Luận văn tốt nghiệp: Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
lượt xem 10
download
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều năm qua nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng ổn định, sự cách biệt giữa các vùng miền, khu vực được rút ngắn, tỷ lệ và diện hộ đói nghèo giảm đáng kể, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến hết sức to lớn và tích cực. Phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
- LUẬN VĂN: Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều năm qua nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng ổn định, sự cách biệt giữa các vùng miền, khu vực được rút ngắn, tỷ lệ và diện hộ đói nghèo giảm đáng kể, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến hết sức to lớn và tích cực. Phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ sản xuất đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại mang lại hiệu quả cao. Những chuyển biến tích cực cả về mặt kinh tế và xã hội đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp, nông thôn miền núi nói riêng, từng bước nâng cao đời sống của người dân ở các khu vực vùng 2 vùng 3. Vai trò kinh tế hộ đã trở thành nhân tố động lực trong phát triển kinh tế hàng hóa tại khu vực, mối quan hệ giữa kinh tế hộ với các thành phần kinh tế khác tăng lên. Chính sách điều tiết hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế hộ đan xen với mục tiêu lợi ích kinh tế chung đã giải phóng được sức sản xuất, xác lập đủ điều kiện để phát triển một ngành nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn. Trong mối quan hệ đó với chức năng của mình tín dụng ngân hàng đã có những tác động thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hộ thông qua các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi từ dân cư, tổ chức kinh tế để cấp vốn tập rung vao các mục tiêu xoá dói, giảm nghèo, kích thích sản xuất phát triển tín dụng ngân hàng đã tạo được đầu ra giúp hộ sản xuất đủ nguồn lực để tổ chức sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất theo h ướng phát triển kinh tế hàng hóa gắn với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn là một trong những đầu mối hỗ trợ Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chính sách, c ơ chế khuyết khích ưu đãi về kỹ thuật và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho phát triển kinh tế hộ thông qua kỹ năng kiểm tra trước trong và sau khi cho vay của ngân hàng.
- Nhờ tính chất ưu việt của mình đã làm cho, mối quan hệ của tín dụng ngân hàng với nông hộ được cải thiện, trong đó tín dụng giữ vai trò động lực cho phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn. Bằng các nghiệp vụ chuyên môn, nhất là công tác huy động vốn và thực hiện đầu tư tín dụng của Ngân hàng cho hộ sản xuất nông nghiệp tại đ ịa bàn đã góp phần thực hiện tốt nhất đ ịnh hư ớng cơ cấu kinh tế tại đ ịa phương thúc đẩy tăng trưởng, tăng được thu nhập của kinh tế hộ. Với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài "Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam" làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Qua 5 năm thực hiện chiến lược về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại ở ku vực miền núi Quảng Nam. Các mô hình kinh tế hộ đã thật sự đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế tại địa bàn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được mới chỉ mang tính khởi đầu, khẳng định tính đúng đắn trong xác định cơ cấu kinh tế với bước đi cụ thể. Việc còn phải làm là rất lớn, nhất là yêu cầu về vốn đầu tư, trong đó không thể thiếu được mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của ngân hàng với phát triển kinh tế hộ. Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có một số công trình về hoạt động ngân hàng với phát triển kinh tế hộ nhưng phạm vi nghiên cứu rộng, có thể thấy ở một số đề tài cụ thể sau: - Đề tài: "Phát triển tín dụng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long" của tác giả: Phạm Văn On (Khoa Kinh tế chính trị, HVCTQG Hồ Chí Minh) - Đề tài: "Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển ngành nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hoá" của tác giả: Đặng Ngọc Ba (Khoa Phát triển kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh). - Đề tài: "Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam" của tác giả: Võ Văn Lâm (Khoa Quản lý kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh).
- - Đề tài: "Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn" của tác giả: Hoàng Xuân Hùng (Khoa Quản lý kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh). Để thực hiện đề tài của luận văn này tác giả đã kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý luận và một số nội dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích - Nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của NHNo&PTNT nói riêng với mục tiêu phát triển kinh tế của các hộ trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực. Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả của tín dụng ngân hàng. - Chỉ rõ mục tiêu lợi ích của các bên và lợi ích xã hội trong mối quan hệ đó. 3.2. Nhiệm vụ: Luận văn có gắng luận giải vai trò của tín dụng ngân hàng, đăc biệt là tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng NHNo&PTNT nói riêng đối với việc phát triển kinh tế hộ tại khu vực nghiên cứu. Trong đó kinh tế hộ ngày càng được chuyển giao nhiều ứng dụng kỹ thuật, tư vấn tổ chức sản xuất thông qua tác động của tín dụng ngân hàng. Đáp ứng phát triển đúng định hướng kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng X và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp ở địa phương. Phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ tín dụng ngân hàng, những mặt đạt được, những hạn chế, nguyên nhân. Chú trọng những yếu kém, đề xuất biện pháp chủ yếu thiết thực. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: Nghiên cứu mối quan hệ hỗ trợ vốn, thực hiện uỷ thác đầu tư và chuyển giao các ứng dụng kỹ thuật đến phát triển kinh tế hộ trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực nghiên cứu.
- 4.2. Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với nông hộ ở 3 huyện miền núi phía bắc Quảng Nam (huyện Đông Giang, huyện Tây Giang, huyện Nam Giang) từ năm 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp toán học. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn đã đánh giá, phân tích thực trạng mối quan hệ, chỉ ra những thành tựu đạt được và bài học thành công, những hạn chế khiếm khuyết trong hoạt đông tín dụng của ngân hàng thương mại trên địa bàn. Trình bày các giải pháp tổng thể nhằm phát huy tốt hơn mối quan hệ của hoạt động tín dụng ngân hàng với phát triển kinh tế hộ. Đưa ra những kiến nghị với ngân hàng cấp trên, các cấp uỷ, chính quyền, các ngành, các đoàn thể tại địa phương để có chính sách đúng hơn trong đầu tư phát triển kinh tế hộ, tạo lập cơ sở sát thực hơn trong tổng kết và đánh giá vai trò kinh tế hộ trong chiến lược phát triển kinh tế chung của địa phương. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế hộ 1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa ngân hàng thương mại với kinh tế hộ 1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng và vai trò của nó 1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng Tín dụng ngân hàng là tín dụng do ngân hàng làm trung gian vừa đại diện cho người đi vay để vay tiền của người gửi tiền, vừa đại diện cho người gửi tiền để đem cho vay sao cho có hiệu quả. Tín dụng ngân hàng linh hoạt hơn, quy mô rộng hơn, phong phú hơn vì nguồn vốn không chỉ là tư bản tạm thời nhàn rỗi, mà còn gồm cả thu nhập của người lao động, tuy nhỏ nhưng tập trung thành nguồn tư bản lớn. Chính vì vậy, đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, vì biến vốn tạm thời nhàn rỗi, biến tiền để dành thành tư bản hoạt động. Ngân hàng thương mại với tính tạo tiền, có thể nhân nguồn vốn tiền gửi lên theo số nhân tiền, kể cả tạo ngoại tệ khi tập trung được tiền gửi ngoại tệ. NHTM ra đời là một kết quả tất yếu của sự phát triển nền kinh tế, nh ưng mặt khác, hệ thống NHTM với tư cách là “kênh dẫn vốn chủ yếu” của nền kinh tế, cũng tác động trở lại, đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo nghị định 53/HĐBT (26-3-1988), đến tháng 11/1990 đổi tên là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và được thành lập lại theo Quyết định 282/QĐ-NHT (15-10-1996) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lấy tên là NHNo&PTNT Việt Nam, là một NHTM nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Biểu hiện rõ nét là trực tiếp đầu tư cho phát triển kinh tế, xã hội trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với vị trí đó, hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành như:
- - Chính sách tín dụng đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác: Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, điều kiện vay nhằm hỗ trợ cho hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển; bảo đảm kinh tế nhà nước cùng kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. - Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân: Nhà nước có chính sách tíng dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiên, thời hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. - Chính sách tín dụng đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng có điều kiện linh tế - xã hội khó khăn: Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, thời hạn vay vốn để mở rộng đầu tư phát triển kinh tế hàng hoá và đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng. 1.1.1.2. Vai trò của tín dụng trong phát triển Kinh tế hộ ở nông thôn miền núi Trong quá trình tổ chức thực thi các chính sách nêu trên, đã hình thành mối quan hệ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam với kinh tế hộ và mối quan hệ này chiếm thị phần chủ yếu trong hoạt động cung ứng vốn ngắn - trung - dài hạn cho phát triển kinh tế tại địa bàn nói chung và kinh tế hộ nói riêng. Vai trò của KTH trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hoá rất lớn, những hình thái sản xuất hàng hoá có hiệu quả đã xuất hiện và hình thành như kinh tế vườn, kinh tế trang trại, làng nghề… trên quy mô sản xuất ngày càng lớn, khả năng tích tụ, tập trung đất đai ngày càng mở rộng. Sự tồn tại các hình thức tổ chức trên đã tạo điều kiện ứng dụng công nghệ mới, tạo động lực giải phóng sức sản xuất ở nông thôn và chuyển dịch lao động ở khu vực miền núi, từ đó phát sinh nhu cầu mới về lao động, vốn đầu tư, thị trường và các mối quan hệ liên doanh, liên kết giữa sản xuất nông nghiệp với ngân hàng trong đó quan hệ ín dụng sẽ được phát triển khởi sắc hơn. Với vai trò là trung gian tài chính “đi vay để cho vay” tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh, xoá đi tập quán sản xuất kinh doanh theo kiểu tự cấp, tự túc mang tính cục bộ theo từng khu vực, thôn bản. Hơn nữa tín dụng còn
- thúc đẩy thị trường hàng hoá phát triển ngày càng đa dạng và sống động ở các khu vực kinh tế tập trung như thị trấn, thị xã, nơi giao lưu hàng hoá mạnh hơn. ở đây tín dụng là cầu nối điều hoà vốn giữa nơi thừa đến nơi thiếu, giữa người thừa vốn đến người thiếu vốn cần vay để phục vụ sản xuất cũng như các nhu cầu đời sống khác. Tín dụng ngân hàng càng năng động, tạo lập trung gian tài chính giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh- tiêu thụ thông qua việc huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đầu tư cho các nhu cầu để mở rộng sản xuất, kinh doanh và giao lưu hàng hoá. Từ đó đẩy nhanh sự phát triển của thị trường tiền tệ ở nông thôn, tạo nên dòng lưu chuyển vốn nhanh và kịp thời thúc đẩy thị trường hàng hoá phát triển. Đối với KTH tín dụng có vai trò cơ bản sau: Một là, tín dụng ngân hàng tích cực tham gia góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn nhờ đó thúc đẩy KTH phát triển. Nội dung quan trọng của CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thực hiện chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Muốn vậy, trong tiến trình CNH, HĐH phải thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng từng địa phương. Quá trình chuyển dịch cơ cấu phải tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Để thực hiện cần sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất đai canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung. ở nông thôn cần phát triển các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với sự hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Trong tiến trình này tín dụng ngân hàng đã và đang thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, hỗ trợ kinh tế hộ đưa các thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ giới hoá, hiện đại hoá, thuỷ lợi hoá…, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và
- công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Trong quá trình CNH-HĐH NNNT, cần khuyến khích phát triển công nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở nông thôn. Tín dụng ngân hàng cũng đã chuyển dịch đầu tư, tăng cường nguồn vốn trung - dài hạn nhằm đáp ứng cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu khôi phục, phát triển ngành nghề, thực hiện CNH- HĐH NNNT. Hai là, tín dụng ngân hàng góp phần thiết thực trong việc giải phóng nguồn nhân lực, khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước và khôi phục phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm ở nông thôn thúc đẩy KTH phát triển. Nước ta là một nước nông nghiệp với tiềm năng đất, nước, rừng, biển và khoáng sản còn rất lớn chưa được quản lý và sử dụng, khai thác tốt. Nếu Nhà nước có những chính sách quản lý vĩ mô thích hợp như quy hoạch, đầu tư…hợp lý sẽ thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên nông nghiệp nông thôn, trong đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy góp phần động viên các nguồn lực vào sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Mặt khác, nước ta với nguồn lao động dồi dào, hàng năm có từ 5-6 triệu người ở nông thôn không có đủ việc làm nên áp lực về nhu cầu giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH sẽ rất lớn. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư của tín dụng ngân hàng để phát triển diện tích rừng trồng cây nguyên liệu gỗ, giấy, phát triển chăn nuôi gia súc tập trung gắn với công nghiệp chế biến đã thu hút số lao động dôi thừa ở nông thôn miền núi, tạo công ăn việc làm tại chổ, dần dần sắp xếp lại lao động từ chổ tự phát, du canh, du cư tiến tới lao động tự giác có tổ chức và chuyên môn cao. Đây chính là vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng thông qua cho vay kinh tế hộ nhằm thúc đẩy quá trình khai thác nguồn lực trong nông nghiệp và phát triển ngành nghề ở nông thôn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm ở nông thôn miền núi và phát triển quy mô sản suất hàng hoá trong nông nghiệp. Ba là, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển hàng hoá đối với KTH ở nông thôn. Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ngày càng phát triển, nhiều hộ biết tính toán đầu tư vào nhiều lĩnh vực sản xuất mang lại hiệu quả cao như: đầu tư cho phát triển theo
- mô hình kinh tế vườn-ao-chuồng-rừng. Vốn tín dụng đã hỗ trợ cho kinh tế hộ trong việc bố trí lại sản xuất, cải tạo đất đai…đồng thời, vốn tín dụng ngân hàng tăng đầu tư vào khoa học công nghệ, giảm chi phí sản xuất, hỗ trợ kinh tế hộ tận dụng tốt các cơ chế ưu đãi về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Theo quy luật phát triển, khi quy mô sản xuất hàng hoá càng tăng, việc tích tụ tập trung đất đai càng lớn, vốn tín dụng càng tăng lên theo yêu cầu đầu tư đồng thời thúc đẩy nhanh tăng trưởng sản lượng hàng hoá trong nông nghiệp ở nông thôn. Bốn là, tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hàng hoá. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông nông thôn, mạng lưới điện, hệ thống nước sạch…vốn tín dụng đã đầu tư hỗ trợ bổ sung vào vốn tự có của bà con nông dân và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước. Nhờ đó các công trình kết cấu hạ tầng đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện đời sống người dân nông thôn tạo điều kiện để họ tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Nhiều mô hình thử nghiệm tại chổ nhờ sự giúp đỡ của tín dụng đã mang lại hiệu quả cao như: tạo giống bò lai F1 từ giống bò vàng tại chỗ, ứng dụng kỹ thuật chăm sóc cây trồng, vật nuôi... tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, năng suất cao được thị trường chấp nhận. Bộ mặt nông thôn cũng được cải thiện, đời sống văn hoá ngày càng nâng cao, thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo ngày càng đem lại hiệu quả thiết thực. Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn tháo gỡ những khó khăn cho các hộ nông dân khi giáp vụ hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống. Từ những năm 1990 trở về trước, khi mà kinh tế hộ chưa được khuyến khích bằng chính sách đầu tư tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước, các hộ sản xuất phải đi vay lãi suất cao từ 15 đến 20%/tháng trên thị trường cho vay nặng lãi ở nông thôn đã làm nhiều hộ nông dân phá sản, gia đình li tán hoặc đau khổ. Sau năm 1990, khi có chính sách cho hộ nông dân vay vốn, tín dụng ngân hàng ngày càng mở rộng với cơ chế thông thoáng và thủ tục đơn giản đã góp phần đáng kể vào việc hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Việc cho vay đối với kinh tế nông hộ của
- ngân hàng thương mại đã bổ sung kịp thời khoản vốn thiếu cho các dự án sản xuất kinh doanh có tính chất khả thi đã thực sự góp phần thiết thực thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện. Vốn tín dụng ngân hàng đã được chuyển tải đến hộ vay có sức lao động, có đất đai, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng thiếu vốn sản xuất không phân biệt giàu nghèo trên tinh thần khuyến khích làm giàu chính đáng. Chính vì vậy đã có nhiều hộ mạnh dạn vay vốn mở mang trang trại, chuyển đổi giống mới, thu hút thêm lao động nông nhàn trên tinh thần hộ giàu có kinh nghiệm giúp hộ nghèo cùng vươn lên làm giàu. Vốn tín dụng tạo ra cơ hội cho các xí nghiệp nông nghiệp nhỏ ở nông thôn ra đời và phát triển, góp phần cơ bản giải quyết nạn thất nghiệp cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn Việt Nam. 1.1.2. Kinh tế hộ và đặc trưng các mối quan hệ kinh tế phát sinh của nó Trong quá trình phát triển kinh tế hộ ở nông thôn việt nam đã nảy sinh không ít vấn đề về lý luận và thực tiễn, đặc biệt cho đến nay còn không ít những ý kiến khác nhau chung quanh khái niệm hộ, đồng thời sự phát triển của kinh tế hộ còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Để hiểu về KTH và những quan hệ khách quan nẩy sinh giữa KTH với tín dụng ngân hàng, cần phải nhận dạng về KTH. 1.1.2.1. Nhận diện về kinh tế hộ Thoạt tiên có thể tưởng rằng những khái niệm như: “hộ”, “gia đình”, “hộ gia đình”, “kinh tế hộ”… là những khái niệm đơn giản mọi người ai cũng có thể hiểu bình thường trong đời sống xã hội. Song trong nghiên cứu khoa học thì việc tiếp cận các khái niệm này còn những ý kiến khác nhau [1, tr.15]. Giáo sư Raul lturna, Trường đại học tổng hợp Lisbon nghiên cứu cộng đồng nông dân ở một số nước châu á đã khái quát “hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết thống, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tao ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng” [20, tr.10]. Về phương diện thống kê thì Liên Hiệp quốc cho rằng: "hộ là nhữn g người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ” [20, tr.8]. Tiến sỹ Nguyễn Văn Lịch cho rằng:
- Hộ là một đơn vị kinh tế mà các thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên tạo ra được sử dụng chung. Quá trình sản xuất của hộ được tiến hành một cách độc lập (Một điều quan trọng là các thành viên của hộ thường cùng huyết thống, cùng chung sống trong một ngôi nhà và cùng ăn chung). Hộ cũng là đơn vị để tổ chức lao động, hộ gia đình sống ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Mỗi hộ là một đơn vị kinh tế của xã hội, do đó hộ cũng có nền kinh tế đặc trưng đó là kinh tế nông hộ. Nói cách khác kinh tế nông hộ là kinh tế hộ gia đình nông dân [11, tr.9-10]. Tuy nhiên đối với hộ vẫn còn một số ý kiến khác nhau [1, tr.17]. - Có quan niệm hộ gồm những người cùng sống dưới một mái nhà, khái niệm này thường gặp trong quản lý hành chính nhân khẩu. - Một quan niệm khác xem hộ là đơn vị gồm những người cùng sống chung cùng ăn chung như: Hộ tập thể mà thành viên là những người cùng làm việc ở cơ quan, không có cùng thu chi chung. - Một quan niệm khác xem hộ gồm các thành viên có chung nguồn thu nhập và chi tiêu, cùng tiến hành sản xuất chung, quan niệm này có thể phù hợp với những hộ nông dân có kinh tế “tự túc, tự cấp” trình độ phát triển thấp, khi trình độ xã hội phát triển cao lên thì thành viên trong hộ có thể không còn làm chung và ăn chung, mặc dầu họ có thể cùng chung sống. Xu hướng này đang trở thành thực tế trong sinh hoạt hộ ở đô thị, ở các vùng đồng bằng ven biển. Có thể nhìn nhận rằng “hộ” là một khái niệm đã tồn tại ở Việt Nam ngay từ thời phong kiến. Nó được xem như là một tế bào của xã hội cũng như khái niệm “gia đình”. Tuy nhiên giữa “hộ” và “gia đình” không phải bao giờ cũng hoàn toàn thống nhất với nhau về nội dung. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật, hộ được xem như là chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được xác lập như là một đơn vị mà các thành viên có cùng hộ khẩu, chung tài sản và có hoạt động sản xuất làm ăn kinh tế chung. Còn gia đình là những người cùng huyết thống, cùng thân tộc hoặc có quan hệ hôn nhân, cùng sống chung hoặc không cùng sống chung.
