ nói sai, vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”[ 64, tr. 319]. Với hình thức đối thoại của thể thơ văn xuôi ( nhưng thực chất chỉ là cuộc độc thoại vì đối tượng trữ tình ẩn đi, chỉ còn lời nhân vật trữ tình), những bài thơ trong Trăng non vừa thơ mộng, dịu dàng vừa ngọt ngào, êm ái như lời thì thầm yêu thương của con và mẹ:
  18. Giá như con hoá thành một đoá hoa Chămpa Chỉ để chơi thôi Và mọc trên một cành cây cao nọ Và reo cười đung đưa trong gió Thì mẹ có nhận được con không hở mẹ? Mẹ sẽ gọi: “ Bé ơi, con đâu rồi?” Và con sẽ cười thầm lặng im không nói Con sẽ len lén mở cánh rình xem lúc mẹ đang làm ( Hoa Chămpa) Cuộc đối thoại ở bài thơ trên thực ra chỉ là cuộc độc thoại của con. Đối tượng trữ tình (mẹ) đã bị giấu đi chỉ còn lại lời của nhân vật trữ tình ( con) bộc lộ. Con đưa ra câu hỏi giả thiết, mường tượng ra phản ứng của mẹ và bộc lộ thái độ của mình trước hành động ấy. Dường như ân sau những câu hỏi của con là tiếng cười tinh nghịch, hồn nhiên. Con sẽ “ bất thình lình thả mình rơi xuống đất. Và một lần nữa lại trở thành bé yêu của mẹ, và đòi mẹ kể chuyện cho con. “ Này thằng quỷ, mày ở đâu thế? “ Mẹ ơi, con chẳng nói đâu. Đấy là điều rồi hai mẹ con ta sẽ nói với nhau”. Sự hoá thân hoá thân của con là một trò chơi nghịch ngợm, thông qua trò chơi ấy con đã thể hiện tình thương yêu chân thành của mình dành cho mẹ. Không chỉ viết về thế giới trẻ thơ, thế giới tràn ngập tình yêu của mẹ và bé, Trăng non còn là bài học giáo dục trẻ thơ tinh tế và sâu sắc. Những bài thơ trong Trăng non không phải là những triết lí, những mệnh đề khô cứng bởi tính chất chất giáo dục của nó. Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm, sự chân thật, và đức hiếu thảo ở mỗi con người … Sau khi đọc tập thơ, điều đọng lại trong tâm hồn chúng ta là hãy nâng niu và chăm sóc trẻ thơ, hãy giáo dục trẻ bằng tình yêu thương nhân hậu. Chính sức mạnh tình thương sẽ cải hoá, hoàn thiện một con người. Trăng non chính là món quà đặc biệt Tagore dành cho trẻ nhỏ. Bằng trái tim của một người cha, ông đã viết nên những dòng thơ yêu thương về tình mẫu tử, về ước mơ và khát vọng trẻ thơ… Trăng non mãi mãi là thiên đường mơ ước của mỗi chúng ta.
  19. CHƯƠNG 2 VẺ ĐẸP TOÀN BÍCH CỦA THẾ GIỚI TÂM HỒN TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON 2.1. Một thế giới thuần khiết trong thiên nhiên tươi đẹp 2.1.1. Thiên nhiên với đời sống văn học Ấn Độ Trong đời sống văn hóa, văn học phương Đông, thiên nhiên là một tấm gương phản chiếu tâm tư, tình cảm của con người. Nếu trong ca dao, dân ca Việt Nam, thiên nhiên là không gian khởi đầu cho những ước thệ chung tình: cây đa, bến nước, sân đình: Cây đa cũ, bến đò xưa Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ thì trong văn hóa Nhật, thiên nhiên lại bát ngát “ hương Thiền” và được nâng lên thành đạo “ Thần đạo” ( Kami): Trên cành khô Cánh quạ đậu Chiều thu ( Basho) [ 7, tr.174] Dù tồn tại trong những không gian – văn hóa khác nhau nhưng cảm thức về thiên nhiên, vũ trụ của con người phương Đông luôn có sự đồng điệu giống nhau. Người phương Đông luôn hòa mình vào thiên nhiên, vào vũ trụ vĩnh tồn. Với họ, thiên nhiên không chỉ là người bạn tri kỉ, tâm giao mà còn là duyên cớ của những xúc cảm tâm hồn. Để nói về những cảm hứng, cảm xúc trữ tình được coi là điểm khởi đầu cho những sáng tạo thơ văn, người Trung Quốc thường nói: “ Tức cảnh sinh tình” và trong đời sống văn hóa của họ giữa con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Quan niệm Con người vũ trụ trong triết học cổ đại Trung Quốc: “ thiên nhân hợp nhất”, “ thiên nhân tương dữ” ( trời và người quan hệ mật thiết với nhau), “ thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” ( trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một) đã thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết này: Con người là một “ tiểu vũ trụ” trong lòng “ đại vũ trụ”. Vì thế, trong thơ Đường Trung Quốc, con người luôn hòa mình vào thiên nhiên và đem thiên nhiên vào trong cõi lòng mình:
  20. Hoàng hà lạc thiên tẩu Đông Hải Vạn lí tả nhập trung hoài gian ( Lí Bạch) [23, tr. 47] ( Sông Hoàng Hà từ trời xuống chảy ra biển Đông Muôn dặm dồn về giữa cõi lòng) Văn hóa phương Đông không bao giờ phủ nhận tính chất hữu linh của thiên nhiên. Cũng như con người, thiên nhiên cũng hữu linh, hữu tình, hữu tâm: Mùa xuân ra đi Tiếng chim thổn thức Mắt cá lệ đầy ( Basho)[7, tr.178] hay: Thiên hạ thương tâm xứ Lao lao tống khách đình Xuân phong tri biệt khổ Bất khiến liễu điều thanh ( Lí Bạch ) [23,tr. 49] ( Dưới trời nơi đau khổ Chính ở Lao lao đình Gió xuân xót li biệt Chẳng khiến liễu xanh cành) Trong quan niệm của người phương Đông, có một sự cảm thông kì lạ giữa con người và thiên nhiên, đến nỗi khi con người không thể nói hết tâm tình của mình thì dùng ngôn ngữ thiên nhiên để thể hiện: Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu đông phong ( Thôi Hộ ) [23,tr. 46] ( Năm ngoái năm nay trong cánh cửa này Mặt người và hoa đào, màu hồng ánh lẫn vào nhau Giờ đây mặt người không biết đã đi đâu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1