Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam
lượt xem 20
download
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam giới thiệu tới các bạn những nội dung về một số vấn đề khái quát về văn hóa Việt Nam, Thiền tông Việt Nam và thơ Thiền thời Trần, mối tương giao giữa thơ Thiền thời Trần và tiến trình văn hóa Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH LÂM NGỌC NY THƠ THIỀN THỜI TRẦN TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 602234 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
- LỜI MỞ ĐẦU Thời đại nhà Trần để lại dấu ấn trong lịch sử Việt Nam với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Dẫu trải qua bao nhiêu thế kỉ, tiếng hô “Quyết đánh! Quyết đánh!” vẫn còn làm rung động triệu triệu con tim người Việt. Làm nên hào khí ấy, ngoài truyền thống yêu nước của dân tộc phải kể đến vai trò không kém phần quan trọng của tinh thần Phật giáo Thiền tông. Sự gần gũi trong tinh thần yêu nước của dân tộc với tinh thần nhân đạo của Phật giáo đã làm nên diện mạo riêng cho thơ Thiền thời Trần. Với đề tài “Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam”, người viết không ngoài mục đích muốn tìm hiểu mối tương giao giữa thơ Thiền thời Trần và văn hóa Việt Nam. Để hoàn thành đề tài này, ngoài những nỗ lực của bản thân, người viết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến những người thân trong gia đình. Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân đã tận tình hướng dẫn cho người viết. Ngoài ra, còn có sự ủng hộ của những bạn bè cũng góp phần giúp cho người viết có đủ nghị lực để hoàn thành đề tài. Hi vọng, đề tài này sẽ góp thêm một tiếng nói vào việc tìm hiểu thơ Thiền thời Trần. Rất mong sự góp ý để người viết có thể hoàn thiện hơn đề tài của mình để nó trở thành một tài liệu tham khảo có ích. Xin Trân trọng cảm ơn! Lâm Ngọc Ny
- MỞ ĐẦU 1/ Lí do chọn đề tài: Lịch sử dân tộc ghi nhận chiến công oanh liệt của thời đại nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông xâm lược, mở ra một thời đại cực thịnh trong lịch sử phong kiến nước nhà. Dưới thời đại vàng son đó, một nền văn học cũng phát triển rực rỡ mà đỉnh cao là Thiền học. Thơ Thiền thời Trần – sự tiếp nối và phát triển của thơ Thiền thời Lí – là một thành tựu nổi bật của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Nếu như thơ Thiền thời kì đầu (thời Lí) mang đậm chất triết lí sâu xa có phần khó hiểu, thể hiện trí tuệ uyên áo của các nhà sư, thì thơ Thiền thời kì sau (thời Trần) cũng những triết lí ấy, cũng biểu hiện trí tuệ ấy nhưng có phần “cởi mở” hơn, nghĩa là gần gũi và dễ hiểu hơn, chan hòa hơn, ở đó, ranh giới giữa thơ và Thiền dường như không phân định rõ, nó vừa là thơ mà cũng vừa là triết lí của đạo Phật. Điều đáng chú ý là vị vua anh minh đã lãnh đạo nhân dân chiến thắng đế quốc Nguyên – Mông hùng mạnh lại là người khai sáng nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - Trúc Lâm sư tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Ngày nay, cuộc sống bộn bề khiến con người luôn phải chạy đua với thời gian, với bao lo toan vất vả, nhưng đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn họ luôn muốn hướng tới những điều tốt đẹp, thanh tao như là chân – thiện – mĩ. Những giây phút con người lắng lòng mình để nghe âm thanh của tiếng mưa đêm hay nghe thanh âm trong trẻo của tiếng chuông chùa vọng lại cũng là lúc họ tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn. Đôi lúc, con người ấy lắng lòng mình với một ý thơ, một lời văn để trở về với cái “tâm” vô tư, trong sáng, hồn nhiên – cội nguồn của bản tính con người. Trở về với văn học, đặc biệt là văn học trung đại, chúng ta sẽ bắt gặp một dòng thơ “tĩnh lặng” mà không kém phần sâu sắc - như đóa hoa sen dù sống trong đầm lầy vẫn vươn cao và tỏa hương thơm ngát - đó là dòng thơ Thiền, đặc biệt là thơ Thiền thời Trần. Như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong “Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần” (Tạp chí Văn học, số 3 & 4 – 1986) đã viết: “thơ văn Lí – Trần rõ ràng sẽ có giá trị như một hồi âm phản tỉnh, bằng cách này hay cách khác giúp chúng ta thực hiện cái quá trình đi ngược lại sự tha hóa lịch sử của chính chúng ta, giúp ta sống những giây phút tốt đẹp hơn, hồn hậu và nguyên vẹn hơn”. Và “hình như người đọc, dù ở thế kỉ XV, thế kỉ XVIII, hay thế kỉ XX đều có thể tìm thấy ở đây cái ánh sáng tiềm ẩn của chính tâm hồn mình, vẻ đẹp hồn nhiên tươi tắn của cuộc sống mà chính mình đã đánh mất, sự thoáng đạt của một tư duy vừa siêu hình vừa trần tục mà mình
- không thể có”. Có thể nói, với ý kiến ấy, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã khẳng định được giá trị cơ bản của thơ Thiền nói chung và thơ Thiền thời Trần nói riêng. Phải nói thơ Thiền thời Trần là một mảnh đất màu mỡ cho việc nghiên cứu, đào sâu tìm tòi về những giá trị của Phật giáo cũng như là của văn học dân tộc. Nhiều công trình nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu thơ văn nói chung và một phần thơ Thiền nói riêng của thời Trần. Tuy nhiên, dưới một góc nhìn khác, một cách tiếp cận khác, chúng tôi muốn đề xuất thêm một cách tìm hiểu thơ Thiền thời Trần. Đó là “Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam”. Với công trình này chúng tôi muốn khẳng định hơn nữa giá trị của văn học thời Trần, đặc biệt là văn học Thiền tông trong mối quan hệ với văn hóa dân tộc. Hi vọng luận văn ít nhiều sẽ góp thêm một cách nhìn nhận, tiếp cận mới về thơ Thiền thời Trần trong dòng văn học nói chung. 2/ Lịch sử vấn đề: Về đề tài này, thật sự chưa có một công trình nào dành riêng để nghiên cứu nó. Tuy nhiên, như đã nói, đây là một mảnh đất màu mỡ cho nên bằng cách này hay cách khác, dưới góc độ này hay góc độ khác cũng đã có không ít công trình nghiên cứu về thơ Thiền thời Trần (chủ yếu là các công trình nghiên cứu về thơ Thiền Lí – Trần nói chung). Các tác phẩm cổ xưa như Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn,… đã kể lại những câu chuyện lịch sử, và đã có những nhận định về con người thời Trần cũng như thơ văn thời Trần. - Bộ Thơ văn Lí – Trần của Viện Văn học (1977 – 1989) là một công trình văn bản học có bề thế và tầm cỡ về văn học Lí – Trần. - Nguyễn Đổng Chi trong công trình Việt Nam cổ văn học sử (Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1970) đã trình bày tiến trình văn học theo từng triều đại phong kiến, riêng về văn học Thiền tông thời Trần tác giả chỉ điểm qua khi trình bày văn học đời Trần (chương X). - Ngô Tất Tố trong công trình Văn học đời Trần (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1942) đã giới thiệu một số thành tựu văn học của triều đại nhà Trần, trong đó có một phần là thơ Thiền. - Bùi Văn Nguyên trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỉ X – XVII) (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1978) nhận xét: “Phật học đời Trần cũng có những tư tưởng độc đáo,
- không rập khuôn theo phương Bắc”, “văn học đời Trần mở đầu loại văn bút chiến và văn chương phê bình”, “các vua đời Trần thường là thi nhân hơn là Thiền sư”. - Đinh Gia Khánh trong lời giới thiệu “Tám thế kỉ của tiến trình văn học” trong sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1960), đã nhận định về thơ Thiền thời Trần: “xét về mặt học thuật đời Trần, trước hết phải nói đến những trước tác về Phật học”, “văn học đời Trần với quan niệm Tam giáo đồng nguyên, đồng thời xuất hiện xu hướng phân công giữa Phật và Nho”, “thơ của các vị vua tu Thiền, các nhà sư thể hiện một niềm yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết”. - Phạm Văn Diêu trong Văn học đời Trần Hồ (Bài giảng tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, 1970 – 1971) đã giới thiệu văn học thời này theo hệ thống thể loại: văn sử kí của người Việt viết ở Trung Hoa, văn truyện cổ, văn bi kí tựa, văn lí luận phê bình, văn nghị luận chính trị,… trong đó có một số tác phẩm thuộc văn học Thiền tông. - Đặng Thai Mai trong bài viết Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học (Thơ văn Lí – Trần, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977) đã đề cập đến thái độ tích cực lạc quan trong các bài thơ Thiền của các nhà thơ Thiền và về một đạo Phật khoan dung cởi mở, từ đó sinh ra những nhà thơ có bản lĩnh, có tâm hồn phóng khoáng, giàu chất nhân bản với những bài thơ Thiền độc đáo, có khí sắc, đạo nhưng rất đời. - Kiều Thu Hoạch trong Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lí – Trần (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 6 – 1965) đã cho thấy rằng bên cạnh thơ văn đề cao ý thức tự cường dân tộc, tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, còn có thơ văn của các Thiền sư. Thơ văn này có nhiều yếu tố siêu thoát, nhưng nó cũng là một hiện tượng khá đặc biệt trong lịch sử văn học. Thời Lí – Trần là thời kì phồn thịnh nhất của đạo Phật nên có nhiều nhà sư nổi tiếng về văn học. Các Thiền sư hay làm thơ và có thơ hay; trong kệ, chất thơ cũng bàng bạc, giáo lí đạo Phật được trình bày khá bóng bẩy, sinh động, giàu nghệ thuật. - Nguyễn Phạm Hùng trong Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 10 – 1994) đã tiếp thu ý kiến của Suzuki, của Nguyễn Lang để nêu lên tính trực giác của thơ Thiền. Thơ Thiền có hai yếu tố: mặt vật chất là cái tượng trưng, còn triết lí là cái được tượng trưng. Nhưng giá trị thẩm mĩ của thơ Thiền lại nằm ở mặt vật chất của hình tượng thơ.
- - Nguyễn Huệ Chi trong Đề nghị một cách hiểu mối quan hệ giữa văn học đời Trần và cuộc kháng chiến chống xâm lược đời Trần (Tạp chí Văn học, số 3 & 4 – 1986) đã khẳng định những nội dung của thơ văn (trong đó quan trọng là thơ Thiền) chính là động lực sâu xa góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của quân dân nhà Trần trước đế quốc Nguyên – Mông hùng mạnh. - Đoàn Thị Thu Vân qua thống kê, phân loại để khảo sát về ngôn ngữ thơ Thiền Lí - Trần và tìm hiểu quan niệm con người trong thơ Thiền Lí - Trần, trong luận án PTS Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI – XIV (Bảo vệ tại Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1995), đã đề cập đến ngôn ngữ thơ Thiền, hình tượng con người, hình tượng thiên nhiên ngoại vật, không gian - thời gian nghệ thuật, thể thơ, kết cấu, cách miêu tả, giọng điệu và so sánh đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Lí – Trần với thơ Nho cùng thời cũng như với thơ Thiền Trung Quốc, Nhật Bản. Nhìn chung, tác giả cho rằng thơ Thiền Lí – Trần là sản phẩm kết hợp của nền triết học giàu chất tự do phóng khoáng và một thời đại đậm tính nhân văn nên đã đem lại nhiều nét độc đáo, mới mẻ cho thơ ca dân tộc. Đó là thế giới nghệ thuật đầy sức thu hút, có xu hướng vươn tới không gian và thời gian vô hạn đạt sự hợp nhất. Các Thiền sư là những con người nhập thế giúp đời. Thơ Thiền với hệ thống kí hiệu nghệ thuật khác hẳn thơ Nho, đã đánh đổ cái nhìn nhị nguyên và con người trong thơ Thiền là con người phá chấp, tùy duyên, đạt đạo ngay giữa cuộc đời. - Nguyễn Công Lý trong chuyên luận Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lí – Trần (NXB Văn Hóa thông tin, Hà Nội, 1997)đã đi từ việc tìm hiểu khái niệm Thiền tông, văn học Thiền tông đến tìm hiểu nét đặc sắc của Thiền học Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu bản sắc dân tộc trong văn học Thiền qua thơ văn viết về triết lí tư tưởng Thiền, về thiên nhiên và con người, cuộc sống với tinh thần lạc quan, phong cách bình thản tin tưởng; cuối cùng xác định vị trí và những đóng góp của văn học Thiền Lí – Trần trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam; tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo với văn học, và về trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh. - Trong Văn học Phật giáo thời Lí – Trần diện mạo và đặc điểm (NXB ĐH Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2003), tác giả Nguyễn Công Lý (2003) khái quát tình hình nghiên cứu, đặc điểm và diện mạo văn học Phật giáo thời Lí – Trần. Theo lời mở đầu của GS.NGND Nguyễn Đình Chú thì “một trong những kết quả nâng cao công trình của Nguyễn Công Lý chính là ở chỗ làm rõ hơn phương diện văn chương của văn học Phật giáo Lí – Trần”. Trong đó tác giả
- đã chú ý đến việc “giới thuyết, làm rõ hơn mối quan hệ giữa tôn giáo với văn học trong sự sống nhân loại nói chung”. - Thích Thanh Từ trong bài Thiền Trúc Lâm qua vấn đáp (Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) đã giải thích ý chỉ của Trúc Lâm đệ nhất tổ trong những câu đối đáp về Phật về Thiền với các đệ tử. Ở bài Thiền Trúc Lâm qua thơ văn chữ Hán (Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995), tác giả đã nhận xét về hồn thơ, về chất Thiền độc đáo, đậm sắc màu dân tộc trong thơ Trần Nhân Tông. Còn trong Tam tổ Trúc Lâm giảng giải (NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh, 2005), tác giả đã trình bày rõ về công đức, hành trạng cũng như phân tích một số câu nói, bài thơ, bài kệ của ba vị tổ sư phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Công trình này theo Thích Thanh Từ, được viết ra “trên tinh thần khôi phục lại Phật giáo đời Trần”. Từ đó ông khẳng định sách Tam tổ Trúc Lâm giảng giải ra đời nhằm mục đích phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập Phật giáo. - Đỗ Văn Hỷ trong Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ Thiền (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 1, 1975) đã nêu lại chuyện oan tình của Huyền Quang và cho rằng ông chẳng có oan tình gì. Trên cơ sở đó, bài viết nêu lên một khía cạnh nhỏ về thủ pháp biểu hiện của thơ Huyền Quang và cách tiếp nhận thơ Thiền. - Nguyễn Phương Chi với bài Huyền Quang, nhà sư thi sĩ (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 3 – 1982) thì cho rằng cái cốt lõi của Huyền Quang không phải là con người Thiền mà chính là con người thi sĩ. Thiền sư chỉ là cái vỏ, là hình thức cho con người thi nhân sống thực, cảm xúc thực đầy sáng tạo. - Mai Quốc Liên trong Các nhà thơ đời Trần (Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ, Sở Văn Hóa thông tin Nghĩa Bình – 1986) đã đề cập đến những điểm cơ bản của mĩ học Thiền: vắng lặng, hư tịch, phản ánh chân như của vũ trụ theo quan điểm Phật giáo. Từ đó nêu ra những đặc trưng trong thơ Thiền của Trần Nhân Tông, của Huyền Quang. - Minh Chi trong Thơ Huyền Quang (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) thì không đồng ý với ý kiến của Nguyễn Phương Chi cho rằng ở Huyền Quang con người thi nhân rõ nét hơn con người tôn giáo. Theo tác giả, thơ Huyền Quang mang đậm nét trữ tình và văn chương Phật giáo không phải là văn chương khô khan. Các Thiền sư không phải là con người lạnh lùng không cảm xúc. Thơ văn là trực cảm, cảm xúc với người, với cảnh và
- với bản thân mình. Đó không phải là cái ta hời hợt mà là cái ta đại ngã cùng một bản thể với chúng sinh, vạn vật mà chỉ có bậc giác ngộ mới thể nghiệm được. - Minh Tuệ trong Thiền sư Huyền Quang, một nhà thơ lớn (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995) thì cho rằng Huyền Quang vừa là Thiền sư ngộ đạo, vừa là người nghệ sĩ lớn với thi hứng dạt dào, phóng khoáng. - Phạm Ngọc Lan trong Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 4 – 1992) đã đề cập những cảm hứng trong những bài thơ viết về thiên nhiên của Trần Nhân Tông. - Thích Đồng Bổn trong Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lí – Trần (NXB Tôn giáo, Hà Nội – 2006) đã khái quát một số đặc điểm của Phật giáo cũng như hành trạng của các vị tăng sĩ Phật giáo trong đời sống chính trị của triều đại Lí – Trần. Tác giả cũng đã khẳng định ở “đời Trần Phật giáo đã đi vào đỉnh cao nhất và đi sâu vào chính sự qua những con người cụ thể lãnh đạo triều đại, các vị vua nhà Trần đã là tăng sĩ hay đang trị vì cũng đã uyên thâm Phật học”. Tóm lại, thơ Thiền Lí – Trần nói chung, thơ Thiền thời Trần nói riêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm ngày càng nhiều và chủ yếu ở các phương diện văn bản học (sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu), tìm hiểu tác giả, nghiên cứu giá trị của tác phẩm,… Điều đó chứng tỏ văn học Thiền tông là mảnh đất có nhiều sức hấp dẫn đối với số đông nhà nghiên cứu. Trên tinh thần kế thừa những thành quả của người đi trước, chúng tôi đã tổng hợp những tài liệu phong phú có liên quan để từ đó đi vào tìm hiểu một phương diện chuyên biệt của vấn đề: Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Như tên gọi của nó - Thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam – đề tài này nhằm thực hiện hai nhiệm vụ: Một là khái quát về thơ Thiền thời Trần và khái quát những lĩnh vực văn hóa tinh thần bằng cách khảo sát tài liệu, so sánh đối chiếu và rút ra những nhận định cơ bản về thơ Thiền thời Trần cũng như về văn hóa Việt Nam. Hai là, từ việc nắm vững hai vấn đề trên, chúng tôi đi vào làm rõ mối tương giao giữa thơ Thiền và văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động của nó.
- Về phạm vi khảo sát, trước hết, đề tài được xác định là để bước đầu tìm hiểu sự tương giao giữa thơ Thiền và văn hóa Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển. Thơ Thiền nói chung và thơ Thiền thời Trần nói riêng cũng như văn hóa Việt Nam là những vấn đề phức tạp, có rất nhiều ý kiến đề cập. Do đó, chúng tôi không có tham vọng chạm đến tận cùng của vấn đề mà chỉ là bước đầu khảo sát, phân tích để có cái nhìn mới cũng như cách tiếp cận mới về thơ Thiền thời Trần trong văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Về thơ Thiền thời Trần, chúng tôi căn cứ vào một số công trình như Thơ văn Lí Trần (tập II, quyển thượng) , Tổng tập văn học Việt Nam (tập 2, 3) và các công trình của các tác giả như Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Công Lý,... Về văn hóa, chúng tôi căn cứ vào công trình của Trần Quốc Vượng, La Văn Quán, Trần Ngọc Thêm,… bao gồm các vấn đề về con người, thiên nhiên, cách ứng xử với tự nhiên và xã hội,… 4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: Phật giáo Thiền tông là một hệ tư tưởng - triết học có ảnh hưởng sâu sắc ở nước ta trong những thế kỷ đầu kỷ nguyên tự chủ. Nó góp phần không nhỏ vào những thành tựu về chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội… của một thời đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc - thời đại Lí - Trần - và đã để lại dấu ấn khá đậm nét trong nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là trong thơ văn thời đại ấy cũng như văn chương trung đại Việt Nam nói chung. Nghiên cứu thơ Thiền thời Trần trong dòng chảy văn hóa Việt Nam không chỉ để hiểu con người Việt Nam trong quá khứ mà còn góp phần xây dựng con người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đây là một công việc cần thiết và bổ ích vì đó là một trong những cách giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Thời Trần là thời đại phát triển cực thịnh trong lịch sử Việt Nam. Có được điều đó, theo nhiều nhà nghiên cứu, một phần là do sự ảnh hưởng và tác động của Phật giáo. Điều đó được minh chứng rõ ràng ở chỗ, thời đại nhà Trần có không ít các vị vua, quan là thiền sư hoặc thiền gia, cư sĩ, trong số đó có vua Trần Nhân Tông là người đã khai sáng thiền phái Trúc Lâm. Văn học thời Trần được sản sinh ra trong bối cảnh đó. Đây là giai đoạn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của văn học viết Việt Nam, trong đó thơ Thiền được vinh dự là một bộ phận văn học có vị trí gần như là tiên phong cho giai đoạn này với những thành tựu đáng kể. Nhờ thế, nó tạo nên một tiếng nói rất riêng khó có thể tìm thấy ở các giai đoạn văn học sau. Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận văn học thời Trần, trong đó đáng kể là thơ
- Thiền, có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn chương trung đại nói riêng. Do đó, nghiên cứu thỏa đáng vấn đề đặt ra sẽ rất có ý nghĩa về mặt khoa học. Lâu nay, các tác phẩm thơ Thiền thời Trần cũng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường nên nghiên cứu đề tài này còn có ý nghĩa thiết thực về mặt nghiệp vụ vì sẽ góp phần vào việc giải mã những tác phẩm văn học giàu chất nhân văn, là giá trị văn hóa của dân tộc, nhưng đồng thời cũng mang tính uyên áo, không dễ lĩnh hội, từ đó giúp cho việc nghiên cứu và giảng dạy bộ phận văn học này tốt hơn. 5/ Phương hướng và phương pháp nghiên cứu: Thơ Thiền thời Trần đến nay tuy có nhiều người quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu đáng quý song, so với yêu cầu phát triển của xã hội nói chung và của văn học nói riêng thì vẫn còn nhiều khoảng trống để người đi sau tiếp tục tìm hiểu. Với đề tài này chúng tôi muốn thực hiện một hướng tiếp cận vừa gần gũi, quen thuộc nhưng cũng khá mới mẻ và lí thú về thơ Thiền thời Trần, qua đó góp phần làm phong phú hơn cách nhìn nhận, đánh giá về giá trị văn học của dân tộc. Khi tiến hành đề tài này, chúng tôi chọn phương pháp phân tích – tổng hợp, so sánh để tiếp cận và bước đầu nhìn nhận vấn đề. Song song đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp liên ngành vì đề tài nghiên cứu là văn học nhưng có liên quan đến văn hóa, lịch sử, xã hội học, nên cũng cần thiết sử dụng những thành tựu về phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học đó. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài là thơ Thiền – một phần của văn học Phật giáo, mà Phật giáo lại chú ý đến “tâm” và tư duy tổng hợp, trực giác, trực cảm tâm linh, nên nghiên cứu bộ phận văn học này chúng tôi cũng vận dụng phương pháp trực cảm để cảm nhận vấn đề, thấy được đặc điểm bản chất của đối tượng. 6/ Cấu trúc luận văn bao gồm hai phần: PHẦN MỞ ĐẦU: 1/ Lí do chọn đề tài 2/ Lịch sử vấn đề 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5/ Phương hướng và phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG:
- Chương 1: Một số vấn đề khái quát về văn hóa Việt Nam Chương 2: Thiền tông Việt Nam và thơ Thiền thời Trần Chương 3: Mối tương giao giữa thơ Thiền thời Trần và tiến trình văn hóa Việt Nam Kết luận.
- Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM 1.1/ Khái niệm “văn hóa” và “dòng chảy văn hóa”: 1.1.1/ Khái niệm văn hóa: Văn hóa là một khái niệm mà mỗi học giả ở mỗi đất nước trong những thời kì khác nhau đều có cách lí giải riêng. Nhưng có lẽ không một học giả nào bằng lòng với khái niệm có sẵn nên đều tự mình đưa ra một khái niệm của riêng mình, và cũng không một khái niệm nào được coi là hoàn thiện. Hơn nữa, người ta có thể nghiên cứu văn hóa từ nhiều góc độ khác nhau, có người thiên về mặt này, có người thiên về mặt kia của văn hóa, do đó họ đưa ra những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Thí dụ: nhà ngôn ngữ học thường truy xét từ nguyên, tức là gốc từ La Tinh hay Hy lạp của từ culture phương Tây, tương đương với thuật ngữ văn hóa của ta và Trung Quốc. Gốc từ La Tinh của từ văn hóa nêu bật các nghĩa vun trồng, rèn luyện, làm tăng lên về chất lượng và số lượng. Phải chăng, từ đó có thể nói văn hóa (culture) bao gồm tất cả những gì là tinh thần hay vật chất có thể và phải được vun trồng, rèn giũa, tích lũy để có một sự phát triển về lượng và về chất? Theo GS Trần Ngọc Thêm trong Cơ sở văn hóa Việt Nam (NXB Giáo Dục, thành phố Hồ Chí Minh 1999), Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Theo GS.TS Lê Văn Quán trong Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam (NXB Lao Động, Hà Nội 2007), Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống, và sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa có ý nghĩa khác nhau đối với các dân tộc khác nhau, bởi vì khái niệm văn hóa bao gồm những chuẩn mực, giá trị, tập quán,… Danh từ Văn hóa đầu tiên xuất hiện ở thư tịch Trung Quốc. Bắt nguồn từ Lưu Hướng, đời Tây Hán: Phàm vũ chi hưng, vi bất phục dã, văn hóa bất cải, nhiên hậu gia tru (phàm dùng vũ lực là để đối phó với kẻ không phục tùng; dùng văn hóa mà không thay đổi được thì sau mới giết). Sau đó, Văn hóa trở thành một bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu hiện tượng văn hóa hoặc hệ thống văn hóa. Nó bắt đầu phát triển ở nước Pháp vào khoảng giữa
- thế kỉ XIX, trước tiên họ đề xuất khái niệm “khoa học văn hóa”, chủ trương xây dựng độc lập, tiến hành nghiên cứu khoa học để nói rõ sự tiến triển của văn hóa. Đến đầu thế kỉ XX, các nhà văn hóa Mỹ chính thức xác lập nguyên tắc và khung Văn hóa học. Như vậy, Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, mỗi xã hội đều có nền văn hóa thích ứng với nó và phát triển tiến lên theo đà xã hội. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nhiều nghĩa. Với nghĩa rộng, văn hóa là chỉ tổng hợp sáng tạo văn minh vật chất và văn minh tinh thần trong quá trình phát triển xã hội loài người. Về nghĩa hẹp, văn hóa chỉ hình thái ý thức và thượng tầng kiến trúc của xã hội, tức là hình thức tổ chức và chế độ thích ứng với hình thái ý thức xã hội. Do đó, nó có đặc điểm của tính lịch sử, tính truyền thống, tính dân tộc,… Chính vì vậy, trong lịch sử các thời kì khác nhau, dân tộc khác nhau đều sáng tạo ra những nền văn hóa khác nhau. Chủ nghĩa Mác đề xuất bảy luận điểm về văn hóa như sau: 1/ Nền văn hóa của loài người bao gồm toàn bộ hoạt động sáng tạo của loài người, trong lĩnh vực vật chất và tinh thần, và thành quả của hoạt động sáng tạo ấy. Nó biểu hiện một dạng thống nhất nhất định giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và xã hội. Nó là tiêu chí đặc trưng nhất cho sự phát triển lực lượng và khả năng sáng tạo của những cộng đồng người trong từng thời kì lịch sử khác nhau. 2/ Nó bao gồm toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của loài người, như công cụ, dụng cụ, máy móc, các công trình kĩ thuật, các tác phẩm văn học nghệ thuật, các chuẩn mực luật pháp và đạo đức… 3/ Chủ nghĩa Mác phân biệt lĩnh vực văn hóa vật chất và lĩnh vực văn hóa tinh thần, vai trò quyết định của văn hóa vật chất, và mối tương quan biện chứng qua lại giữa hai lĩnh vực đó. 4/ Chủ nghĩa Mác nói về tính giai cấp của văn hóa. Mỗi hình thái xã hội đều có nền văn hóa thích ứng của nó. Tương ứng với các hình thái xã hội giai cấp đối kháng, là một nề văn hóa đầy mâu thuẫn, phát triển vô chính phủ, trong đó phải đặc biệt lưu ý bộ phận văn hóa mang tính chất tiến bộ của nhân dân, do quần chúng lao động sáng tạo ra. 5/ Chủ nghĩa Mác rất trân trọng những di sản văn hóa quý báu của các thế hệ trước để lại, đồng thời tiếp thu mọi thành tựu văn hóa của thế giới, nhân loại. Đó là tính kế thừa và tính quốc tế của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- 