intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyền thuyết về voi ở Việt Nam

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

68
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyền thuyết về voi ở Việt Nam bao gồm những nội dung về voi trong đời sống văn hóa con người; thống kê, phân loại truyền thuyết về voi ở Việt Nam; đặc điểm cấu tạo cốt truyện truyền thuyết về voi ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Truyền thuyết về voi ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Na TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Na TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình khoa học này là của riêng tôi. Các kết quả đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận văn Lê Na
  4. LỜI CẢM ƠN Để có được những thành quả như ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những người đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình, chu đáo từ phía giảng viên, TS. Hồ Quốc Hùng. Thầy đã giúp tôi lựa chọn đề tài, định hướng, hướng dẫn cách trình bày, giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Tp.Hồ Chí Minh, những người đã nhiệt tình giảng dạy để tôi hoàn thành tốt khóa học và luận văn tốt nghiệp. Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường, phòng Sau Đại học đã tạo những điều kiện tốt nhất cho học viên cao học trong suốt thời gian học tập tại trường. Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014 Lê Na
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. VOI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CON NGƯỜI ................... 5 1.1. Voi trong văn hóa thế giới .......................................................................... 5 1.2. Voi trong văn hóa Đông Nam Á ............................................................... 12 1.3. Voi trong văn hóa Việt Nam ..................................................................... 16 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 24 Chương 2. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM ................................................................................ 25 2.1. Tình hình tư liệu ........................................................................................ 25 2.1.1. Đánh giá tình hình tư liệu ................................................................... 25 2.1.2. Kết quả thống kê ................................................................................. 26 2.1.3. Vấn đề dị bản ...................................................................................... 28 2.2. Phân loại .................................................................................................... 31 2.2.1. Nhóm truyền thuyết về địa danh gắn liền với Voi.............................. 32 2.2.2. Nhóm truyền thuyết về Voi chiến ....................................................... 36 2.2.3. Nhóm truyền thuyết về Voi trong lao động sản xuất.......................... 41 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 44 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỐT TRUYỆN TRUYỀN THUYẾT VỀ VOI Ở VIỆT NAM ............................................... 45 3.1. Cốt truyện các nhóm truyền thuyết ở Việt Nam ....................................... 45 3.1.1. Nhóm truyền thuyết về địa danh gắn liền với Voi.............................. 45 3.1.2. Nhóm truyền thuyết về Voi chiến ....................................................... 48 3.1.3. Nhóm truyền thuyết Voi trong lao động sản xuất .............................. 52
  6. 3.2. Các kiểu nhân vật Voi ............................................................................... 55 3.2.1. Kiểu nhân vật Voi trung thành với chủ............................................... 55 3.2.2. Kiểu nhân vật Voi phản chủ ............................................................... 62 3.2.3. Kiểu nhân vật Voi kiêu ngạo .............................................................. 65 3.2.4. Kiểu nhân vật Voi tình nghĩa .............................................................. 66 3.3. Các mô típ tiêu biểu .................................................................................. 68 3.3.1. Mô típ đàn Voi .................................................................................... 70 3.3.2. Mô típ Voi trắng một ngà ................................................................... 71 3.3.3. Mô típ Voi hướng đầu về núi .............................................................. 74 3.3.4. Mô típ Voi khóc .................................................................................. 76 3.3.4. Mô típ Voi hóa đá ............................................................................... 79 Tiểu kết chương 3................................................................................................ 80 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83 PHỤ LỤC
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Từ xa xưa, chúng ta đã nghe nói rất nhiều về Voi. Con Voi là đối tượng miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau trong thần thoại và là biểu tượng đặc biệt ở châu Á và châu Phi. Kể từ thời kì đồ đá, Voi đã được khắc họa bởi bức tranh khắc đá cổ trong hang động nghệ thuật. Theo thời gian, chúng được mô tả trong nghệ thuật dưới những hình thức khác nhau. Voi đã thuần hóa là con vật nuôi có ích và rất thân thiện với con người. Từ hàng nghìn năm nay Voi đã được thuần hóa để làm những công việc như: kéo gỗ, kéo cày và để biểu diễn trong các lễ hội. Người châu Á cũng dùng Voi làm loài vật chiến đấu như: Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Việt Nam…Người Việt từ lâu đã biết sử dụng Voi để phục vụ cho đời sống, đặc biệt là trong quân sự. Từ người Việt, Chăm, Khơ - me cho đến các tộc người ở Tây Nguyên đều có nhiều huyền thoại, truyện cổ về loài Voi. Voi là biểu tượng của sức mạnh, của quyền uy và của sự chiến thắng. Voi có mặt trên mọi miền của mảnh đất hình chữ S. Đặc biệt, ở vùng đất Tây Nguyên, chú Voi là hình ảnh quen thuộc gắn bó mật thiết với cuộc sống, lao động và văn hóa của con người nơi đây. Nó có một vị trí rất quan trọng. Những trang sử hào hùng của dân tộc với Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi….đều có sự góp sức của những chú Voi dũng mạnh. Voi tuy hung dữ nhưng lại có rất nhiều lợi ích nên nó được mọi người yêu mến. Vì vậy, trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu chuyện về Voi. Đặc biệt trong thể loại truyền thuyết. Hình ảnh những chú Voi chiến dũng mãnh, trung thành xuất hiện trong các cuộc khởi nghĩa đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Với đề tài này, chúng tôi muốn khảo sát những truyền thuyết về Voi ở Việt Nam để từ đó có cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ hơn về loài vật này cũng như vị trí, vai trò của Voi trong đời sống tinh thần của người Việt.
  8. 2 2. Lịch sử vấn đề Trong cuốn “Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam”, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã đề cập đến hình tượng Voi chiến trong các triều đại phong kiến. Từ những con Voi chiến từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo đến con Voi già của vua Hàm Nghi ở thời Cần Vương, rồi những chú Voi được phong hàm trong quân đội vào thời chống Pháp và chống Mĩ. Tất cả đều oai phong và có những hành động đẹp. Tác giả cũng đề cập đến việc thuần hóa, huấn luyện và sử dụng Voi. Tuy nhiên, công trình chỉ trình bày một cách sơ lược chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu hình tượng con Voi. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đi tìm hiểu và khám phá những đặc trưng của truyền thuyết về Voi ở Việt Nam để qua đó thấy được những sự tích, sự gắn bó của Voi với con người Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam thì Voi xuất hiện khá nhiều. Có truyện xoay quanh loài Voi nhưng có truyện Voi chỉ xuất hiện như một tình tiết. Tuy nhiên, trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những truyền thuyết về Voi ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát những truyền thuyết trong các tuyển tập đã xuất bản thời xưa và nay. Ngoài ra, đề tài còn tham khảo thêm những tài liệu về đời sống tâm linh có liên quan đến thể loại truyền thuyết về loài Voi. Để đảm bảo dung lượng của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tập trung vào hệ thống Voi trong truyền thuyết người Việt (Kinh). Tuy vậy, một số truyền thuyết của dân tộc ít người có tương tác về mặt văn hóa với người Việt nếu thấy đề cập đến Voi cũng được chúng tôi khảo sát.
  9. 3 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài này chúng tôi muốn khảo sát những truyền thuyết về Voi trong hệ thống truyền thuyết của Việt Nam để thấy rõ được kết cấu, tổ chức cốt truyện để từ đó có thể hiểu thêm về truyện loài vật dưới góc nhìn thể loại. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê, miêu tả - Sử dụng số liệu thống kê làm cơ sở phát hiện sự tồn tại của loài Voi trong hệ thống truyền thuyết Việt Nam. - Miêu tả kết cấu, đặc điểm nội dung từng mảng, nhóm của truyền thuyết về Voi ở Việt Nam. 5.2. Phương pháp loại hình lịch sử Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát từng văn bản truyền thuyết và cả hệ thống truyền thuyết dân gian về Voi. Đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử - xã hội để thấy được biểu hiện và vị trí của nó qua các thời đại. 5.3. Phương pháp cấu trúc Phương pháp này giúp chúng tôi chú trọng phân tích kết cấu tác phẩm dưới góc độ cốt truyện, kiểu nhân vật Voi và các mô típ tiêu biểu. 5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các tác động của văn hóa, lịch sử, đặc biệt là ngành dân tộc học vào các thành tố của truyền thuyết để tạo cơ sở cho việc lí giải những vấn đề đặt ra trong đề tài. 5.5. Phương pháp phân tích Phương pháp này được sử dụng để mổ xẻ, tìm hiểu rõ về tính cách, biểu hiện của hành động và vai trò của Voi trong mỗi nhóm tác phẩm. 5.6. Phương pháp tổng hợp Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi hệ thống lại toàn bộ các tư liệu đã tìm kiếm được một cách lô gic và khoa học để thuận lợi cho việc nghiên cứu.
  10. 4 6. Đóng góp mới của luận văn - Tìm hiểu tính phổ quát của Voi trong thể loại truyền thuyết . - Hệ thống, phân loại và mô tả kết cấu nhóm truyền thuyết về Voi ở Việt Nam. - Tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết về Voi với đời sống tinh thần người Việt. 7. Bố cục của luận văn Luận văn gồm 3 phần Phần mở đầu Phần nội dung: Gồm có 3 chương Chương 1. Voi trong đời sống văn hóa con người Trong chương này, chúng tôi nêu lên những tiền đề cơ bản về xã hội, thời đại lịch sử để nghiên cứu Voi trong truyền thuyết cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa Voi với đời sống, văn hóa , tinh thần trên thế giới, ở khu vực Đông Nam Á và ở Việt Nam. Chương 2. Thống kê, phân loại truyền thuyết về Voi ở Việt Nam Chương này có nhiệm vụ thống kê, phân loại Voi trong truyền thuyết Việt Nam. Để thực hiện chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát các nguồn tư liệu có liên quan và đánh giá tình hình của chúng để có được kết quả thống kê một cách khách quan. Vấn đề dị bản cũng được chúng tôi đưa ra như một đối chứng cần thiết cho việc thống kê, phân loại. Từ đó, luận văn sẽ tổng hợp, khái quát, phân loại, mã hóa những tiểu loại truyền thuyết. Chương 3. Đặc điểm cấu tạo cốt truyện truyền thuyết về Voi ở Việt Nam Trong chương này, chúng tôi tiến hành mô tả và phân tích cấu tạo truyền thuyết về Voi dựa trên các tiêu chí: cốt truyện, kiểu nhân vật và một số mô típ. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  11. 5 Chương 1. VOI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CON NGƯỜI 1.1. Voi trong văn hóa thế giới Từ xa xưa, Voi đã có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Mỗi một nơi đều có cái nhìn và các đánh giá khác nhau về loài Voi. Trong “Từ điển văn hóa thế giới” của Jean Chevalier, Alain Gheer brant (Nxb Đà Nẵng, Trường Viết Văn Nguyễn Du, 2002), giới thuyết về Voi như sau: Nếu đối với các nước phương Tây, con Voi là hình ảnh sống động của sự nặng nề và vụng về thì người Châu Á lại nhìn nhận con Voi một cách khác hẳn. Con Voi là vật cưỡi của các vua chúa và trước hết là của thiên vương Indra. Như vậy, Voi tượng trưng cho uy quyền đế vương. Voi còn là tên gọi của thần Civa khi nói về những chức năng tối thượng của thần đó. Tác động của vương quyền khi ổn định là mang lại hòa bình, thịnh vượng, uy quyền của Voi(mâtangi) là ban cho những ai cầu khấn nó có được tất cả những gì họ mong muốn. Tại nhiều khu vực, nhất là tại các khu vực có gió mùa, sự ban ơn đó là mưa, là phước lành Trời cho. Voi còn là biểu tượng , không phải sự nặng nề mà là sự ổn định của tính cách bất di bất dịch. Trong Yoga, Voi thuộc luân xa 1(Chakramuladhara), tương ứng với nguyên tố đất và với màu đất son. Voi còn đi cùng Đức Bồ Tát bất biến (Boddhisattva Akshobhya). Trong một số biểu tượng vũ trụ(mandala) của giáo phái Mật tông, ta thấy Voi chầu ở các cổng hướng ra bốn phương; ở Ăngkor, ở miền Đông Mebon và nhất là ở Băng Cốc, Voi cũng được đặt ở những vị trí như vậy. Điều đó biểu thị quyền thống trị của trung tâm vương quyền đối với mọi phương trên thế gian. Cùng với những biểu tượng khác, Voi được ở gần thần Vishnu, chúa tể của ba thế giới, chứng tỏ con vật này có quyền tối thượng trên thế gian. Voi còn gợi lên hình ảnh thần Ganesha, biểu tượng của tri thức. Phần thân của thần này còn là tiểu vũ trụ, là sự biểu hiện, nhưng cái đầu Voi của thần
  12. 6 đã là đại vũ trụ, là cái không hiển hiện. Theo cách giải thích này thì Voi chính là sự khởi đầu và sự kết thúc; vừa có thể hiểu là quá trình phát triển của thế giới hình tượng bắt đầu từ âm tiết “om”(tức là cái không hiển hiện), và vừa có thể hiểu là sự đắc đạo của người luyện Yoga. Ga-ja, con Voi, là alpha mà cũng là omega. Trong các hình thức của đạo Phật cũng rất hay dùng biểu tượng con Voi: Hoàng hậu Maya thụ thai từ một con Voi, sinh ra Đức Phật. Ở đây, Voi đóng vai trò của một thiên thần, ta có thể ngỡ ngàng về điều này nếu như ta chưa biết rằng Voi là công cụ của hành động và của việc ban phước lành của Trời. Đôi khi, Voi cũng được thể hiện đứng một mình để biểu thị sự “đầu thai” đức Phật. Khi Voi đứng trên một trụ cột thì đó là hình ảnh của sự giác ngộ, nó đưa trở về biểu tượng tri thức, hiện thân bằng Ganesha. Cuối cùng, Voi là vật cưỡi của Bồ Tát Samantabhadra, với một ý nghĩa rất gần, nhằm diễn đạt một cách không kém mạnh mẽ uy lực của tri thức. Cũng như con bò đực, con rùa con cá sấu và một số con vật khác ở Ấn Độ và Tây Tạng; Voi còn là con vật cõng thế giới; vũ trụ nằm trên lưng con Voi với tư cách là con vật cõng vũ trụ; Voi hiện hình thành cột tượng của rất nhiều đền đài. Voi được coi là con vật vũ trụ vì nó có cấu trúc của vũ trụ: bốn cây cột chống đỡ một khối cầu. Voi được xem là con vật cõng thế giới, cả vũ trụ nằm trên lưng con Voi . Voi còn là hiện hình thành cột tượng của rất nhiều đền đài. Voi được coi là con vật vũ trụ vì nó có cấu trúc của vũ trụ: bốn cây cột chống đỡ một khối cầu. Ở Châu Phi, theo tín ngưỡng của bộ tộc Baoule, Voi tượng trưng cho sức mạnh, sự thịnh vượng, tuổi thọ và đạo lí. Bộ tộc Ekoi lại coi Voi là biểu tượng của bạo lực và xấu xí. Ở cấp độ ẩn dụ, nếu chỉ xét thân hình đồ sộ của nó thì Voi là biểu hiện của uy quyền vua chúa, với bản tính đa nghi và cảnh giác; Voi gợi lên hình ảnh một ông Vua biết tránh những sự dại dột, bất cẩn và nếu ta tin lời Phine và Elien thì Voi thể hiện lòng sùng đạo: “Khi trăng thượng tuần mới mọc, theo lời người ta
  13. 7 kể cho tôi nghe thì đàn Voi, không rõ là do một trí khôn tự nhiên hay huyền bí nào liền mang những cành lá mà chúng vừa nhổ nơi chúng tới ăn, chúng giơ cao những cành lá ấy và ngước mắt lên nhìn trời nhè nhẹ khua như thể nói lên lời cầu nguyện vị nữ thần phù hộ và ban phước lành cho chúng. Và Voi cũng là biểu hiện của tiết hạnh nếu sự thực là như Aristote nói, khi con cái mang thai hai năm, con đực không “gần gũi” con cái và cũng không “phủ” một con cái nào khác; và người ta còn cho là Voi biết trừng trị tội ngoại tình. Có một bức tranh khắc thuộc thế kỉ XVII minh họa những chuyện huyễn hoặc này; trên bức tranh, một con Voi đang đọ sức với một con lợn lòi như là tiết hạnh đấu tranh với nhục dục.(TERS, 153-155). Ở Ấn Độ, người ta kể rằng, trong một vòng luân hồi, Phật từng là con Voi lớn, sống cô đơn trong rừng. Cánh rừng đó cách xa vùng dân cư bởi sa mạc mênh mông. Có lần, khi đi qua mé rừng, Voi nghe thấy tiếng kêu từ phía sa mạc. Đi theo hướng tiếng kêu, Voi nhìn thấy mọi người, dáng vẻ mệt mỏi, đói và khát. Voi-Bồ Tát đã chỉ cho mọi người đi về hướng có hồ nước, ở đó họ có thể uống, đồng thời thông báo cho họ biết rằng, ở đó có thịt con Voi to, có thể giúp họ qua cơn đói để đi hết sa mạc. Sau khi nói ra điều đó, tự ngài đi theo con đường khác và đến bờ vực của hồ, rồi từ đó, lao xuống tảng đá và chết. Khi đến hồ nước, mọi người tìm thấy ở đó con Voi đã chết. Họ nhận ra đó chính là con Voi-Bồ Tát, và mọi người đều tỏ lòng biết ơn vị cứu tinh của mình. Trong văn hóa Ấn Độ giáo thì con Voi là hình tượng phổ biến. Voi là biểu tượng vật linh trong Ấn Độ giáo vì nó là vật cưỡi của thần Inđra hay còn gọi là Thần Sấm Sét – Thần Chiến tranh hay Thần Hộ mệnh. Hình tượng Voi trong kiến trúc Ấn Độ được thể hiện rất phong phú, sinh động với nhiều tư thế khác nhau, mang ý nghĩa và màu sắc tôn giáo, Voi thường được khắc tạc cùng với thần Inđra. Ganesha là một vị thần đáng kính trong Ấn Độ giáo, nhân dạng của thần kì dị, với đầu Voi mình người. Thần Ganesha là biểu tượng của tài trí, hạnh
  14. 8 phúc và thành công. Theo truyền thuyết kể lại rằng: Một lần nọ, nữ thần Parvati trong khi tắm đã dùng đất có được do kì cọ trên cơ thể của mình tạo ra một cậu bé. Sau đó bà giao cho cậu bé này nhiệm vụ canh giữ phòng tắm của bà. Khi thần Shiva - chồng của nữ thần Parvati lúc đi ra ngoài trở về, đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một kẻ lạ hoắc không biết ở đâu tới đã ngang nhiên chặn cửa không cho mình vào. Đùng đùng nổi giận, thần Shiva đã chặt đứt đầu cậu bé. Khi hay biết sự việc , nữ thần Parvati vô cùng buồn đau. Để an ủi vợ, thần Shiva bèn phái đội quân của ngài đi lấy đầu của bất cứ con vật nào mà họ gặp nếu con vật đó đang ngủ mà mặt quay về hướng Bắc. Đội quân của thần đi tìm, thấy một con Voi đang ngủ thì chặt đầu mang về. Thần Shiva sau đó gắn đầu Voi vào thân hình cậu bé, hồi sinh lại mạng sống và giao cho cậu nhiệm vụ lãnh đạo đội quân của mình. Cậu bé này do đó có tên Ganesha(Ganesha có nghĩa là người cai quản hay chúa tể của một nhóm). Và thần Shiva cũng ban cho cậu bé thêm một đặc ân, rằng dân chúng sẽ thờ phụng và đọc tên của cậu bé này trước khi thực hiện một công việc nguy khó. Đó là những gì được mô tả trong Shiva Purana. Còn trong Brahma Vaivarta Purana thì câu chuyện lại được kể rằng: thần Shiva khuyên vợ mình là nữ thần Parvati nên chay tịnh một năm để cầu thân Vishnu ban cho họ một đứa con. Nữ thần Parvati làm theo lời chồng và ước nguyện của họ đã trở thành hiện thực. Khi cậu bé chào đời, các thần linh ở khắp nơi đã tụ hội về để chúc mừng và ngắm nhìn cậu bé. Thần Shani, con trai của thần Surya (Thần Mặt Trời) cũng có mặt nhưng không chịu ngắm nhìn đứa bé này. Thần Parvati thấy lạ thì hỏi nguyên cớ; thần Shani bèn nói rằng nếu ngài nhìn vào cậu bé thì đầu cậu bé sẽ lập tức rơi lìa khỏi cổ. Nghe vậy nhưng nữ thần Parvati vẫn không tin, vẫn nài nỉ thần Shani ngắm nhìn cậu bé một lần, và kết quả là đầu cậu bé đã rơi lìa khỏi cổ. Trước tình cảnh thảm thương ấy, các vị thần đều cùng nhau than khóc, riêng thần Vishnu đã vội vàng đi đến sông Pushpabhadra, mang đầu một con Voi về và gắn lên người cậu bé, làm sống lại cậu. Về sau Ganesha rất thông minh trí tuệ, trở thành một vị thần quan trọng và
  15. 9 được tin là bậc sáng tác nên bộ Mahabharata. Hay một câu chuyện khác lại nói về vị thần này như sau: Ganesha là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati. Nữ thần Pravati luôn bị thần Shiva nhìn với con mắt thèm muốn nên nữ thần đã tìm cách tự bảo vệ mình. Do đó, bà đã tạo ra thần Ganesha khi Siva trên đường đi săn. Khi Siva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì chúng được Ganesha che mất. Siva tức tối và chặt đứt đầu Ganesha. Parvati cầu xin Siva để Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới. Để Paravati không đau khổ, Siva đã ra lệnh chặt đầu con vật đầu tiên thần nhìn thấy gắn làm đầu cho Ganesha. Và con vật ấy chính là một con Voi. Hằng năm, ở Ấn Độ người ta tổ chức lễ hội Ganesh Chaturthi để tưởng nhớ ngày sinh của thần Ganesha, vị thần được thờ phụng phổ biến trong Ấn giáo, và cũng được xem là một trong bốn vị thần quan trọng của tôn giáo này. Ba vị thần khác là: Brahma, Vishnu và Siva. Theo Ấn giáo, đầu Voi của thần Ganesha tượng trưng cho tự ngã(atman), thực tại tối hậu của con người; còn thân người của Thần tượng trưng cho Maya, là sự hiện hữu của con người nơi cõi đời trần tục. Đầu Voi của thần cũng tượng trưng cho trí tuệ, cái vòi tượng trưng cho âm Om, biểu tượng âm thanh của thực tại vũ trụ. Thần Ganesha cũng được xem là vị thần có khả năng loại trừ những chướng ngại, là vị Thần của may mắn, tài sản và trí tuệ. Ở phía Nam Ấn Độ, Ganesha là thần chính. Nhiều ngày trước lễ hội, tượng thần được dựng lên; vào ngày chính hội, tượng thần và người dự hội được hóa trang sặc sỡ với màu chủ đạo là màu đỏ. Người tham gia lễ hội vui chơi, ca hát và nhảy múa. Ở Mumbai, ngày hội này cũng là ngày nghỉ và mọi người chúc nhau gặp nhiều may mắn, hạnh phúc. Vào những ngày lễ, người Hinđu thường lui tới các nơi thờ tượng thần Ganesha để dâng thức ăn và nước. Thức ăn thường là những thứ bánh ngọt, còn nước thì thường là nước dừa. Họ cầu nguyện Thần giúp họ giải trừ những chướng ngại và rủi ro, và có được những may mắn, thịnh vượng trong đời sống. Cũng với hình tượng Voi nhưng với tên gọi là Gajasimha, nghệ thuật tạo hình là đầu Voi , mình sư tử. Đây là loài thú có sức mạnh vô song, kết hợp sức
  16. 10 mạnh của sư tử (hóa thân của thần Visnu) và Voi của thần Inđra. Các bức tượng với hình dáng này xuất hiện rất nhiều trong văn hóa Ấn Độ. Voi trắng sáu ngà còn là vật cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát (Samantabhadra) tượng trưng cho trí tuệ chiến thắng sáu giác quan. Vì Voi là con vật khôn nhất trong các loài thú nên theo truyền thuyết, Phật Thích Ca khi nhập vào trong bụng mẫu hậu Sirimahamaya qua hình dáng một con bạch tượng, ám chỉ ngài là một bậc hiền giả giáng sinh. Trong truyền thuyết, Voi chính là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh và sức mạnh to lớn. Còn trong lịch sử thời cổ đại, văn minh Ấn Độ đề cao giá trị của loài Voi trong chiến tranh. Họ cho rằng: “Quân đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, chẳng khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không”. Từ Ấn Độ, việc sử dụng Voi trong quân đội đã lan về phía Tây tới đế chế Ba Tư. Theo sử sách, Voi chiến được sử dụng vào năm 530TCN, trong một trận chiến diễn ra giữa đế quốc Ba Tư do vua Amoraios trị vì. Voi giày cũng là một hình phạt có từ hàng ngàn năm ở các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại Ấn Độ. Voi được sử dụng là Voi châu Á được huấn luyện thuần thục. Hình phạt này áp dụng cho các tử tội, thường là những người phạm tội nặng với triều đình hoặc được sử dụng như là một cách thức trả thù của vua đối với những người ủng hộ phe phái chống lại nhà vua. Nạn nhân bị hành quyết thường bị Voi dùng chân giẫm lên cơ thể, dùng vòi cuốn đưa lên cao và quật xuống đất. Người ta có thể điều khiển Voi làm cho nạn nhân chết nhanh hoặc chết từ từ để hành hạ. Như vậy, ở Ấn Độ không chỉ có hình ảnh những chú bò gắn liền với đời sống tín ngưỡng tâm linh của người dân, mà còn có những chú Voi to lớn, khỏe mạnh gắn liền với những vị thần được ca tụng. Cho đến tận hôm nay thì người dân Ấn Độ vẫn lưu giữ những nét văn hóa tốt đẹp và mang đậm màu sắc tôn giáo đó.
  17. 11 Người Ai Cập và Carthage cũng mua Voi châu Phi để sử dụng cho mục đích quân sự. Ở Trung Quốc, việc sử dụng những con Voi chiến tương đối hiếm so với những nơi khác. Việc sử dụng Voi của họ diễn ra vào cuối năm 554 khi nhà Tây Ngụy triển khai hai con Voi chiến mặc giáp sắt từ Lĩnh Nam trận chiến, chúng được điều khiển bởi những nô lệ Mã Lai. Hình ảnh những chú Voi chiến oai phong, hùng dũng đã đi vào lịch sử nhân loại từ thời cổ đại, gắn liền với tên tuổi của những quốc gia lớn, những vị tướng kiệt xuất. Trong “Từ điển tục ngữ thế giới” của Gerd Deley cũng có nhiều câu tục ngữ nói về Voi với những ý nghĩa khác nhau. Để nói về sự to lớn và sức mạnh của con Voi: “Vết chân của Voi giẫm mất dấu chân lạc đà; Một con Voi, dẫu có tệ đến mấy cũng đáng giá hơn mười con ếch” (tục ngữ của Niger); hay là “Với những viên đạn bằng sáp ong, bạn không thể giết Voi” (tục ngữ Ghana); “Cái vòi của con Voi sẽ lên đến tận mái nhà” (tục ngữ Cameroon). Như vậy, chỉ điểm qua một số câu tục ngữ trên, có thể thấy rằng trong văn hóa của các nước, Voi là loài vật khổng lồ, có sức mạnh phi thường không dễ gì đánh bại. Đối với họ, Voi giống như một vị thần khổng lồ. Bên cạnh những câu tục ngữ mang ý nghĩa ca ngợi ở trên, còn có những câu tục ngữ dùng hình tượng con Voi để từ đó đưa ra những bài học, lời khuyên đắt giá: “Ngay cả Voi cũng có thể bị trượt chân” (tục ngữTamil); “Khi một con Voi đang trong cơn bối rối thì ngay cả một con ếch cũng sẽ đá nó” (tục ngữ Ấn Độ); “Ngay cả một chú Voi to lớn cũng có thể sa chân vì một sợi tóc đàn bà” (tục ngữ Ghana). Trong văn hóa đại chúng, Voi còn được miêu tả qua hình tượng chú Voi biết bay Dumbo, là một bộ phim hoạt hình được sản xuất bởi Disney, dựa vào câu chuyện cùng tên của Helen Aberson và Harold Perl.
  18. 12 Như vậy, trong đời sống văn hóa của con người trên khắp thế giới từ xưa đến nay, đặc biệt ở vùng Bắc Á. Voi luôn có một vị trí quan trọng. Nó là hiện thân của sức mạnh, của tri thức và của tấm lòng Bồ Tát đầy từ bi, tình nghĩa. Nói cách khác, Voi liên quan đến tín ngưỡng và trở thành linh vật của tôn giáo. Ở đó có sẵn một hệ thống huyền thoại về Voi hay liên quan đến Voi. Tất cả đều in sâu vào tâm thức, tín ngưỡng của con người. Nhưng bên cạnh đó, ở một số quốc gia lại coi Voi là biểu tượng của sự xấu xí và chiến tranh nên người ta sợ nó. Nhưng dù sao, Voi cũng mang nhiều ý nghĩa và đáng để con người tìm hiểu. 1.2. Voi trong văn hóa Đông Nam Á Xét về mặt vị trí địa lí, Đông Nam Á là khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu ẩm; là nơi có nhiều rừng và hồ nước. Có lẽ, vì thế mà từ xưa ở khu vực này đã có rất nhiều Voi sinh sống. Voi gắn bó, gần gũi với con người từ trong lao động sản xuất đến chiến đấu. Ở các nước, như: Lào, CamPuChia, Thái Lan, Myanma… Voi có một vị trí rất cao trong đời sống tinh thần của con người. Ở Thái Lan, hình tượng con Voi tượng trưng cho đất. Voi rất được coi trọng, đặc biệt là Voi trắng. Bởi Voi trắng còn tượng trưng cho sự thanh bình và thịnh vượng của quốc gia nên thường được đem dâng lên vua để tỏ lòng kính trọng. Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên Voi trắng được chăm sóc với một chế độ rườm rà và đắt đỏ. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì so với đặc ân được vua ban cho chăm sóc Voi trắng vì nó đem lại vinh dự và danh tiếng trong triều. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng việc chăm sóc Voi trắng là con dao hai lưỡi vì nó có thể làm tăng địa vị của một quí tộc và cũng có thể làm cạn túi một người ít quí tộc hơn. Bên cạnh con Voi quí tộc – Voi trắng – những con Voi khác phải làm việc để kiếm sống nhưng chúng luôn được coi là loài vật đặc biệt. Trong mỗi gia đình người Thái đều có trang thờ giống như một ngôi đền thu nhỏ. Chúng trông giống với cái chuồng chim của Phương Tây nhưng chẳng có chú chim nào cả gan đến chiếm, vì Phra Phum không cho phép. Một tượng nhỏ, biểu hiện của
  19. 13 Phra Phum được chạm khắc bằng gỗ hay bằng đất nung, được đặt vào vách nhìn ra bên ngoài. Nếu Phra Phum giúp một lời nguyền thành sự thật thì sẽ được nhận một con Voi hay một nô lệ cũng nhỏ nhắn như vậy. Những con Voi được chạm khắc xinh xắn mà ở những ngôi đền là lễ vật dâng lên các thần để nhân dân có thể chầu lên ngọc hoàng vào mỗi sáng thứ năm; nếu lấy đi một con thì bạn sẽ bị vị thần đó “hạ thổ” ngay trên đầu bạn và mang đến cho bạn rất nhiều xui xẻo. Đối với những người dân nơi đây thì mảnh ngà Voi, răng cọp, sừng trâu, nanh heo rừng và mắt mèo là các vật bùa chú. Chúng thường được đeo quanh cổ hoặc xâu thành vòng đeo để xua đuổi tà ma. Ở Thái Lan, bức tượng thần Ganesha được tạc với tư thế ngồi bán già trên một bệ tròn ba tầng, đầu đội mũ hình tháp (stupa ), đôi tai lớn phình rộng với chiếc vòi uốn cong xuống tận bệ, miệng có hai ngà, cổ và tay chân đều có đeo vòng trang sức, tay trái cầm một chiếc bát, tay phải cầm một chiếc bình. Tại Đại hội thể thao châu Á năm 2005 ở Thái Lan có chú Voi xanh tên là Hey và chú Voi vàng tên Há là linh vật, cả hai đại diện cho sự náo nhiệt, vui tươi và thư thái, phản ánh đúng bản chất tốt đẹp của thể thao. Nhắc đến nước Lào xinh đẹp là người ta nghĩ ngay đến tên gọi “Đất nước Triệu Voi”; điều này cho ta thấy trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của mình, người Lào rất coi trọng Voi. Huyền thoại cổ xưa giải thích nguồn gốc của người Lào như sau: Ông tổ đầu tiên của người Lào tên là Khoun Borom được Vua trời cử xuống cai trị mặt đất. Trên lưng một con Voi trắng, ông phát hiện ra một dây leo có quả bầu khổng lồ. Khi chọc thủng hai quả bầu này thì đàn ông, đàn bà, muông thú và hạt giống rơi ra. Với muông thú và cây cối đó, bảy người con trai của Khoun Borom đã chia đất đai với nhau và lập nên bảy vương quốc. Bên cạnh đó, Voi là biểu tượng cho nước Lào hùng vĩ. Những con Voi trắng được gắn với hoàng gia; đồng thời cũng là biểu tượng của vận may và là của những người bảo vệ đất nước. Trong chiến tranh, những chú Voi đã giúp chở binh lính và quân lương ra chiến trận. Còn hiện nay, những con Voi khỏe mạnh là người
  20. 14 bạn giúp nhân dân Lào kéo gỗ súc từ trên núi xuống sông và đường cái. Vào ngày Tết cổ truyền ở Luông Prabang, các chú Voi vinh dự được hộ tống các hoa hậu. Khi các hoa hậu được cưỡi trên lưng Voi đều cảm thấy may mắn và hạnh phúc. Hình tượng những chú Voi còn có mặt ở các ngôi chùa thuộc kiểu kiến trúc truyền thống của Lào. Như vậy, đối với người Lào, những chú Voi khỏe mạnh vừa là hiện thân của hoàng gia quý phái; vừa là người bạn thân thiết trong chiến đấu và lao động sản xuất. Voi cũng là linh vật trong kì Seagame 2009 tại Lào: một cặp Voi trắng. Hai con Voi trắng này mặc trang phục truyền thống của Lào. Con Voi đực được đặt tên là ChamPa; con Voi cái có tên là ChamPi. Hai con Voi trắng này tượng trưng cho Lào như tên gọi là vương quốc Lang Xang trong thời cổ đại, trong đó có nghĩa là “Vương quốc Triệu Voi”. Các linh vật được mô tả như đang vui vẻ, là một yếu tố quan trọng trong thi đấu thể thao. Đến với đất nước nghìn chùa- CamPuChia, ta sẽ thấy hình ảnh những chú Voi xuất hiện nhiều ở các ngôi chùa. Nó như là sức mạnh để giữ gìn và bảo vệ đất nước này. Nghệ thuật điêu khắc trên đền Ăngkor là cảnh: xây nhà, múa hát, chọi gà và những viên tướng oai vệ trên lưng Voi, thúc quân ra trận, đánh kẻ thù. Những con Voi to tướng ba đầu có bốn mặt người nhìn ra bốn phương , là hình ảnh đại diện cho một dân tộc kiên cường, giàu nghị lực. Người múa, Voi đàn cũng múa, đàn Voi chiến xông lên giày xéo quân thù. Những hình ảnh hết sức sinh động thể hiện sự gắn bó giữa con người CamPuChia với loài Voi. Xa xưa lắm rồi, từ thời Ăngkor mới được xây dựng, giặc ngoại xâm cứ triền miên gây loạn lạc. Nhà vua sai Voi thần giày đạp giặc xâm lăng. Giặc tan, đàn Voi quay về canh giữ Ăngkor. Ba thần Voi ở lại trấn thủ tiền đồn. Mãi cho đến khi dời đô thì Voi chết. Hồ Lớn, Hồ Bé, Hồ Bùn là dấu vết Voi nằm. Ở CamPuChia, có Đầm Rây hình dáng tương tự con Voi đá khổng lồ trấn giữ phía Đông. Ở CamPuChia, người ta đã tìm thấy một tượng thần đầu Voi Ganesha bằng đá chế tác từ thế kỉ 17- 18. Bức tượng này được thờ ở nhiều nước Đông Nam Á, cho ta
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2