Luận văn tốt nghiệp: An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội
lượt xem 11
download
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội
- LUẬN VĂN: An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội
- Lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người, không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong nền kinh tế xã hội. Vì thế nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về c ơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy vọt qua các năm, điều kiện sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới nên cùng với sự biến chuyển không ngừng về mọi mặt từ KTXh đến chính trị ngoại giao nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã và đang tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng nhiều cơ hội mới. Trong xu thế phát triển này, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, BHNT là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ BHNT mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ BHNT bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục... Sau một thời gian lựa chọn đề tài viết chuyên đề mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số liệu thực tế chưa nhiều nhưng cùng với sự động viên của cô giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình của Công ty BVNT Hà Nội em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội” Sở dĩ em chọn đề tài trên cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là vì những lý do sau: - Mặc dù BHNT ra đời rất sớm trên thế giới (năm 1583, ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở n ước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn
- - Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty BHNT cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo dục“ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, thị trường khách hàng tiềm năng, tình hình dân số từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. Xuất phát từ những nội dung trên em xin nêu ra bố cục của chuyên đề: Nội dung đề tài gồm ba phần: Phần I: .Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm An sinh giáo dục Phần II: Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm “An sinh giáo dục” của Bảo Việt tại BVNT Hà Nội Phần III: Một số giải pháp đề nghị nhằm nâng cao công tác kinh doanh nghiệp vụ An sinh giáo dục
- Chương I KHáI QUáT về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm an sinh giáo dục I. tổng quan về bảo hiểm nhân thọ 1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như: - Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán... - Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động... - Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát... Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. + Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
- + Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên c ơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở châu á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp tăng tích lu ỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào
- ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. 2. Vai trò và vị trí của BHNT 2.1. Vai trò của BHNT Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta cần hiểu rõ khái niệm về BHNT: Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người. BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc qia: Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ dược đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
- Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng thêm quyền lợi cho người lao động. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có người khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội. Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phảI có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng). Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn. Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
- Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên ra trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người, riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là các cán bộ chuyên nghiệp ch ưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện, ngoài ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các quận huyện trong cả nước. Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới. Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong vá ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình. Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người khác. Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách về con người là vô cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến lược phát triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước. Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội như
- giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động, người cao tuổi.... 2.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm. 2.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng. Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung. 2.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trên thị trường BH. Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH. Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH. Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói chung. 3. Những đặc điểm cơ bản của BHNT. 3.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH theo định kỳ
- đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn (STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính. Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ. 3.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm. Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm). Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm. 3.3 Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia
- bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm. 3.4.Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào: + Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm + Tuổi thọ bình quân của con người + Số tiền bảo hiểm + Thời hạn tham gia bảo hiểm + Phương thức thanh toán + Lãi suất đầu tư + Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền ...... Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị trường... 3.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định: - Những điều kiện về kinh tế + Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước. + Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình trở lên. + Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu cầu cao hơn.
- + Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định + Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu tư vào BHNT ....... - Những điều kiện xã hội bao gồm: Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và dài hạn. Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm. 4. Lịch sử ra đời của BHNT. 4.1. Trên thế giới: Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. ở Châu á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay. 4.2.Tại Việt Nam ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một
- doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam. Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ Bảo hiểm. Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình thức tiết kiệm mới. Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp cho người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là: - Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55
- triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn - Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm. - Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu USD, khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm. - Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm. - AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm. Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam. II. Các loại hình BHNT Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lí và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm. Do đó BHNT được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta chia ra các hình thức cơ bản sau: 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều xuất phát từ 3 loại này.
- 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong. Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2 nhóm: 1.1.1Bảo hiểm tử kỳ Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình BH được kỳ kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH. Ngựoc lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành các loại hình sau: +Bảo hiểm tử kỳ cố định + Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục + Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi + Bảo hiểm tử kỳ giảm dần + Bảo hiểm tử kỳ tăng dần + Bảo hiểm thu nhập gia đình + Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên + Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện Đặc điểm - Thời hạnh BH xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời - Mức phí BH thấp ví không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH. Mục đích - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất - Bảo trợ cho gia đình và gnười thân trong một thời gian ngắn - Thanh toán các khoản nợ nần về nhứng khoản vay hoặc thế chấp của người được BH 1.1.2. Bảo hiểm trọn đời Hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh. Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Ngoài ra
- trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99 tuổi (như Prudential). Loại hình này thương có các loại hợp đồng sau: + Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận + BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận + BHNT trọn đời đóng phí liên tục + BHNT trọn đời đóng phí một lần + BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí Đặc điểm: - STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết - Thời hạn BH không xác định - Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm - Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra nên STBH chắc chắn phải chi trả Mục đích: - Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình - 0iữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Đặc điểm: - Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết. - Phí bảo hiểm đóng một lần - Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định. Mục đích: - Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
- - Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già. - Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. 1.3 BHNT hỗn hợp. BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng và thời hạn bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp với mục đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới. Đặc điểm: - STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong trong thời hạn bảo hiểm. - Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...) - Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. - Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: - Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân. - Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 2.1 Bảo hiểm cá nhân Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia bảo hiểm 2.2. Bảo hiểm nhóm
- Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao động. 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng. Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo hiểm con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 3 loại hình cơ bản như đã nêu ở phần 1. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm đi kèm cho sản phẩm chính đó là sản phẩm bổ xung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1 năm, hết 1 năm lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu thuật, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn... III. Chương trình An Sinh Giáo Dục trong BHNT 1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là cha mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập xảy ra với bản thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ đang có thu nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu khoản thu nhập chính bị đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh toán học phí ngay cảc trong trường hợp họ chết sớm. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể thu xếp được điều đó, số tiền bảo hiểm được thanh toán nhiều lần hoặc một lần. Đơn bảo hiểm dựa trên sinh mạng của cha mẹ chứ không được ký do khả năng tự bảo vệ của trẻ em là rất ít. Tuy được ký do cha mẹ nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo hiểm đối với sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ em đều hoàn phí trong trường hợp chết sớm xảy ra. Đây được gọi là bảo hiểm trả chậm, bảo hiểm của trẻ em thường được ký kết đựa vào cuộc sống của bố mẹ chúng và cho phép đứa trẻ lựa chọn khi đứa trẻ đạt độ tuổi xác định trước (ví dụ ở tuổi 18). Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo hạn. Vào ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều sự lựa xhọn khác nhau cho đứa trẻ. Những dsự lựa xhọn này bao gồm việc thanh toán ngay toàn bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm
- tiếp tục có hiệu lực trên cơ sở bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Không cần bằng chứng về sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc chuyển hợp đồng cho người chồng trước khi kết hôn. 2. Tại Việt Nam Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi b ước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Do mục đích của chuyên đề là bàn về sản phẩm An sinh giáo dục cho nên ở phần này em chỉ nêu rõ về sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”, đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục khi mới đưa vào triển khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau: - Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng. - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi. - Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp. - Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực. - Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức. -Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị giải ước.
- Từ lúc Bảo Việt nhân thọ bắt đầu triển khai sản phẩm thì một trong hai sản phẩm đầu tiên được Bảo Việt sử dụng có một sản phẩm dành riêng cho đối tượng trẻ em. Điều này cũng dựa trên phận nào phong tục tập quán của người dân Việt Nam là trẻ em bao giờ cũng là được ưu ái nhất trong gia đình cũng như trong xã hội, gia đình luôn giành cho con cái những gì quý giá nhất cũng như mong muốn con em mình có một nền tảng vững chắc sau này. Sản phẩm An sinh giáo dục ra đời đã đáp ứng được mong muốn đó, cha mẹ, ông bà vừa được thể hiện tình thương yêu đối với con cái vừa tạo cho con cái hành trang để vững bước vào đời. Bắt nguồn từ đức tính tốt đẹp này của người dân Việt Nam Bảo Việt nhân thọ đã đưa ra loại hình bảo hiểm An sinh giáo dục và đây cùng là thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với người dân. Như đã nói ở trên loại hình bảo hiểm này thuộc nhóm BHNT hỗn hợp nên thể hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm vì thế nên người tham gia lại càng thấy được tính tiện lợi khi tham gia Bảo hiểm. Hơn nữa, người ta nói Bảo hiểm mang tính xã hội và nhân văn rất lớn điều đó được thể hiện ở tính chất của sản phẩm An sinh giáo dục là khi chẳng may có rủi ro xảy ra đối với bậc cha mẹ chủ hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng sẽ được miễn phí cho đến khi đáo hạn và quyền lợi bảo hiểm dành cho em bé đó vẫn không hề thay đổi. Có lẽ vậy cho nên các bậc cha mẹ tham gia cho con cái của mình rất nhiều vừa thể hiện được tình thương yêu đối với con cái, vừa đảm bảo cho con một tương lai vững chắc về mặt tài chính khi có rủi ro xảy ra đối với bản thân, vừa mang tính tiết kiệm. Hội tụ đủ các yếu tố trên cho thấy quyền lợi của người tham gia bảo hiểm là rất lớn cả cho người chủ hợp đồng lẫn người được bảo hiểm. Vì thế sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được bán nhiều nhất trong các công ty bảo hiểm. Cho đến nay, Qua 5 năm hoạt động bảo Việt đã triển khai thêm nhiều sản phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu của mọi người dân trong xã hội, mỗi sản phẩm có một ưu thế riêng và có cái hay riêng, hệ thống sản phẩm của Bảo Việt rất đa dạng và phong phú cho nên giới hạn trong đề tài em chỉ nêu về sản phẩm An sinh giáo dục. 2. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn trên
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hướng dẫn trình bày đồ án, luận văn tốt nghiệp
15 p | 2806 | 1116
-
HƯỚNG DẪN CÁCH TRÌNH BÀY ĐỒ ÁN, LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
17 p | 3760 | 845
-
Luận văn tốt nghiệp “Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Thiết bị thương mại ”
60 p | 2129 | 571
-
Luận văn tốt nghiệp "Phân tích hiệu quả tín dụng công thương nghiệp và tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu chi nhánh An Giang"
75 p | 653 | 267
-
Luận văn tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo tiêu chuẩn OHSAS 18001:2007 tại công ty cổ phần chế biến gỗ Đức Long Gia Lai
345 p | 725 | 223
-
Luận văn tốt nghiệp “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Vật liệu nổ Công nghiệp”
77 p | 534 | 151
-
Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển công nghiệp Việt Nam
36 p | 396 | 143
-
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP-ĐỀ TÀI: “ Thiết kế mạch đồng hồ hiển thị ngày, tháng, năm, giờ, phút, giây dùng IC số”
65 p | 328 | 115
-
Luận văn tốt nghiệp "Mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí của sản phẩm in ấn của công ty TNHH Quảng cáo và Thương Mại An Khánh. Giải pháp tối đa hóa lợi nhuận cho công ty trong thời gian tới"
53 p | 338 | 94
-
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP- ĐỀ TÀI "CHẤT BÁN DẪN GRAPHENE"
58 p | 314 | 68
-
Luận văn tốt nghiệp: Khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ở nước ta
41 p | 300 | 62
-
Luận văn tốt nghiệp: Thử nghiệm ương nuôi cá xiêm (baetta splendes) và cá bống tượng (oxyeleotris marmorata) bằng trùn giấm (tubatrix aceti) - ĐH Nông lâm TP Hồ Chí Minh
71 p | 195 | 37
-
Luận văn tốt nghiệp Tài chính - Ngân hàng: Phân tích hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện An Biên tỉnh Kiên Giang
79 p | 33 | 24
-
Luận văn tốt nghiệp: CNH-HĐH và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
30 p | 135 | 20
-
Luận văn tốt nghiệp Tài chính - Ngân hàng: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền tiết kiệm của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt Chi nhánh An Giang Phòng Giao dịch Châu Phú
84 p | 30 | 15
-
Luận văn tốt nghiệp: Quản lí dự án phần mềm WEB
0 p | 103 | 11
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Quản lý dịch hại trên lúa và cây ăn trái ở tỉnh Hậu Giang
74 p | 24 | 11
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng phần mềm quản lý hồ sơ vụ án cho một tòa án huyện
80 p | 19 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn