intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hoá

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:182

36
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là chỉ ra được những yếu tố văn hóa, cũng như mối quan hệ giữa văn hóa văn học, đặc biệt là những hiện tượng văn hóa tiêu biểu trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh. Điều này góp phần tạo nên thành công cho văn xuôi của tác giả trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó khẳng định tài năng độc đáo và những cống hiến hữu ích của Trần Thanh Cảnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hoá

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thu Hạnh VĂN XUÔI CỦA TRẦN THANH CẢNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thu Hạnh VĂN XUÔI CỦA TRẦN THANH CẢNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 822 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI THANH TRUYỀN Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của mình. Người cam đoan NGUYỄN THỊ THU HẠNH
  4. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS.TS. Bùi Thanh Truyền - người thầy đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Ngữ văn và Phòng Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hạnh
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1  Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG GHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ VĂN XUÔI CỦA TRẦN THANH CẢNH ......................................................................................................17  1.1. Hướng tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học ..........................................17  1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn học ...................................................................17  1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .......................................................21  1.1.3. Tính khả dụng của việc nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại từ góc độ văn hóa .........................................................................................24  1.2. Nhà văn Trần Thanh Cảnh với những sáng tác đậm tính văn hóa....................27  1.2.1. Cuộc đời một dược sĩ mê văn ....................................................................27  1.2.2. Hành trang văn chương Trần Thanh Cảnh .................................................30  1.2.3. Chỉ dấu văn hóa – nét riêng của trang văn Trần Thanh Cảnh....................34  Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................38  Chương 2. NỘI DUNG PHẢN ÁNH TRONG VĂN XUÔI CỦA TRẦN THANH CẢNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ......................................39  2.1. Cảm thức về tên làng, tên xã trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh ................39  2.1.1. Vẻ đẹp của tên làng ....................................................................................39  2.1.2. Ký ức về tên làng trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh ...........................40  2.2. Cảm thức về vẻ đẹp thuần phong mĩ tục trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh ..................................................................................................................44  2.2.1. Nét đẹp tâm hồn của người dân quê – sự tiếp biến truyền thống văn hóa trong đời sống làng xã .......................................................................44  2.2.2. Phong tục lối sống sinh hoạt - nét đẹp truyền thống văn hóa trong làng xã ..............................................................................................................55 
  6. 2.3. Hủ tục - bi kịch của con người trong nhịp sống hiện đại..................................62  2.3.1. Hủ tục và số phận của con người làng Ngọc .............................................62  2.3.2. Bi kịch – sự tha hóa của con người làng Ngọc ..........................................71  Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................91  Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TRONG VĂN XUÔI CỦA TRẦN THANH CẢNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ......................................92  3.1. Nghệ thuật khắc họa chân dung những con người văn hóa ..............................92  3.1.1. Nhân vật thường dân ..................................................................................92  3.1.2. Nhân vật lịch sử .........................................................................................98  3.1.3. Nhân vật kì ảo ..........................................................................................103  3.2. Nghệ thuật tái hiện không gian, biểu tượng văn hóa ......................................108  3.2.1. Không gian văn hóa .................................................................................108  3.2.2. Biểu tượng văn hóa..........................................................................................122  3.3. Nghệ thuật sử dụng vốn ngôn ngữ đậm sắc màu văn hóa ..............................139  3.3.1. Ngôn ngữ giàu sắc thái địa phương .........................................................139  3.3.2. Ngôn ngữ tiếp biến hiệu quả văn học dân gian ...............................................143  Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................147  KẾT LUẬN ..............................................................................................................148  TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................150  PHỤ LỤC
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, hiện nay văn học, văn hoá đang trong xu thế toàn cầu hoá. Văn học chân chính luôn tìm thấy con đường phát triển của mình trong chiều hướng phát triển của văn hoá. Là một thành tố quan trọng của văn hóa, văn học đã góp phần tích cực trong việc giữ gìn, quảng bá hình ảnh, bản sắc dân tộc, qua đó khẳng định đặc trưng, vị thế của mình. Chính vì thế mà nhiều nhà nghiên cứu đã xem xu thế này là hướng hoạt động chủ đạo của văn học, văn hóa trong thời kì hội nhập, vì văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Edward Said rất có lí khi cho rằng: “Chẳng có nền văn hóa hay văn minh nào tồn tại biệt lập cả”. Nhận thấy tầm quan trọng của văn hoá, Hồ Chí Minh đã nói trong buổi triển lãm hội hoạ rằng:“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Lời của chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa, đăng trên báo cứu quốc số 1986 ngày 05/01/1952”(dẫn theo Nguyễn Thị Thọ, 2012), đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa. Hay Đảng ta trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội đã luôn quan tâm, chú trọng, đề cao vai trò, sức mạnh to lớn của văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và là nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước. Sau Đề cương văn hóa (năm 1943), Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương khóa VIII (năm 1998) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách của đời sống xã hội trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều chuyển biến. Gần đây nhất, ngày 09-6-2014, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
  8. 2 là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc cho Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (dẫn theo Nguyễn Huy Phòng, 2015). Xuất hiện trong làng văn không lâu, nhưng Trần Thanh Cảnh đã sớm được nhắc đến nhờ những trang viết đậm chất văn hóa của mình. Đó là Đại gia, Kỳ nhân làng Ngọc, Mỹ nhân làng Ngọc, cũng như Quái nhân làng Ngọc với chất liệu đời sống từ một làng quê trù phú về bức tranh của làng quê rất đổi gần gũi, thân thương với gốc đa, giếng nước, sân đình…, quanh năm hội hè, đình đám, tất cả đều ăm ắp không gian văn hóa Kinh Bắc. Đến với Đức Thánh Trần người đọc thấy được truyền thống đánh giặc của nhà Trần trong ba lần chiến thắng Nguyên Mông, đặc biệt thấy được những giá trị văn hóa của thời đại nhà Trần, cũng như hình ảnh Trần Quốc Tuấn trong võ nghiệp lẫy lừng và tình yêu bất diệt của người. Việc nghiên cứu về Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn Văn hóa, là một vấn đề rất cần thiết, bởi vì khi nói đến văn hóa mà đặc biệt là văn hóa Việt, nó có ý nghĩa thật sự. Như chúng ta được biết, một dân tộc có thể tồn tại hay không, mạnh hay yếu thì cũng nhờ vào nền văn hóa của dân tộc đó. Văn hóa dân tộc không thể trộn lẫn vào đâu được, nó luôn mang phẩm chất, tính cách của dân tộc đó. Cho nên, nếu đánh mất nền văn hóa của mình thì đồng nghĩa với việc xóa bỏ dân tộc mình, vì cái gốc của văn hóa là dân tộc. Nhận thức được tầm quan trọng văn hóa của đất nước, nên chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hóa. Thiết nghĩ đây là một đề tài rất bổ ích, nên chúng tôi đã chọn hướng tiếp cận văn học qua góc nhìn văn hóa. Vì văn học luôn thể hiện văn hóa, tương tác với văn hóa và chịu sự qui định của văn hóa. Văn xuôi Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới, đang nở rộ trên văn đàn. Trong đó, tiểu thuyết và truyện ngắn ở thế kỷ XXI đã phản ánh rõ nét và đầy đủ, trung thực về cuộc sống con người, và đã thể hiện rất sâu sắc và tinh tế về những giá trị văn hóa của dân tộc, của thời đại. Văn xuôi Việt Nam Hậu hiện đại đã xuất hiện nhiều cây bút mới như: Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái… đã đem đến cho văn học Việt Nam những ánh sáng mới, một gương mặt mới, gắn với tên tuổi đình đám. Song hành với các tài năng đang nở rộ đó thì sự xuất hiện tên tuổi nhà văn
  9. 3 Trần Thanh Cảnh như là một hiện tượng, vì những tác phẩm của ông, đặc biệt truyện ngắn đã hội tụ đủ tất cả giá trị văn hóa của Việt Nam nói chung và xứ Kinh Bắc nói riêng. Đồng thời truyện còn truyền tải đến được với bạn đọc những cảm xúc đáng quý, và luôn hàm chứa những vần đề nóng bỏng của xã hội, những giá trị đích thực của cuộc sống mà con người đã vô tình hay cố ý giẫm đạp lên nó. Tóm lại, văn xuôi của Trần Thanh Cảnh qua sự soi chiếu của góc nhìn văn hóa, là một hướng tiếp cận toàn diện và sâu sắc hơn về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật đối với sự nghiệp văn chương của ông. Là người Việt Nam, tôi luôn tự hào về những bản sắc văn hóa của dân tộc mình, vì văn hóa luôn hướng con người tới “chân – thiện – mỹ”. Cùng với sự phát triển của kinh tế, và những đổi thay trong cuộc sống, ít nhiều bản sắc văn hoá cũng bị biến đổi, mai một đi, cảm giác tiếc nuối, cộng với tình yêu và niềm tự hào về văn hoá truyền thống của dân tộc, nên chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hoá. Tính đến thời điểm này, những công trình nghiên cứu về văn xuôi Trần Thanh Cảnh nói chung và văn xuôi qua góc nhìn văn hoá của nhà văn vẫn còn ít. Hi vọng đề tài sẽ đem lại những điều bổ ích và ý nghĩa nhất cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu, đặc biệt nhận ra được những giá trị văn hoá trong những trang văn thấm đượm chất sử và vị đời của nhà văn Trần Thanh Cảnh. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Những nghiên cứu về mối quan hệ văn hóa và văn học Trên thế giới, việc nghiên cứu về văn hóa đã hình thành từ rất sớm. Hơn một thế kỷ nay văn hóa học đã trở thành một ngành khoa học có đối tượng và chức năng riêng, được nghiên cứu ở các nước như: Anh, Nga, Đức, Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Ở nước Anh, nhà nhân loại văn hóa được gắn với tên tuổi nổi tiếng là Edward Bernett Tylor, ông được coi là đại biểu cho thuyết tiến hóa văn hóa, có những đóng góp đặc biệt đối với nhân loại học và văn hóa học. Ông là người đầu tiên định nghĩa khoa học về văn hóa, xây dựng khái niệm văn hóa như là một di sản của lịch sử và xã hội. Định nghĩa của E. B.Tylor về văn hóa trong công trình “Văn hóa nguyên thủy” (Primitive Culture,1871), Tylor đã viết: “Khái niệm văn hóa hay văn minh dùng để chỉ định một toàn thể phức hợp bao gồm đồng thời những tri thức khoa
  10. 4 học, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cùng những khả năng và những tập quán khác mà con người đã thực hiện được với tư cách là một thành viên xã hội” (dẫn theo Nguyễn Thừa Hỷ, 2001), định nghĩa này đã được trích dẫn hầu hết trong các công trình nghiên cứu về văn hóa. Drimitive Culture (Văn hóa nguyên thủy), công trình gồm hai tập, tập đầu Origins of Culture (Nguồn gốc của văn hóa) nghiên cứu về nhiều lĩnh vực thuộc nhân loại học như sự tiến hóa xã hội, ngôn ngữ học và huyền thoại. Tập hai Religion in Primitive Culture (Tôn giáo nguyên thuỷ) chủ yếu lý giải về tín ngưỡng vật linh (animism). Công trình đã gây tiếng vang lớn và đưa E.B.Tylor lên hàng những nhà nghiên cứu có uy tín về văn hóa nguyên thủy, là cống hiến quan trọng nhất của E.B.Tylor vào kho tàng kiến thức của chúng ta về quá khứ tiền sử của loài người. Nhà nghiên cứu văn hóa người Mỹ, tên là Julian Haynes Steward, người đã đặt nền móng cho lý thuyết về sự biến đổi văn hóa (Cultural ecology), cũng như cho lý thuyết về sự biến đổi văn hóa (Culture change). Năm 1955, J.Steward xuất bản công trình: Lý thuyết về biến đổi văn hóa - phương pháp về tiến hóa đa hệ (Theory ò cuture change - The Methodalogy of Multilinear Evalution). Đặc biệt, nhà nghiên cứu nổi tiếng tên Mikhail Bakhtin, là một nhà triết học, nhà ngữ văn học xuất chúng đã có công trình nổi tiếng về văn hoá và văn hoá học rất có giá trị đó là: Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung Cổ và Phục Hưng”(1965), (dẫn theo Nguyễn Văn Hiệu, 2007). Ngoài ra, cơ sở triết học của văn hóa học có thể được tìm thấy trong truyền thống tri thức của Đức, đặc biệt là những quan điểm của Goeth, Herder, Windelband, Simmel, Spengler về văn hóa với tư cách là một hệ thống hữu cơ, bao gồm các hoạt động nhận thức và sáng tạo, gồm: chính trị, kinh tế, nghệ thuật, văn học, triết học, tôn giáo - tín ngưỡng... Ở các nước phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam theo xu hướng tiếp cận văn học từ văn hóa đã có từ rất lâu, như: Trần Trọng Kim đã nghiên cứu Truyện Kiều từ quan điểm Phật giáo. Hay Phạm Quý Thích đã bàn luận Kiều là “nhất phiếu tài tình thiên cổ lụy/ Tân Thanh đáo để vị thùy thương” (dẫn theo Nguyễn Cẩm Xuyên, 2013). Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam phần Một thời đại thi ca được khảo sát từ văn hóa phương Tây. Sau này Phan
  11. 5 Ngọc đã vận dụng những yếu tố văn hóa xã hội được ông thai nghén, ấp ủ từ những năm 60 của thế kỷ trước để viết nên cuốn sách đầu tay của mình: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, (viết xong năm 1965, xuất bản năm 1985); tiếp đó là Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới (1994). Đây là hai công trình tiêu biểu về khoa học xã hội và nhân văn của ông. Ông đã đề xuất một cách tiếp cận có tính chất thao tác luận mới đối với văn hóa. Là người luôn nổ lực tìm tòi, sáng tạo độc đáo. Ông chính là người đã soi đường, là tấm gương lao động tận tụy, gợi mở, khai thác cho các nhà nghiên cứu về sau này trên các lĩnh vực văn học, văn hóa học và ngôn ngữ học. Sau năm 1955, Tiếp bước Phan Ngọc là Trần Đình Hượu với công trình nghiên cứu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Trần Đình Hượu đã chỉ ra ảnh hưởng của nho giáo đối với văn hóa văn học Việt Nam rất đậm nét. Năm 1994, Trần Đình Hượu tiếp tục cho ra đời tác phẩm Đến hiện đại từ truyền thống, nói về việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc. Tác giả đã nghiên cứu văn học Việt Nam từ nho giáo và đã chỉ ra được đặc điểm của giai đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn. Ông cũng nêu ra những hình mẫu nhà Nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử), như là một giả thuyết. Điều này về sau, được Trần Ngọc Vượng trong nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (1995) cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình học. Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã lý giải những biểu tượng lấp lửng hai mặt trong thơ bà bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hóa (2003), cho rằng nghiên cứu văn học trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Phải nói chưa bao giờ hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa lại xuất hiện rất nhiều gương mặt tiêu biểu đến như vậy như Đặng Thai Mai, được xem là nhà văn hóa lớn, ông luôn suy tư trăn trở về tu dưỡng nghệ thuật. Trong tạp chí Tiền Phong của Hội văn hóa cứu quốc (số 11 ngày 15/05/1946, ông đã viết: “Sự tu dưỡng nghệ thuật là một nhật lệnh thượng khẩn trong tình thế văn hóa hiện nay…”. Rồi Đào Duy Anh, có những đóng góp về nghiên cứu văn hóa thật to lớn. Đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy: “Những viên đá tảng mà Đào Duy Anh ném xuống biển học không chìm mất tăm, mà đã tạo thành những cột mốc, đôi khi là những cột mốc đầu tiên, chỉ đường cho những người sau ra khơi”. Một trong những
  12. 6 công trình nghiên cứu lớn về văn hóa đó là cuốn sách: Việt Nam văn hóa sử cương (1938). Tiếp đến là Nguyễn Văn Huyên người cùng với học giả Đào Duy Anh đã đặt nền móng cho nghiên cứu văn hóa, văn minh Việt Nam. Các nghiên cứu của ông góp phần khẳng định người Việt Nam có tín ngưỡng của riêng mình thể hiện qua việc thờ Thành Hoàng. Và thông qua các nghiên cứu với phương pháp và cách tiếp cận khoa học của Nguyễn Văn Huyên về văn học dân gian, lễ hội truyền thống, kiến trúc, địa lý học, lịch sử,… người ta có thể nhận thấy tinh thần, tâm lý dân tộc Việt Nam. Cho nên nhà sử học Trần Quốc Vượng đã viết: “Ông là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ XX này”. Công trình nghiên cứu của ông: Sự thờ phụng thần thánh ở nước Nam (1944), Văn minh nước Nam (1944) và Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện kiều (1985). Trần Đình Hượu, nhà nghiên cứu về văn học và nho giáo trong văn học Việt Nam và lịch sử tư tưởng. Bên cạnh đó thì Phan Ngọc cũng là một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam lớn, có những công trình về văn hóa Việt Nam như: Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới (1994); Nho giáo và văn học Việt Nam cận đại (1995); Công trình nghiên cứu về văn hóa: Đến hiện đại từ truyền thống (1996). Nguyễn Văn Dân, với nhiều công trình nghiên cứu: Phương pháp luận nghiên cứu văn học (2004); Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa (2006); Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập (2009). Và chúng ta không thể không kể đến Trần Đình Sử, đã nghiên cứu về văn học và văn hóa tâm linh, cùng các bài viết về giá trị văn hóa của văn học Việt Nam. Có nhiều nhà nghiên cứu mở rộng phương pháp tiếp cận văn học qua góc nhìn văn hóa như: Văn học trong hành trình văn hóa, của Trường Lưu, Viện văn hóa và Nhà xuất bản (Nxb), Văn hóa thông tin, (1999); Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Trần Nho Thìn, Nxb Giáo dục, (2003); Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Hà Minh Đức, Nxb Khoa học xã hội, (2005); Gỉai mã văn học từ mã văn hóa, Trần Lê Bảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, (2011); Văn học trung đại Việt Nam và những vấn đề tâm linh, Lê Thu Yến (Chủ biên), Nxb Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, (2015); Tiểu thuyết phong tục Việt Nam, Cao Thị Ngọc Hà, Nxb Giáo dục Việt Nam, (2016); Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nguyễn Bá Thành, Nxb Đại học Quốc gia Hà
  13. 7 Nội, (2018); Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học, Trần Nho Thìn, Nxb Giáo dục Việt Nam, (2018). Về một số luận án, thạc sĩ và khóa luận như: Thơ mới từ góc độ văn hóa – văn học, luận án tiến sĩ, Hoàng Thị Huế, Học viện Khoa học xã hội, (2007); Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án tiến sĩ, Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện khoa học xã hội, (2013); Văn học kinh Bắc – Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm, Luận án tiến sĩ, Trần Đức Hoàn, Trường Đại học Thái Nguyên, (2013); Địa danh Bắc Ninh dưới góc nhìn văn hóa, luận án thạc sĩ, Nguyễn Văn Hải, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, (2014); Truyện ngắn Trần Thùy Mai từ góc nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ, Phạm Thị Thu Hương, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, (2015)… 2.2. Những nghiên cứu về sáng tác của Trần Thanh cảnh Nhà văn Trần Thanh Cảnh, hơn 50 tuổi mới bắt đầu cầm bút, tính đến thời điểm này, nhà văn đã xuất bản ba tập truyện ngắn Đại gia (2013), Kỳ nhân làng Ngọc 2015), Mỹ nhân làng Ngọc (2016), cùng với hai tiểu thuyết Đức Thánh Trần (2018) và Quái nhân làng Ngọc (2019). Phải nói những trang viết của nhà văn đã để lại những dấu ấn về cuộc sống, con người, đặc biệt là con người Kinh Bắc quê hương của ông rất đậm nét. Đã có rất nhiều bài viết, bài báo, bài phỏng vấn, tham luận, buổi tọa đàm về văn xuôi của Trần Thanh Cảnh. Hầu như các ý kiến đều đánh giá rất cao về tài năng, phẩm chất và giá trị văn chương của Trần Thanh Cảnh, kể cả truyện ngắn lẫn tiểu thuyết. Đúng như nhà văn Sương Nguyệt Minh đã nhận xét: “Trần Thanh Cảnh là cây bút mạnh về đời sống. Anh đã thu nạp hết hiện thực, cho đến một thời điểm thích hợp thì cho nó vở òa theo dòng chảy con chữ” (dẫn theo Quỳnh Anh, 2015). Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận xét: “Là một người từng trải và va vấp nhiều, Trần Thanh Cảnh đến với văn chương như một cứu cánh. Văn học trước thời kì đổi mới luôn chạy theo những cái bất thường, còn văn học sau đó tìm về những cái bình thường, hay cái đạo của đời thường và Trần Thanh Cảnh là người đã phát hiện ra một trong những cái đạo ấy” (dẫn theo Quỳnh Anh, 2015). Đọc những trang văn của Trần Thanh Cảnh,, chúng ta thấy nhà văn rất chú tâm vào những cái thường nhật, những mâu thuẩn, xung đột, phức tạp với bao quan hệ nhân sinh chồng chéo lên
  14. 8 nhau. Trong tập truyện ngắn Đại gia đầu tay của Trần Thanh Cảnh, Đoàn Lê Giang cũng đã nhận xét: “Văn viết hay, già dặn, câu chuyện đầy chất sống và nhiều suy tư”. Đặc biệt có giọng văn “hài hước, trần trụi, trải đời, sex, và có chút suy tư” (Trần Thanh Cảnh, 2013). Và “đằng sau những ngôn từ của thời hiện đại: sex, kinh doanh, chính trị, là câu của bản năng gốc: Tình, Tiền, Danh. Tính cách đại gia đa diện và đầy mâu thuẩn: tốt và xấu, cao cả và thấp hèn, lý tưởng và trần tục... đan xen với nhau” (Trần Thanh Cảnh, 2013). Nhận xét đánh giá về tập truyện ngắn “Kỳ nhân làng Ngọc” nhà phê bình Hoài Nam đã so sánh và thấy điểm tương đồng giữa việc nhà thơ Hoàng Cầm viết về tập thơ: Về kinh Bắc vào cuối năm 1959 đầu năm 1960, với việc nhà văn Trần Thanh Cảnh viết tập truyện ngắn Kỳ nhân làng ngọc trong hai năm 2013-2014 (in năm 2015, Nxb Trẻ được Hội nhà văn Việt Nam trao thưởng về văn xuôi 2015). Hoài Nam đã viết: “Đó là chỗ cả hai đã lấy hành vi viết như một phương cách để cân bằng với cái thực tại khắc nghiệt mà họ đang phải đối mặt hàng ngày: với Hoàng Cầm là tình cảnh bị câu thúc, bị kiêm tỏa trong cái án văn chương lớn vào bậc nhất nhì của thế kỷ XX, với Trần Thanh Cảnh là những sóng gió thương trường đang làm lao đao cả nền kinh tế mà ông vật vã tồn tại trong đó với tư cách một doanh nghiệp…”. Nhưng cũng có những điểm khác: “Hoàng Cầm viết về Kinh Bắc của tâm cảnh, trong một trạng thái hồi cố”, còn Kinh Bắc của Trần Thanh Cảnh là Kinh Bắc của thực cảnh, Kinh Bắc được viết trong một sự quan sát và tiếp xúc rất gần gủi, thậm chí khi ông đẩy Kinh Bắc về phía quá khứ xa thì Kinh Bắc ấy vẫn chịu sự chi phối của lập trường hiện tại. Chưa hết, Hoàng Cầm gọi tên Kinh Bắc khi viết về Kinh Bắc, còn Trần Thanh Cảnh lại gom tất cả những nhận biết về Kinh Bắc của mình mà nhào nặn, hư cấu, tạo thành một cái làng giả định mà ông đặt tên là làng Ngọc. Chỉ vài khía cạnh như vậy thôi, có lẽ là đủ để thấy rằng với tập truyện ngắn Kỳ nhân làng Ngọc, Trần
  15. 9 Thanh Cảnh đã cố gắng xác định một cái viết Kinh Bắc khác, khác với chính cái viết Kinh Bắc của người tiền bối đồng hương nổi danh trong làng thơ Việt” (Hoài Nam, 2016). Theo nhận định của nhà phê bình Hoài Nam, có lẽ mối bận tâm lớn nhất của Trần Thanh Cảnh qua những câu chuyện của mình là để nhận diện và khám phá theo cách riêng của ông về nhân vật, về làng quê của mình, thân thương, huê tình, ngọt ngào, bên cạnh đó những mãnh đời bất hạnh éo le bậc nhất xứ Kinh Bắc được đề cao. Làng quê mang sắc thái văn hóa riêng biệt, ngay cả về lối sống, và lẫn cách suy nghĩ. Nhà văn Hồ Anh Thái trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Kỳ nhân làng ngọc đã viết: “Gặp nhau, người ta có thể chìa ra cái danh thiếp, để tự giới thiệu. Nhà văn có lẽ chỉ nên chìa ra một tác phẩm của mình để tự giới thiệu. Danh thiếp của nhà văn chính là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Cái danh thiếp ấy của Trần Thanh Cảnh là truyện Kỳ nhân làng Ngọc” (Trần Thanh Cảnh, 2015). Và làng ngọc ấy không chỉ dừng lại là một làng ngọc cụ thể, nó được hư cấu để trở nên đa diện, đa sắc, đa thanh, và nó chỉ là cái cớ để tác giả tự do phóng bút, phóng chiếu cái nhìn của mình ra thế giới, ra thập loại chúng sinh. Độ nặng, sức dung chứa của câu chuyện do thế cũng vượt lên so với bản thân câu chuyện được kể. Bài viết “Mỹ nhân làng Ngọc – Viết cho phận đàn bà cay đắng”, đã nói lên vẻ đẹp của không gian văn hóa Kinh Bắc, ngồn ngộn chất huê tình. Làng Ngọc ấy cũng hiện lên bao số phận xót xa, cay đắng, nhưng những con người ấy vẫn tìm về cái đạo, cái nhân văn trong cuộc sống: “Làng quê bị suy đồi đến mấy nhưng tình người bao đời nay vẫn không thay đổi”; “Đọc Mỹ nhân làng Ngọc là một trải nghiệm hoang hoải đến kỳ lạ khi nỗi buồn của các nhân vật bị đẩy tới mức cùng cực. Nếu như kết thúc là một sự khởi đầu mới, thì dưới giọng văn của tác giả, dấu chấm hết chỉ lá màn kết để bi kịch tiếp theo được bắt đầu bằng hiện thực dồn nén cô đọng khiến người đọc xót xa” (Mỹ Lan, 2016).
  16. 10 Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoài Nam đã từng chia sẻ về tiểu thuyết Đức Thánh Trần: “Trần Thanh Cảnh khởi thảo Đức Thánh Trần sau khi đã cho ra mắt độc giả hai tập truyện ngắn mang đậm chất hoa tình, thậm chí là tinh thần “phóng dục”, khá đặc trưng cho đất và người Kinh Bắc. Cái “nếp” ấy vẫn được ông giữ lại trong cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tay này, qua những trường đoạn viết về ái tình hừng hực nhựa sống và tràn trề đam mê của những người đàn ông, đàn bà Đại Việt thế kỷ XIII”. Điều đặc biệt nữa là: “tất cả bút lực của tác giả chủ yếu là dành để thể hiện và ngợi ca những phẩm chất thần thánh của nhân vật, từ đó lý giải việc tại sao Hưng Đạo Đại Vương lại trở thành linh hồn, thành nguồn tập trung sức mạnh to lớn của quân dân Đại Việt trong cả ba lần chiến thắng trước quân xâm lược Nguyên Mông” (Trần Thanh Cảnh, 2018). Nguyễn Văn Hùng cũng đã khẳng định: “Trần Thanh Cảnh đã kiếm tìm cho mình một nẻo đi riêng. Nhà văn họ Trần đã lựa chọn tái hiện các sự kiện tiêu biểu nhất, phục hiện những chân dung ưu tú của thời đại. Ông đã biến các sự kiện khô khan được ghi trong sử sách thành những câu chuyện sống động, luận giải sâu sắc các vấn đề đặt ra trong lịch sử: Sự thăng trầm, lẽ tồn vong của dân tộc trong cơn biến động; Sự đồng lòng nhất trí muôn dân cùng tài năng, đức độ của người lãnh đạo tạo nên sức mạnh kỳ diệu, giúp đất nước vượt qua những thời khắc cam go; vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, số phận những sinh linh nhỏ bé, vô danh trong sự chuyển vần của thời cuộc, vấn đề kế sách bang giao với nước lớn để giữ được hòa hiếu lâu dài...” (Nguyễn Văn Hùng, 2018). Nhà văn Uông Triều, người đã cùng với nhà văn Trần Thanh Cảnh trong chuyến đi thực tế đã chia sẻ:
  17. 11 “Viết tiểu thuyết lịch sử là một sự hiểm nguy. Nhưng sự mạnh dạn, táo bạo kết hợp với những khảo cứu thực tiễn và các yếu tố dân gian đã giúp nhà văn Trần Thanh Cảnh làm nên Đức Thánh Trần. Chính những mối tình trong cuốn tiểu thuyết đã làm mềm mại đi những vấn đề lịch sử và khiến cho Trần Quốc Tuấn gần gũi với đời thường hơn. Anh đánh giá thành công nhất trong cuốn tiểu thuyết này là nhà văn đã dựng nên “Lễ hội mo nang” đời Trần, đó là lý giải và căn cứ cho những mối “huê tình” đậm đặc trong tác phẩm. Nhà văn đã đi trên con đường chênh vênh nhưng vẫn có điểm bám” (dẫn theo Minh Thư, 2015). Nhà văn Trần Thanh Cảnh đã tập trung nhiều bút lực nhất để diễn giải về câu chuyện võ nghiệp lấy lừng và tình yêu bất diệt của Trần Quốc Tuấn. Có thể nói tác giả đã xây dựng một Trần Quốc Tuấn của riêng mình, không lẫn với những nhân vật lịch sử hay hình tượng nghệ thuật trong nhiều sáng tác trước và cùng thời với nhà văn. Còn nhà phê bình Ngô Văn Gía, cũng đã nhận xét rất cao về tiểu thuyết Đức Thánh Trần: “Sự kết hợp giữa chính sử, quốc sử và tình sử của nhà văn Trần Thanh Cảnh. Chính sự pha trộn đó đã tạo ra âm hưởng hào sảng, mê dụ của tác phẩm. Bên cạnh đó là việc sử dụng ngôn ngữ trong những trường đoạn, lúc thì cao trào, khi thì tiết chế đã đem đến những cung bậc cảm xúc cho người đọc và làm hiển lộ chân dung vị tướng tài trong mọi hoàn cảnh” (Kim Nhung, 2018). Một khẳng định nữa, khi nghiên cứu về nhà văn Trần Thanh Cảnh, trong tiểu thuyết Đức Thánh Trần, không chỉ nói về võ nghiệp lẫy lừng, tình yêu bất diệt của Trần Quốc Tuấn, mà còn đề cập đến câu chuyện tình về công chúa triều Trần tên là An Tư, một công chúa có cuộc đời cũng như số phận đầy bí ẩn, khổ - nhục khi phải thực hiện sứ mệnh “Mỹ nhân kế” để giúp triều Trần trong việc đánh giặc Nguyên – Mông. Hoài Hương cũng đã chia sẻ: “Một “tình sử” trên trang viết có thể gây “sóng gió” cho chính tác giả, bởi ông diễn
  18. 12 tả một công chúa An Tư khác hẳn các hình ảnh trước đây trong các tác phẩm văn học trước đó, một phác họa chân dung cô Công chúa triều Trần sinh động và phóng khoáng như hiện thân của hình ảnh vũ nữ được khắc trên các phù điêu Champa, hay các bức tranh chạm gỗ hình trai gái giao hoan ở đình làng, các bức tranh tố nữ gợi cảm xuân-hạ-thu-đông..., với nhiều sắc trần tục hơn là thánh thiện khuê các” (Hoài Hương, 2018). Có thể nói các bài nhận xét, đánh giá, phẩm bình, nghiên cứu về sáng tác của Trần Thanh Cảnh tương đối phong phú về các ý kiến, Qua những lời phẩm bình đó, chúng ta càng thấy tài năng sáng tác của nhà văn Trần Thanh Cảnh hơn. 2.3. Những nghiên cứu đề cập đến văn hóa trong văn xuôi Trần Thanh Cảnh Vấn đề nghiên cứu đề cập đến văn hóa cho tới nay về truyện ngắn, cũng như tiểu thuyết của Trần Thanh Cảnh vẫn còn khiêm tốn, hạn chế. Phần lớn dừng lại ở mức độ chung chung, khái quát. Hoặc chỉ khai thác một vài khía cạnh, đặc điểm của một số tác phẩm riêng lẻ nào đó, nên chưa có cái nhìn cụ thể trong tổng quan về giá trị văn hóa mà Trần Thanh Cảnh truyền tải. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra được chỉ dấu riêng trong sáng tác của Trần Thanh Cảnh. Tác giả Nguyễn Văn Hùng là người đã dành nhiều bài nghiên cứu đề cập về văn hóa trong các sáng tác của Trần Thanh Cảnh. Bài viết về “Nét đặc sắc của Kỳ nhân làng Ngọc” đã khẳng định tập truyện ăm ắp không gian văn hóa Kinh Bắc, tất cả: “… đều lấy chất liệu từ làng Ngọc, một ngôi làng vùng Kinh Bắc trù phú, ở ven con sông Đuống hiền hòa, tựa vào dãy núi Thiên Thai mơ mộng, quanh năm diễn ra hội hè đình đám sôi động. Với nguồn chất liệu dồi dào, vô tận, Trần Thanh Cảnh tha hồ ngụp lặn, hít thở, nhào nặn, biến những nguyên liệu sống động thành các sinh thể nghệ thuật giàu sức sống. Như một người họa sĩ tài hoa, tác giả đã vẽ nên bức tranh làng quê Việt cổ truyền với những hình ảnh gần gũi, thân thuộc: gốc đa đầu làng,
  19. 13 cây gạo ven sông, rặng tre xanh mát mái đình rêu phong, đường làng quanh co, bờ đê lộng gió, bến nước trong vắt, hội hè linh thiêng…” (Nguyễn Văn Hùng, 2017). Với tiểu thuyết Đức Thánh Trần, Hoài Hương cũng đã nhận định: “Không chỉ viết về đời sống tình cảm của Trần Quốc Tuấn, tiểu thuyết Đức Thánh Trần còn kể một câu chuyện tình về một Công chúa triều Trần có số phận đầy bí ẩn. Trong chính sử chép về Công chúa An Tư chỉ có một dòng, tác giả đã dệt nên một câu chuyện về cuộc đời vinh - nhục của nàng trong sứ mệnh “mỹ nhân tâm kế” giúp triều Trần đánh giặc Nguyên Mông. Một “tình sử” trên trang viết có thể gây “sóng gió” cho chính tác giả, bởi ông diễn tả một Công chúa An Tư khác hẳn các hình ảnh trước đậy trong các tác phẩm văn học trước đó, một phác họa chân dung cô Công chúa triều Trần sinh động và phóng khoáng như hiện thân của hình ảnh vũ nữ được khắc trên các phù điêu Champa, hay các bức tranh chạm gỗ hình trai gái giao hoan ở đình làng, các bức tranh tố nữ gợi cảm xuân- hạ- thu- đông..., với nhiều sắc trần tục hơn là thánh thiện khuê các. Ngoài “Đức Thánh Trần”, rất nhiều nhân vật có thật trong lịch sử, xuất hiện trong tác phẩm đều là những chân dung vừa quen vừa lạ, khá khác biệt với cái nhìn quen thuộc như trước đây. Họ không chỉ là những “thiên tướng”, “thần tướng”, “dị tướng”… mà rất “đời”, bởi những phẩm chất bình dị, ngay cả kẻ ác cũng có nhân tính” (Hoài Hương, 2018). Đề tài Đặc điểm tiểu thuyết lịch sử Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh, (Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Võ Thị Bích Hân, Trường Đại học Văn Hiến, 2019) đã nghiên cứu những đặc điểm, tư tưởng tôn vinh giá trị truyền thống qua hình tượng nhân vật Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật để thấy được những giá trị văn hóa của dân tộc. Tuy nhiên để viết về công trình văn xuôi của Trần Thanh Cảnh qua hướng
  20. 14 tiếp cận văn hóa như đã nói ở trên, đến nay vẫn chưa có công trình riêng biệt nào nghiên cứu về văn xuôi Trần Thanh Cảnh qua góc nhìn văn hóa. Hầu như tất cả chỉ mới dừng lại những nhận định khái quát, đánh giá sơ bộ và chủ yếu đi sâu vào ý tưởng, cảm xúc, cũng như tâm huyết, những dấu ấn của nhà văn Trần Thanh Cảnh qua những sáng tác của ông. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hóa, với hy vọng sẽ tìm hiểu những vấn đề sâu sắc về giá trị, quy mô, đặc biệt là giá trị văn hóa trong sáng tác của Trần Thanh Cảnh cũng như những thành công, những đóng góp của nhà văn trong văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là chỉ ra được những yếu tố văn hóa, cũng như mối quan hệ giữa văn hóa văn học, đặc biệt là những hiện tượng văn hóa tiêu biểu trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh. Điều này góp phần tạo nên thành công cho văn xuôi của tác giả trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó khẳng định tài năng độc đáo và những cống hiến hữu ích của Trần Thanh Cảnh trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ làm rõ về cách tiếp cận văn hóa và văn xuôi Trần Thanh Cảnh, bằng cách chỉ ra những dấu hiệu, phương diện, phương thức biểu hiện, cũng như các cảm quan văn hóa trong văn xuôi Trần Thanh Cảnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hóa. Góc nhìn của luận văn là những yếu tố, những đặc điểm văn hóa trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Một số vấn đề được đặt ra trong văn xuôi của Trần Thanh Cảnh: như vấn đề phong tục, tín ngưỡng, tâm linh, lối sống cộng đồng làng xã, cũng như các biểu tượng và đặc trưng ngôn ngữ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi sẽ khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi của Trần Thanh Cảnh. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi khảo sát các tác phẩm ở hai thể loại là truyện ngắn và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0