intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Những đổi mới của thơ mới lãng mạn 1932-1945 nhìn từ phương diện thể loại

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

41
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn hướng đến việc mô tả, lý giải và khẳng định: Thơ mới có những đổi mới sâu sắc về mặt hình thức thơ trên phương diện thể loại so với những hình thái thơ trƣớc Thơ mới. Qua đó nêu lên ý nghĩa của sự đổi mới đó trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Những đổi mới của thơ mới lãng mạn 1932-1945 nhìn từ phương diện thể loại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN ĐỨC MINH NHỮNG ĐỔI MỚI CỦA THƠ MỚI LÃNG MẠN 1932 – 1945 NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN ĐỨC MINH NHỮNG ĐỔI MỚI CỦA THƠ MỚI LÃNG MẠN 1932 – 1945 NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN THỂ LOẠI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: Mã số: 60.22.01.21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức Hà Nội – 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự hƣớng dẫn khoa học của PGS. TS Hà Văn Đức. Các nội dung nghiên cứu và các kết quả trong đề tài này là hoàn toàn trung thực và chƣa công bố dƣới bất cứ hình thức nào trƣớc đây. Những dẫn chứng phục vụ cho việc so sánh, phân tích đƣợc chính tác giả luận văn thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trƣớc đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Hà Nội, ngày 3 tháng 3 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Đức Minh
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Hà Văn Đức, ngƣời thầy đã hƣớng dẫn tận tình, đƣa ra những định hƣớng, góp ý, nhận xét trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc Gia Hà Nội tham gia giảng dạy các môn học trong chƣơng trình đào tạo Thạc sĩ Văn học đã cung cấp kiến thức nền tảng cho luận văn. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những ngƣời thân trong gia đình đã luôn động viên, hỗ trợ và tạo động lực cho tôi trong quá trình tham gia chƣơng trình học. Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn học viên lớp cao học Văn học K58- 2013 đã cùng tôi trao đổi, chia sẻ các kiến thức trong quá trình cùng học tập và làm luận văn. Dù có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn Những đổi mới của Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 nhìn từ phƣơng diện thể loại không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn. Tôi hi vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận văn sẽ trở thành nguồn tƣ liệu có giá trị đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu Thơ mới ở bậc Phổ thông và Đại học. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 3 tháng 3 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Đức Minh
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 3 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 4 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................... 13 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 13 5. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 13 Chƣơng 1: THƠ MỚI TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM ..................................................................................................... 14 1.1. Bối cảnh ra đời Thơ mới ....................................................................... 14 1.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị............................................................... 14 1.1.2. Bối cảnh văn hóa xã hội.................................................................. 15 1.2. Thơ mới đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa văn học ..... 17 1.2.1. Đổi mới văn học là nhu cầu bức thiết ............................................. 17 1.2.2. Vai trò của Thơ mới trong tiến trình hiện đại hóa văn học ............ 19 Chƣơng 2: NHỮNG ĐỔI MỚI CỦA THƠ MỚI LÃNG MẠN 1932 – 1945 TRÊN PHƢƠNG DIỆN THỂ THƠ, CÂU THƠ ............................................ 25 2.1. Sự cách tân các thể thơ truyền thống .................................................... 26 2.1.1. Từ thể thất ngôn trong thơ truyền thống đến thơ 7 tiếng trong Thơ mới.... 26 2.1.2. Những biến đổi của thể thơ 8 tiếng................................................. 34 2.1.3. Sự cách tân của thể thơ 5 tiếng ....................................................... 37 2.1.4. Những đổi mới của thể lục bát trong Thơ mới ............................... 39 2.2. Những thể nghiệm mới ......................................................................... 44 2.2.1. Thơ tự do ......................................................................................... 44 2.2.2. Những dạng thức biểu đạt mới ....................................................... 46 1
  6. Chƣơng 3: NHỮNG ĐỔI MỚI CỦA THƠ MỚI LÃNG MẠN 1932 – 1945 TRÊN PHƢƠNG DIỆN NGÔN NGỮ THƠ .................................................. 53 3.1. Quá trình chuyển hóa từ thơ trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu nói...... 54 3.2. Sự tăng cƣờng khả năng biểu đạt và giá trị biểu cảm của ngôn ngữ thơ ca .. 73 3.3. Quá trình kiến tạo nhạc tính của Thơ mới ............................................ 78 3.3.1. Quá trình kiến tạo giai điệu trong Thơ mới .................................... 80 3.3.2. Quá trình kiến tạo nhịp điệu trong Thơ mới ................................... 82 3.3.3. Quá trình kiến tạo âm điệu Thơ mới............................................... 86 3.4. Sự trở về với ngôn ngữ thơ truyền thống .............................................. 89 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thơ mới là một phong trào, một trào lƣu lớn trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Những thành tựu của Thơ mới không chỉ là minh chứng sống động cho những biến cải lớn lao của cả một thời đoạn văn học mà đến lƣợt mình, chính Thơ mới đã tạo ra những tiền đề và động lực cho sự phát triển sau này của thơ ca hiện đại. Việc nghiên cứu Thơ mới cũng trải qua nhiều thăng trầm nhƣ chính đối tƣợng mà nó tiếp cận. Cho đến nay, vấn đề tiếp cận Thơ mới nhƣ là đối tƣợng của văn học sử và lý luận văn học đã có một lịch sử nghiên cứu dày dặn. Việc giới thiệu, phê bình Thơ mới đã có từ trƣớc năm 1945 với các bài diễn thuyết, “bút chiến” trên một số báo, tạp chí và một số công trình đáng chú ý. Tuy nhiên, có thể nói từ 1986 đến nay, các bài viết, công trình nghiên cứu, chuyên luận về Thơ mới thực sự nở rộ. Các công trình trên tiếp cận về tác phẩm, tác giả hay toàn bộ phong trào Thơ mới từ nhiều góc độ khác nhau nhƣ thi pháp hay mối quan hệ văn hóa – văn học. 1.2. Việc nghiên cứu về thể loại Thơ mới đã đƣợc đề cập trong một số bài viết tuy nhiên vấn đề nghiên cứu những đổi mới về khía cạnh nghệ thuật của Thơ mới lãng mạn 1932-1945 nhìn từ phƣơng diện thể loại chƣa đƣợc tập hợp trong một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh. Nghiên cứu Thơ mới lãng mạn 1932-1945 với những đổi mới nghệ thuật nhìn từ phƣơng diện thể loại trong một cái nhìn bao quát cả chặng đƣờng lịch sử từ khi Thơ mới bắt đầu hình thành, phát triển cho đến khi phân hóa và kết thúc là một đề tài khoa học vừa có nghĩa lý luận vừa có giàu tính thực tiễn. 1.3. Nghiên cứu Thơ mới trong bối cảnh văn hóa xã hội mà nó ra đời để thấy rằng đổi mới văn học là một nhu cầu bức thiết và sự hình thành, vận động của cái tôi trữ tình; sự đổi mới về thể thơ, ngôn ngữ thơ là một xu thế tất yếu trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Hƣớng nghiên 3
  8. cứu này sẽ giúp chúng ta đặt đối tƣợng trong một tƣơng quan rộng với cái nhìn bao quát để tiến tới nhận diện, lí giải các đặc điểm, yếu tố cấu thành của từng chặng đƣờng Thơ mới với những thành công và cả hạn chế của nó so với những thể loại thơ truyền thống trƣớc Thơ mới và những hình thức thơ ca sau Thơ mới. Đây chính là những tiền đề để tiến tới việc phác thảo tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc qua một lát cắt đó là Thơ mới với một cái nhìn khách quan, khoa học. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Trƣớc năm 1945 Bài thơ Tình già của Phan Khôi đƣợc đăng trên tờ Phụ nữ tân văn vào ngày 10 tháng 3 năm 1932 đã đánh dấu sự ra đời của phong trào Thơ mới. Đây cũng là giai đoạn có những nghiên cứu đầu tiên về Thơ mới. Ngoài việc liên tục in Thơ mới, các báo ở cả miền Bắc và miền Nam nhƣ Phụ nữ tân văn, Phong hóa… đã cho đăng các bài “bút chiến” tranh luận thơ cũ – Thơ mới cũng nhƣ một số bài giới thiệu, phê bình Thơ mới. Trên Phụ nữ Tân văn (số 153, tháng 6/1932), là nhà thơ hƣởng ứng Thơ mới nhiệt tình, Lƣu Trọng Lƣ coi việc làm của Phan Khôi có ý nghĩa mở ra “lối thoát” cho thơ: “một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đang triền miên trong cõi chết”. Trả lời ý kiến cho rằng Thơ mới bất chấp mọi luật lệ thơ, Thế Lữ viết: “Các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật. Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những ngƣời khúm núm thi thố cái tiểu xảo của mình. Nhƣng thơ phải có thứ luật cao siêu hơn, thiêng liêng hơn: mình biểu lộ cảm tƣởng tâm trạng mình một cách êm ái, tha thiết hay hùng tráng du dƣơng theo cái bản lĩnh của riêng mình, không bao giờ chịu theo tƣ tƣởng tình cảm của ngƣời khác” (Phong Hóa, số 148, tháng 5/1935). Các ý kiến khác của Nguyễn Thị Kiêm trong các buổi diễn thuyết, ý kiến của Lê Tràng Kiều, Nhất Linh, Kiều Thanh Quế, Hoa Bằng, Lam Giang, Hoài Thanh,... trả lời qua 4
  9. lại trên các báo cũng đã lấy vấn đề thể loại của Thơ mới để bàn luận. Nổi bật là ý kiến của Nhất Linh về Sự cân nhắc chữ nghĩa trong thơ cũ và Thơ mới trên Phong Hóa, số 69, tháng 10/1933: “Nhà làm thơ cũ cân nhắc từng chữ cốt ý để câu văn đƣợc chỉnh, đọc lên nghe cho kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo. Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ để đo đắn xem chữ nào diễn đạt đƣợc cái cảm của mình, tả đƣợc cái ý của mình đúng hơn, xem phải cần đến chữ nào, câu Thơ mới khả dĩ diễn đƣợc sự rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn”. Trên tạp chí Tri Tân, số 68, tháng 10/1942, Lam Giang khảo luận về luật Thơ mới, tác giả đi vào các yếu tố: cắt mạch, vần, thể bình trắc. Ở các ý kiến trên, phƣơng diện thể loại đƣợc nói tới chủ yếu là sự chuyển dịch từ thơ cũ sang thơ mới. Thời kỳ này có một số công trình dài hơi đáng chú ý là: Việt Nam thi ca luận (Lƣơng Đức Thiệp), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh, Hoài Chân), Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan), Việt Nam văn học sử yếu (Dƣơng Quảng Hàm). Hoài Thanh cho rằng phong trào Thơ mới là cả một cuộc cách mạng về thể loại: “Phong trào Thơ mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xƣa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó mà thêm bền vững” [63, tr. 42]. Dƣơng Quảng Hàm định nghĩa Thơ mới: “Vậy Thơ mới là lối thơ không theo quy củ của lối thơ cũ nghĩa là không hạn số câu, số chữ, không theo niêm luật, chỉ cần có vần và điệu” [38, tr. 429]. Các công trình trên đã manh nha đề cập đến những đổi mới nghệ thuật của Thơ mới lãng mạn 1932-1945 trên phƣơng diện thể loại ở việc phân biệt giữa thơ cũ – Thơ mới. 2.2. Từ 1945 đến 1975 2.2.1. Miền Bắc Do hoàn cảnh lịch sử nên những nghiên cứu về Thơ mới ở miền Bắc thời kỳ này không nhiều, sự đánh giá chƣa thực sự thỏa đáng, chủ yếu đứng trên quan điểm xem Thơ mới là tiêu cực, ủy mị, thiếu ý chí đấu tranh. Là 5
  10. ngƣời hết lời ca ngợi Thơ mới ở giai đoạn trƣớc 1945 với cuốn Thi nhân Việt Nam nhƣng trong tập Nói chuyện thơ kháng chiến (1951), Hoài Thanh đã kết tội cái buồn, cái cô đơn của Thơ mới: “Thấy buồn, thấy cô đơn, con ngƣời trong thơ cũ (chỉ Thơ mới trƣớc Cách mạng) tìm đƣờng đi trốn. Nhƣng trốn đi đâu cũng không hết buồn, tủi và bơ vơ, cũng nhƣ trong thực tế trốn đi đâu cũng không thoát khỏi cái ách nặng nề của thực dân. Những vần buồn tủi bơ vơ ấy là những vần thơ có tội: nó xui con ngƣời ta buông tay cúi đầu (do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Sự thật khách quan là thế” [64, tr. 10]. Khi viết Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng, Vũ Đức Phúc đã đi tìm nguyên nhân của cái buồn trong Thơ mới và cho rằng đó là những yếu tố xấu về tƣ tƣởng: “...Nhƣng tại sao Thơ mới thƣờng “buồn”? Vì nhiều lẽ. Là vì anh nghèo khó nên anh không thể thực hiện đƣợc cái lí tƣởng tƣ sản của mình, cái lí tƣởng đầy những vàng son châu báu, lụa là, hoa bƣớm, rƣợu - nhƣ hình ảnh của thơ các anh. Thơ tình của những nhà Thơ mới dày dạn với cuộc đời, phần nhiều là việc thi vị hóa những mối tình thoảng qua, ngắn ngủi, nói thẳng là cái tình vụng trộm kiểu tay ba, tình yêu giang hồ, việc làm sa ngã một thời gian mấy cô gái lƣơng thiện, nghèo nàn, ngây thơ. Nhƣng thƣờng thƣờng anh không có điều kiện để yêu và hƣởng lạc nên hay ƣớc mơ. Do đó thơ anh thƣờng thể hiện những giấc mơ về cõi tiên, về quá khứ, ở đó có đủ rƣợu, gái đẹp, hoa, yến tiệc, quần áo đẹp nhƣ tiên, nhƣ cuộc đời của Đƣờng Minh Hoàng, Trụ Vƣơng, Dƣơng Qúy Phi, Đát Kỷ. Nhƣng mơ mãi sao đƣợc nên buồn... Bài thơ mới nào khá nhất cũng có yếu tố xấu về tƣ tƣởng” [58, tr. 76]. Các ý kiến trên chủ yếu tiếp cận nội dung tƣ tƣởng Thơ mới ở góc độ phê phán và quy kết. Thơ mới trở thành đối tƣợng không còn đáng đƣợc ƣu tiên nghiên cứu, do vậy, việc nghiên cứu Thơ mới từ phƣơng diện thể loại thời kỳ này không đạt đƣợc những kết quả nhƣ mong muốn. 6
  11. Tuy số lƣợng công trình ít, nhƣng ở giai đoạn này, mặt hình thức của Thơ mới cũng đã đƣợc các tác giả lƣu tâm và nghiên cứu. Ba công trình tiêu biểu viết về Thơ mới thời kì này là: Phong trào “thơ mới” 1932 – 1945 của Phan Cự Đệ (1966); Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức (1969); Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức (1974). Trong công trình Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại, khi viết về sự phát triển của hình thức thơ ca Việt Nam, trong đó có đề cập đến hình thức nghệ thuật của Thơ mới, Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức đã khẳng định: “Phong trào Thơ mới đã đem lại cho bộ mặt thơ ca nhiều đổi mới đáng kể, nhƣ về các thể thơ về sự biểu hiện phong phú của các trạng thái cảm xúc hay về những yếu tố mới trong ngôn ngữ thơ ca” [56, tr. 113]. Đề cập đến ngôn ngữ Thơ mới, các tác giả chỉ ra rằng: “Thơ mới cũng vận dụng nhiều cách sử dụng ngôn ngữ phong phú, từ những lối so sánh bình thƣờng đến các lối ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa” [56, tr. 116]. Về thể thơ, các tác giả đề cập đến “thể bốn từ”, “thể năm từ”, “thể bảy từ”, “thể tám từ”, “thể lục bát” [56, tr. 119]. Trong công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức đề cập đến “những hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ” nhƣ sau: “Phong trào Thơ mới những năm 30 bộc lộ rõ ràng những đặc điểm của trào lƣu thơ ca lãng mạn. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... những cái tôi khác nhau, mỗi ngƣời tự xây dựng cho mình một thế giới riêng biệt, một hòn đảo chơi vơi” [29, tr. 79]. Tác giả phân tích cách biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu nhƣ một nét đặc trƣng chung của các tác giả Thơ mới: “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu chi phối và biến tất cả mọi đối tƣợng khách quan thành chủ quan. Không có nhân vật trữ tình trong sự tồn tại khách quan với những phẩm chất riêng biệt của nó. Mọi nhân vật trữ tình thực chất chỉ là cái tôi trữ tình” [29, tr. 80]. Trong công trình Phong trào thơ mới, Phan Cự Đệ đã dành hẳn một chƣơng (chƣơng VI) để bàn về nghệ 7
  12. thuật của phong trào “Thơ mới lãng mạn”. Nói về thể thơ của Thơ mới, Phan Cự Đệ phân tích: “Thơ mới thực chất ra không phải là lối thơ tự do. Lúc đầu nó phá ra một cách phóng túng, nhƣng dần dần nó trở nên nhuần nhị và dừng lại ở một số thể thơ quen thuộc. Số chữ trong câu có thể từ hai chữ (Sương rơi) đến hơn mƣời chữ, nhƣng dùng nhiều nhất là lối thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ. Số câu trong bài không nhất định, thƣờng thƣờng mỗi bài chia làm nhiều khổ, mỗi khổ bốn câu” [24, tr. 168 - 169]. Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận: “Một trong những thành tựu khá quan trọng của Thơ mới là sự vận dụng nhạc điệu để diễn tả tình cảm. Nhạc điệu của Thơ mới là nhạc điệu quen thuộc của dân tộc. Nhƣng các nhà Thơ mới đã biết tiếp thu những thành tựu về nhạc điệu trong thơ Pháp và thơ Đƣờng” [24, tr. 171]. 2.2.2. Miền Nam Trong thời kì đất nƣớc tạm thời bị chia cắt làm hai miền, ở miền Nam, Thơ mới đƣợc đánh giá cao, đƣợc đƣa vào giảng dạy trong nhà trƣờng và việc nghiên cứu Thơ mới diễn ra khá sôi nổi. Các công trình tiêu biểu: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Phạm Thế Ngũ), Việt Nam thi nhân tiền chiến (Nguyễn Tấn Long), Khảo luận luật thơ (Lam Giang), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (Bùi Đức Tịnh), Việt văn (Lữ Hồ),... Trong công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, khi bàn về thể thơ của Thơ mới, Phạm Thế Ngũ đã nói đến “sự đổi mới về thể cách” nhƣ sau: “Trong quá trình phát triển, những thể thơ đƣợc khẳng định của Thơ mới là thể 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng”… Về sau thơ phá thể làm ra ngày càng ít, ngƣời ta tự nhiên đi vào mấy điệu đều đặn và cố định là 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ; lục bát về sau đƣợc đƣa lên chỗ danh dự, song thất lục bát bị sa thải, thơ hát nói biến thành lối thơ 8 chữ Thế Lữ khai trƣơng rồi trở thành một sở trƣờng của Xuân Diệu và những nhà viết kịch thơ sau này” [55, tr. 152-154]. Khi nói về sự khác nhau giữa thơ cũ và Thơ mới, Lam Giang chú ý đến thể thơ: “Nhiều ngƣời đề nghị 8
  13. xóa bỏ từ Thơ mới, thơ cũ, chỉ phân biệt thơ hay và thơ dở mà thôi. Giải pháp này cũng bất thành luôn vì dù muốn, dù không, hình thức Thơ mới vẫn hiển nhiên khác hẳn với lối thơ thất ngôn bát cú. Nhắm mắt không nhìn vào sự thật không phải là giải quyết vấn đề… Rồi cái gì cũng có lúc cáo chung, kể cả những cuộc tranh luận vô bổ. Một số luật Đƣờng về ngũ tuyệt, thất tuyệt vẫn đƣợc các nhà Thơ mới ƣa dùng và trong khi ấy câu thơ tám tiếng của trƣờng Thơ mới cũng tiến dần đến một hình thức có khuôn phép ổn định”[33, tr. 66- 67]. Mặc dù mới dừng ở những ví dụ nhỏ, tản mạn nhƣng các công trình trên đã ít nhiều đề cập đến các khía cạnh hình thức thể loại của Thơ mới. 2.3. Từ 1975 đến nay Có thể nói đây là thời kì nở rộ của việc nghiên cứu Thơ mới, đặc biệt là từ khi đất nƣớc bƣớc vào thời kì đổi mới (1986). Một số công trình có liên quan đến vấn đề thể loại của Thơ mới: Thơ mới nhìn từ góc độ của cái tôi của Đỗ Lai Thúy; Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam của Nguyễn Bá Thành; Thơ mới những bước thăng trầm của Lê Đình Kỵ; Văn chương, tài năng và phong cách của Hà Minh Đức;… Các công trình này đã đề cập đến một số khía cạnh hình thức của Thơ mới nhƣ: thể thơ, ngôn ngữ thơ. Trong Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nguyễn Bá Thành nghiên cứu sự vận động của cái tôi trữ tình của các nhà Thơ mới trong mạch vận động với thơ trƣớc và sau nó. Trong Thơ mới những bước thăng trầm, Lê Đình Kỵ khảo sát qua các loại câu thơ và rút ra kết luận: “Câu thơ thất ngôn, ngũ ngôn không còn là độc tôn, Thơ mới không hạn chế số câu trong mỗi bài thơ, không quy định số từ bắt buộc cho mỗi dòng thơ. Câu thơ có thể đi từ hai từ đến chín mƣời từ” [46, tr. 119]. Trong Văn chương tài năng và phong cách, Hà Minh Đức có điểm qua một số nhà thơ tiêu biểu của Phong trào Thơ mới: từ Thế Lữ đến Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên qua Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Bích Khê và đánh giá thành tựu Thơ mới nhƣ “Một nguồn mạch phong phú của thơ ca dân tộc trong thời kì hiện đại” [30, tr. 446]. 9
  14. Ở một số công trình khác, trong quá trình nhận diện phong cách riêng của các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, các tác giả đã ít nhiều đề cập đến vấn đề thể loại của Thơ mới: Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên của Hồ Thế Hà; Ba đỉnh cao thơ mới Xuân Diệu – Nguyễn Bính – Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn… Ngoài ra, các tuyển tập, báo và tạp chí khoa học (Tạp chí Nghiên cứu Văn học) là nơi đăng tải khá nhiều bài viết về cuộc đời tác giả, về Thơ mới và sự vận động của nó. Trần Đình Sử đã đƣa ra một nhận định quan trọng về đóng góp của Thơ mới trên phƣơng diện ngôn ngữ thơ: “Thơ mới đã mang một nhãn quan mới về ngôn ngữ thơ (...) Thơ mới đã căn bản cải tạo lại thơ trữ tình Tiếng Việt từ câu thơ điệu ngâm sang câu thơ điệu nói” [59]. Trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nguyễn Đăng Mạnh đã dành hẳn một phần nói về “Phong trào Thơ mới” (gồm 13 trang). Ở mục “Quá trình hình thành và vận động của phong trào Thơ mới”, tác giả chia Thơ mới thành ba giai đoạn để sơ bộ xét sự vận động của nó: 1932-1935, 1936-1939, 1940-1945. Cũng theo tác giả, giai đoạn đầu và giai đoạn thứ hai ranh giới không rõ bằng giai đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba, và “tất nhiên ranh giới giữa các giai đoạn không thật rành mạch” [54, tr. 43 - 49]. Vũ Tuấn Anh trong Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca đã mô tả sự vận động của cái tôi trữ tình và khẳng định: “Sự biến đổi, phát triển, thay thế, phân hóa... của cái tôi trữ tình là cốt lõi của vận động thơ”[2, tr. 36]. Trong công trình Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định, Vũ Tuấn Anh đã đề cập đến “Sự hoàn chỉnh và tính năng động thể loại trong đời sống văn học 1930 - 1945”. Tác giả cho rằng: “Chỉ sau một thời gian phát triển, Thơ mới đã vƣợt ra ngoài ý nghĩa trào lƣu, vƣợt ra ngoài cảm hứng khởi xƣớng ban đầu của chủ nghĩa lãng mạn để trở thành một “loại hình” thơ Việt Nam hiện đại, một phƣơng thức tƣ duy có khả năng thể hiện và 10
  15. chuyển tải nhiều nội dung sáng tạo nghệ thuật đa dạng, phƣơng thức tƣ duy hiện đại trong thơ” [3, tr. 26]. Cũng theo tác giả, “Thơ mới sau những say mê vồ vập với Hugo, Lamartine, Baudelaire là những nhà siêu thực, tƣợng trƣng của thơ Pháp hiện đại để vừa phong phú thêm, vừa nhanh chóng bế tắc hơn… Sự xâm nhập văn xuôi vào thơ tạo ra thể thơ văn xuôi, một loại hình kết hợp còn tiếp tục sự sống nhƣ một thể độc lập nhiều thập kỉ sau” [3, tr. 25 – 27]. Bàn về Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Vũ Văn Sỹ đƣa ra những dẫn chứng cụ thể: “Lời trữ tình của Thế Lữ nhập vai con hổ trong Nhớ rừng với một cảm xúc tinh tế và mạnh mẽ, tù túng và bi tráng, kiêu bạc và tuyệt vọng là rất mới, rất lạ đã “dứt điểm” định đoạt số phận của “thơ cũ” trên thi đàn công khai bấy giờ (...) Và khi Xuân Diệu lên ngôi Hoàng tử trên thi đàn thì cảm xúc về cá nhân của Thơ mới đã thực sự thiết lập địa vị và quyền năng của mình” và đi tới khẳng định “Thơ mới là một cuộc cách mạng về cảm xúc trong tiến trình thơ ca Việt Nam” [60, tr. 49 - 50]. Tiếp cận phong trào Thơ mới, Lƣu Khánh Thơ đã có những luận giải về vấn đề mới - cũ trong thơ Việt Nam trƣớc 1945. Tác giả đã đi sâu lí giải, tìm cách trả lời thấu đáo cho những câu hỏi rất cần thiết, liên quan đến Thơ mới và sự vận động của nó trong lịch sử văn học: “Vậy thì thơ cũ là loại thơ nào? Diện mạo nó ra sao?... Vấn đề định danh mới xuất hiện từ lúc nào để làm nên Thơ mới? Rồi lúc nào thì nó mất để chỉ còn thơ [67]. Với Loại hình câu thơ của Thơ mới và Thể tám tiếng trong thơ Việt Nam, Lê Tiến Dũng đã đƣa ra những ý kiến mới về sự vận động, tiếp thu thể thơ truyền thống, sự ảnh hƣởng thơ phƣơng Tây và sự sáng tạo của thể thơ 8 tiếng trong Thơ mới. Đồng thời, tác giả có so sánh sự khác nhau của một số thể thơ mới và thơ cũ. Ở bài viết Cái tôi thi nhân trong Thơ mới, Phan Huy Dũng nhấn mạnh vấn đề “cái tôi thi nhân” trong Thơ mới và khẳng định: “Thi sĩ”, “thi nhân” là những khái niệm có tính lịch sử “nội hàm của nó thay đổi, biến động theo từng giai đoạn phát triển của thơ” [21]. Khảo sát Mối quan hệ giữa hát nói và Thơ mới, Nguyễn 11
  16. Đức Mậu nhận định: “Trên đƣờng tìm một hình thức thích hợp để thể hiện mình, các nhà Thơ mới đã tìm thấy ở hát nói các yếu tố: số chữ, gieo vần, nhịp điệu... Quá trình văn xuôi hóa thơ trữ tình biểu hiện cụ thể từ hát nói đến Thơ mới nhƣ một tiến trình từ truyền thống đến hiện đại” [31, tr. 1081]. Thời gian gần đây, phƣơng pháp loại hình đƣợc nhiều tác giả lựa chọn khi nghiên cứu Thơ mới. Trần Nho Thìn quan sát Thơ mới trong sự vận động của loại hình học từ thơ trung đại sang thơ hiện đại và đƣa ra điểm khác biệt mấu chốt: “nếu so sánh với thơ cũ, ta dễ thấy nét đặc trƣng của Thơ mới là các bức tranh thiên nhiên thấm đẫm chất ngƣời, là việc các nhà Thơ mới đƣa các phẩm chất của con ngƣời (hành động, cảm xúc, tâm trạng...) vào thiên nhiên” [66, tr. 704]. Trong chuyên luận Thơ Mới 1930-1945 – Nhìn từ sự vận động thể loại, Hoàng Sĩ Nguyên đã dùng phƣơng pháp loại hình để nghiên cứu sự vận động của thể loại thơ, chỉ ra những yếu tố cấu thành thể loại và những biến đổi của nó trong quá trình vận động thơ mới 1932-1945, bao gồm sự vận động của cái tôi trữ tình và sự vận động của thể thơ, câu thơ, ngôn ngữ thơ. Mới đây nhất, năm 2015, trong chuyên luận Loại hình Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945, Nguyễn Thanh Tâm đã tập trung vào khía cạnh loại hình, kiểu/ lối Thơ mới nhằm chỉ ra tƣ cách loại hình của Thơ mới trong tƣơng quan với những hình thái thơ trƣớc và sau nó. Nghiên cứu Thơ mới trong giai đoạn hiện nay là một thách thức bởi lẽ ngay từ khi ra đời, trong lịch sử nghiên cứu hơn tám mƣơi năm qua, các khía cạnh của Thơ mới từ tác giả đến tác phẩm, khuynh hƣớng, trƣờng phái, thi pháp, ngôn ngữ, phong cách,… đã đƣợc đề cập đến khá nhiều. Trong các công trình nghiên cứu về Thơ mới, phƣơng diện thể loại đã đƣợc nhắc đến với những mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu các yếu tố thuộc về hình thức thể loại của Thơ mới một cách hệ thống để chỉ ra những đổi mới và ý nghĩa của sự đổi mới ấy trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc vẫn là một việc làm có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn. 12
  17. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hƣớng đến việc mô tả, lý giải và khẳng định: Thơ mới có những đổi mới sâu sắc về mặt hình thức thơ trên phƣơng diện thể loại so với những hình thái thơ trƣớc Thơ mới. Qua đó nêu lên ý nghĩa của sự đổi mới đó trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc. 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Những đổi mới của Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 nhìn từ phƣơng diện thể loại bao gồm cả những yếu tố nội dung và hình thức. Trong khuôn khổ luận văn của mình, chúng tôi chỉ dừng lại khảo sát những đổi mới về mặt hình thức của Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 trên hai phƣơng diện cơ bản: Những đổi mới của thể thơ, câu thơ; Những đổi mới của ngôn ngữ thơ. Văn bản khảo sát chính của luận văn là tuyển tập Thơ mới 1932 – 1945, Tác giả và tác phẩm (Nxb Hội Nhà văn, 2004). 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu loại hình; phƣơng pháp lịch sử xã hội Thao tác: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp… 5. Cấu trúc luận văn Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Thơ mới là sản phẩm tất yếu của tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chƣơng 2: Những đổi mới của Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 trên phƣơng diện thể thơ, câu thơ. Chƣơng 3: Những đổi mới của Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 trên phƣơng diện ngôn ngữ thơ. 13
  18. Chƣơng 1 THƠ MỚI TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM Văn học hiện đại là khái niệm đƣợc hiểu theo quan niệm đối sánh với hình thái văn học trung đại, có nghĩa là chỉ một kiểu văn học khác thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại đã tồn tại 10 thế kỉ trƣớc đó. Sang thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam phát triển theo xu hƣớng hiện đại hóa: “Hiện đại hóa đƣợc hiểu là quá trình làm cho văn học thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức văn học phƣơng Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại thế giới” [8, tr. 83]. Là một hiện tƣợng văn hóa – lịch sử, sự xuất hiện của Thơ mới với tƣ cách một trào lƣu văn học gắn liền với những tiền đề sâu xa trong đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945. 1.1. Bối cảnh ra đời Thơ mới Xã hội Việt Nam trong 45 năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn 1932 – 1945 biến đổi theo hƣớng hiện đại trên tất cả các phƣơng diện: kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. 1.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị Biến động chính trị xã hội những năm đầu thế kỉ XX đã tạo nên một cộng đồng tiếp nhận mới. Sau Đại chiến Thế giới thứ nhất, công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp diễn ra ồ ạt, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, tầng lớp tƣ sản và tiểu tƣ sản phát triển. Điều đó đã làm thay đổi cơ cấu tổ chức xã hội nƣớc ta. Đồng thời, cùng với sự phổ biến của báo chí và chữ quốc ngữ, xã hội Việt Nam thời kì này đã xuất hiện một thế hệ sáng tác mới, một cộng đồng tiếp nhận hoàn toàn khác với thời trung đại. Đó là những đối tƣợng đến với văn học không phải để tìm một tiếng nói tri âm, tỏ chí, tỏ 14
  19. lòng mà họ coi văn học là một phƣơng tiện để giải phóng tình cảm, để khám phá bản thân và để giải trí. Cộng đồng này đa số là cƣ dân thành thị, đƣợc giáo dục trong nhà trƣờng của Pháp, biết chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, chịu ảnh hƣởng nhất định của nền văn hóa phƣơng Tây. Họ hầu nhƣ bị cắt đứt với nền văn hóa truyền thống của bản địa bởi chính sách giáo dục lấy Tây học thay cho Hán học của chính quyền thực dân. Văn hóa phƣơng Tây xâm nhập vào mọi ngõ ngách trong đời sống sinh hoạt và tâm hồn của họ, nói nhƣ Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây… Nói làm sao xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta… Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm hương Tây về nhân sinh, về vũ trụ và có ngày ta sẽ thấy nó thay đổi cả quan niệm của phương Đông. Những đồ dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưởng mới [63, tr. 16]. Cảm quan mới về vũ trụ, thị hiếu thẫm mĩ mới của cộng đồng này đã trở thành động lực mới khiến cho văn học, trong đó có thơ ca không thể không thay đổi. 1.1.2. Bối cảnh văn hóa xã hội Những chính sách của thực dân Pháp và sự xâm nhập của nền văn hóa phƣơng Tây cũng tạo nên một nhân tố mới trong hoạt động văn học: các chủ thể sáng tác mới. Chính sách dùng Tây học thay cho Hán học của thực dân Pháp đã tạo nên một tầng lớp trí thức mới. Nhờ tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Pháp bằng tiếng Pháp và qua dịch thuật, một hoạt động phát triển rất mạnh thời bấy giờ, những ngƣời cầm bút của giai đoạn văn học này có một “phông” văn hóa hoàn toàn khác với chủ thể sáng tác của giai đoạn trƣớc. Qua Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, tủ sách Âu Tây tƣ tƣởng,… nhiều tác phẩm của La Fontaine, Molie, Balzac, V. Hugo, Lamartine, 15
  20. Baudelaire, Verlaine, Mallarmé, Gide…, đã đƣợc giới thiệu vào Việt Nam. Tƣ tƣởng Khai sáng của Rouseau, triết học của Nitso… cũng đƣợc biết đến. Dịch thuật đã trở thành một trạm trung chuyển, khiến cho chủ thể sáng tác giai đoạn này có ý thức về một nền văn học thế giới và một phƣơng pháp sáng tác khác. Lần đầu tiên, giới trí thức Việt Nam biết đến những trào lƣu văn học đã phát triển rộng khắp ở mọi nơi trên thế giới: phong trào Phục hƣng, phong trào Khai sáng, trào lƣu lãng mạn chủ nghĩa, chủ nghĩa tƣợng trƣng, chủ nghĩa siêu thực, trào lƣu hiện thực chủ nghĩa. Ngƣời ta không chỉ biết đến văn học Pháp mà còn đƣợc tiếp xúc với văn học Nga, văn học Anh… Điều quan trọng nhất mà sự tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây mang lại là nó làm thay đổi thế giới quan và nhân sinh quan của lực lƣợng sáng tác. Nói nhƣ Hoài Thanh, một nguồn cảm xúc mới, dào dạt chƣa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này đã đòi hỏi phá tung những ràng buộc của niêm luật thơ ca truyền thống. Yếu tố tiếp theo tạo tiền đề thúc đẩy nhu cầu cách tân thơ ca đó là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của một phƣơng tiện phổ biến tác phẩm mới: báo chí và các nhà xuất bản. Tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ mở đầu cho nền báo chí Việt Nam là tờ Gia Định báo ra mắt ngày 14 tháng 5 năm 1865 tại Sài Gòn. Năm 1893, Đại Nam đồng văn nhật báo ra đời, là tờ báo đầu tiên bằng chữ Hán. Năm 1913, tờ Đông Dương tạp chí do Scheneider làm chủ nhiệm, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, là tờ báo đầu tiên hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ. Ngày 13/7/1917, chánh mật thám Đông Dƣơng Louis Marty đứng tên sáng lập và cho xuất bản số đầu tiên Nam phong tạp chí do Phạm Quỳnh làm chủ bút. Bắt đầu từ năm 1920, ở Hà Nội đã thực sự có những tờ báo quốc ngữ do ngƣời Việt chủ trƣơng. Nhƣ vậy là chỉ trong vòng mƣời năm, báo chí Việt bằng chữ quốc ngữ đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc. Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí thời kì này đã góp phần làm thay đổi một cách toàn diện văn hóa tinh thần của xã hội. Đặc biệt, có thể nói, báo chí chính là môi trƣờng 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0