Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại
lượt xem 7
download
Nội dung nghiên cứu của luận văn "Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại" gồm 3 chương, cụ thể như sau: Thi pháp truyện ngắn và tác giả Quế Hương; Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương; Phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Quế Hương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại
- UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN THỊ THẢO TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 BÌNH DƯƠNG – 2020
- UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN THỊ THẢO TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN BÌNH DƯƠNG - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Luận văn thạc sĩ Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Kim Tiến. Các số liệu và tài liệu tôi sử dụng trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Bình Dương, ngày 25 tháng 4 năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thảo i
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, anh chị, bạn bè cùng gia đình. Với lòng kính trọng sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn: TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, người đã trực tiếp, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ, khuyến khích tôi hoàn thành luận văn này. Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học, Chương trình Ngữ văn - Khoa KHXH&NV, Trường Đại học Thủ Dầu Một, đã tạo các điều kiện cho chúng tôi được học tập và làm luận văn một cách thuận lợi. Ban Giám hiệu, tổ Ngữ văn Trường THCS - THPT Minh Hòa, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương - nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt thời gian và công việc trong quá trình tôi học tập và thực hiện luận văn. Thầy Võ Anh Tuấn, giáo viên Ngữ Văn trường THPT Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu, phục vụ quá trình làm luận văn. Gia đình, bạn bè - những người đã động viên tôi học tập, làm việc và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn! Bình Dương, ngày 25 tháng 4 năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thảo ii
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................5 4. Đóng góp của đề tài .............................................................................................5 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn ................................................................5 6. Cấu trúc của luận văn...........................................................................................6 Chương 1. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VÀ TÁC GIẢ QUẾ HƯƠNG ..............7 1.1.Thi pháp truyện ngắn ..........................................................................................7 1.1.1. Khái lược về truyện ngắn ...............................................................................7 1.1.2. Về thi pháp và thi pháp truyện ngắn ............................................................15 1.2. Vị trí truyện ngắn Quế Hương trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam .......................................................................................................................21 1.2.1. Cuộc đời và văn chương của Quế Hương....................................................21 1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Quế Hương ..........24 1.2.3. Vị trí truyện ngắn Quế Hương với các tác giả nữ cùng thời .......................27 Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG ....................................................................................................................32 2.1. Kiểu nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương ...............................................32 2.1.1 Nhân vật đời thường .....................................................................................32 2.1.2. Nhân vật tâm linh .........................................................................................41 2.1.3. Nhân vật loài vật, đồ vật ..............................................................................46 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương....................50 2.2.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình ..............................................................50 2.2.2. Xây dựng nhân vật qua nội tâm ...................................................................55 iii
- 2.2.3. Xây dựng nhân vật qua tiếp nhận “lí thuyết trò chơi” .................................59 2.2.4. Xây dựng nhân vật theo lối vật hóa .............................................................65 Chương 3. PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG ....................................................................................................................69 3.1. Không gian nghệ thuật......................................................................................69 3.1.1. Không gian cổ tích .......................................................................................69 3.1.2. Không gian tâm linh ....................................................................................72 3.2. Thời gian nghệ thuật .........................................................................................75 3.2.1. Thời gian đồng hiện .....................................................................................75 3.2.2. Thời gian vĩnh cửu .......................................................................................77 3.3. Ngôn ngữ............................................................................................................79 3.3.1. Ngôn ngữ đời thường đậm chất địa phương ................................................79 3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ................................................................................81 3.3.3. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm ....................................................84 3.4. Giọng điệu ..........................................................................................................87 3.4.1.Giọng điệu khắc khoải, lo âu ........................................................................87 3.4.2. Giọng điệu trải nghiệm, suy ngẫm ...............................................................91 3.4.3 Giọng điệu trong sáng, nhẹ nhàng ................................................................93 3.5. Phương thức tổ chức kết cấu ............................................................................95 3.5.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu ..........................................................................95 3.5.2. Nghệ thuật xây dựng chi tiết ..................................................................... 102 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 116 iv
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn, văn học đều mang những đặc điểm riêng để hoàn thành sứ mệnh của nó. Cùng với sự biến chuyển của xã hội, văn học ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ. Nền văn học sau đổi mới với một đội ngũ nhà văn vô cùng đông đảo. Mỗi nhà văn, mỗi người một vẻ, mỗi người một phong cách đã hòa chung và làm nên sự phong phú và đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện nay. Chúng ta có thể kể đến thế hệ tiên phong - đội ngũ những người viết truyện ngắn đương đại với những cây đại thụ như: Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Dậu, Vũ Bão, Nguyễn Kiên... Điểm nổi trội của các nhà văn gạo cội này là, họ đã có ý thức đổi mới ngòi bút của mình để những đứa con tinh thần của mình bắt kịp với những biến chuyển của thời cuộc. Sau thời kì này là sự xuất hiện của những nhà văn có sự bứt phá trong cách viết: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Sương Nguyệt Minh, Phan Triều Hải... Truyện ngắn của các nhà văn này là tiếng nói của một thế hệ đã thật sự có những bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy với những khám phá sâu hơn về đời sống con người và cuộc sống với cái nhìn đa diện, đa thanh mới về hiện thực và con người. Tiếp bước thế hệ của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái là những cây bút cá tính ở thế hệ 7X, 8X như Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Vũ Đình Giang, Phan Việt... và một số gương mặt mới. Những gương mặt này đầy cá tính với chất văn lạ, thể hiện qua những đứa con tinh thần gây được tiếng vang trên văn đàn. Bên cạnh những nhà văn viết truyện ngắn đương đại nam nổi bật, không thể không nhắc đến đội ngũ nhà văn nữ vừa đông đảo, vừa cá tính từ sau đổi mới. Đó là những gương mặt tạo nên dấu ấn đậm nét, không thể nhầm lẫn. Từ đó đội ngũ nhà văn nữ này đã tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi với những cây bút như Đoàn Lê, Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, 1
- Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Lý Lan… và gần đây là Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Di Li, Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Cẩm, Từ Nữ Triệu Vương, Cấn Vân Khánh, Niê Thanh Mai, Ái Duy... và trong đó có cả Quế Hương. Mỗi nhà văn một sắc điệu thẩm mỹ, một lối đi riêng và chính điều đó đã tạo nên sự đa sắc cho nền văn học đương đại. Trong các nhà văn nữ đầy sắc sảo và cá tính, tôi đặc biệt chú ý đến Quế Hương, một nhà văn của xứ Huế với giọng văn đầy chất thơ chất chứa những nỗi buồn nặng trĩu nhưng đã tái hiện đầy đủ, sinh động và chân thật về cuộc sống của con người với tất cả các cung bậc cảm xúc, với những khát vọng của con người vô cùng mãnh liệt. Quế Hương từng viết tản văn, làm thơ nhưng tài năng của Quế Hương được biết đến trên văn đàn với thể loại truyện ngắn và có những truyện ngắn của bà đã được chuyển thể thành phim như truyện Một cuộc đua, Phố Hoài. Đọc truyện ngắn của Quế Hương để thấy được cái quen mà lạ trong quan niệm nghệ thuật về con người của bà đến cách xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng và sống động, ở đó không chỉ có con người mà có cả con vật, có cả những đồ vật vô tri vô giác như những con búp bê, những viên gạch đá, những mảng rêu phơi cũ kĩ... Không những thế, truyện ngắn của Quế Hương còn đặc biệt trong cách tổ chức cốt truyện với những truyện ngắn truyện lồng trong truyện, ngôn ngữ mang hơi thở Huế - Quảng Nam - Đà Nẵng đậm chất trữ tình, triết lí mà nên thơ. Có những truyện ngắn liên văn bản, có truyện mang yếu tố tâm linh, những hình ảnh mang tính biểu tượng và ngoài ra truyện ngắn của Quế Hương chứa đựng bề sâu văn hóa xứ Huế, vùng đất cố đô trầm mặc cổ kính với những món ăn, con đường, khúc hát, câu ngâm, bản đàn... và đặc biệt là những cơn mưa rất Huế. Cơn mưa là chất xúc tác, là cảm hứng cho bà và cho chính nhân vật của bà những trải nghiệm, trăn trở, suy tư để trang viết của bà trở nên sâu hơn, nặng hơn, chạm khắc sâu hơn vào độc giả, để lại trong lòng độc giả những dư âm, cùng với Quế Hương trăn trở về kiếp nhân sinh, từ đó hướng đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Không chỉ thế, qua những truyện ngắn của mình, Quế Hương còn bộc lộ sự xót xa trước sự xuống cấp của đạo đức con người, sự tàn lụi dần của các 2
- di sản dân tộc như văn hóa Chăm với các tháp Chàm đổ nát, phố cổ Hội An, Lăng tẩm Huế... Chính vì thế, truyện ngắn của Quế Hương là một vùng đất tuy đã mang dấu chân người khám phá nhưng vẫn ẩn chứa nhiều điều mới lạ để cho chúng ta khai thác để nghiên cứu. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện về truyện ngắn Quế Hương dưới góc nhìn thi pháp thể loại. Chính vì vậy chúng tôi chọn đề tài Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại nhằm nghiên cứu một cách toàn diện những đặc điểm về thi pháp thể loại truyện ngắn trong sáng tác của Quế Hương. Qua đó thấy được sự đóng góp của nữ nhà văn trong nền văn học đương đại, một tiếng nói của một nhà văn nữ đầy cá tính nhưng không kém phần dịu dàng, cẩn trọng và đằm thắm được gói gọn trong một thể loại cho thấy sức sáng tạo ở lối viết của bà - truyện ngắn. 2. Lịch sử vấn đề Quế Hương là một trong những gương mặt khá mới của nền văn học Việt Nam đương đại nhưng mang một giọng văn rất riêng. Chính vì thế còn khá ít những nghiên cứu về truyện ngắn của bà. Trong các bài nghiên cứu về Quế Hương, nổi bật nhất là công trình nghiên cứu của Võ Anh Tuấn với đề tài Phương thức tự sự trong truyện ngắn Quế Hương. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về phương thức tự sự trong truyện ngắn của Quế Hương ở các phương diện như người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật, cốt truyện và kết cấu tự sự, diễn ngôn nghệ thuật và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Quế Hương. Bên cạnh đó, là bài viết mang tính cảm nhận về đề tài, giá trị hiện thực và nhân văn trong các truyện ngắn Quế Hương với Đọc 27 truyện ngắn của Quế Hương (Nguyễn Phúc Vĩnh Ba). Bài nghiên cứu khoa học Tình yêu và hoài niệm xứ Huế trong truyện ngắn Quế Hương của Lê Thị Minh Hiền, đăng trên Tạp chí khoa học, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012. Bài viết đề cập đến các cung bậc tình yêu, với những khám phá về số phận con người và các giá trị văn hóa tinh thần của Xứ Huế trong truyện ngắn của Quế Hương; Truyện ngắn Quế Hương - Thế 3