- Có 3 tiêu thức chính để phân biệt hộ và gia đình: [1, tr.16] a. Quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc. b. Cư trú chung. c. Có chung cơ sở kinh tế. Thông thường gia đình dựa trên tiêu thức (a) không nhất thiết phải có 2 tiêu thức (b) và (c) vì khi trưởng thành họ có thể làm ăn xa, có nhà cửa riêng… nhưng vẫn cùng chung gia đình. Trong Tiếng Việt trước đây cũng như hiện nay người ta sử dụng từ ghép “hộ gia đình” mà không cần đến khái niệm riêng về sự giống nhau hoặc khác nhau giữa “hộ” và “gia đình”. Do vậy, sự gắn bó gần như đồng nhất giữa “hộ” và “gia đình” là khái niệm kép đang được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên qua khảo sát thực tế cho thấy, do quá trình phát triển kinh tế xã hội càng cao làm cho chức năng của hộ không nhất thiết là các thành viên phải làm chung, ăn chung, song cũng cho thấy các thành viên trong gia đình sống chung dưới một mái nhà, có hoặc không làm chung, có hoặc không có ăn chung và có đăng ký trước chính quyền là một hộ. Đa số các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có thiết chế hình thành hộ như vậy, chỉ riêng một số dân tộc sống vùng Tây nguyên theo chế độ mẫu hệ thì họ được hình thành theo huyết thống lấy theo người phụ nữ. Xét về mặt kinh tế, hộ là một trong những loại hình đơn vị kinh tế cơ sở mà quá trình lao động được phân công theo tinh thần tự giác, hộ chịu trách nhiệm chung về chi phí sản xuất, tiêu thụ, thu nhập và phân phối tiêu dùng trong hộ. Quan điểm hộ là đơn vị kinh tế trong đó các thành viên “làm chung, ăn chung, ở chung” [1, tr.22]. Trong xã hội chậm phát triển, kinh tế hộ mang tính tự cấp, tự túc, hộ đồng thời giữ 3 chức năng: Sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng và đầu tư tái sản xuất mở rộng. Trong xã hội phát triển cao thì tỷ lệ hộ sản xuất tự cấp, tự túc ngày càng thấp, kinh tế hộ mang tính sản xuất hàng hoá ngày càng tăng cao. ở Việt Nam, hầu như từ trước đến nay mặc nhiên thừa nhận “kinh tế hộ” dựa trên tiêu thức chung, đó là một cơ sở kinh tế, là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, tình
- trạng cư trú…Tuy nhiên, trong thực tiễn khái niệm “kinh tế hộ” được coi là gia đình khi các thành viên của gia đình đó có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó (theo điều 116 bộ luật dân sự). Hộ gia đình này có chung hộ khẩu được hưởng quyền lợi và trách nhiệm chung do chủ hộ làm chủ gia đình. Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế có sự kết hợp hài hoà giữa sản xuất với xã hội, giữa phương hướng sản xuất, quy mô sản xuất, điều kiện sản xuất với lực lượng lao động cụ thể của từng gia đình. Kinh tế hộ thực chất đã có từ lâu, song ở mỗi hình thái kinh tế, mỗi giai đoạn phát triển nhất định thì có biểu hiện khác nhau. Trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế nông hộ được xem là kinh tế tiểu nông, cá thể, là mô hình sản xuất nhỏ trong nông nghiệp. Họ tiến hành sản xuất bằng các công cụ lạc hậu, thô s ơ trên những mảnh đất nhỏ của mình. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ruộng đất ngày càng tích tụ, tập trung, những nông hộ nhỏ bị phân hoá trở thành những người làm thuê do không đủ sức cạnh tranh hoặc trở thành những nông trang, những trang trại sản xuất nông nghiệp. Qua nghiên cứu thực tiễn về kinh tế hộ nhiều vùng trong cả nước cũng như ở vùng miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, thì quan niệm về kinh tế hộ tại địa bàn nghiên cứu được khái quát như sau: Hộ là một tập hợp người cùng huyết thống, sống chung hoặc có thể không sống chung với những người khác huyết thống trong cùng một mái nhà, cùng ăn chung và cùng ngân quỹ chi tiêu. Và thực tế chứng minh cho thấy rằng gia đình là cơ sở nòng cốt của hộ và kinh tế gia đình là cơ sở của kinh tế hộ. Hộ với tư cách là đơn vị kinh tế, hoạt động kinh tế của hộ tập trung vào những nội dung sau: - Hộ làm chủ sỡ hữu các nguồn lực kinh tế được pháp luật thừa nhận và được sử dụng các nguồn lực đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ như: đất đai, lao động, vốn liếng (bằng tiền, bằng hiện vật…).
- - Tham gia vào các hoạt động kinh tế theo các chương trình, dự án kinh tế, theo ngành nghề, theo các vùng miền và quan hệ với các ngân hàng thương mại trong đó có NHNo&PTNT bình đẳng như các tác nhân kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hộ gia đình cũng được hưởng nguồn lợi từ các chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa thực thi đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước như một thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân khác. - Trình độ phát triển của kinh tế hộ được đánh giá từ khả năng tích tụ tập trung ruộng đất, tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Nếu sản xuất để tự tiêu dùng và trang trải cho nhu cầu hàng ngày của hộ, thì trình độ phát triển ở dạng tự cung tự cấp, nếu hộ sản xuất mang mục tiêu lợi nhuận thì đó là hộ sản xuất hàng hoá, là một chủ thể của thị trường. - Hiệu quả hoạt động của kinh tế hộ được hạch toán chi phí với giá trị thu được từ kết quả sản xuất, kinh doanh. Tuy vậy, để nhận diện đầy đủ hơn về kinh tế hộ như là một loại hình tổ chức sản xuất đặc biệt, thì ngoài các yếu tố nêu trên, còn yếu tố tự nhiên và xã hội cũng rất quan trọng, bởi vì hộ còn là tế bào của xã hội. 1.1.2.2. Những đặc trưng và các mối quan hệ cơ bản của kinh tế hộ Thứ nhất: Kinh tế hộ là tổ chức sản xuất mà trong đó mỗi thành viên là những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân gồm:ông bà, cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái, vừa là chủ thể sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp. Quá trình sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào lao động gia đình là chính và kết hợp quan hệ đổi công theo tính cộng đồng ở thôn, bản, xóm. Các thành viên trong hộ có sự kết hợp quan hệ mật thiết trên cơ sở cùng cộng đồng sở hữu sản xuất và cùng cộng đồng trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện, tự giác với nội dung, mục đích đóng góp sức mình để làm tăng thu nhập của hộ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mọi thành viên. Tính huyết thống cũng làm cho hoạt động lao động của hộ được hình thành trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện chứ không chỉ là sự ép buộc lao động như đã từng diễn ra trong lịch sử. Quan hệ phân phối cũng mang tính ước lệ, không tuân thủ theo nguyên tắc kinh tế dựa vào kết quả lao động hay mức độ đóng góp của mỗi thành viên như ở một số hình thức tổ chức kinh tế khác mà
- dựa vào nhu cầu tiêu dùng cần thiết của mỗi thành viên và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của hộ. Thứ hai: KTH là một mô hình kinh tế có cấu trúc đa dạng, có thể tiến hành các khâu của quá trình sản xuất, phân phối, dự trữ, trao đổi, tiêu dùng… cũng có thể hoạt động sản xuất trong mọi lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, khai thác chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ nông nghiệp, vừa thích ứng với các hình thức sở hữu khác nhau để khai thác mọi nguồn lực tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh. Thứ ba: KTH có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách linh hoạt, khi gặp khó khăn giá cả thị trường, hộ gia đình có thể chuyển hướng sản xuất với các đối tượng phù hợp, lấy thu nhập từ nguồn này bù vào nguồn khác. Chính vì vậy, mà kinh tế hộ có sức sống bền bỉ, dẻo dai qua các thời kỳ cũng nh ư qua các phương thức sản xuất xã hội. Thứ tư: KTH là hình thức tổ chức kinh tế rất phù hợp với ngành sản xuấ t nông nghiệp, bởi vì đối tượng của ngành này là cây trồng, vật nuôi, tức là những cơ thể sống, nhạy cảm với sự chăm sóc của con người không những bằng sức lao động mà còn bằng tình cảm và sự cần mẫn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi thu hoạch sản phẩm. Thứ năm: quy mô sản xuất của kinh tế hộ nông nghiệp thường khép kín trong phạm vi gia đình là chủ yếu, sản xuất thường manh mún, phân tán, đa số là canh tác thuần nông mà tập trung là trồng trọt lúa nước, hoa màu, kết hợp chăn nuôi. Tư liệu sản xuất nhỏ của hộ gia đình chủ yếu là công cụ sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác dựa vào kinh nghiệm dân gian và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi thời tiết và môi trường tự nhiên. Trình độ canh tác của hộ còn ở mức thấp, người nông dân chưa mạnh dạn khi tiếp cận ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác nếu không có sự tác động bằng kết quả cụ thể mà hộ nhìn thấy trước. Do vậy, năng suất lao động trong KTH thường không ổn định, mặt khác còn phụ thuộc vào thái độ lao động của họ, trong khi đó thái độ lao động bị chi phối bởi tình cảm, đạo đức, truyền thống và phong tục tập quán, lề thói… của từng địa phương. Song bản chất cơ bản của họ luôn luôn gắn bó với đồng ruộng, bản làng, quê hương, dòng tộc của họ.
- Thứ sáu: chi phí đầu tư sản xuất kinh tế hộ thường là thấp và rải đều cho nhiều đối tượng, ngược lại khi có nhu cầu đầu tư tập trung thì dẫn đến thiếu vốn, do vậy muốn mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện thâm canh v.v… thông th ường hộ phải vay vốn của những người thân quen, hàng xóm, hoặc vay nặng lãi và vay ngân hàng. Do đó, mố i quan hệ giữa ngân hàng thương mại mà chủ yếu là NHNo&PTNT với kinh tế hộ nếu đư ợc xác lập thường xuyên và dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi thì có tác dụng to lớn. Nó cơ thể đ ịnh hư ớng KTH phát triển và tồn tại vững chắc trong nền kinh tế thị trườn g. Trong mối quan hệ này, KTH là đối tượng chủ yếu trong hoạt động của tín dụng ngân hàng và là người thườg xuyên và bền vững mang lại lợi ích lâu dài cho các Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Do đó quan hệ giữa KTH với ngân hàng là quan hệ tư ơng hỗ và biện chứng và là c ơ sở tồn tại của nhau. Tóm lại: KTH có thể thực hiện cùng một lúc nhiều chức năng thích hợp với đối tượng sản xuất là các cơ thể sống có chu kỳ sản xuất khác nhau mà các đơn vị kinh tế khác khó có thể tiến hành một cách có hiệu quả, mặt khác các thành viên của kinh tế hộ vừa là người chủ vừa là người lao động với thái độ tự nguyện trên cơ sở ràng buộc chặt chẽ về nhận thức trách nhiệm tuyệt đối trong việc quản lý, sở hữu tài sản, tập trung cho các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế tự chủ. Mặt khác, KTH còn là sự thống nhất chặt chẽ với xã hội, là tế bào cấu thành nền kinh tế - xã hội với nhiều chức năng, nhiều nghĩa vụ gắn kết cộng đồng làng xã, tạo lập và lưu giữ truyền thống văn hoá mang bản sắc đặc thù của từng địa phương, đồng thời KTH là cơ sở giáo dục, tôn vinh truyền thống gia đình, dòng họ, thôn bản…của mỗi gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không thể có được [22]. Bản thân sự tồn tại của KTH đã tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội, trong đó quan hệ giữa KTH với tín dụng NHNo&PTNT là mối quan hệ biện chứng là cơ sở tồn tại của nhau. 1.2. Quan hệ giữa tín dụng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với kinh tế hộ và các nhân tố ảnh hưởng 1.2.1. Sự hình thành các mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ và các hình thức tồn tại
- Sự hình thành và phát triển mối quan hệ giữa ngân hàng với kinh tế hộ luôn luôn gắn liền với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nư ớc qua các thời kỳ, gắn liền với sự vận dụng sáng tạo của các cấp, ngành ở từng đ ịa phương cũng như thoả mãn nhu cầu lợi ích của các bên. Trong mối quan hệ này đư ợc xác lập trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng các quy đ ịnh về cho vay đối với kinh tế hộ của NHNo&PTNT Việt Nam ban hành theo quyết định 72/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Thông qua cho KTH vay vốn Ngân hàng Nông nghiệp &phát triển nông thôn Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách của mình. Để thực hiện Ngân hàng cần đa dạng hoá đối tượng vay vốn, cải tiến và hoàn thiện thủ tục hồ sơ theo hướng đơn giản, thuận lợi cho người vay, tạo mọi điều kiện để hộ gia đình thoả mãn các nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ tiêu dùng và đời sống. Có thể khẳng định rằng: Điều kiện, hồ sơ thủ tục, cơ chế bảo đảm tiền vay…đã được đơn giản hoá cũng cần tiếp tục cải tiến cho phù hợp với từng đối tượng và địa phương. Cơ chế tín dụng nói chung, tín dụng cho kinh tế hộ nói riêng đã được hoàn thiện tương đối phù hợp với từng cây, con-đối tượng vay vốn và trình độ dân trí; thoả mãn cơ bản các yêu cầu của thông lệ quốc tế. Không chỉ có vậy, thông qua cho kinh tế hộ vay, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện, nâng lên, tỷ lệ nợ quá hạn/nợ xấu thấp;Nếu như tỷ lệ nợ quá hạn cuối năm 1991 là 22%, thì qua các năm và đến cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 3%. Đạt tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp trong điều kiện sản xuất nông, lâm nghiệp ở nước ta thường gặp những rủi ro bất khả kháng là một thành công to lớn của NHNo&PTNT Việ t Nam [13, tr.22]. Mặt khác, xét về vai trò tác dụng, thì KTH cũng là thị tr ường rộng lớn đối với n gành kinh tế khác: Kinh tế hộ cùng với việc cung ứng cho thị trường những nông sản hàng hoá thiết yếu cho đời sống xã hội, đồng thời cũng chính họ là lực lư ợng tiêu thụ chủ yếu của ngành nghề khác như: hàng hoá cần thiết cho tiêu dùng, vật tư, máy móc thiết bị, công cụ lao động cho sản xuất. Do vậy, kinh tế hộ đư ợc coi là thị trư ờng quan trọng của nền kinh tế trên cả hai ph ương diện: một là, do yêu cầu mở rộng sản xuất nông nghiệp, kinh tế hộ cần phải đổi mới thiết bị, ứng dụng công nghệ mới để tăng
- năng suất, tăng sản lư ợng đòi hỏi phải mua sắm nhiều tư liệu sản xuất mới, hiện đại hơn. Hai là nh ờ sản xuất phát triển, thu nhập kinh tế hộ ngày càng tăng, nhu cầu tiêu dùng, cải thiện chất lư ợng đời sống cũng đòi hỏi kinh tế hộ cần mua sắm những sản phẩm hàng hoá công nghệ cao ngày càng nhiều hơn, nhiều chủng loại hơn…làm cho th ị trường sống động h ơn. Chính từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh này mà chức năng trung gian tài chính của tín dụng Ngân hàng trở nên phong phú đa dạng, vòng quay của vốn tín dụng ngân hàng nhanh và trở thành yếu tố thiết yếu của toàn bộ nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. * Các hình thức tồn tại của quan hệ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với KTH thường tồn tại dưới các hình thức sau: Thứ nhất: Căn cứ vào thời hạn tín dụng ta có: 1) Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng, thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động trong quá trình sản xuất như: các khoản chi phí vật tư, nhân công, nguyên vật liệu và 2) Tín dụng trung dài hạn: loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến 60 tháng là tín dụng trung hạn, từ 60 tháng trở lên là tín dung dài hạn, thường được sử dụng cho các nhu cầu mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị kỹ thuật mở rộng sản xuất hoặc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Thứ hai: Căn cứ vào bảo đảm vốn vay ta có: 1)Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng áp dụng trong trường hợp ngân hàng chưa thật sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh và tình hình tài chính người vay nên đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay. Việc bảo đảm vốn vay được thực hiện dưới 3 hình thức: Tài sản thế chấp, tài sản cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba; và 2) Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng áp dụng đối với khách hàng có uy tín trong quan hệ vay trả đối với ngân hàng, có năng lực tài chính để trả nợ ngân hàng, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi đảm bảo trả nợ ngân hàng theo thoả thuận. Tín dụng không có bảo đảm cũng áp dụng đối với các khoản vay theo quy định của chính phủ cho phép theo Quyết định số 67/CP ngày 30/3/1999 về một số chính
- sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và Thông tư 03/TT- NHNN ngày 24/3/2003 của ngân hàng nhà nước hướng dẫn việc cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản của tổ chức tín dụng đối với khách hàng như: hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông, lâm, ngư diêm nghiệp mang tính sản xuất hàng hoá được vay đến 30 triệu, hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng vật tư, cây con giống để sản xuất nông, lâm, ngư diêm nghiệp được vay đến 100 triệu, hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làm nghề truyền thống được vay đến 500 triệu không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Thứ ba: Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: gồm 2 hình thức: 1)Tín dụng đầu tư sản xuất kinh doanh:là tín dụng sử dụng cho vay mà mục đích sử dụng vốn vay vào việc mua sắm vật tư, nguyên liệu thiết bị máy móc dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh; và 2)Tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống:là tín dụng sử dụng cho vay đáp ứng nhu cầu đời sống của người vay như: phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, sửa chữa nhà cửa. Thứ tư: Căn cứ vào tính chất nguồn vốn và lãi suất cho vay, thì có các hình thức sau: 1) Tín dụng thương mại:là loại tín dụng thực hiện theo phương thức “đi vay để cho vay” với lãi suất thoả thuận theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Các ngân hàng cho vay tự chịu trách nhiệm về hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, đây là loại tín dụng chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại; 2)Tín dụng chỉ định của Chính phủ: Là loại tín dụng do Chính phủ chỉ định đối tượng cho vay, khách hàng vay theo lãi suất quy định trước như:cho vay khắc phục lũ lụt, hạn hán, cho vay làm nhà trên cọc; và 3) Tín dụng uỷ thác: Là loại tín dụng do các tổ tài chính trong hoặc ngoài nước uỷ thác cho ngân hàng thương mại cho vay theo quy định của bên uỷ thác về điều kiện cho vay, thủ tục cho vay, lãi suất cho vay. Ngân hàng nhận uỷ thác cho vay được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận trước. Thứ năm: Căn cứ vào tính chất pháp lý; được chia làm 2 hình thức: 1) Hình thức tín dụng chính thức: Là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng được luật pháp cho phép hoạt động như: Các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng cổ phần, các quỹ tín dụng… đây là loại hình tín dụng chủ yếu đang cho vay ở nông thôn; và 2) Hình thức tín dụng không chính thức: là hình thức tín dụng không được luật pháp cho phép hoạt động hay còn gọi là tín dụng ngầm, là loại hình cho vay nặng lãi ở nông thôn như:cho vay lãi suất 10 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU trong 10 năm qua (1990 - 2000) và đề ra triển vọng và những giải pháp”
58 p | 1151 | 364
-
Luận văn tốt nghiệp: Hoàn thiện công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại công ty cổ phần thiết bị Đức Nhật
92 p | 695 | 233
-
Luận văn tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo tiêu chuẩn OHSAS 18001:2007 tại công ty cổ phần chế biến gỗ Đức Long Gia Lai
345 p | 725 | 223
-
Luận văn Tốt nghiệp: Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm của Công ty TNHH Công Nghệ và Thương Mại VCOM
55 p | 402 | 157
-
Luận văn Tốt nghiệp: Kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền tại Công ty CP dịch vụ hàng không sân bay Đà Nẵng - MASCO
76 p | 373 | 113
-
Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường hiệu lực quản trị quan hệ khách hàng tại công ty Truyền thông Trực tuyến Việt Nam
66 p | 339 | 105
-
Luận văn tốt nghiệp “ quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và vận dụng quy luật trong quá trình CNH- H
23 p | 237 | 70
-
Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng và hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
53 p | 261 | 44
-
Luận văn tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống quản lý dự án theo quy trình Scrum
15 p | 222 | 33
-
Luận văn tốt nghiệp: Chính sách ngoại thương và quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Canada
95 p | 223 | 24
-
Luận văn tốt nghiệp: Quan hệ an ninh Mỹ - Nhật thời hậu chiến tranh lạnh (1992-1999)
80 p | 118 | 18
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Quản trị hệ thống mạng LAN bằng giải pháp mã nguồn mở
72 p | 27 | 14
-
Tóm tắt Luận văn tốt nghiệp: Sử dụng Struts 1 xây dựng Website quản lý khóa luận tốt nghiệp
23 p | 129 | 12
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng phần mềm quản lý điểm theo hệ thống đào tạo tín chỉ cho một trường đại học
113 p | 25 | 12
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Hệ thống quản lý tour du lịch
65 p | 22 | 11
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng chương trình quản lý thông tin cho một công ty TNHH TM&DV chuyên mua bán dụng cụ Nha khoa và có dịch vụ Nha khoa
85 p | 13 | 8
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý nhân khẩu ở địa phương
79 p | 13 | 7
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Quản lý hồ sơ Đảng viên trường Đại học Võ Trường Toản
72 p | 14 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn