intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn chiến tranh của Ernest Hemingway

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

92
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn chiến tranh của Ernest Hemingway trình bày về truyện ngắn và truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway; không gian trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway; nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyện ngắn chiến tranh của Ernest Hemingway

  1. BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH ---------------------------------------- Nguyeãn Tieán Duõng TRUYEÄN NGAÉN CHIEÁN TRANH CUÛA ERNEST HEMINGWAY Chuyeân ngaønh: Vaên hoïc nöôùc ngoaøi Maõ soá: 60 22 30 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ VAÊN HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC TS. ÑAØO NGOÏC CHÖÔNG Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2008
  2. Lôøi caûm ôn Toâi xin chaân thaønh caûm ôn: Thaày giaùo höôùng daãn, Tieán só Ñaøo Ngoïc Chöông Giaùo sö Löu Ñöùc Trung, Phoù Giaùo sö Löông Duy Trung Caùc thaày coâ Toå Vaên hoïc nöôùc ngoaøi, caùc thaày coâ Khoa Ngöõ vaên Phoøng Sau Ñaïi hoïc & CN Tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm Tp.Hoà Chí Minh Anh Nguyeãn Hoàng Vyõ Gia ñình vaø baïn beø ñaõ taän tình giuùp ñôõ, goùp yù, boå sung cho toâi hoaøn thaønh luaän vaên naøy. Gia Lai, ngaøy 31 thaùng 8 naêm 2008 Ngöôøi vieát luaän vaên: Nguyeãn Tieán Duõng Lôùp Cao hoïc Vaên hoïc nöôùc ngoaøi K 16
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một ghi chú của Gail Calwel trong một quyển sách nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh E. Hemingway do thư viện Kennedy tổ chức ngày 10 & 11 tháng 4 năm 1999 có đoạn: “Hemingway ở đỉnh cao của làn sóng thời đại. Đó là sự nổi loạn chống lại thứ văn xuôi thượng lưu Anh đạo đức giả và nói quá sự thật.” Thực vậy, sáng tác của E. Hemingway nói chung và truyện ngắn chiến tranh của ông nói riêng đã khẳng định điều đó. Sự nghiệp văn học của E. Hemingway được kể đến hơn tám mươi bài thơ, năm vở kịch, mười hai tiểu thuyết và hơn một trăm truyện ngắn với nhiều đề tài khác nhau. Đó là một gia tài văn học không nhỏ của một nhà văn gần 40 năm cầm bút và lăn lộn khắp các chiến trường. Các nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam đã dành nhiều tâm huyết để tìm tịi, nghin cứu các sáng tác của E. Hemingway trên nhiều khía cạnh khác nhau như đề tài, thi pháp, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật, phong cách nghệ thuật… và có nhiều công trình thành công đáng kể. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh và truyện ngắn của E. Hemingway được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều nhất và có nhiều phát hiện quan trọng. Có thể nói, đề tài chiến tranh là đề tài quen thuộc và chủ đạo trong sáng tác Hemingway. Ông được xem là một trong những nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc nhất của thế kỉ XX cùng với Barbusse, Erich Maria Remarque… Hơn thế nữa, Hemingway được coi là nhà văn tiên phong của nghệ thuật viết truyện ngắn hiện đại. Thậm chí có ý kiến rằng E. Hemingway viết truyện ngắn thành công hơn tiểu thuyết mặc dù ông đạt giải Nobel về tiểu thuyết (G. G. Marquez). Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và xuyên suốt về truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Trong khi đó mảng truyện ngắn chiến tranh của Hemingway chiếm một phần không nhỏ trong sáng tác của ông. Tôi nghĩ rằng mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway là mảng sáng tác có nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật mà chúng ta chưa có dịp tìm hiểu. Đó là lí do quan trọng của đề tài này. Về mặt các ấn phẩm, số lượng truyện ngắn của E. Hemingway được dịch sang tiếng Việt chỉ hơn 70 truyện trong tổng số hơn 100 truyện, trong đó một số truyện ngắn chiến tranh tiêu biểu chưa được dịch. Do vậy, người viết luận văn này đã cố gắng dịch sang tiếng Việt bốn truyện ngắn: Đêm trước trận đánh (Night Before Battle), Đêm trước đổ bộ (Night Before Landing), Điểm đen chỗ giao lộ (Black Ass at the Crossroads), Cảnh vật muôn màu (Landscape
  4. with Figures) mà chúng tôi cho rằng đây là những truyện ngắn chiến tranh tiêu biểu của Hemingway. Chúng tôi hy vọng rằng những truyện ấy bổ sung vào mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway đã được dịch nhằm giúp cho việc nghiên cứu mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway toàn diện và sâu sắc hơn. Trong luận văn này, chúng tôi tập hợp được các truyện ngắn về đề tài chiến tranh của E. Hemingway và bước đầu xác định những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn chiến tranh Hemingway ở hai phương diện: không gian nghệ thuật và nhân vật với tư cách là hai đặc điểm cơ bản xác lập đặc trưng truyện ngắn chiến tranh của Hemingway. Với những nỗ lực như thế, hy vọng đề tài của chúng tôi sẽ góp phần phục vụ cho mảng tác phẩm của E. Hemingway trong nhà trường, nhất là đối với cá nhân tôi. 2. Lịch sử vấn đề Từ năm 1924, sau khi in our time ra đời, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về E. Hemingway, phong cách nghệ thuật và sáng tác của ông. Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Hemingway mang giá trị thiết thực. Để phục vụ cho luận văn của mình, chúng tôi chia các nghiên cứu về E. Hemingway theo các vấn đề sau đây: 2. 1. Về đề tài chiến tranh Các nhà xuất bản trên thế giới đã sắp xếp tác phẩm của E. Hemingway theo đề tài chiến tranh, gồm những ấn phẩm sau: -Hemingway on War By Ernest Hemingway and Ernest Hemingway Edited by Sean Hemingway and Sean Hemingway in Trade Paperback at SimonSays. -Men at War -New York Crown Publishers, 1942. -Hemingway's War Fiction and "The Best god-dammed God you Ever Knew". Autores: Tim Pingleton; Localización American, ISSN 1695-7814, Vol.1, … Đây là các tuyển tập sáng tác của E. Hemingway gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, các bài báo, bài phỏng vấn và ghi chép về chiến tranh của Ernest Hemingway do gia đình cùng các nhà xuất bản sưu tầm, tuyển chọn. Qua việc sắp xếp các tác phẩm theo đề tài chiến tranh ở trên, người sưu tầm, tuyển chọn bước đầu đã chú ý đến các sáng tác về đề tài chiến tranh của E. Hemingway và đã có công tập hợp các sáng tác ấy với nhiều thể loại. Việc làm này chứng tỏ mọi người đã chú ý đến mảng sáng tác về chiến tranh của E. Hemingway, một mảng sáng tác mà E. Hemingway có nhiều thành công và gây nhiều ấn tượng với công chúng. Tuy vậy, cho đến nay, chưa có ấn phẩm nào sắp xếp truyện ngắn chiến tranh của Hemingway thành tuyển
  5. tập. Điều đó đồng nghĩa với việc nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway chưa được quan tâm thỏa đáng. Ở Việt Nam, từ năm 1985, Lê Đình Cúc đã đề cập đến đề tài chiến tranh của E. Hemingway qua luận án phó tiến sĩ: Tiểu thuyết về chiến tranh của Hemingway [29]. Trong luận án của mình, Lê Đình Cúc đã khảo sát những tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway nhằm làm rõ thái độ và quan niệm của E. Hemingway về chiến tranh. Lê Đình Cúc nhận định: “Cùng đi song song với đề tài chiến tranh là đề tài tình yêu và sức sống mãnh liệt của con người” [31, tr.9]. Trong một bài tham luận về Hemingway mang tên Âm hưởng thời đại trong Hemingway, Lê Huy Bắc cho rằng: “Hemingway tập trung khắc họa hai diện mạo: chết trong chiến tranh và sống trở về”, “Chiến tranh hiện diện trong tác phẩm của Hemingway trước tiên không phải bằng bộ mặt thật với đạn bom, xe tăng pháo binh… mà nỗi ám ảnh ghê hồn” [15, tr.24-27]. Tuy ý kiến của Lê Huy Bắc không mới và chưa tập trung nhưng đó là sự tái khẳng định đề tài chiến tranh trong sáng tác nói chung và trong truyện ngắn của E. Hemingway nói riêng. 2. 2. Về thể loại Trong bài viết Hemingway ‘s English Reputation, DSR. Welland quan tâm đến hình thức đặc biệt của in our time. Ông cho rằng tập in our time chính là tiểu thuyết phân chia thành các đoạn [107, tr.10-35]. Còn Philip Young, trong Ernest Hemingway, cho rằng truyện ngắn của E. Hemingway là loại văn đơn giản, sắc cạnh và Hemingway có những truyện ngắn phác thảo (Sketch) [110]. Khái niệm sketch của Philip Young chỉ một kiểu truyện ngắn của E. Hemingway. Khái niệm này của P. Young đã gây nhiều tranh cãi, vì bản thân khái niệm sketch không bao hàm được các đặc điểm của truyện ngắn E. Hemingway. Sau này, Arlen J. Hansen [41], Lê Huy Bắc [12], Đào Ngọc Chương [22] tiếp tục bàn về khái niệm sketch. Trong đó ý kiến của Arlen J. Hansen và Đào Ngọc Chương đã lí giải khái niệm sketch với nhiều góc độ khác nhau và góp phần làm sáng tỏ vấn đề thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Chúng tôi sẽ trình bày vấn đề này rõ hơn ở Chương 1 của luận văn. Trong bài “in our time, những nét phác thảo của một phong cách nghệ thuật” [79], căn cứ trên tiêu chí thể loại, Trần Thị Thuận đánh giá rằng in our time gần với truyện ngắn hơn cả và đó là những trang viết đặt nền móng nghệ thuật của E. Hemingway sau này. Ý kiến
  6. của Trần Thị Thuận tuy chưa hoàn hảo nhưng đó là một cách xác định thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Cũng nghiên cứu về in our time, nhưng Đào Ngọc Chương đã lí giải sâu sắc hơn về vấn đề thể loại của in our time trên cơ sở phân tích các khái niệm đoản văn, chương (chapter). Đào Ngọc Chương xem kiểu chương xen (chapter) trong in our time như một truyện ngắn độc lập trên cơ sở nguyên lí tảng băng trôi của E. Hemingway [23]. Theo chúng tôi, đây là nhận định phù hợp nhất, vì nó có thể lí giải các đặc điểm truyện ngắn của E. Hemingway. Do đó, trong quá trình tiến hành luận văn, chúng tôi đã căn cứ ý kiến của Đào Ngọc Chương để khảo sát và xếp loại truyện ngắn của Hemingway. Lê Huy Bắc cho rằng truyện ngắn E. Hemingway có kích thước và nhiều chủng loại khác nhau: Truyện dong ý thức, truyện ngắn thư, truyện ngắn kịch, truyện ngắn mini, ngụ ngôn hiện đại, truyện ngắn triết lí, truyện ngắn theo trường phái minimalism [52, tr.6]. Các nhận định trên cho thấy sự đa dạng, phong phú và phức tạp về thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. 2. 3. Về hiện thực Khi nói về hiện thực trong tác phẩm văn học là nói đến thế giới hiện thực đã được tái tạo qua thế giới chủ quan của tác giả. Thế giới ấy chính là một hiện thực khác, một hiện thực thứ hai, dù mang hình bóng của thế giới khách quan ngoài đời. Không gian của tác phẩm văn học cũng nằm trong thế giới ấy. Với cách hiểu như vậy, hiện thực phản ánh trong sáng tác của E. Hemingway được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận với nhiều khái niệm khác nhau như: không gian, hiện thực, bối cảnh, hoàn cảnh… Trong lời giới thiệu công trình Hemingway, A Collection of Critical Essays, Robert P. Weeks nhận xét: không gian trong sáng tác của Hemingway là hạn hẹp và đơn giản [81, tr.10]. Theo Einkeshchein (trong Selected Stories by Enest Hemingway), hiện thực trong tác phẩm Hemingway đề cập đến thế giới đầy tội ác và nỗi kinh hoàng [94]. Einkeshchein phân tích quá trình chuyển biến cuộc sống của E. Hemingway từ 1924 đến cuối những năm 1930 và cho rằng: quan điểm của Hemingway trước thực tại là căm ghét bạo lực, chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít quyết liệt. Hemingway có tư tưởng ủng hộ cách mạng. Còn Ivan Kashkeen lại nhìn nhận: Hemingway nhìn thấy hiện thực vỡ vụn (trong Of Greatest Importtance: The Prose of Enest Hemingway) [100, tr.160-172]. Và Philip Young thì hình dung thế giới của Hemingway qua “khe hở của một bức tường”, “Thế giới của
  7. Hemingway là thế giới trong đó mọi thứ không sinh hoa, kết quả mà là một thế giới nổ tung, gãy vỡ, không hình thành, luôn bị gặm mòn” [110, tr.216]. Trong khi đó Leon Edel cho rằng: Thế giới trong Hemingway là thế giới của những hành động hời hợt, một sự phản ánh thô thiển, cách nhìn thế giới của E. Hemingway là “loại nghệ sĩ của không gian nhỏ bé với cái nhìn giới hạn” [93, tr.20]. Các nhà nghiên cứu Thuỵ Điển lại có ý kiến: Thế giới trong tác phẩm E. Hemingway không có sự thương cảm [88, tr.151-164]. Nhà nghiên cứu Đức, Helmut Papajewski, nhận xét: bên dưới cái hạn hẹp của thế giới truyện ngắn E. Hemingway là “mối quan tâm thường trực về số phận bi kịch của con người” [107, tr.75]. Lê Huy Bắc cho rằng: “Thế giới của Hemingway không chỉ là thế giới của những căng thẳng, đổ vỡ mà còn là thế giới của nhiều cạm bẫy” [15, tr.38]. Đặc biệt Lê Huy Bắc chú ý đến yếu tố không gian tác động đến tính cách của nhân vật: “Hemingway xây dựng không gian này là để khắc họa nên tính cách chủ đạo chung cho các nhân vật, tính cách anh hùng. Chính môi trường sống đầy bạo lực và quan niệm sống hào hùng trên đã tạo nên kiểu nhân vật riêng biệt của Hemingway” [15, tr.36]. Hoàng Nhân lại chú ý cách miêu tả không gian chiến tranh trong tác phẩm của E. Hemingway: “Tác giả đã mô tả sinh động những cảnh đổ nát, hoang tàn trong chiến tranh.” [70, tr.202]. Hoàng Nhân nhận xét thêm: “Thế giới miêu tả của Cézanne và Hemingway có vẻ chật hẹp, không bao quát được sự tinh tế có tính chất cổ điển.” [70, tr.224]. Ý kiến của Hoàng Nhân khẳng định một lần nữa ý kiến của Robert P. Weeks đã nêu ở trên. 2. 4. Về nhân vật Hầu hết các nhà nghiên cứu đã nêu được các kiểu nhân vật hoặc đề cập đến vấn đề con người trong tác phẩm E. Hemingway: -Nhân vật trong hoàn cảnh bi đát, khắc nghiệt: Ray B. West và Philip Young đều quan tâm đến sự tồn tại khó khăn của các nhân vật trong hoàn cảnh khắc nghiệt [81, tr.11]. André Maurois cho rằng trong cái thế giới đầy bất trắc của chiến tranh và cái chết thường xuyên hiện diện, trong tình trạng đầy kích động và luôn dự cảm những nguy hiểm, nhân vật của E. Hemingway có hai cách giải quyết hoặc bằng cách tìm quên trong uống rượu và làm tình đến đờ đẫn giác quan hoặc sống bằng cách sống khắc kỉ, chấp nhận kéo dài cuộc báo tử [22, tr.35] John Killinger miêu tả tình cảnh bi đát của những người lính trở về sau chiến tranh [101]. E. Johnson, trong Giã từ hòa bình riêng lẻ, đặt vấn đề: con người thoát ly và con người nhập
  8. cuộc. Einkeshchein lại nói đến con người với tâm hồn tàn phế [94]. Còn Helmut Papajewski và một số nhà nghiên cứu Pháp, Thụy Điển cho rằng đó là những con người trống rỗng, buồn bã đến cực độ [107, tr. 75-80]. -Con người với nỗi cô đơn: Khi đề cập đến E. Hemingway, Drobishevshii có nhận xét: truyện của ông mang sắc thái “bi kịch của sự cô đơn” [81, tr.12]. Cùng với ý kiến ấy, Jonh Killinger cho rằng Hemingway luôn đề cập đến con người cô đơn [101]. Còn Helmut Papajewski nhận định: trong tác phẩm của Hemingway luôn có sự sợ hãi, sự cô độc tận cùng của cá nhân, đến nỗi tình yêu đối lứa cũng không thể hóa giải nổi [107, tr.81-88]. Hoàng Nhân và Lê Huy Bắc chú ý đến hình ảnh nhân vật người lính trở về trong truyện ngắn E. Hemingway dở điên dở dại, bấn loạn và “lánh đời”, mang trong lòng những vết thương âm ỉ [15, tr.27, 29]. - Con người với cái chết: Cái chết trong tác phẩm E. Hemingway được các nhà nghiên quan tâm nhiều nhất. Malcolm Cowley nhận xét: không một nhà văn nào trong thời đại chúng ta lại có thể cho ta nhìn thấy nhiều xác chết như thế [92, tr.40]. Còn Jonh Killinger cho rằng cái chết là hình tượng thường trực trong tác phẩm của Hemingway, thậm chí đó chính là một thứ chìa khóa lí giải những bí mật của thế giới E. Hemingway [101]. Philip Young trong Ernest Hemingway lại nói đến cái chết và sự biến hình [111]. Còn Thorsten Jonsson dành nguyên một chương Sự gần gũi với cái chết để nói đến cái chết khi viết về E. Hemingway [99]. Trong Tiêu chuẩn của cái chết, L. Kistein cho rằng cái chết là nỗi ám ảnh và danh dự của con người. Ivan Kashkeen không tin rằng E. Hemingway bị cái chết ám ảnh nên hạn chế tầm nhìn [100, tr.172]. Ở một góc độ khác, John Killinger và Maxwell Geimar khám phá cái chết, cái tôi hiện sinh, cái hư vô nằm ngay ở đề tài chiến tranh trong tác phẩm E. Hemingway [22, tr.27, 36]. Phát hiện trên khẳng định thêm quan niệm của E. Hemingway về các khía cạnh của chiến tranh: cái chết, cái hư vô, sự vô lí… Và tất cả điều này được phản ánh rất rõ trong truyện ngắn mà chúng tôi sẽ đề cập ở các chương sau. Lê Huy Bắc lại nhắc đến những cái chết vô nghĩa, những “cái chết bất đắc kì tử” [15, tr.27] của các nhân vật trong tác phẩm E. Hemingway. Tuy nhiên, Lê Huy Bắc cũng đánh giá rất chủ quan khi kết luận: “Hemingway thường đề cập đến cái chết nhưng những cái chết ấy luôn mang âm hưởng của sử thi, không một chút bi lụy, nhẹ nhàng như cái chết của chính ông…” [15, tr.39].
  9. -Con người với sức sống của tâm hồn: Các nhà văn thế giới và Việt Nam đều chú ý đến cuộc sống tâm hồn của nhân vật. Trong The Dumb Ox in Love and War, Wyndham Lewis cho rằng nhân vật của Hemingway là loài súc vật ăn đậu hũ ở cửa lò sát sinh [103, tr.76]. Còn Sean O’ Faolain, trong Ernest Hemingway, lại nhận định: nhân vật của E. Hemingway không có đầu óc, quá khứ, truyền thống, kí ức [106, tr.112]. Và trong Hemingway: Gauge of Moral, Edmund Wilson thì nhận xét: con người trong tác phẩm Hemingway như những vi khuẩn sống trong nước dưới dạng đơn bào [109, tr.214]. Các nhà nghiên cứu Việt Nam thì đánh giá nhân vật trong sáng tác của E. Hemingway lạc quan hơn. Hoàng Nhân viết: “tình yêu cuộc sống đưa đến khả năng phát hiện ra những sự đơn giản thế giới tâm hồn của con người, xa lạ với những ước lệ thông thường“ [70, tr.201]. Lê Huy Bắc cho rằng: “Hemingway đã xây dựng được những chiến binh dũng cảm, xem cái chết tựa lông hồng, khi đã xác định cho mình lý tưởng, một nguyên tắc sống” [15, tr.27]. Nguyễn Hải Hà lại có ý kiến: “Các nhân vật yêu mến của ông đều vượt lên sự cô đơn, chán chường, hoài nghi, khắc phục chấn thương tâm hồn trong một thời đại bão táp để trở thành người khắc kỉ kiên cường” [15, tr.8]. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhân vật của E. Hemingway dù ở trạng thái tích cực hay tiêu cực nhưng ở họ có khả năng chịu đựng thử thách và giàu khát vọng sống, khát vọng tự do. -Những nhân vật mang dấu ấn tác giả: Trong hai công trình Ernest Hemingway và Ernest Hemingway: nhà văn như là một nghệ sĩ (Hemingway: The Writer as Artist), Philip Young quan tâm đến nhân vật-Hemingway (Hemingway hero), là nhân vật có quan hệ với cuộc đời tác giả [22, tr.33]. Philip Young lại chú ý đến nhân vật Nick trong các truyện ngắn của E. Hemingway. Nhân vật Nick được miêu tả theo một quá trình từ tuổi thơ đến trưởng thành. Còn Ivan Kaskeen chú ý đến nhân vật hóa thân, mang dáng dấp tác giả trong sáng tác của E. Hemingway trong Ernest Hemingway-bi kịch của tay thợ lành nghề [22, tr.32]. Có thể nói Nick là nhân vật trung tâm và là hóa thân của tác giả trong liên truyện, mang dấu ấn của tác giả nhiều nhất. Sau khi nghiên cứu các sáng tác của Hemingway, Hoàng Nhân nhận xét: sáng tác của E. Hemingway rất phong phú về đề tài song “Dù viết đề tài gì, tác giả chỉ nói về mình, những cảm xúc và suy tư của mình trước cuộc sống đã từng trải” [70, tr.223]. Nhận xét của Hoàng Nhân đã
  10. chú ý đến cảm nghĩ, tư tưởng chủ quan của tác giả trong tác phẩm của E. Hemingway. Có lẽ Hoàng Nhân muốn nhấn mạnh sự trải nghiệm của E. Hemingway thể hiện trong tác phẩm. Còn Nguyễn Hải Hà nhận xét thẳng thừng: “Nhiều nhân vật trung tâm là hóa thân của tác giả, đậm nét tự truyện tinh thần nhưng sáng tác của Hemingway lại là câu chuyện ve thân phận con người” [15, tr.8]. 2. 5. Về cách viết truyện ngắn Các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước như: Carlos Baker, H. E. Bates, James Fenton, Hoàng Nhân, Nguyễn Hải Hà, Lê Huy Bắc, Đào ngọc Chương… đều chú ý đến đặc điểm nổi bật của nghệ thuật viết nói chung và truyện ngắn nói riêng của E. Hemingway như nguyên lí tảng băng trôi, bút pháp độc thoại, đối thoại, cách sử dụng ngôn ngữ… Nguyễn Hải Hà cho rằng: “Crédo (tín điều) thẩm mỹ của Hemingway gói gọn trong nguyên lý tảng băng trôi, Hemingway chủ trương đãi cát tìm vàng, đưa văn học xích gần cuộc sống, dân chủ hóa văn học, đề cao cái đẹp giản dị bằng sự ngắn gọn, văn phong điện tín” [15, tr.8]. Hoàng Nhân lại nhận định: “Ông xây dựng nhân vật bằng cách xóa sạch để làm lại ngay từ đầu, để uốn nắn lại hình ảnh” [70, tr.227], … Hầu hết các công trình trên đã đề cập đến các yếu tố nghệ thuật trong sáng tác của E. Hemingway như: thi pháp, thể loại, thi pháp nhân vật, nhân vật trung tâm, độc thoại nội tâm, nguyên lý tảng băng trôi, đề tài chiến tranh… Trong đó chúng tôi quan tâm nhất là các công trình sau đây, những công trình có liên quan đến luận văn này: -Tiểu thuyết về chiến tranh của Hemingway (Luận án phó tiến sĩ của Lê Đình Cúc, 1985). Qua những tiểu thuyết tiêu biểu của E. Hemingway, Lê Đình Cúc đã phân tích, lí giải được quan niệm, thái độ của E. Hemingway đối với chiến tranh. Tuy công trình trên còn nhiều cần bàn song đó là công trình công phu sớm nhất tại Việt Nam nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong sáng tác của Hemingway. -Đặc trưng thể loại truyện ngắn qua truyện ngắn của Hemingway (Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Thuận năm 2000). Thông qua nhân vật chủ đạo Nick Adam, Trần Thị Thuận khái quát lên đặc điểm thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Cách làm của Trần Thị Thuận cũng là một hướng nghiên cứu về E. Hemingway nhưng cách làm ấy chưa thuyết phục. Vì nhân vật Nick chỉ chiếm số lượng 45/102 truyện ngắn của E. Hemingway [81, tr.33]. Như vậy căn cứ hoàn toàn vào nhân vật Nick Adam để khái quát đặc điểm thể loại truyện ngắn của E. Hemingway là chưa thỏa đáng. -Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway (Chuyên
  11. luận của Đào Ngọc Chương, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2003). Đào Ngọc Chương căn cứ trên lý thuyết thi pháp học để khảo sát các sáng tác của E. Hemingway trong phạm vi thi pháp tác giả. Cách làm ấy đã đi sâu và lí giải được nhiều vấn đề trong sáng tác của Hemingway như: nguyên lí tảng băng trôi, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp nhân vật … Nhìn chung các công trình của thế giới và Việt Nam đã có nhiều đóng góp về E. Hemingway ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau như: thể loại, nhân vật, phong cách nghệ thuật, đề tài… Trong đó có những công trình đề cập đến đề tài chiến tranh, hiện thực chiến tranh mà E. Hemingway mô tả, vấn đề con người trong tác phẩm của Hemingway như: nỗi sợ hãi, cô đơn, sự ám ảnh, cái chết… Tất cả những công trình ấy đã có những gợi ý cho đề tài của tôi đang thực hiện. Tuy nhiên, các công trên chưa có những nhận định chuyên sâu về truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway hoặc có nhận định về truyện ngắn chiến tranh nhưng chưa trọn vẹn, nhất quán. Đặc biệt, chưa có công trình nào đặt vấn đề trực tiếp về việc nghiên cứu mảng truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway như một chỉnh thể nghệ thuật, theo một nguyên tắc nghệ thuật xuyên suốt. Chính vì lí do ấy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Truyện ngắn chiến tranh của E.Hemingway . 3. Đối tượng nghiên cứu 3. 1. Về ấn phẩm Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu chính là các truyện ngắn về chiến tranh của E. Hemingway. Chúng tôi khảo sát các ấn phẩm sau đây: -Truyện cực ngắn của E. Hemingway (Đào Ngọc Chương và Nguyễn Thị Huyền Linh dịch-Nhà xuất bản Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001). -Truyện ngắn (Ernest Hemingway, Lê Huy Bắc chủ biên và giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, 2004). -The Collected Stories (Ernest Hemingway-Edited and introduced by Fames Fenton-United Kingdom - Everyman’s Library). -Ernest Hemingway: The Collected Stories (Ernest Hemingway-Fames Fenton- Everyman’s Library-Random House, May 25, 1995). -The Complete Short Stories of Ernest Hemingway (Ernest Hemingway-Charles Scribner’s Sons, New York, 1987). -In Our Time (Ernest Hemingway, Copyright 1925, Charles Sribner’s, New York). 3. 2. Về phương diện nghiên cứu
  12. Với luận văn này, chúng tôi cố gắng làm rõ đặc điểm truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway qua các khía cạnh sau: -Làm nổi bật được cách nhìn của E. Hemingway về hiện thực chiến tranh qua các kiểu không gian như: Không gian tàn phá, hủy diệt, chết chóc, Không gian di tản, rút lui, Không gian trú ẩn. -Tìm hiểu về con người trong chiến tranh trong truyện ngắn chiến tranh E. Hemingway với vấn đề nhân bản, tồn sinh, thái độ của tác giả về con người trong chiến tranh qua một số kiểu nhân vật mà người viết đã cố gắng tìm hiểu và mạnh dạn đặt tên: Những người tham chiến, Những người lính trở về, Đoàn người di tản, Nhân vật xác chết. 4. Phương pháp nghiên cứu Đầu tiên chúng tôi khảo sát tất cả các truyện ngắn của E. Hemingway để tìm ra các dấu hiệu của truyện ngắn chiến tranh và xếp loại thành mảng truyện ngắn chiến tranh. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã khảo sát 102 truyện ngắn (gồm truyện ngắn và các thể loại tương đương được coi là truyện ngắn-Phụ lục 1) và căn cứ các dấu hiệu về đề tài, tình tiết, nội dung, nhân vật… của truyện, chúng tôi đã thống kê được 41 truyện có những dấu hiệu được xem là truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway (Phụ lục 2). Sau đó, chúng tôi tìm, đặt tên và nhận định về các kiểu không gian, các kiểu nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Trên cơ sở các quan điểm đã có về sáng tác, về truyện ngắn của E. Hemingway nói chung, chúng tôi cố gắng tìm ra sự sáng tạo của E. Hemingway trong nghệ thuật truyện ngắn chiến tranh của ông. Chúng tôi hy vọng từ những tìm tòi đó sẽ phát hiện đặc trưng cơ bản truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Dù khả năng của cá nhân có hạn nhưng chúng tôi đã cố gắng dịch thêm bốn truyện ngắn về đề tài chiến tranh của E. Hemingway mà các ấn phẩm đã xuất bản về truyện ngắn của E. Hemingway chưa có để bổ sung về số lượng của mảng truyện này. Chúng tôi cũng hy vọng công việc ấy sẽ đóng góp một phần nhỏ về việc tìm hiểu E. Hemingway. Trên quy trình ấy, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tiếp cận thi pháp, Phương pháp nghiên cứu tác giả, Phương pháp nghiên cứu lịch sử, xã hội và chú ý đến hiện tượng liên văn bản trong sáng tác của E. Hemingway. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương pháp thống kê, Phương pháp so sánh văn học, Phương pháp tiếp cận hệ thống… trong quá trình tiến hành luận văn.
  13. 5. Phạm vi nghiên cứu Qua luận văn này, chúng tôi mong muốn sẽ khái quát được đặc trưng của truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway. Nhưng do khuôn khổ của một luận văn, khả năng cá nhân và thời gian có hạn nên chúng tôi không thể nghiên cứu, khảo sát truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway đầy đủ trên các bình diện như: đề tài, ngôn ngữ, kết cấu và các bình diện thi pháp khác. Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về kiểu không gian và kiểu nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway.
  14. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: Truyện ngắn và truyện ngắn chiến tranh của E. Hemingway 1. 1. Truyện ngắn Khi hỏi về định nghĩa truyện ngắn, nhà văn, nhà hoạt động chính trị tiến bộ, giáo sư người Đôminicana, Juan Bosch (sinh năm 1909), cho rằng: “Định nghĩa thế nào là một truyện ngắn rất khó, dễ chừng một nhà phê bình văn học xuất chúng cũng chưa chắc đã làm nổi”. Thực vậy, từ trước đến nay có rất nhiều định nghĩa về truyện ngắn: Từ điển văn học (NXB KHXH, Hà Nội 1984, Tập 2) và Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Đó là một hình thức tự sự nhỏ”, “Mô tả một khía cạnh nào đó của cuộc sống, ít nhân vật và sự kiện. Yếu tố quan trọng nhất là cô đúc, có dung lượng lớn và cách hành văn nhiều ẩn ý” [40, tr.370]. Định nghĩa của các từ điển ở trên không sai, nó phù hợp với truyện ngắn truyền thống nhưng chưa khái quát đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn nói chung, nhất là truyện ngắn hiện đại. Nhà văn Mỹ, William Saroyan (sinh 1908), cho rằng: “Truyện ngắn, đó là một cái gì không cùng”, “Đó thật là một cái gì khơi mãi không hết… Tôi thấy không nên ràng buộc truyện ngắn vào các quy tắc nào hết.” [69, tr.103]. Nhà văn Tô Hoài nhận định: “truyện ngắn là một thể loại có tính chiến đấu mạnh”, “truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời” và “truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện” [69, tr.8-9]. Trong bài nói chuyện với học viên Trường viết văn Nguyễn Du vào tháng 12 năm 1995, Nguyên Ngọc đã phân tích khái niệm văn xuôi hư cấu để đưa ra khái niệm truyện ngắn. Theo ông, truyện ngắn và tiểu thuyết đều là văn xuôi hư cấu (là cái khác với văn xuôi tư liệu như bút kí, phóng sự…), “truyện ngắn ngắn vì nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không phải là nguyên liệu thô” [1, tr.8-27]. Nguyên Ngọc còn đối chiếu các thuật ngữ để làm nổi bật khái niệm truyện ngắn như: conte (truyện hoang tưởng-tiếng Pháp), récit (truyện kể lại, truyện ngắn- tiếng Pháp), nouvelle (truyện ngắn-tiếng Pháp), roman (tiểu thuyết-tiếng Pháp), novel (tiểu thuyết-tiếng Anh)… Cách giải thích của Nguyên Ngọc đã xác định được khái niệm cơ bản của truyện ngắn và giúp cho người ta bước đầu hình dung diện mạo truyện ngắn. Trong chuyên luận của mình [22], Đào Ngọc Chương đã lí giải các khái niệm trên rõ ràng hơn và so sánh các khái niệm ấy với truyện ngắn, tiểu thuyết Mỹ trong truyền thống và hiện đại để rút ra nhưng đặc trưng về thể loại trong sáng tác của Hemingway.
  15. Nhà văn Nguyễn Kiên lại tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn qua mối liên hệ với tiểu thuyết: “Tác động qua lại giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là điều hiển nhiên, chí ít thì nó cũng đã dẫn đến sự tìm tòi, có chủ định hẳn hoi hoặc là ngẫu hứng, về sự trộn lẫn hoặc đan xen các thủ pháp nghệ thuật” [1, tr.68]. Nguyễn Kiên đã dẫn các truyện trong in our time để chứng minh cho mối liên hệ đó. Một số người lại xem nội dung là tiêu chí cơ bản để khái quát nên đặc điểm truyện ngắn. Nhà văn Nga Alexandr Fadeev (1901-1956) quan niệm: “Truyện ngắn có ý nghĩa lớn của những hình thức nhỏ và về mặt nội dung cũng như về tư tưởng, truyện ngắn không có gì khác tiểu thuyết. Nó cũng phải nói tới những gì cần thiết cho nó, chỉ có điều nó ngắn, nên khó hơn. Truyện ngắn đòi hỏi sự nghiêm khắc, sự chính xác trong hình thức” [Báo Văn học Liên Xô, 22/12/1971]. Nhà văn Trung Quốc Giả Bình Ao cũng nhấn mạnh yếu tố nội dung nhưng phải độc đáo: “Từ nội dung đến hình thức, bạn tìm được hai chữ độc đáo, bạn sẽ đứng vững” [76, tr.379]. Có nhà văn bỏ qua bố cục của truyện ngắn. Trong tác phẩm Gorki bàn về văn học (NXB Văn học, Hà Nội, 1970), M. Gorki nói: “Tôi không bao giờ soạn bố cục, bố cục tự nó hình thành trong quá trình làm việc; chính các nhân vật soạn ra. Mỗi nhân vật đều có logic hành động.” Cách viết của M. Gorki đã làm tiền đề cho truyện ngắn hiện đại sau này. Nhiều người lại tìm khái niệm truyện ngắn qua việc so sánh với thơ. Nhà văn Ireland Frank O’Connor (1903-1966) cho rằng: “Truyện ngắn rất gần với thơ ở chỗ phải ngắn, súc tích” [69, tr.110]. Phạm Thị Hoài xem truyện ngắn là đứa con của thơ và văn xuôi: “Truyện ngắn dường như là đứa con tất yếu của mẹ THƠ và cha là VĂN XUÔI, nó là thơ viết bằng văn xuôi, bên ngoài mang tình cha mà bên trong mang tính mẹ” [1, tr.112]. Cách so sánh trên cũng nêu được nét cơ bản của truyện ngắn song nó vẫn còn chung chung. Gần đây, người ta chú trọng đến cấu trúc của truyện ngắn. Trong một buổi nói chuyện ngày 15/6/2007, tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tiến sĩ - nhà văn Mỹ, Charles Waugh, cho rằng: “Giờ đây, cấu trúc của truyện ngắn trở nên hết sức quan trọng. Người viết truyện ngắn phải đặc biệt đầu tư vào cấu truc.” Nhìn chung các ý kiến nêu trên đều trình bày được một số đặc trưng cơ bản của truyện ngắn. Trong đó ý kiến của Nguyên Ngọc [1, tr.8-27] và Đào Ngọc Chương [ 22, tr.83-98] đi sâu phân tích các thuật ngữ để tìm ra khái niệm truyện ngắn là thuyết phục nhất. Tuy vậy, nhiều ý kiến chỉ là những kinh nghiệm, kĩ thuật viết truyện của những nhà văn tên tuổi dành cho những
  16. nhà văn trẻ. Hoặc một số ý kiến chỉ nêu được các đặc trưng của truyện ngắn truyền thống chứ không nêu được khái niệm về truyện ngắn nói chung. Với nội hàm khái niệm truyện ngắn như vậy, chúng ta chưa thể khao sát truyện ngắn của Hemingway một cách toàn diện. Vì truyện ngắn hiện đại nói chung và truyện ngắn Mỹ, truyện ngắn Hemingway nói riêng có nhiều điều cần bàn. Truyện ngắn Mỹ có một lịch sử phát triển lâu dài. Từ thuở lập quốc cho đến thế kỉ XIX, Người Mỹ chia văn xuôi thành hai dạng: fiction (văn xuôi hư cấu) và non-fiction (văn xuôi không hư cấu). Trong đó fiction chia thành novel (tiểu thuyết) và short story (truyện ngắn) [12, tr.5-9]. Trong Lược sử truyện ngắn [42], Arlen J. Hansen (1936-1993), giáo sư văn chương Anh tại đại học Pacific (California) cho rằng: Ở thế kỉ XIX sự xuất hiện phổ biến của hai khái niệm sketch (đoản tác) và tale (chuyện kể) làm cho văn xuôi thế giới có những biến đổi. Chỉ riêng ở Mỹ cũng có hàng trăm cuốn sách tự xưng là tuyển tập các đoản tác: Sketch Book (Tập đoản tác) của Washington Irving, Suburban Sketches (Những đoản tác ngoại ô) của William Dean Howells, Tales of Grostesque and Arabesque (Những chuyện kể hoang đường và kì quái) của E. Poe, Piazza Tales (Những truyện kể chốn quảng trường) của Hermann Melville. Hai thuật ngữ này tạo nên hai thái cực mà từ đó truyện ngắn phát triển. Chuyện kể xuất hiện lâu đời hơn đoản tác. Về hình thức, chuyện kể là văn nói còn đoản tác là văn viết. Về cơ bản, mỗi truyện kể là một phương tiện qua đó nền văn hóa nói về chính mình và nhờ thế giữ gìn được những giá trị và khẳng định bản sắc của mình; Thế hệ già nói với thế hệ trẻ thông qua những truyện kể; Truyện kể có khi cường điệu, nói thái quá. Còn đoản tác dựa trên sự kiện và mang tính báo chí, nên có nhiều phân tích và miêu tả hơn, ít tự sự và kịch tính hơn so với truyện kể. Đặc biệt, bản chất của đoản tác có tính gợi mở. Và trong thế kỉ XIX, truyện ngắn đã biến thiên từ loại truyện kể đầy tưởng tượng đến loại đoản tác mô tả chính xác thực tế. Có khi chúng kết hợp cả hai hình thức này tạo thành một kiểu truyện ngắn mang diện mạo mới. Cha đẻ của truyện ngắn loại này là các nhà văn N. Gogol, N. Hawthortone, E. Hoffmann, E. Poe… [42] Cho đến những năm 30 của thế kỉ XX, những ấn phẩm quá cỡ của W. Faulkner và E. Hemingway làm cho độc giả khó phân biệt chúng là truyện ngắn hay tiểu thuyết. Và các thuật ngữ fiction hay story, short story, sketch được dùng để gọi tên các tác phẩm của các nhà văn này. Có thể nói, truyện ngắn được xem là thể loại quen thuộc và phổ biến ở Mỹ. Nó là tinh thần của người Mỹ nên đặc điểm của nó cũng khác với các truyện ngắn khác trên thế giới.
  17. Parrington một nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Mỹ nhận xét: “Truyện ngắn thường được coi là thể tài trong đó thể hiện rõ nhất tinh thần dân tộc Mỹ tức là ý hướng sùng bái hiệu quả, cố hết sức loại bỏ những gì dư thừa và một số khao khát thường xuyên là đi tìm một thứ kĩ thuật sao cho đáng gọi là hoàn thiện” [1, tr.55]. Cùng với ý kiến trên, Vương Trí Nhàn cũng nhận xét về đặc điểm và quá trình phát triển của truyện ngắn Mỹ: Nhiều hơn là những truyện ngắn tâm lí, truyện ngắn sử dụng những phương tiện có khả năng tăng cường một thứ cốt truyện bên trong chứ không phải những biến đổi bên ngoài mà ai cũng nhận ra được… Sở dĩ truyện ngắn có những thay đổi như trên, là do những vấn đề gốc, những mối quan hệ cá nhân và hoàn cảnh, hành động và thời gian… đang được nhìn nhận không giống như văn học truyền thống. [69, tr.192-194]. Qua cách dẫn giải, phân tích dài dòng ở trên, chúng tôi muốn nói rằng truyện ngắn là một thể loại văn học đặc biệt và phức tạp. Chúng tôi không thể đưa ra một khái niệm truyện ngắn đầy đủ mà chỉ nêu một số đặc điểm sau đây như một giới thuyết về truyện ngắn và cũng chỉ nhằm phục vụ trong giới hạn của luận văn này: Truyện ngắn là thể loại văn xuôi hư cấu, có quan hệ chặt chẽ với tiểu thuyết. Truyện ngắn được viết ngắn gọn, cô đọng, súc tích, giàu ý nghĩa, có khả năng phản ánh đa dạng các mặt của cuộc sống. Nội dung của truyện ngắn phong phú, hình thức của truyện ngắn linh hoạt, biến hóa muôn hình muôn vẻ. Với cách hiểu truyện ngắn như vậy, chúng tôi hy vọng có thể tiếp cận với truyện ngắn của Hemingway. 1. 2. Truyện ngắn E. Hemingway Có nhiều ý kiến khác nhau về truyện ngắn của E. Heminway. Nhà văn Anh Storm Jameson cho rằng truyện ngắn E. Hemingway “có quá ít cái để nói” [81, tr.30]. Leon Edel chỉ xem E. Hemingway là “nhà văn hạng hai” [93, tr.20]. Trong khi đó, Sean O’Faolain lại đánh giá cao về truyện ngắn của Hemingway: “ngôn ngữ điện tín được gửi từ mặt trận với giá cao cho mỗi chữ” [106, tr.145]. Nhà văn Truman Capote (sinh 1924), hai lần được giải O’ Henry, lại công nhận nghệ thuật viết truyện ngắn của E. Hemingway qua cách so sánh với các nhà văn khác: “Henri James (1843-1916) là một bậc thầy về sử dụng dấu chấm phẩy, còn người biết xuống dòng không thể chê trách là E. Hemingway” [69, tr.107]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đánh giá và tiếp nhận truyện ngắn của E. Hemingway với nhiều chiều hướng. Nhiều công trình của Lê Đình Cúc, Lê Huy Bắc, Đào Ngọc
  18. Chương, Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Huy Liên, Trần Thị Thuận… đã nghiên cứu truyện ngắn của Hemingway trên các bình diện khác nhau. Nhiều ý kiến nhận định rằng sáng tác nói chung và truyện ngắn của E. Hemingway dựa trên nguyên lí tảng băng trôi. Lê Huy Bắc cho rằng: “tự thân chúng (truyện ngắn) là những thế giới nghệ thuật riêng biệt, sinh động trong hướng quy tụ theo nguyên lý tảng băng trôi” [52, tr.5]. Đào Ngọc Chương cũng đã chỉ ra những biểu hiện của nguyên lí ấy: Đó là hiện tượng khoảng trắng trong đối thoại và độc thoại; hiện tượng lắp ghép, lặp lại, phiến đoạn trong kết cấu ở nhiều cấp độ; hiện tượng phi cốt truyện hay cốt truyện bên trong của cốt truyện; hiện tượng liên văn bản trong cách đọc văn bản tác phẩm; hiện tượng đa giọng một cách đặc biệt trong ngôn ngữ; hiện tượng chất thơ trong lời văn… [26, tr.5] Nhìn chung các công trình đã có nhiều phát hiện về giá trị nội dung, nghệ thuật truyện ngắn của E. Hemingway. Tuy nhiên, ý kiến của Lê Huy Bắc và Trần Thị Thuận làm chúng tôi còn nhiều băn khoăn. Lê Huy Bắc đánh giá truyện ngắn E. Hemingway với các đặc điểm như: Số lượng nhân vật ít, đối thoại nhiều, sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng, thời gian vật lí, độc thoại nội tâm, sự phát triển từ truyện ngắn đến tiểu thuyết… [54, tr.105-110]. Trần Thị Thuận cũng nhận định: “Hiện thực truyện ngắn Hemingway được xây dựng trên cơ sở truyện ngắn và các chương xen”, “giữa các chương và truyện ngắn có sự tác động qua lại” [81, tr.30]. Đặc biệt, Trần Thị Thuận chọn nhân vật Nick Adam làm cơ sở chủ đạo để khái quát lên đặc điểm thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Các nhận định trên đã khái quát được những đặc điểm cơ bản truyện ngắn Hemingway: ngắn gọn, cô đọng, hình thức đặc biệt, ngôn ngữ điện tín… Song theo chúng tôi vẫn có điều chưa ổn. Chẳng hạn ý kiến của Lê Huy Bắc tuy phát hiện truyện ngắn E. Hemingway mạnh về đối thoại nhưng nhìn chung vẫn còn sơ sài và chưa phản ánh đặc điểm cơ bản của truyện ngắn E. Hemingway. Vì truyện ngắn nào cũng ít nhân vật chứ không riêng gì truyện ngắn E. Hemingway. Còn hình ảnh tượng trưng và độc thoại nội tâm chưa phải là đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn mà ở tiểu thuyết của ông. Ý kiến của Trần Thị Thuận cũng chưa thuyết phục. Vì các chương xen chỉ có trong in our time và số lượng rất ít so với toàn bộ truyện ngắn (18 chương/102 truyện) nên không thể căn cứ vào các chương xen để xây dựng truyện ngắn E. Hemingway. Mặc dù Trần Thị Thuận đã cố gắng chứng minh, phân tích, lí giải nhân vật Nick Adam nhằm khái quát lên truyện ngắn E. Hemingway nhưng cách làm đó không ổn vì trước sau gì nhân vật này chỉ là nhân vật liên truyện. Nhân vật Nick Adam chỉ là một trong nhiều yếu tố
  19. để xác định truyện ngắn E. Hemingway chứ không thể là căn cứ chủ yếu để xác định thể loại truyện ngắn của E. Hemingway. Như vậy, việc khảo sát truyện ngắn E. Hemingway nói chung và truyện ngắn chiến tranh của ông nói riêng còn nhiều điều phức tạp. Chúng ta cần phải khảo sát toàn diện, sâu sắc hơn nữa. Qua nghiên cứu nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn của E. Hemingway, chúng tôi xem ý kiến của giáo sư Arlen J. Hansen là tương đối phù hợp: Những truyện ngắn của Hemingway thường có thể đạt sức hấp dẫn nhờ khai thác những biểu tượng tâm linh cổ truyền (nước, cá, những vết thương ở bụng), nhưng chúng liên quan mật thiết với đoản tác (sketch) hơn truyện kể (tale). Như thế, Hemingway đôi lúc đã có có thể trình bày những câu chuyện dựa vào sự thật của ông như những bài báo. Ngược lại, truyện ngắn của những nhà văn cùng thời với ông như William Faulkner giống truyện kể (tale) hơn [42]. Đây là điểm mấu chốt để xác định đặc điểm truyện ngắn của E. Hemingway mà trước đây mọi người nhìn nhận với nhiều chiều khác nhau. Theo chúng tôi, E. Hemingway chịu ảnh hưởng rất nhiều văn học truyền thống của Mỹ, đặc biệt là hình thức đoản tác (sketch) của thế kỉ XIX như đã nói ở Mục 1.1. Nói cách khác, hình thức đoản tác rất phù hợp với phong cách thể hiện của E. Hemingway và rất phù hợp trong xu hướng văn học hiện đại. Hình thức này được E. Hemingway sáng tạo một cách độc đáo tạo thành một kiểu truyện ngắn mới, mang đậm phong cách E. Hemingway. Và điều ấy được chứng minh qua cách viết truyện ngắn của Hemingway: “Nhà văn biết thật rõ truyện ngắn sẽ viết. Nhưng có trường hợp đã bắt tay vào công việc rồi, tự anh vẫn không biết là mọi chuyện kết cục sẽ ra sao. Trong quá trình phát triển hành động, mọi việc bỗng thay đổi. Chính điều đó, tạo nên vận động và đến lượt mình, vận động làm nên truyện ngắn “ [69, tr.94]. Như vậy, cách viết của E. Hemingway mang nặng hình thức đoản tác hơn là truyện ngắn thông thường. Khái niệm đoản tác (sketch) được hiểu là một thể loại văn học chứ không đơn thuần là một kiểu truyện ngắn (truyện ngắn phác thảo) như các tài liệu trước đây đã viết. Theo chúng tôi, khái niệm đoản tác (sketch) vừa chỉ một thể loại văn học (đoản tác) vừa chỉ một kiểu truyện ngắn của E. Hemingway (truyện ngắn phác thảo). Vì những truyện ngắn của E. Hemingway hầu như dựa vào các sự kiện lịch sử, xã hội, chiến tranh… Các truyện ngắn ấy mang tính báo chí, phân tích nhiều hơn là miêu tả, ít tính tự sự… giống như thể loại đoản tác đã trình bày. Do đó từ trước đến nay lấy khái niệm truyện ngắn truyền thống để đánh giá truyện ngắn E. Hemingway là chưa thỏa đáng.
  20. Bên cạnh đó, phải kể đến loại truyện cực ngắn mà chúng ta thấy xuất hiện trong in our time. Đây là loại truyện mà E. Hemingway viết rất thành công và ông được coi như người tiên phong của loại truyện này. Cụ thể là khi viết về truyện cực ngắn, người ta lấy truyện cực ngắn của E. Hemingway làm dẫn chứng (Giới thiệu truyện thình lình của Đinh Từ Bích Thúy, www. damau.org, 22/01/2007). Truyện cực ngắn là một kiểu truyện đặc biệt ngắn gọn, linh hoạt, độc đáo, giàu tính kịch rất thịnh hành trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Đặng Anh Đào viết: “Một chất liệu cần thiết cho những truyện cực ngắn, là kịch tính. Bởi lẽ, tính chất giảm thiểu đến mức trơ trụi của một truyện ngắn đòi hỏi độ căng của kịch” [1, tr.93]. Chúng tôi cho rằng cách viết cực kì cô đọng, giàu kịch tính, giảm thiểu đến mức trơ trụi của truyện cực ngắn đã ảnh hưởng rất nhiều trong cách viết truyện ngắn E. Hemingway. Vậy đặc điểm cơ bản của truyện ngắn E. Hemingway là gì? Điều cảm nhận chung nhất về truyện ngắn Hemingway là loại văn chương thô ráp, ít trau chuốt, các truyện hầu như không có cốt truyện, tính xung đột không nằm ở bề mặt và ít bộc lộ cảm xúc trực tiếp. Hầu hết truyện ngắn của E. Hemingway chỉ là sự tái hiện những thoáng chốc của cuộc sống xung quanh, những chuyện thường ngày như câu cá, uống rượu, đấm bốc, chiến tranh… Cơ sở nghệ thuật của truyện ngắn E. Hemingway chính là xuất phát từ những cái bình thường. Đó là cuộc đời thường không tô điểm, màu mè. Cốt truyện trong truyện ngắn của ông cũng khác. Nó không phải là cốt truyện theo những biến cố, sự kiện thông thường của truyện ngắn truyền thống mà nó mang tính bao hàm nhiều yếu tố khác nữa. Nó là cốt truyện cuộc đời. Cái đặc sắc của truyện ngắn E. Hemingway là cách khơi nguồn cảm xúc cho người đọc, tạo cho người đọc tham gia sáng tạo trong thưởng thức tác phẩm. Vì vậy truyện ngắn của E. Hemingway đã tạo ra một sự cách tân lớn lao cho truyện ngắn hiện đại thế giới. Từ đặc điểm trên, chúng tôi khảo sát truyện ngắn của E. Hemingway được in từ năm 1924 cho đến năm 2004 và có các ấn phẩm tiêu biểu sau: -In Our Time (Ernest Hemingway-1925): 13 truyện và 18 chương (chapter). -The Fifth Collumn and The First Forty-Nine Stories (Ernest Hemingway-1938): 49 truyện ngắn. -The Complete Short Stories of Ernest Hemingway: The Finca Vigia Edition (Ernest Hemingway- Charles Scribner’s Sons, New York, 1987): 70 truyện.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2