6/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có tính đại chúng. Toàn dân có điều kiện và cơ hội làm văn hóa, thưởng thức văn hóa, hoạt động văn hóa. Sự tiếp thu văn hóa đó có tính chất hoàn toàn tự giác, không có sự áp đặt từ bất cứ một quyền uy nào. 7/ Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một nền văn hóa dồi dào nhân tính, mục đích cứu cánh của nó là phục vụ con người tự do thật sự, phát triển hài hòa và toàn diện, với mọi năng khiếu được nảy nở và bộc lộ không hạn chế. Đấy là mẫu những con người hoàn thiện mà bao thế hệ trước đây hằng mơ ước, nhưng không có điều kiện xã hội chính trị kinh tế để biến thành hiện thực. Những điều kiện này đang dần dần hình thành đầy đủ trong chế độ xã hội mới ở nước ta. Trên cơ sở đó, xin tạm định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, con người với môi trường xã hội và với chính mình. 1.1.2/ Khái niệm dòng chảy văn hóa: Văn hóa là một vấn đề nhân sinh quan và thế giới quan, là cách nhìn bao trùm và cách ứng xử qua những hành động thiết thực của con người với thiên nhiên và với cộng đồng con người trong xã hội. Từ xưa, con người từ bậc hiền triết đến người thường đã luận bàn rất nhiều về nó, sau này chắc cũng vậy, với những hiểu biết mới, xác thực hơn, cao siêu hơn. Từ quan điểm duy vật biện chứng nhìn lại lịch sử loài người, chúng ta thấy sáng tỏ vị trí, vai trò và tác dụng của văn hóa, một chiến công biết bao quý báu của con người, sau khi thoát khỏi tiền thân của mình là con vật, vươn lên qua các chế độ xã hội, đến bước nhảy vọt từ vương quốc của sự áp bức, bóc lột đến vương quốc của giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, mà đỉnh cao là sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người. Đây cũng sẽ là đỉnh cao của phát triển văn hóa trong toàn bộ lịch sử loài người. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta là một quá trình diễn biến những sự kiện đa dạng, hùng tráng và bi thảm, mà các nhà sử học đã, đang và sẽ nghiên cứu, bởi tất cả chưa phải đã sáng tỏ. Mà văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi khí phách anh hùng trong giữ nước
- và dựng nước. Phải thấy cái chất văn hóa trong tất cả những sự kiện nói trên, nó là tinh hoa của dân tộc, của quý nhất mà ngày nay mọi người Việt Nam chúng ta tự hào là người kế thừa và phát triển. Văn hóa là kết quả, là ngọn nguồn của hành động có ý thức của con người làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc sống này có thể là vật chất, tinh thần, là trăm nghìn kinh nghiệm khác nhau ngày càng phong phú. Từ đấy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, văn hóa sẽ có mặt khắp mọi nơi, trở thành một cấp độ phát triển của bất cứ một hoạt động nào, thường được coi là có ý nghĩa tinh thần, nhưng thực ra gắn liền với cả phạm trù vật chất lẫn tinh thần. Như vậy, có thể nói, song song với sự phát triển của lịch sử dân tộc là sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Mỗi giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau ứng với những đặc điểm văn hóa khác nhau. Hợp chung lại là một dòng chảy xuyên suốt của cả lịch sử và văn hóa của dân tộc. Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam gọi sự phát triển ấy là tiến trình văn hóa Việt Nam và chia tiến trình ấy thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử, văn hóa Văn Lang – Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Phạm Văn Đồng tìm hiểu sự phát triển của văn hóa trong lịch sử dân tộc và cho thấy ứng với mỗi thời kì lịch sử dân tộc là một nét văn hóa riêng. Chẳng hạn như: thời vua Hùng thì thành tựu văn hóa chủ yếu là trống đồng và thời đại văn hóa Đông Sơn; thời Bắc thuộc thì tiếp biến nền văn hóa Hán là tiêu biểu; thời độc lập dân tộc có thành tựu là phát huy truyền thống văn hóa dân tộc từ xa xưa, kết hợp với việc tiếp thu và chuyển hóa thành Việt Nam những giá trị văn hóa của Nho giáo, Phật giáo và một vài học thuyết khác về chính trị, xã hội và văn hóa ở phương Đông; thời Pháp thuộc là sự tiếp biến một số nét của văn hóa phương Tây; đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám, nền văn hóa nước ta càng khẳng định vai trò và vị trí của mình trong lịch sử dân tộc. Sự phát triển của văn hóa còn được hiểu là sự phát triển từ văn hóa dân gian đến trung đại, hiện đại và quá trình giao lưu quốc tế (Theo Dòng chảy văn hóa Việt Nam của GS.VS.N.I.Culin, do GS.VS Hồ Sĩ Vịnh và PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Văn hóa thông tin).
- Như vậy, có thể nói, dòng chảy văn hóa là tiến trình vận động và phát triển liên tục của một nền văn hóa, trong đó thế hệ sau kế thừa thế hệ trước và sáng tạo thêm những giá trị mới. 1.2/ Các đặc trưng và chức năng của văn hóa: 1.2.1/ Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội: Hệ thống văn hóa là một tổ chức hữu cơ; các sự kiện, hiện tượng có mối quan hệ khăng khít, chi phối và chế ước lẫn nhau. Đặc trưng này giúp chúng ta phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển của nó. Nhờ tính hệ thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Nghĩa là văn hóa góp phần làm tăng độ ổn định của xã hội, tăng sự cố kết cộng đồng, tạo sự ổn định xã hội, cung cấp cách ứng xử và tổ chức đời sống thích hợp với môi trường tự nhiên và xã hội. Chính vì thế, văn hóa còn là nền tảng của xã hội. 1.2.2/ Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội: Giá trị văn hóa là những cái mà trải qua thời gian và những thăng trầm của cuộc sống nó vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa. Văn hóa theo nghĩa đen là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Có thể nói, văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Từ đó có thể phân chia các giá trị văn hóa theo các tiêu chí sau: Theo “mục đích” có thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần; theo “ý nghĩa” có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ; theo “thời gian” có thể chia thành các giá trị vĩnh cữu và giá trị tạm thời; theo “không gian” có thể chia thành giá trị cục bộ và giá trị phổ biến. sự phân biệt các giá trị văn hóa cho phép ta có cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời đối với một nền văn hóa. Mỗi một dân tộc có những đặc tính giá trị văn hóa riêng của mình và chính điều này làm cho mỗi dân tộc có những sự khác biệt về văn hóa. Ví dụ như các nước phương Đông chủ yếu đề cao sức mạnh tập thể, trong khi đó, Mỹ lại đề cao vai trò của cá nhân. Lại có những nếp văn hóa mà ngày nay giới trẻ không dễ gì chấp nhận như việc nhuộm răng của phụ nữ Việt Nam ngày xưa, tục nối dây của dân tộc Êđê,… Có những nếp văn hóa được chấp nhận ở một nền văn hóa này nhưng lại không được chấp nhận ở một nền văn hóa khác. Do
- đó, các nền văn hóa phải thường xuyên sàng lọc, điều chỉnh để chấp nhận các giá trị theo từng giai đoạn. Từ đó, văn hóa thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội. Chức năng điều chỉnh xã hội nghĩa là giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường. Văn hóa giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển xã hội. 1.2.3/ Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp: Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất hoặc tinh thần. Có thể nói, văn hóa là thành tựu của con người, do con người sáng tạo ra, phục vụ lợi ích của con người. Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử, đặc biệt, trong thời đại ngày nay, văn hóa càng khẳng định vị trí quan trọng của mình. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân, sự hưng vong của mỗi quốc gia, sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển đều tùy thuộc rất nhiều vào sự nhận thức và phát triển văn hóa. Trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, việc am hiểu nhiều nền văn hóa là vô cùng cần thiết. Sẽ khó có sự thành công khi trong giao tiếp chúng ta hoàn toàn không hiểu gì về văn hóa của đối tác, thậm chí không biết gì về ngôn ngữ của họ. Văn hóa gắn liền với hoạt động của con người trong xã hội và mang tính nhân sinh. Do đó, văn hóa là sợi dây nối liền và thực hiện chức năng giao tiếp giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. 1.2.4/ Tính lịch sử và chức năng giáo dục: Văn hóa là sản phẩm của một quá trình được tích lũy qua nhiều thế hệ, có tính bền vững và lâu dài. Văn hóa là sự tích tụ hàng ngàn năm lịch sử. Mỗi thế hệ đều cộng thêm đặc trưng riêng biệt của mình vào nền văn hóa dân tộc trước khi truyền lại cho thế hệ sau. Ở mỗi thế hệ, thời gian qua đi, những cái mới được thêm vào, những cái cũ có thể bị loại trừ để kết tinh thêm nền văn hóa truyền thống. Sự sàng lọc và tích tụ qua thời gian đã làm cho một nền văn hóa của một dân tộc trở nên giàu có, phong phú và tốt đẹp hơn. Một nền văn hóa không bào giờ tĩnh tại và bất biến. Văn hóa luôn thay đổi và rất năng động, nó luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và tình hình mới. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu và được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn
- mẫu xã hội và cố định dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận,… Văn hóa truyền thống thực hiện chức năng giáo dục đối với con người không chỉ bằng những giá trị đã ổn định mà còn bằng những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách con người. Từ chức năng giáo dục, văn hóa còn có chức năng đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nó là một thứ “gien” xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau. 1.3/ Bản sắc văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động và phát triển: Có một thời người ta phủ nhận sự hiện hữu của một nền văn minh và văn hóa Việt Nam. Người ta xếp một cách đơn giản thế giới Việt Nam vào phạm vi ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, vào phạm trù của nền văn minh Trung Quốc. Thế nhưng, rồi những công trình nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh xuống chiều sâu và trong chiều dài lịch sử đã buộc giới trí thức đông và tây phải xem xét lại cái quan điểm đơn giản và phiến diện đó. Một khoa học mới ra đời, khảo cổ học, với những tài liệu vật chất lấy lên từ lòng đất, đã chiếu rọi một ánh sáng mới mẻ vào quá khứ ngàn vạn năm mà trước đây còn nằm trong bóng đêm của lịch sử… Đi sâu nghiên cứu hai nền văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, người ta lại biết đấy là màn dạo đầu, từ trước đây trên dưới một vạn năm, của một cuộc cách mạng nông nghiệp xảy ra trên toàn vùng Đông Nam Á có thiên nhiên phong phú và đa dạng. Nơi đó, còn trước cả vùng Trung Đông vài nghìn năm, là một cái nôi trồng trọt, từ chục nghìn năm trước, đã có những cộng đồng nông nghiệp định cư, trồng cây có củ, cây ăn quả, bầu bí rau dưa, rồi sau đó đã trồng lúa nước, cây lương thực trọng yếu của loài người. Mà nông nghiệp là khởi đầu của văn minh nhân loại. Một nền văn minh Đông Sơn được phát hiện, tồn tại hàng ngàn năm. Trong tiến trình ấy, văn hóa Việt Nam đã cố gắng phát huy nội lực cũng như tiếp biến những tinh hoa của văn hóa phương Đông và phương Tây để tạo nên bản sắc riêng cho mình. Có thể nói, qua quá trình kế thừa, phát huy và tiếp biến văn hóa, văn hóa Việt Nam đã hình thành một số nét bản sắc như sau: 1.3.1/ Nhận thức về vũ trụ: Văn hóa Việt Nam nhìn nhận bản chất vũ trụ thông qua triết lí âm dương.
- Trước khi khoa học thiên văn hình thành, các dân tộc trên thế giới đều lấy bản thân mình làm trung tâm, thăm dò tìm kiếm bí mật của vũ trụ trong quan hệ hiện tượng thế giới tự nhiên và con người. Vũ trụ mà con người đối diện tức là bản thân tự nhiên, do đó, quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ đề quan trọng nhất trong nền văn hóa truyền thống phương Đông. Người Việt lúc bấy giờ nặng về phương thức nhận biết vũ trụ, thường thiên về cội nguồn qua cách thức suy nghĩ, được biểu hiện trong các truyện huyền thoại, truyền thuyết. Việt Nam khởi thủy từ một nước nông nghiệp lúa nước, cho nên điều cốt yếu của con người Việt Nam là thời vụ. Thời vụ liên quan đến mùa màng được mất và cuộc sống con người. Con người luôn mong sao cho mùa màng bội thu, gia đình đông đúc, tức là quan tâm đến sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người với hai cặp đối lập Mẹ - Cha và Đất - Trời. Thời xưa đất rộng, thêm người thì thêm việc, tăng thu nhập, chưa phải lo thiếu ăn nên dân gian ta thường nói Trời sinh voi, trời sinh cỏ; mặt khác, với cuộc sống định cư, việc sinh đẻ hầu như không ảnh hưởng đến sinh hoạt của cộng đồng. Người ta cũng dần dần nhận ra rằng: Đất được đồng nhất với mẹ, còn Trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp “mẹ-cha” và “đất-trời” chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc “mẹ-cha” và “đất-trời” này, người xưa đã dần dần suy ra vô số những đối lập mà, đến lượt mình, lại trở thành cơ sở để suy ra những đối lập mới. Chẳng hạn, từ cặp “lạnh-nóng”, có thể suy ra: Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương; Về phương hướng thì phương bắc lạnh thuộc âm, phương nam nóng thuộc dương; Về thời gian thì ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Tiếp tục, đêm thì tối nên màu đen thuộc âm, ngày thì nắng đỏ nên màu đỏ thuộc dương… Tuy nhiên, việc xác định bản chất âm/dương của các sự vật, hiện tượng xung quanh không phải lúc nào cũng dễ dàng. Do đó, người xưa đã dần dần tìm ra những đặc điểm mang tính quy luật của triết lí âm dương. Đó là: không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương và trong dương có âm; âm và dương luôn gắn bó mật thiết với nhau và chuyển hóa cho nhau - âm cực sinh dương, dương cực sinh âm. Triết lí âm dương là sản phẩm trừu tượng hóa từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người. Từ hai cặp đối lập gốc “mẹ-cha” và “đất- trời”, người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương.
- Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp (= nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về thế giới. Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á xưa hẳn đã mở rộng ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này cũng đã dẫn họ tới chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Ở người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp bộc lộ đậm nét qua khuynh hướng cặp đôi: từ cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói quen hiện đại. Người Việt Nam còn nhận thức rõ về hai quy luật của triết lí âm dương. Những quan niệm dân gian kiểu: “Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc”; “Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo”… cũng là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “trong dương có âm” và “trong âm có dương”. Những nhận thức dân gian: Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ;… là sự diễn đạt cụ thể của quy luật “âm dương chuyển hóa”. 1.3.2/ Nhận thức về con người: Văn hóa Việt Nam nhìn nhận con người ở hai góc độ, vừa là con người tự nhiên, vừa là con người xã hội. Bởi lẽ cuộc sống nông nghiệp khiến con người gắn bó hơn với thiên nhiên, cho nên, con người và vũ trụ được xem là nằm trong một thể thống nhất, cho nên, vũ trụ làm sao con người làm vậy – con người là một “tiểu vũ trụ”, từ đó suy ra rằng các mô hình nhận thức đúng với vũ trụ sẽ đúng cho lĩnh vực con người. Trong vũ trụ có âm dương, con người cũng vậy; vũ trụ cấu trúc theo ngũ hành, con người cũng thế. Theo quan hệ trên dưới, từ ngực trở lên là phần dương, từ bụng trở xuống là phần âm; trán là dương, cằm là âm; mu bàn tay, mu bàn chân là dương; lòng bàn tay, lòng bàn chân là âm. Theo quan hệ trước sau, bụng là phần âm, lưng là phần dương; mặt trước cẳng chân là dương, bụng chân phía sau là âm. Cứ như vậy, có thể phân biệt âm dương tới từng bộ phận cơ thể. Xuất phát từ sự gắn bó mật thiết của con người nông nghiệp với thiên nhiên, từ tư tưởng coi con người và vũ trụ nằm trong một thể thống nhất, người xưa đã áp dụng các mô hình nhận thức về vũ trụ vào việc lí giải không chỉ cấu tạo và hoạt động của con người sinh vật, mà cả cho lĩnh vực con người xã hội. Do nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên (vũ trụ), người xưa không chỉ đưa những kết quả nhận thức về vũ trụ áp dụng vào xem xét con người, mà còn ngược lại, lấy con người làm trung tâm để xem xét đánh giá tự nhiên. Chính nhờ lối tư duy âm dương từ trong máu thịt mà người Việt Nam có được triết lí sống quân bình: Trong
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm (bản diễn nôm) đến Truyện Kiều (Nguyễn Du)
86 p | 310 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại Việt Nam
87 p | 231 | 53
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bút pháp hiện thực trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Nam Cao - Những tương đồng và dị biệt
126 p | 168 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc sắc bút pháp tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao và Lỗ Tấn
123 p | 295 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 307 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam
150 p | 192 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hình ảnh "trăng" trong thơ Thiền Lý Trần Việt Nam và thơ Đường Trung Quốc
219 p | 169 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của thơ ca Tùng Thiện Vương trong văn học trung đại Việt Nam
137 p | 116 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những cách tân kịch của A.P. Chekhov
142 p | 129 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tạ Duy Anh
113 p | 105 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare
249 p | 76 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đóng góp của Trần Quang Nghiệp trong quá trình hiện đại hóa truyện ngắn Nam Bộ đầu thế kỉ XX
129 p | 97 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Trương Duy Toản
171 p | 94 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng Epiphany trong tập truyện ngắn "Người Dublin" của James Joyce
137 p | 96 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn