Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Sự chuyển đổi loại hình tác giả văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám qua trường hợp Nguyễn Công Hoan
lượt xem 7
download
Đối tượng nghiên cứu là một tác giả lớn, quá trình hình thành, vận động và phát triển phong cách nhà văn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, chúng tôi xác định mục đích, tính chất của luận văn là vấn đề nghiên cứu của văn học sử. Cụ thể là nghiên cứu sự chuyển biến mang tính quy luật đặc thù của văn học Việt Nam qua ngòi bút nhà văn. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Sự chuyển đổi loại hình tác giả văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám qua trường hợp Nguyễn Công Hoan
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HÀ HUY THÍCH SỰ CHUYỂN ĐỔI CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP NGUYỄN CÔNG HOAN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HÀ HUY THÍCH SỰ CHUYỂN ĐỔI LOẠI HÌNH TÁC GIẢ VĂN HỌC VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM QUA TRƢỜNG HỢP NGUYỄN CÔNG HOAN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vƣơng Hà Nội – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Trần Ngọc Vương. Các kết quả và số liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một công trình khoa học nào. Những luận điểm sử dụng của tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn. Hà Nội,ngày 22 tháng 10 năm2015 Tác giả luận văn Hà Huy Thích
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Trần Ngọc Vương - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau đại học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua. Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2015 Tác giả Hà Huy Thích
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu. ...................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn.............................................. 3 3. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................. 3 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 5. Cấu trúc luận văn. ......................................................................................... 4 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 5 Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ VÙNG VĂN HÓA SƠN NAM ....................................................................... 5 1.1. Truyền thống gia đình. ............................................................................ 5 1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. ............................. 5 1.1.2. Truyền thống gia đình. .......................................................................... 13 1.2. Vùng văn hóa Sơn Nam Hạ. .................................................................. 16 1.2.1. Đặc điểm về địa lý. ................................................................................ 16 1.2.2. Đặc điểm về văn hóa xã hội. ................................................................. 16 1.2.3. Một số tác giả văn học tiêu biểu trấn Sơn Nam có ảnh hưởng đến phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan. ............................. 18 Chƣơng 2: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC TÂY ÂU TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945 ................................................. 25 2.1. Văn hóa truyền thống và văn chƣơng nhà Nho. ................................. 25 2.1.1. Văn học dân gian. ................................................................................. 25 2.1.2. Từ cái nhìn của nhà Nho trong văn học Trung đại đến cái nhìn của nhà văn, nhà thơ trào phúng cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học Việt Nam. . 26 2.1.3. Sự thay đổi của hệ thống chủ đề, đề tài và hình tượng trung tâm trong văn chương trào phúng. .................................................................................. 31
- 2.2. Sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trƣớc cách mạng tháng 8 - 1945. ............................................. 33 2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội. ................................................................... 33 2.2.2. Sự ra đời của trào lưu văn học hiện thực phê phán. ............................ 34 2.2.3. Sự vận động hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực phê phán. ............. 44 Chƣơng 3: SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TƢ TƢỞNG CỦA NHÀ VĂN QUA NHỮNG SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA ÔNG ............................................ 52 3.1. Những chặng đƣờng sáng tác của Nguyễn Công Hoan ..................... 52 3.1.1. Giai đoạn từ 1920 – 1923. .................................................................... 53 3.1.2. Giai đoạn từ 1929 – 1935. .................................................................... 55 3.1.3. Giai đoạn từ 1936 – 1939. .................................................................... 63 3.1.4. Giai đoạn từ 1940 – 1945. .................................................................... 66 3.2. Sự vận động về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan ................................................................................ 68 3.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ. ................................................................................. 68 3.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài. ........................................................................ 71 3.3. Hình tƣợng nhân vật. ............................................................................. 81 3.3.1. Hình tượng nhân vật trào phúng. .......................................................... 81 3.3.2. Hình tượng nhân vật điển hình ............................................................. 84 3.4. Hệ thống ngôn ngữ- thể loại .................................................................. 87 3.4.1. Ngôn ngữ ............................................................................................... 87 3.4.2. Thể loại.................................................................................................. 90 3.5. Cốt truyện – Tình huống ....................................................................... 92 3.5.1. Cốt truyện .............................................................................................. 92 3.5.2. Tình huống truyện ................................................................................. 94 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài- Giới hạn nghiên cứu. Lịch sử phát triển văn học của mỗi quốc gia, dân tộc đều ghi dấu sự vận động và phát triển của lịch sử quốc gia, dân tộc ấy. Từ đó hình thành nên những bản sắc riêng của quốc gia, dân tộc đó. Với hàng nghìn năm lịch sử vận động và phát triển, văn học Việt Nam đã thực sự tạo được một dấu ấn riêng, bản sắc riêng về văn học, văn hóa Việt. Văn học Việt Nam có một bề dày truyền thống. Từ văn học dân gian đến văn học thành văn đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện, phản ánh tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Đặc biệt là gần mười thế kỉ tồn tại và phát triển của văn học trung đại, Nho giáo giữ vai trò định hướng phát triển văn học Việt Nam. Điều ấy thực sự tạo nên một bản sắc rất riêng của Văn học Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX văn học Việt Nam có những bước phát triển mới. Đó là bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại. Một thời đại mới của văn học đã phôi thai từ giai đoạn quá độ, từng bước hòa nhập vào quỹ đạo của văn học thế giới. Sự vận động phát triển của thời đại lịch sử đã đưa văn học Việt Nam chuyển mình sang một hướng mới. Đó là sự vận động, chuyển đổi cả nội dung và nghệ thuật phản ánh của văn học Việt Nam. Từ những áng văn chương mang đậm màu sắc của văn chương Trung đại chuyển sang hướng hiện đại hóa của văn học Phương Tây. Thực tế của nền văn học sử Việt Nam cho thấy, mối liên hệ từ truyền thống đến hiện đại chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, khai thác. Đặc biệt là sự vận động của văn học Việt Nam được thể hiện qua một số tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng…Sự vận động trong sáng tác của họ thể hiện quy luật đặc thù của văn học Việt Nam. Và nhà văn thể hiện sự vận động chuyển đổi về phong cách sáng tạo nghệ thuật ấn tượng hơn cả là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Nguyễn Công Hoan là một tác gia lớn trong nền văn học cận đại Việt Nam. Sự nghiệp của ông được tạo dựng bởi hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết có giá trị trong nền văn học nước nhà. 1
- Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan mang những nét đặc thù về quan điểm thẩm mỹ nghệ thuật riêng, để lại những dấu ấn riêng về truyền thống của gia đình; giai đoạn lịch sử xã hội ấn tượng cụ thể. Có một số công trình nghiên cứu về những sáng tác của ông, nhưng phần nhiều chỉ thiên về đọc và bình văn rồi đưa ra kết luận Hay- Dở mà chưa dựng được một bức tranh toàn cảnh về quy luật tồn tại và vận động phát triển của đối tượng; chưa chỉ ra được những con đường ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành con người nhà văn. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi đi sâu và hướng tới sự chuyển đổi loại hình tác giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan. Luận văn của chúng tôi được hình thành trực tiếp từ sự gợi ý và hướng dẫn của GS - TS Trần Ngọc Vương, đồng thời với nỗ lực tự thân của người viết. Nhưng do thời gian hạn hẹp và do tính chất, mức độ của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào phạm vi chuyên sâu và giới hạn ở một số điểm sau: (1). Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn Nam . Đó là sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Trấn Sơn Nam đến phong cách nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan. (2). Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945. Đó là sự chuyển biến rõ nét về nội dung và phong cách nghệ thuật của nhà văn từ ảnh hưởng của văn chương nhà nho sang văn chương hiện thực phê phán mang đậm phong cách văn chương phương Tây. (3). Từ những vấn đề trên, chúng tôi đi tới vấn đề cụ thể về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của nhà văn qua những sáng tác của ông. Nhằm chứng minh cho nhận định: sự vận động chuyển đổi loại hình tác tác giả văn học qua sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng Tám 1945. Tuy nhiên, do thời gian tiếp cận đề tài còn hạn chế, vốn kiến thức được trang bị nhiều điểm còn chưa thực sự sâu sắc, nên có những vấn đề chưa được nghiên cứu sâu. Luận văn chưa mở rông sang các tác giả cùng thời khác để thấy được sự vận động biến đổi của hệ quy chiếu trong hầu hết các tác giả những năm đầu thế kỉ XX. 2
- 2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn. 2.1. Mục đích và ý nghĩa lý luận. Đối tượng nghiên cứu là một tác giả lớn, quá trình hình thành, vận động và phát triển phong cách nhà văn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, chúng tôi xác định mục đích, tính chất của luận văn là vấn đề nghiên cứu của văn học sử. Cụ thể là nghiên cứu sự chuyển biến mang tính quy luật đặc thù của văn học Việt Nam qua ngòi bút nhà văn. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. Thực hiện được mục tiêu trên, chúng tôi hi vọng luận văn của mình góp phần phục vụ trực tiếp cho việc tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan ở cấp độ phân tích, cảm nhận văn học qua thực chứng lịch sử khách quan. 3. Lịch sử vấn đề: Có khá nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết cho sáng tác của Nguyễn Công Hoan, và nhiều nhà nghiên cứu coi Nguyễn Công Hoan là một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực. Trên tạp chí Nam Phong 7 – 1932, Trúc Hà viết phê bình về truyện ngắn Nguyễn Công Hoan “Một ngọn bút mới”. Trong bài viết của mình, Trúc Hà chỉ ra những “lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm một vài câu hoặc một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị”… Trong cuốn “Phương pháp sáng tác ttrong văn học nghệ thuật”, NXB Sự thật Hà Nội 1962, Hồng Chương chỉ ra: lối tả tỉ mỉ ở các chi tiết là một đặc điểm của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Công Hoan. Phan Cự Đệ trong “Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975” (tập 2), NXB Đại Học và Trung học chuyên nghiệp khẳng định: Nguyễn Công Hoan đã đặt những viên gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho văn xuôi hiện thực phê phán. Ông là người đầu tiên khẳng định phương pháp hiện thực phê phán trong lĩnh vực truyện ngắn và là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 – 1945. 3
- Năm 2002, cuốn Nguyễn Công Hoan, Tác gia – Tác phẩm do nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh biên soạn được xem là cuốn tài liệu tập hợp được những công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về Nguyễn Công Hoan từ trước tới nay. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan đều chưa thật chú ý đến những con đường ảnh hưởng quan trọng tới sự vận động, chuyển đổi loại hình nhà văn. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi cố gắng làm rõ sự chuyển đổi loại hình tác giả văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua tác giả Nguyễn Công Hoan dưới góc nhìn từ lý thuyết loại hình học tác giả nhà văn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Phương pháp loại hình học tác giả và phương pháp logic - lịch sử là nền tảng cho các phương pháp và thao tác khoa học mà luận văn sử dụng ở cấp khái quát nhất. Ngoài ra, trong việc nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của văn học, chúng tôi còn sử dụng phương pháp chuyên sâu như nghiên cứu lịch sử văn hóa và phương pháp loại hình học tác giả. Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp so sánh đối chiếu cũng được chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu. 5. Cấu trúc luận văn. - Chương 1: Sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình và vùng văn hóa Sơn Nam . -Chương 2. Sự ảnh hưởng văn học nhà Nho và văn học Tây Âu trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng tháng 8 - 1945. -Chương 3. Sự vận động trong tư tưởng của nhà văn qua những tác phẩm văn học của ông. 4
- PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG GIA ĐÌNH VÀ VÙNG VĂN HÓA SƠN NAM 1.1. Truyền thống gia đình. 1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. Nguyễn Công Hoan- tác giả truyện ngắn xuất sắc, một hiện tượng đặc biệt trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại. Ông sinh ngày mồng 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình nho học ở làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hưng Yên). Gia đình ông là gia đình nhà nho có nhiều người làm quan với Pháp. Cha ông tuy đỗ tú tài nhưng chỉ được nhận chức huấn đạo và ở mãi chức này cho đến khi mất. Đồng lương ít ỏi của cha không đủ nuôi đàn con đông, nên Nguyễn Công Hoan từ nhỏ đã được ông bác ruột, một ông quan yếm thế có tinh thần yêu nước đón về nuôi dưỡng và giáo dục. Ngay từ những ngày còn nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu thiếu niên thông minh, nghịch ngợm và hóm hỉnh. Tuy bé nhất trong nhà nhưng ông lại luôn là người đầu trò trong các cuộc chơi. Ông thường tự biên soạn những vở chèo, vở tuồng từ những tích cũ, tự lập sân khấu rồi cùng các anh con của bác chơi trò biểu diễn. Đề tài những vở kịch do ông nghĩ ra hoàn toàn dựa theo những truyện hàng ngày nghe kể, khi là chơi trong các trại lính lệ, lính cơ nhằm giễu cợt những thói hư tật xấu của kẻ có quyền và xót thương những người nghèo khờ dại. Những buổi biểu diễn này được lính lệ và nhân dân trong vùng đến xem rất đông. Cứ tối đến, họ lại kéo nhau đến tụ tập quanh sân nhà người bác để xem “cậu chủ nhỏ diến trò” và cậu chủ nhỏ được họ rất yêu quý. Năm lên bảy tuổi, Nguyễn Công Hoan được học tiếng Pháp với một thầy ký rượu. Ông học tiếng thì ít mà học mánh khóe từ thầy thì nhiều. Bài học của ông thường là những bài vè truyền khẩu nửa Tây nửa Ta, những thủ thuật đong và pha rượu lậu cùng những buổi đàn hát. Kết quả là sau hai tháng người bác đành phải bắt ông thôi học với thầy ký rượu. Chín tuổi, ông được bác gửi lên học ở trường Bưởi (trường Chu Văn An). Trong thời gian học ở trường Bưởi (từ chín đến mười sáu tuổi) ông quen và thân với nhiều nhà văn nhà thơ đương thời, đặc biệt là nhà thơ Tản Đà. Ông rất thích thơ Tản Đà, bài thơ nào của Tản Đà ông cũng đọc và 5
- thuộc. Qua Tản Đà ông còn đọc nhiều và trở nên thích thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tú Mỡ… chính Tản Đà là nấc thang đầu tiên đưa bước Nguyễn Công Hoan vào làng văn học. Năm mười bảy tuổi, sau một chuyến bỏ nhà ra Hải Phòng cùng một anh con bác, trở về ông viết truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu”. Truyện ngắn này ông viết chỉ để đùa vui nhưng thật ra đã rõ dáng dấp con người ông và cũng đã báo hiệu những văn phẩm của ông sau này. Một chuyện bịa từ cái gốc có thật về chuyện đi bất thành của mình. Ông bịa chuyện có thật ấy nhằm mỉa mai và đả kích chế độ thực dân. Năm 1922 ông lại ra Hà Nội học để ôn thi vào trường Nam Sư phạm và bắt đầu viết truyện dài “Phải gió”. Truyện dài này làm cho các bạn cùng phòng ở với ông không nhịn được cười. Kết cục nó bị thu bởi tác giả của nó gây mất trật tự trong khu nội trú. Cùng năm, (vào tháng 7) Nguyễn Công Hoan đỗ vào trường Sư phạm. Ông vừa học vừa viết văn. Những truyện ngắn thời kỳ này của ông được in trên mục “Truyện thế gian” do Tản Đà thư cục xuất bản. Truyện của ông, giọng văn, câu văn ngắn gọn, giản dị, dí dỏm khác hẳn với lối văn cầu kì, ước lệ, cổ điển của những tác giả cùng thời. Vì vậy truyện ngắn của ông thời kỳ này không gây được tiếng vang, nhưng đã báo cho độc giả thấy được sự xuất hiện của một cây bút mới với lối văn hoàn toàn mới lạ. Mặt khác, do ham đọc thơ văn, ông có con mắt nhìn đời bằng hồn thi sĩ, nên phong cách hiện thực phê phán sắc sảo của ông đậm chất trữ tình. Tốt nghiệp trường Nam Sư phạm năm ông hai mươi ba tuổi. Công việc dạy học của ông vô cùng long đong, vất vả. Do bị tình nghi có tham gia hoạt động cách mạng nên ông không ở đâu được lâu mà luôn bị thuyên chuyển vùng. Từ thị xã Hải Dương ông phải chuyển đến huyện Nam Sách, huyện Kim Môn, thị xã Lào Cai, thành phố Nam Định, rồi ra đảo Trà Cổ. Con đường văn nghiệp của ông cũng không kém phần lao đao, trắc trở. Ông luôn bị thực dân Pháp theo dõi, ghìm ngòi bút, có thời kỳ còn bị treo bút. Nhiều tiểu thuyết của ông bị cấm lưu hành như (Cái thủ lợn- 1939), nhiều truyện ngắn bị kiểm duyệt, cắt xén hoặc xóa trắng (Êu êu Mê đo; Hồi còi báo động). Lớn lên trong thời kì những sự kiện chính trị lớn dốn dập xảy ra ở trong và ngoài nước, lại làm cái nghề luôn bị chèn ép và bản thân bị nghi kị nên giúp ông có cái nhìn đúng về xã hội đương thời. Sẵn có thái độ hằn học với kẻ xu 6
- nịnh, hằn học với bọn thực dân tàn ác, quan lại tham nhũng, bọn giàu sang gian trá, nên Nguyễn Công Hoan không dễ lùi bước trước mọi khó khăn. Truyện ngắn của ông ngày càng điêu luyện về nghệ thuật, sắc sảo về nội dung dần đưa ông tới vị trí hàng đầu trong dòng văn học hiện thực phê phán. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, theo quy luật chung của sự phát triển, văn học Việt Nam dần chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Thời kì này giữa biết bao nếp nghĩ vay mượn, cách diễn đạt vay mượn, giữa biết bao sự mời gọi quyến rũ tưởng không cưỡng lại được của văn học ngoại lai nhưng Nguyễn Công Hoan đã giữ cho ngòi bút của mình đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa hiện thực. Ông trở thành một trong những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng cho nền văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam. Đó cũng là thời kì văn học Việt Nam đang ở buổi sơ khai của nền văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ. Giai đoạn này đòi hỏi mỗi người cầm bút phải tự tìm lấy mình, khẳng định mình, khẳng định văn học nước nhà. Con đường độc đáo Nguyễn Công Hoan đã chọn và táo bạo mở đường đi tới một mình: Viết những truyện trong đời sống thực từ những cảnh ngang trái bất công, những sự thối nát sa đọa, những cảnh khổ đau xảy ra hàng ngày trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Sự nghiệp văn học của ông bắt đầu từ những năm 1920 với tập truyện ngắn đầu tay: “Kiếp hồng nhan” (xuất bản năm 1923). Truyện viết về những người thuộc tầng lớp dưới được biểu hiện bằng cách nhìn xót thương, từ đó mà giễu cợt kẻ lộng quyền hợm của. Tuy tập truyện này “không có ý nghĩa gì, không có mục đích nào” [23/81] nhưng vẫn gây được sự thán phục của bạn bè. Nó là tập truyện đầu tiên của Việt Nam, gồm toàn truyện sáng tác chứ không phải vừa truyện dịch, vừa truyện soạn như các truyện trước đó. Phải tới những năm 1929 – 1033 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bởi những trang in trong mục Xã hội ba đào ký trên An Nam tạo chí do Tản Đà chủ trương. Những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trên mục Xã hội ba đào ký được độc giả rất yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng trở nên quen thuộc với bạn đọc. Những cuốn tiểu thuyết “Những cảnh khốn nạn” (1932); “Tắt lửa lòng”(1933); “Lệ dung”(1934); “Tấm lòng vàng”(1934) cũng lần lượt xuất hiện. Đặc biệt trong cuốn “Những cảnh khốn 7
- nạn”(Tập 1 với 218 trang) viết trong thời gian ông dạy học ở Lào Cai đã báo hiệu con đường văn chương độc đáo của ông sau này. Tháng 6 năm 1935 khi tập truyện ngắn “Kép Tư Bền” xuất hiện, địa vị của ông càng được khẳng định. Kép Tư bền gồm 15 truyện phần lớn viết về những người khốn khổ đáng thương. Ông thông cảm với nỗi dày vò họ và nói lên sự tàn nhẫn của những người xung quanh. Trong không khí của những năm 1935- 1936 Kép Tư Bền ra đời rất đúng lúc, nó mở đầu cho trào lưu văn học tả chân xã hội. Thời kỳ này độc giả muốn có những trang viết về cảnh lầm than của xã hội để thức tỉnh mọi người. Trong tình trạng ấy, tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời có thể xem là một cái mốc đánh dấu trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Ông viết:“việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi rằng tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi nghề văn” [23/188]. Tập truyện với nghệ thuật độc đáo, mới lạ, có truyện không có cốt truyện (Cô Kếu gái tân thời), có truyện viết không theo hình thức kể chuyện (Thế là mợ nó đi Tây) đã thu hút được đông đảo bạn đọc trong cả nước. Những tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của Khái Hưng, Nhất Linh… bị lu mờ, thay vào đó là những tác phẩm hiện thực của Nguyễn Công Hoan. Năm đó, Kép Tư Bền được đánh giá là tập truyện ngắn hay nhất, được mười tám tờ báo ở Trung, Nam, Bắc viết bài khen ngợi và trở thành đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị dân sinh của Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích nghệ thuật vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thi Hải triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái nghệ thuật vị dân sinh đi đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến của Hải Triều có viết “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn công Hoan” [48]. Để khẳng định chủ trương của mình, Hải Triều còn tổ chức buổi gặp mặt tác giả với bạn đọc và trưng cầu ý kiến độc giả tại nhà sách Hương Giang (Huế). Kết quả của cuộc trưng cầu là tác Phẩm Kép Tư Bền được xếp hàng đầu, tác giả của nó được bạn đọc hoan nghênh nhất. Ông trở thành ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. 8
- Thời kỳ mặt trận Dân chủ (1936- 1939), thực dân Pháp nới lỏng chế độ kiểm duyệt sách báo, ngòi bút của Nguyễn Công Hoan được tung hoành hơn. Nhờ ảnh hưởng của Đảng, của sách báo Mác xít, của phong trào quần chúng khắp nơi, những tác phẩm của ông đạt chất lượng cao hơn trước. Chúng như những chiếc gai nhọn đối với nhà cầm quyền. Thời kỳ ông viết sung sức chưa từng thấy, với hơn 80 truyện ngắn, trong đó có khoảng 30 truyện đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân. Ông đưa vào tác phẩm của mình từ cuộc sống Âu hóa lố lăng “Cô Kếu gái tân thời”, đến tệ quan lại tham nhũng “Công dụng của cái miệng”; “Người thứ ba”. Từ cuộc sống vương giả của những kẻ ăn trên ngồi chốc như “Phành phạch”;“Quyền chủ” đến cuộc sống cùng cực của kiếp đi ở “Thằng Quýt”; “Thanh!Dạ”. Từ đề tài xã hội này, ông đã nhanh chóng chuyển sang đề tài chính trị, không những ông tố cáo tệ tham nhũng, thói dâm ô đểu cáng “Thằng ăn cướp”; “Đồng hào có ma”; “Nạn ô tô”; “Nạn râu”…mà còn vạch trần những thủ đoạn chính trị lừa bịp và cơ hội của bọn quan lại triều đình như “Biểu tình”; “Chiến tuyến bình”, những thủ đoạn mua bán, tranh giành lá phiếu của bọn nghị viên (Trần Thiện – Lê Văn Hà). Đặc biệt ông đã chĩa mũi nhọn đả kích vào một số chính sách của bọn thực dân Pháp: Từ sự xâm lấn từng bước khá nguy hiểm của chính quyền thực dân “Người vợ lẽ bạn tôi” đến những chủ trương cực kỳ vô lý và ngu xuẩn đối với trẻ con không nơi nương tựa như “Giá ai cho cháu một hào”. Từ những thủ đoạn tuyên truyền ầm ĩ cho tên vua bù nhìn bán nước “Đào kép mới” đến những cuộc vận động cho phong trào thể thao một cách bịp bợm, giả dối của tên thống sứ Chatet “Tinh thần thể dục”. Thời kỳ này ông viết nhiều tiểu thuyết, truyện dài: “Ông chủ”; “Bà chủ”(1935), “Cô giáo Minh” (1936), “Cô làm công” (1936), “Bước đường cùng” (1938) và “Cái thủ lợn” (1939). “Bước đường cùng” được được sáng tác trong vòng 16 ngày trước khi tác giả ra “an trí” ở đảo Trà Cổ. Tác phẩm viết về tình cảnh người nông dân vì thất học, u mê, tăm tối nên bị địa chủ dùng thủ đoạn để cướp nhà, cướp ruộng và bị đẩy vào cuộc sống bần cùng. Bọn địa chủ thì gian ác, hách dịch, đứa nào cũng dựa vào thế quan, thế Tây để bóc lột nhân dân thậm tệ, nhưng cuối cùng những người nông dân cũng giác ngộ, họ biết đoàn kết chống lại địa chủ. Tác phẩm có tính tư tưởng cao, nội dung hiện thực sâu sắc nên vừa ra đời một thời gian 9
- ngắn thì bị chính quyền thực dân cấm. Rút cuộc 5000 cuốn “Bước đường cùng” vẫn được tiêu thụ hết. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ nghĩa hiện thực. Đề tài của tiểu thuyết ảnh hưởng nhiều của sách báo đảng Cộng Sản bấy giờ và đã gây được tiếng vang lớn trong kỳ mặt trận Dân chủ. Sang những năm dại chiến thế giới II, Nguyễn Công Hoan mất phương hướng và bế tắc. Từ con đường chủ nghĩa hiện thực ông đi chệch hướng sang con đường chủ nghĩa lãng mạn bảo thủ. Vốn chịu ít nhiều tư tưởng phong kiến, ông đã viết một số tiểu thuyết có khuynh hướng phục cổ, tiêu biểu là “Thanh đạm” (1942). Tác phẩm đề cao Nho giáo, phong tục và sinh hoạt phong kiến cổ xưa. “Thanh đạm” bị lên án gay gắt làm cho Nguyễn Công Hoan trở nên bi quan, chán nản. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nhà văn vui mừng, hồ hởi mặc áo lính, làm công tác văn hóa trong quân đội và dần có cơ hội trở lại viết văn. Ông sáng tác nhiều truyện dài, nhiều tiểu thuyết xã hội như: “Tranh tối tranh sáng” (1950); “Hỗn canh hỗn cư” (1961); “Đống rác cũ” (1963)…ngoài ra ông còn viết nghiên cứu về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…viết bài cho phát thanh, tham gia vào việc biên soạn từ điển, ngữ pháp tiếng Việt của viện Ngôn ngữ. Đặc biệt, ông viết được nhiều tập hồi ký chân thực và có giá trị: “Đời viết văn của tôi”; “Nhớ gì ghi nấy”… “Đời viết văn của tôi” viết năm 1971, cuốn hồi ký này ghi lại các sự kiện 60 năm văn học nước nhà, từ những bước đầu của ngành báo chí xuất bản. Cuốn sách giới thiệu nhiểu nhà văn, nhà nghiên cứu, trong hoàn cảnh nước ta trước đây các ngành bảo tồn, bảo tàng, xã hội học, dân tộc học chưa phát triển thì đây là tài liệu rất tốt cho giúp cho các thế hệ sau dựng lại bức tranh chân thật về một thời kỳ lịch sử đã qua đồng thời cũng cho họ những chi tiết chính xác về cái xã hội tù túng, quằn quại dưới ách thực dân phong kiến. Mặt khác, cuốn hồi ký này để lại cho các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu thế hệ sau nhiều tri thức quý báu về nghề văn cũng nhưu kinh nghiệm viết văn của ông. Cuốn sách được đánh giá là “một cuốn cẩm nang văn học” đối với “những hậu duệ văn học” [51/30]. Là nhà văn viết khỏe, với trên nửa thế kỉ sáng tác, Nguyễn Công Hoan sáng tác tác trên 200 truyện ngắn, hơn 30 truyện dài và các thể loại khác, ông xứng đáng 10
- là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nếu như Ngô Tất Tố tập trung viết về người nông dân, Vũ Trọng Phụng đả kích vào giai cấp Tư sản, thì đóng góp chủ yếu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là xây dựng thành công một phong trào châm biếm, đả kích các kiểu quan lại và địa chủ cường hào ở nông thôn và thành thị. Nguyễn Công Hoan viết nhiều thể loại khác nhau: Tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài, ký…nhưng ông sống trong độc giả và khẳng định mình trên văn đàn dân tộc chính là thể loại truyện ngắn. Các nhà nghiên cứu Trúc Hà, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Hiếu công nhận: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ ở trong truyện ngắn”[13]. Nhà văn cũng thừa nhận: “Trong quãng đời hoạt động về văn học trước cách mạng của tôi, tôi đặt nhiều công phu vào viết truyện ngắn [25/207]. Những tập truyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc ta là những truyện ngắn lịch sử đã xuất hiện từ đời Trần, đời Lê. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVI, truyện ngắn dân tộc đã phát triển phong phú và có nhiều kiểu, nhiều màu sắc khác nhau. Với “Thánh Tông di thảo” và “Truền kỳ mạn lục”, những đặc điểm truyền thống của truyện ngắn Việt Nam đã hình thành trọn vẹn. Đến thời kỳ cận đại, những tác phẩm văn xuôi đã chuẩn bị tích cực cho chủ nghĩa hiện thực phê phán ra đời sau những năm 1930. Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết và kịch của Trọng Khiêm, Hồ Biểu Chánh, Vũ Đình Long, Nam Xương…bản thân nó chưa phải là những tác phẩm hiện thực phê phán theo ý nghĩa chính xác, đầy đủ của thuật ngữ đó. Trong lĩnh vực truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là người đầu tiên có công khai phá con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực phê phán. Đi vào thế giới truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ta có cảm tưởng như bước vào một khu triển lãm phong phú và nhiều màu vẻ về nhũng cảnh ngộ, những con người đang khóc, đang cười, những niềm vui, nỗi cay đắng buồn đau như là lẽ thường. Truyện ngắn của ông sinh động, hấp dẫn với nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ nghệ thuật kết cấu truyện gọn, chặt chẽ đến cách xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính đưa đến một kết thúc bất ngờ làm nổi bật tiếng cười giễu cợt. Từ nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc đến nghệ thuật sử dụng ngôn từ và giọng điệu giản dị, trong sáng, 11
- dễ hiểu. Đặc biệt ông rất thành công khi sử dụng thủ pháp trào phúng, gây cười trong truyện ngắn của mình. Truyện ngắn của ông được viết dưới nhiều cung bậc tình cảm. Có truyện ông viết ra để gây căm hờn (Sáng, chị phu mỏ), để làm kinh tởm (Gói đồ nữ trang), để gợi lòng thương (Anh Sẩm; Cái vốn để sinh nhai), hoặc để cười (Samandji). Có những truyện là tấn hài kịch (Ai khôn; Đàn bà là giống yếu; Một tấm gương sáng), bi kịch (Bộ ba Chiếc quan tài), hoặc bi hài lẫn lộn (Thằng ăn cắp; Hai thằng khốn nạn). Có những truyện xây dựng trên nguyên tắc tượng trưng (Đào kép mới), lại có những truyện thực ra là sự nhạo lại cái gì xảy ra trong thực tế (Cụ Chánh Bá mất giày; Báo hiếu). Đề tài thường xuyên thu hút nhà văn là quan hệ giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Phanh phui bất công xã hội là lập trường tư tưởng duy nhất ông chấp nhận. Nhà văn sống hòa mình vào cuộc sống, lấy đề tài sáng tác từ giữa cuộc sống lố lăng thời bấy giờ, nên tác phẩm của ông thường nhằm nâng cao năng lực nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Xã hội phong kiến nửa thực dân ở Việt Nam trước 1945 đầy rẫy sự lừa bịp và khôi hài, thế nhưng kẻ thống trị luôn tìm cách để che dấu bộ mặt thật của chúng. Cần phải phanh phui những mâu thuẫn nội tại ấy. Một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (Đào kép mới; Tinh thần thể dục; Chính sách thân dân…) đã đáp ứng được yêu cầu đó. Những truyện ngắn này đã vạch ra những mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức để bật lên tiếng cười đả kích. Cách mạng tháng Tám thành công, khi một loạt các nhà văn phải trăn trở “lột xác”, “nhận đường” thì Nguyễn Công Hoan tuyệt nhiên không có hiện tượng đó. Bạn đọc có thể đọc có thể đọc một truyện ngắn trong “Kiếp hồng nhan” viết năm 1920 với truyện “Chiếc xe lam” một trong những sáng tác sau cùng khi nhà văn vào Sài Gòn giải phóng năm 1975 không hề thấy một khoảng cách thời gian. Nguyễn Công Hoan không lúc nào cũ, đó là bí quyết của ông. Bí quyết ấy bắt nguồn từ chắt lọc ý nghĩ, tư tưởng đời sống xã hội, từ việc sáng tác bằng tiếng nói hàng ngày ở xung quanh của nhà văn. Vì vậy, ở Nguyễn Công Hoan tả chân, tả thực kia và Nguyễn Công Hoan hiện thực sau này chỉ là rút kinh nghiệm hay thiếu sót bổ sung. 12
- Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng nền giáo dục phong kiến của người bác, văn học dân gian qua giọng kể của bà, đặc biệt là những truyện tiếu lâm. Ông cũng chịu ảnh hưởng nhiều của văn học Pháp, nhất là trong những năm học ở trường Sư phạm, của văn Tản Đà, thơ Tú Xương… và báo chí đương thời. Do vậy, truyện ngắn của ông có nhiều nét gần với gần với truyện cười dân gian nhưng văn lại khá mới. Với bản tính thích khôi hài, lại sống trong thời buổi nhố nhăng nên truyện của ông thường là những truyện hoạt kê – truyện bật lên những chuỗi cười rơi nước mắt. Nhà nghiên cứu Xô Viết Niculin đã viết:“Chính trong loại truyện ngắn trào phúng đó, thiên tài xuất sắc của nhà văn được nảy nở hết sức mạnh mẽ”[37/78]. Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Công Hoan đã đóng góp cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đạt đến một nghệ thuật khá điêu luyện. Đến nay, nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể sang sân khấu (Tắt lửa lòng), điện ảnh (Lá ngọc cành vàng) và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như: Nga, Bungari, Anbani, Đức, Cu ba, Ấn Độ, Pháp, Nhật Bản…vinh dự lớn nhất mà nhà văn đạt được là năm 1996 ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1). Ở trong nước, theo thống kê năm 1996 tổng số sách của ông đã xuất bản là 33 cuốn, trong đó có những cuốn 4 tập. Ông là một trong những nhà văn Việt Nam có tác phẩm in ở Nhà xuất bản Văn học nhiều nhất, tổng số đầu sách được in lên tới 25 cuốn. Tác phẩm “Bước đường cùng” của ông được xếp vào hàng những tác phẩm được in nhiều nhất (10 lần) với con số kỷ lục trong một lần xuất bản (lên tới 20.100 bản năm 1962). Năm 1997 chuẩn bị 95 năm ngày sinh của nhà văn (1903 – 1998), Nhà xuất bản Văn nghệ trẻ thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời 9 cuốn tiểu thuyết với tên “Tủ sách Nguyễn Công Hoan”. Có nhiều công trình khoa học ở trong nước và quốc tế nghiên cứu về ông và tác phẩm của ông. Nguyễn Công Hoan thực sự trở thành một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 1.1.2. Truyền thống gia đình. Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, 13
- tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Truyền thống gia đình với Nguyễn Công Hoan có sự ảnh hưởng sâu sắc tới sự nghiệp văn chương của nhà văn sau này. Có thể nói, tuổi ấu thơ của ông giống như “kho tài liệu” quý giá cho ông khai thác dần dần về sau. “Nếu tờ giấy trắng được nhuộm màu nào đầu tiên thì cái màu ấy là nền, nó rõ mãi và bền mãi. Thì trong đời người ta những điều mắt thấy, tai nghe được và nhớ lâu nhất, tạo cho con người một nền tảng về tư tưởng đối với sự việc, một khả năng làm cái gì sau này” [25/53]. Cách nói đầy hình ảnh chứng minh cho con đường sáng tác của nhà văn, đặc biệt trong những giai đoạn đầu. Đó là ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình và hoàn cảnh xã hội thời đại Nguyễn Công Hoan. Sinh ra và trưởng thành trong gia đình nhà quan, ông tự hào “về một dòng dõi mà người ta gọi là thế phiệt. Từ xưa đến nay, vào đời nào cũng có người đỗ đại khoa và làm quan to”. Lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan đến ở với bác là Nguyễn Đạo Quán, đỗ phó bảng và làm đến chức tri phủ. Sáu tuổi học chữ Nho và mười tuổi xoay sang học chữ Pháp. Niềm tự hào về dòng dõi phần nào sinh ra “tính tự phụ, tự cao” ở cậu bé Hoan ngay từ hồi cắp sách đến trường. Vốn thông minh, tinh nghịch, lại pha chút tự cao về truyền thống gia đình, Nguyễn Công Hoan “trở nên một thằng học trò lười biếng đọc sách, khinh thế ngạo vật, nhưng lại là người biết tự hào dân tộc, biết thù ghét những gì làm tổn thương đến hào khí dân tộc”. Khi thời thế đổi thay, Nho học không còn hợp thời, gia đình Nguyễn Công Hoan rơi vào cảnh lẹt đẹt, nghèo túng. Người bất mãn với chế độ mới nhiều nhất là cha ông - Nguyễn Đạo Khang. Đêm nào cha cũng kể chuyện quan Ta, quan Tây, 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 263 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 305 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 154 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 146 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 158 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn