HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

Sisouk PHONGPHICHIT

N¢NG CAO N¡NG LùC T¦ DUY Lý LUËN

CHO C¸N Bé CHñ CHèT CÊP TØNH ë MIÒN NAM

N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

Sisouk PHONGPHICHIT

N¢NG CAO N¡NG LùC T¦ DUY Lý LUËN

CHO C¸N Bé CHñ CHèT CÊP TØNH ë MIÒN NAM

N¦íC CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. TRẦN THÀNH

2. PGS. TS LÊ THỊ THANH HÀ

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Sisouk PHONGPHICHIT

MỤC LỤC

1

6

Trang

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan những công trình đã nghiên cứu về nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

6

1.2. Tổng quan những công trình đã nghiên cứu liên quan đến thực trạng nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

15

1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp nâng cao

năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

22

1.4. Đánh giá khái quát các công trình liên quan và định hướng những nội

dung cần triển khai giải quyết trong luận án

31

36 36

Chương 2: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận 2.2. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh

47

2.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh - nội dung

và các nhân tố ảnh hưởng

60

84 84

Chương 3: NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội các tỉnh miền Nam Lào hiện nay 3.2. Thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở

miền Nam Lào hiện nay

88

3.3. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao năng lực tư

duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay

104

121

Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY 4.1. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo cán bộ

theo hướng chú trọng nâng cao năng lực tư duy lý luận

121

4.2. Nâng cao tính hiệu quả của công tác tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào

129

4.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay

134

4.4. Tạo động lực kích thích cán bộ chủ chốt cấp tỉnh rèn luyện nâng cao năng

lực tư duy lý luận

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

143 149 151 152

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất nước Lào đã và đang thực hiện sự nghiệp đổi mới. Trong sự nghiệp

đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định rằng: trước hết phải đổi

mới tư duy, đặc biệt là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội để trên cơ sở đó bổ

sung đường lối, chủ trương phát triển đất nước.

Trong quá trình đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn khẳng

định rằng: cán bộ có vai trò quan trọng trong việc quyết định thành công của

việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, quy định pháp luật của

Nhà nước. Mọi công việc thành công hay thất bại được quyết định bởi người

cán bộ. Thực tế đã chỉ ra: nếu không có đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực,

có sự trung thành, có sự vững chắc về mặt lý tưởng và là tấm gương tiên phong

cũng không thể hoàn thành công cuộc cách mạng dân chủ trước đây và sự

nghiệp bảo vệ, xây dựng phát triển đất nước hiện nay. Như chủ tịch Cay Xỏn

Phôn Vi Hản đã có ý kiến trong Hội nghị công tác tổ chức toàn quốc lần thứ

VII rằng: "Dù đường lối chính sách của Đảng có đúng thế nào đi chăng nữa,

nếu cán bộ thiếu trình độ, năng lực về các mặt để lãnh đạo tổ chức thực hiện

được đơm hoa kết trái trong thực tế thì đường lối chính sách nêu trên cũng chỉ

đúng ở trên mặt giấy mà thôi" [103, tr.6].

Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn bảo vệ và xây dựng phát triển đất

nước rất cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng và mạnh về

chất lượng. Đặc biệt, trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường càng yêu cầu có

đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ, có năng lực, kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực

khác nhau. Bởi, cán bộ chủ chốt là người giữ vị trí quan trọng trong cơ quan,

đơn vị. Họ là người giữ vai trò quyết định trong việc xác định chương trình,

mục tiêu, kế hoạch công tác, hoạt động của đơn vị họ lãnh đạo. Ngoài ra, họ

thường xuyên phải kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện quyết định, nếu có

lệch lạc phải uốn nắn những biểu hiện đó; Trên cơ sở đó bổ sung, điều chỉnh

kịp thời những tình huống phát sinh mới; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực

2

tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu, phương hướng hành động. Đồng thời,

cán bộ chủ chốt còn là người được tập thể suy tôn nên họ giữ vai trò quy tụ sức

mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội

bộ tổ chức vững mạnh.

Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, mang tầm chiến lược, yêu

cầu họ phải có rất nhiều tiêu chuẩn như chuyên môn giỏi, ngoại ngữ tốt, bản

lĩnh chính trị phải vững vàng, có nhiệt huyết với công việc, tận tâm, tận lực với

dân, với nước... Nhưng trong điều kiện nước Lào đang đi lên xây dựng chủ

nghĩa xã hội thì yêu cầu cán bộ lãnh đạo quản lý cần có tư duy lý luận, đặc biệt

là tư duy lý luận khoa học có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Đây là yêu

cầu của tổng thể của các yêu cầu về cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

Tư duy lý luận là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của

người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, điều này được xem như là chìa khóa

giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nhận thức cũng như chỉ đạo

thực tiễn đem lại hiệu quả cao. Một đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước có đi vào cuộc sống được hay không phụ thuộc rất lớn vào

năng lực và trình độ tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt. Tại Đại hội lần thứ IX

của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng khẳng định:

Trong điều kiện mới, Đảng ta mới cần thiết có đội ngũ cán bộ có

trình độ năng lực, có đạo đức, có phẩm chất về lập trường chính trị

vững vàng, có sự trung thành tuyệt đối với đất nước và sự nghiệp của

Đảng, có tinh thần phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân bằng sự

trong sáng, có nếp sống lành mạnh và tiến bộ, có ý chí rèn luyện

chính mình và không ngừng chăm chỉ học tập nghiên cứu nâng cao

về mọi mặt, có ý thức đối với tổ chức và kỷ luật, tôn trọng, thực hiện

nghiêm túc pháp luật và quy định của Đảng [113, tr.53].

Muốn đi theo hướng xã hội chủ nghĩa thì phải nâng cao trình độ tư duy

lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Để giải quyết vấn đề đó, yêu cầu cấp bách

là đội ngũ cán bộ chủ chốt phải khắc phục được tư duy cũ lạc hậu, trì trệ, chủ

3

quan duy ý chí, giáo điều, không phản ánh quy luật khách quan, phải làm cho

các đội ngũ cán bộ chốt có tư duy mới phù hợp với nhu cầu khách quan của

thời đại, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.

Các tỉnh miền Nam Lào có một vị trí địa chính trị quan trọng trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm qua, hoạt động

lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào đã thực

hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội góp phần giữ vững ổn định và phát

triển đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan mà

năng lực tư duy lý luận vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ lãnh đạo,

quản lý chưa có được tầm nhìn xa, trông rộng, thiếu tư duy chiến lược, tư duy

sáng tạo. Giải quyết công việc chủ yếu vẫn dựa trên tư duy kinh nghiệm. Bên

cạnh đó, các tỉnh miền Nam Lào là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi lại

bị tàn phá nặng nề bởi cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc

làm cho kinh tế chậm phát triển hơn so với các vùng kinh tế khác trong cả nước.

Chính vì vậy, mặc dù vấn đề này đã được khá nhiều sự quan tâm, nghiên cứu

của nhiều nhà khoa học, nhưng với mong muốn đóng góp vào việc nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nước Lào, tôi chọn đề tài:

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam

nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay làm luận án tiến sĩ triết học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận về năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh, luận án phân tích thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng năng

lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào, từ đó đề xuất

một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khái quát tình hình nghiên cứu về tư duy lý luận, nâng cao năng lực tư

duy lý luận cho cán bộ chủ chốt ở Việt Nam và Lào.

4

- Khái quát vai trò, nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh.

- Phân tích thực trạng và nguyên nhân hạn chế của việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về nâng cao năng lực lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh ở miền Nam Lào.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Phạm vi không gian

Luận án tập trung làm rõ thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh miền Nam nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

trong điều kiện hiện nay. Tập trung khảo sát trên địa bàn bốn tỉnh (tỉnh Chăm

Pa Sắc, tỉnh Xa La Văn, tỉnh Xê Công, và tỉnh Át Ta Pư).

3.2.2. Phạm vi thời gian

Tập trung nghiên cứu và sử dụng số liệu từ đổi mới (1986) đến nay nhất

là số liệu những năm gần đây.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin. Đồng thời, luận án cũng dựa trên các quan điểm, đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào, tư tưởng của chủ tịch Cay Xỏn

Phôn Vi Hản về lĩnh vực tư duy lý luận.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Luận án sử dụng các phương pháp như lịch sử và lôgic, trừu tượng, và

cụ thể, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, điều tra, thống kê…

- Luận án còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy đảng và chính

quyền các tỉnh miền Nam Lào.

5

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Luận án sử dụng các phương pháp như lịch sử và lôgic, trừu tượng,

và cụ thể, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, điều tra,

thống kê…

- Luận án còn sử dụng những tài liệu của các cấp ủy đảng và chính

quyền các tỉnh miền Nam Lào.

5. Những đóng góp về khoa học của luận án

- Luận án chỉ ra nội dung của năng lực tư duy lý luận - một năng lực cơ

bản trong năng lực của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh; làm rõ vai trò

của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

- Luận án vạch ra thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tỉnh miền Nam Lào, những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra một số giải pháp chủ

yếu nhằm năng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Ý nghĩa lý luận: Những kết luận rút ra trong luận án sẽ góp phần năng

cao trình độ tư duy lý luận và cách nhìn nhận đúng đắn vai trò của tư duy lý

luận trong hoạt động thực tiễn, khắc phục những khuyết điểm của tư duy cũ

trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong quá trình xây dựng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước

về nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Đồng thời,

luận án cũng được sử dụng cho các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận ở

các trường Đảng, trường Đại học và trong các cơ quan nghiên cứu lý luận.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án được kết cấu gồm 4 chương, 14 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VỀ NÂNG

CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH

1.1.1. Về khái niệm tư duy lý luận

Trong giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, tác giả Trần Văn Phòng đã khẳng định: "lý luận khoa học là

hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh

những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện t-

ượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù" [61]. Có

nhiều loại lý luận, nhưng lý luận mà chúng ta nghiên cứu ở đây là lý luận khoa

học và tư duy lý luận là quá trình con người phản ánh hiện thực khách quan

một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng hệ thống các

khái niệm, phạm trù, quy luật. Trong quá trình khái quát tư duy lý luận, chủ thể

nhận thức sử dụng các công cụ nhận thức như khái niệm, phán đoán, suy luận

để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động

của tự nhiên xã hội và tư duy con người.

Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự nghiệp đổi

mới của Đảng ta" của Trần Sỹ Phán [55] cho rằng: Tư duy lý luận là hình

thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản ánh hiện thực khách quan

một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái

niệm, phạm trù, quy luật. Quá trình tư duy là quá trình chủ thể nhận thức sử

dụng ngôn ngữ và các công cụ khái niệm để nắm bắt các mối liên hệ bên

trong, bản chất, nhằm tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách

thể nhận thức.

Theo nhóm tác giả trong đề tài: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay" của Nguyễn Đình Trãi [87] đã quan

7

niệm: Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình

tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng

hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật.

Trong cuốn sách: "Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh

đạo, chỉ đạo thực tiễn" của Trần Thành [80] cho rằng: Tư duy lý luận (được

hiểu theo là cái "phủ định biện chứng" của tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa

trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học.

Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá và cơ bản trong quá

trình đổi mới ở nước ta" của tác giả Lê Thị Thanh Hà [24] đã cho rằng: Tư duy

lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó là quá trình tổng kết những tri thức

kinh nghiệm, trên cơ sở của thực tiễn và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý

luận, bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Trong bài: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua

giảng dạy triết học" của tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân [91] cho rằng: Tư duy

lý luận được hình thành trên cơ sở của tư duy kinh nghiệm; đó là sự phản ánh

được các mối liên hệ "trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện

của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó" [34, tr.277]. Tư duy lý luận có

thể phân thành nhiều loại khác nhau. Mỗi môn khoa học là một hệ thống tri

thức lý luận (khác với tri thức kinh nghiệm) về bản chất bởi tư duy lý luận dựa

trên cơ sở tri thức kinh nghiệm thực tiễn điển hình cùng với sự tham gia nghiên

cứu của các nhà khoa học, các nhà lý luận.

Trong bài: "Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở

Việt Nam hiện nay" của tác giả Đặng Nguyên Hà [25] cho rằng: Tư duy lý luận

là sự hiểu biết ở trình độ lý luận (chứ không phải ở trình độ kinh nghiệm) về

thế giới nói chung và về các vấn đề xã hội nói riêng. Để đạt được kết quả cao

trong hoạt động thực tiễn, mọi người nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói

riêng cần có tư duy lý luận.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt

cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Dương Minh Đức [22] đã

8

cho rằng, nói đến tư duy lý luận là là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa,

trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính

tất yếu, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Trong bài: "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý

luận" của tác giả Ngô Đình Xây [93] đã cho rằng có 6 điều kiện hình thành tư

duy lý luận là: Tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm.

Điểm xuất phát của tư duy lý luận là kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm thì

không có sự khám phá thực sự về nhưng quy luật tất yếu, nội tại của sự vật,

hiện tượng; Phải có giả thuyết và sử dụng giả thuyết trong quá trình hình

thành tư duy lý luận. Phương pháp biện chứng duy vật như là điều kiện không

thể thiếu để hình thành tư duy lý luận. Tư duy biện chứng là hình thức cao nhất

của tư duy lý luận. Do đó một cách tất yếu là trong quá trình hình thành quan

điểm duy vật về lịch sử, thì song song và cùng với nó là cần phải sử dụng

phương pháp nào để có thể hình thành được tư duy biện chứng duy vật; Tư duy

lý luận phải được gắn liền với sự phát triển của khoa học bởi việc gắn với sự

phát triển của khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được các mối liên hệ bên trong

của các sự vật hiện tượng; Tư duy lý luận phải có "bà đỡ" là thực tiễn xã hội;

Muốn có tư duy lý luận, phải có sự nghiên cứu nghiêm túc toàn bộ lịch sử triết

học. Bởi vì tư duy lý luận, ở mỗi người chúng ta, chỉ tồn tại dưới dạng năng lực

tiềm tàng và chính việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học toàn bộ tư

tưởng triết học của nhân loại sẽ giúp cho năng lực "ấy trở thành hiện thực". Tư

duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà

thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, mà muốn hoàn thiện nó

thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết

học thời trước.

Hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học đều cho rằng tư duy là vấn

đề cốt lõi, mấu chốt của lý luận nhận thức, nếu không làm rõ được bản chất tư

duy, nhận thức luận sẽ chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cảm tính về những

thuộc tính, những mặt bên ngoài của các đối tượng nhận thức. Còn tư duy lý

9

luận là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, là sự phủ định của tư duy kinh

nghiệm. Quá trình hình thành tư duy lý luận gắn liền với sự phát triển của

khoa học, của thực tiễn lịch sử - xã hội.

1.1.2 Về vai trò của tư duy lý luận

Ph.Ăngghen cho rằng: "Dù người ta tỏ ra khinh thường tư duy lý luận

như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta không thể liên

kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu được mối

liên hệ giữa hai sự liên kết đó" [41, tr.508]. Theo Ph.Ăngghen, tư duy lý luận

có một vai trò đặc biệt quan trọng, vì một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh

cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Đồng thời, trong khi

nhấn mạnh tới vai trò của nó, Ph.Ăngghen cũng lưu ý ngay rằng:

Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại

chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác

nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất

khác nhau. Thế cho nên cũng như bất kỳ khoa học nào khác, khoa

học về tư duy là một khoa học lịch sử, là khoa học về sự phát triển

lịch sử của tư duy con người [41, tr.487].

Trong cuốn: "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến

nay" của Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt và Lê ngọc Tòng [72],

các tác giả đã cho rằng: tư duy lý luận có vai trò to lớn trong quá trình đổi mới

và phát triển đất nước. Do vậy, để đổi mới xã hội, trước hết phải đổi mới tư

duy lý luận, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức của đổi mới.

Hình thành nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam trong những hoàn cảnh, điều kiện mới của tình hình trong

nước và thế giới là điểm cốt lõi, căn bản nhất của lý luận đổi mới ở nước ta từ

giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX cho đến nay. Thực tiễn xã hội đã khách quan hoá

vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát

triển của đất nước và dân tộc ta. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, do đó là vấn

đề cấp bách, bức xúc đối với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản,

10

lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Ở vị trí Đảng cầm

quyền, có trọng trách lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo xã hội đi tới chủ nghĩa xã

hội, thực hiện lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng

phải thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước

hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của Đảng

cầm quyền.

Theo đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng thời kỳ

đổi mới đã nhấn mạnh: "Nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư

duy lý luận" [36, tr.95]. Bởi, tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên

các công cụ là khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, hướng tới phân tích,

tổng hợp, khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, từ

đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người và sáng tạo tri

thức mới.

Trong bài: "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá và cơ bản trong quá

trình đổi mới ở nước ta" của tác giả Lê Thị Thanh Hà [24] cho rằng: tư duy lý

luận có vai trò: nắm bắt, tái tạo hiện thực khách quan không phải bằng những

khái niệm thông thường mà bằng những khái niệm khoa học trên cơ sở tổng kết

thực tiễn điển hình. Do đó, những khái niệm này giúp tư duy con người có thể

đi sâu vào bản chất sự vật, vạch ra qui luật và tính qui luật của các sự vật, hiện

tượng và dĩ nhiên quá trình này không phải là hành động giản đơn, bất chợt,

vụn vặt, rời rạc mà có quy trình, có hệ thống, mang tính chỉnh thể và tính khái

quát cao, tính lô gic chặt chẽ. Vì vậy, sản phẩm của tư duy lý luận đạt tới trình

độ lý luận. Do vậy, tư duy lý luận không những giúp cho nhận thức của con

người trở thành nhận thức lý luận khoa học mà còn chỉ ra những phương hướng

mới cho hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó mang tính

chủ động, tự giác, sáng tạo hơn.

Theo Nguyễn Mạnh Cương [12] thì tư duy lý luận sản sinh ra các tri thức

gián tiếp có nội dung là những quy định tất yếu, bản chất và phản ảnh khách

thể dưới hình thức cái phổ biến. Những tri thức lý luận được duy trì và hoạt

11

động thông qua các hình thức logic như khái niệm, phán đoán và suy lý... Tư

duy lý luận là cấp độ nhận thức cao nhất của con người, có vai trò quan trọng

vượt hẳn so với tư duy kinh nghiệm trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn của

con người. Với khả năng thâm nhập vô hạn vào bản chất và quy luật của thế

giới đối tượng, tư duy lý luận chỉ đạo có hiệu quả nhất đối với thực tiễn của con

người trong hiện tại và cả tương lai. Về lâu dài tư duy lý luận có thể tạo ra

những mô hình lý luận phù hợp với hiện thực khách quan chỉ đạo thực tiễn

ngày càng có hiệu quả.

Theo tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân [91] thì: Tư duy lý luận có vai trò rất

quan trọng đối với hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, để cải tạo thế

giới, làm chủ tự nhiên và xã hội thì con người cần phải có và không ngừng

nâng cao trình độ tư duy lý luận. Lý luận, các chủ trương, chính sách không ra

đời một cách trực tiếp mà là kết quả của những sự trừu tượng khoa học dựa

trên cơ sở thực tiễn.

Trong cuốn: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý

luận Mác- Lênin ở trường chính trị tỉnh" của Trần Viết Quang [68]. Tác giả

dẫn lời cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: Cuộc sống ngày càng phức

tạp, nhiệm vụ khó khăn, thời đại diễn ra nhanh chóng thì lý luận càng trở nên

thiết yếu như cơm ăn và nước uống hằng ngày.

Trong cuốn: "Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới" của Trần Nhâm [49]

đã khẳng định: quá trình đổi mới ở Việt Nam trong những năm qua bắt đầu từ

tư duy lý luận. Đồng thời, đổi mới cũng giúp Đảng ta đã trưởng thành về tư

duy lý luận. Do vậy, tư duy lý luận có vai trò vô cùng quan trọng trong quá

trình đổi mới. Theo đó, để đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao

của thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

Đảng ta phải tiếp tục nâng cao hơn nữa tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của mình, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta thành một Đảng trí tuệ, đủ

sức giải quyết thành công những vấn đề do cuộc sống đặt ra, xứng đáng là

12

người cầm lái, dẫn đường, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự

nghiệp đổi mới đi vào thế kỷ XXI với quyết tâm không gì lay chuyển nổi.

- Trong cuốn: "Đổi mới phong cách tư duy" của Phạm Như Cương [13].

Cuốn sách đã chỉ ra vai trò to lớn của tư duy lý luận và khẳng định rằng: trong

quá trình đổi mới tư duy mấy năm nay mà chúng ta đang thực hiện, chính đang

đòi hỏi một sự đột phá lớn về lý luận. Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh đã

nhiều lần nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của lý luận tiền phong, về

những yêu cầu nghiêm khắc về trí tuệ và đạo đức của người làm công tác khoa

học, làm lý luận, đặc biệt là phải rèn luyện được phong cách tư duy biện chứng,

bám sát thực tiễn để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý luận.

1.1.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận

Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận

thức luận được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình,

những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý

luận, từ đó làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc

nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay.

Năng lực được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, "khả năng, điều kiện chủ

quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; thứ hai, "phẩm

chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt

động nào đó với chất lượng cao" [52, tr.656]. Tư duy là giai đoạn cao của quá

trình nhận thức, đi sâu vào bản chất, phát hiện ra những quy luật của sự vật,

hiện tượng. Cho nên, năng lực tư duy chính là khả năng, tập hợp những phẩm

chất sinh lý và tâm lý của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận thức thế giới của

con người.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp huyện ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Đức Quyền [71] cho rằng:

"Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể,

toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và

phát triển; đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái

13

niệm, phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá

nhằm đem lại những tri thức mới mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc

và có hệ thống..., phù hợp với quy luật khách quan của hiện thực. Năng lực tư

duy lý luận có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hoá lý luận thành

mục tiêu, phương hướng, giải pháp khả thi để giải quyết các vấn đề của cuộc

sống một cách có hiệu quả".

Trong bài: "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy" của

tác giả Nguyễn Ngọc Long [38] đã phân tích về năng lực tư duy lý luận và vai

trò của nó trong đổi mới tư duy, thông qua việc nâng cao năng lực tư duy là sự

ảnh hưởng đến hiệu quả công việc thực tế. Đất nước ta bắt đầu bước vào thời

kỳ đổi mới, tiến lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa thì việc nâng cao năng lực tư duy lý luận có ý nghĩa rất quan trọng đối

với các chủ thể kinh tế trong việc đưa ra những định hướng, chiến lược phát

triển của mình. Bài viết là tài liệu quan trọng có ý nghĩa và giá trị tham khảo

khi nghiên cứu đề tài.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã

hiện nay" của tác giả Hồ Bá Thâm [84] đã cho rằng: năng lực tư duy thuộc về

tư chất của chủ thể tư duy, đồng thời do môi trường kinh tế - xã hội, chính trị

xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến

năng lực tư duy lý luận của con người. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn là yếu tố

cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy lý luận của con người.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các

trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" của Cao

Thị Hà [23] đề cập tới năng lực tư duy lý luận là năng lực đặc trưng riêng có ở

con người. Vì thế khi nói về tư duy thường người ta cũng quan tâm đến năng

lực và trình độ tư duy của các chủ thể. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ

quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động tâm lý nào đó; là phẩm

chất đạo đức, là quá trình tâm sinh lý tạo khả năng để hoàn thành một hoạt

động nào đó với một chất lượng cao. Năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực

14

nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn đời sống; ngoài ra năng lực tư duy

của chủ thể hoạt động còn biểu hiện ở chỗ biết tổng kết kinh nghiệm, khái quát

hóa kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận và xây dựng mô hình lý luận mới phù

hợp với sự vận động và phát triển của thực tiễn.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Dương Minh Đức

[22]. Năng lực tư duy chính là khả năng, tổng hợp những phẩm chất sinh lý và

tâm lý, trí tuệ của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận thức thế giới của con

người. Hoạt động tư duy không chỉ dừng lại ở mức độ chép lại, chụp lại mà tư

duy còn mang tính sáng tạo. Đây không những là cơ sở giúp con người có thể

hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả, mà còn giúp cho con người tạo ra

những cái không có sẵn, hình thành tự nhiên thứ hai của mình thông qua hoạt

động thực tiễn. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình

độ khác nhau của năng lực tư duy.

Đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

quận Dương Kinh, Thành phố Hải phòng hiện nay" của Nguyễn Thành

Nguyên [51]. Tác giả cho rằng, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa

chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy để trên cơ sở đó

chỉ ra một hoặc một số suy luận nhất định.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng

dạy ở các trường chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [87]. Công trình cũng

nêu bật các đặc trưng cơ bản của tư duy kinh nghiệm, sự khác nhau của nó với

tư duy lý luận khoa học, năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận. Từ

sự phân tích sâu sắc những yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý luận, những yếu

tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy lý luận như tác động về mặt sinh học và

những tác động về mặt xã hội, tác giả khẳng định rằng: Năng lực tư duy nói

chung, năng lực tư duy lý luận nói riêng, chủ yếu là sản phẩm của lịch sử xã

hội, sản phẩm của môi trường hoạt động, của sự học tập và rèn luyện của chủ

thể tư duy.

15

1.2. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ

CHỦ CHỐT CẤP TỈNH

Cuốn sách: "Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ

đạo thực tiễn" của Trần Thành [80] cho rằng: thực trạng hiện nay là cán bộ

lãnh đạo quản lý bị ảnh hưởng bởi tư duy kinh nghiệm, tư duy bao cấp "Ảnh

hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện

nay biểu hiện ở chỗ một số người chưa có tầm nhìn xa trông rộng, khi đề ra kế

hoạch không có một chiến lược lâu dài" [80, tr.42]. "Ảnh hưởng của lối tư duy

này đối với tầng lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay được biểu hiện

ở lối suy nghĩ, cách làm ăn đại khái; tác phong công tác luộm thuộm; đánh giá

cán bộ còn mang nặng cảm tính; tuyển người theo quen biết, họ hàng; lối sống

còn nặng về tình cảm" [80, tr.43].

Trong cuốn: "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến

nay" của Tô Huy Rứa và các cộng sự [72] đã chỉ ra thực trạng và yêu cầu của

tư duy lý luận ở Việt Nam: việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng những năm

vừa qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới vừa

chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn đất nước và của

thế giới trong thời đại ngày nay. Còn không ít vấn đề lý luận hết sức cơ bản của

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa có câu trả lời thật sự sáng

rõ. Chẳng hạn, thời kỳ quá độ ở nước ta gồm mấy chặng, là những chặng nào,

nội dung và thời gian của mỗi chặng ra sao, tiêu chuẩn kết thúc thời kỳ quá độ

là gì; các tiêu thức để đánh giá hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nội

dung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của

nước ta là gì; ở nước ta có hình thành giai cấp tư sản không?... Thậm chí, một

vấn đề cụ thể là đảng viên có được làm kinh tế tư bản tư nhân không được đặt

ra đã 15 năm, nhưng đến nay vẫn chưa có câu trả lời đầy đủ. Vẫn biết rằng các

vấn đề đã nêu và nhiều vấn đề khác không dễ trả lời, rằng nếu vội vàng đưa ra

kết luận sai thì còn tai hại hơn là chưa đưa ra câu trả lời, nhưng để quá chậm

16

chưa đưa ra được câu trả lời là một sự bất cập, yếu kém hiển nhiên, không thể

bào chữa [72, tr.482]. Nguyên nhân của thực trạng yếu kém về tư duy lý luận,

các tác giả trong cuốn sách cũng đã chỉ ra: Về sự chậm trễ của tư duy lý luận,

có ý kiến cho rằng phải chờ thực tiễn vận động đến mức chín muồi nhất định,

sự vật bộc lộ hết những đặc điểm cơ bản của nó mới có cơ sở để tổng kết, khái

quát thành lý luận. Nói như vậy là không có sức thuyết phục, bởi nếu như vậy

thì còn đâu vai trò hướng dẫn, soi đường của lý luận; hơn nữa, chẳng phải Mác

và Ăngghen đã từng đưa ra những kết luận lý luận nổi tiếng về cách mạng vô

sản ngay trong những ngày cuộc nội chiến ở Pháp, Công xã Pa-ri đang diễn ra;

Lênin đã rút ra nhiều kết luận vĩ đại chỉ từ một ngày lao động thứ bảy cộng sản;

những kết luận của Đảng ta về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cũng được

rút ra khá nhanh khi thực tiễn mới diễn ra ở một số địa phương, ý kiến còn khá

khác nhau [72, tr.482].

Trong bài: "Vai trò của Triết học Mác - Lênin trong đổi mới tư duy lý

luận ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Văn Quang [67] đã chỉ ra thực trạng

"tư duy lý luận Việt Nam bước đầu đã phản ánh được những phát triển mới của

thế giới, như sự phát triển của sản xuất vật chất, sự xuất hiện của kinh tế tri

thức, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại;

quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra, sự thích nghi và phát triển cao của chủ

nghĩa tư bản, sự trì trệ và xuất hiện khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện

thực. Nhờ phân tích cụ thể tình hình cụ thể trong sự vận động, phát triển không

ngừng của thế giới đương đại, chúng ta đã bổ sung cho mình sự hiểu biết mới

và từng bước điều chỉnh chủ trương, chính sách phát triển cho phù hợp với

thực tiễn".

Trong bài: "Tổng kết thực tiễn - một nhiệm vụ trọng yếu của công tác lý

luận hiện nay" của Nguyễn Phú Trọng [88] cho rằng: hiện nay: "công tác lý

luận vẫn còn lạc hậu, việc tổng kết thực tiễn vẫn còn yếu kém, chưa theo kịp sự

phát triển và yêu cầu của cách mạng... phương pháp tư duy vẫn chưa vươn tới

tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm

17

hoặc phần nào còn mang tính thực dụng. Rất nhiều vấn đề chúng ta vẫn chưa

kết luận được". Vì vậy, đòi hỏi phải tiếp tục có những đổi mới mang tính bước

ngoặt về tư duy lý luận.

Trong bài: "Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở

Việt Nam hiện nay" của tác giả Đặng Nguyên Hà [25]. Ở Việt Nam hiện nay,

đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý (cán bộ lãnh đạo và quản lý thuộc hệ thống

chính trị) được hình thành từ nhiều nguồn, nhưng đều trưởng thành từ công

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ được tuyển chọn và bổ nhiệm vào các

chức vụ lãnh đạo và quản lý thuộc hệ thống chính trị theo quy định chặt chẽ và

nghiêm ngặt, trên cơ sở tham gia ý kiến của nhiều tổ chức chính trị, tổ chức xã

hội và nhân dân. Đa số họ có hiểu biết nhất định về một chuyên môn nghề

nghiệp nào đó, đồng thời có hiểu biết ở trình độ cơ bản về lý luận chính trị

(trình độ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ về lý luận chính

trị). Họ được trang bị kiến thức ở trình độ cơ bản về lý luận chính trị tại các

khóa học của các trường chính trị các cấp.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, trình độ tư duy lý luận chính trị của nhiều cán

bộ lãnh đạo và quản lý cũng còn những hạn chế như sau: Thứ nhất, nhiều cán

bộ thiếu hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới nói

chung, ở trong nước nói riêng. Ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý, tư

duy chủ yếu là tư duy kinh nghiệm (trực quan, cảm tính); tư duy lý luận còn

hạn chế. Do đó, tuy có bằng cấp, nhưng họ vẫn lúng túng trong việc hoạch định

kế hoạch công tác cũng như tổ chức thực tiễn ở địa phương mà mình phụ trách,

tức là họ có bằng cấp nhưng không có thực học; Thứ hai, nhiều cán bộ không

nắm bắt đầy đủ và chính xác tình hình thực tiễn đất nước. Yêu cầu quan trọng

và cần thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp là phải hiểu biết

các mặt, lĩnh vực của đất nước và địa phương; Thứ ba, nhiều cán bộ còn yếu

kém trong việc tổng kết thực tiễn.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý

luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [87].

18

Luận án đã phân tích thực trạng về năng lực tư duy lý luận của cán bộ giảng

viên giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trương chính trị tỉnh một cách cụ thể,

thực tế trên cơ sở khảo sát qua những nội dung như: những điểm mạnh chủ yếu

trong năng lực tư duy lý luận của cán bộ giảng viên giảng dạy lý luận Mác -

Lênin ở các trương chính trị tỉnh hiện nay; một số biểu hiện yếu kém về năng

lực tư duy lý luận; nguyên nhân yếu kém về tư duy lý luận. Qua đó, tác giả

luận án đã khẳng định nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng viên

giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trương chính trị tỉnh là một yêu cầu tất yếu

của sự nghiệp đổi mới.

Trong tác phẩm: "Thực trạng tư duy lý luận của lãnh đạo quản lý nước

ta hiện nay. Trong quá trình học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh" của

Nguyễn Thế Kiệt [31]. Thực tế những năm qua cho thấy, cán bộ lãnh đạo, quản

lý ở nước ta đã năng động triển khai Nghị quyết của Trung ương cũng như tổng

kết kinh nghiệm thực tiễn, góp phần khuyến nghị với trung ương kịp thời bổ

sung, phát triển lý luận và chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý vẫn

còn trông chờ sự chỉ đạo của trung ương, chưa mạnh dạn đề xuất những biện

pháp sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương. Vì thế, nhiều vấn đề

nảy sinh từ thực tế chưa được giải quyết kịp thời khiến họ lúng túng, bị động.

Trong khi đó, sự nghiệp đổi mới của đất nước đòi hỏi phải kịp thời tổng kết

thực tiễn, đề xuất được những giải pháp góp phần chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Trong công trình khoa học: "Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong tình

hình hiện nay - vấn đề và giải pháp" của tác giả Phạm Ngọc Quang [66] đã

khẳng định:

Không thể phủ nhận thực tế là, qua thực tiễn đổi mới và học tập lý

luận, năng lức lý luận của Đảng, của dân tộc ta đã được nâng lên;

quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

ở nước ta ngày càng được làm rõ hơn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý của Đảng và Nhà nước ta đã có bước trưởng thành về nhiều mặt,

19

chẳng những đã tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị,

mà còn góp phần hoạch định ra đường lối, chủ trương đổi mới đúng

đắn. Song cũng không thể không thấy rằng để đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo,

đạt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh" trong khung cảnh đầy những biến động mạnh mẽ đang diễn ra

hiện nay, không ít vấn đề mới dã xuất hiện mà việc giải đáp chúng

còn rất chậm trễ. Một nguyên nhân quan tọng dẫn tới tình trạng đó là

nhiều vấn đề cấp bách trong lý luận và thực tiễn chưa được tổng kết,

giải đáp đến nơi đến chốn; những chủ trương, chính sách đúng đắn đã

được đề ra, song chưa được nhận thức sâu sắc, chưa thật sự thống

nhất, thậm chí chưa thông suốt, chậm được triển khai, tổ chức thực

hiện hoặc thực hiện một cách sai, kém hiệu quả... [66, tr.42-43].

Theo đó, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng nhiều vấn đề cần

phải lý giải từ mặt lý luận, theo đó, cần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong quá

trình đổi mới.

Luận án: "Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị cấp

trung đoàn quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Dũng

[15]. Luận án đã tìm hiểu thực trạng năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính

trị cấp trung đoàn hiện nay, ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận như: biểu

hiện bị động trước các tình huống phức tạp của thực tiễn về lãnh đạo, quản lý,

chỉ huy đơn vị; những khuyết điểm về kỷ luật, đoàn kết, quan hệ quân dân của

đơn vị là những khuyết điểm thường lặp lại nhưng thiếu bài học kinh nghiệm

để khắc phục triệt để, những bài học thành công chưa được phát huy và nhân

rộng; năng lực tổng kết thực tiễn xây dựng đơn vị, tổ chức cơ sở đảng, tổng kết

kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị, kinh nghiệm vận động quần

chúng và đoàn kết quân dân... còn có lĩnh vực chưa được quan tâm đồng đều,

20

thiếu tính chủ động tổng kết kinh nghiệm, phát hiện vấn đề... mà thiên về máy

móc theo hướng dẫn của cấp trên, theo các đợt tổng kết của cấp trên.

Luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Dương Minh Đức

[22]. Tác giả luận án đã chỉ ra thực trạng năng lực tư duy lý luận của cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở vùng Sông Hồng hiện nay có năng lực tư duy

chính trị nhạy bén. Cùng với đó, họ còn là những người có thế mạnh về kinh

nghiệm chỉ đạo thực tiễn. Đa số họ là những người có quá trình lăn lộn và

trưởng thành từ hoạt động thực tiễn tại địa phương và do vậy, ở họ luôn có

những năng lực nhất định trong việc vận dụng đường lối đổi mới của Đảng vào

xây dựng các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cụ thể trên địa

bàn của mình. Với năng lực này, họ có khả năng dự báo xu hướng phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương để từ đó đề ra được những phương hướng, giải

pháp cụ thể cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên,

năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này cũng còn một số hạn chế. Đó là bệnh

kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, chủ quan, tư duy lôgíc yếu. Về cơ bản, có

thể nói, một phần đội ngũ cán bộ này còn mang nặng lối tư duy theo đường

mòn, duy ý chí trong suy nghĩ và hành động, có tâm lý ngại thay đổi, ngại va

chạm và khi gặp khó khăn thì thường đổ lỗi cho khách quan, nhanh chóng

quay lại cách làm cũ; lấy các mong muốn cá nhân áp đặt cho thực tế, lấy nhu

cầu, nguyện vọng chủ quan thay cho khả năng hiện thực, lấy ý muốn, ý chí của

người lãnh đạo làm điểm xuất phát, bất chấp quy luật khách quan.

"Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận

chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các tỉnh phía Bắc Cộng hoà dân chủ

nhân dân Lào" của Khăm Phủi Chăn Thavadi [30] đã chỉ ra thực trạng nâng

cao trình độ nhận thức, lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên, cán bộ chủ chốt

của các cơ quan đảng, chính quyền các cấp và các cơ quan đơn vị trong ở các

tỉnh phía Bắc Lào. Theo số liệu thống kê từ các ban tổ chức tỉnh ủy của 8 tỉnh

phía Bắc Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

21

trình độ lý luận chính trị được tiến hành đồng bộ ở cả 3 chương trình: đào tạo,

bồi dưỡng lý luận chính trị thời gian 45 ngày cho cán bộ cơ sở tuyến huyện,

bản và cụm bản; học tập tại các trường chính trị và hành chính tỉnh và Học viện

Chính trị quốc gia Lào theo chương trình trung cấp và cao cấp lý luận chính trị

(đối với các tỉnh phía Bắc được đào tạo ở Trường Chính trị và Hành chính tỉnh

Luông Pha Băng và Trường Chính trị và Hành chính tỉnh U Đôm Xay). Trong

các năm 2015-2017, đã có 27.730 cán bộ các cấp được tham gia các chương

trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (trong đó có 2.630 cán bộ nữ); 2.847

cán bộ (457 cán bộ nữ) tham gia các khóa bồi dưỡng và học cao cấp lý luận

chính trị; 3.160 cán bộ (621 cán bộ nữ) được bồi dưỡng và đào tạo trình độ

trung cấp lý luận chính trị; 2.772 cán bộ (619 cán bộ nữ) hoàn thành chương

trình bồi dưỡng và đào tạo trình độ sơ cấp lý luận chính trị. Đây được coi là

một kết quả quan trọng trong tổng thể công tác cán bộ của Đảng, đặc biệt là

trong đào tạo cán bộ các cấp trong hệ thống chính trị của Cộng hoà Dân chủ

Nhân dân Lào nói chung và với các tỉnh phía Bắc Lào nói riêng.

Tuy nhiên, bên cạnh đó những kết quả đạt cũng cho thấy còn nhiều hạn

chế, bất cập. Ở một số tỉnh và huyện, việc tổ chức các khóa học, các lớp bồi

dưỡng còn chưa chặt chẽ về kế hoạch, việc cử cán bộ đi học chưa gắn với quy

hoạch cán bộ của cấp ủy; hệ thống quy chế, quy định về đào tạo bồi dưỡng

trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ theo phân cấp có nơi còn chưa rõ rang, cụ

thể. Trong công tác giảng dạy và học tập, chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo

viên còn chưa đồng đều, nhiều đồng chí còn hạn chế về trình độ lý luận và kinh

nghiệm, chưa đủ năng lực để giải đáp các vấn đề mới về lý luận và thực tiễn

cho học viên. Ở một số lớp học, tinh thần phấn đấu tự rèn luyện, tự học tập của

cán bộ còn thấp, chưa thực sự cầu thị. Việc bảo đảm ngân sách cho các chương

trình đào tạo cũng như chính sách cho cán bộ đi học còn thấp, chưa đáp ứng

đúng, đủ theo nhu cầu thực tế đặt ra

Luận án: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ đảng viên Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn cách mạng hiện nay" của Bun Phết

22

Xu Ly Vông Xắc [6]. Luận án đã chỉ ra thực trạng năng cao trình độ tư duy lý

luận cho cán bộ đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn

cách mạng hiện nay là còn ảnh hưởng của tư duy truyền thống, "tư duy truyền

thống toát lên một đặc điểm đó là tư duy mang đậm mầu sắc kinh nghiệm".

"Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh

hiện nay biểu hiện ở chỗ một số người chưa có tầm nhìn xa trông rộng, khi đề

ra kế hoạch không có một chiến lược lâu dài. Chẳng hạn xét trên bình diện vĩ

mô của tỉnh, thành phố, chúng ta thấy xây dựng, thiết kế, quy hoạch… chỉ được

vài năm đã thấy bất cập, bất hợp lý và thế là lại sửa gây nên biết bao lãng phí

về của cải, thời gian, công sức"; Ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ dẫn đến lối

tư duy siêu hình vụn vặt; Ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan

liêu bao cấp trước năm 1986.

Luận án tiến sĩ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh

phía Nam Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay"

của Bun Xợt Thăm Ma Vông [4] tác giả phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp huyện ở Nam Lào là còn bị ảnh hưởng nặng nề của tư duy kinh

nghiệm, tư duy giáo điều. Đặc biệt, Miền Nam Lào bị ảnh hưởng của chiến

tranh, do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở đây chủ yếu vẫn dùng tư

duy kinh nghiệm để giải quyết công việc, ít học tập và vận dụng tư duy lý luận.

1.3. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA CÁN BỘ CHỦ

CHỐT CẤP TỈNH

Về giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh có một số những công trình nghiên cứu sau:

Theo tác giả Trần Văn Phòng trong bài: "Giải pháp nâng cao năng lực

tư duy biện chứng, chống bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và chủ quan duy ý

chí" [59] cho rằng, để nâng cao năng lực tư duy biện chứng, tư duy lý luận cần

chống bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và bệnh chủ quan duy ý chí. Bởi đây

là căn bệnh của chế độ cũ, căn bệnh trước đây của thời kỳ chưa đổi mới, nó cản

23

trở việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng, tư duy lý luận. Và để nâng cao

năng lực tư duy biện chứng, tư duy lý luận cần tăng cường tổng kết kinh

nghiệm, đặc biệt phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

trong nhận thức cũng như trong hành động.

Trong bài: "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý

luận" của tác giả Ngô Đình Xây [93] đã cho rằng: Muốn có tư duy lý luận, phải

có sự nghiên cứu nghiêm túc toàn bộ lịch sử triết học. Bởi vì tư duy lý luận, ở

mỗi người chúng ta, chỉ tồn tại dưới dạng năng lực tiềm tàng và chính việc

nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học toàn bộ tư tưởng triết học của nhân

loại sẽ giúp cho năng lực "ấy trở thành hiện thực".

Trong công trình khoa học: "Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong tình

hình hiện nay - vấn đề và giải pháp" của Phạm Ngọc Quang [66] cho rằng: để

nâng cao năng lực tư duy lý luận cần: đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận,

tổng kết thực tiễn nhằm tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa lý luận về chủ nghĩa xã

hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội; Trên cơ sở Luật khoa học, hình

thành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận; Hoàn thiện cơ chế về mối

quan hệ giữa cơ quan lý luận với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước

để tạo thị trường cho công tác lý luận, cho người là công tác lý luận; Phát huy

vai trò của các cơ quan lý luận, của các tổ chức hội những người làm công tác

lý luận trong việc quy tụ lực lượng, tổ chức nghiên cứu lý luận và tổng kết thực

tiễn; Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Tổ chức lại một cách căn bản hệ thống đào

tạo cán bộ lãnh đạo của Đảng và cán bộ quản lý của Nhà nước theo hướng tập

trung đầu mối, tránh trùng lặp trong nội dung đào tạo, tạo sự liên thông về

chứng chỉ học tập. Phát huy vai trò trung tâm nghiên cứu và giảng dạy lý luận

của học viện CTQG Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ

làm công tác lý luận. Nâng cao trình độ phương pháp luận duy vật biện chứng,

hiện đại hóa các phương pháp tiếp cận cụ thể để nâng cao chất lượng nghiên

cứu lý luận; Đổi mới chính sách đối với cán bộ làm công tác lý luận, tạo điều

24

kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ này tiếp cận sâu sắc với thực tiễn cuộc sống;

Tăng cường đầu tư ngân sách cho hoạt động lý luận; Mở rộng hoạt động quốc

tế và tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác lý luận.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Đức Quyền [71] muốn nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện cần: "Tiếp

tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo bước chuyển biến tích cực về

đời sống vật chất, văn hoá, trình độ dân trí cho cán bộ và nhân dân; Đặc biệt

quan tâm đầu tư cho công tác giáo dục và đào tạo nhằm không ngừng nâng cao

trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận, khả năng

nắm bắt, xử lý thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp huyện; đồng thời, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho họ; Cần

thực hiện việc bố trí, sử dụng cán bộ dựa trên tiêu chuẩn về năng lực tư duy lý

luận. Và muốn vậy, phải động viên, khuyến khích họ thường xuyên trau dồi và

rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Năng lực tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện cần phải được trau dồi, rèn luyện thường

xuyên và phải thông qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở để rèn luyện, biến tri thức

và phương pháp tư duy thành sức mạnh vật chất. Chỉ có như thế mới tạo ra cho

họ thói quen tư duy khoa học, tính linh hoạt, nhạy cảm, chính xác trong suy

nghĩ cũng như trong hành động".

Trong bài: "Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và quản lý ở

Việt Nam hiện nay" của tác giả Đặng Nguyên Hà [25]. Để nâng cao năng lực tư

duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cần: tăng cường giáo dục tư duy lý

luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý; phải đổi mới nội dung giáo dục tư

duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý theo hướng thực

học; phải đổi mới phương pháp giáo dục tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ

cán bộ lãnh đạo và quản lý.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp cở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay" của Nguyễn Thành Chung [9] cho

25

rằng, để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ này, cần tiến hành đồng

thời, đồng bộ một số giải pháp chủ yếu, khả thi và thiết thực như: nâng cao

trình độ học vấn tạo ra cơ sở nền tảng để đối tượng được đào tạo nâng cao năng

lực tư duy lý luận, muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận thì không thể không

nâng cao trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật. Tri thức và năng lực tư duy lý

luận có liên hệ và sự tác động biện chứng với nhau. Phải dựa trên một lượng tri

thức nhất định, con người mới có một năng lực tư duy lý luận thực sự. Chỉ có

đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo thì đội ngũ cán bộ mới nghiên cứu, học

tập nắm chắc quan điểm của lý luận mác xít, trong đó tinh thần cốt lõi là

phương pháp tư duy biện chứng duy vật, chỉ có giáo dục mới trang bị những

kiến thức cần thiết cho họ, giúp họ hoàn thiện nhân cách cá nhân, nâng cao

năng lực tư duy và phẩm chất đạo đức để làm chủ và xây dựng xã hội mới.

Trong cuốn: "Triết học và đổi mới" của tác giả Dương Phú Hiệp [28] đã

cho rằng, để nâng cao tư duy, đặc biệt là tư duy lý luận, nhiệm vụ của các nhà

triết học là vô cùng quan trọng. Do vậy, cần phải học tập và vận dụng sáng

tạo chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng trong việc nâng cao

năng lực tư duy lý luận. Tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của sự lạc hậu về

nhận thức lý luận ở nước ta hiện nay là phải khắc phục tư duy kinh nghiệm

chứ không được dừng lại ở trình độ tư duy kinh nghiệm, phải đạt tới trình độ

tư duy lý luận.

Trong bài: "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua

giảng dạy triết học" của Nguyễn Thị Bạch Vân [91] cho rằng: Có nhiều con

đường để con người nâng cao trình độ tư duy lý luận. Một trong những con

đường đó là giáo dục triết học, bởi vì triết học là thế giới quan và phương

pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Giáo dục triết

học có vai trò quan trọng để góp phần hình thành tư duy lý luận cho con

người nói chung và cho sinh viên nói riêng. Đương nhiên, triết học mà chúng

ta cần giáo dục cho sinh viên là triết học đúng đắn, chứ không phải là bất kỳ

triết học nào. Triết học đúng đắn là triết học duy vật biện chứng (triết học

26

Mác - Lênin); đó là sự xem xét giới tự nhiên cũng như xã hội và tư duy con

người một cách khoa học.

Trong bài: "Vai trò của Triết học Mác - Lênin trong đổi mới tư duy lý

luận ở Việt Nam hiện nay" của Lê Văn Quang [67] đã chỉ ra: lý luận triết học

có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ,

đảng viên, công chức Nhà nước. Tư duy triết học không chỉ là cơ sở để nâng

cao tư duy lý luận cho cán bộ của Đảng, công chức của Nhà nước, mà còn góp

phần xây dựng các đề án trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng để ngang tầm với

nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Quá trình hoàn

thiện lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam không thể không có sự tham gia của lý luận triết học. Do vậy, việc

nâng cao năng lực nhận thức các vấn đề cơ bản của triết học mácxít và không

ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đổi

mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý

luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi [87].

Luận án đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu: Trau rồi và rèn luyện phương

pháp tư duy biện chứng duy vật; Tăng cường tổng kết thực tiễn; Tiếp tục đổi

mới công tác đào tạo, bố trí, sử dụng giảng viên đông thời phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo trong việc tự phấn đấu, rèn luyện nâng cao năng lực tư

duy lý luận.

Trong bài: "Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều, đổi mới tư duy lý luận"

của Nguyễn Ngọc Long [38]. Tác giả đã đưa ra một số nguyên tắc phát triển tư

duy lý luận như: Nâng cao năng lực tư duy lý luận phải từng bước gắn với sự

phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;

Nâng cao năng lực tư duy lý luận gắn liền với việc nâng cao trình độ học vấn,

chuyên môn nghiệp vụ và tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng. Qua đó

giúp cho việc kế thừa một cách có chọn lọc quan điểm về tư duy lý luận để đi

27

sâu vào nghiên cứu năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên các trường

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Đề tài: "Nâng cao trình độ lý luận chính cho cán bộ ở Tổng cục chính trị

Bộ quốc phòng Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện

nay" của Si Sôm Phu Tha Vi Xay [73] đã đề xuất một giải pháp như sau: thứ

nhất, đổi mới căn bản nội dung, chương trình đào tạo, bổi dưỡng; thứ hai, tiếp

tục xây dựng đội ngũ giảng viên bảo đảm về số lượng và chất lượng, thứ ba,

tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên bảo đảm về số lượng và chất lượng; thứ

tư, phát huy tính tự giác, tích cực học tập của học viên; thứ năm, tăng cường

công tác quản lý, tổng kết, đánh giá chất lượng đào tạo và đầu tư xây dựng cơ

sở vật chất. Để nâng cao năng lực tư duy lý luận thì điều cơ bản là con người

phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách đầy đủ, có hệ thống tri thức khoa học

và được rèn luyện trong thực tiễn đời sống. Đối với một cán bộ chủ chốt cấp cơ

sở, có năng lực tư duy, nhất là tư duy lý luận thì dễ nhận biết được "tình huống

có vấn đề", có khả năng xử lý nhanh nhạy một cách có hiệu quả những nảy

sinh trong quá trình diễn biến thực tiễn địa phương.

Nguyễn Thành Nguyên [51] cho rằng: muốn phát triển tư duy lý luận

không thể không quan tâm, không coi trọng đến chủ thể tư duy. Vị trí, tầm

quan trọng và vai trò của tư duy lý luận không thể tách rời vị trí, vai trò, tầm

quan trọng của chủ thể tư duy. Do vậy, với tư cách là chủ thể tư duy, người cán

bộ lãnh đạo cần nắm vững nguyên tắc của phép biện chứng, quán triệt nguyên

tắc đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong quá trình tiếp tục sự

nghiệp đổi mới hiện nay, cần phải nắm vững phép biện chứng giữa đổi mới và

kế thừa, nguyên tắc và sáng tạo, tập trung và dân chủ, tính Đảng và tính khoa

học, kinh tế và chính trị...

Theo tác giả Nguyễn Văn Hùng [27] để có tư duy lý luận trong điều kiện

hiện nay, cần kết hợp phương pháp tư duy biện chứng với hiện thực khách

quan, mới có khả năng đạt được chân lý khách quan, hoạt động của con người

mới có được đảm bảo định hướng đúng đắn, chủ động, trở nên tự giác và đạt

28

được những kết quả nhất định. Cùng với việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa

Mác - Lênin, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phong

cách và phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, là một phương hướng rèn luyện và

phát triển tư duy biện chứng của người cán bộ chủ chốt. Đó là một nội dung cơ

bản trong việc nghiên cứu Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương của Bác,

một di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.

Trong luận án: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" của tác giả

Dương Minh Đức [22]. Để nâng cao năng lực và trình độ tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng Bằng sông Hồng, cùng với việc nâng

cao kiến thức văn hóa, xã hội, khoa học, trình độ lý luận thì việc nghiên cứu về

lôgíc học, về phép biện chứng và việc vận dụng, rèn luyện phương pháp tư duy

biện chứng là có ý nghĩa trực tiếp. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ cấp tỉnh là giải pháp cơ bản và quan trọng, mang tích quyết định

đến việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp tỉnh đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế ở tỉnh Kiên Giang" của

Vũ Đình Chuyên [10] cho rằng, các giải pháp đổi mới tư duy và quá trình đào

tạo nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện qua

khảo sát, thực tế tại Kiên Giang là phải được bồi dưỡng toàn diện, trước hết là

đường lối chính trị, quản lý nhà nước, về kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức

và kỹ năng quản lý nền kinh tế thị trường, xây dựng tư duy kinh tế mới trong

điều kiện phát triển kinh tế thị trường và trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh

tế quốc tế, kết hợp với việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý

luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước mở rộng đối tượng đào tạo tới đội

ngũ cán bộ là công chức cấp huyện. Tiến hành cải cách, đổi mới nội dung,

chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phù hợp với yêu cầu của quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với điều kiện nền kinh tế và bối cảnh

29

hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp

huyện cần dựa trên huyện nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh cán bộ, xuất

phát từ mục tiêu, căn cứ vào đặc điểm của đối tượng mà đưa ra chương trình,

nội dung đào tạo thích hợp tránh tình trạng đào tạo tràn lan, lấy thành tích về số

lượng; chú trọng xây dựng chương trình đào tạo, kế thừa những mặt ưu điểm

của các chương trình đã và đang được sử dụng, bổ sung vào chương trình

những kiến thức mới phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo; khắc phục những

hạn chế, trước hết là khắc phục sự trùng lặp, dàn trải về nội dung trong chương

trình đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo theo hướng tập trung vào nâng cao kỹ năng

tác nghiệp, thực hành cho cán bộ giảm bớt lý luận thuần tuý trong đào tạo….

Trong bài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp

cơ sở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng hiện nay" của Nguyễn Văn

Phúc [64] cho rằng, giải pháp khải thi là: nâng cao năng lực tư duy lý luận với

chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế xã hội bền vững tại địa phương hay

gắn việc đổi mới năng lực tư duy lý luận với công tác luân chuyển cán bộ, nâng

cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Cũng theo tác giả,

kinh tế - xã hội phát triển cũng sẽ tạo điều kiện để nâng cao dân trí cho cán bộ

và nhân dân. Khi đời sống được nâng lên, con người sẽ có điều kiện phát triển

cả về thể chất và trí tuệ. Như thế, kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện khách

quan để phát triển, hoàn thiện cơ sở sinh học của tư duy, tạo tiền đề cho việc

phát triển năng lực trí tuệ, tư duy của chủ thể. Nếu nhân dân trên địa bàn được

nâng lên về trình độ học vấn thì đó là cơ sở để cán bộ lãnh đạo nâng năng lực

tư duy lý luận lên. Kinh tế - xã hội phát triển tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo

có điều kiện học tập, rèn luyện, phát triển nâng cao về mọi mặt một cách có hệ

thống. Mặt khác, kinh tế - xã hội phát triển đặt người cán bộ trước yêu cầu phải

nắm chắc thực tiễn đang phát triển, đòi hỏi cần phải lãnh đạo nó thế nào cho

đúng hướng. Từ đó mà họ có cơ hội trau dồi, rèn luyện phát triển năng lực tư

duy lý luận của mình. Chính vì vậy phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối

đổi mới của Đảng sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao năng lực tư

30

duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Ngược lại, chính việc nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại làm cho

tư duy lý luận của chúng ta thêm sắc bén, năng động và sáng tạo hơn trong quá

trình phản ánh hiện thực, kịp thời phát hiện những vấn đề đặt ra và có những đề

xuất sắc bén, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người.

Phạm Kim Thành [78] nêu lên một số giải pháp nổi bật như: trên cơ sở hệ

thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm

của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

huyện cụ thể hoá vào các chính sách của địa phương mình. Công việc đó

không đơn thuần là chỉ vận dụng một cách rập khuôn, máy móc, mà trong lãnh

đạo, người cán bộ còn phải cập nhật kịp thời những thông tin từ đời sống thực

tiễn, xử lý các thông tin ấy một cách nhanh chóng, chính xác.

"Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính

trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các tỉnh phía Bắc Cộng hoà dân chủ nhân

dân Lào" của Khăm Phủi Chăn Thavadi [30] cho rằng, nâng cao trình độ lý

luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt các cấp ở các tỉnh

phía Bắc cần tập trung vào các giải pháp sau: Một là, giữ vững quan điểm của

Đảng về mục tiêu, phương châm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của các cấp ủy tổ chức đảng đối với công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ. Hai là, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Hệ thống

giáo án, giáo trình phải được xây dựng khoa học, thường xuyên cập nhật các

vấn đề mới trong lý luận và thực tiễn. Đội ngũ giảng viên, giáo viên phải

thường xuyên được tập huấn về phương pháp và tư duy lý luận. Ba là, các

chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phải được thực hiện theo

phân cấp, ưu tiên phát triển năng lực tư duy, trình độ lý luận chính trị cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt và đội ngũ cán bộ trong nguồn quy hoạch. Bốn là, phải có

những đổi mới chế độ chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Các công trình nghiên cứu trên đây đã có nhiều đóng góp quan trọng về

mặt khoa học, làm sáng tỏ trên nhiều phương diện về giải pháp nhằm nâng cao

31

năng tư duy lý cho đội ngũ cán bộ, nhân tài, đội ngũ trí thức và nguồn nhân

lực: phân tích làm rõ vị trí, vai trò của tư duy con người, là giữ vai trò quyết

định tất cả các tư duy khác, đặc biệt đã làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ trí

thức - bộ phận tinh túy nhất của tư duy lý luận trong cuộc đổi mới và sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các tác giả đã phân tích làm rõ mặt tích cực và hạn chế của việc phát

huy tư duy lý luận, phát triển (đào tạo, sử dụng, quản lý) và chỉ ra nguyên nhân

cơ bản của những hạn chế, yếu kém đó. Một số nhà khoa học đã đưa ra dược

những phương hướng cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển tư duy

con người, đội ngũ trí thức - nhân tài. Đặc biệt, đã có một số tác giả đã làm rõ

giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý, đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Tóm lại: Những công trình, đề tài nghiên cứu về tư duy lý luận trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được nêu trên trong thời gian qua, đã có

nhiều đóng góp quan trọng về mặt khoa học giúp cho tác giả luận án tiếp cận,

nghiên cứu, tham khảo, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

1.4. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN VÀ ĐỊNH

HƯỚNG NHỮNG NỘI DUNG CẦN TRIỂN KHAI GIẢI QUYẾT TRONG LUẬN ÁN

1.4.1. Khái quát các công trình đã nghiên cứu

Khảo sát các công trình đã nên trên có nội dung liên quan đến đề tài, tác

giả luận án nhận thấy các công trình nghiên cứu đều cho rằng:

Một là, tư duy lý luận mà chúng ta đang nghiên cứu ở đây là lý luận khoa

học và tư duy lý luận khoa học là hình thức cao nhất của tư duy, tư duy lý luận

không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư duy bằng phương pháp

khoa học. Tư duy lý luận khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức kinh

nghiệm điểm hình. Con người trao đổi với giới tự nhiên bằng những hoạt động

thực tiễn, thông qua đó, con người hình thành nên tri thức kinh nghiệm. Nều

chỉ dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm nhỏ lẻ, vụn vặt thì chưa thế lý giải

32

được nhiều vấn đề cũng như chưa thể chỉ ra được bản chất của sự vật. Nhưng

trên cơ sở những tri thức kinh nghiệm đó, trong quá trình tiếp tục tư duy cùng

với hoạt động thực tiễn của mình con người dần hình thành tư duy lý luận, đặc

biệt trên cơ sở của kinh nghiệm khoa học, kinh nghiệm thực tiễn điển hình, con

người dần hình thành tư duy lý luận.

Hai là, tư duy lý luận thay đổi cùng với sự thay đổi và phát triển của xã

hội, của thực tiễn. Khi tri thức của con người càng hoàn thiện và phát triển thì

đó là cơ sở để tư duy lý luận ngày càng sâu sắc hơn. Trong giai đoạn hiện nay,

tư duy lý luận khoa học nhất đó là tư duy lý luận mácxít. Bởi chủ nghĩa Mác -

Lênin được ra đời trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn điển hình đó là

phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên toàn thế giới cùng với sự

tham gia nghiên cứu của C.Mác, Ph.Ăngghen và V I Lênin. Nói cách khác, tư

duy lý luận mácxít là sản phẩm của sự kết tinh tư duy nhân loại và nó không

chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong cả lĩnh vực xã hội. Nó

là thế giới quan cho giai cấp công nhân trên toàn thế giới, đặc biệt triết học

Mác - Lênin cung cấp phương pháp luận cho quá trình tư duy, trong đó có tư

duy lý luận.

Ba là, các công trình khoa học đều khẳng định năng lực tư duy lý luận là

khả năng tư duy về những vấn đề chung, nắm bắt bản chất và quy luận vận

đọng của các sự vật hiện tượng, để trên cơ sở đó chỉ ra xu hướng vận động của

chúng. Quá trình tư duy là sự kết hợp của chủ nghĩa duy vật và phép bienj

chứng duy vật. Năng lực tư duy chính là năng lực lựa chọn các vấn đề có liên

quan để đưa ra những suy luận nhất định. Theo đó, năng lực tư duy là khả năng

sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn các công cụ tư duy như khái niệm,

phán đoán, suy luận trên lập trường của chủ nghĩa duy vật bienj chứng để giải

quyết vấn đề mà nó đang quan tâm.

Bốn là, xét theo cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành

năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận. Nói đến tư duy lý luận

là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp

33

nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật,

hiện tượng. Bên cạnh đó, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận

vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ

thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Năng lực tư duy lý

luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ

giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. Một cách khái quát, năng

lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu

cầu phát hiện, nhận thức nhạy bén, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý

luận, từ đó, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Năm là, các công trình khi khảo sát thực trạng trình độ tư duy của người

cán bộ lãnh đạo chủ chốt sau 30 năm đổi mới đã có một sự chuyển biến tích

cực. Đó là kết quả của sự đổi mới về lý luận, về công tác giáo dục lý luận; là

kết quả sự chuyển đổi cơ chế quản lý đã tạo ra môi trường thực tiễn sống động

và là kết quả của ý thức chủ động trong học tập và rèn luyện tư duy của chính

bản thân người cán bộ. Tuy nhiên, các công trình khoa học cũng thấy được

rằng, trong thực tế vẫn có những hiện tượng học lý luận nhưng không tin vào lý

luận, hoặc còn "lười học, lười nghiên cứu, một số học lướt chỉ cốt lấy được

bằng cấp" [18, tr.68] - những người học kiểu đó rõ ràng không có tác dụng.

Cũng có người do phương pháp học không đúng, học thuộc từng câu, từng chữ

nhưng thiếu sự suy ngẫm, nghiền ngẫm, trăn trở trong ý thức của mình, biến

những kiến thức lý luận thu nhận được thành mớ giáo điều, trống rỗng. Cũng

có người học lý luận, nghiên cứu lý luận nhưng hiểu biết mới dừng lại ở lý

thuyết, những cái trừu tượng, những nguyên lý, qui luật trừu tượng không vận

dụng được, hoặc còn rất lúng túng khi vận dụng vào thực tế, vào tư duy và

hành động. Còn những hiện tượng học tập và nghiên cứu lý luận như vậy thì dù

có tốt nghiệp "lý luận chính trị cao cấp" hay "cử nhân chính trị", tư duy của họ

về thực chất vẫn là kinh nghiệm, giáo điều còn tư duy lý luận chỉ là hình thức.

34

Sáu là, các công trình khoa học đã đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm

nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt các cấp. Đặc biệt, các

công trình khoa học nêu trên đều cho rằng, để nâng cao năng lực tư duy lý

luận khoa học cần hạn chế bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, bệnh chủ quan

duy ý chí. Đồng thời, cần tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Gắn giáo dục đào tào tạo với thực hành trong quá

trình công tác.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây đã khái quát cũng như đi

sâu vào hầu hết các vấn đề của tư duy, năng lực tư duy lý luận, nâng cao năng

lực tư duy lý luận cho người cán bộ chủ chốt. Các giá trị khoa học của các công

trình khoa học nêu trên sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho nghiên cứu sinh

trong quá trình hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của luận án.

1.4.2. Định hướng những nội dung cần tiếp tục triển khai

Một là, các công trình khoa học đã tiếp cận theo nhiều khía cạnh, góc độ

nghiên cứu khác nhau về tư duy lý luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận,

nhưng các công trình trên chưa đưa ra những tiêu chí, nội dung cụ thể để nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào. Do

vậy, đây là điểm luận án tiếp tục làm rõ.

Hai là, đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu về thực trạng

nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, nhưng nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào, trên cơ sở

đó đánh giá những thành tựu và hạn chế là chưa có. Vì vậy, nghiên cứu sinh sẽ

phân tích thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh miền nam Lào trong thời kỳ đổi mới, chỉ ra những thành tựu và hạn chế

của thực trạng này.

Ba là, nhiều công trình khoa học đã đề xuất được nhiều giải pháp để nâng

cao chất lượng tư duy lý luận. Song, theo quan điểm của tác giả luận án, những

giải pháp đó cần gắn với đặc điểm cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền nam Lào để

35

trên cơ sở đó khắc phục tình trạng sự yếu kém tư duy lý luận ở cán bộ chủ chốt

các tỉnh miền nam Lào trong giai đoạn hiện nay.

Như vậy, phải khẳng định rằng, luận án không chỉ kế thừa kết quả nghiên

cứu trước đó về vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh mà còn tiếp tục nghiên cứu, triển khai những vấn đề đặt ra với việc

nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào

trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, tác giả luận án đã khảo sát một số các công trình khoa

học xoay quanh các vấn đề như khái niệm tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý

luận, năng lực tư duy lý luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận, thực trạng nâng

cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý; nguyên nhân của

những thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.

Trong quá trình khảo sát tình hình nghiên cứu, tác giả nhận thấy, ở Việt

Nam đã có rất nhiều tác giả, các nhà khoa học đã đi nghiên cứu và tìm hiểu về

tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nhưng ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào,

chưa có nhiều công trình khoa học đi nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, nghiên

cứu sinh sẽ kế thừa chủ yếu những công trình khoa học của Việt Nam về tư duy

lý luận, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Đồng thời, nghiên cứu sinh sẽ cố gắng bổ sung những hạn chế trong nghiên

cứu về tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam nước Cộng hoà Dân chủ

Nhân dân Lào hiện nay.

36

Chương 2

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ

CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

2.1.1. Tư duy lý luận

2.1.1.1. Tư duy

Tư duy là khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học như lô gic học, nhận

thức luận, tâm lý học, sinh lý học, sinh lý thần kinh... Dưới góc độ nhận thức

luận của triết học, tư duy là chức năng đặc biệt riêng có của bộ óc con người. là

giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Tư duy là thuộc tính không thể thiếu

trong hoạt động chủ quan của con người, là hoạt động sáng tạo và tiên đoán về

các sự kiện, hiện tượng của thế giới. Nói cách khác, tư duy là thuộc tính của

một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.

Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin, tư duy xuất hiện, biến đổi và

phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là hoạt

động vật chất cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự

nhiên và xã hội. Thực tiễn có vai trò là cơ sở, động lực, là mục đích và là tiêu

chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy là nhằm giải quyết

những vấn đề do thực tiễn đang đặt ra. Mà hoạt động thực tiễn thì luôn bị giới

hạn bởi điều kiện lịch sử - xã hội. Theo đó, cả nội dung và hình thức của tư

duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Như Ph.Ăngghen đã nhận

định rằng: "Trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học

cải biến tự nhiên" [41, tr.720]. Theo đó, có thể hiểu tư duy là phạm trù triết

học dùng để chỉ hoạt động nhận thức của con người ở cấp độ nhận thức lý

tính, khái quát những thu nhận của cảm giác bằng khái niệm, phán đoán, suy

luận trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Đặc điểm của tư duy là phản ánh các mối

liên hệ, quan hệ của rất nhiều sự vật, hiện tượng, nêu ra được những khái

37

niệm, những phạm trù, những quy luật phản ánh các mối liên hệ, quan hệ nội

tại của các sự vật, hiện tượng đó. Tư duy của con người mang bản chất lịch sử

- xã hội, có tính sáng tạo, có khả năng khái quát và sử dụng ngôn ngữ làm

phương tiện.

2.1.1.2. Lý luận

Con người muốn sống và tồn tại phải lao động sản xuất thông qua việc

tác động vào giới tự nhiên. Nói cách khác, con người muốn sống, muốn tồn

tại phải hoạt động thực tiễn. Nhưng muốn cải tạo được thế giới hợp quy luật

cần phải có những hiểu biết về nó, nhưng những hiểu biết ấy không có sẵn

trong con người. Muốn có hiểu biết (tri thức) con người lại phải tác động vào

thế giới khách quan bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Vậy là giữa hoạt

động thực tiễn và tri thức con người có mối liên hệ biện chứng với nhau. Và

thông qua hoạt động thực tiễn, con người tích lũy được những tri thức kinh

nghiệm. Nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt

riêng lẻ, bề ngoài của sự vật. Như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Sự quan sát dựa

vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất

yếu" [41, tr.718]. Do đó, để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật, con

người phải khái quát những tri thức kinh nghiệm thành tri thức khoa học hay

tri thức lý luận. Sự ra đời và phát triển của nhận thức khoa học là thành quả vĩ

đại của trí tuệ con người, đánh dấu một bước tiến trong việc nhận thức thế

giới và cải tạo thế giới. Tri thức lý luận giữ vai trò dặc biệt quan trọng trong

hoạt động của con người và vai trò này ngày càng tăng lên trong đời sống xã

hội. Nói cách khác, đấy là vai trò của lý luận đối với sự tồn tại và phát triển

của xã hội loài người.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài

người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá

trình lịch sử" [45, tr.497]. Khác với tri thức thông thường, tri thức lý luận được

hình thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát ngày càng cao

của các nhà khoa học. Nó thể hiện sức mạnh năng động và sáng tạo của tư duy

38

trừu tượng. Như vậy, có thể hiểu lý luận là hệ thống những tri thức, tư tưởng

được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn và được

biểu hiện trong các lý thuyết khoa học, các quy luật, phạm trù.

Phân biệt lý luận khoa học và không khoa học. Có rất nhiều lý luận có

tác dụng chỉ đạo thực tiễn và được xây dựng thành các lý thuyết, các giáo lý.

Tuy nhiên, trong luận án này, dù nhắc tới hay không nhắc tới thì cũng nên

hiểu, lý luận mà chúng ta đang nghiên cứu ở đây là lý luận khoa học. Lý luận

này mang tính khách quan, trên cơ sở của thực tiễn, hướng tới chân lý nên nó

không chỉ áp dụng và thực tiễn mà còn là phương pháp luận cho nhận thức và

cải tạo thực tiễn.

Do có những đặc trưng trên mà lý luận có phạm vi ứng dụng rộng hơn,

phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm. Mặc dù, tri thức kinh nghiệm đóng

vai trò rất quan trọng trong đời sống thường ngày của con người, nhưng vượt

quá giới hạn của tri thức kinh nghiệm, nhiều vấn đề của thực tiễn sẽ không lý

giải được, vai trò của tri thức kinh nghiệm bị hạn chế ở những giới hạn, phạm

vi cụ thể xác định. Đây là lý do, khi thực tiễn càng phát triển, con người càng

phải khái quát lý luận và dựa trên tri thức lý luận để giải quyết những vấn đề

thực tiễn đang đặt ra.

2.1.1.3. Khái niệm tư duy lý luận

Có nhiều cách phân loại tư duy. Phân loại theo cách thể hiện được chia ra

thành tư duy bằng hình tượng và tư duy bằng ngôn ngữ. Tư duy sáng tạo, tư

duy trí tuệ, tư duy phân tích, tư duy tổng hợp, tư duy lô gic và phi lô gic... Phân

loại theo trình độ có tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.

Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính, nó có

vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Cũng

có thể hiểu, tư duy kinh nghiệm là sự giải quyết các vấn đề hiện tại theo những

khuôn mẫu, cách thức đã biết với một vài biến đổi nào đó cho phù hợp với

hoàn cảnh thực tại. Tư duy kinh nghiệm dễ tạo nên các đường mòn tư duy và

tạo thành các thói quen trong tư duy. Tư duy kinh nghiệm chỉ là sự chấp nhận

39

và sử dụng các kinh nghiệm đã có. Tư duy kinh nghiệm, do đó, là tư duy tiền

khoa học, tiền lý luận.

Có thể hiểu tư duy kinh nghiệm là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức

lý tính, là giai đoạn nhận thức những tri thức về sự vật, hiện tượng bằng cách

thông qua lao động trực tiếp từ hiện thực khách quan, với những công cụ nhận

thức chủ yếu từ quy nạp những tư liệu kinh nghiệm. Tư duy kinh nghiệm được

hình thành một cách trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn của chủ thể

nhằm mục đích cải biến khách thể. Nó thường phản ánh những thuộc tính, tính

chất của các đối tượng có tác động trực tiếp tới chủ thể. Đối tượng phản ánh

của nó là những thuộc tính, tính chất của khách thể hiện thực; ngược lại, đối

tượng của tư duy lý luận là những khách thể trừu tượng. Sự khác nhau về mặt

đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm

và lý luận trong nhận thức. Tư duy kinh nghiệm được đúc rút trực tiếp từ trong

quá trình lao động sản xuất, nên nó hướng tới giải quyết những cái vụn vặt cụ

thể, trực quan, cảm tính, thiếu tính hệ thống. Do đó, kết quả của tư duy kinh

nghiệm là cái cụ thể, cảm tính và chưa phải là cái cụ thể trong tư duy theo đúng

nghĩa khoa học, đầy đủ của nó. Nói cách khác, tư duy kinh nghiệm là lối tư

duy, suy nghĩ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm về cả nội dung lẫn phương pháp.

Những chất liệu được sử dụng trong tư duy chỉ là những tri thức kinh nghiệm

trực tiếp còn rất hạn chế; hời hợt, giản đơn, vụn vặt, đơn nhất, nhưng lại được

coi như là cái chung, cái phổ biến, cái bản chất, cái quy luật. Còn về phương

pháp và các thao tác của tư duy thì dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc, những

lối mòn được hình thành một cách tự phát, vừa cứng nhắc, vừa không khoa

học, vừa không lô gic. Tư duy dừng lại ở trình độ đó không những không thể

nói đến sự sáng tạo, thậm chí nếu tuyết đối hóa còn sai lầm, rơi vào bệnh kinh

nghiệm chủ nghĩa.

Tư duy lý luận (được hiểu theo là cái "phủ định biện chứng" của tư duy

kinh nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức

khoa học [80, tr.21]. Nói cách khác, tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư

40

duy, nó chính là quá trình tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực

khách quan bằng lý luận, bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Tri thức lý luận là tri thức được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức

kinh nghiệm nhờ sức mạnh của trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Tri

thức lý luận phản ánh hiện thực bằng con đường khái quát hóa và trừu tượng

hóa với những công cụ tư duy là khái niệm, phán đoán, suy luận, do vậy nó chỉ

ra mối liên hệ mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.

Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư duy

bằng phương pháp khoa học. Lý luận là lập trường, quan điểm, nguyên lý, quy

luật. Nếu trong tư duy kinh nghiệm, các phương pháp và các thao tác lôgic

được hình thành một cách tự phát, dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc hoặc

dụa trên những tri thức kinh nghiệm, thì trong tư duy lý luận, các phương pháp

được hình thành dựa trên những tri thức lý luận và được nhận thức, sử dụng

một cách chủ động, tư giác.

Tư duy lý luận phát triển cùng với sự thay đổi của xã hội, khi tri thức của

con người càng hoàn thiện thì tư duy lý luận ngày càng sâu sắc hơn. Trong giai

đoạn hiện nay, tư duy lý luận khoa học, cách mạng nhất đó là tư duy lý luận

mác xít. Về thực chất, tư duy lý luận mác xít là tư duy biện chứng duy vật - một

loại hình tư duy được hình thành trên cơ sở đúc kết những tri thức tinh hoa của

nhân loại, khái quá những thành tựu của thời đại và những kinh nghiệm thực

tiễn điển hình. Nói cách khác, hạt nhân tư duy của tư duy lý luận mác - xít là

tư duy triết học mác - xít. Bởi ở bất cứ thời đại nào, triết học đều cũng là kết

tinh của tri thức nhân loại. Tư duy triết học mác xít có những đặc trưng cơ

bản: tính trừu tượng - khái quát cao; tính chỉnh thể - bao quát cao; tính khoa

học; tính gợi mở - sáng tạo; tính cách mạng. So với tư duy của các nhà khoa

học khác, tư duy triết học bao giờ cũng đạt đến trình độ cao nhất về mặt trừu

tượng, khái quát. Sở dĩ tư duy triết học đạt đến trình độ đó bởi lẽ triết học

chính là sự khái quát, trừu tượng hóa cao từ thực tiễn. Các khái quát của tư

duy triết học mác xít là khái quát khoa học mang tính chân lý, bởi vì nó không

41

phải là sự tư biện chủ quan mà là phản ánh của hiện thực khách quan. Thêm

vào đó, tư duy triết học mác xít chỉ có thể có được khi nó được đúc kết từ sự

khái quát những thành tựu của khoa học. Và vì thế, nó mang tính phổ quát,

chung nhất, từ đó, đưa ra những những gợi mở, tiên đoán khoa học. Tính chất

cách mạng của triết học biểu hiện ở ba cấp độ: phê phán, tự phê phán và phản

phê phán. Tính phê phán này làm cho tư duy lý luận mác xít thể hiện rõ nhất

bản chất cách mạng của mình.

Chính những đặc trưng trên làm cho tư duy triết học mác xít, thứ nhất, là

hình thức tư duy cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại; thứ hai, nó có thể

đóng vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất của

mọi loại hình tư duy; thứ ba, những đặc trưng này làm cho tư duy triết học mác

xít có được không chỉ và không phải chủ yếu là ở sự thuyết minh, chứng minh

mà căn bản là ở sự phát hiện, phát minh.

2.1.1.4. Đặc trưng của tư duy lý luận

Tư duy lý luận chính là trình độ phát triển cao của khả năng tư duy con

người và có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, tư duy lý luận là tư duy logic khoa học và sáng tạo: Đó là quá trình

thao tác, vận dụng các khái niệm, phạm trù theo những quy luật logic chặt chẽ

nhằm đạt đến chân lý. Đây là quá trình chuyển logic khách quan thành lô gic

chủ quan, chuyển tính tất yếu hiện thực thành quy luật của lý tính. Nó là quá

trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, theo con đường khái quát hóa,

hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật của đối tượng. Người có tư duy lý

luận thường là người có trình độ phát triển cao về ngôn ngữ khoa học, biết

hướng duy nghĩ của mình theo tinh thần duy lý khoa học chứ không phải duy

cảm như trong tư duy kinh nghiệm.

Hai là, tư duy lý luận là tư duy về phương pháp và phương pháp luận: chủ

thể tư duy lý luận rất coi trọng lý luận khoa học và biết sử dụng tư duy khoa

học như là một phương pháp để phát hiện mâu thuẫn, biết tìm kiếm một cách

sáng tạo những phương pháp, biện pháp để giải quyết các mâu thuẫn đó.

42

Ba là, tư duy lý luận có hai mặt gắn bó với nhau, đó là nội dung tư duy và

phương pháp tư duy: Nội dung tư duy lý luận bao gồm hệ thống tri thức tồn tại

dưới dạng các khái niệm, phạm trù về những đối tượng xác định. Phương pháp

tư duy là cách thức vận hành hay logic của khái niệm đó. Một phương pháp rất

quan trọng của tư duy lý luận là từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy. Mở đầu

tác phẩm Tư bản, C.Mác đã khẳng định: "khi phân tích những hình thái kinh tế,

người ta không thể dùng kính hiển vi hay những phản ứng hóa học được" [42,

tr.16]. Đó là sự khái quát hóa cao của tư duy.

Bốn là, không giống tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận có khả năng phê

phán và tự phê phán: chính khả năng này đảm bảo cho nhận thức thực sự là

một hoạt động nỗ lực cao của lý trí. Nếu tư duy kinh nghiệm chỉ nặng về mô tả,

nhận dạng đối với diện mạo bề ngoài của sự vật, thì tư duy lý luận nhờ có sự

phân tích và khái quát có khả năng đi xa, tiến sâu hơn, nắm lấy cái lõi của sự

vật. Bản chất của tư duy lý luận là xa lạ với những biểu hiện giản đơn, những

công thức cứng nhắc, bất biến, những thói quen dễ dãi như đường mòn, tính

thụ động và sự phụ thuộc. "Người có trình độ tư duy lý luận theo quan điểm

"Hoài nghi để mà tin" trên con đường tiếp cận chân lý, không chấp nhận một

niềm tin mù quáng, không rơi vào tình trạng niềm tin đi trước hiểu biết… " [2,

tr.58]. Với tư cách là một công cụ nhận thức khoa học, tư duy lý luận có thể

vạch ra tính quy luật ẩn giấu đằng sau các sự vật, hiện tượng để nắm bắt và vận

dụng theo nhu cầu của thực tiễn, làm cho: "trí tuệ con người tìm thấy điều kỷ

diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều điều kỷ diệu hơn nữa, do đó làm tăng

thêm quyền lực của mình đối với tự nhiên" [3, tr.238].

Về vai trò của tư duy lý luận, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Một dân tộc đã đứng

vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận" [41,

tr.489]. Sự xuất hiện của tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của

con người. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của trao đổi và các mối quan hệ

xã hội khác, các hành động và thao tác trí óc của con người ngày càng đa dạng,

43

phong phú và phức tạp hơn, nhờ đó tư duy lý luận từng bước xuất hiện và phát

triển năng lực của mình.

Tóm lại, những đặc trưng của tư duy lý luận không chỉ để phân biệt tư duy

lý luận với tư duy kinh nghiệm mà còn cho thấy ưu thế của tư duy lý luận so

với tư duy kinh nghiệm. Người có tư duy lý luận và được giáo dục tốt, lại có ý

thức thường xuyên rèn luyện phương pháp tư duy lý luận, có tính độc lập và

sáng tạo trong hoạt động trí tuệ, đây là một phẩm chất không thể thiếu của

người nghiên cứu khoa học.

2.1.2. Năng lực tư duy lý luận

2.1.2.1. Năng lực

Để làm rõ nội dung bản chất năng lực của tư duy lý luận, cần làm rõ nội

dung khái niệm năng lực.

Từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Văn Đạm, định nghĩa: "Năng lực là

phẩm chất, trình độ, khả năng của con người". Còn theo Từ điển tiếng Việt của

Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học xuất

bản năm 2000 do tác giả Hoàng Phê chủ biên, thì từ năng lực bao gồm hai

nghĩa (1) Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để

thực hiện một hoạt động nào đó; (2) Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý

tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất

lượng cao.

Theo P.ARuđich: "năng lực là tính chất tâm lý, sinh lý của con người chi

phối quá trình tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như hiệu quả thực hiện

một hoạt động nhất định" [48]. Còn AG.Coovaliôp lại quan niệm "năng lực là

tổ hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những

yêu cầu lao động và đảm bảo cho hoạt động đạt những kết quả cao" [11].

N.X.Lâytex lại cho rằng: "Năng lực là những thuộc tính tâm lý nào đó của cá

nhân mà là điều kiện để hoàn thành tốt đẹp những loại hoạt động nhất định".

Trong khi đó, các tác giả trong Tâm lý học nhân cách lại đi vào phân tích dấu

hiệu của năng lực và đi đến định nghĩa: "Năng lực là tổ hợp những thuộc tính

44

tâm lý phù hợp với yêu cầu loại hoạt động nhằm làm cho hoạt động đó đạt

được kết quả" [3, tr.238].

Trên cơ sở những định nghĩa như trên, có thể khái quát nội hàm khái niệm

năng lực là khả năng dưới dạng tiềm năng, kỹ năng hoặc tâm sinh lý của một

cá nhân hoặc một tổ chức người để thực hiện một hoạt động nào đó nhằm làm

cho hoạt động đạt được hiệu quả cao.

Năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ

người ta cũng nói đến năng lực cũng thuộc về một hoạt động cụ thể nào đó như

năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu toán học, năng lực

hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy của hoạt động

giảng dạy, năng lực tư duy của hoạt động tư duy... Năng lực con người bao giờ

cũng có mầm mống bẩm sinh tuỳ thuộc vào sự tổ chức của hệ thống thần kinh

trung ương, nhưng nó chỉ được phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn

của con người. Người có năng lực về nghệ thuật, có người có năng lực về y tế,

có người có năng lực về thể thao... Năng lực của người lãnh đạo quản lý chính

là năng lực lãnh đạo, quản lý. Cụ thể là năng lực ra quyết định, năng lực tổ

chức thực hiện quyết định, năng lực tổng kết thực tiễn thực hiện quyết định,

năng lực bổ sung quyết định...

2.1.2.2. Năng lực tư duy

Từ khái niệm và đặc điểm của tư duy và năng lực tư duy nêu trên, có thể

khái quát năng lực tư duy chính là khả năng vận dụng tổng thể các tri thức đã

có để tạo ra những tri thức mới, tạo ra những giải pháp đúng đắn và thích hợp

cho việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn. Để tư duy, con

người buộc phải sử dụng bộ công cụ các khái niệm, phạm trù, các tri thức nằm

trong hệ thống các khái niệm, phạm trù đó. Theo đó, năng lực tư duy là năng

lực sử dụng hệ thống các khái niệm, phạm trù của tư duy. Trong đó, quan trọng

và quyết định nhất là hệ thống các tri thức triết học. Bởi, triết học chỉ có thể ra

đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ phát triển

nhất định cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ

45

thống những quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Do đó, nói đến lịch sử

triết học không thể không đề cập tới vấn đề năng lực tư duy của con người, vốn

là điều kiện ra đời của triết học, song do tác động trở lại, triết học cũng là khoa

học về những quy luật chung nhất của tư duy.

Vào thời cổ đại, Aristotle là người đầu tiên sử dụng tư duy thành đối

tượng nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng tư duy cũng có những nguyên tắc

tồn tại độc lập và con người chứng minh phải theo đúng quy tắc ấy. Bởi vậy,

ông đã xây dựng phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, đã tìm ta

nguyên lý của sự chứng minh tam đoạn luận và phân loại 10 phạm trù nhằm

mở rộng cả hình thức và nội dung của tư duy. Đến thế kỷ XVII, Décertes cũng

đã có câu nói nổi tiếng về tầm quan trọng của năng lực tư duy đối với sự tồn tại

của con người trong vũ trụ: "Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại". Nguyên lý cơ bản đó

của ông mang ý nghĩa tiến bộ trong lịch sử, bởi nó khẳng định được rằng mọi

khoa học chân chính đều phải xuất phát từ "sự nghi ngờ, nghi ngờ ở đây không

phải là hoài nghi chủ nghĩa, "mà là sự nghi ngờ về phương pháp luận, nghi ngờ

để đạt đến sự tin tưởng", có nghĩa là tư duy. Và đại biểu xuất sắc của nền triết

học cổ điển Đức thế kỷ XVIII, Heghen cũng cho rằng, quá trình nhận thức thế

giới là quá trình con người xây dựng nên những khái niệm, tức là con người đã

tư duy... Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đã

đạt đến một trình độ cao hơn, thì năng lực tư duy không còn giữ nguyên nghĩa

mà đã có sự phát triển và chia thành nhiều loại như: năng lực tư duy sáng tạo,

năng lực tư duy lý luận, năng lực tư duy phản biện... Bởi lẽ, người ta không chỉ

tư duy để có những khái niệm về thế giới, mà còn phải nhìn nhận thế giới đa

diện hơn, theo cả chiều rộng và chiều sâu, có sự tranh luận, phản biện nhằm

đưa tới sự sáng tạo làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.

Năng lực tư duy của mỗi cá nhân và cộng đồng được hình thành trong quá

trình hoạt động và phát triển của họ. Nó được thể hiện qua khả năng kịp thời

nắm bắt những thay đổi nhanh chóng của thế giới bên ngoài. Nhưng, thế giới

trong điều kiện ngày nay lại thay đổi rất nhanh chóng và khó lường. Không thể

46

dùng tư duy cũ phản ánh thế giới cũ để nhận thức chính xác và đầy đủ thế giới

hiện thực đã thay đổi. Chính vì vậy, khi cuộc sống thực tiễn đã thay đổi, tư duy

cũ thể hiện sự bất lực qua việc chỉ đạo hoạt động kém hiệu quả, con người buộc

phải đổi mới tư duy. Điều đó cũng có nghĩa là con người buộc phải đổi mới

năng lực tư duy.

2.1.2.3. Năng lực tư duy lý luận

Phạm trù năng lực tư duy lý luận chiếm vai trò quan trọng trong lý luận

nhận thức và lô gic học. Đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà

lý luận trong quá trình đổi mới tư duy thời gian qua. Như phần trên, nghiên cứu

sinh đã trình bày, năng lực tư duy chính là khả năng vận dụng tổng thể các tri

thức đã có để tạo ra những tri thức mới, tạo ra những giải pháp đúng đắn và

thích hợp cho việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn. Đồng

thời, tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình tiếp

cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ

thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Qua định nghĩa trên về năng lực tư

duy và tư duy lý luận, có thể khái quát, năng lực tư duy lý luận là năng lực

nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn đời sống, hoặc có thể hiểu, năng

lực tư duy lý luận là khả năng vận dụng tổng thể các tri thức lý luận đã có để

tạo ra những tri thức lý luận mới, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đúng

đắn và thích hợp cho việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn.

Như phần trên, chúng tôi đã khái quát, năng lực tư duy của mỗi cá nhân

và cộng đồng được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn của họ. Và lý

luận thì cũng được khái quát từ tri thức kinh thực tiễn điển hình. Do vậy, năng

lực tư duy lý luận cũng được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn,

đặc biệt nó là sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những hoạt động thực tiễn điển

hình của các nhà khoa học, các nhà lý luận, hoặc đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý chủ chốt. Bên cạnh đó, thực tiễn luôn vận động, biến đổi đề ra những nhu

cầu, nhiệm vụ đòi hỏi các nhà lý luận phải giải quyết. Theo đó năng lực tư duy

47

lý luận phải thường xuyên được thay đổi, bổ xung, nâng cao cho phù hợp với

đòi hỏi của thực tiễn.

Thế giới trong điều kiện ngày nay thay đổi rất nhanh chóng và khó lường.

Vì vậy, không thể dùng năng lực tư duy lý luận cũ phản ánh thế giới cũ để nhận

thức chính xác và đầy đủ thế giới hiện thực đã thay đổi. Chính vì vậy, khi cuộc

sống thực tiễn đã thay đổi, năng lực tư duy lý luận cũ thể hiện sự bất lực qua

việc chỉ đạo hoạt động kém hiệu quả, con người buộc phải đổi mới, nâng cao

năng lực tư duy, đặc biệt là nâng cao năng lực tư duy lý luận để đáp ứng yêu

cầu thực tiễn mới hiện nay. Nói cách khác, hiện nay con người buộc phải đổi

mới, nâng cao năng lực tư duy và đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

buộc phải nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ

người ta cũng nói đến năng lực của một chủ thể cụ thể nào đó. Theo đó, năng

lực tư duy lý luận thường gắn với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc đội

ngũ cán bộ chủ chốt vì, đấy là đội ngũ những người thường xuyên phải gắn lý

luận, chủ trương, đường lối chính sách của đảng, nhà nước với thực tiễn phát

triển đất nước. Do vậy, năng lực tư duy lý luận của người cán bộ chủ chốt

chính là năng lực lãnh đạo, quản lý khái quát và thực hiện lý luận. Cụ thể là

năng lực khái quát lý luận, năng lực tổ chức thực hiện lý luận, năng lực tổng

kết thực tiễn thực hiện lý luận, năng lực bổ sung lý luận...

2.2. CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH VÀ VAI TRÒ CỦA NĂNG LỰC TƯ

DUY LÝ LUẬN ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH

2.2.1. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh - khái niệm và đặc trưng

2.2.1.1. Khái niệm cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

- Khái niệm cán bộ

C.Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên thấy được vai trò to lớn

của công tác cán bộ. Hai ông không chỉ đề cập đến sự xuất hiện của những con

người vĩ đại trong mỗi thời đại mà còn cho rằng muốn thực hiện tư tưởng thì

cần có những người sử dụng lực lượng thực tiễn.

48

Kế thừa tư tưởng đó của Mác và Ăngghen, Lênin đã đánh giá rất cao vị

trí, vai trò của người cán bộ trong hàng ngũ của Đảng Bôn - sê- vích Nga.

"Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có đủ bản chất" [35, tr.449]. Do xác

định đúng vị trí, tầm quan trọng của cán bộ, Lênin đã lãnh đạo Cách mạng

tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn chế

độ Nga hoàng, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho

rằng, một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định.

Vai trò thực hiện cách mạng là quần chúng nhân dân nhưng hạt nhân chủ yếu

của nó là lực lượng cán bộ. Theo Người, cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là

cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, "là những người đem chính sách

của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng

thời đem tình hình của dân chúng báo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt

chính sách cho đúng" [43, tr.269]. Người cũng khẳng định: "Cán bộ là gốc của

mọi công việc", "muôn việc thành công hay thất bại là đều do cán bộ tốt hay

kém". Bởi, cán bộ là chủ thể của lịch sử nên họ là lực lượng tinh túy nhất của

xã hội, họ giữ vị trí vừa tiên phong, vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò

cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.

Trước đây, trong các bài viết, bài nói chuyện của mình, đồng chí Cayxỏn -

Phôm vi hản cũng cho rằng: Nói tới cán bộ, viên chức của ta hiện nay thực chất

là nói tới các đảng viên đang giữ các cương vị cốt cán trong các cơ quan của

Đảng, của nhà nước. Họ phải là những người đi tiên phong trong việc nhận

thức và thi hành triệt để các nghị quyết của Đảng [8, tr.23].

Như vậy, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái niệm

cán bộ phải được hiểu:

- Cán bộ là những người được các tổ chức của Đảng và nhà nước tin cậy

và giao cho một trọng trách nào đó, bất kể người đó có phải là đảng viên của

đảng, song cũng có những cán bộ không phải là đảng viên của đảng.

49

- Cán bộ phải là những người được sinh ra từ phong trào quần chúng và

có liên hệ mật thiết với quần chúng.

- Cán bộ phải có phẩm chất và năng lực tập hợp quần chúng, “biến” các

nghị quyết của Đảng, thành phong trào quần chúng, biết đặt lợi ích của Đảng,

của quần chúng lên trên lợi ích cá nhân. Tất cả việc làm của họ đều vì lợi ích

của Đảng của nhân dân, trở thành "công bộc" thực sự của nhân dân.

Như vậy, cán bộ theo nghĩa chung nhất là những người lãnh đạo, quản lý

hoặc nhà chuyên môn, nhà khoa học, cũng có thể là công chức trong một cơ

quan nhà nước, tập thể hay tổ chức nào đó được hưởng lương từ nguồn ngân

sách Nhà nước hay các nguồn khác. Trong xã hội hiện đại, cán bộ thường được

hình thành do bầu cử, tuyển dụng, hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Trong sắc lệnh số

171/CP ngày 11-11-1993 của thủ tướng chính chủ nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào khi bàn về quy chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ cũng khẳng

định: cán bộ là những người được bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các

cơ quan trung ương, địa phương, hoặc được ủy nhiệm làm việc ở các cơ quan

đại diện nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở nước ngoài hưởng lương,

phụ cấp từ nguồn ngân sách Nhà nước.

Với nhận thức của tác giả, khái niệm cán bộ là những người được bầu cử,

phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà

nước và thuộc biên chế của một cơ quan, đơn vị và được hưởng lương từ ngân

sách nhà nước.

- Cán bộ chủ chốt

Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, khi bàn về từng loại cán bộ

cụ thể, trong đó có cán bộ chủ chốt cũng còn nhiều cách hiểu khác nhau. Một

loại ý kiến cho rằng tất cả đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Lào nếu công

tác trong cơ quan của Nhà nước đều được gọi là cán bộ chủ chốt để phân biệt

với cán bộ ngoài Đảng. Có ý kiến lại cho rằng, tất cả những người giữ một

cương vị nhất định trong các cơ quan của nhà nước hay trong cơ quan của

Đảng mới được gọi là cán bộ chủ chốt. Loại ý kiến thứ ba cho rằng, tất cả

50

những người có cương vị lãnh đạo cao nhất của cấp ủy, cũng là người đứng

đầu một cơ quan quản lý chính quyền của nhà nước thì gọi là cán bộ chủ chốt.

Sự tồn tại nhiều ý kiến khác nhau như trên đã cho thấy ở Lào hiện nay còn

bộc lộ nhiều sự lúng túng và chưa thống nhất trong nhận thức về cán bộ chủ

chốt. Thậm chí, còn tồn tại quan điểm chia cán bộ chủ chốt ra làm hai loại là

cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ quản lý chủ chốt.

Theo nhận thức của nghiên cứu sinh, trong đội ngũ cán bộ có đội ngũ cán

bộ giữa vai trò quan trọng làm nòng cốt được gọi là cán bộ chủ chốt. Thường

thì cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nắm vai trò lãnh

đạo trong đơn vị mình. Theo đó, cán bộ chủ chốt là người được giao đảm

đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy, thực

hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp

mình quản lý về lĩnh vực công tác được giao.

- Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Một là, cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết

định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương hướng công tác; đề

ra các quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc

cấp trên giao. Cán bộ chủ chốt có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát quá trình thực

hiện quyết định đồng thời kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những tình huống có

vấn đề; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút

kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận.

Hai là, cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập

thể... Vai trò và vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong giai đoạn cách mạng

mới càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do đó, yêu cầu về năng lực và phẩm

chất đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt trong giai đoạn cách mạng mới cần được

coi trọng hơn bao giờ hết: cán bộ chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành có ý nghĩa

quyết định đối với việc thực hiện đường đối, chính sách của Đảng và Nhà

nước. Người cán bộ chủ chốt, ngoài các tiêu chuẩn chung đã nêu trên, còn phải

gương mẫu về phẩm chất đạo đức, đấu tranh thẳng thắn với những tư tưởng và

51

hành vi sai trái, có năng lực điều hành bộ máy, tập hợp đoàn kết được nhân

viên dưới quyền, có tinh thần năng động sáng tạo, phát triển được các sáng kiến

của tập thể, có tinh thần dám quyết, dám chịu trách nhiệm, có phong cách lãnh

đạo tốt, biết phát động phong trào quần chúng… phải mạnh dạn thay đổi những

cán bộ chủ chốt không đủ sức tiếp thu, hoặc không nghiêm chỉnh thực hiện

đường lối, chính sách của Đảng và những người thực hiện không còn đủ sức

thực hiện công việc một cách nhanh nhạy và hiệu quả [111, tr.148].

Tại Đại hội Đảng VI của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đã khẳng định

vai trò của đội ngũ cán bộ và đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt "có vai trò

quyết định đến thành công hay thất bại của đường lối của Đảng" [111, tr.152].

Do vậy, trong những năm tới, cần tập trung nâng cao chất lượng và năng lực

của cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, để đáp ứng được

những đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, vừa có số lượng đầy

đủ để đáp ứng nhu cầu cơ bản [111, tr.153].

Như vậy, trong quá trình cách mạng Lào hơn mấy chục năm qua, Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào Luôn coi trọng công tác cán bộ, đặc biệt là công tác

cán bộ chủ chốt của Đảng là then chốt trong các quan điểm phát triển nhằm xây

dựng Đảng vững mạnh. Ứng với những thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng

đều đề ra các quan điểm đúng đắn và chính sách phù hợp đối với công tác cán

bộ, đặc biệt là công tác xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt

của Đảng. Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay ở Lào, đặc biệt

là khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đang phát triển theo hướng kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần

phải tiếp tục nghiên cứu củng cố, hoàn thiện và phát triển đội ngũ cán bộ đặc

biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt hơn nữa nhằm đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ

mới của cách mạng Lào trong thời kỳ mới.

- Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là những người đứng đầu, giữ vị trí

trọng yếu nhất trong cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ở tỉnh có ảnh hưởng

52

đến việc chấp hành chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của

nhà nước thông qua việc trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ

kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội trong toàn tỉnh.

Ở Lào hoạt động của cán bộ của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô

cùng to lớn đến việc tổ chức thực tiễn, triển khai các nghị quyết của Trung

ương xuống cơ sở. Chủ trương đường lối, chính sách của trung ương có được

triển khai, tổ chức thực hiện được ở cấp dưới hay không phụ thuộc rất nhiều

vào hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này. Hơn nữa, cấp tỉnh là địa bàn

tổng kết thực tiễn tương đối có quy mô, đủ để phát triển những vấn đề nảy sinh,

giúp Trung ương nghiên cứu; bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối, chủ

trương và khái quát thành lý luận cho phù hợp với thực tiễn mới. Cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh cũng phải bao quát tất cả các mặt kinh tế - xã hội, chính trị, an

ninh, quốc phòng… Tuy nhiên, phạm vi và mức độ bao quát của họ trên địa

bàn hẹp hơn, quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với cấp tỉnh.

Trong hệ thống hành chính ở Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện

nay được phân chia đơn vị hành chính thành bốn cấp chính quyền như sau:

Trung ương, tỉnh, huyện và làng. Việc quản lý nhà nước được phân chia thành

hai cấp, là cấp trung ương (quản lý chung) và cấp cơ sở. Cấp cơ sở quản lý địa

giới hành chính có 3 cấp, là cấp tỉnh có tỉnh, thủ đô; cấp huyện có huyện; cấp

làng có bản [115, tr.1]. Trong đó, cấp tỉnh là một đơn vị hành chính độc lập, là

trung gian giữa Trung ương và địa phương.

Với đặc điểm hệ thống chính trị và cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị ở

nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào nói chung, các cấp tỉnh ở miền Nam

Lào nói riêng, đặc điểm cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị các cấp tỉnh ở miền

Nam Lào bao gồm:

- Các cơ quan Đảng: Ban Kiểm tra, Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn.

- Các cơ quan Nhà nước: Hội đồng nhân dân, Ủy ban chính quyền tỉnh,

Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát, Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Tài chính, Sở

Ngoại vụ, Sở Giáo dục và Thể thao, Sở Y tế, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Văn

53

hóa Thông tin và Du lịch, Sở Nông - Lâm nghiệp, Sở Tài nguyên và Môi

trường, Sở Năng lượng và Địa chất, Sở Công nghiệp và Thương mại, Sở Giao

thông Vận tải, Sở Lao động Thương binh Xã hội, Sở Bưu chính Viễn thông.

- Các tổ chức đoàn thể nhân dân: Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Hội

Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh.

Ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã thực hiện việc nhất thể hóa

chức danh lãnh đạo của Đảng và nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Theo đó

thành phần lãnh đạo bộ máy chính quyền và nhà nước ở các cấp tỉnh miền Nam

Lào bao gồm: Bí thư kiêm Chủ tịch tỉnh, Phó Bí thư kiêm Phó Chủ tịch tỉnh,

Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các giám đốc

các sở ban ngành trong bộ máy Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân của

cấp tỉnh. Đây là những cán bộ có vai trò hết sức quan trọng, trong đó người giữ

trọng trách quan trọng nhất trong công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính

quyền nhà nước ở cấp tỉnh chính là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch Hội

động nhân dân.

2.2.1.2. Đặc điểm của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Đặc trưng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh thể hiện ở những điểm

chủ yếu sau:

Một là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là lực lượng đi đầu, nòng cốt

trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá đường lối, chủ trương,

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do những

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phần lớn là ở tầm vĩ mô, mang

tính bao quát, đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách sáng tạo, linh

hoạt, phù họp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, đơn vị thì

mới đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn thể hiện vai trò to lớn có tính quyết

định của mình trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của

trung ương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các nghị quyết,

quyết định, kế hoạch, đề án, chương trình hành động của tỉnh.

54

Hai là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đóng vai trò nòng cốt trong việc

xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh vững mạnh. Họ là người đứng đầu các cơ

quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở các cấp, chịu trách nhiệm chính trong

việc ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định bằng cách tuyên truyền tìm các

nguồn lực, phân công lực lượng, kiểm tra các hoạt động của cán bộ, đảng viên

và nhân dân trong cơ quan mình quản lý, thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao;

lên kế hoạch chương trình cho cấp dưới; xây dựng đội ngũ đảng viên, đoàn

viên, tuyển chọn, đào tạo bồ dưỡng, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp dưới và

đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao chất

lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

từng thời kỳ.

Ba là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong việc

xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ

chủ chốt và nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ này nếu có đủ năng lực tư duy

lý luận, phẩm chất đạo đức.

Bốn là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là những người có vai trò quan

trọng nhất trong việc quan tâm chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng về tinh thần

cũng như vật chất của cán bộ đảng viên và mọi người dân trong phạm vi mình

lãnh đạo, quản lý, là người chỉ đạo thực hiện phát lệnh dân chủ trong Đảng,

động viên để phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân, huy động nhân dân

tích cực tham gia các thực hiện mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở

địa phương.

Năm là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn là nguồn bổ sung cán bộ cho

các cơ quan, bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương. Bởi cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

đã được trưởng thành từ thực tiễn cách mạng ở địa phương, về cơ bản, họ được

đào tạo cơ bản về các mặt, họ nắm vững cách thức tổ chức thực tiễn, gắn bó với

quần chúng nhân dân, thường xuyên được tu dưỡng đạo đức cách mạng, tích

luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn.

55

Như vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là những người đứng đầu quan

trọng nhất, quyết định đến việc chấp hành chủ trương, đường lối, Nghị quyết

của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ

chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trên đĩa bàn cấp

tỉnh mà mình phụ trách.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như thực tiễn xây dựng và phát

triển kinh tế đất nước Lào cho thấy, nếu nơi nào mà đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh có đủ phẩm chất đạo đức, có đủ năng lực, trách nghiệm thì nơi đó kinh

tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, hoạt động của bộ máy

chính quyền được nâng lên, niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng với

nhà nước ngày càng được củng cố. Hiện nay kinh tế có phát triển hay không,

đời sống của nhân dân có được nâng cao hay không, chính trị có được ổn định

hay không là một phần rất lớn phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất, đạo đức và

trách nghiệm của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

2.2.2. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh

Năng lực tư duy lý luận là nhân tố không thể thiếu, có tầm quan trọng đặc

biệt, vừa là yếu tố cấu thành vừa là nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển

năng lực ở người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Điều đó được ví như chiếc chìa

khoá mở ra cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của họ. Có năng lực tư duy lý

luận họ nắm được thực chất quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, có khả năng phân tích, luận giải để nắm được

tinh thần cốt lõi của đường lối. Có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh có đủ năng lực phân tích sự phong phú, tính đa dạng và phức tạp

của thực tiễn cuộc sống, để từ đó vận dụng lý luận một cách chủ động, thích

hợp, sáng tạo và hiệu quả. Chính qua sự vận dụng này, thực tiễn bộc lộ những

thuộc tính đa dạng và đặc thù của nó mà lý luận, đường lối chung chưa khái

quát hết. Chính ở đây tư duy lý luận giúp cho cán bộ lãnh đạo nâng cao năng

lực sáng tạo trong vận dụng. Không có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ

56

lãnh đạo chỉ biết áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc những quan điểm, chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước - vốn là cái

chung nhất, khái quát nhất - vào những hoàn cảnh rất riêng, rất cụ thể. Như

vậy, cán bộ lãnh đạo thiếu năng lực tư duy lý luận thì chẳng những không có

sáng tạo mà còn kìm hãm sự phát triển sinh động của cuộc sống. Có thể khái

quát, vai trò năng lực tư duy lý luận trong quá trình lạnh đạo, quản lý của cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh được thể hiện cụ thể:

Một là, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnh nâng cao khả năng nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn

Phôn vi hẳn, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước và tiếp thu những tri thức khoa học khác.

Đối với người cán bộ lãnh đạo chủ chốt đòi hỏi phải nắm bắt sâu sắc chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn, những quan điểm của Đảng,

chính sách, pháp luật của nhà nước. Bởi vì, chủ nghĩa Mác - Lênin trang bị cho

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh thế giới quan khoa học, phương pháp luận duy vật

biện chứng và một lập trường giai cấp vững vàng; Tư tưởng Cay xỏn Phôn vi

hẳn chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều

kiện cụ thể của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Trên cơ sở hệ thống lý luận ấy mà cán bộ chủ chốt cấp tỉnh cụ thể hóa vào

các chính sách của tỉnh, của địa phương. Công việc đó không đơn thuần là chỉ

vận dụng một cách rập khuôn, máy móc, mà trong lãnh đạo, người cán bộ còn

phải cập nhật kịp thời những thông tin từ đời sống thực tiễn, xử lý các thông tin

ấy một cách nhanh chóng, chính xác. Nhờ có thế giới quan khoa học và phép

biện chứng duy vật mà các bộ chủ chốt cấp tỉnh có thể vận dụng chủ trương,

đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn một cách đúng đắn

chính xác cho những lĩnh vực cụ thể ở địa bàn mình quản lý.

Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là những người thường xuyên va chạm

với những vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Cho nên, họ

phải hiểu rõ lý luận và nắm được thực chất bản chất khoa học, cách mạng của

57

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn, đường lối của Đảng,

pháp luật của Nhà nước. Chỉ có việc học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin,

tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn, nhuần nhuyễn cả về nội dung và phương pháp

mới góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Hai là, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnh nâng cao năng lực nhận thức thực tiễn và vận dụng sáng tạo chủ trương

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc triển khai thực tiễn

trên địa bàn tỉnh.

Nhờ có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnhchỉ ra được bản chất vấn đề, phát hiện các mối liên hệ mang tính quy luật

của vấn đề, trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp, chỉ ra những xu hướng vận động

biến đổi của các sự vật, hiện tượng đặc biệt là những hiện tượng xã hội phức

tạp, lựa chọn phương pháp giải quyết vấn đề.

Năng lực tư duy lý luận cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt

cấp tỉnh biết cách vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào thực tiễn, vận dụng

chủ trương, đường lối, chính sách chung vào những địa phương cụ thể phù hợp.

Bởi nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của người lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là xây

dựng được những phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp cơ bản cho quá

trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Ba là, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnh nâng cao năng lực xử lý thông tin để trên cơ sở đó ra được các quyết định

đúng, chính xác, kịp thời.

Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh nói riêng phân tích, xử lý thông tin, kịp thời bổ sung, điều

chỉnh những quyết định lãnh đạo cho đúng đắn hơn, hoàn chỉnh hơn, phù hợp

hơn với thực tiễn. Vì vậy có thể khẳng định, nếu tiếp nhận và biết tận dụng lợi

thế của thông tin sẽ góp phần quan trọng làm cho việc chỉ đạo thực tiễn tốt hơn,

hiệu quả hơn. Từ đó, thực tiễn cũng lại cung cấp nhiều thông tin, dữ liệu kịp

thời và phong phú hơn cho sự khái quát lý luận.

58

Bốn là, năng lực tư duy lý luận giúp cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt

cấp tỉnh nâng cao khả năng nắm bắt, đánh giá tình hình thực tiễn, đúc rút bài

học kinh nghiệm, định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo.

Do vậy năng lực tư duy lý luận có tác dụng giúp họ nâng cao khả năng tổng kết

thực tiễn.

Để đạt được những yêu cầu này cần phải có sự hỗ trợ của năng lực tư duy

lý luận. Bởi vì, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh

triển khai tổng kết thực tiễn trên cơ sở khách quan, hơn nữa, họ biết sử dụng

những phương pháp nhận thức khoa học để kịp thời bổ sung cái mới, đáp ứng

yêu cầu thực tiễn đặt ra. Hơn nữa, không phải cứ có nhiều kinh nghiệm thực

tiễn là khái quát được thành lý luận đúng. Đó mới chỉ là điều kiện cần cho khái

quát lý luận. Muốn khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận thì phải có

năng lực tư duy lý luận, có lý luận.

Chỉ trên cơ sở tư duy lý luận và sử dụng phép biện chứng duy vật của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn thì trong quá trình tổng kết

thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh mới đảm bảo được nguyên tắc

khách quan, có mục đích đúng đắn và bản tổng kết mới tập hợp được những

vấn đề đặt ra mang tầm lý luận, trên cơ sở tư duy chiến lược.

Năm là, năng lực tư duy lý luận giúp người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

tỉnh nâng cao năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát trong nhận thức và góp

phần nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, trên cơ sở đó nâng cao năng lực dự

báo, định hướng trong hoạt động lãnh đạo của họ.

Một trong những nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là phải

tổng kết thực tiễn. Thực tiễn kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp tỉnh luôn luôn vận

động, phát triển và hết sức đa dạng, phong phú. Để tổng kết thực tiễn một cách

đúng đắn và có hiệu quả, đội ngũ cán bộ lãnh đạo ngoài phẩm chất đạo đức,

năng lực tổng kết thực tiễn thì phải có năng lực tư duy lý luận cao. Nếu không

có năng lực tư duy lý luận thì đứng trước thực tiễn phong phú, đa dạng như

vậy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt không biết lựa chọn vấn đề tổng kết một

59

cách đúng đắn. Năng lực tư duy lý luận giúp cho người cán bộ nâng cao năng

lực phân tích, tổng hợp, khái quát. Từ đó, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn.

Trên cơ sở đó, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh sẽ nâng cao được cho mình năng

lực dự báo, định hướng cho hoạt động lãnh đạo. Đây là một nguyên tắc tất yếu

trong công tác lãnh đạo của cán bộ nói chung, cán bộ cấp tỉnh nói riêng.

Sáu là, năng lực tư duy lý luận còn có vai trò giúp người cán bộ lãnh đạo

chủ chốt cấp tỉnh nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục,

tập hợp cán bộ cấp dưới và quần chúng để tạo thành phong trào cách mạng

rộng rãi.

Rõ ràng để giáo dục, thuyết phục, động viên tập hợp quần chúng và cán

bộ cấp dưới có hiệu quả, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh không chỉ có đạo đức

cách mạng, liêm khiết, chí công vô tư, có uy tín mà còn phải có năng lực tư duy

lý luận, có trình độ lý luận. Bởi lẽ, có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ

lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nói riêng mới hiểu và biết cách

giải thích, thuyết phục cho cán bộ cấp dưới và thông qua cán bộ cấp dưới là

quần chúng nhân dân hiểu đúng các chủ trương, chính sách của cấp trên cũng

như của tỉnh. Chỉ trên cơ sở của hiểu đúng nguồn gốc, bản chất của chủ trương,

chính sách của Đảng, Nhà nước, quần chúng nhân dân mới tin tưởng cán bộ

lãnh đạo chủ chốt.

Như vậy, năng lực tư duy lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt

động lãnh đạo của cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Có

năng lực tư duy lý luận, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của người cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh vừa ở tầm khái quát, hệ thống, vừa cụ thể, vừa chặt chẽ, vừa

mềm dẻo sinh động.

Chất liệu trực tiếp tạo nên năng lực đó là những tri thức lý luận tiếp thu từ

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn, từ đường lối, chủ

trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước Lào và từ sự trải nghiệm trong hoạt

động thực tiễn của chính người cán bộ. Nội dung của năng lực ấy thể hiện

trước hết ở năng lực phản ánh những vấn đề bản chất, tìm ra mâu thuẫn, phát

60

hiện những cái mới; ở khả năng tư duy khoa học trong sử dụng các hình thức

và phương pháp tư duy để hình thành tri thức mới làm cơ sở cho việc giải quyết

những vấn đề thực tiễn nảy sinh ở địa phương.

2.3. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT

CẤP TỈNH - NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

2.3.1. Nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh

Từ xa xưa, hoạt động của cán bộ chủ chốt các cấp nói chung và cấp tỉnh

nói riêng là nhu cầu khách quan được hình thành trong xã hội loài người. Lịch

sử đã chứng minh rằng mỗi chế độ xã hội sẽ sinh ra một đội ngũ cán bộ chủ

chốt và có những đòi hỏi về trình độ, năng lực và phẩm chất nhất định. Hiện

nay, để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có rất

nhiều nội dung. Theo nghiên cứu sinh, có một số nội dung cơ bản sau:

2.3.1.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị

cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Sự phát triển của trình độ chuyên môn, nhiệm vụ, người cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh là cần nắm chắc các kiến thức như: kiến thức pháp luật trên lĩnh vực

mình phụ trách; các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên về lĩnh vực mình phụ trách;

nắm chắc kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành nghề công tác, nắm

vững kiến thức quản lý hành chính Nhà nước, quản lý xã hội. Đặc biệt đối với

cán bộ lãnh đạo, quản lý chính quyền. Những kiến thức này ngày càng tỏ ra

không thể thiếu đối với người cán bộ làm công tác quản lý hành chính nhà

nước, khi các lĩnh vực trên diễn biễn hết sức sôi động phức tạp và ngày càng

vận động theo hướng chuyên nghiệp.

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đã có bước đầu

làm quen cơ chế mới, mạnh dạn, giám nghĩ, dám làm, đã có sự nhạy cảm về

chính trị, tư duy chính trị ngày càng năng động, nhạy bén. Thực tế cho thấy

thành tựu kinh tế - xã hội và có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ cấp

61

tỉnh. Bởi vì, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ cấp tỉnh này được nâng

lên thì khả năng tiếp thu, vận dụng, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện mọi chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước một cách

đúng đắn, sáng tạo hơn, dân chủ hơn. Một khi có được trình độ lý luận chính trị

thì làm cho họ gần dân hơn, sát dân hơn, biết lắng nghe đóng góp ý kiến xác

đáng,của nhân dân, và biết hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch phát

triển kinh tế, nắm vững thực chất chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, nên khả năng tiếp nhân, xử lý thông tin một cách kịp thời có

hiệu quả, đưa ra những quyết định chính xác, khoa học, kịp thời và thông qua

việc tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm để ra phương hướng phát triển kinh tế -

xã hội trong thời gian tiếp theo.

- Trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Trình độ lý luận chính trị giúp người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nâng cao

khả năng nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn,

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tiếp

thu những tri thức khoa học khác.

Nâng cao trình độ lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương

pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng

lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu

của cách mạng trong các thời kỳ lịch sử. Từ đó đóng vai trò rất quan trọng

trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chính trị, đảm bảo cho

sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội; đồng thời, thông qua công tác này

mà chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm

sâu vào quần chúng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng

viên và toàn thể nhân dân. Nói về vai trò của công tác giáo dục lý luận chính

trị, chủ tịch Cay xỏn Phôn vi hẳn nêu rõ: "Không có lý luận chính trị thì giống

người "mù chính trị", xa rời cách mạng"

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là người vừa trực tiếp chỉ đạo tổ chức

thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước lại vừa kiểm tra, uốn

62

nắn những khuynh hướng lệch lạc trong quá trình tổ chức thực hiện. Do đó,

trình độ lý luận chính trị giúp cho đội ngũ này có phương pháp biện chứng,

khoa học trong lãnh đạo, điều hành. Nó giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh khi xem xét, đánh giá, lãnh đạo, điều hành công việc trong tình hình hiện

nay một cách khoa học và hiệu quả. Nó giúp cho cán bộ xem xét, đánh giá và

phân tích các vấn đề, sự vật hiện tượng trong xã hội và trong lãnh đạo điều

hành theo các nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển,

thực tiễn.

Hiện nay, công tác đào tạo nâng cao lý luận chính trị có vai trò hết sức

quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giai đoạn mới. Thông qua đào tạo lý

luận chính trị, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tiếp tục xây dựng vững mạnh về

chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con

người mới - con người xã hội chủ nghĩa. Thông qua đào tạo lý luận chính trị

cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh để nâng cao trình độ tư duy lý luận chính trị trong

toàn Đảng, làm cho toàn Đảng thống nhất mục tiêu lý tưởng, cương lĩnh,

đường lối, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống trong Đảng. Mặt khác, thông qua công tác đào tạo lý luận chính trị góp

phần nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ

nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần vào việc xây dựng đội

ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định lập trường, có năng lực tổ

chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng, có năng lực tổ

chức hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị có

vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những chuyển biến căn bản trong

đời sống kinh tế - xã hội với nhiều thuận lợi và thách thức nhiều vấn đề mới đặt

ra cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động

trong Đảng, sự đồng thuận của toàn xã hội, trên nền tảng tư tưởng của chủ

nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn, đường lối, quan điểm của

Đảng. Thực tiễn đặt ra cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào yêu cầu phải tăng

63

cường đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục lý luận

chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiệm vụ cách mạng trong giai

đoạn mới hết sức nặng nề, khó khăn đòi hỏi mỗi cán bộ phải có bản lĩnh chính

trị, phẩm chất đạo đức, năng lực phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng. Cho

nên, nhiệm vụ của hệ thống chính trị là phải nâng cao trình độ về mọi mặt cho

cán bộ, nhất là trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp tỉnh - đây là nhiệm vụ

vừa mang tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài.

2.3.1.2. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh

Năng lực thực tiễn (Realistic ability) là khả năng hiểu biết thực tiễn ở góc

độ tư duy, nhận thức và được trải nghiệm trong thực tế trên cơ sở tư duy, nhận

thức đó. Người có năng lực thực tiễn là người biết vận dụng một cách linh hoạt

lý luận vào thực tiễn, có khả năng giải quyết hiệu quả những tình huống nảy

sinh trong thực tế, đồng thời có khả năng hướng dẫn người khác ứng xử kịp

thời trong những hoàn cảnh và môi trường tương tự.

Năng lực tổ chức thực tiễn là khả năng sắp xếp và bố trí các công việc

được giao hiệu quả. Người có năng lực tổ chức thực tiễn là người biết vận dụng

một cách linh hoạt lý luận vào thực tiễn, có khả năng giải quyết hiệu quả những

tình huống nảy sinh trong thực tế, đồng thời có khả năng hướng dẫn người khác

ứng xử kịp thời trong những hoàn cảnh và môi trường tương tự.

Tổ chức hoạt động thực tiễn có vai trò to lớn đối với lý luận, không có tổ

chức hoạt động thực tiễn thì xã hội không thể tồn tại và phát triển, không có cơ

sở để khái quát lý luận, và mọi "chủ trương, chính sách… chỉ là mớ giấy lộn

trên bàn làm việc mà thôi". Đồng thời, tổ chức hoạt động thực tiễn còn góp

phần khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí... Không có

tổ chức hoạt động thực tiễn thì con người và xã hội lời người không thể tồn tại

và phát triển, lý luận không thể phát triển được, chỉ trên cơ sở thực tiễn thì lý

luận mới được kiểm nghiệm, hoàn chỉnh và bổ sung. Đối với người cán bộ nói

chung và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng thì năng lực tổ chức thực tiễn là

64

một yêu cầu rất quan trọng để đánh giá cán bộ, nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Đặc biệt, đối với nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào là nước đang trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của định hướng xã hội chủ nghĩa là vì con

người. Trong khi đó, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, do ảnh

hưởng của chiến tranh, do ảnh hưởng của thiên tai xảy ra thường xuyên trong

những năm gần đây… đang gây khó khăn cho việc nhiều lý luận khoa học,

cách mạng ra đời, nhưng thiếu cán bộ có năng lực tổ chức thực tiễn, vì vậy chủ

trương, chính sách không được triển khai. Theo đó, rất cần tới việc nâng cao

năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Thực tiễn là hoạt động thể hiện tính mục đích, tính tự giác cao của con ng-

ười - chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội, phục vụ con người, khác

với những hoạt động mang tính bản năng thụ động của động vật, nhằm thích

nghi với hoàn cảnh. Rõ ràng, hoạt động thực tiễn là hoạt động cơ bản, phổ biến

của con người và xã hội loài người, là phương thức cơ bản của mối quan hệ

giữa con người với thế giới. Nghĩa là con người quan hệ với thế giới bằng và

thông qua hoạt động thực tiễn. Không có hoạt động thực tiễn thì bản thân con

người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển.

Vậy có thể hiểu tổ chức thực tiễn là một hệ thống khép kín bao gồm trong

đó các khâu, các quy trình như: chuẩn bị và ra quyết định; tổ chức bộ máy và

con người để thực hiện quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định; tổng kết

rút kinh nghiệm.

Người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là cán bộ chỉ đạo thực tiễn, đôi khi còn

trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn, do đó mà quá trình hoạt động thực tiễn

của họ đòi hỏi năng lực nắm bắt, hiểu biết thực tiễn. Đó là điều kiện tiên quyết

của người lãnh đạo, quản lý gắn chặt và bám sát đời sống hiện thực, tổ chức

thực hiện các chương trình, công tác, hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả. Nó tạo

cho họ khả năng giải quyết tình huống nhanh, thỏa đáng. Không một nghị

quyết, chương trình, chính sách nào có thể đề cập đến chi tiết cách thức, nội

65

dung triển khai từng huyện, từng quận..Vì vậy, khi nắm được thực tiễn cơ sở,

bao quát được tình hình các mặt của địa phương, người lãnh đạo có khả năng

triển khai có hiệu quả đường lối, chính sách của cấp trên tại địa phương mình

và giải quyết công việc của địa phương một cách tốt nhất.

2.3.1.3. Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh

Tổng kết thực tiễn là một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động

thực tiễn của người cán bộ, cũng như trong quản lý, điều hành đất nước trong

thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước. Bởi lẽ, tổng kết thực tiễn là phân tích và khái quát những vấn đề

thực tiễn để rút ra bài học cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo cũng như bổ sung,

phát triển lí luận nói chung, chủ trương, đường lối, chính sách nói riêng.

Không có tổng kết thực tiễn thì không có lý luận, không có lý luận cách mạng

thì không có phong trào cách mạng. Như Lênin đã nói, bản thân học thuyết

Mác cũng là kết quả của tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng của giai

cấp vô sản. Tổng kết ba năm thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, Lênin

đã rút ra kết luận vô cùng quan trọng không thể đi con đường cũ nữa, cần thay

đổi căn bản quan niệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chính sách NEP đã ra

đời. Tổng kết thực tiễn 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt

là 10 năm (1975-1985), Đảng ta mới đề ra đường lối đổi mới đúng đắn (Đại

hội VI tháng 12/1986)…

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, chúng ta mới thấy được những ưu điểm của

lý luận cũng như những hạn chế của nó. Chỉ có trên cơ sở tổng kết thực tiễn,

chúng ta mới có thể kiểm nghiệm sự đúng sai để có thể kịp thời điều chỉnh, bổ

sung, hoàn thiện phát triển lí luận. Từ đó mới có cơ sở thực tiễn để ngăn ngừa,

khắc phục bệnh kinh nghiệm; xem xét lại, sửa đổi, bổ sung lý luận cũ, phát

triển lý luận mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn sống luôn nhắc nhở cán bộ,

đảng viên phải biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn

"...công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ,

66

phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khoá phát triển

công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới" [44, tr.243]. Người còn nhấn mạnh

"…cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem

thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm"

[44, tr.417]. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh

nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có

nghĩa là làm cho lý luận cần được "bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ

trong thực tiễn sinh động" [45, tr.496]. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ

đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ

sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực

tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi dường, dẫn dắt bởi lý luận đã được

bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Theo Hồ Chí Minh, "Làm như

thế là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được

nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn" [45, tr.498].

Đối với người cán bộ, tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực

tiễn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh

nghiệm. Tổng kết thực tiễn sẽ giúp cho người cán bộ đưa ra được những quyết

định phù hợp với thực tế khách quan ở địa phương mình. Thông qua tổng kết

thực tiễn, họ mới có điều kiện so sánh, phân tích, tổng hợp để phát hiện ra

những vấn đề thực tiễn đặt ra còn chưa giải quyết được, những vấn đề của

chính sách còn "vênh", xa rời cuộc sống, những thất bại cũng như thành công,

những kinh nghiệm nào còn phù hợp và không còn phù hợp với thực tiễn…

Trên cơ sở đó, mới có thể rút ra những kết luận, bổ sung những lí luận mới cho

chủ trương, chính sách, có những bài học kinh nghiệm để chỉ đạo cho hoạt

động thực tiễn tiếp theo. Như vậy, hoạt động thực tiễn giúp họ bớt mò mẫm, sự

vụ… Mặt khác, khi tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán

bộ phải vận dụng tổng hợp những tri thức, vốn hiểu biết, kinh nghiệm bản thân

để phân tích, đánh giá, khái quát những vấn đề thực tiễn. Như vậy, việc tăng

cường tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động thực tiễn sẽ buộc đội ngũ cán bộ

67

phải động não, suy nghĩ, vận dụng, so sánh những gì mình học được với thực

tiễn cuộc sống… Đây cũng là một biện pháp quan trọng để nâng cao trình độ tư

duy của đội ngũ này. Do đó, tổng kết thực tiễn là cách trực tiếp để nâng cao sự

hiểu biết, trình độ lí luận, rèn luyện năng lực tư duy biện chứng, khả năng vận

dụng lí luận vào thực tiễn, nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ.

Tổng kết thực tiễn không chỉ như một biện pháp mà còn là phương hướng

cơ bản, một nguyên tắc trong việc phát triển lý luận, khắc phục có hiệu quả

bệnh kinh nghiệm trong chỉ đạo thực tiễn. Như chúng ta đã biết, kinh nghiệm

được nảy sinh một cách trực tiếp từ một thực tiễn cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể.

Vì vậy, bên cạnh những ưu điểm, kinh nghiệm nói chung còn rời rạc, chắp vá,

thiếu tính hệ thống, trong nhiều trường hợp chỉ mới phản ánh cái bề ngoài, cái

ngẫu nhiên. Cho nên, chỉ trên cơ sở của tổng kết kinh nghiệm thực tiễn chúng

ta mới thấy được những ưu điểm của kinh nghiệm, đồng thời phát hiện được

những hạn chế của nó; mới có căn cứ để không ngừng xem xét lại, bổ sung sửa

đổi chủ trương, chính sách cũ, có cơ sở để không mắc phải những sai lầm đã

có, góp phần định hướng mới cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.

Như vậy, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn giúp chúng ta không bị dừng lại

ở những kinh nghiệm cụ thể, cá biệt, không bị trói buộc vào một thực tiễn cụ

thể hay vào những tình huống cá biệt với những cách thức hành động cũ. Qua

đây chúng ta có thể thấy, tổng kết thực tiễn có tác dụng vô cùng to lớn trong

việc nâng cao trình độ, năng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh.

2.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

2.3.2.1. Những nhân tố khách quan

- Điều kiện tự nhiên

Các tỉnh Nam Lào có điều kiện tự nhiên khá khắc nghiệt, khí hậu nóng

nắng gần như quanh năm, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn hơn các địa

phương khác chính là một nhân tố khách quan làm cho tư duy con người vùng

68

Nam Lào nói chung và tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở đây nói

riêng có những nét đặc trưng so với những vùng, miền khác ở chỗ, tư duy lạc

hậu, chủ yếu dựa trên tư duy kinh nghiệm, sản xuất nông nghiệp là chính. Nói

cách khác, điều kiện tự nhiên ở Nam Lào chỉ thuận lợi cho các hoạt động sản

xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ cùng với phát triển cây công nghiệp đồn

điền. Ngành công nghiệp ở đây chưa phát triển, kinh tế du lịch cũng không có

nhiều tiềm năng nên tư duy của con người Nam Lào phụ thuộc nhiều vào sản

xuất nông nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng đến tư duy của cán bộ chủ chốt

các tỉnh Nam Lào từ lâu đã được hình thành, đó là lối tư duy sản xuất nhỏ, tư

duy nông nghiệp, tư duy tiểu nông, tư duy làng xã, đặc biệt là tư duy kinh

nghiệm, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được trao truyền từ nhiều thế

hệ để lại, chưa quen phân tích sự kiện và chưa có khả năng nghiên cứu lý luận

một cách hệ thống. Tư tưởng an bài, chủ nghĩa kinh nghiệm đã ăn sâu vào tâm

thức của nhân dân, và cả trong hàng ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Ảnh hưởng

của tư duy kinh nghiệm đối với cán bộ chủ chốt ở Nam lào hiện nay biểu hiện

ở chỗ một số người chưa có tầm nhìn xa trông rộng, khi đề ra kế hoạch không

có một chiến lược lâu dài, thậm chí rơi vào “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ

địa phương, chậm đổi mới, thiếu khách quan.

- Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội

Thực tiễn lịch sử xã hội loài người đã chứng minh: con người vừa là chủ

thể của hoàn cảnh, đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Tư duy, ý thức có

nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự biến đổi của tồn tại xã hội mà quan

trọng nhất là sự biến đổi của yếu tố phương thức sản xuất. Điều kiện kinh tế, xã

hội ảnh hưởng rất lớn tới năng lực tư duy lý luận. Đó là toàn bộ những điều

kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học tập, rèn

luyện và hoạt động của mỗi người.

Nam Lào là các tỉnh có kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều khó khăn. Sau

30 năm đổi mới, mặc dù có những phát triển tiến bộ về kinh tế - chính trị, xã

hội nhưng phải khẳng định rằng, nơi đây nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao

69

trong nền kinh tế. Đời sống chính trị khá ổn định, xã hội trật tự. Trong những

năm tới, các tỉnh Nam Lào vẫn khẳng định, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan

trọng không chỉ trong giai đoạn 2011 - 2020, mà còn trong nhiều năm sau đó,

vì Lào đi lên từ một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu. Do đó, nông

nghiệp phải được phát triển trước làm cơ sở nền tảng cho phát triển công

nghiệp. Huy động thặng dư của nông nghiệp để công nghiệp hóa. Phải đẩy

mạnh chiến lược cách mạng xanh, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thúc đẩy sự

phát triển. Phải giải quyết mối quan hệ cân đối giữa nông nghiệp và công

nghiệp, tạo nên sự tương trợ lẫn nhau giữa nông nghiệp và công nghiệp trong

tiến trình phát triển. Mặc dù vậy, kinh tế - chính trị xã hội nơi đây vẫn ảnh

hưởng đến tư duy của người dân cũng như cán bộ chủ chốt cấp tỉnh chủ yếu

vẫn là tư duy sản xuất nông nghiệp, tư duy của người sản xuất nhỏ, manh mún

và thiểu cận. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc nâng cao năng lực tư duy

lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Nam Lào hiện nay.

- Truyền thống, văn hóa

Tư duy là sản phẩm của lịch sử, bởi vậy, tư duy truyền thống cũng có ảnh

hưởng đến sự phát triển của năng lực tư duy lý luận. Tư duy không xuất hiện

trên mảnh đất trống không mà nó có sự kế thừa, ảnh hưởng của trình độ, phong

cách tư duy của thời đại trước ở mức độ nhất định. Tư duy của người cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh vừa phải chịu ảnh hưởng của lối tư duy truyền thống nước

Lào, vừa phải mang nặng lối tư duy đặc sắc của vùng, miền mình đã sinh ra và

đang sinh sống.

Truyền thống văn hoá tỉnh Nam Lào, đã hình thành và phát triển trong quá

trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là tinh thần cần cù lao động sáng

tạo, tinh thần đấu tranh bất khuất, tinh thần yêu quê hương, đoàn kết yêu

thương nhau, đùm bọc và giúp đỡ nhau trong đấu tranh, trong xây dựng, trong

sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, văn hoá tinh thần đã trở thành kho tàng

vật giá quý báu, trở thành sức mạnh vật chất trong việc bảo vệ và xây dựng các

tỉnh Nam Lào trong lâu dài, trở thành truyền thống quý báu và là "ngọn lửa"

70

không bao giờ tắt, đã được phát huy với chất lượng mới trong lịch sử đấu tranh

dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua đó làm cho vai trò của văn hoá lịch sử càng

ngày được nâng cao và đã đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng

như sự nghiệp bảo vệ xã hội đất nước Lào hiện nay.

Nói đến truyền thống dân tộc các tỉnh Nam Lào phải đề cập tới lòng yêu

nước nồng nàn, ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do trong kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ. Nam Lào là quê hương anh hùng "Huyền Bua La

Pha, và Huyền Nong Bốc anh hùng", là quê hương của nhiều chiến sĩ, nhiều

cán bộ lãnh đạo cách mạng lão thành. Sự định hình của văn hoá truyền thống là

nhà sàn, lúa nước. Từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương và sau này là Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo với đường lối, chính sách đúng đắn, nhân

dân các bộ tộc ở đây với tinh thần chiến đấu, sự đoàn kết gắn bó càng được

nâng lên. Những đặc điểm và truyền thống văn hóa quý báu đó của các tinht

Nam Lào ảnh hưởng đến quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh. Truyền thống đấu tranh bất khuất, tinh thần yêu quê hương,

đoàn kết yêu thương nhau, đùm bọc và giúp đỡ nhau trong đấu tranh, trong xây

dựng, trong sản xuất và trong cuộc sống sẽ là lợi thế để hình thành và nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Nam Lào. Tuy nhiên,

văn hoá truyền thống là nhà sàn, lúa nước... cũng sẽ gây khó khăn trong quá

trình nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Nam Lào

hiện nay.

- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang là xu hướng tất yếu và ngày càng

được mở rộng. Tính tất yếu của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế trước hết

được biểu hiện ở tính tất yếu kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là khía cạnh quan

trọng nhất của toàn cầu hoá; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị.

Đến lượt mình, những thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh

tế. Ngoài những cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra cho Việt Nam và Lào những thách

thức to lớn, như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và thiếu việc làm,

71

sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm có xu hướng tăng, sự lo ngại

về mất bản sắc, sự đồng hoá văn hoá và sự huỷ hoại văn hoá dân tộc, v.v..Con

đường để vượt qua những thách thức đó không phải là đóng cửa lại để sống

biệt lập với thế giới; mà trái lại, phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bồi

dưỡng và giáo dục con người nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân,

trách nhiệm với Tổ quốc, khơi dậy và phát huy tinh thần dân tộc ở họ. Theo đó,

cần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh nói riêng để họ chủ động tích cực tham gia vào quá trình toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế nhưng không đánh mất bản sắc văn hóa và mục tiêu

chính trị của dân tộc.

Hơn nữa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan, tham gia

vào quá trình này là điều kiện cần cho sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc,

nhất là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, do có ưu thế về vượt trội về tiềm

lực tài chính, trình độ phát triển cao của khoa học - công nghệ, các nước tư bản

phát triển đang đóng vai trò chủ đạo, chi phối quá trình toàn cầu hóa. Lợi dụng

các ưu thế này, các nước tư bản phát triển đang lợi dụng toàn cầu hóa, hội nhập

quốc tế để tăng cường bá quyền về kinh tế, sử dụng kinh tế để gây sức ép về

chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đang phát triển, đặc biệt

những nước lựa chọn con đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa như

Lào, đặt các nước xã hội chủ nghĩa trước một thách thức nghiêm trọng là nguy

cơ "diễn biến hòa bình". Trước tình hình đó, yêu cầu các nước đang lựa chọn

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội như Lào cần có đội ngũ cán bộ chủ chốt nắm

vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Xỏn Phôn Vi

Hẳn trong tình hình mới, điều kiện mới. Nói cách khác, cần nâng cao năng lực

tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của Lào trong điều kiện toàn cầu

hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.

- Những vấn đề về an ninh phi truyền thống

An ninh phi truyền thống là quan niệm về an ninh trong bối cảnh toàn cầu

hóa và hội nhập quốc tế, trong đó việc xác định các yếu tố đe dọa an ninh quốc

72

gia không chỉ là từ sự đối kháng về ý thức hệ hay đối đầu về quân sự mà còn từ

các yếu tố khác mang tính toàn cầu. An ninh phi truyền thống đặt an ninh của

từng quốc gia trong mối quan hệ chặt chẽ với an ninh khu vực và an ninh toàn

cầu. Điều này ảnh hưởng tới tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên.

Có một điểm cần nhấn mạnh là, không phải đến bây giờ, nhiều vấn đề

được gọi là mối đe dọa đối với an ninh phi truyền thống, như giá lương thực

tăng cao, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…, mới gây cho con người

những lo lắng về sự an nguy và tồn vong của mình. Lịch sử nhân loại đã từng

chứng kiến những trận đói, nạn dịch khủng khiếp cướp đi sinh mạng của hàng

triệu con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh bùng nổ cách mạng khoa học công

nghệ hiện đại, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa

lý giữa các quốc gia trở nên "mềm" hơn, dễ vượt qua hơn; mạng in-tơ-nét đã

tạo ra một "thế giới ảo" với các xa lộ thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn

biên giới ngăn cách. Bên cạnh đó, sự tha hóa và suy thoái về đạo đức của chính

con người… đã làm cho những vấn đề mà ngày nay được gọi là an ninh phi

truyền thống trở nên trầm trọng hơn, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất

nhiều. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, bắt đầu từ nước Mỹ,

nhanh chóng lan rộng tới nhiều nước, kéo cả nền kinh tế thế giới rơi vào tình

trạng suy thoái, là một thí dụ. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm

công nghệ cao, những vấn đề tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương

thực… đang thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ, sự

vững chắc của các thể chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu

mạnh nhất, cũng như tính khả thi, bền vững của các liên kết quốc tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia

tăng lên, thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn, nhưng lại khó kiểm soát hơn,

kém an toàn hơn bởi các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có mức độ nguy

hiểm cao hơn, sức ảnh hưởng lớn hơn, tầm ảnh hưởng rộng hơn và tốc độ lây

lan cũng nhanh hơn. Chính vì vậy, để giải quyết và đối phó với những vấn đề

này đòi hỏi có sự tham gia của cả cộng đồng, nhưng trước mắt để có chủ

73

trương, chính sách đúng đắn, cần có đội ngũ cán bộ chủ chốt có tư duy lý luận

sáng tạo, linh hoạt trong điều kiện mới. Nói cách khác, những vấn đề an ninh

phi truyền thống đang tác động, ảnh hưởng tới tư duy lý luận của cán bộ chủ

chốt. Đồng thời, nó cũng yêu cầu cần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng nhằm đáp

ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước hiện nay.

2.3.2.2. Nhân tố Đảng, Nhà nước và các thể chế chính sách có liên quan

Để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

rất cần đến vai trò của Đảng, Nhà nước và chủ trương, đường lối chính sách

của Đảng, Nhà nước. Bởi, sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và

Nhà nước Lào là nhân tố quyết định chủ trương, đường lối, chính sách liên

quan tới việc tạo điều kiện thuận lợi hoặc cho phép hay không cho phép nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với

toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước. Sự

lãnh đạo chính trị của Đảng được thể hiện thông qua việc xây dựng cương lĩnh,

định hướng đường lối chính trị, quyền quyết định và quyền kiểm tra, giám sát

việc thực hiện đường lối chính trị. Do đó, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cho

phép hay không cho phép nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Để lãnh đạo toàn diện, biến các định hướng, chỉ đạo chiến lược của mình

vào trong hoạt động của Nhà nước khi thực hiện quá trình chính sách công,

Đảng ban hành văn bản hàm chứa các nội dung trên dưới dạng Cương lĩnh,

nghị quyết, chiến lược, chỉ thị, thông tri, thông báo, kết luận, kế hoạch làm căn

cứ dẫn dắt, định hướng các cơ quan Nhà nước, cán bộ, đảng viên quán triệt,

nắm vững và vận dụng thống nhất, sáng tạo vào trong toàn bộ quá trình hoạch

định, tổ chức hoặc đánh giá hiệu quả chính sách.

Trong Nhà nước pháp quyền, Đảng cầm quyền nói chung sẽ không thể thể

hiện vai trò lãnh đạo trực tiếp của mình đối với Nhà nước và toàn xã hội, trong

74

đó có quy trình chính sách công với tư cách là sản phẩm, công cụ quản lý vĩ mô

của Nhà nước mà không được thể chế hóa thành pháp luật bởi Nhà nước. Với

thẩm quyền của mình, Nhà nước thông qua các nhánh cơ quan Nhà nước từ

Trung ương đến địa phương tiến hành thể chế hóa, pháp lý hóa thành luật các

tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng trong Hiến pháp và các đạo luật

tương ứng. Theo đó, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có nhiệm vụ

cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về vấn

đề nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh trong

từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Thể chế, cơ chế, chính sách có liên quan đến mọi mặt trong quá trình vận

động và phát triển xã hội cũng như có liên quan tới việc nâng cao năng lực tư

duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh trong từng giai đoạn lịch sử

nhất định. Thể chế, cơ chế, chính sách có liên quan tới việc nâng cao năng lực

tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh như: chính sách giáo dục,

đạo tạo lý luận; chính sách tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ nghiên cứu và giảng

dạy lý luận chính trị; chính sách thu nhập, tiền lương kích thích hay không

khích thích đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị; chính sách cho

phép hay không cho phép tạo môi trường dân chủ, khách quan trong nghiên

cứu và giảng dạy lý luận chính trị; chính sách lương, thưởng, bổ nhiệm, sử

dụng đối với cán bộ chủ chốt ấp tỉnh... Phải khẳng định rằng, thể chế, cơ chế,

chính sách đúng đắn và thích hợp là môi trường, là động lực thúc đẩy, kích

thích cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nâng cao năng lực tư duy lý luận của mình.

Ngược lại, các chủ trương, đường lối, chính sách không phù hợp sẽ dẫn đến

kìm hãm sự phát triển, hạn chế năng lực tư duy lý luận, tư duy sáng tạo của cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách ở Lào được xây dựng trên nền tảng

vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Theo đó, trong những giai đoạn lịch sử nhất định,

sẽ có những chủ trương, chính sách về nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

75

đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu thực tiễn đất nước và đáp

ứng mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

2.3.2.3. Nhân tố chủ quan

- Yếu tố sinh học của chủ thể tư duy

Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền của từng

người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại như cấu

tạo của hệ thần kinh, trí nhớ, sức khỏe, thể chất... Những yếu tố này đóng vai

trò chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác,

nhạy cảm. Con người là thực thể sinh học - xã hội. Mặt sinh học của con người

phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên như các thuộc tính sinh học, di truyền, biến

dị, đồng hóa, dị hóa… trong quá trình sinh sản và phát triển. Yếu tố di truyền

có ảnh hưởng rất lớn, sự di truyền theo hướng trội, hướng tốt sẽ sẽ tạo ra ở thế

hệ mới một cơ thể khỏe mạnh, tư chất thần kinh tốt, khả năng phát triển cao về

sức khỏe và trí tuệ. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ nói

chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Những yếu tố sinh học này là cơ sở,

điều kiện, tiền đề cho chủ thể tư duy thực hiện năng lực của mình một cách có

hiệu quả. Năng lực là yếu tố thuộc về chủ thể, cho nên năng lực tư duy lý luận

xét về khả năng cũng thuộc về những yếu tố sinh học. Tất nhiên, đây chỉ là

điều kiện cần, là những khả năng tiềm tàng chứ chưa đủ cho hoạt động tư duy

có hiệu quả. Những yếu tố sinh học này nếu không được trau dồi, rèn luyện

khơi dậy phát triển, rèn luyện thường xuyên thì sẽ dẫn đến mai một. Như

Ph.Ăngghen đã viết: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng

năng lực của người ta mà có thôi" [41, tr.487].

- Nhu cầu, lợi ích của chủ thể

Cái chi phối mục đích hoạt động của con người là lợi ích. Khi lợi ích được

đảm bảo sẽ là nguồn động viên, thúc đẩy chủ thể trau dồi, rèn luyện, phát triển

năng lực nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng. Ngược lại, khi lợi ích

không được đảm bảo, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến thái độ và năng lực của từng

người. Động cơ tư tưởng hay mục đích được hình thành bởi sự tác động của

76

hoàn cảnh thực tiễn đối với con người cũng chính là lợi ích, trong đó bao hàm

cả tri thức được đúc kết trong hoạt động thực tiễn, được hình thành nhằm thỏa

mãn những nhu cầu mới được hình thành. Chính theo nghĩa đó thì lợi ích con

người bao giờ cũng gắn chặt với những kết quả - những bài học kinh nghiệm

rút ra nhờ tổng kết thực tiễn.

Nhu cầu, lợi ích có ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến ý thức, động

cơ hoạt động thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực tư duy lý

luận. Người có được năng lực tư duy lý luận tốt những người đó có động cơ

không trong sáng thì cũng chỉ là "người có tài mà không có đức thì cũng trở

thành vô dụng".

- Sự cố gắng, nỗ lực của chủ thể

Năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là sự kết hợp chặt

chẽ giữa các yếu tố sinh học, trình độ tư duy và cả thái độ rèn luyện để nâng

cao năng lực đó. Người cán bộ chủ chốt nào càng ý thức nâng cao năng lực lý

luận chính trị, năng lực tư duy lý luận thì càng phải năng động trong thực tiễn

xđể có cơ hội khái quát lý luận và kiển tra trình độ nhận thức, trình độ vận

dụng lý luận của mình vòa thực tiễn. Còn cán bộ nào lười cố gắng, tự thỏa mãn

về năng lực của mình, không chịu học tập, thiếu bản lĩnh, ngại hoạt động thực

tiễn thì dù có năng lực tư duy thì lâu ngày cũng sẽ bị thui chột. Sự phấn đấu

vươn lên về mọi mặt của chủ thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc rèn luyện, trau

dồi năng lực tư duy lý luận của họ.

- Hoạt động thực tiễn của chủ thể

Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư duy lý luận của

con người. Bởi, thông qua hoạt động thực tiễn con người mới vật chất hóa

được tri thưc, mới hiện thực họa được tư tưởng, mới biết nhận thức của mình là

đúng hay sai. Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định đâu là

lý luận đúng đâu là lý luận sai. Cũng thông qua hoạt động thực tiễn mà mà

năng lực của con người mới được phát huy tối đa, mới có điều kiện cọ xát, trau

dồi, rèn luyện, phát triển. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh quan hệ với địa

77

phương mình lãnh đạo không phải bằng lý luận mà bằng việc trực tiếp triển

khai chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn. Như thế, trong

hoạt động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực tư duy lý

luận nói riêng sẽ dần được hình thành, phát triển và hoàn thiện.

Những nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan trên có quan hệ chặt chẽ

với nhau, tác động bổ sung lẫn nhau tạo thành một hệ thống các yếu tố cùng

phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới xây

dựng đất của Đảng và Nhà nước của Nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Cách

mạng Lào, một sự nghiệp vô cùng to lớn chỉ có thể đi đến thắng lợi khi có một

đội ngũ cán bộ chủ chốt có đầy đủ phẩm chất cần thiết, đặc biệt là tư duy lý

luận; bởi vì, năng lực tư duy lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động

của người cán bộ chủ chốt. Đối với thực tiễn gần hơn 30 năm thực hiện đổi mới

ở Nước cộng hòa dân chủ nhân Nhân dân Cách mạng Lào hiện nay, vai trò của

năng lực tư duy lý luận đối với cán bộ nói chung, nhất là đối với cán bộ chủ

chốt các cấp tỉnh nói riêng lại càng quan trọng hơn do phải đáp ứng yêu cầu

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

2.3.3. Phương thức nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh

Để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có

rất nhiều phương thức, theo nghiên cứu sinh có một số phương thức cơ bản

như sau:

2.3.3.1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

thông qua học tập, nghiên cứu, thực hành triết học Mác - Lênin

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là quá trình

nhận thức khoa học của chủ thể là cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Mà như phần trên

chúng tôi đã khái quát, thực chất của tư duy lý luận khoa học là phải được cung

cấp tư duy biện chứng duy vật. Mà muốn có tư duy biện chứng duy vật thì

không còn con đường nào khác là học tập, nghiên cứu và thực hành triết học

78

Mác - Lênin. Chỉ có triết học Mác - Lênin mới cungc ấp cho người học thế giới

quan và phương pháp đúng đắn. Lập trường thế giới quan và phương pháp luận

Mác - Lênin đã góp phần quan trọng để cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và

nhân dân các bộ tộc Lào nhận thức đúng đắn các vấn đề thời đại có quan hệ

chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận. Đây là môn học trang bị cho người học

những kiến thức cơ bản, thiết thực hình thành phương pháp tư duy lô gic, sáng

tạo và nhận thức đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước trong thời đại ngày nay. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư

duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư

duy siêu dình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu

lý luận triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Qua đó, hình

thành, bồi dưỡng và nâng cao cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh thế giới quan, nhân

sinh quan khoa học, phương pháp tư duy biện chứng trong việc phân tích, đánh

giá hiện thực khách quan, đặc biệt góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Tư duy lý luận của Lào trong thời kỳ đổi mới bước đầu đã phản ánh được

những phát triển mới của thế giới, như sự phát triển của sản xuất vật chất, sự

xuất hiện của kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học

và công nghệ hiện đại; quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra, sự thích nghi và

phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, sự trì trệ và xuất hiện khủng hoảng của chủ

nghĩa xã hội hiện thực. Nhờ phân tích cụ thể tình hình cụ thể trong sự vận

động, phát triển không ngừng của thế giới đương đại, những người có tư duy lý

luận đã bổ sung cho mình sự hiểu biết mới và từng bước điều chỉnh chủ trương,

chính sách phát triển cho phù hợp với thực tiễn. Có được những thành quả đó

là trong thời kỳ đổi mới, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn quán triệt chủ

nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt luôn giảng dạy và nghiên cứu triết học Mác - Lênin

của cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng.

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh chủ yếu

thông qua giáo dục lý luận chính trị của các trường chính trị trung ương. Bởi,

chức năng và nhiệm vụ của trường chính trị trung ương Lào là đào tạo, bồi

79

dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cấp, cao cấp của hệ thống chính trị, lãnh

đạo chủ chốt các đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước về: Chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay-xỏn Phôn-vi-hẳn; những quan điểm, chủ

trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; những

vấn đề lý luận và thực tiễn mới trong nước và trên thế giới; khoa học chính trị;

khoa học lãnh đạo, quản lý; Đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch; Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức

mới cho cán bộ giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, tổ chức

trong hệ thống chính trị theo phân công, phân cấp; Đào tạo, bồi dưỡng giảng

viên, nghiên cứu viên và các đối tượng khác về các chuyên ngành khoa học

chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý và một số ngành khoa học xã hội; Đào

tạo, bồi dưỡng chuyên ngành cho cán bộ làm công tác báo chí và truyền thông,

tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra, dân vận, văn phòng, tôn giáo và đối ngoại của hệ

thống chính trị.

Về nghiên cứu khoa học: trường chính trị trung ương Lào tập trung nghiên

cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm vi hẳn, đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghiên cứu khoa học chính trị,

khoa học lãnh đạo, quản lý, một số ngành khoa học xã hội; tổng kết thực tiễn,

phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

2.3.3.2. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

thông qua học tập và triển khai chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

Trong công tác lãnh đạo của Đảng, ban hành nghị quyết và tổ chức thực

hiện nghị quyết có mối quan hệ biện chứng đặc biệt, đó là quá trình gắn lý luận

với thực tiễn và thực tiễn với lý luận. Do vậy, khi mỗi chỉ thị, nghị quyết được

ban hành, việc quán triệt, học tập và xây dựng chương trình hành động của mỗi

cấp ủy để các chủ trương, chính sách của Đảng đến với cán bộ, đảng viên, nhân

dân là việc làm cấp bách, góp phần cụ thể hóa nội dung nghị quyết thành

chương trình hành động phù hợp thực tiễn. Phải thông qua quá trình học tập,

80

thấm nhuần nghị quyết chủ trương của Đảng, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

mới triển khai, tổ chức thực tiễn, qua đó, gắn lý luận với thực tiễn. Và cũng chỉ

có thông qua quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, cán bộ chủ chốt mới nâng

cao năng lực tư duy lý luận của mình. Theo đó, nghiên cứu, học tập nghị quyết

của Đảng là công việc thường xuyên đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Việc học

tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là khâu đầu tiên và đặc biệt quan trọng

nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, là điều kiện

tiên quyết đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Quá trình nghiên cứu, học tập và thực hiện tốt văn kiện của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước là quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận của

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Cấp tỉnh là cấp trung

gian giữa trung ương và địa phương, do đó, để văn kiện, nghị quyết triển khai

được ở tỉnh, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ngoài việc nghiên cứu, học tập

còn phải ra quyết định phù hợp với nghị quyết của trung ương và bám sát thực

tiễn địa phương. Đây cũng là quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận của

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vô cùng hiệu quả.

2.3.3.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

bằng cách tự học tập, tự rèn luyện của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh trước

hết phải do chính bản thân người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đó quyết định, nhất

là họ lại đang là cán bộ chủ chốt tức, họ là những chủ thể có ý thức, có chức,

có quyền trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Đảng viên, hơn nữa là là cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh nên họ là đối tượng để Đảng, Nhà nước, trường chính trị... nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho họ. Theo đó, học cần phải là tấm gương, là

người trực tiếp chủ động học tập, nghiên cứu, rèn luyện để nâng cao năng lực

tư duy lý luận cho bản thân. Những người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh mà không

chủ động tự nâng cao năng lực tư duy lý luận của bản thân thì dù các chủ thể

khác như Đảng, Nhà nước... cũng không có cách nào khác nâng cao năng lực

81

tư duy lý luận cho họ. Ở đây, thể hiện vai trò tự giác của bản thân cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh là rất cao.

Để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh thì mỗi

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đó phải tự nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí

tuệ thông qua con đường tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng về mọi mặt; trong

đó, cần nắm vững phương châm tự giáo dục là chính. Bởi lẽ, phương pháp tự

giáo dục bao giờ cũng làm cho người ta tự tin hơn, trách nhiệm phấn đấu rõ rệt

hơn; phát huy tốt vai trò của tự giáo dục là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao

bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của mỗi cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Đây

chính là quá trình tạo động lực, thúc đẩy mỗi cán bộ chủ chốt cấp tỉnh tích cực

trau dồi tri thức và phương pháp tư duy khoa học; thường xuyên cập nhật thông

tin và tri thức mới, nhất là thông tin tư tưởng, lý luận; bám sát, đi sâu vào thực

tiễn để phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đúc kết kinh nghiệm phổ biến từ

thực tiễn. Có ý thức tự giáo dục, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh sẽ luôn chủ

động nắm bắt, xử lý thông tin để cùng tập thể ra các quyết định đúng và tổ chức

thực hiện có hiệu quả; đồng thời, tích cực, chủ động tham gia đấu tranh, phê

phán các quan điểm sai trái, thù địch. Đó là những biểu hiện của việc đã nâng

cao năng lực tư duy lực lượng của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Quá trình giáo dục, tự giáo dục là quá trình mỗi người luôn phải tự đấu

tranh với bản thân, với mọi cám dỗ, tiêu cực; tạo dựng ý chí quyết tâm vươn tới

cái cao đẹp. Đó cũng chính là con đường tốt nhất để nâng cao bản lĩnh chính trị

và trình độ trí tuệ ngang tầm với chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng

viên nói riêng và Đảng ta nói chung, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,

công nghiệp hóa đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội

nhập quốc tế.

Năng lực tư duy lý luận, bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, phẩm chất

đạo đức cách mạng là phần cốt lõi, cơ bản nhất của mỗi người. Nâng cao năng

lực tư duy lý luận, bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức

82

cách mạng là xây dựng cái gốc để cán bộ chủ chốt cấp tỉnh phát huy mọi khả

năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những năng lực đó không tự nhiên

mà có, do đó phải thông qua giáo dục, rèn luyện và tự rèn luyện trong thực tiễn,

kết hợp hài hòa giữa tư duy lý luận với kinh nghiệm thực tiễn để không ngừng

bồi dưỡng năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới. Vì thế, cùng với

việc nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, tự thân mỗi cán bộ

lãnh đạo, quản lý phải tự giác rèn luyện về mọi mặt, trau dồi kiến thức, năng

lực tư duy lý luận, bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức

cách mạng thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Thông qua việc nhận định,

dự báo tình hình và xử lý các tình huống nhằm phát triển kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.

Tiểu kết chương 2

Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình tiếp

cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận, bằng hệ

thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Chủ thể tư duy lý luận rất coi trọng lý

luận khoa học và biết sử dụng tư duy khoa học như là một phương pháp để

phát hiện mâu thuẫn và những tình huống “có vấn đề”, biết tìm kiếm một cách

sáng tạo những phương pháp, biện pháp để giải quyết các tình huống ấy.

Năng lực tư duy lý luận là nhân tố không thể thiếu, có tầm quan trọng đặc

biệt, vừa là yếu tố cấu thành vừa là nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển

năng lực ở người cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Có

năng lực tư duy lý luận họ nắm được thực chất quan điểm đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có khả năng phân tích,

luận giải để nắm được tinh thần cốt lõi của đường lối. Có năng lực tư duy lý

luận, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh mới có đủ năng lực phân tích sự phong

phú, tính đa dạng và phức tạp của thực tiễn cuộc sống, để từ đó vận dụng lý

luận một cách chủ động, thích hợp, sáng tạo và hiệu quả.

83

Trong chương hai, tác giả luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận và là

công cụ để triển khai những nội dung ở những chương sau của luận án như

khái niệm tư duy, lý luận; tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận. Luận án đã

chỉ ra rằng: năng lực tư duy chính là khả năng vận dụng tổng thể các tri thức đã

có để tạo ra những tri thức mới, tạo ra những giải pháp đúng đắn và thích hợp

cho việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn và năng lực tư duy

lý luận là: khả năng vận dụng tổng thể các tri thức lý luận đã có để tạo ra những

tri thức lý luận mới, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đúng đắn và thích

hợp cho việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn. Theo đó, thực

chất của nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là nâng

cao: Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị cho cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh; Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh; Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Không

có năng lực tư duy lý luận, người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh chỉ biết áp dụng một

cách máy móc, cứng nhắc những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước - vốn là cái chung nhất, khái quát nhất -

vào những hoàn cảnh rất riêng, rất cụ thể.

84

Chương 3

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO

CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC TỈNH MIỀN NAM

LÀO HIỆN NAY

3.1.1. Điều kiện tự nhiên các tỉnh miền Nam Lào Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào có diện tích: 236.800 km2. Theo

số liệu thống kê năm 2015, dân số Lào là 6.368.481 người, gồm 49 bộ tộc.

Hiện nay đất nước được chia thành 17 tỉnh và một thủ đô, có 148 huyện và

8.753 bản. Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào được giải phóng ngày

2/12/1975. Là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực

Đông Nam Á, nằm sâu trong lục địa. Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào có

đường biên giới chung dài 4.825 km với 5 quốc gia trong khu vực: phía Bắc

giáp Trung quốc, phía Tây Bắc giáp Myanma, phía Tây giáp với Thái Lan, phía

Đông giáp với Việt Nam và phía Nam giáp với Campuchia. Lào là một nước có

địa hình đa dạng: có núi cao, có cao nguyên, có đồng bằng, có thung lũng

nhưng không có biển. Vì vậy, đây là đất nước có tiềm năng phát triển nông

nghiệp, công nghiệp khai khoáng nhưng đồng thời cũng gặp rất nhiều khó

khăn, trở ngại trong mối quan hệ, trong việc giao thông với các nước khác. Tuy

nhiên Lào có nhiều sông ngòi, suối rất quan trọng cho nông nghiệp và giao

thông. Các sông suối này cung cấp phù sa, nước tưới cho trồng trọt và thực

phẩm cho nhân dân Lào. Sông chính là sông Mê Kông, là con sông lớn nhưng

chưa được phát huy, chưa được sử dụng hết giá trị kinh tế của nó vì còn đang ở

trạng thái hoang sơ. Trong tương lai những con sông ở Lào là nguồn cung cấp

năng lượng thủy điện mạnh. Các nhà địa lý hiện nay chia nước Cộng hoà Dân

chủ Nhân dân Lào thành 4 vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, Trung Lào và Nam Lào.

85

Vùng Nam Lào bao gồm các tỉnh: Chăm-Pa-Sắc, Xa-la-van, Xê-công và

At-ta-pư. 4 tỉnh phía Nam có 27 huyện, dân số khoảng 1,5 triệu người. Ở đây

địa hình chiếm phần lớn là núi (70%). Một năm có 4 tháng mùa mưa, lượng

mưa trên 1500 mm, bốn tháng mùa khô lượng mưa dưới 10mm, có 2-3 tháng

khô hạn. Các tỉnh phía Nam có các loại đất đỏ: bazan và đất núi mầu nâu vàng.

Nổi bật trong vùng này là cao nguyên Bô-lô-ven rộng 1.000.000 ha với độ cao

từ 800 đến 1.400m. Đây là một bộ phận của cả vùng cao nguyên miền Trung

Đông Dương (Nối liền với Tây Nguyên Việt Nam, Đông Bắc Campuchia và

cao nguyên Cổ-Rạt ở Đông Bắc Thái Lan) được hình thành do phun xuất núi

lửa trong thời kỳ Tân Kiến tạo. Vùng này có một lớp đất đỏ trên bề mặt đã bị

phong hóa, khá dày, có chất dinh dưỡng và độ phì nhiêu cao, nhưng nước thấm

rất nhanh và khô cũng nhanh. Sông suối trên cao nguyên không nhiều lại nằm

rất sâu so với bề mặt và mỗi năm chỉ có nước vài tháng (từ tháng 10, tháng 11).

Mùa mưa kéo dài, lượng nước lớn, đặc biệt là ở Phạc - xoong, độ ẩm cao

khoảng 80% thích hợp với việc trồng trọt các cây cối, quanh năm không cần

tưới nước, nhất là các cây ăn quả, cây cà phê, cây chè và các loại rau quả khác.

Dân địa phương thường gọi đất đây là đất trời cho. Môi trường này tạo nên loại

hình nông nghiệp đất canh tác chờ mưa vùng cao theo kiểu nương, rẫy bằng, có

thể trồng cây lương thực, các loại cây công nghiệp, cây dược liệu có giá trị kinh

tế cao. Nam Lào là nơi có nhiều đồng cỏ thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi

đàn gia súc lấy thịt và lấy sữa phục vụ dân sinh và xuất khẩu.

Với điều kiện tự nhiên miền Nam Lào nên trên thuận lợi cho việc phát

triển kinh tế nông nghiệp trồng trọt, những cây công nghiệp có giá trị kinh tế

cao. Tuy nhiên, với điều kiện tự nhiên đó cũng hình thành cho con người nơi

đây tư duy sản xuất nông nghiệp, tư duy manh mún, nhỏ lẻ, ở đây chủ yếu vẫn

tồn tại tư duy kinh nghiệm trên nền tảng kinh tế tự cung tự cấp. Đây cũng là

khó khăn trong việc hình thành và nâng cao tư duy lý luận. Trong quá trình đổi

mới được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, tư duy lý

luận của cán bộ chủ chốt nơi đây đã hình thành và cũng có những bước phát

86

triển, bước đầu đáp ứng yêu cầu tình hình thực tiễn. Mặc dù vậy thì về lâu về

dài, vẫn cần năng cao năng lực tư duy lý luận, nhất là nâng cao năng lực tư duy

lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa các tỉnh miền Nam Lào tác

động đến nâng cao năng lực tư duy lý luận hiện nay

Ở các tỉnh Nam Lào, diện tích tự nhiên là 47.000km². Đất nông nghiệp

đang sử dụng là 236.000 ha khả năng khai thác có thể tăng lên 1.100.000 ha.

Đất vườn trồng cây công nghiệp như: cà phê, hiện trồng 41.700ha; đồng thời có

vườn trồng cây ăn quả 45.638ha; hàng năm các diện tích này đều tăng dần. Về

khả năng chăn nuôi trâu, bò, dê hàng năm tăng thêm 97%. Nam Lào có 3 nhà

máy thủy điện như: Nhà máy thủy điện Xelabam ở tỉnh Chăm Pa Sắc có công

suất 5 MW với điện năng trung bình 34 GWh; nhà máy điện Xêsét ở tỉnh

Salavăn có công suất 45 MW với điện năng trung bình 181 GWh và nhà máy

điện Houayho tỉnh At-ta-pư có công suất 150 MW với điện năng trung bình

617 GWh rất thuận tiện cho phát triển kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân.

Nói chung kinh tế ở các tỉnh Nam Lào có bước phát triển tương đối nhanh so

với thời kỳ trước đây, có ngành phát triển vượt kế hoạch. Riêng ở tỉnh Chăm-

Pa-Sắc năm 2015 có giá trị hàng hóa xuất khẩu tăng 15 lần, nộp ngân sách nhà

nước tăng 6 lần, tổng số thu tất cả hơn 700 tỷ kíp.

Về giáo dục, y tế: Các tỉnh Nam Lào đều có phòng giáo dục để chỉ đạo,

lãnh đạo các trường học ở các bản làng, mỗi huyện đều có 3 đến 5 trường phổ

thông cơ sở. Về chăm lo sức khỏe, mỗi tỉnh đều xây dựng được hệ thống các

trung tâm, trạm y tế. Về giao lưu buôn bán hàng hóa, mỗi tỉnh đều có trung tâm

mua bán và một số tỉnh giáp biên có chợ biên giới để trao đổi hàng hóa phục vụ

đời sống và phát triển kinh tế.

Nhìn chung, Nam Lào vẫn là vùng kinh tế nông thôn và ở đây vẫn là địa

bàn khó khăn chậm phát triển, nhất là ở vùng sâu, vùng xa của đồng bào bộ tộc

ít người. Phương tiện giao thông đi lại hết sức khó khăn, chủ yếu là đi bộ. Kinh

tế nông thôn chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất còn lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún.

87

Ở các tỉnh Nam Lào sự thay đổi chậm chạp của điều kiện kinh tế xã hội đã đẻ

ra những tư tưởng bảo thủ, tính tư hữu nhỏ, hạn chế tính tích cực, sáng tạo của

con người. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các hình thức kinh tế ở nông

thôn có sự thay đổi, kinh tế phát triển tạo sự chuyển biến mới trong đời sống

nhân dân song chưa phát huy hết lợi thế và tiềm năng của mảnh đất và con

người nơi đây.

Các tỉnh Nam Lào có được ngày hôm nay là dựa trên truyền thống đấu

tranh, hy sinh anh dũng của biết bao con người thân yêu, công sức của nhân

dân các bộ tộc Lào mới giành được độc lập dân tộc. Các bộ tộc của các tỉnh

Nam Lào đã hy sinh không mệt mỏi, đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng

chống quân xâm lược. Sau khi giành được thắng lợi các tỉnh Nam Lào đã đi

vào ổn định xây dựng cuộc sống mới. Truyền thống văn hóa của các tỉnh Nam

Lào thể hiện ở sự đa dạng và thống nhất trong hơn 20 bộ tộc cùng sinh sống.

Trong đó có 17 bộ tộc là những cộng đồng người vốn sinh sống từ lâu đời ở

vùng này. Về cơ cấu dân tộc, từ năm 1975 về trước, vùng này có tỷ lệ các bộ

tộc thiếu số cao nhất. Tỷ lệ sinh trung bình hằng năm của các bộ tộc này còn

cao. Quá trình di dân nhằm điều hòa sự phân bố dân số trên toàn lãnh thổ đất

nước là rất cần thiết. Có được những thành tựu đó không thể không nói đến ý

nghĩa, tầm quan trọng của khâu đột phá trong tiến trình đổi mới của Đảng Nhân

dân Cách mạng Lào: Đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là tư duy lý luận về

chủ nghĩa xã hội, tư duy lý luận về đổi mới nền kinh tế từ một thành phần kinh

tế là chủ yếu sang kinh tế nhiều thành phần... Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, đòi hỏi tư duy lý luận của các bộ chủ

chốt cấp tỉnh phải tiếp tục được nâng cao.

Ở Lào, kế tục sự nghiệp và sứ mệnh lịch sử của Ðảng cộng sản Ðông

Dương do Hồ Chí Minh sáng lập, từ khi thành lập (22/3/1955) đến nay Ðảng

Nhân dân Cách mạng Lào luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin,

lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, vận dụng và

phát triển một cách sáng tạo vào những điều kiện cụ thể ở Lào.

88

Hiện nay, khoa học Mác - Lênin được giảng dạy ở các Trường Chính trị

và Hành chính nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào gồm các môn chính:

Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa

học, Xây dựng Ðảng Nhân dân Cách mạng Lào, Dân vận, Hành chính. Khác

với môn học lý luận Mác - Lênin ở Việt Nam, ở các trường Chính trị và Hành

chính Lào còn bao gồm cả môn Xây dựng đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Dân

vận và Hành chính. Ðây là các bộ môn bắt buộc với thời lượng chiếm 80%

tổng quỹ thời gian đào tạo của một khóa học. Trong khuôn khổ luận án, chúng

tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên

hệ cao cấp chủ yếu thông qua việc giảng dạy và học tập ba môn khoa học Mác-

Lênin cơ bản là: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ

nghĩa xã hội khoa học.

Với những đặc điểm về kinh tế - xã hội - văn hóa nên trên của nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào cho thấy, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay vừa khó khăn vừa

thuận lợi. Khó khăn là do điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp kém, sản xuất nhỏ

lẻ hình thành tư duy siêu hình, tư duy kinh nghiệm từ trong truyền thống, thay

đổi lối tư duy này của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay sẽ rất

khó khăn. Còn thuận lợi ở chỗ, từ khi thành lập Đảng đến nay, Ðảng Nhân dân

Cách mạng Lào luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ

nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Do

vậy cần phát huy thuận lợi và hạn chế khó khăn.

3.2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY

3.2.1. Thực trạng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận

chính trị của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay

3.2.1.1. Thành tựu

- Số lượng cán bộ được đào tạo về chuyên môn

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Miền Nam Lào là thế hệ những cán bộ

được tôi luyện, trưởng thành qua thử thách, có ý chí vượt qua mọi khó khăn,

89

gian khổ, là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy đổi mới.

Bản lĩnh của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh thể hiện ở chỗ, họ luôn nhất quán và tin

tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-

vi-Hản, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, luật của nhà

nước. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh,

ngay từ những năm qua các cấp tỉnh thành lập và đi vào hoạt động, Đảng bộ

các cấp tỉnh đã quan tâm đúng mức đến công tác cán bộ với nhiều chính sách

đúng đắn, đặc biệt coi trọng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận

chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt chuyên nghiệp về tác phong, tinh

thông về nghiệp vụ từ huyện đến cấp tỉnh, chú trọng đổi mới đồng bộ công tác

cán bộ, nhất là đổi mới tư duy, cách làm từng khâu, từng phần việc.

Từ năm 1975 đến nay, Đảng và Nhà nước đã tập trung đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp cả về số lượng và chất

lượng thể hiện qua số lượng cán bộ đang giữ chức vụ cấp Trung ương quản lý

là 1.383 người, so với năm 2006 là tăng lên 321 người, người có trình độ đại

học tăng lên từ 456 người trong năm 2006 lên 820 người năm 2012. Cán bộ tốt

nghiệp lý luận từ cao đẳng trở lên có 951 người so với năm 2006 là tăng lên

358 người. Đối với độ tuổi cũng dần chuyển theo hướng trẻ hóa. Riêng với cán

bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền quản lý của Trung ương độ tuổi thấp nhất là

39 tuổi chiếm 0,28%; từ 40 - 49 tuổi có 193 người chiếm 21,61%; từ 50 -59

tuổi có 887 người chiếm 64,13%; từ 60 tuổi trở lên có 299 người chiếm

21,61%. Trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng được nâng cao, phần lớn họ có

khả năng đảm nhiệm trọng trách chỉ đạo, lãnh đạo, có kinh nghiệm trong công

tác thực tế, có trách nhiệm đối với công tác được giao [77, tr.188].

Lào đã hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế trong lĩnh vực giáo

dục đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và

nhân dân. Cụ thể, Nam Lào đã liên kết, đào tạo nhân lực với Việt Nam, Nga,

Thái Lan, Trung Quốc, Cam phu chia... Tính đến nay, Lào đã có lưu học sinh

đang học tại hơn 34 nước, trong đó tại Việt Nam là nhiều nhất. Hiện nay, tỷ lệ

90

người lớn biết chữ được giải quyết, tỷ lệ nhập học của các cấp có xu hướng

tăng lên. Qua phong trào học tập ở các bậc học đã làm cho trình độ hiểu biết,

học vấn, chuyên môn, trình độ tay nghề, khoa học - kỹ thuật của người Lào

không ngừng tăng lên.

Thời gian qua, miền Nam Lào đã từng bước xây dựng được đội ngũ cán

bộ chủ chốt có trình độ, có năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ

cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh thích nghi hơn với cơ chế thị trường và tích lũy

được thêm nhiều kinh nghiệm. Đến nay, cơ bản đội ngũ cán bộ chủ chốt của

các cấp tỉnh ở miền Nam Lào có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị được

nâng lên đáng kể so với những năm qua, năng lực của họ đã có thể thực hiện

các nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao các mặt công tác, khởi dậy được

nguồn lực của Nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, dân chủ ở các cấp tỉnh đời

sống Nhân dân được nâng lên đáng kể, góp phần vào sự nghiệp phát triển

kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng chính quyền, đảm bảo an ninh, chính trị, quốc

phòng ở các cấp tỉnh.

Qua bài tổng kết của các tỉnh miền Nam cho thấy, số cán bộ chủ chốt 4

cấp tỉnh đến năm 2018, tổng số 3,543 cán bộ người, nữ 1,171 người, có 2,352

người có trình độ học vấn từ đại học trở lên, đạt được 66%. Về về trình độ quản

lý Nhà nước và trình độ lý luận chính trị, đã có 1,996 người đào tạo, trong đó

trình độ sơ cấp có 238 người, trình độ trung cấp là 655 người và 1,103 người có

trình độ cao cấp lý luận chính trị [95; 96; 97; 98].

Về trình độ lý luận chính trị:

Hiện nay đại đa số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đã được đào tạo một cách

chính quy, trình độ lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đã được nâng

lên một tầm cao mới.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở các cấp tỉnh miền Nam Lào đã được

đào tạo và bồi dưỡng lý luận chính trị tại nhiều trung tâm, cơ sở đào tạo như:

Trường Chính trị Viêng Chăn, Trường Chính trị Chăm-Pa-Sắc, trường chính trị

Tỉnh Ắt-Ta-Pư, Trường chính trị tỉnh Sa-La-Văn, Trường chính trị tỉnh Sê-

91

Kong, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Lào và các trường ở Việt

Nam, Trung Quốc.

+ Về bản lĩnh chính trị: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đều là những

người được rèn luyện và thử thách trong hoạt động thực tiễn, là những người

tích cực, có tính tiền phong gương mẫu trong quá trình làm việc, làm gương

cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp tỉnh miền Nam Lào là những

cán bộ có bản lĩnh vững vàng, kiên định với con đường chủ nghĩa xã hội,

không chấp nhận đa nguyên đa đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách

mạng mà Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lựa chọn. Các cán bộ đều có phẩm

chất đạo đức tốt và ý thức cao trong công việc. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh phần

lớn đã thấm nhuần đường lối, tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng của Chủ tịch Cay-xỏn Phôn-vi-Hản và chủ trương, chính sách của

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, chính sách pháp luật của nhà nước Lào và các

chính sách của tỉnh. Trong cách nghĩ, cách làm đã có sự đổi mới, có sự vận

dụng một cách sáng tạo, linh hoạt của tri thức khoa học vào trong việc chỉ đạo

thực hiện đường lối và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh.

Từ thực tế trên cho thấy, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay tương đối đều, kết hợp với quá trình rèn

luyện, phấn đấu năng lực tư duy lý luận đạt đến một trình độ nhất định. Do đó,

họ có khả năng nắm bắt được thực chất quan điểm, đường lối của Đảng, chủ

trương, chính sách pháp luật của Nhà nước trong mối quan hệ khăng khít với

những vấn đề đặt ra tại nơi công tác. Từ đó họ đã biết huy động kiến thức vốn

có của mình, năng động sáng tạo để giải quyết một cách một cách tốt nhất

những vấn đề nảy sinh ở các tỉnh miền Nam Lào. Trong tư duy của đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh, lối tư duy tập trung, bao cấp, thụ động chờ đợi mệnh lệnh,

chi thị của cấp trên đã dần mất đi và thay vào đó là tính năng động, sáng tạo, sự

nhạy bén trong các trong các hoạt động của cấp tỉnh nhất là họ đã nắm vững

công tác giải phóng mặt bằng để thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư, công tác

92

cải cách hành chính… Theo báo cáo của ban tổ chức cấp tỉnh miền Nam Lào

về cán bộ chủ chốt có đánh giá: "Nhìn chung đã thích ứng với sự phát triển của

cấp tỉnh, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Nhiều đồng chí đã khắc

phục khó khăn, năng động, sáng tạo, biết vận dụng nhưng tri thức khoa học vào

chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của cấp tỉnh" [95, tr.10].

Bên cạnh trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị từng bước

được nâng cao, đa số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đều trưởng thành tại chỗ nên họ

hiểu rất rõ tình hình của tỉnh mình quản lý, hiểu được tâm tư, nguyện vọng

chính đáng của Nhân dân, hiểu rõ tiềm năng, lợi thế của cấp tỉnh. Mặt khác, họ

là những người có vai trò lãnh đạo, vừa là người lăn lộn trong hoạt động thực

tiễn, trực tiếp nắm bắt và xử lý nhiều vấn đề cụ thể trong nhiều tình huống phát

sinh, đột xuất. Qua đó, họ tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong

phú, tạo khả năng phát hiện những vấn đề tại cấp tỉnh và có các giải pháp, giải

quyết kịp thời. Điều này, vừa phản ánh trình độ, năng lực tư duy kinh nghiệm

của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào vừa ưu điểm, là thế mạnh

để người cán bộ chủ chốt có được những định hướng, xây dựng kế hoạch phù

hợp với thực tiễn của cấp tỉnh. Tuy nhiên, nếu không được kết hợp với năng

lực tư duy lý luận với cái nhìn bao quát tổng thể của người lãnh đạo thì nó sẽ

làm hạn chế tầm nhìn bao quát, chiến lược, một phẩm chất cần có và nhất thiết

phải có của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Từ thực tế cho thấy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận

chính trị của cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh của miền Nam Lào trong những năm

qua về cơ bản đã được nâng cao, điều này trong dự thảo báo cáo của Đại hội

Đảng bộ các cấp tỉnh miền Nam Lào, có một số tỉnh như tỉnh Chăm Pa Sắc Đại

hội đảng ủy tỉnh lần VII, nhiệm kỷ 2015 - 2020 có đánh giá "Đội ngũ cán bộ

của cấp tỉnh đủ về số lượng, được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,

cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao" [115, tr.25].

Lập trường tư tưởng chính trị, phong cách sống và lao động của cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh ở Nam Lào trong những năm qua ổn định, có tinh thần tình

93

nguyện vì cộng đồng, đại bộ phận tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Quan tâm hơn đến các giá trị văn hóa truyền thống, bám sát

thực tiễn địa phương hơn, có ý chí vươn lên, trăn trở nhiều hơn với sự nghèo

nàn của người dân. Biết tiếp thu và ứng dựng công nghệ mới của khoa học hiện

đại, gắn bó với quê hương, đất nước, có ý chí vươn lên làm giàu chính đáng,

tích cực học tập, lao động sáng tạo. Tất cả những biểu hiện đó thể hiện năng

lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Laaof được nâng cao

rõ rệt trong thời kỳ đổi mới.

3.2.1.2. Một số hạn chế

Trước yêu cầu thực tiễn, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn nhiều hạn

chế, bất cập như: cơ cấu cán bộ chưa đồng bộ, trình độ, phẩm chất, năng lực

lãnh đạo của một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu đòi

hỏi của thực tiễn. Trong tổng số 3,543 cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đạt trình độ

trung học phổ thông, nhưng có tới trên 80% là mới hoàn thành chương trình

trung học phổ thông tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, hệ bổ túc, nên

chất lượng chuyên môn thấp. Do đó, nhiều thành tựu của khoa học công nghệ

chưa được vận dụng phổ biến ở các tỉnh Nam Lào. Khi đứng trước yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đứng trước cuộc cách mạng khoa học, công

nghệ thông tin, họ không thể tránh khỏi những lung túng, bỡ ngỡ; Việc tiếp cận

về ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào trong sản xuất - kinh doanh,

cũng như trong công tác quản lý Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh hạn chế.

Mặt khác, do đặc điểm kinh tế - xã hội, nghệ nghiệp của các cấp tỉnh khác

nhau: Tỉnh Chăm-pa-sắc chủ yếu là phát triển kinh tế xuất khẩu, nhập khẩu và

du lịch, trung tâm giáo dục ở miền Nam Lào, Tỉnh Át-ta-pư, Sa-la-văn, Sê-

kong chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và sản xuất thủy điện. Với

đặc điểm kinh tế - xã hội và cơ cấu ngành nghề của các tỉnh có những nét riêng,

thế mạnh riêng, vấn đề đặt ra là phải có đội ngũ cán bộ cấp tỉnh đáp ứng yêu

cầu của từng, nhất là họ phải có năng lực chỉ đạo thực tiễn, có trình độ chuyên

94

môn phù hợp với đặc điểm kinh tế, cơ cấu ngành nghề của từng tỉnh để chỉ đạo

nhân dân phát triển kinh tế - xã hội phù hợp.

Trong thực tế trình độ cán bộ chủ chốt của các tỉnh được nâng cao,

song lại tập trung nhiều vào nâng cao về trình độ lý luận chính trị và quản lý

nhà nước, số cán bộ được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ về

kinh tế, quản lý kinh tế còn hạn chế. Trong tổng số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

đến năm 2018, có 66% cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị và quản

lý Nhà nước, nhưng chỉ có 10% có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; còn

44% số cán bộ chưa có bằng đại học. Vấn đề bất cập giữa trình độ chuyên

môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị hiện nay là một vấn đề ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh hiện

nay [96; 106; 107; 108].

Trong khi đó, thực tế cho thấy còn không ít cán bộ chủ chốt của cấp

tỉnh ở miền Nam Lào có tâm lý ngại học hỏi, không chủ động tiếp cận và sử

dụng những tri thức tiên tiến mặc dù những kiến thức văn hóa, khoa học mà

họ tiếp thu được trong quá trình học tập trước đây đã trở nên lạc hậu trước

sự biến đổi và đòi hỏi của hiện thực khách quan. Tư tưởng bảo thủ đã khiến

cho một bộ phận cán bộ có lòng tin bất di bất dịch vào tính chuẩn xác của

những tri thức nhất thành bất biến trong hoạt động trí tuệ, thiên về tính hình

thức máy móc trong hoạt động tư duy, đề cao kinh nghiệm sẵn có của mình;

tư tưởng của họ cho rằng học thêm là phù phiếm, lãng phí; nếu bắt buộc học

theo tiêu chuẩn cán bộ hiện nay thi học cho có học, hoàn thiện bằng cấp, đủ

thủ tục… chính vì tâm lý này, nên họ chưa cập nhật được những tri thức mới

trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và bùng nổ công nghệ thông tin, đây

là thực tế mà chính bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt của các cấp tỉnh cần

nhận rõ để khắc phục có hiệu quả. Bài báo cáo Đại hội ban chấp hành đảng

bộ cấp tỉnh Chăm-Pa-Sắc khóa thứ 5 của Đại hội Đảng tỉnh lần VII, đã đánh

giá "Công tác cải cách thủ tục hành chính hiệu quả chưa cao; chất lượng đội

95

ngũ cán bộ, công chức, nguồn nhân lực một số lĩnh vực còn thấp so với yêu

cầu" [104, tr.15].

Trước đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, thực trạng trình độ học vấn, chuyên

môn của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào còn nhiều bất

cập; những kiến thức mới như công tác quản lý đô thị, pháp luật, tin học, ngoại

ngữ còn là cai thiếu, cái yếu phổ biến của đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh và công

tác cán bộ cần phải nhìn nhận một cách cụ thể và nghiêm túc, điều này ảnh

hưởng tiêu cực đến năng lực tư duy lý luận của họ. Bởi vì, năng lực tư duy lý

luận mặc dù có cơ sở tự nhiên là hoạt động tâm sinh lý thần kinh của con

người, nhưng cơ sở chủ yếu quyết định nhất vẫn là yếu tố xã hội, mà ở đó sự

tiếp thu các giá trị văn hóa, khoa học và sự thể nghiệm chúng một cách tích

cực, chủ động và tự giác là nhân tố trực tiếp tạo ra và phát triển năng lực tư duy

cho chủ thể. Trong tính tổng thể ta có thể đi đến nhận định tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ chủ chốt của cấp tỉnh hiện nay còn rất yếu so với đòi hỏi phải

phát triển của cấp tỉnh hiện nay.

Nói chung những hạn chế yếu kém của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

trong cả nước theo bài báo cáo Đại hội Đảng nhân nhân cách mạng Lào lần thứ

X chỉ rõ những hạn chế trong tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh: (1)

Một số cán bộ dao động, giảm sút niêm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác

- Lênin và hoài nghi đường lối mới của Đảng. Chẳng hạn, không đột phá để

biến đổi tư duy hiện đại và sự triển khai nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X của

Nhân dân Cách mạng Lào và nghị quyết khác đã chuyển đổi thành các chương

trình và sự án chi tiết chưa được rõ ràng và không hợp tác với khả năng bản

thân mình. (2) Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình

trạng vừa thừa, vừa thiếu. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý

chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới… nhiều cán bộ lười học, lười nghiên

cứu, một số học chỉ cốt để lấy được bằng cấp [114, tr.62].

96

3.2.2. Thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt ở

miền Nam Lào hiện nay

3.2.2.1. Một số thành tựu

Trong 30 năm đổi mới vừa qua, tỉnh uỷ các tỉnh phía Nam Lào đã ban

hành quy chế và từng bước thể chế hoá công tác cán bộ, giúp cho việc quản lý,

quy hoạch, đào tạo, đánh giá, nhận xét, bố trí, huấn luyện và sử dụng cán bộ

các cấp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Cụ thể là các tỉnh đã đề ra, xây dựng

nội dung kế hoạch, xây dựng và củng cố tổ chức các cấp uỷ Đảng, xây dựng

chi bộ Đảng vững mạnh. Từ đó tạo ra cơ sở thực tiễn cho việc cụ thể hoá từng

bước và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình. Nhiều

cán bộ chủ chốt các tỉnh phía Nam Lào đã có sự nỗ lực trong nghiên cứu học

tập và hoạt động thực tiễn, công tác với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định

mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, thịnh vượng và chủ nghĩa xã

hội. Hầu hết các cán bộ đều có ý thức trách nhiệm, tính thật thà, trung thực, có

đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, đoàn kết, gắn bó nhân dân, chủ động tích

cực trong triển khai chủ trương chính sách, pháp luật; mạnh dạn chuyển đổi cơ

cấu kinh tế,... Đây là thước đo hoạt động thực tiễn của cán bộ chủ chốt ở miền

Nam Lào hiện nay.

Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội,

với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo được những tiền

đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự đổi mới đất nước đã có tác động mạnh mẽ tới sự

phát triển của các cấp tỉnh đã có sự nỗ lực vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã

hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Chính những sự thay đổi đời sống kinh tế -

xã hội một mặt tác động vào nhận thức, tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh, mặt khác lại đặt ra những yêu cầu mới, cấp thiết, đòi hỏi đội ngũ cán bộ

này phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy. Chính đội ngũ cán bộ này xuất

thân trong những giai cấp, tầng lớp lao động, họ hiểu hơn ai hết cuộc sống của

97

người dân, mơ ước của người lao động. Họ lại được Đảng và Nhà nước quan

tâm đào tạo, bồi dưỡng. Bởi vậy, họ có trách nhiệm vận dụng những kiến thức

đã được học vào lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển cấp tỉnh mình.

Do được rèn luyện, phấn đấu trực tiếp trong môi trường cơ sở nên cán bộ

chủ chốt cơ sở cấp tỉnh trong những năm qua đã có năng lực nhất định trong

việc quán triệt, vận dụng và lãnh đạo thực hiện các chủ trương, chính sách của

Đảng, vào việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của cấp

tỉnh. Biểu hiện rõ nét là họ đã chuyển đổi tư duy phát triển kinh tế, tư duy quản

lý Nhà nước, sớm thích nghi với chuyển đổi mô hình từ chính quyền nông thôn

lên chính quyền cấp tỉnh; có khả năng nắm bắt được thực chất quan điểm,

đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong

quan hệ khăng khít với bản chất của các vấn đề đặt ra ở cấp tỉnh. Họ thấy rõ

mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế với giải quyết

những vấn đề văn hóa, xã hội, đã thấy được nhiệm vụ của từng giai đoạn trong

tính tổng thể của một quá trình phát triển, gắn sự phát triển của cấp tỉnh đưa ra

thể hiện sinh động việc cụ thể hóa đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước cũng như năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, góp phần vào kết

quả, thành tích chung của các cấp tỉnh trong năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh

tế của các cấp tỉnh đạt bình quân 7% năm; từ năm 2016 trên địa bàn các cấp có

250 doanh nghiệp vào đầu tư, đến năm 2018 đã có trên 500 doanh nghiệp hoạt

động. Văn hóa - xã hội, các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo; đời sống

vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao, tỷ lệ hộ người nghèo năm

2018 còn 5% năm. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội giữ vững.

Do mạnh dạn trong việc tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt các

cấp, trong đó chủ yếu là cán bộ cấp tỉnh, cấp trực tiếp là cầu nối giữa trung

ương và địa phương mà kinh tế - xã hội Lào trong những năm gần đây phát

triển vượt bâc.

Qua khảo sát thực tế, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đã có sự năng

động, nhạy bén, chỉ đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cấp tỉnh theo

98

hướng phát triển các cấp tỉnh bền vững; xác định chức năng, nhiệm vụ chính

của chính quyền cấp tỉnh là làm tốt công tác quản lý các cấp tỉnh, cải cách thủ

tục hành chính. Nhiều cán bộ đã dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,

dược biểu hiện bằng những kết quả cụ thể:

+ Trong công tác quản lý Nhà nước, công tác cải cách hành chính được

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh coi là khâu đột phá trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu

lực quản lý Nhà nước cấp tỉnh. Chủ trương xây dựng và nâng cao chất lượng

đội ngũ cán công chức có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn đáp ứng

yêu cầu công việc.

+ Trong phát triển kinh tế, tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh

có sự chuyển biến tích cực, họ đã coi trọng ứng dụng các thành tựu khoa học,

kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất kinh doanh; đồng thời đã coi trọng việc tổ

chức lại sản xuất và phát huy các lợi thế, tiềm năng lợi thế của cấp tỉnh, Mặc

dù, diện tích đất sản xuất nông nghiệp còn nhiều, nhưng việc tiếp tục ổn định

sản xuất nông nghiệp, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của Nhân dân là

điều trăn trở đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt của các cấp tỉnh này. Song, với

tính năng động, sự vận dụng nhạy bén két hợp với tranh thủ huy động các

nguồn lực của Nhà nước và Nhân dân, vấn đề sản xuất nông nghiệp của các

tỉnh tiếp tục được quan tâm với chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển bền vững gắn với bảo

vệ môi trường. Tiếp tục chính sách hỗ trợ để duy trì, chuyển đổi sản xuất nông

nghiệp theo hướng cấp tỉnh sinh thái, quy hoạch các cùng sản xuất đưa các loại

cây trồng, chăn nuôi, phát triển mô hình trang trại, gia trại tổng hợp; đẩy mạnh

nuôi trồng. Chú trọng đào tạo nghề để chuyển bớt lao động từ lĩnh vực nông

nghiệp sang lĩnh vực khác. Thực hiện mối quan hệ sản xuất giữa chính quyền,

hộ gia đình và doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực nông nghiệp các cấp tỉnh theo

hướng hiệu quả, cùng có lợi, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư

vào lĩnh vực nông nghiệp. Kết quả sự đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh

99

đạo đó là sự thay đổi nổi bật nhất chính là hạ tầng, kiến trúc các cấp tỉnh, các

công trình, dự án cấp tỉnh, hạ tầng khung của các cấp tỉnh đã được định hình

một cách rõ nét; hệ thống đường giao thông, điện, nước sạch đảm bảo cho

100% cho hộ sử dụng. Bên cạnh việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, các công trình

phục vụ đời sống tinh thần, tâm linh của người dân cũng đã được trung tu, xây

dựng lại. Đời sống kinh tế của người dân cũng có rất nhiều thay đổi.

+ Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Một trong những nổi bật là cán bộ

chủ chốt các cấp tỉnh đã nâng cao nhận thức, chỉ đạo và thực hiện xây dựng

nếp sống văn minh cấp tỉnh, bảo đảm vệ sinh môi trường xanh - sạch - đẹp

trên địa bàn.

Trên cơ sở được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị,

trình độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn, nhất là được trang bị phương pháp tư

duy lý luận, tư duy biện chứng mác xít, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh từng

bước hình thành tư duy biện chứng khoa học. Thực tế cho thấy, họ đã coi trọng

nắm thực chất của vấn đề, tính tổng thể, toàn diện của chủ trương, chính sách

cũng như thực tế của cấp tỉnh. Trong đề xuất chủ trương, giải pháp một vấn đề,

lĩnh vực nào đó ở các cấp tỉnh, họ đã chú trọng tìm nguyên nhân của tình hình,

phát hiện những "tình huống có vấn đề", tức là bước đầu họ đã cố gắng tìm

mâu thuẫn của sự vật để giải quyết.

Cùng với những mặt đạt được trên, đội ngũ cán bộ chủ chốt của các cấp

tỉnh đã quan tâm đến công tác xây dựng Đảng vững mạnh; thực hiện nghị

quyết hội nghị của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa thứ X về xây dựng

Đảng hiện nay; đẩy mạnh đấu tranh, phòng chống tham nhũng và tiêu cực xã

hội; coi trọng và xác định công tác cái cách thủ tục hành chính là đánh giá hiệu

quả hoạt động của chính quyền trong phục vụ Nhân dân, thực hiện quy chế dân

chủ ở cấp tỉnh, hạn chế tính độc đoán chuyên quyền, gia trưởng trong công tác

lãnh đạo, quản lý [114].

100

3.2.2.2. Một số hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm thì năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước của đội ngũ cán bộ chủ chốt

các cấp tỉnh còn nhiều hạn chế, một số nơi việc tuyên truyền, phổ biến các chủ

trương, đường lối, chính sách của cấp trên xuống cơ sở không kịp thời, đầy đủ;

việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cơ sở còn chậm; giải quyết

công việc còn nhiều sai sót, dẫn đến việc khiếu nại…. Ngoài ra, còn một bộ

phận cán bộ chủ chốt thiếu trách nhiệm với công việc, làm việc theo kiểu cầm

chừng, trông chờ, ý lại vào cấp trên. Ở một số tỉnh, một số cán bộ chủ chốt

chưa thực sự dựa vào pháp luật, đôi khi còn giải quyết công việc theo ý muốn

chủ quan, việc ứng xử với Nhân dân, với cộng đồng còn nặng về tập quán, thói

quen, tình cảm; tư tưởng dao động, không dám làm việc trong những thời

điểm. Về nguồn gốc, do cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh đều là người dân của tỉnh

họ làm ăn sinh sống tại của tỉnh, có quan hệ dòng họ, gia độc, hàng xóm láng

giềng với dân làng, có lợi ích và gắn bó vói làng về mọi mặt; chính trị, kinh tế,

văn hóa, tình cảm và sinh hoạt trong đời sống cộng đồng, dẫn đến tư duy của

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn bị chi phối bởi quan hệ họ hàng thân tộc, mang

thói quen cộng đồng làng huyện, quen xử lý công việc theo kiểu gia đình, dẫn

đến vi phạm nguyên tác quản lý, bất chấp luật pháp, xuê xoa nể nang; nhất là

trong công tác quản lý quy hoạch, quản lý trật tự xây dựng đang là vấn đề khó

khăn và phức tạp, không phép, không xử lý nghiêm túc theo quy định; cũng

chính vì cảm tính nên đôi khi một số lãnh đạo chủ chốt các cấp tỉnh còn đánh

giá con người theo thân quen mà bỏ qua năng lực, thực chất, bản chất của cán

bộ, công chức; trong quan hệ, đôi lúc chỉ chú ý nhiều tới mặt đạo đức mà ít chú

ý tới mặt năng lực, những cái đó phần nào còn ảnh hưởng rơi rớt của tư duy

truyền thống; tâm lý bình quân cào bằng đã làm cho tính chủ động, tích cực của

từng cán bộ bị kìm hãm bởi phương thức bình quân trong phân phối lợi ích,

người có năng lực, người giỏi sẽ chán nàn, giảm nhiệt tình, sáng tạo, người

101

kém và lười biếng thì ý lại, không chịu vận động, nó ngăn cản và hạn chế năng

lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay.

Những hạn chế trong phát triển kinh tế ở phía Nam Cộng hoà Dân chủ

Nhân dân Lào trong những năm qua cho thấy, năng lực tư duy lý luận của các

bộ chủ chốt cấp tỉnh Nam Lào chưa được nâng cao phù hợp với nhu cầu thực

tiễn. Khả năng tổ chức thực tiễn (cụ thể ở đây là thực tiễn phát triển kinh tế)

còn nhiều hạn chế, bất cập.

3.2.3. Thực trạng năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay

3.2.3.1. Một số thành tựu

Lý luận gắn liền với thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của

chủ nghĩa Mác - Lênin. Khả năng dự án báo có chính xác hay không là tùy

thuộc vào khả năng nắm bắt thực tế của các cấp tỉnh, khả năng tổng kết thực

tiễn ở cấp tỉnh và khả năng vận dụng, chỉ đạo sáng tạo chủ trương, đường lối

của Đảng vào cấp tỉnh. Chính là ở đây, năng lực tư duy lý luận của người cán

bộ chủ chốt các cấp tỉnh thể hiện rõ nét nhất.

Tổng kết thực tiễn là một công việc quan trọng trong tiến trình lãnh đạo,

quản lý, không có tổng kết thực tiễn cách mạng thì không có lý luận cách

mạng, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Chỉ có

tổng kết thực tiễn rút ra bài học kinh nghiệm chúng ta mới thấy được sự thành

công hoặc chưa thành công, thấy được cái hay, cái dở về công việc mình làm

cũng như thấy rõ khuyết điểm của nó.

Qua khảo sát đánh giá, công tác tổng kết thực tiễn của các cấp tỉnh trong

thời gian qua là khá tốt, rất nhiều kinh nghiệm thực tiễn khi các cấp tỉnh thực

hiện chuyển đổi mô hình quản lý mới, rất nhiều kinh nghiệm tổng kết thực tiễn

được đánh giá cao và nhân rộng như: Mô hình dân vận chính quyền trong công

tác giải phóng, để thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp, nông nghiệp,

thương mại - dịch vụ, có quy hoạch trồng cây, chăn nuôi, có giá trị cao, Vì vậy,

102

đánh giá những gì đã làm được và chưa làm được một cách đúng đắn, khách

quan để đề ra phương hướng một cách phù hợp là công việc không hề đơn

giản, đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ngoài sự nhiệt tình, trách nhiệm và

có phẩm chất đạo đức cách mạng thì phải có cả năng lực cách mạng mà trước

hết là năng lực tư duy lý luận. Với những ưu điểm trên cùng kết hợp với quá

trình học tập, tự rèn luyện trong thực tiễn công tác, năng lực tư duy lý của

người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đã có một phát triển nhất định. Về năng lực tổ

chức thực tiễn, cơ bản đội ngũ cán bộ chủ chốt của cấp tỉnh có bước chuyển

biến quan trọng, nhiều cán bộ đã tỏ rõ năng lực vận dụng chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh thực tiễn của tỉnh cơ sở

mình một cách phù hợp. Một số các cấp tỉnh, cán bộ đã có ý tưởng và mạnh

dạn thực hiện liên kết với các nhà khoa học, các doanh nhân để tìm ra những

giải pháp phát triển thế mạnh của cấp tỉnh. Chính vì vậy, những năm qua, việc

nhận thức và vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn ngày

càng có hiệu quả hơn.

Trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn người

cán bộ lãnh đạo đã chủ động, sáng tạo và khách quan hơn; họ đã hình thành

được năng lực nắm bắt bản chất của lý luận, của chủ trương, đường lối, nhạy

bén, chính sách hơn trong việc phát hiện những vấn đề mới nảy sinh; dự báo

mang tính khoa học, khách quan và toàn diện hơn trong việc xây dựng các

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các cấp tỉnh. Thực tế với những

ưu điểm trên, nhất là qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội,

quốc phòng - an ninh, Đảng bộ cấp tỉnh ở miền Nam Lào tổng kết thực tiễn,

phát triển tư duy lý luận phục vụ việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của

các cấp tỉnh đến năm 2020.

Đối với cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào, thường thì sau 6 tháng

thực hiện nghị quyết của tỉnh phải sơ kết và sau 1 năm thực hiện phải tiến hành

tổng kết việc thực hiện nghị quyết. Qua đó, khái quát những vấn đề đã triển

103

khai, đã làm được hoặc chưa làm được. Chỉ ra nguyên nhân thành công hoặc

thất bại. Nhất là chỉ ra nguyên nhân chủ quan, khách quan của thất bại để trên

cơ sở đó bổ sung, điều chỉnh những mục tiêu, nhiệm vụ trong năm sau. Quá

trình đó góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh thời gia qua.

3.2.3.2. Một số hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm trên, trong thực tế vấn đề này mới chủ yếu dừng

lại ở mức độ nhận thức. Bởi lẽ, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở

miền Nam Lào chưa cao, chủ yếu họ trưởng thành trong hoạt động thực tiễn và

trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh này từ nhiều nguồn, do

vậy, trình độ lý luận, năng lực tư duy còn hạn chế. Do vậy còn hạn chế về tư

duy lý luận, nên trong giải quyết công việc, họ vẫn bị ảnh hưởng của tư duy

kinh nghiệm, cho rằng kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định thành công.

Ngoài ra, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường chưa đồng bộ và chưa hiện đại

nên một bộ phận không nhỏ cán bộ cấp tỉnh bị suy thoái về phẩm chất, đạo

đức, lối sống.

Phải khẳng định rằng: tư duy kinh nghiệm có những mặt mạnh riêng, nó

góp phần thành công trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái

quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm thì dẫn tới bệnh kinh

nghiệm chủ nghĩa. Do đó, người cán bộ lãnh đạo thường lầm tưởng rằng họ

gắn bó chặt chẽ với thực tiễn và thấu hiểu thực tiễn, nhưng thực tế rất xa với

thực tiễn, không thấy rằng thực tiễn đang vận động và biến đổi không ngừng,

điều này thể hiện chính họ là người "Một mắt sáng và một mắt mờ". Đây là vấn

đề rơi vào cán bộ chủ chốt tại một số cấp tỉnh miền Nam Lào, họ đã đánh giá

tình hình thiếu khách quan, say sưa với thành tích không thấy hết được khó

khăn phức tạp, không tính táo xác định các cấp tỉnh đang phát triển ở giai đoạn

nào, đưa ra những mục tiêu vượt quá cao so với khả năng thực tế của cấp tỉnh.

Nhiều trường hợp, do cán bộ thiếu kiến thức pháp lý, quản lý hànhh chính dẫn

104

đến tùy tiện, tắc trách, thiếu kiên quyết trong xử lý tình huống thực tiễn; trong

khí đó, có trường hợp lại do quan lieu, máy móc dẫn đến gây phiền hà cho

Nhân dân.

Bên cạnh bệnh kinh nghiệm, thì cán bộ chủ chốt cơ sở các cấp tỉnh ở

Miền Nam Lào còn bị ảnh hưởng tiêu cực bởi bệnh giáo điều, đó là những sai

lầm trong quá trình nhận thức và hoạt thực tiễn. Nó thể hiện như lối tư duy

cứng nhắc, máy móc trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chỉ thị, nghị

quyết của cấp trên, không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể, không tính đến

những mặt mạnh, mặt yếu với điều kiện thực tế của cấp tỉnh, áp dụng một cách

máy móc kinh nghiệm của cấp khác vào tỉnh mình; từ đó nó cản trở sự phát

triển của năng lực tư duy lý luận, làm trì trệ và ảnh hưởng đến sự phát triển

kinh tế - xã hội của cấp tỉnh, hạn chế đến sự chủ động, năng động sáng tạo của

cán bộ chủ chốt cơ sở. Bệnh giáo điều đang là thực tại đáng lo ngại, bởi vì nó

thường phù hợp với những người không ưa thay đổi, ngại suy nghĩ tìm tỏi,

bằng lòng với những gì mình đã có, dám chấp nhận thử thách của cuộc sống,

đòi hỏi của Nhân dân, không phản ứng kịp trước cái mới, Coi những cái đã

hình thành là chân lý bất di, bất dịch, cản trở sự gia tăng của tri thức khoa học,

dẫn đến tình trạng trí trệ trong tư duy, thoát ly khỏi hiện thực sinh động.

3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC

NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP

TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY

3.3.1. Nguyên nhân của thành tựu

Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh có sự nhạy cảm chính trị

nhất định. Khả năng đó được nâng lên thành năng lực định hướng chính trị

trong hoạt động nhận thức và tổ chức thực tiễn của họ ở các cấp tỉnh ở miền

Nam Lào.

Như trên đã phân tích, đa số cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh đã được thử

thách, rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và

105

trong quá trình xây dựng kiến thiết đất nước. Trong quá trình ấy họ đã được

giáo dục, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp của truyền thống yêu nước, cần

cù trong lao động v.v… Một số không ít người được đào tạo tương đối cơ

bản, có hệ thống cho nên đội ngũ cán bộ này có bản lĩnh chính trị vững vàng,

có ý thức trách nhiệm cao, kiên định đường lối đổi mới và định hướng xã hội

chủ nghĩa.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới, chủ trương nâng cao trình

độ nhận thức chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh thời gian qua

đã mang lại hiệu quả tích cực, thúc đẩy tính chủ động, khơi dậy mọi tiềm năng

xã hội, tạo ra những động lực mới để phát triển. Trong những năm qua, công

tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào được đặc biệt quan tâm. Theo

đó, đa số cán bộ chủ chốt ở các cấp tỉnh được đào tạo qua các chương trình

Trung cấp và cao cấp lý luận chính trị do trường chính trị của các tỉnh, để từng

bước chuẩn hóa trình độ học vấn, lý luận, qua đó nâng cao trình độ nhận thức

và năng lực tư duy đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công tác ở các cấp tỉnh miền

Nam Lào.

Với cơ cấu, từ 45 tuổi trở xuống chiếm tỷ lệ 32,86 %; từ 45 đến 54 tuổi

chiếm tỷ lệ 37,14%; từ 55 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ 30%; đội ngũ cán bộ chủ chốt

các cấp tỉnh nhìn chung là phù hợp, dễ dàng hòa nhận, có điều kiện để tiếp tục

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đủ độ chín chắn để có những kinh

nghiệm cần thiết [114, tr.68]. Trên cơ sở trình độ nhận thức và năng lực tư duy

đã được nâng lên, đội ngũ cán bộ chủ chốt đã xây dựng và thực hiện tốt các

mục tiêu phát triển về kinh tế - xã hội ở cấp tỉnh góp phần thực hiện thắng lợi

các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các cấp tỉnh những năm qua.

Công tác giáo dục và đào tạo đã được chú ý phát triển từ mẫu giáo đến

phổ thông trung học, cao đẳng và đại học. Theo bài tổng kết của sở giáo dục

các cấp tỉnh được đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục giai đoạn

106

2015 - 2020 đã đặt được kết quả đáng khích lệ. Chất lượng giáo dục và tạo

ngày càng tăng lên, số trường đạt chuẩn quốc gia và số học sinh giỏi của cấp

tỉnh tăng hàng năm. Công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

đã đạt được nhiều tiến bộ, các tuyến đường giao thông nông thôn tiếp tục được

quan tâm cải tạo. Đã giải quyết việc làm mới cho lao động; chú trọng nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2017 đạt 57,5%

tăng lên 7% so với năm 2016. Một số chỉ tiêu phục lợi khác cũng được cải

thiện. Trên 95 % số dân trong các cấp tỉnh đã được dùng nước sạch hợp về

sinh. An ninh chính trị được đảm bảo, an toàn trật tự xã hội được củng cố.

Trong quá trình thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn

nghiệp nông thôn. Điều này góp phần làm cho nhân dân trong các cấp tỉnh ở

miền Nam Lào tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi

mới đất nước.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh của miền Nam Lào có thế

mạnh về kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn. Đa số họ là những người có quá trình

công tác và trưởng thành từ thực tiễn ở các cấp.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh về cơ bản đều trưởng thành qua hoạt

động thực tiễn từ cấp tỉnh, trực tiếp nắm giữ các vị trí chủ chốt ở cấp tỉnh, một

số ít được luân chuyển, điều động từ huyện lên tỉnh, chủ yếu giữ vai trò bí thư

Đảng ủy và đã có kinh nghiệm công tác 4 tỉnh ở Miền Nam. Vì là trưởng thành

từ các cấp nên họ có sự gắn bó, gần gũi nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng

của nhân dân. Họ đã tích lũy được nhiều tri thức kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh

đạo quản lý cấp tỉnh, họ đã phải trực tiếp giải quyết những vấn đề nảy sinh trực

tiếp từ hoạt động thực tiễn, hoạt động triển khai chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước. Những điều đó phản ánh trình độ, năng lực tư duy kinh

nghiệm của người cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào, trong những

năm đổi mới đã được nâng cao phần nào. Đây là ưu điểm, là cơ sở để người

lãnh đạo có được những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn cấp tỉnh.

107

Thứ ba, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có năng lực triển khai chủ

trương đổi mới của Đảng vào việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh.

Biểu hiện rõ nét là người cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh nhanh nhạy trong

việc chuyển đổi tư duy kinh tế, sớm thích nghi với việc đẩy mạnh sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Họ đã có sự năng động,

nhạy bén trong đổi mới kinh tế như xây dựng quy hoạch phát triển nông

nghiệp, nông thôn; phát triển các làng nghề truyển thống, chuyển dịch mạnh cơ

cấu cây trồng cho phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng ở miền Nam

Lào….; mạnh dạn xây dựng, áp dụng những mô hình phát triển kinh tế mới,

phát triển ngành nghề truyền thống cũng như những ngành nghề đang có lợi thế

trên thị trường, những quy trình kỹ thuật sản xuất và chế biến tiến bộ, năng

động trong các quan hệ giao dịch kinh tế, chú trọng hiệu quả của các hoạt động

kinh tế. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, các cấp tỉnh đã tập trung chỉ đạo

các cấp tỉnh xây dựng thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp và nông

thôn mới đạt hiệu quả cao trong những năn qua.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh được sự quan tâm, chỉ đạo của

Đảng và Nhà nước.

Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986) đã đề ra

đường lối đổi mới toàn diện, là bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng trên con

đường phát triển đất nước, trong đó có công tác cán bộ được coi là trọng tâm

của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Kể từ đó, công tác bồi dưỡng, đào

tạo cán bộ đã được quy định rõ ràng, định hướng tỏn các nghị quyết của Đại

hội các cấp của Đảng trong giai đoạn tới. Sau Đại hội lần thứ VII, Bộ Chính trị

Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 08 (2007) về việc lên quy hoạch cán bộ lãnh

đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao

năng lực tư duy lý luận cho cán bộ nòng cốt, cán bộ nguồn kế cận thành hệ

thống cả ngắn hạn và dài hạn, cả trong nước và nước ngoài.

108

Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (2006) của Ðảng Nhân dân Cách

mạng Lào đã chỉ rõ, cần phải nâng cao chất lượng công tác chính trị - tư tưởng

và nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ các cấp nói chung bằng việc

quan tâm tới việc nghiên cứu và học tập lý luận Mác - Lênin. Nhiệm vụ quan

trọng nhất của công tác chính trị - tư tưởng là nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho cán bộ các cấp, xây dựng cơ sở lý luận, chính trị - tư tưởng khoa học để

định hướng đúng đắn cho các việc xác định đường lối, chính sách phù hợp với

thực tiễn phát triển của đất nước; phát huy cao độ nội lực đất nước và khai thác

các nhân tố tích cực của thời đại, của dân tộc, tiến bước vững chắc lên chủ

nghĩa xã hội; làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin và đường lối, chính sách của

Ðảng Nhân dân Cách mạng Lào giữ vai trò cung cấp tư duy lý luận cho cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh. Công tác này được tiến hành bằng nhiều hình thức, phương

pháp đa dạng, phong phú trên cơ sở tuân thủ lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, nguyên tắc xây dựng Ðảng, quy luật vận động và phát triển của xã hội.

Nghị quyết của Ðại hội IX (2011) của Ðảng Nhân dân Cách mạng Lào

cũng đề ra nhiệm vụ cần nghiên cứu và học tập tốt chủ nghĩa Mác - Lênin trong

đó có nhiệm vụ nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt các

cấp. Ðể thực hiện tốt nghị quyết Ðại hội IX(2011) của Ðảng Nhân dân Cách

mạng Lào đề ra, các trường trong hệ thống trường Chính trị và Hành chính, Ðại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề... cần thiết phải thực hiện

nâng cao chất lượng và hiểu quả giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin,

nhất là phải tích cực đổi mới nội dung, chương trình dạy và học lý luận chính

trị, đường lối của Ðảng, chính sách pháp luật của nhà nước, vận dụng sáng tạo

những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay - xỏn - Phôn - vi -

hẳn. Những chủ trương, quan điểm đúng đắn trên của Ðảng và Nhà nước Công

hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã tác động tích cực công tác giáo dục lý luận Mác

- Lênin nói chung, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh nói riêng. Nó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Ðảng và Nhà nước Lào

109

đến công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin và nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Căn cứ vào Chỉ thị nêu trên các bộ, ngành và địa phương đã có kế hoạch

xây dựng và bồi dưỡng cán bộ của mình, nâng cao trình độ chuyên môn, năng

lực tư duy lý luận các cấp, trong đó có cấp tỉnh. Việc tổ chức thực hiện Chỉ thị

góp phần làm cho đội ngũ cán bộ lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, có

tính đồng bộ, có cơ cấu dần phù hợp, có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ có

kiến thức về mặt lý luận chính trị. Nắm vững đường lối chính sách của Đảng,

có lập trường tư tưởng vững vàng, có năng lực tổ chức, có tinh thần trách

nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và hội nhập quốc tế ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.

3.3.2. Một số nguyên nhân của hạn chế

3.3.2.1. Công tác giáo dục lý luận chính trị

Một là, chương trình nội dung giáo dục lý luận còn chung chung, chưa

đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, nhu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào

coi việc học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng

lực hoạt động thực tiễn là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên và phải

được quy định thành chế độ [114, tr.61]. Quy định đó một mặt khẳng định vai

trò to lớn của việc nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, mặt khác

cũng phản ánh một tình trạng đáng lo ngại hiện nay là không ít cán bộ, đảng

viên "ngại", "lười" học tập, nghiên cứu lý luận, hoặc coi việc học lý luận như

một nghĩa vụ bắt buộc "học cho xong", cho có cái "mác" này, "bằng" kia chứ

không phải học để làm việc, để nâng cao trình độ tư duy, lý luận. Tại sao có

hiện tượng đó? Hẳn không phải chỉ vì người học. Cán bộ lãnh đạo, quản lý là

những người hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với công việc, với thực tiễn. Họ phải

suy nghĩ, trăn trở lý giải những vấn đề đa đậng, phức tạp nảy sinh trong chỉ

đạo, tổ chức, hướng dẫn thực tiễn. Nên nếu học tập lý luận, nghiên cứu lý luận

110

thực sự giúp họ "làm việc, làm người, làm cán bộ"; nếu lý luận thực sự là "cẩm

nang thần kỳ" cung cấp cho họ những kiến thức, những phương pháp tư duy,

suy nghĩ giải quyết công việc thì chắc chắn việc học tập, nghiên cứu lý luận

không còn là gánh nặng bắt buộc, mà sẽ trở thành nhu cầu nội tâm.

Năm 2004, Giám đốc Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào ra

Quyết định số 176-HVCT-HCQG, ký ngày 28/4/2004 về việc củng cố chương

trình cao cấp cấp tốc 10 tháng thành chương trình hệ cao cấp hai năm rưỡi, biên

soản tất cả các giáo trình chuẩn quốc gia của Bộ giáo dục và thể thao, số 0922-

BGD-TT, ký ngày 17/7/2001; và ra Quyết định số 399-HVCT-HCQG, ký ngày

29/7/2005 về việc xuất bản giáo trình các môn khoa học Mác - Lênin áp dụng

vào hệ cao cấp. Ðồng thời, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào đã

chỉ đạo các Trường Chính trị và Hành chính trong toàn quốc đưa vào giảng dạy

từ khóa học 2005-2006. Mới đây, năm 2011, Học viện Chính trị và Hành chính

quốc gia Lào đã chỉ đạo các khoa biên soạn lại các giáo trình bộ môn khoa học

Mác - Lênin áp dụng cho các lớp hệ cao cấp ở các Trường Chính trị và Hành

chính Lào để tạo điều kiện cho học viên tiếp thu các học thuyết với tính chủ

động, tích cực.

Như vậy, so với trước đây, việc giảng dạy và học tập các môn khoa học

Mác - Lênin thuận lợi hơn bởi giáo trình phong phú, không có tình trạng khan

hiếm như trước. Ðiều đó cũng nói lên tầm quan trọng của việc giảng dạy các

môn khoa học Mác - Lênin, cung cấp tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh ở Lào, thể hiện sự quan tâm của Ðảng, nhà nước đối với môn học và hệ

thống giáo dục chính trị và hành chính ở Lào.

Nội dung chương trình, các cấp học, bậc học, tuyển dụng, tổ chức lớp

học… của công tác giáo dục lý luận chính trị ở Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân

dân Lào nói chung và ở các cấp tỉnh ở miền Nam Lào nói riêng hiện nay vẫn có

nhiều điều bật cập. Chẳng hạn: về các cấp học, trong giáo dục lý luận chính trị

chúng ta có phân ra trình độ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, cử nhân, cao cấp.

111

Nhưng liệu đã có sự khác nhau, đã có sự phân định, phân cấp có chuẩn mực rõ

ràng về số lượng (nhiều, ít) và chất lượng (độ nông sâu) tri thức phải truyền đạt

hay chưa? Tại sao trong thực tế vẫn có chuyện (hơn nữa tương đối phổ biến)

chưa học chương trình cấp dưới vẫn có thể "được học" và "học được" chương

trình cao cấp hơn.

Hoặc về tổ chức lớp học như thế nào vẫn là vấn đề cần nghiên cứu các lớp

học dài hạn hay ngắn hạn, tập trung hay tại chức, đào tạo hay bồi dưỡng. Hiện

nay, vẫn có một tình trạng cùng một lớp học có rất nhiều đối tượng học viên

khác nhau về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, chức vụ địa vị xã hội,

lĩnh vực công tác, ngành nghề, vùng miền v.v.. Dĩ nhiên, lý luận chính trị là

khoa học mang tính đặc thù, nhưng đặc thù mấy chăng nữa thì một môn học,

một bài giảng làm sao có thể cùng một lúc đáp ứng được (về tính thiết thực và

trình độ) với tất cả người học xuất phát điểm rất khác nhau đó.

Hai là, chưa gắn giáo dục lý luận với giáo dục và rèn luyện phương pháp

tư duy khoa học, tư duy biện chứng.

Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng những tri thức lý luận mà còn là

tư duy bằng phương pháp khoa học nhận thức và sử dụng một cách tự giác. Lý

luận phương pháp có quan hệ mật thiết với nhau. Phương pháp bao giờ cũng

được xây dựng trên cơ sở một lý luận nhất định và lý luận (nhất là lý luận triết

học) trong bản thân nó đã chứa đựng phương pháp. Phương pháp tư duy khoa

học cần thiết cho cán bộ chúng ta là phương pháp tư duy biện chứng macxít.

Đó là phương pháp tư duy khoa học nhất. Trong lý luận Mác - Lênin, nhất là

trong triết học mácxít đã chứa đựng phương pháp đó.

Trước đây và ở một mức độ nào đó của hiện nay, trong giáo dục lý luận,

chúng ta thường nặng về truyền thụ kiến thức, những nguyên lý, quy luật dưới

dạng trừu tượng, ít chú ý giáo dục và rèn luyện về phương pháp: những phương

pháp được rút ra từ những nguyên lý lý luận và nhất là những phương pháp với

tư cách như một bộ môn độc lập.

112

Có phương pháp đúng đắn, người cán bộ lãnh đạo, chủ đạo thực tiễn mới

nắm được thực chất quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước, mới có khả năng phân tích, luận giải để nhận thức được tinh thần cốt

lõi của đường lối. Có phương pháp khoa học, họ mới tiếp cận được với thực

tiễn ở trình độ lý luận: tổng kết thực tiễn, khái quát thực tiễn, phát hiện ra

những "tình huống có vấn đề" nảy sinh trong thực tiễn. Thông qua đó để vận

dụng sáng tạo, để sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận, đường lối, chủ trương,

chính sách… Không phải mọi lời giải đáp cho những vấn đề thực tiễn, cuộc

sống đã có sẵn trong lý luận, trong đường lối, chính sách… Nên cán bộ lãnh

đạo, chỉ đạo thực tiễn, không những phải nắm được "cái thần" của chủ trương,

đường lối mà còn phải nắm "cái sinh động" trong thực tiễn, đưa ra những giải

pháp cụ thể trong quá trình giải quyết thực tiễn.

Phương pháp khoa học là cầu nối giữa lý luận và thực tiễn, giữa đường lối

và cuộc sống, thiếu nó khó nói đến sự vận dụng sáng tạo. Trong đào tạo cán bộ

lãnh đạo, quản lý, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn - như đã trình bày trên -

chúng ta ít quan tâm giáo dục và rèn luyện phương pháp. Chính vì vậy, trong

hoạt động lãnh đạo quản lý của họ, phương pháp (trong nhận thức, tư duy và

hành động) chỉ được hình thành và sử dụng một cách tự phát, chủ yếu trên cơ

sở kinh nghiệm. Lúc bình thường, thuận lợi hoặc đối với những công việc đơn

giản, họ tỏ ra tháo vát, năng động, khéo léo; nhưng khi gặp phải những hiện

tượng phức tạp buộc phải tư duy, suy nghĩ bằng những thao tác phân tích, khái

quát hóa, trừu tượng hóa mới lý giải, giải đáp được thì họ lại trở nên lúng túng.

Đó là một thực tế.

Giáo dục lý luận mà không chú ý đến phương pháp, học lý luận mà không

chuyển hóa được thành phương pháp thì không thể nói tới tư duy bằng phương

pháp khoa học. Chuyển ngôn ngữ lý luận thành ngôn ngữ phương pháp, giáo

dục một cách có hệ thống phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng

113

mácxít là đòi hỏi bức thiết trong đào tạo cán bộ ở Nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào nói chung và ở các cấp tỉnh miền Nam Lào nói riêng hiện nay.

Bà là, thiếu cải tiến, đổi mới cơ bản phương pháp giảng dạy và học tập lý

luận chính trị.

Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là một đòi hỏi bức thiết của

nền giáo dục hiện đại. Mục đích đổi mới nhằm kích thích tinh thần say mê, tìm

tòi học hỏi và phát huy được tính độc lập, chủ động tích cực trong tư duy suy

nghĩ của người học. Đối với giáo dục lý luận chính trị nói chung (do đặc thù

của các môn học, cũng như vị thế và mức độ hiểu biết của bản thân người học),

đặc biệt là sự đổi mới về phương pháp lại càng bức thiết hơn.

Những phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập lý luận chính trị cho

đến nay cũng là vấn đề cần phải suy nghĩ. Kết hợp thuyết trình với đối thoại, lý

luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, học cốt để vận dụng… ai cũng thấy

cần thiết nhưng thực hiện được, thực hiện tốt những phương châm đó vẫn là

nhiệm vụ đang đặt ra. Người học vẫn ở thế bị động, hiểu biết lý luận mới dừng

lại ở lý thuyết, trừu tượng không vận dụng được, hoặc tỏ ra rất lúng túng khi

vận dụng.

Chẳng hạn khi học tập, nghiên cứu về triết học. Ai cũng "nắm được" về

mặt lý thuyết cặp phạm trù nội dung và hình thức. Sự vật, hiện tượng nào cũng

có nội dung và hình thức, nội dung là gì? Hình thức là gì? Sự tác động qua lại

biện chứng ra sao, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận như thế nào trong

nhận thức và cải biến sự vật. Học lý thuyết về những vấn đề đại loại như thế ai

cũng thấy hay, cũng thấy có ý nghĩa, nhưng thử hỏi trong tư duy, trong hoạt

động công tác lãnh đạo, quản lý mấy ai đã có ý thức vận dụng và đã vận dụng

được? Đối với một công việc cụ thể, một vụ việc, một sự vật, một hiện tượng

cụ thể trong lĩnh vực công tác của mình liệu những người gọi là đã nắm được

lý thuyết lý luận đã nhận thức được, phát hiện hết được chính xác cái gì là nội

dung, cái gì là hình thức chưa? chưa nhận thức, phân biệt được những cái đó thì

114

dù có nắm được quan điểm biện chứng duy vật khoa học về mối hệ đó, không

có tác động gì trong tư duy và hành động.

Phương pháp giảng dạy và học tập lý luận nhìn chung chưa kích thích,

chưa tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, liên hệ lý luận

với thực tế công tác của mình. Hay nói cách khác là mới dừng lại ở cái "trừu

tượng" chưa đi tiếp chặng đường cần thiết "đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể".

Sinh thời, C.Mác đã phê phán các nhà kinh tế học cổ điển Anh, do không

biết đi tiếp từ cái trừu tượng đến cái cụ thể nên trong nhận thức nảy sinh hai

cực đoan: hoặc không tin vào cái trừu tượng, hoặc coi thực tế cuộc sống đều là

những trường hợp ngoại lệ. Hiện nay trong cán bộ lãnh đạo chủ chốt, quản lý

đã được đào tạo về lý luận cũng có nhiều người cho rằng, lý luận hay nhưng

không vận dụng được vào cuộc sống, lý luận cách xa với cuộc sống, thực tiễn.

Điều đó có nguyên nhân từ sự bất cập của lý luận, nhưng cũng có phần quan

trọng do trong cuộc sống, trong thực tiễn họ chưa tư duy bằng khái niệm, bằng

chính những khái niệm đã được nghiên cứu, học tập. Trong học tập lý thuyết

họ tư duy bằng khái niệm của lý luận, của khoa học, nhưng trong cuộc

sống,thực tiễn, công tác lại tư duy chỉ bằng những khái niệm hiểu theo nghĩa

thông thường (cảm tính). Chưa tư duy bằng khái niệm (khoa học) chưa thể gọi

là tư duy ở trình độ lý luận, khoa học.

3.3.2.2. Ảnh hưởng của lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều

Thứ nhất, tư duy còn mang nặng tính kinh nghiệm

Qua điều tra khảo sát đối tượng cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào

cho thấy, gần 75% cán bộ cho rằng phải giải quyết các công việc chủ yếu bằng

kinh nghiệm thực tiễn, hoặc ít ra cũng phải cần có kinh nghiệm mới giải quyết

được. Nếu đánh giá một cách toàn diện thì tư duy kinh nghiệm cũng có mặt tốt

và mặt trái của nó. Kinh nghiệm xét đến cùng là cái thu được từ hoạt động thực

tiễn, nó được thu nhận đúc rút và truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này

sang thế hệ khác. Quá trình lãnh đạo chủ chốt, quản lý rất cần có kinh nghiệm,

115

bởi chính kinh nghiệm giúp con người tránh khỏi những sai sót mà người di

trước thậm chí cả bản thân đã mắc phải. Nhưng tư duy kinh nghiệm chỉ là lối tư

duy quan sát xem xét từ thực tế lắp đi lắp lại một cách lẻ lẻ chứ chưa nqqng

đến trình độ lý thuyết, khoa học, hệ thống; chưa trở thành một lý luận chặt chẽ.

Như vậy, từ tư duy kinh nghiệm muốn trở thành tư duy lý luận cần phải có sự

khái quát hóa, chắt lọc từ những kinh nghiệm rời rạc, tản mạn.

Biểu hiện của tư duy kinh nghiệm ở chỗ người cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở

cấp tỉnh miền Nam Lào chưa có tầm nhìn xa, trông rộng, một số kế hoạch khi

đề xuất không có một chiến lược lâu dài. Chẳng hạn trong việc quy hoạch xây

dựng các cấp tỉnh, có những công trình vừa là xây dựng xong đã thấy bất cập,

bất hợp lý. Từ đó phải phá bỏ gây tốn kém công sức và tiền bạc của nhân dân.

Một số công trình lớn như xây dựng thủy lợi làm ruộng, các cấp tỉnh ở miền

Nam Lào, sau vài năm sử dựng đã cho thấy vị trí nằm không hợp lý, vì vậy, mà

tỉnh đã cho phá bỏ và xây dựng lại cái mới. Việc quy hoạch cũng cho cũng cho

thấy thiếu đồng bộ và thiếu tầm nhìn. Theo bài báo cáo chính trị của ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ các 4 tỉnh ở miền Nam Lào.

Chẳng hạn Đại hội đảng ủy tỉnh Sê kong lần thứ IX đã chỉ rõ…. Việc dự báo

và nắm tình hình kinh tế - xã hội còn chưa tốt, khi xây dựng các chỉ tiêu kế

hoạch chưa lường hết những khó khăn về kinh tế - xã hội của tỉnh nên một mục

tiêu, chỉ tiêu đề ra quá cao so với khả năng, do vậy mặc dù đã có nhiều cố gắng

chỉ đạo thực hiện, nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch… năng lực tổ chức chỉ đạo

thực hiện của một số cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh, các ngành còn hạn chế, chưa

năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, còn tư tưởng trông chờ

ý lại cấp trên. Chưa đào sâu suy nghĩ, tìm tòi, mạnh dạn đề ra các chủ trương,

giải pháp tích cực, phù hợp để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của

các cấp tỉnh [97]. Chính vì vậy, cần phải phân tích, đánh giá đúng những hạn

chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt, tìm nguyên

nhân của nó để có giải pháp khắc phục đạt hiệu quả cao nhất.

116

Thứ hai, trong hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở

miền Nam Lào còn nhiều biểu hiện của bệnh giáo điều, dập khuôn, máy móc.

Biểu hiện của các căn bệnh trên dễ nhận thấy là ở việc tiếp thu lý luận

Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôm Vi Hản, quan điểm đường lối của Đảng,

chính sách của Nhà nước một cách thụ động, thiếu tính năng động, sáng tạo của

cán bộ chủ chốt. Còn có hiện tượng trích nguyên nghị quyết của cấp trên áp

vào đơn vị mình mà không có sự vận dụng, liên hệ, không tính đến đặc điểm

riêng, phong tục văn hóa riêng của tỉnh mình.

Thứ ba, hạn chế về tư duy lý luận trong hoạt động tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào trong thời gian qua

chưa coi trọng đúng mức khâu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nên chưa kịp

thời bổ sung, giải quyết tốt những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn.

Như chúng ta biết rằng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là một mắt xích,

một khâu không thể thiếu trong quy trình lãnh đạo, chỉ đạo và trong hoạt động

thực tiễn của người cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở cả Nước Lào nói chung và

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Ở miền Nam Lào nói riêng. Sở dĩ như vậy là vì thực

tiễn là cơ sở, động lực, mục tiêu, phương hướng, giải pháp hoạt động thực tiễn

phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn.

3.3.2.3. Cơ chế lãnh đạo, quản lý, chế độ chính sách, công tác cán bộ

chưa khuyến khích cán bộ nâng cao năng lực tư duy lý luận

Cấp tổ chức thực hiện là cấp vận dụng, nhưng muốn vận dụng được thì

trước hết phải nắm được tinh thần, thực chất, nội dung cốt lõi của đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ở đây đòi hỏi phải tư duy

đường lối ở trình độ lý luận; tư duy chính bằng những khái nhiệm và tính biện

chứng phản ánh trong đường lối. Còn tư duy về đường lối một cách giáo điều

hoặc chỉ dừng lại ở kinh nghiệm thì không những không có khả năng hiểu thấu

đáo đường lối mà còn hiểu sai dẫn đến sự không thông suốt trong các cấp tỉnh,

117

các ngành. Nhận định về những hạn chế đó. Đại hội Đảng Nhân dân Cách

mạng Lào lần thứ IX đã chỉ rõ:

Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống

nhất và chưa được thông suốt ở các cấp tỉnh và các ngành. Trong cán

bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất, về

những vấn đề như: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đổi mới và

phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước, chính sách đất đai, kinh tế trạng trại, nội dung và bước đi công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế... [113, tr.21].

Chủ trương, chính sách của Đảng về công tác đội ngũ cán bộ chủ chốt ở

cấp tỉnh miền Nam Lào có nhiều khi chưa đồng bộ, chưa được cụ thể hóa cho

phù hợp với từng địa phương, từng đối tượng thi hành. Việc triển khai thực

hiện còn thiếu kịp thời gây khó khăn, lung túng cho cán bộ chủ chốt trong wuas

trình lãnh đạo, quản lý ở địa phương.

Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ cấp tỉnh miền Nam Lào nhìn chung

còn thấp. Nhiều đồng chí chưa được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống về chuyên

môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, hiểu biết

về pháp luật còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ ngại học tập, tu dưỡng và rèn

luyện, còn tư tưởng thụ động, ý lại, trông chờ vào cấp trên.

Nhận thức về tầm quan trọng của công tác tổ chức và cán bộ chủ chốt ở

một số cấp tỉnh chưa cao, từ đó chưa xây dựng được giải pháp thực hiện có

hiệu quả. Một số cấp tỉnh chưa quan tâm chỉ đạo, thiếu kiểm tra đôn đốc việc

thực hiện của tỉnh, còn khoán trắng cho ban tổ chức, cho cán bộ tổ chức. Mặt

khác cấp tỉnh chưa có thái độ kiên khuyết với những địa phương trong việc xây

dựng quy hoạch giản đơn, hình thức, có tính chất đối phó, kém hiệu quả.

118

Thiếu quy chế tổ chức lẫn những điều kiện xã hội cần thiết để thực hiện

dân chủ hóa trong công tác cán bộ chủ chốt, chưa xây được hệ thống đồng bộ

các chính sách về đào tạo, bố trí, dử dụng, đề bạt, đãi ngộ cho cán bộ cũng như

các chính sách về chế độ làm việc, chế độ thông tin, chế độ học tập và rèn

luyện của cán bộ chủ chốt. Việc tiêu chuẩn hóa và tuyển chọn cán bộ chưa

được thực hiện chặt chẽ theo quy định hàng năm, có trường hợp chưa đúng quy

trình nên bị động, lung túng. Chưa tạo động lực mạnh mẽ để phát triển năng

lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh miền Nam Lào. Tổ

chức bộ máy nhà nước ở các cấp tỉnh thì cồng kênh, trùng lắp chức năng gây

khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội.

Bản thân một số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào chưa thực sự có

gắng phấn đấu vươn lên, còn một số cán bộ chủ chốt có tư tưởng lạc hậu, bào

thủ, ngại học,ngại khó, có môt số cấp tỉnh chưa xác định đúng vị trí, tầm quan

trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt, do đó trong công tác cán bộ chưa tạo được

chuyển biến mới trong việc tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công tác cán

bộ ở một cấp tỉnh còn nhiều lung túng, hạn chế.

Việc bố trí, sử dụng cán bộ đôi khi không đúng khả năng, sở trường,

nguyên vọng, hoặc tình trạng luân chuyển cán bộ quá nhanh làm xáo trộn,

không đánh giá kịp thời mục độ hoàn thành công việc; mặt khác do năng nề về

bằng cấp, mà nhiều khi bằng cấp không phản ánh đầy đủ trình độ, kiến thức

của người cán bộ. Với những nguyên nhân của hạn chế nêu trên có thể thấy

rằng về tư duy lý luận cho công tác đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp tỉnh

miền Nam Lào hiện đang đúng trước nhiều vấn đề bất cấp, phức tạp đòi hỏi

phải sớm tìm được hướng giải quyết hiệu quả.

3.3.2.4. Sự thiếu nỗ lực của bản thân cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào ý thức tự giác tu dưỡng,

rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực, phương pháp và tác phong

công tác chưa cao. Đây vừa là hạn chế, khuyết điểm về chất lượng của đội ngũ

119

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, vừa là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết

điểm của việc xây dựng, nâng cao tư duy đội ngũ cán bộ chủ chốt này ở các

cấp tỉnh miền Nam Lào. Tình trạng ngại khó, ngại khổ trong đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh cấp tỉnh diễn ra không phải là hiếm. Một số ít cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh còn thiếu ý thức tự giác tu dưỡng, tự rèn luyện nâng cao trình độ,

phẩm chất, năng lực, rèn luyện phương pháp và tác phong công tác theo cương

vị, chức trách của mình. Có một số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh có biểu hiện thiếu

bản lĩnh chính trị vững vàng, hẫng hụt về trí tuệ, trình độ, tư tưởng, không phát

huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên cách mạng Lào, vai trò của

cán bộ chủ chốt, cán bộ đứng đầu, giảm sút ý chí, thiếu tin tưởng, thiếu trách

nhiệm, dựa dẫm, i lại, cơ hội, thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất kinh tế. Đó

vừa là hạn chế, vừa là nguyên nhân rất quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến

hiệu quả nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

ở miền Nam Lào thời gian qua.

Tiểu kết chương 3

Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam

Lào, bên cạnh những ưu điểm cơ bản cần được giữ vững và phát huy hơn nữa,

cũng còn không ít hạn chế, yếu kém rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, những mặt

hạn chế, yếu kém này là do nhiều nguyên nhân, trong đó cũng có cả những

nguyên nhân chung cho cấp tỉnh ở miền Nam Lào và cả nước; bên cạnh đó

cũng có nguyên nhân mang tính đặc thù, riêng có của miền Nam. Những

nguyên nhân gây ra hạn chế, yếu kém về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong chừng

mục nào đó là khó trách khỏi.

Trong những năm đổi mới vừa qua, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam

Lào đã có nhiều bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Bước đầu đã đáp ứng

yêu cầu phát triển của đất nước. Về mặt năng lực tư duy lý luận, đội ngũ cán bộ

120

chủ chốt cấp tỉnh đã được Đảng, Nhà nước quan tâm và bản thân họ cũng tự

phấn đấu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho bản thân, đáp ứng nhu

cầu thực tiễn. Nhiều cán bộ đã được cử đi học nâng cao trình độ chuyên môn,

trình độ lý luận chính trị. Nhiều cán bộ đã được cử đi học nước ngoài như Việt

Nam, Nga, Trung Quốc... khi về nước đã phát huy được năng lực của mình,

tỏng đó có năng lực tư duy lý luận.

Tuy nhiên, quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố điều kiện kinh tế -

xã hội, văn hóa truyền thống; chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; yếu

tố chủ thể của tự bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam. Song,

trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế - xã hội của miền Nam Lào còn

nhiều khó khăn, chưa tạo nhiều điều kiện, tiền đề vật chất cho quá trình nâng

cao năng lực tư duy lý luận; chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước có

những bước phát triển, quan tâm nhiều tới viêc nâng cao năng lực tư duy lý

luận cho cán bộ chủ chốt, nhưng cũng còn một số bất cấp, hạn chế; bản thân

đội ngũ cán bộ này cũng chưa chủ động cao trong việc nâng cao năng lực tư

duy lý luận. Theo đó, thời gian qua, họ còn rơi vào bệnh kinh nghiệm, giáo

điều, chủ qua duy ý chí khi giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp của

thực tiễn. Yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

121

Chương 4

MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO

NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT

CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO HIỆN NAY

4.1. ĐỔI MỚI NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH, PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC,

ĐÀO TẠO CÁN BỘ THEO HƯỚNG CHÚ TRỌNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ

DUY LÝ LUẬN

Xuất phát từ thực trạng yếu kém về tư duy trình độ, hạn chế về năng lực

của một bộ phận cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào chưa tương ứng với

yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới. Cho nên yêu cầu cần thiết hiện

nay là phải tiếp tục đào tạo để nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ

chốt này. Theo Báo cáo Đại hội Đảng lần thứ X của Nhân dân Cách mạng Lào,

công tác giáo dục, bồi dưỡng cần hướng tới việc khắc phục tình trạng học quá

nhiều những kiến thức chung chung, ít thiết thực, lý luận còn thiếu điểm chưa

phù hợp với thực tiễn, học chưa đi đối với hành như hiện nay. Công tác giáo

dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ đội chủ chốt các cấp tỉnh cần

phải kết hợp được cả hai mặt "học" và "hành" thông qua công tác thực tiễn thì

mới đạt hiệu quả cao, mới có được sử chuyển biến mạnh mẽ về chất. Để thực

hiện được điều đó, cần phải cải cách và đổi mới về nội dung chương trình,

phương pháp đào tạo, đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất và đội ngũ giảng

viên. Muốn vậy chúng ta cần đảm bảo tốt một số nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần đổi mới nội dung chương trình giáo duc, đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức chuyên môn và kiến thức lý luận chính trị. Chúng ta đều biết

rằng, nội dung đào tạo luôn là vấn đề trọng yếu, có nghĩa quyết định đến việc

nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên

nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Trên cơ sở hướng dẫn

thực hiện nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng của trung ương, trong

những năm qua, trường chính trị tỉnh Chăm Pa Sắc và các trường bồi dưỡng

122

chính trị của các tỉnh miền Nam Lào, đã tích cực, chủ động đổi mới, cụ thể hóa

nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với điều kiện và đặc

điểm từng đối tượng cán bộ của các cấp tỉnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ

chốt, cán bộ dự nguồn các cấp tỉnh. Tuy nhiên, sự bổ sung, cải tiến, đổi mới nội

dung chương trình vấn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu công tác

của cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh. Bởi lẽ, hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội

ngũ này rất đa dạng và phong phú nên đòi hỏi phải có sự hiểu biết toàn diện

trên nhiều lĩnh vực, song tính chất công việc của họ lại gắn liên với thực tiễn.

Trong khi đó, nội dung chương trình giảng dạy lý luận chính trị lại mang tính

dàn trải, nặng về lý thuyết, sách vở, chưa bám sát thực tiễn và những phát triển

mới về lý luận, một số nội dung còn trùng lắp, chồng chéo… còn phần kiến

thức nghiệp vụ thì chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt là, trong cuộc đấu

tranh tư tưởng - lý luận diễn ra một cách phức tạp như hiện nay thì nhiều bài

giảng vẫn chưa thể hiện được tính chiến đấu cao thông qua những luận cứ khoa

học và thực tiễn để khẳng định tính khoa học, cách mạng của những nguyên lý

của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó,để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào thì

nội dung chương trình cần phải tiếp tục được đổi mới.

Việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần dựa trên

những yêu cầu sau:

Yêu cầu thứ nhất: Phải căn cứ vào quan điểm, chủ trương của Đảng cũng

như những hướng dẫn của cấp trên, đồng thời phải căn cứ vào nhiệm vụ trong

giai đoạn cách mạng mới với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Quá trình hội nhập, sự phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ

nghĩa… cũng như yêu cầu đòi hỏi bởi tình hình cụ thể của cấp tỉnh mà đổi mới

nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng sao cho phù hợp.

Xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan công tác của đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh, cũng như các quy định của Đảng - Nhà nước về công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ và phải "lấy mục tiêu cán bộ" làm căn cứ cho việc nghiên

123

cứu, sửa đổi, bổ sung nội dung chương trình. Thực hiện theo tinh thần Đại hội

Đảng lần thứ X của Nhân dân Cách mạng Lào, là lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn

cứ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nội dung đào tạo phải thiết

thực, phù hợp với từng loại đối tượng; chú trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến

thức; cả về lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kiến thức cơ bản và hướng dẫn kỹ

năng thực hành.

Yêu cầu thứ hai: Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị kế thừa những ưu điểm của các nội dung chương trình đã và đang

sử dụng, trên cơ sở đó bổ sung những nội dung mới như: những vấn đề phát

triển mới về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi Hản; những nhận

thức mới về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, về thời kỳ quá độ, cùng nhiều kiến thức cần thiết về

khoa học xã hội và nhân văn.

Trên cơ sở những yêu cầu ấy, việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo,

bồi dưỡng lý luận chính trị cần đảm bảo các điều kiện sau:

Điều kiện thứ nhất: phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống, tính lô gic

và tính khoa học. Những kiến thức trang bị cho học viên phải thể hiện tính hệ

thống, toàn diện về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hản, những

kiến thức lý luận về xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, các quan điểm,

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Điều kiện thứ hai: Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị phải đảm bảo tính thiết thực, gắn với yêu cầu thực tiễn phát triển

của đất nước, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận, trình độ, năng lực

lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh. Những kiến thức

truyền đạt không chỉ trang bị thế giới quan, phương pháp luận, niềm tin tuyệt

đối vào sự lãnh đạo của Đảng mà còn phải rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối

sống, góp phần hoàn thiện người cán bộ cách mạng trong thời đại mới. Đây là

một trong những yêu cầu cần được coi trọng và thể hiện trong nội dung chương

trình đào tạo và bồi dưỡng.

124

Điều kiện thứ ba: Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị phải đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, gắn học

tập, nghiên cứu lý thuyết với làm bài tập thực hành, vận dụng lý thuyết vào sử

lý, giải quyết các tình huống đang diễn ra ở cấp tỉnh; kết hợp bài giảng với

phương pháp trực quan - đến tận nơi, nhìn tận mắt; tổ chức cho học viên đi

tham quan học tập thực tế. Đặt ra những tình huống có vấn đề để thảo luận trao

đổi. Đồng thời, bám sát thực tiễn để soi rọi lý luận vào thực tiễn địa phương

mình lãnh đạo, quản lý.

Thứ hai, cần đổi mới phương pháp, đa dạng hóa các hình thức đào tạo,

bồi dưỡng. Để đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng tư duy lý luận đạt hiệu quả,

bên cạnh việc đổi mới nội dung chương trình, cần tiếp tục đổi mới phương

pháp giảng dạy, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị.

Về đổi mới phương pháp giảng dạy: Trong công tác giáo dục, đào tạo của

mọi ngành, mọi lĩnh vực nói chung, cũng như công bồi dưỡng, giáo dục lý luận

chính trị nói riêng thì phương pháp giảng dạy, tuyền đạt đóng vai trò rất quan

trọng. Do vậy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy - thay thế phương pháp

giảng dạy truyền thống bằng sự kết hợp những phương pháp mới là một yêu

cầu vô cùng cần thiết. Phương hướng cơ bản của việc đổi mới phương pháp là:

quán triệt hơn nữa phương châm lý luận gắn liền với thực tiễn, bảo đảm tính

khoa học, tính chiến đấu ở người dạy; phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo

của người học. Để quán triệt và thực hiện tốt phương pháp cơ bản này, cần có

sự linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp giảng dạy. Phương pháp giảng dạy

phải phù hợp với những yêu cầu mới của tình hình kinh tế - xã hội, những quy

luật của nhận thức, tâm lý đối tượng và đảm bảo nội dung giáo dục một cách

tối ưu.

Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy, trong điều kiện nay cần nhanh

chóng tiếp cận những thành tựu tiên tiến của khoa học - công nghệ để đưa vào

giáo dục; từng bước hiện đại hóa phương pháp dạy và học, tích cực sử dụng

125

phương pháp nêu vấn đề, tăng cường áp dụng các phương pháp khác như đối

thoại, phản biện, phân tích gắn với việc nêu và giải quyết tình huống… nhằm

gây được sự hứng thú tối đa cho người học. Bên cạnh đó, cần hạn chế phương

thức độc thoại, khắc phục phương pháp dạy học lý luận khô khan, nhồi nhét

một chiều, nặng về những nguyên lý lý luận chung chung, coi nhẹ những vấn

đề của thực tiễn cuộc sống. Mặt khác, để học tập lý luận có hiệu quả cần tăng

số giờ và phương pháp tổ chức các buổi thảo luận, đi thực tế trong chương

trình. Bởi vì, trong các buổi thảo luận đó nếu người tổ chức có phương pháp

điều hành tốt, tạo ra được những tình huống có vấn đề một cách thiết thực, sinh

động mà để giải quyết được nó phải vận dụng kiến thức lý luận và thực tiễn

một cách tổng hợp. Qua đó nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh.

Để làm tốt điều đó, đòi hỏi giảng viên phải là người có trình độ, nắm vững

các nguyên lý, qui luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật, có kiến thức

sâu, rộng, am hiểu tình hình thực tế cấp tỉnh, có phương pháp sư phạm tốt, có

nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và phải hiểu được tâm lý của học viên. Cho

nên để có một bài giảng lý luận chính trị hấp dẫn, thực sự nâng cao được trí tuệ

cho người học, đòi hỏi người giảng viên phải vừa là một nhà khoa học, vừa là

một nhà sư phạm, vừa là một nhà tâm lý, nhà chính trị… Thông qua đó, người

học có điều kiện, môi trường để học tập, rèn luyện, trau dồi phương pháp tư

duy biện chứng, đồng thời sẽ nhận thức và nắm vấn đề tốt hơn. Có như vậy

mới giúp người học nắm bắt lý luận một cách có hệ thống, đầy đủ, trọn vẹn và

việc vận dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tế ở các cấp tỉnh mới

thực sự thiết thực, có hiệu quả. Trên cơ sở đó, hình thành và nâng cao năng lực

tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào.

Về đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng giáo dục: Trong điều

kiện hiện nay ở cấp tỉnh, để đáp ứng yêu cầu học tập nâng cao tư duy lý luận

ngày càng tăng, cần đa dạng hóa các hình thức đào tạo kết hợp như: bồi dưỡng,

126

tập huấn cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn. Các chương trình đào

tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phải được thực hiện theo phân cấp, ưu tiên phát

triển năng lực tư duy, trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt và

đội ngũ cán bộ trong nguồn quy hoạch.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các tỉnh phía Nam Lào hiện rất mỏng và chất

lượng không đồng đều. Do đó, cùng với việc thường xuyên mở các lớp đào tạo,

bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, các tỉnh cần phải đặc biệt quan tâm tới

công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đặc biệt là đối với đội

ngũ xã bản và cụm bản. Việc đào tạo có hệ thống từ thấp lên cao phải luôn gắn

kết với công tác quy hoạch và phát triển nguồn cán bộ, xây dựng nguồn cán bộ

chủ chốt bền vững ở tất cả các cấp, trong đó đặc biệt lưu ý cấp tỉnh, cấp chiến

lược quan trọng trong triển khai nghị quyết.

Thứ ba, cần tiếp tục xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho

đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở trường Chính trị đảm bảo về số lượng và

chất lượng. Hiện nay, chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý lý luận chính trị cho đội

ngũ cán bộ các cấp tỉnh ở miền Nam Lào chủ yếu là do trường Chính trị trung

ương và tỉnh để đảm nhiệm. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao tư duy cho đội ngũ giảng viên lý luân chính trị của trường Chính trị

trung ương và tỉnh đảm bảo về số lượng cũng như chất lượng. Cơ cấu chất

lượng đội ngũ cán bộ chính trị Lào hiện nay mỏng và chưa đồng đều. Nhiều

giáo viên chưa được đào tạo cơ bản, khoa học về các môn chủ nghĩa Mác -

Lênin, kiến thức chuyên môn cũng còn lắp ghép, gây khó khăn trong viêc nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

Để nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên, cần có kế hoạch, biện

pháp cụ thể, thiết thực và chính sách, chế độ thỏa đáng nhằm khuyến khích họ

nâng cao trình độ chuyên môn vụ. Từng bước thực hiện chuẩn hóa theo quy

định chung, đồng thời tại điều kiện để giảng viên được tham gia dự truyển và

theo học các chương trình đào tạo sau đại học nhằm như đáp ứng với yêu cầu

của thực tiễn.

127

Phải chuẩn hóa đội ngũ giảng viên bởi vì đội ngũ này giữ vị trí và vai trò

đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

Để công tác đào tạo của nhà trường đạt chất lượng tốt, đáp ứng với yêu cầu đòi

hỏi ngày càng cao của người học nhà trường phải có kế hoạch khẩn trương

tuyển dụng bảo đảm đủ số lượng nhưng phải đáp ứng về chất lượng, tùy theo

độ tuổi, sức khỏe, năng lực giảng dạy của giảng viên để có kế hoạch đưa đi đào

tạo nâng cao trình độ, kiến thức để phục vụ lâu dài. Mặt khác, phải có các biện

pháp khuyến khích kịp thời để giảng viên tự học tập, rèn luyện, tự nghiên cứu

nâng cao kiến thức cho bản thân, tổ chức các đợt đi nghiên cứu thực tế trong và

ngoài tỉnh để giảng viên mở rộng tầm nhìn, có kiến thức thực tiễn bổ sung cho

lý luận tăng thêm sức thuyết phục của bài giảng. Thường xuyên thực hiện việc

khảo sát, đánh giá về chất lượng đội ngũ giảng viên để từ đó xác định đúng nhu

cầu, bổ sung kịp thời và có kế hoạch đào tạo nguồn cho đội ngũ giảng viên là

rất quan trọng.

Hệ thống giáo án, giáo trình phải được xây dựng khoa học, thường xuyên

cập nhật các vấn đề mới trong lý luận và thực tiễn. Đội ngũ giảng viên, giáo

viên phải thường xuyên được tập huấn về phương pháp và tư duy lý luận.

Trong giảng dạy phải kết hợp giữa lý thuyết với thực hành, tăng cường các loại

hình thảo luận nhóm, tổ, viết chuyên đề để học viên nắm vững, hiểu sâu các nội

dung lý luận, biết cách vận dụng vào thực tiễn. Tăng thời gian cho chương trình

tham quan thực tiễn tổ chức đảng tiêu biểu, các mô hình kinh tế-xã hội hiệu

quả, tạo điều kiện để người học liên kết giữa lý luận và thực tiễn, tự rút kinh

nghiệm cho bản thân trong vị trí công tác được giao.

Thứ tư, cần phát huy tính tự giác, tích cực học tập của học viên. Để nâng

cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính cho đội ngũ này thì một trong

những yếu tố không thể thiếu được đó là phải phát huy tính tích cực, tự giác,

chủ động trong quá trình học tập (nghe, giảng, tự nghiên cứu, thảo luận…)

của chính học viên. Đồng thời, cần hạn chế đến mức tối đa lối học lý luận

128

chính trị theo kiểu kinh viện, câu chữ, thụ động, ý lại. Bản thân mỗi cán bộ,

đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cần nhận thức sâu sắc và có trách

nhiệm trong học tập, nâng cao trình độ nhận thức chính trị, tự học, tự rèn

luyện, coi đào tạo, bồi dưỡng lý luận là cơ hội, điều kiện tốt để nâng cao trình

độ, năng lực công tác.

Thứ năm, tăng cường công tác quản lý, tổng kết, đánh giá chất lượng

đào tạo và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Công tác tổ chức, quản lý đào tạo

phải được thực hiện theo hướng gọn, nhẹ, quản lý chặt chẽ, xác định đúng đối

tượng học, tránh trùng lặp, học đi học lại nhiều lần cùng nội nội dung tạo nên

tâm lý ngại nghe. Chán học, gây lãng phí sức người, sức của. Đồng thời. Nhà

trường cần có mối quan hệ chặt chẽ với các cấp tỉnh, cung cấp những thông

tin cần thiết về học viên cho đơn vị chủ quản, có thể tham gia với các cấp tỉnh

về công tác bố trí, sử dụng cán bộ. Mặt khác, cần thường xuyên tổ chức tổng

kết, đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ sau khi được

đào tạo. Chính việc tổng kết, đánh giá sẽ là cấp tỉnh quan trọng giúp cho việc

điều chỉnh công tác quy hoạch, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán

bộ chủ chốt các cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

Về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trong những năm qua, mặc dù các

cấp ủy tỉnh Đảng, chính quyền cấp tỉnh phía Nam Lào đã quan tâm, chăm lo

đến vấn đề này. Song, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đào tạo,

bồi dưỡng hiện nay như: hội trường, phòng học cũ xuống cấp, trang thiết bị

dạy học còn hạn chế… Vì vậy, trong thời gian tới, các tỉnh phía Nam Lào cần

tăng cường cơ sở vật chất trong giảng dạy và nghiên cứu chính trị nhằm

khuyến khích người học phấn khởi, chăm chỉ học hành, thông qua đó đ nâng

cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh nói riêng. Bởi lẽ, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cũng là

yếu tố vô cùng cần thiết trong việc năng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị nói chung và tư duy lý luận nói riêng.

129

4.2. NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC TỔNG KẾT THỰC

TIỄN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH Ở MIỀN NAM LÀO

Tổng kết thực tiễn có vai trò hết sức to lớn trong việc bổ sung, hoàn thiện,

phát triển lý luận; là một phương thức cơ bản để bổ sung, hoàn thiện, phát triển

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; là "môi trường" rèn

luyện và không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận, khắc phục lối tư duy

kinh nhiệm, giáo điều của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp tỉnh miền Nam Lào,

đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn.

Tổng kết thực tiễn, về thực chất là một mắt khâu, một quy trình không thể

thiếu trong nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Tổng kết thực tiễn là quá trình bằng tư duy khoa học với phương pháp biện

chứng duy vật làm cơ sở phân tích, đánh giá, khái quát thực tiễn nhằm rút ra

những bài học kinh nghiệm cho chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo, cũng như

kiểm tra, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Tổng kết thực tiễn là một mắt

khâu trong hoạt động tổ chức thực tiễn. Mà cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là người

trung gian chuyển lý luận của Đảng, Nhà nước xuống cơ sở, là đối tượng

không trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn, do đó dễ rơi vào giáo điều, xa rời

thự tiễn. Do vậy, muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh, cần hết sức quan tâm tới khâu tổng kết thực tiễn nhằm đúc rút bổ

sung, phát triển lý luận, qua đó nâng cao nâng cao năng lực tư duy lý luận cho

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh.

Với tầm quan trọng như vậy, để đạt hiệu quả cao trong công tác lãnh đạo,

mà cụ thể là nâng cao được năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo chủ

chốt cần phải tăng cường và nâng cao tính hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn.

Để có được điều đó, cần thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, đổi mới cách thức và tăng cường tổng kết thực tiễn. Đây là một

trong những biện pháp quan trọng nâng cao hiệu quả công tác tổng kết thực

tiễn. Để đổi mới cách thức tổng kết thực tiễn cần thực hiện phối hợp đồng bộ

các biện pháp. Đầu tiền là việc xác định đúng mục đích, yêu cầu tổng thực tiễn.

130

Đối với cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào, cần xác định rõ việc tổng

kết thực tiễn là nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm chỉ đạo phát triển

kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội; phát triển

đảng, xây dựng đời sống văn hóa mới,… trên địa bàn các cấp tỉnh miền Nam

Lào. Xác định đúng mục đích, yêu cầu của tổng kết thực tiễn sẽ giúp hoạt động

này có định hướng, mang tính tự giác cao. Từ yêu cầu của công việc, người cán

bộ sẽ xác định được phương pháp vận dụng trong tổng kết. Ngoài những quan

điểm phương pháp luận chung, để hoạt động tổng kết có hiệu quả cần để cao

tính trung thực, nhìn thẳng vào sự thật, phát huy tự do tư tưởng, thảo luận dân

chủ,… chỉ như vậy mới có thể phản ánh đúng thực trạng tình hình, đưa ra được

những đề xuất mới, đúng đắn để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống

trên địa bàn đặt ra.

Trên cơ sở những vấn đề nảy sinh, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải

xác định đúng những vấn đề trọng điểm và địa bàn thích hợp mà việc tổng kết

các vấn đề đó trên địa bàn tương ứng sẽ mang lại nhận thức chung cho vấn đề

tổng kết cần quan tâm. Nếu xác định vấn đề trọng tâm không đúng và lựa chọn

địa bàn tỉnh không tiêu biểu sẽ gây khó khăn cho tổng kết thực tiễn.

Đổi mới phương thức tổng kết thực tiễn đòi hỏi cần phải nâng cao chất

lượng thông tin, bảo đảm tính chân thật, tính đầy đủ, tính kịp thời của thông tin.

Điều đó đòi hỏi người cán bộ nói chung phải khắc phục tình trạng quan liêu

chủ nghĩa, xa rời thực tiễn cuộc sống.

Cùng với những đổi mới về phương thức tổng kết thì cần phải tăng cường

tổng kết thực tiễn. Đây là công việc liên tục, thường xuyên, không có giới hạn

cuối cùng. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do vậy mà tổng kết

thực tiễn phải được tiến hành thường xuyên. Chính việc tăng cường tổng kết

thực tiễn là con đường vô cùng quan trọng để nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Ở miền Nam Lào, đội ngũ cán bộ chủ chốt, chủ yếu trưởng thành trong

chiến tranh, trong hoạt động thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước, do vậy

họ ít được học chuyên môn cũng như lý luận. Do vậy, trong giải quyết công

131

việc, họ thường bị rơi vào bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo điều. Theo đó, cần

quát triệt cho họ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Hoàn thiện cơ

chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tránh cơ chế tập trung, bao cấp,

quan liêu trước kia. Đồng thời, xây dựng thành công công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước để tránh tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu dễ dẫn đến

bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo điều.

Hai là, chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức

trong tổng kết thực tiễn. Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh.

Nếu tổng kết thực tiễn dựa trên cơ sở cá nhân thì sẽ đi đến những kết luận

nhằm phục vụ cho những mục đích cá nhân, hoặc rơi vào bao biện, tâng bốc,

thiếu tính cách quan, khoa học. Những đặc trưng cơ bản của cơ hội chủ nghĩa

như ngã nghiêng không có định hướng đường lối rõ rệt; thỏa hiệp, hợp tác vô

nguyên tắc; trong lý luận thì mắc phải chủ nghĩa chiết trung ngụy biện. Những

đặc trưng ấy phản ánh sự mơ hồ về sự vật, không tìm ra bản chất hoặc quy luật

phát triển của sự vật. Những kẻ mắc vào chủ nghĩa cá nhân thường tổng kết

thực tiễn theo một ý đồ chủ quan định sẵn, hoặc dùng kết quả thực tiễn để

chứng minh cho một mục đích cá nhân mang tính chất chủ quan nào đó. Do

ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường, trong những năm đổi mới vừa qua,

một số cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào đã rơi vào cá nhân chủ nghĩa,

nên trong quá trình tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã rơi

vào chủ quan, báo cáo thành tích thiếu trung thực, khách quan, tâng bốc thành

tích của tỉnh mình. Vì vậy, để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh Nam Lào cần chú ý chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thành

tích trong tổng kết thực tiễn của cán bộ chủ chốt ở các tỉnh Nam Lào hiện nay.

Bên cạnh đó, quá trình nâng cao năng lực tư duy lý luận cần chú ý nâng

cao năng lực tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Nam Lào. Quá

trình đó cũng cần chống bệnh thành tích. Bởi, bệnh thành tích chỉ chú ý đến

thành tích và thường là thành tích cá nhân. Người mắc bệnh này dùng mọi thủ

đoạn để thông qua và chứng minh cho thành tích ấy. Từ đó để lấy danh hiệu

132

chứ không đi vào thực chất, nội dung tổng kết thực tiễn. Có thể thấy được rất rõ

điều này trong thời bao cấp, vì ảnh hưởng của bệnh thành tích mà ở lĩnh vực

nào, ở đâu cũng hoàn thành xuất sắc nghiệm vụ, kế hoạch của mình, nhưng

kinh tế vẫn khủng hoảng, suy thoái. Ngày trong giai đoạn hiện nay, các cấp tỉnh

ở miền Nam Lào có nhiều nhà máy, cơ quan luôn báo cáo là vượt công suất

thiết kế, tăng doanh thu và có nhiều daonh nghiệp trong các tỉnh, đời sống của

cán bộ, công nhân được nâng lên rõ rệt, theo đó, đã đạt được nhiều bằng khen

của các cấp tỉnh, của Trung ương như; nhà máy sản xuất cà phê, nhà máy sản

bia, nhà máy sản xuất làm giầy và nhà máy sản xuất bột sắn.

Chủ nghĩa hình thức nhìn chung chỉ chú ý đến hình thức mà quên mất nội

dung, từ đó mà làm bất cứ việc gì cũng hời hợt, bề ngoài. Trong tổng kết thực

tiễn thì làm một cách đại khái, qua loa cho xong chuyện để báo cáo thành tích,

để phô trương. Với chủ nghĩa hình thức thì cái gì cũng làm, cái gì cũng có,

nhưng không có cái nào đến nơi đến chốn, không đi vào bản chất, nội dung của

vấn đề.

Ba là, nâng cao đạo đức người cán bộ lãnh đạo, phát huy được vai trò của

người cán bộ giúp việc trong tổng kết thực tiễn. Đạo đức là cái gốc của người

cán bộ, nó đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải quán triệt quan điểm khách quan

trong công tác tổng kết thực tiễn. Cụ thể là tránh tô hồng hoặc bôi đen đối

tượng cần tổng kết. Phải có thái độ trung thực, tránh chủ nghĩa chủ quan, không

được lấy ý đồ có sẵn mang tính chất ca nhân chủ quan để áp đặt cho công việc,

bởi lẽ đây là điều kiện cho bệnh chủ quan duy ý chí. Cũng không thể lấy kết

quả của việc tổng kết để chứng minh cho ý đồ chủ quan định sẵn. Điều quan

trọng ở đây là chống chủ nghĩa chủ quan. Những người theo khuynh hướng chủ

quan rất coi thường hiện thực khách quan ở những mục độ nhất định thường

phủ nhận hoặc không tính đến những quy luật khách quan diễn ra trong tự

nhiên và xã hội. Trong tổng kết thực tiễn, chủ quan thể hiện từ khâu lựa chọn

vấn đề, lập chương trình và thu thập, xử lý thông tin. Chính vì mắc bệnh chủ

quan nên dẫn đến sai lệnh, xuyên tạc sự thật, làm cho người khác hiểu không

133

đúng vấn đềcần tổng kết. Trung thực trong tổng kết thực tiễn đòi hỏi cần phải

tránh hai thái cực: hoặc chỉ đỗ lỗi cho hoàn cảnh khách quan hoặc chỉ đỗ lỗi

cho những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan. Đạo đức cách mạng biểu hiện ở

người cán bộ lãnh đạo chủ chốt đòi hỏi khi tổng kết thực tiễn phải có tính mục

đích đúng đắn. Điều này thể hiện ở chỗ dù ở cấp nào, ngành nào đều phải

hướng đến phục vụ cho mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh.

Hiệu quả của việc tổng kết thực tiễn tùy thuộc rất nhiều vào năng lực của

chủ thể tiến hành công việc này, trong đó còn có năng lực của các cán bộ

phòng, bạn, chuyên gia chuyên môn. Việc tổ chức lực lượng, động viên, phát

huy vai trò của họ là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu

quả tổng kết hực tiễn. Tuy nhiên, công tác này ở cán bộ lãnh đạo chủ chốt các

cấp tỉnh miền Nam Lào còn rất nhiều hạn chế. Thường thì công việc này được

tiến hành bởi những người chuyên làm lý luận mà thiếu sự tham gia của

những người làm thực tiễn. Còn khi những người làm thực tiễn muốn tổng kết

thì lại không khuyến kích được những người làm lý luận. Trong khi đó.

Những người làm lý luận chỉ có ưu điểm về phương pháp tư duy, có khả năng

khái quát hóa, trựu tượng hóa nhưng họ thiếu thông tin và những trái nghiệm

thực tiễn. Những người làm lý luận và thực tiễn cần phải kết hợp lại với nhau

mới phát huy những ưu điểm và hạn chế những yếu kém của mình. Lực lượng

cán bộ, chuyên gia sẽ là người có vai trò lớn trong việc lựa chọn vấn đề tổng

kết thực tiễn. thu thập và xử lý thông tin, đưa ra những kết luận và rút ra bài

học kinh nghiệm chính xác hơn. Cuối cùng, họ cũng chính là người giúp đỡ

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp tỉnh trong việc vận dụng các bài

học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn tiếp theo trên địa bàn của mình. Ngay

cả bản thân của những người làm công tác chuyên môn cũng phải được phát

huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong việc tự phấn đấu, rèn luyện năng

lực tổng kết thực tiễn.

134

Tiến hành điều tra, thu nhập tư liệu, khảo sát thực tế. Trong khâu này

năng lực tổng kết thực tiễn đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn

phải biết điều tra, thu thập tư liệu, khảo sát thực tế một cách khoa học. Điều tra

thu thập thông tin, tư liệu càng đầy đủ bao nhiêu thì càng có cơ sở giúp cho

việc xử lý thông tin để rút ra những kết luận càng đúng đắn bấy nhiêu. Khâu

này đòi hỏi người tổng kết thực tiễn phải biết khảo sát thực tế, bám địa bàn,

bám dân cử, biết "khai thác" thông tin; biết sử dụng tổng hợp các biện pháp để

thu thập thông tin như: dùng phiếu thăm dò, phỏng vấn, điều tra xã hội học,

thống kê, thông qua các cán bộ chuyên môn của cấp tỉnh, phải biết điều tra, thu

thập thông tin bằng nhiều kênh khác nhau.

4.3. TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, HOÀN THIỆN

CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG

LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH MIỀN NAM LÀO

HIỆN NAY

4.3.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh miền Nam Lào hiện nay

* Về mặt lý luận, theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về chính

đảng của giai cấp công nhân; tư tưởng Cay xỏn Phôn vi hẳn về Đảng và công

tác xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; quan điểm của Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào về xây dựng Đảng đã khẳng định rõ cơ sở lý luận về vai trò

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mọi lĩnh vực trong xã hội. Đảng Nhân

dân Cách mạng Lào là đội tiên phong của giai cấp công nhân Lào, đồng thời là

đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Lào, đại biểu trung thành

lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào có vai trò, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao

động lật đổ chế độ thực dân, phong kiến; xây dựng một xã hội mới, thực hiện

thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Khi chưa

giành được chính quyền, Đảng trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao

động đứng lên làm cách mạng; khi cách mạng thành công, xây dựng Nhà nước

135

của dân, do dân, vì dân, Đảng trở thành đảng cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo

Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân thực hiện

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

* Về mặt thực tiễn, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là lực lượng được giai

cấp công nhân, nhân dân, dân tộc tin cậy trao cho sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp

cách mạng Lào.Nhìn lại lịch sử dân tộc ta cho thấy,vào những năm cuối của thế

kỷ XIX và những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, mặc dù phong trào đấu tranh

chống thực dân Pháp, phong trào yêu nước của nhân dân Lào diễn ra sôi nổi,

rộng khắp nhưng do chưa có một đường lối đúng đắn nên đều bị thất bại. Tình

hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức, một lực lượng chính trị có lý luận cách

mạng soi đường, có đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo cuộc đấu tranh

giành độc lập, tự do cho dân tộc. Và chính trong bối cảnh đó Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào ra đời. Sự kiện thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã

mở ra bước ngoặt quyết định trong quá trình phát triển của nhân dân các bộ tộc

Lào, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối và tổ chức lãnh đạo phong

trào yêu nước Lào thế kỷ XX.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Lào đã chứng minh rằng, trong cuộc đấu

tranh giành chính quyền, trong những năm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ,

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công

nhân, của nhân dân, của toàn dân tộc; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách

mạng, trong hoàn cảnh nào vẫn một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng,

vì cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc

của nhân dân. Chính vì vậy mà nhân dân các bộ tộc Lào thừa nhận Đảng Nhân

dân Cách mạng Lào là lãnh tụ chính trị của mình mà không lựa chọn các đảng

phái chính trị khác, và một lòng ủng hộ Đảng, bảo vệ Đảng, chịu sự lãnh đạo

136

của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, mang hết sức người, sức của phấn đấu vì

mục tiêu của Đảng.

Hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá và những vấn đề toàn

cầu, như chiến tranh, khủng bố, bạo lực, xung đột, ô nhiễm môi trường... đang

tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước, nhất là đối với những nước đang phát

triển. Hơn nữa, đối với riêng những nước phát triển theo con đường xã hội chủ

nghĩa, các thế lực thù địch phương Tây lại đang ráo riết thực hiện chiến lược

"diễn biến hoà bình" hòng thiết lập một trật tự thế giới đơn cực, đứng đầu là

Mỹ. Trong bối cảnh đó, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và các bộ tộc Lào lại

càng cần phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với tư cách một

nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới ở nước Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào hiện nay.

Song, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để giữ vững và tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng của nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong tình hình mới? Để góp phần giải quyết vấn

đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng này, theo

chúng tôi, cần:

Thứ nhất, cần phải nâng cao hàm lượng trí tuệ, trình độ tư duy lý luận,

khả năng tổng kết thực tiễn của Đảng. Như chúng ta đã biết, lịch sử luôn vận

động, biến đổi và phát triển không ngừng; sự nghiệp cách mạng nhằm biến đổi

xã hội cũ thành một xã hội mới, tốt đẹp cũng ngày càng trở nên khó khăn và

phức tạp hơn. Nó đòi hỏi ở nhân tố chủ quan sự nhạy bén, năng động và sáng

tạo không ngừng. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào không chỉ là đại biểu cho trí

tuệ của dân tộc, mà còn đại biểu cho trí tuệ của thời đại. Không tự bồi dưỡng

và nâng cao trí tuệ, Đảng chẳng những không thực hiện được vai trò lãnh đạo

của mình, mà còn không giữ được độc lập tự chủ, nhất là trong bối cảnh hiện

nay. Ở đây, trí tuệ của Đảng không chỉ là tổng hợp trí tuệ của mỗi đảng viên

của Đảng, mà còn được thể hiện ở trình độ lãnh đạo, ở nghệ thuật và khả năng

quy tụ trí tuệ của toàn dân tộc, kể cả người Lào sinh sống ở nước ngoài. Đảng

137

Nhân dân Cách mạng Lào phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và

hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo

quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Có

như vậy, Đảng mới xây dựng được đường lối và chủ trương đúng đắn, khoa

học, định hướng cho sự phát triển của đất nước; đồng thời, kịp thời giải quyết

có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước đặt ra. Nói cách khác, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào phải

thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, đưa ra những chủ trương nhằm nâng cao năng

lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt các cấp, trong đó đặc biệt chú ý cấp tỉnh.

Bởi đây là đội ngũ cán bộ truyền tải và tiến hành thực hiện chủ trương, chính

sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.

Thứ hai, việc nâng cao trí tuệ của Đảng cần phải gắn liền với nâng cao

phẩm chất chính trị, xây dựng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên niềm tin và ý chí

kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội. Niềm tin, lý tưởng, tình cảm cách mạng sẽ vững chắc khi nó được

xây dựng dựa trên cơ sở của tri thức, của trí tuệ. Đảng Nhân dân Cách mạng

Lào cần phải thường xuyên và kịp thời "uốn nắn những nhận thức lệch lạc,

những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm về

niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng". Bởi như V.I.Lênin đã

khẳng định, chỉ giai cấp nào đi theo con đường của mình mà không do dự,

không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những bước ngoặt khó khăn

nhất, gay go nhất và nguy hiểm nhất, thì mới có thể lãnh đạo được quần chúng

lao động và bị bóc lột; rằng, chúng ta không cần những sự “hăm hở điên

cuồng” và điều cần thiết cho chúng ta chính là bước đi nhịp nhàng của những

đoàn quân vững như gang thép của giai cấp vô sản.

Để tăng cường hơn nữa vai trò nhân tố chủ quan của Đảng, cần phải nâng

cao phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Và để nâng cao phẩm chất đạo

đức của cán bộ đảng viên cần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho họ. Có thể

khẳng định rằng, hơn bao giờ hết, hiện nay, nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện phẩm

138

chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ngày càng trở nên quan trọng và

cần thiết; bởi vì, những tác động do mặt trái của cơ chế thị trường và một số

yếu tố tiêu cực khác, một bộ phận cán bộ, đảng viên bị tha hoá, biến chất, phai

nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa đoạ về đạo đức và lối sống, tham ô, hối lộ,

thoái hoá về chính trị. Để khắc phục điều này, biện pháp đầu tiên là Đảng cần

phải loại bỏ, "phải trị ngay số cán bộ thoái hoá, biến chất, tham nhũng quá đáng

từ nhỏ đến lớn (chú ý hàng ngũ trung, cao cấp) để củng cố sức mạnh của Đảng,

tạo niềm tin cho dân và lấy đà xoay chuyển tình hình".

Thứ ba, đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải được xem là công việc thường

xuyên của Đảng. Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào với tư cách Đảng cầm quyền phải thật sự vững mạnh, trong

sạch, có sức chiến đấu cao. Do vậy, Đảng phải coi trọng việc nâng cao sức

chiến đấu của mình dựa trên cơ sở củng cố, tăng cường sức mạnh về tổ chức,

tăng cường kỷ luật; đồng thời, thực sự coi trọng kinh nghiệm lãnh đạo chính trị

trong các thời kỳ cách mạng trước đây và vận dụng những kinh nghiệm đó để

lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thứ tư, Đảng cần tăng cường vai trò lãnh đạo, phát huy đầy đủ hiệu lực

quản lý của các cơ quan nhà nước. Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng

cần được cụ thể hoá, thể chế hoá thành chính sách, luật pháp của Nhà nước.

Quá trình vận động của lịch sử nhân loại cho thấy, một lý luận đúng, một hệ tư

tưởng khoa học, một đường lối sáng suốt sẽ mãi chỉ là lý thuyết nếu chúng

không được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, chính sách của nhà nước.

Chỉ khi bằng sức mạnh của hiến pháp, pháp luật, chính sách của nhà nước,

đường lối phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mới đi vào

cuộc sống. Từ đó, các năng lực sản xuất hiện có trong xã hội mới được giải

phóng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp điệu nhanh, mạnh và vững

chắc. Đến lượt mình, những thành quả phát triển kinh tế - xã hội mới trở thành

nền tảng vững chắc cho hệ thống chính trị.

139

Ngoài ra, Đảng cần thực hiện một loạt biện pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm

phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.

Cần phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liệu, bao cấp để

giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mạnh mẽ tính năng động, niềm phấn khởi, ý

thức làm chủ của nhân dân mà trước hết là làm chủ trong công việc, trong hoạt

động cụ thể của mỗi người. Tâm lý thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, thái độ cửa quyền,

tệ ban phát... phải từng bước được khắc phục, xoá bỏ. Đặc biệt, cần phát huy

vai trò và trách nhiệm của nhân dân trong các hoạt động chính trị - xã hội.

Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải gắn liền với đổi mới và

hoàn thiện hệ thống chính trị. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong

điều kiện Đảng cầm quyền, hệ thống chính trị dễ có nguy cơ trở thành một hệ

thống quyền lực xa rời nhân dân. Điều đó có thể dẫn đến chỗ làm giảm nhiệt

tình cách mạng, hạn chế việc phát huy khả năng to lớn của nhân dân trong quá

trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như trong xây dựng

Đảng, củng cố bộ máy nhà nước và các đoàn thể nhân dân, hạn chế sức mạnh

và hiệu lực của hệ thống chính trị. Vì vậy, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống

chính trị là rất quan trọng và cần thiết.

Thực tế đã chứng minh rằng, dân chủ là một công cụ đắc lực để phát triển

kinh tế, nâng cao tính tích cực sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội. Chỉ có thông qua dân chủ mới có thể lôi cuốn nhân tố con

người vào hoạt động cải tạo sâu sắc các mặt của đời sống xã hội, vào quá trình

quản lý và tự quản lý. Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải gắn chặt với việc tăng

cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương của Nhà nước. Vì thế, cần tiếp tục thể chế

hoá bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân, đẩy mạnh đấu tranh

phòng, chống vi phạm pháp luật, thực thi quyền bình đẳng của công dân trước

pháp luật, phải giáo dục và rèn luyện cho mọi công dân ý thức hiểu biết và thực

hành pháp luật; nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ, tự do và trách nhiệm của

công dân để họ có thể tham gia một cách có hiệu quả vào việc thực hiện và bảo

vệ hiến pháp, luật pháp.

140

Bên cạnh đó, cấp ủy các cấp, trước hết là người đứng đầu các cơ quan,

đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm quy định, chế độ học tập,

quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghiên cứu lý luận chính trị gắn với

việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là

quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ; đồng thời, tăng

cường cơ chế phối hợp giữa cơ quan, đơn vị với cơ sở đào tạo trong việc kiểm

tra, đánh giá chất lượng, xem việc lấy kết quả học tập lý luận chính trị làm

thước đo phẩm chất, năng lực, phân loại của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng

viên trẻ; Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ

đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Cay xỏn Phôn vi hẳn, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo,

tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị,

ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi,

nghiên cứu…

4.3.2. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách pháp luật của Nhà nước

trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

miền Nam Lào hiện nay

Pháp luật là công cụ chủ yếu, quan trọng nhất để nhà nước thực hiện vai

trò quản lý và điều hành xã hội. Để thực hiện tốt vai trò này, nhà nước phải có

trách nhiệm tổ chức xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật đồng

bộ và ổn định nhằm, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong

xã hội yên tâm, tích cực tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội; mặt

khác, phải bảo vệ những lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức xã hội

hướng tới công bằng và tiến bộ xã hội.

Tính đồng bộ của hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật phải đảm bảo và

thoả mãn được các yêu cầu: đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, nhất quán, thông

thoáng, nghiêm túc, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Đối với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xây dựng được một hệ

thống cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ và ổn định, theo chúng tôi, cần dựa

trên những nguyên tắc sau:

141

Một là, pháp luật phải cụ thể hoá những chủ trương, đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Hai là, pháp luật phải phù hợp với thực tế cuộc sống, bắt đầu từ cuộc sống

và có sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các thành viên trong cộng đồng

xã hội.

Ba là, song song với việc xây dựng luật pháp, phải có hệ thống những giải

pháp hợp lý, khả thi trong việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức

pháp luật của nhân dân để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống.

Hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật luôn gắn liền với chế độ xã hội.

Các xã hội khác nhau đều có những chính sách xã hội phù hợp với bản chất xã

hội của mình; do đó, cơ chế, chính sách xã hội luôn có tính lịch sử - cụ thể và

được giải quyết trên cơ sở những đặc thù của từng xã hội cụ thể, trong từng giai

đoạn lịch sử cụ thể.

Cơ chế, chính sách là do con người xây dựng nên, đồng thời cơ chế, chính

sách lại tác động đến hoạt động của con người. Cơ chế, chính sách sẽ mở

đường, là động lực thúc đẩy, khuyến khích phát huy năng lực, sức sáng tạo của

mỗi người, nhưng cũng có thể hạn chế hoạt động làm giảm khả năng sáng tạo

của con người. Do đó, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào cần gắn liền với việc đổi mới hệ thống cơ chế,

chính sách. Có thể nói, trong tình hình hiện nay, việc đổi mới cơ chế sử dụng

và chính sách đối với cán bộ là điểm có tính đột phá.

Hệ thống cư chế và chính sách đối với việc nâng cao năng lực tư duy lý

luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay cần được triển

khai dân chủ, nâng cao trách nhiệm của người làm chủ trong công tác cán bộ,

góp phần vào việc chống bệnh quan liêu, tham nhũng, “tư duy nhiệm kỳ”, tư

duy siêu hình máy móc, tư duy kinh nghiệm, tư duy giáo điều trong đối ngũ

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Quy định mối quan hệ gắn kết chặt chẽ mối quan hệ

giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm xã hội. Mặt khác, cơ chế sử dụng cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh cần khuyến khích người có năng lực tư duy lý luận phát

142

triển, tạo điều kiện cho cán bộ có cơ hội thể hiện bản chất và năng lực, cống

hiến, phục vụ đất nước và nhân dân nhiều hơn nữa.

Việc đổi mới cơ chế, chính sách nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận

của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay cần tiến hành đồng bộ,

từ chế độ tiền lương, chế độ khen thưởng đén việc chọn lọc, đào tạo, bồi

dưỡng, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ... Đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách

là yếu tố mở rộng, thúc đẩy và quyết định việc nâng cao năng lực tư duy lý

luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay.

Song song với việc xây dựng cơ chế, chính sách cho phù hợp, cần quy

hoạch cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay đáp ứng ueey cầu

thực tiễn. Quy hoạch cán bộ là kết quả quan trọng, là căn cứ chủ yếu cho việc

xây dựng quy hoạch hay kế hoạch nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay. Chỉ có tiến hành việc quy hoạch

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào mới có thẻ biết

được tình hình chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và mỗi cá nhân;

biết được trình độ nghiệp vụ, trình độ về lý luận chính trị và hành chính, ngoại

ngữ và năng lực, hiệu quả trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay.

Việc lên quy hoạch cán bộ chủ chốt cấp tỉnh cần bắt đầu từ yêu cần nhiệm

vụ chính trị trong từng giai đoạn và cần căn cứ và tình hình yêu cầu về mặt số

lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Để đảm bảo cho việc

lập quy hoạch cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay, cần có

nguồn cán bộ, rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện nay. Số lượng cán bộ đưa vào quy

hoạch cũng cần có sự mơt rộng, 3 -4 người cho một vị trí cấp tỉnh để học có

điều kiện thi đua, học tập, nâng cao năng lực tư duy lý luận của bản thân ở

niềm Nam Lào hiện nay.

Ngoài ra, cần xây dựng các quy chế nâng cao năng lực tư duy lý luận của

cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay để việc đào tạo cán bộ đi

vào nề nếp, đảm bảo tính khoa học, thống nhất theo nguyên tắc, theo tiêu chuẩn

143

chung. Hệ thống cơ chế thực thi trong công tác nâng cao năng lực tư duy lý

luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay là cơ sở và điểm

căn cứ kiểm tra, đánh giá hoạt động của cán bộ theo quy định chung.

Việc xây dựng các quy định pháp lý cho phù hợp với việc nâng cao năng

lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay cần

thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phổ biến, có cơ sở khoa học, cần

quy định các tiêu chuẩn nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh ở Nam Lào một cách rõ ràng, cụ thể. Hệ thống quy chế, quy định cán

bộ cần thể hiện được tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng trong việc nâng

cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện

nay. Quyền lợi của cán bộ chủ chốt càng lớn, trách nhiệm càng nặng nề. Cùng

với đó cũng cần quan tâm đến việc đào tạo và củng cố các cơ sở pháp lý, cơ

chế quản lý trưởng Đảng cũng như các học viên được nâng cao năng lực tư duy

lý luận cấp tỉnh ở niềm Nam Lào hiện nay.

4.4. TẠO ĐỘNG LỰC KÍCH THÍCH CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH RÈN

LUYỆN NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

Để người cán bộ tư duy lý luận ở trình độ lý luận trong hoạt động đội ngũ

cán bộ chủ chốt thực tiễn (tức là: biến những kiến thức lý luận đã thu nhận qua

học tập, nghiên cứu thành cái của mình; tư duy lý luận trong thực tế, trên thực

chất) phải tạo ra được những điều kiện, nững nguồn kích thích họ tư giác vận

dụng, không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện, mài sắc tư duy của mình. Cụ thể:

Một là, tạo môi trường xã hội dân chủ, kích thích người cán bộ chủ chốt

chỉ đạo thực tiễn dám nghĩ, dám làm, phát triển tư duy độc lập, năng động,

sáng tạo. Môi trường xã hội dân chủ ở đây trước hết là nói đến môi trường

dân chủ, bầu không khí dân chủ trong hoạt động cán bộ chủ chốt. Sinh thời,

Nếu người cán bộ không nói năng, không ý kiến…. không phải họ không có

gì để nói, mà vì họ không dám nói, họ sợ. Thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình

thức trong hoạt động đội ngũ cán bộ chủ chốt sẽ làm triệt tiêu môi trường rèn

144

luyện, nâng cao năng lực và trình độ tư duy của người cán bộ chủ chốt chỉ đạo

thực tiễn.

Đổi mới tư duy, nâng cao năng lực tư duy lý luận phải thông qua giáo dục,

đào tạo, nghiên cứu lý luận, đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ để chuyển hóa,

để biến những kiến thức thu nhận được thành cái của mình. Đối với người cán

bộ chủ chốt, khâu tiếp tục rèn luyện tư duy trong thực tiễn công tác có ý nghĩa

cực kỳ quan trong. Muốn vậy phải tạo ra được một bầu không khí dân chủ

trong hoạt động lý luận và thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt.

Trong hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào

cần môi trường dân chủ, sáng tạo để nâng cao năng lực tư duy lý luận. Nó

khuyến khích con người tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ: nhìn thấy

những cái không bình thường trong những cái tưởng chừng là hợp lý, dám đề

xuất những lý luận, ý kiến táo bạo vượt lên những "khuôn sáo" những "giáo

điều" cũ kỹ về cách quản lý, cách làm ăn, thấm chí những vấn đề được coi là

"lý luận khoa học" trước đây. Trong sinh hoạt tư tưởng, trong thảo luận, tranh

luận, khái quát lý luận, việc xuất hiện những ý kiến khác nhau, thậm chí trái

ngược nhau được coi là bình thường. Qua tranh luận, cọ sát nhiều ý kiến khác

nhau, quan điểm khác nhau đã giúp ta tiếp cận lý luận khoa học, chân lý. Cũng

qua tranh luận, phản biện tình trạng quy chụp đối với những quan điểm, ý kiến

"khác lạ" được ngăn chặn. Làm tốt điều này sẽ nâng cao năng lực tư duy lý

luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói chung và cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Miền

Nam Lào.

Thực hiện chủ trương trong hoạt động cán lãnh đạo chủ chốt - như thực tế

đã chỉ ra - không phải là chuyện đơn giản. Nó liên quan tới nhiều vấn đề phức

tạp như mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, nguyên tắc tập tập trung dân chủ

trong hoạt động bộ máy, phân cấp quản lý giữa Trung ương, các cấp tỉnh, tập

thể cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cá nhân phụ trách… Tuy nhiên, nếu không giải

quyết được những vấn đề đó để tạo ra một bầu không khí dân chủ trong hoạt

145

động cán bộ lãnh đạo chủ chốt, thì việc rèn luyện tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn vẫn rất hạn chế.

Môi trường xã hội dân chủ không chỉ trong hoạt động đội ngũ cán bộ lãnh

đạo mà còn là bầu không khí trong xã hội sẽ góp phần là cho mọi người dân

thực hiện được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc kiểm tra,

giám sát, đánh giá trình độ, năng lực người cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

Môi trường xã hội dân chủ còn là điều kiện tốt để hạn chế ảnh hưởng tiêu

cực, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường đối với người cán bộ lãnh đạo

chủ chốt, chỉ đạo thực tiễn. Môi trường xã hội đân chủ cũng không có chỗ cho

những ai vụ lợi, ham bổng lộc, chỉ thấy lợi trước mắt của bản thân mà quyên

mất lợi ích lâu dài của thập thể, "lóa mắt vì tiền" mà không chịu khó học tập,

trau đổi tri thức lý luận cũng như rèn luyện phương pháp tư duy khoa học… Cơ

chế thị trường buộc mọi người phải quan tâm đến hiệu quả thiết thực của công

việc chứ không phải chỉ chạy theo "thành tích ảo". Cơ chế thị trường cũng tạo

ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy cán bộ phải luôn cố gắng phấn đấu nếu

không muốn trở thành "kẻ bất tài, vô dụng ".

Tóm lại, tạo được bầu không khí dân chủ (trong xã hội, trong hoạt động

lãnh đạo quản lý) là điều kiện tốt để kích thích, thúc đẩy cán bộ lãnh đạo; nói

chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chỉ đạo thực tiễn các cấp tỉnh nói riêng rèn

luyện tư duy lý luận, phát huy khả năng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, chủ

động, tích cực tìm tòi khám phá cái mới, nâng cao trình độ tư duy lý luận.

Hai là, thực hiện tốt việc quy hoạch, bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ dựa

trên tiêu chuẩn về nâng cao trình độ tư duy lý luận.

Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói chung và nói các cấp tỉnh ở

miền Nam Lào nói riêng đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giai đoạn này đang xuất hiện những thời

cơ mới, điều kiện mới; đồng thời cũng có nhiều những áp lực mới, thách thức

mới đối với sự phát triển của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Có chớp được

thời cơ, vượt qua được những nguy cơ, thành thức để phát triển theo mục tiêu

146

đã lựa chọn hay không, điều đó tùy thuộc rất lớn vào việc có xây dựng được

một đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt nói chung và cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo

thực tiễn nói riêng ngang tầm, với nhiệm vụ hay không? Chính vì vậy, bước

vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Nhân dân Cách

mạng Lào đã hết sức quan tâm đến tiêu chuẩn cán bộ.

Cán bộ lãnh đạo chủ chốt nói chung, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn

nói riêng phải có năng lực và trình độ tư duy lý luận. Đó là yêu cầu của nhiệm

vụ cách mạng mới. Điều quan trọng là phải gắn yêu cầu đó với việc quy

hoạch, bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ. Đặt ra tiêu chuẩn, nhưng trong quy

hoạch, bố trí, sắp xếp cán bộ lại chưa thực sự quan tâm đến nó thì cũng sẽ chỉ

là hình thức.

Công tác quy hoạch, bố trí, sắp xếp cán bộ ở Nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào hiện nay vẫn còn những bất cập, hạn chế. Coi năng lực và trình

độ tư duy lý luận (trong thực chất chứ không phải trên bằng cấp) như là một

tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt (kể cả cấp tỉnh cấp huyện)

sẽ kích thích, "buộc" họ (những người đương chức và những người trong quy

hoạch) phải nỗ lực, phấn đấu rèn luyện nâng cao trình độ tư duy trong học tập,

nghiên cứu, cũng như trong thực tiễn công tác.

Năng lực và trình độ tư duy lý luận nếu được lấy làm tiêu chuẩn để bố trí,

sắp xếp cán bộ trước hết sẽ tạo ra được đội ngũ cán bộ có đủ năng lực đảm

đương trách nhiệm cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chỉ đạo thực tiễn, phát triển kinh

tế - xã hội, đáp ứng những đòi hỏi vô cùng phức tạp mà thực tiễn đặt ra; mặt

khác, đây cũng là tiêu chí buộc mọi cán bộ phải nỗ lực, cố gắng phấn đấu

thường xuyên, liện tục nâng cao năng lực và trình độ tư duy lý luận của mình.

Ba là, làm tốt công tác đánh giá cán bộ, có chính sách khuyến khích đối

với cán bộ tích cực rèn luyện nâng cao tư duy lý luận. Đánh giá cán bộ là công

việc hệ trọng, có ý nghĩa quan trọng của công tác cán bộ, đây vừa là cơ sở để

thực hiện tốt việc quy hoạch, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ; vừa có tác dụng

147

kích thích, động viên cán bộ phấn đấu nâng cao phẩm chất cũng như trình độ

năng lực mọi mặt của mình.

Tiêu chí đánh giá mỗi loại cán bộ có khác nhau, với những công việc cụ

thể khác nhau cũng khác nhau. Nhưng nhiệm vụ cách mạng ở thời điểm hiện

nay đòi hỏi cán bộ từ cấp tỉnh trở lên phải có năng lực tư duy ở trình độ lý luận.

Năng lực này thể hiện trong thực tế chủ yếu ở kết quả thực hiện nhiệm vụ của

từng cán bộ.

Đối với cán bộ lãng đạo chủ chốt, chỉ đạo thực tiễn, năng lực tư duy lý

luận còn thể hiện trong mực độ đóng góp vào đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước; vào nghị quyết, chủ trương, quyết định những công tác

chung trên địa bàn, lĩnh vực mà họ phụ trách… thông qua nghiên cứu thực tiễn,

tổng kết thực tiễn của họ. Thiết tưởng, tiêu chí này không phải là duy nhất,

quan trọng nhất, nhưng cái đang đòi hỏi bức thiết của thực tiễn phức tạp, đầy

biến động.

Trên đây là những giải pháp chủ yếu nhằm tạo ra những động lực kích

thích và tạo điều kiện cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt nâng cao năng lực và

trình độ tư duy lý luận. Các giải pháp trên phải được tiến hành một cách đồng

bộ mới tạo ra được động lực vừa kích thích, vừa buộc người cán bộ tự rèn

luyện nâng cao năng lực và trình độ tư duy lý luận.

Tiểu kết chương 4

Qua phân tích và đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào trong giai đoạn hiện nay cho

thấy, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền

Nam Lào đã đạt được những kết quả nhất định: Phần lớn cán bộ chủ chốt cấp

tỉnh có khả năng nhận thức và ghi nhớ tốt tri thức lý luận Mác - Lênin, các tri

thức khoa học khác và thể hiện được năng lực sáng tạo trong vận dụng chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước vào lãnh

đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp tỉnh có hiệu quả.

148

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì năng lực tư duy của đội ngũ cán

bộ này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thể hiện năng lực tư duy lý luận của họ

còn chịu ảnh hưởng bởi tư duy kinh nghiệm trong nhận thức và hoạt động thực

tiễn, một số cán bộ còn thiếu tính tự giác trong học tập, rèn luyện nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị. Bên cạnh những

cán bộ có trách nhiệm thì còn một số cán bộ các cấp tỉnh có sự dao động lập

trường, tư tưởng, mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin hoài nghi vào tính

hiện thực của lý luận.

Để từng bước nâng cao và khắc phục những hạn chế trong năng lực tư

duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay

cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó cần tập trung vào đẩy mạnh phát

triển kinh tế - xã hội, từng bước cải tạo tồn tại xã hội của tỉnh theo hướng tác

động thuận lợi cho phát triển năng lực tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt các

cấp tỉnh, xây dựng các cơ chế chính sách huy động nguồn lực phát triển kinh tế

- xã hội trong các lĩnh vực, đổi mới hiệu quả các chương trình đào tạo, bồi

dường các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt môn triết học Mác - Lênin.

Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới nội dung, phương pháp trong giáo

dục các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, cần tăng cường tính chủ động trong bồi

dưỡng lý luận, rèn luyện kỹ năng tổng kết hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán

bộ chủ chốt các cáp tỉnh ở miền Nam Lào. Bồi dưỡng năng lực tư duy lý luận

phải gắn với đẩy mạnh việc đấu tranh chống tiêu cực và đổi mới chính sách cán

bộ nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp tỉnh ở miền Nam Lào.

149

KẾT LUẬN

Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Cách mạng Lào là một sự nghiệp vô cùng to lớn chỉ có thể

đi đến thắng lợi khi có một đội ngũ cán bộ chủ chốt có đầy đủ phẩm chất cần

thiết, đặc biệt là tư duy lý luận. Bởi vì, năng lực tư duy lý luận có vai trò hết

sức to lớn đối với hoạt động của người cán bộ chủ chốt. Nó cung cấp cho đội

ngũ cán bộ này phương pháp tư duy biện chứng, tránh bệnh chủ quan duy ý

chí, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.

Sau thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở

Nam Lào đã được Đảng và Nhà nước quan tâm cùng với sự nổ lực, phấn đấu

của họ, do vậy, họ đã có sự phát triển vượt bậc về tư duy lý luận, bước đầu

đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Tuy nhiên, hiện nay Nam Lào

vẫn là vùng phát triển kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, đời sống kinh tế của

người dân vẫn còn khó khăn, văn hóa vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.

Để phát triển kinh tế - xã hội ở nơi đây, yêu cầu đầu tiên cần quan tâm phát

triển đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Bởi họ là “đầu tầu” định hướng phát

triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh này. Và để phát triển, bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp tỉnh, ngoài nâng cao năng lực chuyên môn, không thể không

nâng cao năng lực tư duy lý luận, tư duy khoa học, sáng tạo cho đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp thỉnh.

Qua khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng năng lực tư duy lý luận của

đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào trong giai đoạn hiện nay

cho thấy, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở

miền Nam Lào đã đạt được những kết quả nhất định: Phần lớn cán bộ chủ chốt

cấp tỉnh có khả năng nhận thức và ghi nhớ tốt tri thức lý luận Mác - Lênin, các

tri thức khoa học khác và thể hiện được năng lực sáng tạo trong vận dụng chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước vào lãnh

đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp tỉnh có hiệu quả.

150

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì năng lực tư duy của đội ngũ cán

bộ này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, điều đó thể hiện: họ còn chịu ảnh hưởng

bởi tư duy kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí, giáo điều... trong nhận thức và

hoạt động thực tiễn, một số cán bộ còn thiếu tính tự giác trong học tập, rèn

luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị.

Bên cạnh những cán bộ có trách nhiệm thì còn một số cán bộ các cấp tỉnh có sự

dao động lập trường, tư tưởng, mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin hoài

nghi vào tính hiện thực của lý luận.

Để từng bước nâng cao và khắc phục những hạn chế trong năng lực tư

duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp tỉnh ở miền Nam Lào hiện nay

cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó cần tập trung vào đổi mới nội

dung, chương trình, phương pháp giáo dục các môn chủ nghĩa Mác - Lênin;

xây dựng các cơ chế chính nhằm mở rộng dân chủ, gắn giáo dục đào tạo các

môn chủ nghĩa Mác - Lênin với hoạt động thực tiễn; khuyến khích chủ thể tự

nâng cao năng lực tư duy lý luận.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

là quá trình lâu dài, khó khăn và đầy phức tạp. Phức tạp hơn nữa là xây dựng

và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào trong điều kiện thế giới có nhiều iến động, các thế lực

thù địch thì luôn tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại. Vì vậy,

nhiệm vụ nặng nề đang đặt lên vai các cán bộ chủ chốt các cấp, trong đó có cấp

tỉnh. Với tinh thần quyết tâm nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ chủ

chột cấp tỉnh, trong đó có cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Nam Lào, tin tưởng rằng,

chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng thành công ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

1. Sisouk PHONGPHICHIT (2019), "Vai trò của tư duy lý luận trong quá

trình đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Lý luận chính

trị, (2), tr.112-117.

2. Sisouk PHONGPHICHIT (2019), "Nâng cao năng lực tư duy lý luận

cho cán bộ thuộc cơ quan đảng ở Lào hiện nay", Tạp chí Khoa học xã

hội Việt Nam, (5), tr.52-58.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Vũ Văn Ban (2017), Một số vấn đề về nâng cao năng lực tư duy lý luận

của giảng viên trẻ trong các học viện, trường sĩ quan quân đội nhân

dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

2. Hoàng Chí Bảo (1998), "Tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận", Tạp chí

Thông tin lý luận, (11).

3. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Bun Xợt Thăm Ma Vông (2013), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

huyện ở các tỉnh phía Nam Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên ngành xây dựng

Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

5. Bun Lư Sổm Sắc Đi (2010), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh

khu vực phía Bắc của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong

giai đoạn cách mạng hiện nay, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành xây

dựng đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

6. Bun Phết XuLyVôngXắc (1994), Năng cao trình độ tư duy lý luận cho

cán bộ đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn

cách mạng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

7. Nguyên Văn Cao (2010), Nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cấp

ủy ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng hiện nay, Luận văn

thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị khu vực I, Hà Nội.

8. Cay xỏn Phom Vi Han (1990), Những bài nói và viết chọn lọc, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

153

9. Nguyễn Thành Chung (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ ở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, Luận văn

thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

10. Vũ Đình Chuyên (2008), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo quản lý câp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế ở

tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

11. A.G.Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Mạnh Cương (2006), Những đặc trưng của tư duy lý luận, tại

trang http://www.huc.edu.vn, [truy cập ngày 10/5/2018].

13. Phạm Như Cương (1999), Đổi mới phong cách tư duy, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

14. Phạm Như Cương (2004), Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận - Một đòi hỏi

bức xúc hiện nay của đất nước và của thời đại, Nxb Thông tin,

Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Dũng (2001), Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán

bộ chính trị cấp trung đoàn quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,

Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

16. Nguyễn Bá Dương (2010), Tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới giáo

dục quốc phòng trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

17. Ma Phúc Dự (2016), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, Luận án tiến sĩ

Triết học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Lịch

sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 - 2007,

Biên niên sự kiện 1930 - 1975, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Lịch

sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 - 2007,

Biên niên sự kiện 1976 - 1982, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Dương Minh Đức (2006), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện

nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

23. Cao Thị Hà (2016), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng

viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam

hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

24. Lê Thị Thanh Hà (2015), "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong quá

trình đổi mới ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (9), tr.49 - 56.

25. Đặng Nguyên Hà (2018), "Tư duy lý luận chính trị của cán bộ lãnh đạo và

quản lý ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học xã hội, (01), tr.38-43.

26. Đỗ Ngọc Hạnh (2018), Vấn đề phát triển tư duy lý luận của chính trị viên

trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Hùng (2006), Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ

cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Lạng Sơn hiện nay, Luận văn thạc sĩ

Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

28. Dương Phú Hiệp (2008), Triết học và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

155

29. Trần Đình Huỳnh (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của năng lực

trí tuệ và lý luận", Tạp chí Xây dựng Đảng, (2), tr.31-34.

30. Khăm Phủi Chăn Thavadi (2018), Một số giải pháp nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở

các tỉnh phía Bắc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, tại trang

http://www.xaydungdang.org.vn, [truy cập ngày 6/3/2019].

31. Nguyễn Thế Kiệt (2001) Thực trạng tư duy lý luận của lãnh đạo quản lý

nước ta hiện nay. Trong quá trình học tập phong cách tư duy Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva.

33. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva.

34. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva.

35. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

36. Nguyễn Văn Linh (1991), Đổi mới để tiến lên, tập III, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

37. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi

mới tư duy", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.14-17.

38. Nguyễn Ngọc Long (1998), "Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều, đổi mới

tư duy lý luận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.37-40.

39. Nguyễn Văn Lý (2015), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ

lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

41. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

42. C.Mác và Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

156

43. Hồ Chí Minh (1980), Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Nhà xuất bản Thể dục thể thao (1990), Hình ảnh cho P.A. Ru dich,

Hà Nội.

49. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

50. Lê Hữu Nghĩa và các cộng sự (2010), Những vấn đề lý luận và thực tiễn

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

và Lào, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

51. Nguyễn Thành Nguyên (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán

bộ chủ chốt cấp cơ sở quận Dương Kinh, Thành phố Hải phòng hiện

nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị khu vực I, Hà Nội.

52. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Triết học, (Bản dịch Tiếng Việt có

sửa chữa và bổ sung), Hà Nội.

53. Nguyễn An Ninh (2006), "Nhìn lại sự vận động của tư duy lý luận từ chủ

nghĩa xã hội ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, (03), tr.53-58.

54. Trần Sỹ Phán (2017), "Tư duy lý luận", Tạp chí Lý luận chính trị, (22),

tr.110-115.

55. Trần Sỹ Phán (2017), "Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự

nghiệp đổi mới của Đảng ta", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,

[truy cập ngày 7/3/2019].

56. Bùi Đình Phong (2015), "Phát triển tư duy lý luận về văn hóa qua 30 năm

đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (12), tr.9-13.

57. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

58. Trần Văn Phòng (2005), "Bản lĩnh chính trị của người cán bộ lãnh đạo,

quản lý ở nước ta hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.68-73.

59. Trần Văn Phòng (2007), “Giải pháp nâng cao năng lực tư duy biện chứng,

chống bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí”, Tạp

chí Lý luận chính trị, (8), tr.56-61.

60. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2008), Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn

của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông

Hồng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

61. Trần Văn Phòng (2018), Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam, giáo trình cao cấp lý luận

chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

62. Nguyễn Trọng Phúc (2009), "Tư duy lý luận của Đảng về phát triển xã hội

và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới", Tạp chí Lịch sử

Đảng, (02), tr.97-102.

63. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư

duy lý luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Phúc (2012), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

chủ chốt cấp cơ sở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng hiện

nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

65. Phạm Ngọc Quang (1994), "Yêu cầu mới về năng lực, trí tuệ của Đảng ta

trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Triết học, (02), tr.49-54.

66. Phạm Ngọc Quang (2001), "Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong tình

hình hiện nay - vấn đề và giải pháp", Trong sách: Những vấn đề lý

luận đặt ra từ các văn kiện đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

158

67. Lê Văn Quang (2017), Vai trò của Triết học Mác - Lênin trong đổi mới tư

duy lý luận ở Việt Nam hiện nay, tại trang https://trithuc. itrithuc.vn,

[truy cập ngày 27/12/2018].

68. Trần Viết Quang (1996), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở trường chính trị tỉnh, Luận văn thạc

sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

69. Nguyễn Hồng Quý (2004), "Tư duy lý luận và bản chất của nó", Tạp chí

Tâm lý học, (9), tr.35-41.

70. Nguyễn Duy Quý (2006), "Đổi mới tư duy lý luận - Thành tựu và một số

vấn đề đặt ra", Tạp chí Khoa học xã hội, (4), tr.61-65.

71. Nguyễn Đức Quyền (2005), "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội

ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết

học, (03), tr.75-80.

72. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê ngọc Tòng (Chủ biên)

(2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Si Sôm Phu Tha Vi Xay (2006), Nâng cao trình độ lý luận chính cho cán

bộ ở Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học,

Học viện Chính trị - Hành chính Hồ Chí Minh, Hà Nội.

74. Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội qua

thực tiễn Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

75. Trần Hậu Tân (2014), Kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng

lực thực tiễn của chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt Nam

hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

159

76. Nguyễn Thanh Tân (2006), Lô gics vận động của khái niệm trong tư

duy lý luận, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Hàn lâm khoa học xã

hội, Hà Nội.

77. Tạ Ngọc Tấn, Lê Văn Lợi (Đồng chủ biên) (2017), Đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lao động, quản lý đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam và Lào, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

78. Phạm Kim Thành (2011), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện

nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

79. Duy Thành (1987), "Đổi mới tư duy, cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn",

Tạp chí Triết học, (1), tr.21-27.

80. Trần Thành (Chủ biên) (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người

cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Trần Thành (2004), "Một số vấn đề phương pháp luận trong tổng kết thực

tiễn", Lý luận chính trị, (2), tr.43-48.

82. Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thủy Anh, Phùng Văn Đông (2010), Đổi mới

công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Bá Thâm (1994), "Bàn về năng lực tư duy", Tạp chí Triết học, (2),

tr.25-30.

84. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã hiện nay, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

85. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên

của nó", Tạp chí Triết học, (4), tr.34-39.

86. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự

nghiệp đổi mới", Tạp chí Triết học, (01), tr.43-47.

160

87. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ

cán bộ giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

88. Nguyễn Phú Trọng (2014), "Tổng kết thực tiễn - một nhiệm vụ trọng yếu

của công tác lý luận hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (26), tr.3-8.

89. Lê Xuân Tùng (2004), "Những đột phá tư duy lý luận về kinh tế thị trường

ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (16), tr.9-13.

90. Nguyễn Thị Bạch Vân (2014), "Tư duy lý luận: Một số vấn đề cần quan

tâm", Tạp chí Triết học, (2), tr.63-69.

91. Nguyễn Thị Bạch Vân (2014), "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh

viên thông qua giảng dạy triết học", Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, (9), tr.75-80.

92. Ngô Đình Xây (1990), "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở

nước ta", Triết học, (4), tr.15-19.

93. Ngô Đình Xây (2006), "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư

duy lý luận", Tạp chí Triết học, (4), tr.67-72.

* Tài liệu tiếng Lào (dịch sang tiếng Việt)

94. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2010), Báo cáo chính trị Đại

hội lần thứ VII, Chăm Pa Sắc.

95. Ban Tổ chức tỉnh Chăm Pa Sắc (2017), Báo cáo tổng tổng kết ban tổ chức

tỉnh Chăm Pa Sắc năm 2017, Chăm Pa Sắc.

96. Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Sê Kong (2017), Báo cáo tổng kết Ban Tổ chức Tỉnh

ủy tỉnh Sê Kong năm 2017, Sê Kong.

97. Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Át Ta Pư (2017), Báo cáo tổng kết Ban Tổ chức

Tỉnh ủy tỉnh Át Ta Pư năm 2017, Át Ta Pư.

98. Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Sa La Văn (2017), Báo cáo tổng kết của Ban Tổ

chức Tỉnh ủy tỉnh Sa La Văn năm 2017, Sa La Văn.

161

99. Cay Xỏn Phôn Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

100. Cay Xỏn Phôn Vi Hản (1987), Tuyển tập, tập 2, Nxb Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

101. Cay Xỏn Phôn Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 3, Nxb Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

102. Cay Xỏn Phôn Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 4, Nxb Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

103. Cay Xỏn Phôn Vi Hản (1991), Bài hội thoại của Tổng bí thư trước Hội

nghị công tác tổ chức toàn quốc lần thứ VII, Viêng Chăn.

104. Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2010), Hội nghị Ủy ban Đảng tỉnh Chăm pa

sắc Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VII, Chăm Pa Sắc.

105. Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2015), Nghị quyết chuyên đề của Đảng bộ

tỉnh Chăm Pa Sắc về công tác cán bộ và cán bộ lãnh đạo chủ cốt cấp

tỉnh, Chăm Pa Sắc.

106. Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ

VII, Chăm Pa Sắc.

107. Đảng bộ tỉnh Sa La Văn (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ

VIII, Sa La Văn.

108. Đảng bộ tỉnh Sê Kong (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ IX,

Sê Kong.

109. Đảng bộ tỉnh Ât Ta Pư (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ X,

Ât Ta Pư.

110. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IV, Viêng Chăn.

111. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Viêng Chăn.

162

112. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1998), "Nghị quyết hội nghị phát triển

nhân lực", Tạp chí Alunmay, (6).

113. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Viêng Chăn.

114. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại biểu đại hội toàn

quốc lần thứ X, Viêng Chăn.

115. Quốc hội nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Luật hành chính địa

phương, Viêng Chăn.

116. Sở Nội vụ tỉnh Chăm Pa Sắc (2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Chăm

Pa Sắc.

117. Sở Nội vụ tỉnh Sa La Văn (2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Sa La Văn.

118. Sở Nội vụ tỉnh Sê Kong (2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Sê Kong.

119. Sở Nội vụ tỉnh Ât Ta Pư (2018), Báo cáo tổng kết năm 2018, Ât Ta Pư.