- giới của những “nỗi buồn rực rỡ” của Lê Thị Hường được đăng trên Tạp chí Non nước số 190, tháng 9 năm 2013 đã đề cập đến đề tài trong truyện ngắn Quế Hương. Đó là thế giới của những cuộc đời không hoàn hảo, qua đó đề cập đến những vấn đề mang tính chất triết lí của cuộc sống. Ngoài ra bài viết còn đề cập đến thiên nhiên trong truyện Quế Hương, là một thiên nhiên mang tính tâm linh, thanh khiết và đẹp đẽ. Cũng trong bài viết này đã nhắc dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn của Quế Hương, đó là yếu tố liên văn bản; Chất trữ tình trong truyện ngắn Quế Hương của Nguyễn Thị Ngọc Giang, Trường THPT Đào Duy Từ, Quảng Bình đã thể hiện một cái nhìn về giọng văn đầy chất thơ và chan chứa tình cảm trong truyện ngắn của Quế Hương; Trong chuyên luận Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, tác giả Bùi Thanh Truyền bàn về yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Bức tranh thiếu nữ áo lục với những yếu tố như thời gian kì ảo, tình huống kỳ ảo. Trong bài nghiên cứu Biểu tượng nước trong truyện ngắn của Quế Hương được đăng trên Tạp chí Khoa học của Trường Đại học Văn Hiến ngày 4 tháng 7 năm 2016, Võ Anh Tuấn đã đi sâu khai thác biểu tượng nước chứa đựng nhiều ý nghĩa trong truyện ngắn của Quế Hương. Nước không chỉ là sự phiêu dạt của cõi người, nước còn làn sức mạnh thanh tẩy, tái sinh, là bi kịch tình yêu muôn thuở, là khát vọng của sự kiếm tìm và hơn hết, nước thể hiện một thiên tính nữ đằm sâu; Với bài Dấu ấn địa phương trong truyện ngắn của Quế Hương được đăng trên Tạp chí Non Nước tháng 8/2018 cũng được viết bởi Võ Anh Tuấn, người viết đã làm rõ được chất Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng với những giá trị văn hóa không thể trộn lẫn với bất kì một địa phương nào. Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên đã phần nào đề cập đến khía cạnh nội dung cũng như nghệ thuật trong một số truyện ngắn của Quế Hương, tuy nhiên với dung lượng một bài báo khoa học và phạm vi nghiên cứu của đề tài nên các bài viết và công trình nghiên cứu chỉ đi sâu vào nghiên cứu về một khía cạnh nổi bật trong truyện ngắn của Quế Hương. Chính vì thế chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại với tinh thần mong muốn đóng góp một cái nhìn toàn diện để làm hoàn thiện hơn việc nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn của Quế Hương. 4
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Truyện ngắn của Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại: tiếp cận ở thể loại truyện ngắn cụ thể ở các phương diện thi pháp: nhân vật, không gian, ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát 51 truyện ngắn của Quế Hương ở những tập truyện sau: 27 truyện ngắn Quế Hương, Nxb Phụ nữ, 2004. Chiếc vé vào cổng thiên đường xanh, Nxb Trẻ, 2009. Nước mắt hạt bụi, NXB Trẻ, 2018. 4. Đóng góp của đề tài Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những đặc điểm thi pháp truyện ngắn của Quế Hương về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật, qua đó thấy được phong cách truyện ngắn của Quế Hương. Khẳng định những đóng góp của Quế Hương ở thể loại truyện ngắn trong tiến trình phát triển của nền văn học đương đại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Xuất phát từ đặc điểm nghiên cứu, mục đích và ý nghĩa nghiên cứu, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: 5.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học Đây là phương pháp sử dụng những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của một thể loại cụ thể - truyện ngắn để quy ứng vào sáng tác của Quế Hương. 5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp Đây là phương pháp nghiên cứu các tác phẩm của Quế Hương theo từng khía cạnh để xem xét một cách toàn diện nhất, từ đó đưa ra những kết luận thuyết phục. 5
- 5.3. Phương pháp tiếp cận hệ thống Đây là phương pháp giữ vai trò khung, làm cơ sở quan trọng để người viết kiến tạo những luận điểm, luận cứ, làm cho bố cục luận văn có tính chặt chẽ, logic, khoa học. 5.4. Phương pháp loại hình Phương pháp loại hình giúp chúng tôi tiếp cận đặc điểm truyện ngắn của Quế Hương theo đặc trưng thể loại. 5.5. Phương pháp Thiliên phápngành truyện ngắn và tác giả Quế Hương. Sử dụng phương pháp này giúp chúng tôi có thể tiếp cận truyện ngắn Quế Hương với các lĩnh vực khác như hội họa,văn hóa, lịch sử, âm nhạc… 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu của luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Thi pháp truyện ngắn và tác giả Quế Hương. Trong chương này, luận văn nhấn mạnh ở hai vấn đề: đặc điểm của truyện ngắn, vấn đề thi pháp, thi pháp truyện ngắn và vị trí truyện ngắn Quế Hương trong dòng chảy của văn học đương đại Việt Nam. Chương này chúng tôi trình bày dung lượng có 25 trang. Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương. Trọng tâm của chương này trình bày về thi pháp nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương. Chương này có dung lượng 37 trang. Chương 3. Phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Quế Hương. Luận văn trình bày phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Quế Hương ở các phương diện như: Nghệ thuật tổ chức không gian và thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ; giọng điệu và phương thức tổ chức kết cấu. Chương này chúng tôi trình bày trong dung lượng 45 trang. 6
- Chương 1 THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VÀ TÁC GIẢ QUẾ HƯƠNG 1.1. Thi pháp truyện ngắn 1.1.1. Khái lược về truyện ngắn Trong văn học Việt Nam, các thể ghi chép lại dưới dạng một truyện ngắn xuất hiện từ rất sớm. Từ Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái đến Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục - những tác phẩm truyện ngắn trung đại đã bắt đầu manh nha. Qua thời gian, thể loại này càng ngày càng phát triển dưới sự sáng tạo tài hoa của nhà văn. Nhưng có thể nói, truyện ngắn đơm hoa kết trái, đạt được những thành tựu rực rỡ nhất và mang nhiều đột phá nhất là ở những thập kỉ vào nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là từ năm 1930 trở đi. Những truyện ngắn của thời kì đầu mang nặng tính quy phạm của văn học trung đại ở khuynh hướng “văn dĩ tải đạo” và còn mang dấu vết rõ của truyện kí. Đó là quan niệm về quốc gia dân tộc, gia đình, sứ mệnh, bổn phận cá nhân, là cảm hứng trong các tác phẩm của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Vấn đề hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân, sự lựa chọn hạnh phúc trong tầng lớp trung lưu, thượng lưu ở thành thị cũng được khai thác qua nhiều truyện ngắn nhất là truyện ngắn của nhóm Tự lực văn đoàn. Ngoài ra, những truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn giai đoạn này cũng phản ánh sức mạnh của đồng tiền, sự suy thoái đạo đức, luân thường đạo lí… Những truyện ngắn trong hai mươi năm đầu thế kỉ XX chưa có sự đột phá bởi chất liệu đời sống được khai thác thiếu triệt để. Cũng trong giai đoạn này, quan niệm tuyến tính ở hiền gặp lành, ác giả ác báo chi phối đến kết cấu của nhiều truyện và điều đó cũng phù hợp với thị hiếu của người đọc đương thời. Song kết cấu đó tưởng như có lí trong đời sống tâm hồn, phù hợp với mong muốn của người đọc lại phi lí trong đời sống thực tế bởi không phải cuộc sống lúc nào cũng có những cái kết có hậu như thế, nghệ thuật không chỉ vị nghệ thuật mà còn vị nhân sinh, văn chương phải bắt nguồn 7
- từ hiện thực cuộc sống của con người và phải vì con người. Tuy nhiên, bù lại cho những năm đầu thế kỉ XX, những truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc lại gây được tiếng vang lớn với tư tưởng chống thực dân, phong kiến, có truyện lại gắn với những sự kiện lịch sử lớn của đất nước, đả kích thực dân, phong kiến như Thuế máu, Vi hành, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Những truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện một tư duy nghệ thuật mới, một lối tư duy vô cùng hiện đại và sắc bén. Sau những năm 1930, nền văn học Việt Nam xuất hiện những cây bút mới, thổi vào nền văn học Việt Nam một tinh thần mới. Truyện ngắn thời kì này chịu sự ảnh hưởng của nền văn học thế giới. Nổi bật lên trong thời kì này với dòng văn học lãng mạn là các tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam và đặc biệt là Thạch Lam với biệt tài viết truyện ngắn, những truyện ngắn giàu chất thơ nhẹ nhàng, đằm thắm mà vô cùng sâu sắc. Ở dòng văn học hiện thực phê phán là truyện ngắn của các tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài. Nguyễn Công Hoan được mệnh danh là bậc thầy truyện ngắn với lối viết châm biếm thâm thuý như Oẳn-tà-roằn, Thầy cáu… qua đó vẽ nên một bức tranh xã hội với bao cảnh đời, vui có, buồn có nhưng lại chất chứa bao điều đau đớn suy tư. Nam Cao cũng là một cây bút tạo được nhiều dấu ấn, một bức tường thành khó ai có thể vượt qua. Với những trang văn để đời trong những truyện ngắn như Lão Hạc, Chí Phèo, Đời thừa, Trăng sáng. Được lấy chất liệu từ vùng quê mà Nam Cao đã biết khơi nguồn và sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật cho tác phẩm trước và sau khó ai bì kịp. Chính vì thế, khi đọc những trang văn của Nam Cao, N.I.Niculin đã nhận định: “Nam Cao nổi tiếng ở nước chúng tôi trước hết như một truyện ngắn, một bậc thầy của lối viết tinh tế” (Phan Cự Đệ, 2006b). Ngoài ra, thời kì này còn có thể nhắc đến những cây bút truyện ngắn nổi bật như Tô Hoài, Vũ Bằng và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân tuy xuất hiện khá muộn nhưng đã để lại nhiều dấu ấn qua tập Vang bóng một thời. Truyện ngắn của Nguyễn Tuân khai thác từ đề tài lịch sử với sự tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống nhưng đã trở thành quá vãng như: viết câu đối, thả thơ, chơi 8
- chữ, uống trà… Qua đó thấy được chất tài hoa kiêu bạc đầy tính nghệ sĩ của Nguyễn Tuân trong từng thiên truyện ngắn. Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện lịch sử quan trọng được xem như một lằn ranh giữa thế kỉ. Chính yếu tố khách quan đó đã chi phối đến mọi hoạt động văn nghệ kể cả sự phân kì văn học trong đó có truyện ngắn. Từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, trên bốn thập kỉ phát triển, truyện ngắn Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ và rất đáng trân trọng. Chỉ trên khoảng mười năm phát triển, truyện ngắn Việt Nam đã đơm hoa kết trái đạt được những thành tựu nhất định. Về yếu tố chủ quan, trong nền văn học đương thời, các nhà văn đã có ý thức viết truyện ngắn là cả một nghệ thuật và để thể loại này có chỗ đứng riêng, mỗi người cầm bút cần phải có trách nhiệm với đứa con tinh thần của mình. Và thực tế đã chứng minh, có một đội ngũ những nhà văn viết truyện ngắn đông đảo cùng những đứa con tinh thần thật sự có chất lượng. Không những thế, về khách quan, bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1954 với sự phân hóa của nó, những câu chuyện xảy ra được các nhà văn nắm bắt kịp thời cộng với thể loại truyện ngắn - một hình thức tự sự nhỏ, linh hoạt đã chiếm được ưu thế trước những thể loại khác. Nội dung tìm được đúng hình thức để thể hiện, đó là điều kiện cần và đủ để truyện ngắn phát triển lên một tầm vóc mới. Gần nửa thế kỉ phát triển, truyện ngắn nối tiếp kế thừa tinh hoa truyền thống, mở cửa tiếp thu thành tựu kinh nghiệm của nước ngoài cộng với nội lực của bản thân, một hiện thực đa sắc màu đã đưa truyện ngắn vào đúng quỹ đạo của văn chương thời kì hiện đại và hậu hiện đại. Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà văn, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã bàn về truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn trong tư cách một thể loại của văn học hiện đại. Các giáo trình lí luận văn học trong và ngoài nước, các chuyên luận, các bài báo trên các tạp chí đã dành cho truyện ngắn một sự quan tâm khá đặc biệt. Đơn cử có công trình Lí luận văn học của Gulaiev, Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pospelov. Tuy nhiên để có một định nghĩa chính xác về truyện ngắn thì đó không phải là điều dễ dàng, bởi truyện ngắn là một trong những thể loại văn học có tuổi đời cổ nhất, nó 9
- luôn trong sự vận động và biến hóa đa dạng. Như cách nói của Juan Bosch, một nhà văn Trung Mỹ từng nói: “Truyện ngắn là gì? Định nghĩa thế nào là một truyện ngắn rất khó... Đại để có thể khẳng định truyện ngắn là một sự trình bày một sự kiện nào đó tương đối đáng chú ý. Cố nhiên, sự kiện có thể chỉ quan trọng tới mức nào đó nhưng cần được độc giả tin cậy. Nếu làm cơ sở cho truyện chỉ là một trường hợp chẳng mấy có ý nghĩa, nó chỉ là một phác thảo ghi lại một sự kiện đã xảy ra mà không phải là một truyện ngắn” (Dẫn theo Phan Cự Đệ, 2006b). Đồng tình với ý kiến đó, theo Phan Cự Đệ, điều quan trọng nhất của truyện ngắn là sự kiện - sự kiện có ý nghĩa và để làm nổi bật sự kiện, làm rõ chủ đề thì cần có kĩ thuật viết truyện. Kĩ thuật viết truyện nằm ở khả năng phát hiện ra sự kiện - sự kiện trung tâm, sự kiện thật đắc địa. Và cũng như Juan Bosch nói, truyện ngắn không có chỗ cho sự dài dòng thừa thãi, sự lỏng lẻo bởi “trong các thể loại văn học nói chung, truyện ngắn đóng vai trò như vai trò của hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được. Người viết truyện phải có tâm lý của hổ báo là luôn luôn tấn công người đọc, lại phải có khả năng đánh hơi của loài thú dữ đó, để tìm ra chủ đề và tính xem đến khoảng nào thì cần lao vào con mồi, dùng sức thế nào thì vừa…” (Dẫn theo Phan Cự Đệ, 2006b). Vậy điều quan trọng nhất của truyện ngắn là nằm ở sự kiện và kĩ thuật, kĩ thuật nhìn được điểm rơi của sự kiện, từ đó làm nổi bật được chủ đề. Với A.Tolstoi, nhà văn Nga nổi tiếng, ông coi điều quan trọng nhất của truyện ngắn nằm ở cốt truyện và phải tìm cho được cốt truyện “đôi khi chỉ xảy ra trong chốc lát một vài giây thôi, nhưng giống như một thứ thuốc đạm bạc, những cốt truyện hay có khả năng khiến cho những tư tưởng, những quan sát và những hiểu biết đang chồng chất hỗn loạn bỗng hiện ra thành có lớp lang rành mạch” (Vương Trí Nhàn, 2001). Đồng thời, với ông, truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó viết bậc nhất vì nếu như với các tác phẩm có dung lượng lớn, tác giả có thể bày ra cho độc giả những món ngon có sẵn từ ngôn từ, nhân vật, sự kiện. Còn truyện ngắn, tất cả như “trong bàn tay anh”, nhỏ nhắn, vừa vặn, vừa đủ nhưng giống như những đường chỉ tay, hoa tay lại 10
- ẩn chứa cả một cuộc đời và với kĩ thuật tưởng dễ mà khó, ông khẳng định “truyện ngắn là một trường học tốt nhất đối với các nhà văn” (Vương Trí Nhàn, 2001). Sikovani cũng đồng ý với A.Tolstoi, ông nói, không thể có truyện ngắn nếu thiếu cốt truyện, những tác phẩm không có cốt truyện suy cho cùng chỉ là một thứ phác thảo, ghi chép giống như những câu chuyện kể đơn thuần. K.Paustovski, theo ông “truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn, trong đó, cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” (Vương Trí Nhàn, 2001). Theo U.Xaroyan, một nhà văn Mỹ khi nói về truyện ngắn, ông cho truyện ngắn là một cái gì đó thật không cùng không có điểm dừng, truyện có thể kết thúc nhưng vĩ thanh của nó còn âm vang mãi bởi ông xem “Truyện ngắn là một thể tài văn học sinh ra một cách tự nhiên từ những câu chuyện hằng ngày, những câu đùa, những lời trêu chọc giữa người nọ người kia. Nó hết sức dẻo dai để thích hợp với mọi biến động trong cảm hứng cũng tức là tải được mọi sắc thái tài năng của người kể chuyện” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn, 2001). Trong Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa về truyện ngắn như sau: “Theo nghĩa đen, từ truyện ngắn trong tiếng Việt đã nói lên quy định hình thức đối với khối lượng tác phẩm: là truyện nhưng các truyện đó phải ngắn. Trong tiếng Anh, từ short story cũng có nghĩa gốc như vậy. Tuy nhiên ở một số nước, truyện ngắn còn được gọi với tên novella (một câu chuyện đang diễn ra - Gớt). Vậy nên có một số ý kiến cho rằng ý nghĩa chính của tên gọi truyện ngắn không phải nhìn vào khối lượng ngắn mà vào nội dung của câu chuyện” (Lê Bá Hán, 2004). Giáo trình Lí luận văn học của nhóm tác giả Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam đã bàn luận đến truyện ngắn với tư cách của một thể loại quan trọng của tự sự. Bên cạnh đó còn có giáo trình Lí luận văn học của Hà Minh Đức, các công trình nghiên cứu của Phan Cự Đệ. Các cuốn Từ điển văn học, Từ điển thuật ngữ văn học, 150 thuật ngữ văn học… đã chú ý đề cập tới khái niệm truyện ngắn và cố gắng nêu ra các khía cạnh của truyện ngắn trên những biểu hiện khái quát nhất để giúp người đọc tiếp cận thể loại dễ dàng hơn. Trong 11
- Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được định nghĩa “là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó lại là ngắn. Truyện ngắn viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không ngừng nghỉ”. Cùng với những công trình lí luận nghiên cứu về truyện ngắn là những định nghĩa hay cách hiểu của một số nhà văn đương thời về thể loại này. Với Nguyễn Quang Sáng, “viết truyện ngắn tức là chơi bố cục… theo tôi quan niệm truyện ngắn phải có “chuyện” tức là có thể kể lại cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn. Yêu cầu bố cục đặt ra từ đấy. Học các nhà văn nước ngoài, truyện ngắn nước ngoài, cũng trông vào bố cục. Như Mopatxang. Hoặc như truyện ngắn Nga. Toàn là bố cục khiếp cả” (Vương Trí Nhàn, 2001). Theo Nguyễn Kiên, truyện ngắn “là một trường hợp... trong quan hệ giữa con người và đời sống có những khoảnh khắc nào đó được bộc lộ. Truyện ngắn phải nắm bắt được cái trường hợp ấy. Trường hợp ở đây là một màn kịch chớp nhoáng, có khi chỉ là một trạng thái tâm lí, một biến chuyển tình cảm kéo dài trong nhiều ngày. Nhưng nhìn chung thì vẫn có thể gọi là một trường hợp” (Dẫn theo Bùi Việt Thắng, 2011). Theo Bùi Hiển, “truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đứng trước một vấn đề phải băn khoăn suy nghĩ, lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một cảnh sống và làm việc bình thường, trong đó nhân vật bộc lộ ý chí, tình cảm của mình. Có khi có những hành động mãnh liệt, những tình tiết éo le. Có khi chỉ là một tâm trạng, một nỗi buồn vui, một mối tình chớm nở. Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất” (Vương Trí Nhàn, 2001). Vậy đối với Bùi Hiển, cái quan trọng nhất của truyện ngắn là nắm bắt được khoảnh khắc, khoảnh khắc đó chính là hoàn cảnh có điều kiện để nhân vật được bung tỏa, được sống và bộc lộ hết mình, và khoảnh khắc đó hệt như cái thần, cái nhãn tự của một bài thơ vậy. Tuy nhiên, “dung lượng của truyện ngắn không phải là điều kiện duy nhất để phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học dân gian có các thể loại truyện cổ tích, truyện cười rất ngắn gọn nhưng không phải là truyện ngắn, hay ở 12
- văn học trung đại, có những truyện ngắn nhưng cũng gần với truyện vừa” (Dẫn theo Phan Cự Đệ, 2006b). Ở nền văn học hiện đại, có những truyện rất ngắn nhưng thực ra đó là những truyện dài được viết lại. Khi nói về truyện ngắn người ta hay đặt nó bên cạnh tiểu thuyết, đối sánh nó với tiểu thuyết, thậm chí còn coi truyện ngắn là một nhánh của tiểu thuyết. Tuy nhiên, truyện ngắn với những khối lượng tác phẩm đồ sộ và theo như cách nói của nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn là một “thể loại có tính chiến đấu mạnh” nên nó vẫn có chỗ đứng riêng và vẫn mang những đặc trưng khu biệt của một thể loại văn học. Hay như cách nói của nhà văn Nguyên Ngọc “có thể nói hiểu theo một nghĩa nào đó thì truyện ngắn còn “văn học” hơn cả tiểu thuyết. Tôi nhắc lại: hiểu theo một nghĩa nào đó. Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của từng người viết, nhất là cái quả quyết đột ngột. Mà truyện ngắn cũng là điều kiện rất tốt để mỗi nhà văn đi vào những chủ đề mình từng theo đuổi” (Vương Trí Nhàn, 2001). Điều kiện cần và đủ của tiểu thuyết là dài và phản ánh rộng còn truyện ngắn là ở chiều sâu, dung lượng ngắn nhưng phải có chiều sâu, nhiệm vụ của truyện ngắn là phải chắt lọc những gì tinh túy nhất từ đời sống, phải tìm được cái sâu trong cái rộng, tìm ra những nét khái quát từ những khía cạnh thăng hoa của nó. Đã từng dịch rất nhiều truyện ngắn trên thế giới sang Tiếng Việt và nghiên cứu truyện ngắn, Lê Huy Bắc đã tìm hiểu rất công phu và cung cấp cho người đọc rất nhiều tri thức truyện ngắn: về khái niệm, về lịch sử phát triển thể loại, về truyện ngắn các khu vực và tác giả tiêu biểu của các khu vực ấy thông qua Truyện ngắn lí luận tác giả và tác phẩm. Là một người đã có quá trình theo sát truyện ngắn cùng với các chặng đường phát triển của thể loại, Bùi Việt Thắng đã khái quát lại quá trình lịch sử, đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam qua cuốn chuyên luận Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại. Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hòa. Một số tác giả tỏ ra kì công trong việc biên soạn lại những bài viết nêu quan điểm về truyện ngắn của bản thân cũng như của giới cầm bút, của các nhà nghiên cứu, các nhà kinh điển trên thế giới… để làm phong phú thêm sự hiểu biết về thể loại. Chúng ta phải kể đến Sổ tay truyện ngắn do Vương 13
- Trí Nhàn biên soạn, Giáo trình sáng tác truyện ngắn của Văn Giá, Sổ tay viết văn của Tô Hoài, Tác phẩm và thể loại văn học của Huỳnh Như Phương. Bên cạnh đó, nhà văn Tạ Duy Anh cũng biên soạn cuốn Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí nhằm hướng bạn đọc đến những đặc điểm nổi bật nhất của thể loại và phân biệt nó với các thể loại khác, cuốn sách cũng là một tài liệu giúp cho những ai đang bắt đầu viết truyện ngắn, giúp họ có cái nhìn toàn diện hơn về thể loại. Định nghĩa về riêng truyện ngắn đã khó, vậy nên càng không thể có một định nghĩa truyện ngắn bao gồm cho tất cả các thể loại: truyện ngắn hiện thực, truyện ngắn lãng mạn, truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn hậu hiện đại, truyện ngắn hiện sinh. Có người cho rằng nếu lấy một định nghĩa chung nhất về truyện ngắn hiện đại: là thể loại hư cấu viết bằng văn xuôi, kết cấu chặt chẽ, chỉ là một lát cắt từ hiện thực, ít nhân vật, cốt truyện đơn giản, đọc liền mạch, là tình cảm thương xót, đau đớn hoặc đả kích châm biếm áp dụng tất cả điều đó để khai thác bất kì một truyện nào như đã kể ở trên thì e rằng chưa thể khai thác hết kĩ thuật viết và độ sâu của nó. Nhìn chung, các nhà lý luận văn học và các nhà văn đều đưa ra rất nhiều định nghĩa về truyện ngắn. Họ có thể nhìn và định nghĩa truyện ngắn căn cứ vào phương diện hình thức và nội dung của truyện ngắn; căn cứ vào hình thức và chức năng thể loại hoặc kết hợp giữa cấu trúc đặc trưng với chủ đề đặc trưng. Phan Cự Đệ tổng hợp theo hai nhóm định nghĩa về truyện ngắn, đó là nhóm theo phương pháp diễn dịch và nhóm theo phương pháp quy nạp. Theo phương pháp diễn dịch, người ta căn cứ vào nội dung hoặc căn cứ vào hình thức của thể loại. Theo nhóm này có J.Goethe, K.Pauxtopxki, Frank O’Connor, Edgad Allan Poe… Những định nghĩa về truyện ngắn theo phương pháp diễn dịch chỉ căn cứ vào một đặc điểm duy nhất như truyện ngắn là một lát cắt của cuộc sống, truyện ngắn là một tình huống, một trường hợp, truyện ngắn nhằm một hiệu quả duy nhất. Những định nghĩa này giúp chúng ta hiểu thêm và truyện ngắn nhưng nó không thể bao quát hết được những đặc trưng của truyện ngắn hiện đại bởi có những truyện ngắn miêu tả toàn bộ cuộc đời của một con người chứ không phải ở một giai đoạn như truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Phiên 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 263 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 305 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 154 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 146 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 158 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn