Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000
lượt xem 5
download
Luận văn là công trình dài hơi nghiên cứu về tác giả Nguyễn Quang Thiều. Nghiên cứu tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, qua hệ thống biểu tượng, qua ngôn ngữ thơ nhằm tìm ra những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều. Đồng thời, luận văn cũng góp thêm một cách nhìn riêng về một hiện tượng văn học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ------------ ------------ LÊ THỊ BÍCH HỢP TƯ DUY THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU QUA CÁC TẬP THƠ TỪ 1990 ĐẾN 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Thành Hà Nội - 2008
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................................ 1 PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 4 3. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 6 5. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 7 6. Bố cục của luận văn .............................................................................. 7 PHẦN NỘI DUNG ................................................................................... 8 Chƣơng 1 CÁI TÔI PHỨC CẢM VÀ CHIỀU SÂU TÂM THỨC HIỆN ĐẠI....... 8 1.1 . Nguyễn Quang Thiều - người chủ động đổi mới tư duy thơ................. 8 1.2 . Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ ........................................ 12 1.3 . Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều .................. 15 1.3.1. Cái tôi mang khát vọng kiếm tìm ............................................ 17 1.3.2. “Cái tôi trăn trở về sự suy kiệt của thế gian và sự tái sinh của nhân loại” ................................................... 27 1.3.3. Cái tôi của chiều sâu tâm linh ................................................. 34 Chƣơng 2 NHỮNG BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU ................................................................... 46 2.1 Khái niệm về biểu tượng trong tư duy thơ .......................................... 46 2.2. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Quang Thiều ............... 50 2.2.1. Biểu tượng cặp đôi.................................................................. 50 Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 1
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp 2.2.1.1. Cỏ và trăng ...................................................................... 50 2.2.1.2. Cánh đồng và dòng sông .................................................. 61 2.2.1.3. Bóng tối và lửa (cặp biểu tượng bao trùm) ....................... 70 2.2.2. Một số biểu tượng khác .......................................................... 85 2.2.2.1. “Trẻ em” - biểu tượng về sự sống, sự trong sáng.............. 85 2.2.2.2. “Cái cây”- biểu trưng cho sự sống, sự kì vĩ ...................... 89 Chƣơng 3 NGÔN NGỮ THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU ................................... 98 3.1. Ngôn ngữ tự nhiên ............................................................................. 98 3.1.1. Tính tự nhiên .......................................................................... 98 3.1.2. Tính tự do ............................................................................. 100 3.2. Xu hướng siêu thực ......................................................................... 109 3.2.1. Hiện thực và siêu thực .......................................................... 109 3.2.2. Một vài biểu hiện có tính siêu thực trong thơ Nguyễn Quang Thiều ............................................................ 114 3.3. Thơ văn xuôi ................................................................................... 123 3.3.1. Thống kê thể loại thơ Nguyễn Quang Thiều ......................... 123 3.3.2. Liên kết ý chiếm vai trò chủ đạo trong thơ Nguyễn Quang Thiều ..................................................................... 124 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................... 132 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 135 Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 2
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Tư duy không chỉ là đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý, triết học,… mà còn là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật. Tư duy thơ là một thuật ngữ xuất hiện ngày càng nhiều trong lý luận văn học và thi pháp học hiện đại. Trong tư duy không chỉ có yếu tố cá nhân, yếu tố dân tộc mà còn bao gồm những yếu tố thời đại, yếu tố nhân loại. Tư duy thơ là vấn đề nằm trên cả bình diện nội dung và hình thức. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ tư duy là một yêu cầu toàn diện và khá phức tạp đối với các hiện tượng thi ca. Tuy nhiên, nghiên cứu thơ từ góc độ tư duy sẽ tạo ra những hướng tiếp cận mới, có khả năng đi vào thế giới nghệ thuật phong phú. 1.2. Sau năm 1975, trên thi đàn, người ta thấy xuất hiện một “thế hệ thơ thứ tư” với những giọng điệu đầy cá tính. Nguyễn Quang Thiều được đánh giá là một trong những cây bút cách tân của thơ Việt Nam đương đại. Tập thơ "Sự mất ngủ của lửa" được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 đã làm “mất ngủ” những người yêu thơ và đánh thức đời sống phê bình văn học vốn đã trầm lặng. Với bốn tập thơ "Sự mất ngủ của lửa", “Những người đàn bà gánh nước sông”, “Nhịp điệu châu thổ mới”, "Bài ca những con chim đêm", Nguyễn Quang Thiều đã định hình một phong cách ổn định. Anh đã có đóng góp nhất định trong việc đổi mới cảm xúc, đổi mới tư duy và mang đến cho thi ca một đời sống tinh thần mới lạ. Thơ Nguyễn Quang Thiều đem đến những phản ứng khác nhau từ phía độc giả. Tuy nhiên đề cao quá mức hay phủ định hoàn toàn đều là những nhìn nhận phiến diện. Nghiên cứu một hiện tượng văn học gây ra nhiều tranh cãi là một thử thách đối với người viết luận văn. Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 3
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp 1.3.Thơ Nguyễn Quang Thiều tiêu biểu cho sự đổi mới về tư duy, cảm xúc, ngôn ngữ. Do đó, tiếp cận thơ Nguyễn Quang Thiều từ góc độ tư duy, chúng tôi hy vọng sẽ có một cách nhìn tương đối hệ thống về hiện tượng này. Đồng thời, qua đề tài này, chúng tôi cũng muốn đóng góp những ý kiến riêng về thơ Nguyễn Quang Thiều. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là những tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Quang Thiều từ năm 1990 đến 2000, ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát một số bài thơ được sáng tác sau năm 2000 chưa xuất bản của tác giả. Nguồn tài liệu này chúng tôi được tác giả cung cấp. Thơ Nguyễn Quang Thiều cũng nằm trong tiến trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại sau năm 1975 nên chúng tôi cũng tiến hành tham khảo thơ của một số tác giả có xu hướng cách tân như: Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Phùng Khắc Bắc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương, Hoàng Hưng, Nguyễn Quyến, Vi Thuỳ Linh,… và một số tập thơ được giải thưởng Hội Nhà văn để so sánh với thơ Nguyễn Quang Thiều, từ đó có cái nhìn chung về sự vận động của thơ đương đại. Phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề về tư duy nghệ thuật qua các tập thơ của Nguyễn Quang Thiều. Đó là cái tôi phức cảm và chiều sâu tâm thức hiện đại, là những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Chúng tôi cũng tìm hiểu một số vấn đề ngôn ngữ thể loại… 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Sau khi tập thơ "Sự mất ngủ của lửa" được Hội Nhà văn trao giải thưởng, thơ Nguyễn Quang Thiều đã đem đến những phản ứng khác nhau. Giới nghiên cứu, phê bình bắt đầu chú ý đến Nguyễn Quang Thiều với những ý kiến trái ngược nhau. Các tác giả như Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Đông La, Chu Văn Sơn, Hàn Vũ Hùng, Nguyễn Quyến.. đánh giá sự cách tân của Nguyễn Quang Thiều là một hướng đi mới có triển vọng. Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 4
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp Đỗ Minh Tuấn cho rằng thơ Nguyễn Quang Thiều “phát lộ tâm thức thời đại” [132]; Đông La nhận xét: “Nguyễn Quang Thiều là một thi sĩ viết nhiều, có tầm bao quát rộng, thay đổi được cách viết” [62,110]; Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Nguyễn Quang Thiều với những thành công và những vần thơ đang ở mức thể nghiệm đã để lại dấu ấn của mình trong tiến trình đổi mới thơ ca, góp phần đưa thơ Việt Nam tiến thêm một bước nữa trên con đường hiện đại…” [26, 266]; Nguyễn Quyến nhận định: “Nguyễn Quang Thiều đã có một cuộc vượt biển thực sự trong tâm hồn mình khi ông xuất bản tập thơ Sự mất ngủ của lửa. Không cần nhắc lại chúng ta cũng biết sự đóng góp vô cùng lớn lao của tập thơ này đối với các trào lưu thơ ca hiện đại từ hình thức, ngôn ngữ đến ý tưởng hiện diện trong đó. Nhưng tôi khẳng định rằng sự đóng góp lớn lao nhất của tập thơ Sự mất ngủ của lửa không chỉ đối với thơ ca hiện đại nói riêng mà nó còn tác động nhiều đến mỹ cảm của người Việt hiện đại” [95]; Phạm Xuân Nguyên nhận ra “chất giọng lạ” trong thơ Thiều “…Tôi gọi tập thơ được giải của Thiều là khúc nhạc Thiều cất lên từ đồng quê, vọng lên từ kiếp người với một giọng điệu rất hiện đại” [Theo 39, 216]; “Nguyễn Quang Thiều được dư luận chú ý không phải vì được giải mà chủ yếu vì chất giọng riêng là lạ, khó lẫn với người khác” [Vũ Văn Sỹ, 63, 505]; “Nguyễn Quang Thiều phải được xem như cái đỉnh bất ngờ nhô lên giữa những ngọn đồi. Sự mất ngủ của lửa in năm 1992, được Hội Nhà văn trao giải thưởng một năm sau đó, là hiện tượng hiếm có trong sáng tác và cả trong nhìn nhận của dư luận. Qua Những người đàn bà gánh nước sông (1995), Nhịp điệu châu thổ mới (1997), Bài ca những con chim đêm (1999), chúng ta thấy biên độ thẩm mỹ thơ của anh được mở rộng tối đa. Không ít người cho Thiều ảnh hưởng thơ Mỹ hay Mỹ Latinh, cụ thể là J. Brodsky. Có sao đâu! Đây là giọng thơ lần đầu có mặt tại Việt Nam, và nó được tiếp nhận đầy sáng tạo. Nó tác động mạnh tới những cây bút thế hệ mới phía Bắc đến nỗi có thể vạch một Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 5
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp ranh giới giữa nhóm làm thơ theo Thiều với nhóm làm thơ khác Thiều” [Trần Vũ Khang, 60]. Bên cạnh đó là những ý kiến rất cực đoan, Trần Mạnh Hảo phê phán quyết liệt, xem thơ Nguyễn Quang Thiều là “non kém về mặt nghệ thuật” [39, 82], thơ “tây giả cầy”, “thơ dịch xổi”… Trần Đăng Khoa một mặt thừa nhận: “Nguyễn Quang Thiều đã phá bỏ lối đi quen, mở ra con đường mới chưa hề có” [59, 171], mặt khác lại chê thơ Nguyễn Quang Thiều Tây quá “đặc sản của thơ Thiều là cái giọng lơ lớ tây” [59,173]. Tóm lại, xung quanh giải thưởng Hội Nhà văn và các tập thơ của Nguyễn Quang Thiều đã có một bài viết đề cập đến vấn đề tư duy thơ. Sự đổi mới trong cảm xúc và những biểu tượng ám ảnh trong thơ anh. Tuy nhiên trong số các bài viết này, các tác giả chưa đi vào phân tích cụ thể, chưa có một công trình nào có cái nhìn bao quát về thơ Nguyễn Quang Thiều. Về tư duy duy nghệ thuật thì chưa có bài nào đề cập đến một cách hệ thống. Bài của Đông La có cái tên rất trùng hợp “Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều” nhưng Đông La không đi từ góc độ triết học và cá tính sáng tạo mà chỉ là một sự cảm nhận chung nhất… Song các bài viết này đã phần nào gợi mở ý tưởng cho đề tài luận văn của chúng tôi. Đến nay, thơ Nguyễn Quang Thiều vẫn còn ngổn ngang những lời khen chê. Chúng tôi hy vọng rằng, công trình khoa học này sẽ có những kiến giải riêng trên tinh thần tiếp thu ý kiến của các nhà phê bình đi trước. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp so sánh: Chúng tôi so sánh sự vận động của tư duy thơ qua các tập thơ của Nguyễn Quang Thiều, mặt khác so sánh tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều với một số tác giả cùng thời để tìm ra những đặc trưng riêng của thơ anh. Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 6
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thiết lập hệ thống luận điểm. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng cả kiến thức văn học sử về thơ đương đại để tìm ra nguồn gốc của những vận động, cách tân thơ Nguyễn Quang Thiều nói riêng và thơ Việt Nam nói chung. - Phương pháp thống kê: Thống kê các thể loại thơ trong tổng số các sáng tác của Nguyễn Quang Thiều và một số hiện tượng nổi bật cùng thời với Nguyễn Quang Thiều. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn là công trình dài hơi nghiên cứu về tác giả Nguyễn Quang Thiều. Nghiên cứu tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, qua hệ thống biểu tượng, qua ngôn ngữ thơ nhằm tìm ra những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều. Đồng thời, luận văn cũng góp thêm một cách nhìn riêng về một hiện tượng văn học. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Luận văn bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Cái tôi phức cảm và chiều sâu tâm thức hiện đại Chương 2: Những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc trong thơ Nguyễn Quang Thiều Chương 3: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Quang Thiều. Cuối cùng là tài liệu tham khảo với 136 mục từ. Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 7
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CÁI TÔI PHỨC CẢM VÀ CHIỀU SÂU TÂM THỨC HIỆN ĐẠI. 1.1. Nguyễn Quang Thiều - ngƣời chủ động đổi mới tƣ duy thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 3 tháng 2 năm 1957 tại làng Chùa ven bờ sông Đáy, thuộc địa phận tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội. Ngôi làng âm u chứa đầy những câu chuyện thần tiên, ma quỷ… biểu hiện một đời sống tinh thần phong phú, bí ẩn và mơ hồ đã ám ảnh tâm trí “cậu bé làng Chùa”. Dòng sông Đáy hiền hoà và thơ mộng là nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tác, là điểm tựa tinh thần để thi sĩ tìm về sau bao bươn trải gian nan. Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 6 tập thơ, 5 tập tiểu thuyết và truyện ngắn, gần 10 cuốn sách dịch và sách viết cho thiếu nhi. 6 tập thơ của Nguyễn Quang Thiều gồm: “Ngôi nhà mười bảy tuổi” (1990); “Sự mất ngủ của lửa” (1992); “Những người lính của làng” (1994 - viết trước năm 1990); “Những người đàn bà gánh nước sông” (1995); “Nhịp điệu châu thổ mới” (1997); “Bài ca những con chim đêm” (1999). Ngoài ra, tập thơ “Cái cây ánh sáng” sẽ ra mắt bạn đọc vào cuối năm 2008. Ngoài giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993, Nguyễn Quang Thiều còn giành được nhiều giải thưởng văn học trong nước ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, sách thiếu nhi, kịch bản phim… Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Đặc biệt “Bầy chim chìa vôi” được chọn làm một chuyên đề để giới thiệu trong một trường đại học ở Nhật. Năm 1997, Nguyễn Quang Thiều được các nhà xuất bản ở Mỹ chọn dịch cả thơ và văn. Tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” và “Những người đàn bà gánh nước sông” được dịch công phu và đăng tải trên hầu hết các tạp chí, báo văn học (khoảng 20 tờ) có uy tín trên toàn nước Mỹ, Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 8
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp sau đó được in trong bản song ngữ “The women carry water” (Những người đàn bà gánh nước sông) tại nhà xuất bản báo chí Masschusetts and Amherst Hoa Kỳ. Nguyễn Quang Thiều còn được biết đến với tư cách là một nhà báo, một họa sĩ không chuyên. Thành công ở nhiều lĩnh vực, nhưng thơ ca vẫn là niềm đam mê nhất của anh. Cũng chính ở lĩnh vực thơ, Nguyễn Quang Thiều đã trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận kéo dài. Nguyễn Quang Thiều bắt đầu làm thơ từ đầu thập niên 80 và sớm thành công. Năm 1983 - 1984, anh đạt giải ba cuộc thi thơ của tạp chí Văn nghệ quân đội, năm 1989 đạt giải thưởng thơ hay. Tập thơ “Ngôi nhà mười bảy tuổi” xuất bản năm 1990, và sau đó một năm được bình chọn là tác phẩm hay nhất của năm. “Ngôi nhà mười bảy tuổi” có nhiều câu thơ đẹp mang đến thế giới trong sáng, tinh khiết của ký ức, là niềm thương nhớ đồng quê: Tôi như con sáo mỏ gà Bay về triền đất bãi Tôi của triền sông hai mươi tám tuổi Những dấu chân trên phù sa rong ruổi Của hoa ngô cuối vụ khô giòn Của hoa cải rưng rưng lòng không cầm được Của bồn chồn mùa tu hú kêu mau… Tôi của triền sông những năm tháng đi xa Cỏ mật thơm một tâm tình bối rối… Những người lính mấy khi về đúng hẹn Để con sông thao thức đôi bờ … Tôi một hạt của phù sa muôn thủa Đất bãi gọi về cho đất bãi ngàn xưa. (Trở về bờ bãi) Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 9
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp Nếu tiếp tục đi theo con đường “Ngôi nhà mười bảy tuổi” có lẽ Nguyễn Quang Thiều sẽ có một vị trí yên ổn trên thi đàn. Nhưng anh đã dũng cảm bước “lạc nhịp” ra khỏi “dàn đồng ca”, mạo hiểm tìm một lối đi mới. Khi “Ngôi nhà mười bảy tuổi” lọt vào vòng cuối cùng với 4 tác phẩm thơ ứng cử giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1991, Nguyễn Quang Thiều đã nhận ra, đó chưa phải là hướng đi của anh: “Tôi không muốn tập thơ đó được giải vì tôi biết những gì đích thực của tôi đang xuất hiện”. “Sự mất ngủ của lửa” ra đời năm 1992 được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993 - là một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp thơ ca Nguyễn Quang Thiều, đánh dấu bước ngoặt đổi mới trong tư duy thơ. Sóng gió đã nổi lên trên diễn đàn ngày từ khi tập thơ được trao giải, được công nhận là một hướng đi mới. “Sự mất ngủ của lửa” đã gây “sốc” cho nhiều người. Người nhạy cảm với cái mới đã nhìn thấy triển vọng của một hướng tìm tòi mới, Phạm Xuân Nguyên nhận ra một “chất giọng lạ của thơ Thiều”, “như một khúc nhạc đồng quê”… Bên cạnh đó là những ý kiến phản bác quyết liệt, thậm chí phủ định sạch trơn. Trần Mạnh Hảo xem đó là thứ thơ “phản thơ”, thơ “dịch xổi”, Trần Đăng Khoa thì gọi là “giọng điệu lơ lớ Tây”. Các bài viết về “Sự mất ngủ của lửa” chưa có ý kiến nào lý giải triệt để. Có thể nói, đến nay, "Sự mất ngủ của lửa" vẫn cần được “giải mã” để có sự kiến giải thuyết phục hơn. Tuy rằng, cuộc tranh luận về Nguyễn Quang Thiều còn ngổn ngang những khen chê, song nó cũng làm cho người cầm bút ý thức được rằng họ không thể viết như cũ được nữa. Một số nhà thơ trẻ đã công nhận rằng ngọn lửa sáng tạo mà Nguyễn Quang Thiều châm lên đã kích thích họ tìm tòi, đổi mới. Nguyễn Quyến, một trong số nhà thơ trẻ thừa nhận rằng, Nguyễn Quang Thiều đã có ảnh hưởng nhất định đối với một số sáng tác của anh. Tập “Mưa ban mai” xuất hiện vào năm 1993, người đọc đã không khỏi sửng sốt trước khả năng tung phá ngôn từ và những triết lý sâu sắc của một nhà thơ còn rất trẻ. Còn nhà thơ trẻ Vi Thuỳ Linh thì tâm sự một cách rất thành thật: “ Khi tôi Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 10
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp bắt đầu đến với thơ, Nguyễn Quang Thiều đã gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt. Đó là nhà văn có tâm hồn mơ mộng, nhân hậu và đẹp đẽ. Tôi cũng muốn giữ gìn tâm hồn mình như vậy”. "Sự mất ngủ của lửa" đã đưa ra một quan niệm mới về thơ. Nguyễn Quang Thiều đã thoát khỏi lối mòn đơn điệu, lối viết khuôn sáo để có một cách nhìn mới về hiện thực. Anh vừa vượt qua khỏi cái cũ, vừa nỗ lực tìm kiếm những giá trị mới. "Sự mất ngủ của lửa" là một bước chuyển đổi về thi pháp, tư duy, cảm xúc thơ Nguyễn Quang Thiều. Thế giới trong "Sự mất ngủ của lửa" không còn là những cảm xúc dịu, nhẹ, những câu thơ ngắn gọn, những hình ảnh trong sáng của “một thoáng hè thị xã/ chợt nghiêng mình sang thu; / con về thăm ngoại ngoại ơi/ Làng xưa chiều nắng trong mưa…” mà thay vào đó một thế giới rộng lớn, bụi bặm, hỗn tạp và trần trụi hơn, là “Tiếng chó khuya sủa chớp phía chân trời; như dao sắc phất vào tôi tứa máu/ Tôi nấc lên câu hỏi như người sặc khói…” Thể thơ lục bát biến mất hoàn toàn, thay vào đó là những câu thơ tự do, thơ văn xuôi trúc trắc hơn với tất cả hình trạng của đời sống: tiếng chó sủa chớp, chùm chân dán, đàn kiến, nọc độc rắn, mùi cá khô, chuồng gà, cô gái buôn, những người đàn bà goá bụa,… ám ảnh và gai gợn hơn. Khi Phạm Xuân Nguyên gọi “thơ Thiều là tiếng hú gào” thì ngay lập tức người ta liên tưởng đến tác phẩm Howl (Hú) của Ginsberg - chủ soái trường phái nổi loạn Beat. Và nhiều người cho rằng, Nguyễn Quang Thiều ảnh hưởng trường phái thơ Beat của Mỹ. Nguyễn Quang Thiều dịch khá nhiều thơ hiện đại Mỹ, song nguồn ảnh hưởng thực sự đến nhãn quan đổi mới thơ của anh là: bản dịch nghĩa của thơ Đường, thơ J.Brodsky và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo phương Tây. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến J.Brodsky. Nhà thơ Nga được giải Nobel văn chương năm 1987. Ông là người có ảnh hưởng rộng rãi đến các nhà thơ trên thế giới. J.Brodsky từng phát biểu ông luôn cảm thấy tuyệt Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 11
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp vọng như sống trong địa ngục khi không sáng tác. Vì vậy, để lấp đầy khoảng trống tinh thần mà hình ảnh đời sống luôn chảy vào thơ ông ào ạt, mãnh liệt, lớp lớp chồng lên nhau. Nguyễn Quang Thiều luôn coi nhà thơ Nga vĩ đại này là người thầy tinh thần của mình. Ở Việt Nam, Nguyễn Quang Thiều là người chịu ảnh hưởng J.Brodsky sâu đậm nhất. Dịch giả Hoàng Ngọc Biên đã dịch thơ Josheph Brodsky “Tĩnh vật và những bài thơ khác” xuất bản tại Huế năm 1991. Ông tâm sự rằng, mỗi khi dịch thơ J.Brodsky ông lại nghĩ đến thơ Nguyễn Quang Thiều. Từ “Ngôi nhà mười bảy tuổi” đến “Bài ca những con chim đêm” là một hành trình sáng tác đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt trong tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều. Hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều phần nào khắc hoạ những chuyển biến trong đời sống thi ca thời kỳ đổi mới. 1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình trong thơ. Theo PGS-TS Nguyễn Bá Thành: “Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai dạng chủ yếu, cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp” [107, 56]. Như vậy, tìm hiểu tư duy thơ trước hết là tìm hiểu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ, thiết nghĩ để làm được điều này, ta cần phân biệt được sự khác nhau giữa cái tôi và cái tôi trữ tình. Cái tôi thực chất là một khái niệm triết học. Các nhà triết học duy tâm, từ R.Đê-cac, J.Gphichtê, G.V.Hêghen, H.Becxông,… S.Phơ-rơt là những người đầu tiên chú ý đến cái tôi khi đề cao ý thức, lý tính trong mối quan hệ vật chất - ý thức, chủ quan - khách quan, cá nhân - xã hội. R.Đê-cac (1596-1650) đã đưa ra một định nghĩa nổi tiếng “Tôi tư duy vậy là tôi tồn tại”. Theo ông, cái tôi thuộc về thực thể biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lý. Nhà triết học Bec-xông (1859-1941) lại cho Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 12
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp rằng, con người có hai cái tôi. Cái tôi bề mặt là các quan hệ của con người đối với xã hội. Còn cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức. Ý thức mới chính là đối tượng của nghệ thuật. Theo S.Phơ-rơt (1856-1939), cái tôi là sự hiện diện của động cơ bên trong ý thức con người. Các nhà tâm lý học đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản cấu thành phần ý thức, nhân cách của con người. Cái tôi cũng là một đối tượng quan tâm của các ngành khoa học xã hội như đạo đức, xã hội học. Triết học Mac - Lênin khẳng định: Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của cá tính con người, có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình. Chỉ có con người độc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng tái hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình. Cái tôi có thể xem là cấu trúc phần tự giác. Tóm lại, nhìn từ góc độ triết học, khái niệm cái tôi vừa mang tính xã hội, lịch sử vừa phân biệt sự độc đáo và khẳng định tính tích cực của nhân cách. Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự thể hiện, là sự thôi thúc bên trong tâm hồn con người có khi mãnh liệt, dồn dập do tác động của đời sống gây nên. Lê Quý Đôn cho rằng “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”, Ngô Thì Nhậm thì nhận xét “Mây gió, cỏ hoa xinh tươi kỳ diệu đến đâu cũng đều từ trong lòng mà ra … hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vị trí của cái tôi trữ tình trong thơ, mối liên hệ giữa khách thể và chủ thể luôn đặt ra trong thơ. “Thơ trữ tình là thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình. Trong đó, cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhận vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách gián tiếp. Tính chất cá thể hoá của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hoá của sự thể hiện là dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng biểu hiện phức Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 13
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp tạp của thế giới nội tâm từ các cung bậc tình cảm cho tới chính kiến, những tư tưởng triết học” [38, 31]. Trong tác phẩm Mỹ học của G.V. Hêghen, khi đề cập đến nội dung của thơ trữ tình, tác giả cho rằng: “Nguồn gốc và điểm tựa của nó là ở chủ thể, và chủ thể là người duy nhất, độc nhất mang nội dung. Chính vì vậy cho nên cá nhân phải có được một bản tính thi sĩ, phải có một trí tưởng tượng phong phú, phải có một cảm xúc dồi dào và có thể lĩnh hội được những ý niệm sâu sắc và đồ sộ” [Theo 30, 295]. Khái niệm về cái tôi trữ tình tuy có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau nhưng cơ bản vẫn gặp nhau ở nội hàm: tính trữ tình và tính chủ thể. Có trường hợp nhà thơ là nhân vật, là cái tôi, là hình tượng trung tâm. Đọc thơ chúng ta thấy giữa thơ và cuộc đời tác giả là một. Trường hợp này cái tôi trữ tình là cái tôi nhà thơ. Thơ trữ tình của W.Gơt, A.Puskin, I.Lec-môn-tôp cũng chính là những nỗi niềm tâm sự của tác giả. W.Gơt đã từng tâm sự: “Những gì khiến cho tôi vui mừng, đau khổ hay nói chung thu hút tôi thì tôi cố biến ra thành hình tượng, thành thơ… Tôi cố gắng thoát ra khỏi những gì đang dày vò tôi bằng một bài ca, một bài phúng thi, một câu thơ nho nhỏ nào đấy” [Theo 30]. Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác là trường hợp rất phổ biến với thơ. Thơ Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương đến thơ Phan Bội Châu, Tố Hữu… biểu hiện rất rõ sự thống nhất trên. Thái độ bất bình với những xấu xa, lố lăng của xã hội… đều có những nguyên nhân sâu xa từ cuộc đời riêng của Tú Xương. Tố Hữu - nhà thơ, người chiến sĩ cộng sản, đời thơ, đời cách mạng chỉ là một. Tuy nhiên có trường hợp, cái tôi của nhà thơ trong đời sống không đồng nhất cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Nếu máy móc tìm kiếm, gán ghép tất cả những hành động, việc làm của cái tôi trữ tình cho tác giả hoặc ngược Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 14
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp lại, lấy cuộc đời con người riêng của nhà thơ đối chiếu với cái tôi trữ tình trong sáng tác đều không tránh khỏi sự khiên cưỡng. Có những sự khác biệt dường như hoàn toàn giữa nhà thơ - con người của cuộc sống thực - với thế giới nội tâm nhiều màu sắc do nhà thơ sáng tạo nên. Nhìn chung, cái tôi nhà thơ khác với cái tôi trữ tình, cái tôi được nghệ thuật hoá, nhưng lại không thể tách rời, đối lập mà là thống nhất với nhau, thống nhất trong một cái tôi chủ thể sáng tạo. Cái tôi nhà thơ là toàn bộ con người nhà thơ trong cuộc đời thực (ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ, hành động, nghề nghiệp, những mối quan hệ gia đình và xã hội…). Còn cái tôi trữ tình chỉ là sự hiện diện bộ mặt tinh thần của nhà thơ trong tác phẩm thơ ca. Cái tôi nhà thơ được nghệ thuật hoá theo quy luật sáng tạo nghệ thuật, cái tôi trữ tình trình bày với những sắc thái thẩm mỹ phong phú hơn, nhưng chủ yếu vẫn là hình bóng, là sự vang vọng của tâm hồn và cuộc đời nhà thơ. Cái tôi có vai trò quan trọng trong thơ với tư cách là trung tâm để bộc lộ tất cả những suy nghĩ, tình cảm bằng một giọng điệu riêng, nhờ vậy làm nên cái tôi độc đáo không lẫn giữa nhà thơ của tác giả này với nhà thơ của tác giả khác. Dù ở dạng nào, ở tư thế khẳng định trực tiếp (tôi, ta, chúng tôi, chúng ta,…) hay cách ẩn mình (vô nhân xưng) thì người đọc bao giờ cũng nhận ra cái tôi đang đối thoại hay độc thoại với cuộc đời, vẫn mang dấu ấn của chủ thể sáng tạo. 1.3. Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều Thơ Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986, có một sự chuyển động rất phong phú. “Cái tôi” như bừng tỉnh, “cái tôi” ý thức về mình, về những vấn đề phong phú của cuộc đời. Con người trở nên phức tạp và được soi sáng trên nhiều bình diện. Sau năm 1975, bên cạnh những gương mặt thơ xuất hiện từ trước cách mạng, trải qua hai cuộc kháng chiến như: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh,.. những nhà thơ của thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, trưởng thành Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 15
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp trong lửa đạn chiến tranh như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Ý Nhi, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Thanh Thảo,… Sau đó là một loạt cây bút mới thuộc thế hệ đầu tiên của thời bình: Nguyễn Nhật Ánh, Lê Thị Kim, Bùi Chí Vinh, Trương Nam Hương, Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Quang Thiều,… làm nên một dòng thơ bốn thế hệ trong sự chuyển giọng bắt nhịp vào một giai đoạn mới của thơ ca dân tộc. Cuối thập kỷ 80 còn có sự trở về của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng,… với những thi phẩm gây xôn xao dư luận, phá vỡ không khí tù đọng của đời sống thơ lúc đó. Tiếp đó là hiện tượng Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Quang Thiều. Đầu thế kỷ XXI, làn sóng thơ trẻ làm người đọc bối rối trước những cách tân táo bạo, lạ lẫm của các cây bút: Nguyễn Quyến, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quốc Chánh, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Trần Nguyễn Anh,… mỗi người một giọng điệu, một tiếng nói khác nhau nhưng điểm chung là sự khẳng định cái tôi và những nỗ lực làm mới thơ Việt Nam. Diện mạo thơ Việt Nam sau năm 1975 có nhiều biến đổi. Các nhà thơ đã bắt đầu ý thức đối thoại với quan niệm thơ trước đó. Suốt 10 năm sau khi chiến tranh kết thúc, thơ ca tiếp tục quán tính cũ, tiếp tục âm hưởng sử thi. Khi chạm vào đời sống đầy biến động của thời kỳ đổi mới, cái tôi sử thi có xu hướng nhạt dần. Thay vào đó là cái tôi trữ tình thế sự và đời tư. Có thể nói, chưa bao giờ nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân, nhu cầu đi tìm một giọng điệu riêng lại cấp bách như lúc này. Sự vận động, biến đổi của cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975 kéo theo sự thay đổi các hình thức thể hiện, từ: giọng điệu, hình ảnh, ngôn ngữ, cảm xúc… Đó là sư đổi mới toàn diện hay chính xác hơn là đổi mới tư duy nghệ thuật. Chưa bao giờ khát vọng tìm kiếm một giọng điệu riêng lại mạnh mẽ như giai đoạn này. Các nhà thơ tuy mỗi người một kiểu, tuy chưa định hình một phong cách rõ rệt nhưng đều cố gắng Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 16
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp có tiếng nói riêng của mình. Đó là cái táo bạo nồng nàn của Phạm Thị Ngọc Liên, chất lý trí đời thường của Đỗ Minh Tuấn, cái hư ảo xa xăm của Dương Kiều Minh… Đặt trong bối cảnh đó, Nguyễn Quang Thiều nổi lên là một cây bút tiên phong tìm kiếm một tiếng nói riêng. Trong bài “Song thoại với cái mới của thơ hôm nay”, Trần Vũ Khang cho rằng: “Nguyễn Quang Thiều phải được xem như cái đỉnh bất ngờ nhô lên giữa ngọn đồi… đây là giọng thơ lần đầu có mặt tại Việt Nam, và nó được tiếp nhận đầy sáng tạo. Nó tác động mạnh tới những cây bút thế hệ mới phía Bắc đến nỗi có thể vạch ra ranh giới nhóm làm thơ theo Thiều và nhóm làm thơ khác Thiều”[60]. 1.3.1. Cái tôi khát vọng tìm kiếm Hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều là một sự nỗ lực xác lập cái tôi. Giã từ “Ngôi nhà mười bảy tuổi” của những hồi ức, kỷ niệm êm ả, ngọt ngào đậm màu cổ tích, cái tôi ký ức của nhà thơ đã thâm nhập và hoá thân vào đời sống thực tại. Với "Sự mất ngủ của lửa", biên độ cảm xúc của Nguyễn Quang Thiều đã được mở rộng. Thế giới không được tái tạo bằng ký ức nữa mà được chiêm ngưỡng, khám phá chính trạng thái hiện tại của nó. Nếu “Ngôi nhà mười bảy tuổi” là những cảm xúc mơ mộng được diễn tả bằng một bút pháp truyền thống thì "Sự mất ngủ của lửa" là những suy tưởng mạnh mẽ, trần trụi, hừng hực sức sống của đời sống hiện đại. Điều này đã tạo nên sự thay đổi đột ngột trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều. Bứt phá khỏi sự êm mượt truyền thống, Nguyễn Quang Thiều đã làm “ngầu” lên phù sa thơ mình bằng cách nhìn mới, “lạ hoá” những đối tượng vốn quen thuộc trong đời sống bằng những suy tưởng mới, những liên tưởng bất ngờ tạo nên ấn tượng mạnh đập vào trực giác của người đọc. Cái tôi trữ tình trong "Sự mất ngủ của lửa" đã thâm nhập, hoá thân vào thực tại, nhưng cái tôi ấy nhận ra đời sống hiện đại, đời sống vật chất quá nhiều sự xô bồ, hỗn tạp đã bóp méo những giá trị tinh thần, những vẻ đẹp tâm Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 17
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp hồn của con người. Vì vậy, cái tôi ấy khao khát trở lại giá trị nguyên sơ của tâm hồn, nỗ lực tạo ra một hiện thực mới và nuôi dưỡng hiện thực đó bằng giá trị tinh thần mới. Nguyễn Quang Thiều đã bày tỏ quan niệm của mình về thi ca: “Làm mới lại những gì đã cũ, làm sống lại những gì đã chết”. Theo anh, thế giới này vốn đã tồn tại như vậy, không có điều gì là mới, chỉ có cách nhìn mới của con người về thế giới mà thôi. Và sứ mệnh của nhà thơ là phải kết nối tất cả vật thể trên thế giới này (cỏ cây, mây trời, thú vật, côn trùng,…). Với anh, vẻ đẹp, sự kỳ diệu nằm ở những điều bình dị nhất. Nhà thơ phải làm hiện lên vẻ đẹp ấy. Khai mở - đó chính là sứ mệnh lớn nhất của nhà thơ. Quan niệm này chi phối cảm xúc, tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều trước hết là cái tôi khát khao đi tìm cái đẹp. Cái tôi ấy bám lấy cuộc sống, tìm kiếm vẻ đẹp diệu kỳ trong những gì thân thuộc nhất. Cái đẹp có lúc nằm ở một trạng thái giản dị nhất hay ở một chuyển động thô sơ nhất. Trong bài thơ “Cái đẹp”, nhà thơ đã miêu tả một hành trình đầy gian nan và thử thách: Trên con đường gồ ghề Gió lạnh gào thét Con bò cắm mặt bước … Con bò nguyền rủa con đường quá dài Người đàn ông nguyền rủa con bò đi quá chậm Người đàn bà lặng lẽ quàng lại khăn Che bớt gương mặt. Nguyễn Quang Thiều đã dựng lên một hành trình nặng nhọc trên con đường gồ ghề, trong rét buốt, gió lộng “người đàn ông chân đất” đẩy chiếc xe bò chở một người đàn bà đẹp, trên thùng xe có đống đá. Người đàn ông đã Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 18
- Luận văn thạc sĩ Lê Thị Bích Hợp không nhận ra cái đẹp, lầm lũi “cúi rạp đẩy xe” vì thế con đường hay cuộc hành trình của anh ta trở nên một gánh nặng, một sự đày đoạ đáng nguyền rủa. Cuộc sống thực tại với những nỗi nhọc nhằn đã làm con người mất đi sự nhạy cảm với cái đẹp. Thực chất, cái đẹp không xa lạ, không bí ẩn với chúng ta mà do chúng ta không biết cảm nhận nó, phải làm cho nó “biểu lộ”. Đó là một triết lý chìm ẩn mà thi sĩ muốn gửi đến người đọc. Bài thơ “Chuyển động” cũng thể hiện quan niệm của nhà thơ về cái đẹp. Cái đẹp được khám phá từ một khoảnh khắc kì diệu của đời sống. Bầy ốc sên trong cách nhìn của thi sĩ hiện lên đẹp đẽ và kì vĩ. Sự chuyển động của bầy ốc sên “trong đêm trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ” hiện ra như một đêm “vũ hội”: Như thành phố vùi trong lòng đất tự xa xưa giờ thức dậy. Bầy ốc sên bò qua vườn trong ánh trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ. Những chóp vỏ chói sáng như hạt kim cương đính trên vương miện nữ hoàng đêm dạ hội. Những tấm thân mềm và ướt lướt đi trong êm ái rợn người. Đôi râu ăng ten phóng lên bắt những âm thanh xa lạ. Ngôn ngữ bí ẩn nào đang hạnh phúc hay đau khổ gọi bầy sên. … Bầy ốc sên đã giấu mình trong những gốc chuối, những bụi gai. Giờ thức dậy dưới ánh trăng và ra đi lặng lẽ. Khu vườn này là quê hương chúng, hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa. Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi tìm lại quê hương. Dù thế nào tôi vẫn muốn hát lên một bài ca. Bởi sự ra đi của chúng đẹp làm sao, như một cơn mơ, như một đêm vũ hội. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, mọi sự vật đều có linh hồn, đều được nhìn theo chiều hướng chuyển động. Đời sống vốn thô nháp, xấu xí, những mảnh vườn đầy lá rụng, những gốc chuối bị bỏ quên bỗng vươn mình đứng dậy. Sự ra đi của bầy ốc sên trong cách nhìn của nhà thơ hiện lên một vẻ đẹp kì vĩ. Chúng ra đi để tìm kiếm một cuộc sống hoàn hảo hơn. Bầy ốc sên trở Tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều qua các tập thơ từ 1990 đến 2000 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 302 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 153 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 143 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 170 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 157 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 121 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 62 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn