intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Thơ tình của Xuân Quỳnh từ góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: Khetien Khetien | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:115

304
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu nhằm thực hiện các mục tiêu: vận dụng kiến thức về văn hóa ứng xử giới để làm nổi bật sự mới mẻ, độc đáo, chất hiện đại, tính đột phá trong diễn ngôn của người phụ nữ trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh; đưa đến một cái nhìn đầy đủ về diện mạo thơ tình Xuân Quỳnh nói riêng và sự nghiệp thơ ca Xuân Quỳnh nói chung;... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Thơ tình của Xuân Quỳnh từ góc nhìn văn hóa

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC DƯƠNG THỊ NGỌC HÀ THƠ TÌNH CỦA XUÂN QUỲNH                            TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ                 LUẬN VĂN THẠC SĨ  VĂN HỌC VIỆT NAM          Thái Nguyên – 2016 1
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC DƯƠNG THỊ NGỌC HÀ THƠ TÌNH CỦA XUÂN QUỲNH                            TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60220121                      LUẬN VĂN THẠC SĨ:  VĂN HỌC VIỆT NAM           NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN NHO THÌN Thái Nguyên – 2016 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Trong quá trình được học Cao học và thực hiện Luận văn Thạc sĩ khoa   học tại Khoa Ngữ văn ­Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên, tôi đã được sự  quan tâm giúp tận tình của Nhà trường, của khoa, của các thầy, cô giáo trực tiếp   giảng dạy và của PGS.TS Trần Nho Thìn – người hướng dẫn khoa học. Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu của tôi là một đề tài mới và chưa từng   được công bố! Dương Thị Ngọc Hà Học viên Cao học Ngữ văn Khóa 8 3
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài                   1.1. Trong cuốn “Các vấn đề của khoa học văn học”( Nxb KHXH, Hà   Nội, 1990, tr361), tác giả M.Bakhtin nhận định: “Văn học là một bộ phận không  thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn  bộ  văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại. Không được tách nó khỏi các bộ  phận khác của văn hóa”. Như vậy, bất cứ một sự sáng tạo sinh nở nào trong văn  chương đều thoát thai từ  một bối cảnh văn hoá nhất định. Bất cứ  đứa con tinh  thần nào của người nghệ  sĩ đều được nuôi dưỡng bằng  cuống nhau của thời   đại, được hấp thu các chất dinh dưỡng từ  hiện thực đời sống với tất cả  sự  phong phú và đa dạng của các giá trị văn hóa. Do đó, mã văn hoá của từng thời kì  lịch sử  sẽ  hắt bóng trong văn chương,  ảnh hưởng, chi phối tới cấu trúc nội tại   của tác phẩm như  cách xây dựng hình tượng nhân vật  ở  nhiều phương diện:  ngôn ngữ, giọng điệu, hành vi ứng xử…Vì vậy, tiếp cận một tác phẩm văn học  từ  một quan điểm văn hoá, một không gian văn hoá mà tác phẩm đó ra đời sẽ  mang lại nhiều ý nghĩa mà các cách nghiên cứu khác không có được.               1.2   Thế giới được tạo thành và duy trì bởi hai giới: nam và nữ (đàn ông   và đàn bà). Mọi giá trị  của cuộc sống dù là vật chất hay tinh thần đều do con   người sáng tạo ra với mục đích để phục vụ chính con người. Vậy nên, là một bộ  phận cấu thành của văn hóa, văn hóa giới có ý nghĩa quan trọng đối với sự  tồn   tại xã hội của con người. Theo đó, văn hoá ứng xử giới (ứng xử giữa nam và nữ)   là vấn đề  rất cần được quan tâm.  Ở  Việt Nam, truyền thống văn hoá  ứng xử  giới mang tính nam quyền. Tư tưởng nam quyền từ bao đời nay đã chi phối hành   vi  ứng xử  của cả  nam giới và nữ  giới không chỉ  trong đời sống xã hội mà cả  trong đời sống văn học.        1.3  Người phụ  nữ  là một nửa nhân loại. Phân tích nhân vật nữ  trong   văn xuôi hay thơ  không thể  không chú ý đến đặc điểm giới. Lý luận về  nghiên  cứu giới trong văn học thế giới có nhiều thành tựu có ích cần được ứng dụng vào  1
  5. Việt Nam. Tuy vậy, trong sách giáo khoa ngữ văn trung học phổ thông hiện nay,  cũng như trong thực tiễn giảng dạy văn học ở trường nói chung, thi ca nói riêng,   hầu như  chưa có sự  quan tâm đến khía cạnh giới của nhân vật văn học là phụ  nữ.  Trong xã hội nam quyền, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, sinh hoạt… dành cho phụ  nữ  đều do đàn ông áp đặt. Nhìn vào thực tế  cuộc sống chúng ta   thấy,  các sách “Gia huấn ca” xưa dùng để dạy con cái trong gia đình (trong đó có  các cô gái) đều do đàn ông viết (các nhà nho). Lễ ký của nhà nho hiển nhiên cũng  do đàn ông soạn. Những quy định lễ  giáo ngặt nghèo như  “nam nữ  thụ  thụ  bất  thân”, thuyết “tam tòng”, “tứ đức” do đàn ông áp đặt lên cuộc đời người phụ nữ.   Bước sang lĩnh vực văn học, sáng tác của các nhà nho chủ  trương đề  cao người   phụ nữ trinh tiết, trinh liệt đồng thời “ma quỷ hóa” những phụ nữ có quan niệm   phóng khoáng về  tình yêu…Môi trường văn hóa đó đã hình thành một áp lực   khiến người phụ nữ phải im lặng, giấu kín các ý nghĩ, cảm xúc riêng tư của họ,  nhất là cảm xúc về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Giới nghiên cứu quốc tế gọi đây   là hiện tượng người phụ  nữ  mất ngôn.  Trong ca dao và cả  văn học trung đại,  người phụ nữ truyền thống thể hiện tình yêu một cách e lệ, rụt rè, bị động, thầm   kín, coi như  đó là vẻ  đẹp của nữ  tính. Nếu có tiếng nói của nhân vật nữ  trong  văn học thì đó lại là hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ, nói hộ người   phụ nữ tâm tình riêng tư, tình yêu, tình vợ chồng. Những hiện tượng có sự trùng  hợp tác giả  và nhân vật trữ  tình trong thơ  ca về  tình yêu (như  thơ  tình Xuân  Quỳnh) thường  là hiện tượng đột xuất cần chú ý phân tích nhưng tiếc là chưa  được giới nghiên cứu phê bình quan tâm.  Do vậy, lựa chọn điểm nhìn từ  bối  cảnh văn hoá, chúng tôi quan tâm đến văn hoá  ứng xử  giới, văn hoá diễn ngôn  của phụ nữ trong đề tài tình yêu.            1.4   Như trên chúng tôi đã nói, do áp lực của văn hóa nam quyền mà suốt   mười thế kỉ văn học trung đại Việt Nam cho đến trước năm 1945, nam nhân hầu  như  độc chiếm thi đàn tình yêu. Lịch sử văn hóa diễn ngôn của người phụ nữ ở  2
  6. địa hạt thơ  tình dường như  luôn là mảnh đất trống. Dám chủ  động thể  hiện  những cảm xúc yêu đương, những khát khao con gái thầm kín, đấu tranh đòi  quyền yêu và được yêu vẫn chỉ thuộc về bản lĩnh của một nhà thơ  nữ  duy nhất   trong suốt thời kì văn học dân gian và mười thế kỉ văn học trung đại Việt Nam là   Hồ Xuân Hương. Nhưng thực ra cái tôi trữ tình của Hồ Xuân Hương cũng chỉ lên  tiếng với tư cách nói lên tiếng nói của người phụ nữ làm lẽ phê phán chế độ  đa  thê và thân phận chua chát chứ không phải là nói tiếng nói của cô gái yêu đương.   Mãi đến giữa thế kỉ XX, thơ tình Việt Nam mới lại được đón nhận “những nữ  thi nhân đồng thời là nữ  tình nhân trực tiếp nói lên cảm xúc yêu đương của   họ”(Trần Nho Thìn, văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, NXBDG,   2012, tr 486). Gương mặt “nữ thi nhân đồng thời là nữ tình nhân” tiêu biểu, có vị  trí quan trọng của nền văn học Việt Nam hiện đại chúng tôi muốn nói đến là  người con của làng La Khê nổi tiếng với nghề dệt the, dệt gấm ­ Xuân Quỳnh.      1.5. Bước ra từ khói lửa, đạn bom của cuộc kháng chiến chống Mỹ như bao   nhà thơ khác cùng thế hệ nhưng Xuân Quỳnh đã nhanh chóng tạo được một diện   mạo riêng, một giá trị  riêng cho sự  nghiệp văn học của mình. Gần một phần tư  thế  kỉ  lao động nghệ  thuật, thời gian đó không nhiều so với một đời thơ  nhưng  bằng tấm lòng yêu người, yêu đời tha thiết; bằng khát vọng dâng hiến mãnh liệt;  bằng tinh thần lao động nghệ thuật hết mình,  Xuân Quỳnh đã kịp để lại cho đời  một di sản văn học quý báu. Ở người phụ nữ này, làm thơ dường như không chỉ  là một duyên nghiệp kiểu “Trời đày” mà trên hết, thơ ca chính là cứu cánh, là lẽ  sống của đời chị. Từ thi phẩm đầu tay cho đến những sáng tác cuối cùng, chúng   tôi thấy Xuân Quỳnh thật sự là một tâm hồn đã sống cho thơ, sống trong thơ và   sống bằng thơ. Đặc biệt, chị  viết nhiều về  tình yêu. Dường như  tình yêu là  mảnh đất hứa cho tài năng của chị được bộc lộ, cho cảm xúc của chị được thăng  hoa, cũng là mảng sáng tác mà Xuân Quỳnh bỏ ra nhiều tâm huyết nhất và cũng  khiến chị  trăn trở  nhiều nhất. Do vậy, đề  tài tình yêu chiếm một số  lượng khá  lớn, có vị  trí quan trọng trong việc thể  hịên diện mạo, bản sắc hồn thơ  Xuân  3
  7. Quỳnh cũng như  định hình phong cách nghệ  thuật của chị  ­ một “Nữ  hoàng thơ  tình” – gương mặt thơ nữ xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.                 1.6.  Thơ tình Xuân Quỳnh không chỉ có giá trị  vì nó chiếm phần lớn   trong gia tài thơ của chị mà còn vì vị  trí danh dự  của nó trong chương trình Ngữ  Văn THPT. Sự  hiện diện của thơ tình Xuân Quỳnh qua bài thơ  “Sóng” đã mang  đến cho người đọc những trải nghiệm thẩm mỹ mới về quan niệm tình yêu, về  diễn ngôn văn hóa của người phụ nữ trong một đề tài đã quá ư quen thuộc. Đã có  rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ tình của Xuân Quỳnh nhưng hầu hết các  tác giả  mới chỉ  tiếp cận mảng  sáng tác này hoặc từ  góc độ  nội dung, hoặc từ  góc độ thi pháp học, từ tiểu sử nhà thơ…chứ chưa có một công trình nào tiếp cận  thơ tình Xuân Quỳnh từ góc độ văn hóa học.  Các quan sát trên giải thích vì sao  chúng tôi chọn đề  tài “Thơ  tình Xuân  Quỳnh từ  góc nhìn văn hoá” để  nghiên cứu. Từ  điểm nhìn này, chúng tôi mong  muốn rọi thêm tia sáng mới vào thế giới thơ tình Xuân Quỳnh, lí giải sức quyến  rũ của thơ  tình Xuân Quỳnh, mang đến những khám phá, những cảm nhận đầy  đặn, tròn trịa về mảng sáng tác tâm huyết nhất và cũng thành công nhất của chị.  Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn qua góc nhìn văn hoá, chỉ ra được vẻ đẹp   mang tính “đột phá”, tính “cách mạng” của Xuân Quỳnh ở đề tài  tình yêu  trong   dòng chảy chung của thơ tình dân tộc. 2.  Lịch sử nghiên cứu vấn đề.                Thơ tình của Xuân Quỳnh từ khi chào đời đã ám ảnh độc giả ở nhiều   thế hệ. Vì vậy, nó không còn là mảnh đất trống, sức mời gọi của mảng sáng tác   này đối với những cây bút nghiên cứu, phê bình văn học luôn có một ma lực đặc  biệt. Trong quá trình khảo sát, với tài liệu có hạn, chúng tôi nhận thấy có những   công trình nghiên cứu sau về thơ tình Xuân Quỳnh:              ­ Trong sách giáo viên Văn học lớp 12 ­ Tập một, NXBGD năm 2000,   Nguyễn Văn Long trong phần “Gợi ý phân tích cụ  thể”  bài thơ  Sóng  có nói:  4
  8. Người phụ  nữ  yêu trong thơ  Xuân Quỳnh mạnh bạo, chân thành bày tỏ  những   khao khát trong lòng mình, là điều rất mới mẻ, trong đời và cả trong thơ. (Trước   đây đã có nàng chinh phụ  trong Chinh phụ  ngâm khúc cũng đã nói đến những   khao khát hạnh phúc lứa đôi, nhưng trong thơ  xưa chưa thể  có một người phụ   nữ bày tỏ trực tiếp tình yêu của mình). Đó là thứ tình yêu hết mình, quên mình, nó   cũng đòi hỏi sự duy nhất, sự tuyệt đối, và luôn đi liền với khát khao về  mái ấm   gia đình, với sự gắn bó lâu bền, thuỷ  chung. Điều đó chứng tỏ  rằng quan niệm   tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn có gốc rễ trong tâm thức của dân tộc. Ở đây,  tác giả  bài viết đã chỉ  ra điều mới mẻ trong đời và thơ  Xuân Quỳnh chính là sự  táo bạo, chân thành bày tỏ  khát khao tình yêu đôi lứa – điều mà người phụ  nữ  xưa (trong đời và trong thơ) chưa bao giờ dám nói. Đây là những quan sát chạm   đến văn hóa giới nhưng chưa thấy Nguyễn Văn Long triển khai sâu. Vì vậy,  Nguyễn Văn Long chưa hoàn toàn chính xác khi chỉ ra nét tương đồng giữa người  phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh với nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc vì  tác giả Đặng Trần Côn đã hư cấu giọng nói của người chinh phụ. Nghĩa là ở đây   có hiện tượng tác giả  nam mượn giọng nhân vật nữ  còn trong Sóng nói riêng và  thơ tình của Xuân Quỳnh nói chung, nhân vật trữ tình chính là cái  tôi tác giả. Hơn  nữa, cái đích của bài viết vẫn hướng người đọc vào đặc điểm truyền thống trong  quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh.           ­  Lưu Khánh Thơ trong bài tựa đề tập sách  Xuân Quỳnh ­ Cuộc đời   gửi lại trong thơ có nhận định “Trước Xuân Quỳnh có lẽ chưa có người phụ nữ   làm thơ nào đã nói về tình yêu bằng những lời cháy bỏng, thiết tha và nồng nàn   đến thế”. Đây là một đánh giá rất quan trọng, có tính chất gợi mở và định hướng  tiếp nhận cho người đọc khi đến với thơ tình Xuân Quỳnh. Tuy nhiên, đó mới chỉ  dừng lại là  một nhận xét chung của tác giả bài viết trong quá trình khảo sát cuộc   đời và thơ ca của Xuân Quỳnh chứ không phải là kết quả nghiên cứu dành riêng  cho mảng thơ tình yêu của nữ sĩ.  5
  9. ­ Bài viết Thơ tình Xuân Quỳnh ­ Tiếng nói mới của thơ dân tộc  của Phan  Ngọc có ý nghĩa quan trong với người viết trong qua trình thực hiện luận văn .  Tác giả  bài viết đã chỉ rõ sự đồng nhất và nét khác biệt của Xuân Quỳnh so với  các nhà thơ nữ trước và cùng thời với chị  khi viết về đề  tài tình yêu. Đồng thời   Phan Ngọc còn chỉ  ra sự  đóng góp to lớn của Xuân Quỳnh  ở  mảng thơ  tình đối   với nền văn học dân tộc khi cho rằng  thơ tình Xuân Quỳnh là  “Tiếng nói mới   của thơ  dân tộc, tiếng nói phản ánh chiểu sâu của văn hoá dân tộc.”  và “Thơ  tình của chị  khác tất cả  mọi thơ tình bởi cái lớn, cái thời đại của nó”. Dù vậy,  bài viết mới chỉ  dừng lại  ở  góc độ  nhận xét, thiếu sự  minh giải cần thiết và   những minh chứng cụ thể ở mảng sáng tác này. ­ Đứng từ góc độ nội dung, Trong bài viết Xuân Quỳnh ­ một chồi thơ sắc   biếc, Chu Nga có nói “Tình yêu trong thơ Xuân quỳnh là một tình yêu say mê, sôi   nổi, bạo dạn và rất chủ động.” Cũng vậy, TS Đoàn Thị Đặng Hương  trong bài  viết về  thơ  Xuân Quiỳnh  Người đàn bà yêu và làm thơ  nhận định  “Trong thơ,   Xuân Quỳnh đã hát một giọng riêng khác với ngay cả những tác giả nữ khác về   tình yêu. Nó có một sắc thái táo bạo và nhiều khi còn dữ dội nữa. (Ở thời kì ấy,   thơ  tình của chị đôi khi còn làm cho những nhà thơ  đàn ông phải nể  vì ). Chị  là   một trong những tiếng thơ  rất sớm của một người con gái, một người đàn bà   chủ động yêu và đòi quyền được yêu. (ở cái thời mà người ta quen nhìn phụ nữ ­   dẫu là trong văn học một vai trò bị động và yếu đuối.” ­ Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền trong bài viết Bình bài thơ  Sóng của   Xuân Quỳnh có viết “Đến Xuân Quỳnh, thơ Việt Nam hiện đại mới có được một   tiếng nói bày tỏ  trực tiếp những khát khao hồn nhiên, chân thật, vừa mãnh liệt,   sôi nổi của một trái tim phụ  nữ”.  Tác giả  của bài viết trên   đã chỉ  ra vẻ  đẹp   riêng, độc đáo của tiếng nói tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh nhưng  kết luận trên  vẫn thiên về cảm nhận mà chưa phải là kết quả của một quá trình nghiên cứu có   chủ đích từ  góc nhìn văn hoá. Hơn nữa, đấy mới chỉ là đánh giá riêng từ  bài thơ  Sóng. 6
  10. ­ Nguyễn Thị  Minh Thái trong bài viết “Một giọng thơ  tình ám  ảnh”đã  nhận xét “ Những câu thơ giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa qua, còn   đọng lại trên lá cây. Chỉ  cần một làn cảm xúc chợt đến, khẽ  chạm vào lá, là   những câu thơ   ấy sẽ  rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên   giữa lòng ta... có lẽ  cái khát vọng tình yêu từng thiêu đốt thơ  Xuân Quỳnh cũng   thiêu đốt luôn cả người đọc”.        - Trong bài viết “Vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh”, Nguyễn Xuân Nam có nhận xét  “Xem yêu đương như một khía cạnh của quyền sống của mình, chùm thơ tình yêu   của Xuân Quỳnh có tính chất mới, được tuổi trẻ ngày nay ưa thích”. Đồng thời,   tác giả  bài viết còn nhận ra  ở  thơ  Xuân Quỳnh “vẻ  đẹp hồn nhiên, mang đậm   nét nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, và nhân hậu nhưng lại không vướng mặc cảm   cho mình là phái yếu của con người Xuân Quỳnh trong thơ. Với bản tính ấy thơ   tình của chị chủ động, bao dung mà cũng thiết tha dữ dội”            Như vậy, nhìn lại lịch sử tiếp nhận thơ tình  của Xuân Quỳnh, chúng tôi  nhận thấy mảng sáng tác này chưa được nghiên cứu từ  góc độ  văn hoá học,  cụ  thể là văn hóa ứng xử  giới.  Nghĩa là khi tiếp cận thơ tình Xuân Quỳnh, chưa có   nhà nghiên cứu nào có ý thức triển khai cách tiếp cận giới, chưa lí giải và soi  chiếu đối tượng từ  văn hóa  ứng xử  giới.  Đây là vẻ  đẹp còn bỏ  ngỏ, là khoảng  trống cần được lấp đầy. Tuy nhiên, từ  những bài viết đó, cá nhân người viết đã  học tập và tiếp thu được nhiều kiến thức bổ  ích giúp cho việc thực hiện luận   văn phát triển theo chiều hướng tốt.    3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài là “Thơ tình Xuân Quỳnh từ góc nhìn văn hoá”, vì vậy chúng tôi chỉ  tập trung tìm hiểu, nghiên cứu mảng sáng tác về  tình yêu của Xuân Quỳnh đặt   trong bối cảnh văn hoá giới, văn hóa diễn ngôn của người phụ nữ  Việt Nam từ  xưa đến nay. 7
  11. 3.2 Mục tiêu nghiên cứu            Thực hiện đề tài “Thơ tình Xuân Quỳnh từ góc nhìn văn hoá”, chúng tôi  nhằm thực hiện 3 mục tiêu sau: ­Vận dụng kiến thức về văn hóa ứng xử giới để  làm nổi bật sự mới mẻ,  độc đáo, chất hiện đại, tính đột phá trong diễn ngôn của người phụ nữ trong thơ  tình yêu của Xuân Quỳnh.  ­ Đưa đến một cái nhìn đầy đủ về diện mạo thơ tình Xuân Quỳnh nói riêng và sự nghiệp thơ ca Xuân Quỳnh nói chung.    ­ Những đóng góp của thơ tình Xuân Quỳnh đối với thơ tình Việt Nam nói  riêng (đặc biệt trong bối cảnh văn học, thơ ca thời kì chống Mỹ) và nền văn học  Việt Nam hiện đại nói chung.                4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ  nghiên cứu:  Để  đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi  thực hiện các nhiệm vụ sau:                  ­ Khảo sát, phân loại mảng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh.                  ­ Khảo sát các công trình nghiên cứu về thơ tình của Xuân Quỳnh.                   ­ Thu thập những tài liệu có liên quan đến cuộc đời của Xuân Quỳnh,  đến các sáng tác thơ ca của nữ sĩ, đặc biệt là  mảng thơ viết về tình yêu.                    ­ Thu thập và nghiên cứu những tài liệu viết về văn hoá giới, về xã   hội nam quyền. 8
  12.                    ­ Sưu tầm và nghiên cứu những tác phẩm thơ tình Việt nam nói chung  và diễn ngôn phụ  nữ  trong thơ tình nói riêng  tiêu biểu  ở  các giai đoạn văn học   khác nhau                   ­ Xác định những nét nổi bật của bối cảnh văn hóa (đặc biệt là văn   hoá  ứng xử  giới, văn hoá diễn ngôn ) và  ảnh hưởng của nó đến văn học, đến   cách xây dựng hình tượng người phụ  nữ  trong văn học xưa và nay. Từ  đó xác   định cái mới, đóng góp, cách tân của Xuân Quỳnh qua những sáng tác về  đề  tài  tình yêu.                      4.2. Phương pháp nghiên cứu:          Để triển khai đề tài, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu   chính sau:          ­ Phương pháp thống kê, phân loại.        ­ Phương pháp tiếp cận từ góc nhìn văn hoá học.             ­ Phương pháp so sánh văn học (Được áp dụng ở nhiều cấp độ: so sánh  các tác phẩm  ở các thời kì sáng tác khác nhau, so sánh thơ tình của Xuân Quỳnh   với thơ tình của các tác giả nữ và tác giả nam trước và cùng thời với chị.)              ­ Phương pháp tiếp cận trên tinh thần thi pháp học.                 Ngoài ra, để luận văn có tính khoa học và hệ thống, chúng tôi còn vận   dụng kết hợp một số phương pháp khác như: phân tích, bình giảng, chứng minh,  liên văn bản…      5. Phạm vi nghiên cứu.   Để  đạt được mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ  mảng thơ tình của Xuân Quỳnh. Đồng thời liên hệ so sánh với một số tác phẩm  9
  13. thơ  tình Việt Nam  ở nhiều giai đoạn văn học  khác nhau nhằm làm sáng tỏ  các   vấn đề cần trình bày.   6. Cấu trúc của luận văn Luận văn của chúng tôi ngoài phần mở đầu , phần kết luận, thư mục tham  khảo, phần nội dung gồm có 3 chương: ­ Chương 1: Thơ tình Việt Nam và phương pháp tiếp cận văn hóa học. ­ Chương 2: Nội dung thơ tình Xuân Quỳnh từ góc nhìn văn hóa ­ Chương 3: Thi pháp thơ tình Xuân Quỳnh nhìn từ góc nhìn văn hóa 7. Đóng góp của luận văn. ­ Về mặt lí luận:  Luận văn chứng minh sự cần thiết phải áp dụng phương pháp  tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học, kể cả với các tác phẩm văn học   hiện đại. ­ Về  mặt thực tiễn:   Mang đến một cách tiếp cận mới cho thơ tình của Xuân  Quỳnh,  từ đó chỉ ra những vẻ đẹp còn tiềm ẩn của mảng sáng tác này cũng như  những đóng góp quan trọng của Xuân Quỳnh đối với nền văn học Việt Nam hiện  đại  ­ điều khiến chị được tôn vinh là “ Nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế   kỉ XX ” ( Vũ Quần Phương ).  8. Những chú giải kí hiệu, viết tắt trong luận văn. ­ Kí hiệu trích dẫn: + Số đầu: Sách tham khảo (theo thứ tự những đề mục tài liệu trong bảng  tài liệu tham khảo)  + Số sau: số trang. ­ Viết tắt: + Nxb : Nhà xuất bản. 10
  14.      +TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh.      + SGV: Sách giáo viên.      + NXBGD: Nhà xuất bản giáo dục. PHẦN NỘI DUNG Chương 1:    Thơ tình Việt Nam và phương pháp tiếp cận văn hóa học.                 Ra đời giữa những vui buồn của loài người, bước những bước đồng   hành tri kỉ, thơ ca ( chúng tôi muốn nói tới thơ trữ tình) đã trở thành bầu sữa tinh   thần không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Có người tìm đến thơ như  tìm về  chốn nương náu bình yên nhất của tâm hồn. Có người lại dùng thơ  như  một sự giải thoát. Ai đó lại tìm đến thơ ca để được sẻ chia, được thấu hiểu. Và   với sức mạnh tinh thần vô song của mình, thơ  ca có khả  năng rịt lành, băng bó,   làm hồi sinh… những trái tim khô héo, rụi tàn. Phải chăng thơ đã trở thành “Rượu   của thế  gian”(Huy Trực). Thơ  đã, vẫn và sẽ  mãi mãi: “là một sức đồng cảm   mãnh liệt và quảng đại”(Hoài Thanh – Hoài Chân Thi nhân Việt Nam). Giá trị tinh  thần to lớn  ấy của thơ  đã khiến cho nó luôn hiện diện bằng nhiều cách khác   nhau trong cuộc sống của con người.              Là một bộ  phận hữu cơ của thơ trữ  trình, thơ  tình lại có một đời sống  riêng, sức hấp dẫn riêng trong lòng nhân loại. Có lẽ  chưa có một người nghệ  sĩ  nào lại chưa từng một lần cầm bút viết về  tình yêu – một thứ  tình cảm thiêng   liêng, cao đẹp và giàu tính nhân văn này. Dường như đề tài tình yêu ở thời kì văn   học nào cũng có, nó xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, với những mức   độ và vẻ  đẹp khác nhau khiến thơ  tình trở  thành một dòng chảy liên tục và bền  bỉ trong lịch sử thi ca Việt Nam. Do vậy, tìm hiểu khái niệm thơ tình là một khâu  quan trọng đầu tiên của qúa trình thực hiện đề tài          1.1. Khái niệm thơ tình.                   Để làm sáng tỏ khái niệm này, chúng tôi bắt đầu từ việc khảo sát hai   chữ  ái tình. Theo từ  điển Tiếng Việt do tác giả  Hoàng Phê chủ  biên – NXb Đà   11
  15. Nẵng, năm 2002, chữ  Tình được hiểu theo ba nghĩa: thứ nhất là chỉ tình cảm nói  chung , thứ hai chỉ sự yêu mến, gắn bó giữa con người với con người, thứ ba chỉ  sự  yêu đương giữa nam và nữ. Chữ  ái tình  được hiểu là tình yêu nam nữ. Qua  lăng kính Phật giáo, ái nghĩa là sự yêu mến, là sự thèm khát, ham muốn xuất phát  từ  sự  tiếp xúc của giác quan với đối tượng của các giác quan đó. Theo PGS.TS.   Trần Nho Thìn, khái niệm tình được một số học giả phương Tây dịch là emotion   –  cảm xúc. Tổng hợp các cách hiểu trên, trong phạm vi quan tâm của đề  tài,   chúng tôi tạm đưa ra cách hiểu về  thơ  tình như  sau:    Thơ  tình yêu nam nữ  là   những sáng tác thơ thể hiện tiếng nói khám phá và diễn tả những trạng thái cảm   xúc, những khát khao yêu đương, những rung động thầm kín của con người trong   quan hệ tình yêu nam nữ. Những tình cảm cá  nhân, riêng tư  ấy được biểu đạt,   được mã hóa bằng những tín hiệu thẩm mỹ mang đặc trưng riêng nhằm thể hiện   được tình cảm nam nữ chứ không phải là tình cảm yêu mến giữa con người với   con người nói chung.              Từ  cách hiểu trên về  thơ  tình, nhìn lại lịch sử  thơ  ca nước nhà, như  trên  chúng tôi đã nói, có cả một dòng chảy thơ tình xuyên suốt các thời kì văn học. Lí  do trước hết và duy nhất để  văn học ra đời và tồn tại là vì con người. Với tư  cách là một thực thể  văn hóa, trong tiến trình phát triển của mình, con người   không ngừng tìm kiếm, xác lập nguyên tắc cho các ứng xử trong quan hệ với môi  trường tự  nhiên, quan hệ  với xã hội và quan hệ  với chính bản thân mình. Đến  lượt mình, các nguyên tác ứng xử ấy luôn chi phối các phương diện thi pháp của   một tác phẩm văn học. Xin nhắc lại nhận định của  M.Bakhtin mà chúng tôi đã   nói  ở  phần mở  đầu: “Văn học là một bộ  phận không thể  tách rời của văn hóa.   Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại   trong đó nó tồn tại. Không được tách nó khỏi các bộ  phận khác của văn hóa”.  Đứng trên tư cách kép, vừa là chủ thể tiếp nhận, thừa hưởng các giá trị  văn hóa,   vừa là chủ thể sáng tạo, người nghệ sĩ chính là người phản ánh qua văn chương  mình những đặc trưng của văn hóa dân tộc. Do đó chúng tôi muốn đứng từ  góc   độ văn hóa, lựa chon cách tiếp cận văn hóa học để nghiên cứu thơ tình của nữ sĩ  12
  16. Xuân Quỳnh mong phát hiện được những vẻ  đẹp còn tiềm  ẩn trong mảng sáng  tác mà chị gần như  dành nhiều tâm huyết nhất. Tuy nhiên, thơ  tình Xuân Quỳnh  lại ra đời và tồn tại trực tiếp trong cái nôi của thơ tình Việt Nam, bởi vậy khảo   sát thơ tình Việt Nam từ chiều sâu văn hóa dân tộc là một việc làm cần thiết.    1.2.     Đặc điểm của thơ  tình Việt Nam trong bối cảnh văn hoá truyền   thống  (văn hóa nam quyền)           Xuân Quỳnh là một nữ tác giả tiêu biểu của thơ tình Việt Nam. Do vậy ở  đề  tài này, chúng tôi muốn soi chiếu sáng tác của chị  từ  điểm nhìn văn hóa giới  để có cơ sở khoa học so sánh với thơ tình của những tác giả cùng giới cũng như  khác giới trong lịch sử  thơ  tình nước nhà. Từ  đó mới thấy được điểm giống và   khác, đâu là sự  kế  thừa, đâu là sự  cách tân của Xuân Quỳnh  ở  lĩnh vực thơ  tình   yêu. Từ xuất phát điểm đó, chúng tôi cũng muốn tìm hiểu đặc điểm thơ tình Việt  Nam từ  góc độ  giới qua các giai đoạn để  có những cứ  liệu khoa học cho việc   triển khai đề tài.  1.2.1 Quan điểm văn hoá giới ở Việt Nam thời trung đại               Với tư cách là một nửa của nhân loại, người phụ nữ    đã cùng với đàn  ông góp phần quan trọng trong việc tạo ra mọi giá trị của cuộc sống và duy trì sự  sống. Thực tiễn lịch sử cả nhân loại đã phản ánh rõ nét vai trò tạo dựng thế giới   không kém gì đàn ông nhưng người phụ  nữ  lại chưa bao giờ  được nhìn nhận   trong quan hệ  ngang hàng, bình đẳng với đàn ông cả. Họ  bị  xếp vào “giới thứ  hai”, bị xem là “Tha nhân”(The Other) và bị đặt ra bên lề xã hội trong suốt chiều  dài của lịch sử . Sự bất bình đẳng giới này có thể  thấy trong xã hội nhiều quốc   gia thời kì trung đại, ngay cả với các nước được coi là tiến bộ nhất như Pháp và  Mỹ.             Các nhà nữ quyền trong cuộc cách mạng nữ quyền ở phương Tấy cuối thập   niên 60 đầu thập niên 70 của thế kỉ XX chỉ ra thực trạng rằng, suốt một thời kì  dài, nam giới luôn đồng nghĩa với nhân loại, đồng nhất với lịch sử, còn phụ  nữ  13
  17. phụ thuộc vào nam giới. Phụ nữ không chỉ phụ thuộc vào nam giới trong các vai   trò xã hội mà còn trong cái nhìn về  thế  giới: họ  nhìn theo những quy chuẩn đã   được người đàn ông định ra. Triết gia cổ đại Hy Lạp Aristotle từng nhìn phụ nữ  từ  phương diện không hoàn thiện của giới tính: “Phụ  nữ  chỉ  là một người đàn  ông khiếm khuyết”. Tư  tưởng này đã có những tác động,  ảnh hưởng mạnh mẽ  và lâu bền  ở  phương Tây.  Simone de Beauvoir – Nhà hiện tượng học, nhà triết  học hiện sinh, người “chị  cả” của chủ  nghĩa nữ  quyền Pháp cũng  đã kết luận  rằng hầu hết các xã hội trong lịch sử  phương Tây từ  cổ  đại đến hiện đại dưới   sự chi phối của hệ thống phụ hệ nên đã xem phụ nữ  chỉ là kẻ  lệ thuộc vào đàn   ông, chỉ duy nhất đàn ông mới có tự do lựa chọn để xác lập bản chất và tính chủ  thể của mình, còn phụ nữ chỉ là hệ quả của sự lựa chọn  ấy. Bà còn khẳng định  trong hầu hết các thể  chế hôn nhân, phụ  nữ  là kẻ  lệ  thuộc, thứ  yếu và ký sinh,   sự  bình đẳng trong hôn nhân sẽ  vẫn là  ảo tưởng chừng nào đàn ông vẫn nắm   quyền chi phối về kinh tế của gia đình.          Ở phương Đông, Khổng Tử  và nhà Nho của các thế  hệ  cũng luôn bảo thủ  quan điểm “trọng nam khinh nữ”, họ đặt người phụ nữ  ở vị trí thấp kém so với   đàn ông: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, họ  cho rằng “nữ  nhân nan hóa”  nghĩa là dưới cái nhìn của Nho giáo, đàn bà thật khó dạy vì ngu muội, dốt nát,   thiếu năng lực, không có khả năng tiếp thu cái hay, cái mới. Nho giáo đã kìm chân  người phụ nữ quanh quẩn trong những công việc gia đình , ngăn cách họ với thế  giới bên ngoài để họ ngoan ngoãn đến mức đánh mất luôn cả bản ngã của mình   để làm tròn bổn phận của một “nô tỳ”, toàn tâm toàn ý phụng sự đàn ông.          Nằm trong nền văn hóa phương Đông, xã hội Việt Nam  trong một thời kì  lịch sử  lâu dài cũng vận hành theo kiểu xã hội nam quyền, người đàn ông đã   thống ngự  nữ  giới và áp đặt các chuẩn mực của họ về  cái đẹp, về  hành vi, về  đức hạnh …cho người phụ  nữ. Và chính cái nhìn của đàn ông của xã hội nam  quyền đã trở thành một thứ xiềng xích, một thứ gông cùm trói buộc, đè nặng lên  14
  18. cuộc đời người phụ  nữ  nhiều thế kỉ qua. Dưới đây, chúng tôi sẽ  khảo sát quan  điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam trong xã hội xưa. 1.2.1.1 Nữ giới dưới cái nhìn của xã hội nam quyền.            Trong lịch sử văn hóa nhiều nước trên thế giới, ban đầu phụ nữ và đàn ông   có vai trò bình đẳng như nhau. Nam nữ là sự phối kết tự nhiên của vũ trụ. Thậm   chí, chế độ Mẫu hệ đã chứng minh đàn bà đã là chủ nhân thống ngự thế giới đầu   tiên. Nằm trong khu vực nông nghiệp lúa nước thuộc nền văn hóa phương Đông   với vùng văn minh Đông Nam Á, Việt Nam bắt đầu lịch sử  văn hóa của mình   bằng văn hóa Mẫu hệ. Tuy nhiên, các giá trị  văn hóa không phải là một thực thể  bất biến, nó có sự  vận động, thay đổi theo thời gian, qua các giai đoạn lịch sử  khác nhau dưới những tác động của các yếu tố  như  lịch sử, chính trị…Do nằm  trong “vùng văn hóa Hán”, Việt Nam là nước đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn   hóa Khổng Nho, xã hội Việt nam dần chuyển sang chế độ  phụ  quyền, theo đó,   thân phận người phụ nữ cũng hoàn toàn bị thay đổi.           Có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại, Nho giáo được đưa vào Việt Nam và  trở thành học thuyết chính thống được nhiều triều đại Phong Kiến Việt Nam áp   dụng để  trị  quốc. Đặc biệt từ  thế  kỉ  XV trở  đi, tư  tưởng Khổng Tử  và chế  độ  nam quyền với những “Tam tòng”, “Tứ đức”, “Tam cương”, “Ngũ thường” đã trở  thành một thế  lực trói buộc, đàn áp phụ  nữ, biến họ  trở  thành những sinh thể  đứng thấp hơn đàn ông, phụ  thuộc hoàn toàn vào đàn ông. Dưới cái nhìn của xã   hội nam quyền, người phụ  nữ  bị  coi thường, bị  hạ  thấp, bị  khinh miệt. Họ bị  đánh đồng với hạng tiểu nhân: “những người không thể dạy, không thể chỉ dẫn,  đó là phụ nữ và thái giám” ( Kinh Thi); “Nước lũ và thú dữ có thể chế ngự được.  Chỉ có đàn bà và tiểu nhân thì không sao chế ngự được”( Khổng Tử).            Điểm nổi bật trong hệ thống quan điểm văn hóa về  nữ  giới ở  Việt Nam   thời trung đại là tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức”. Chế độ phong kiến đã dùng nó   như  một thữ  vũ khí đầy công năng để  áp bức nữ  giới cũng là để  bảo vệ  cho   quyền lợi của nam giới . Thuyết “Tam tòng”( Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng   15
  19. phu, phu tử tòng tử) trong “Gia ngữ” được giải thích cụ thể như sau: “Người phụ  nữ  là những người nghe theo sự  dạy bảo của người đàn ông. Bởi vậy, đối với  họ, không có sự tự chủ vốn có mà chỉ có đạo “tam tòng”. Khi còn nhỏ theo cha và  những người anh trai trong gia đình, khi đã kết hôn đi theo chồng và khi chồng  chết đi theo con trai của mình mà không tái giá”. Như  vậy, xã hội phong kiến  Việt Nam đã lấy tư  tưởng đầy khắc nghiệt này để  quy chiếu và định danh cho   phẩm chất đạo đức của người phụ  nữ, đẩy họ  vào một cuộc sống không có   quyền tự chủ, mất tiếng nói trong gia đình và ngoài xã hội. Thậm chí nhiều phụ  nữ đã phải chôn vùi cả cuộc đời trong nước mắt, trong nhục nhằn, cay đắng.         Không chỉ  bị  trói buộc trong tư  tưởng “Tam tòng”, cuộc đời người phụ  nữ  còn bị  đè nặng bởi “Tứ  đức” bao gồm công, dung, ngôn, hạnh. Trong đó, công  được hiểu là sự khéo léo của người phụ nữ trong các công việc gia đình; dung là   vẻ đẹp hình thức đoan trang; ngôn là lời nói dịu dàng; hạnh là những phẩm chất   như  yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh…Như  vậy, cùng với “Tam tòng”,   “Tứ đức” đã trở thành công cụ để xã hội nam quyền nhào nặn ra mẫu người phụ  nữ “chuẩn mực” về phẩm chất đạo đức nhằm phục vụ những người được coi là  “giới thứ nhất”:                                      Phận làm gái này lời giáo huấn                                      Lắng tai nghe cổ truyện mới nên                                      Hãy xem xưa những bậc dâu hiền                                       Kiêm tứ đức: Dung, công, ngôn, hạnh.                                       Công là đủ mùi xôi, thức bánh                                       Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim                                        Dung là mặt ngọc trang nghiêm                                        Không tha thiết, không chiều lả tả. 16
  20.                                           Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ                                        Hạnh là đường ngay thảo kính tin                                        Xưa nay mấy kẻ dâu hiền                                        Dung, công ngôn, hạnh là tiên phàm trần.                                                              (Gia hu ấn ca)  Trong xã hội nam quyền, phụ nữ chưa bao giờ được nhìn nhận ở góc độ giới, họ  chỉ được đánh giá trong các mối quan hệ bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ với gia  đình, dòng tộc. Theo đó, đời sống bản năng cũng không được coi trọng. Họ gần   như bị “đánh cắp” bản ngã,  không được là mình, không thể sống cho mình. Đúng   hơn, họ phải sống một cuộc đời theo sự áp đặt của cái nhìn đàn ông, ý muốn đàn  ông cũng như những quan niệm giá trị của văn hóa nam quyền.         Không nhìn nhận và coi trọng người phụ nữ ở góc độ  giới kéo theo thái độ  rất đáng bị lên án của Nho giáo khi khinh miệt, kì thị với sắc đẹp của người con   gái. Xã hội xưa quan niệm sắc đẹp là mầm mống gây họa, gieo rắc bất hạnh cho   gia đình và quốc gia. PGS.TS Trần Nho Thìn trong cuốn “Văn học trung đại Việt  Nam, tr 38”,  khi nhận định về  sự  xung đột giữa nhà nho và sắc đẹp đã viết:   “Nghiêm khắc với sắc đẹp phụ  nữ  hầu như  là một nét tính cách tiêu biểu của   Khổng Tử và đã trở thành một phẩm chất không thể thiếu nơi những người hiền  nhân quân tử, anh hùng trong văn hóa phương Đông. Với ông, không thể  có sự  dung hòa giữa đạo nhân với sắc đẹp”.         Như vậy, trong xã hội nam quyền, bản ngã của người phụ nữ dường như bị  xóa bỏ  hoàn toàn dưới cái nhìn áp đặt của người đàn ông về  vị  trí, vai trò trong   gia đình và ngoài xã hội, về phẩm chất đạo đức, về đời sống bản năng…Vậy nữ  giới  ứng xử  như  thế  nào trước những quan niệm giá trị  đầy khắt khe và phần  nhiều bất công mà xã hội nam quyền đã quàng lên cuộc đời của họ?     1.2.1.2 Văn hóa ứng xử giới trong xã hội nam quyền.  17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2