Ngân sách việt Nam sau chiến trạnh và kế hoạch phát triển phù hợp điều kiện đất nước
lượt xem 10
download
Tham khảo luận văn - đề án 'ngân sách việt nam sau chiến trạnh và kế hoạch phát triển phù hợp điều kiện đất nước', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ngân sách việt Nam sau chiến trạnh và kế hoạch phát triển phù hợp điều kiện đất nước
- Mở b ài Trong nền kinh tế, hệ thống ngân h àng của một đất nước đóng vai trò hết sức quan trọng, như kiểm soát và điều tiết mức cung tiền cũng như các vấn đề liên quan đến tiền tệ, quản lý hoạt động của các ngân h àng trung gian, thực hiện nhiều nhiệm vụ của chính phủ, và để thực hiện được vai trò này, ngân hàng trung ương vận dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một chính sách vĩ mô. Nó tạo ra những tác động nhằm định hướng và điều tiết nền kinh tế. Vì vậy đ ể có một nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao và ổn định thì ngân hàng trung ương cần phải xem xét vận dụng những công cụ gì của chính sách tiền tệ cho thích hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam, sau chiến tranh nền kinh tế bị suy sụp nghiêm trọng và từ những năm 1987 n ền kinh tế đ ất nước rơi vào lạm phát cao ba con số làm cho lòng tin của nhân dân vào chính phủ ngày càng giảm sút. Nhưng do sự vận dụng đúng đ ắn của chính sách tiền tệ, đ ã làm cho lạm phát giảm thấp từng bước ổn định và đưa nền kinh tế đến tăng trư ởng. Cũng chính vì tầm quan trọng này mà trong đề tài này em xin đ ề cập đến những chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương và sự vận vụng của nó ở Việt Nam. Nhưng do sự hiểu biết của em còn h ạn hẹp n ên mong được sự góp ý chỉ bảo thêm từ thầy cô. PHẦN A CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG I. KHÁI NIỆM VÀ MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TÊ: 1. Chính sách tiền tệ là gì? Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nh à nước. Nó là công cụ quản lý vĩ mô củ a Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ do ngân h àng trung ương
- khởi thảo và th ực hiện với mục tiêu cao nhất là ổ n định giá trị đ ồng tiền để từ đó ổn định và tăng trưởng kinh tế. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ: Bất cứ chính sách nào đều có mục tiêu của nó. Vì chính sách tiền tệ là hoạt động có ý thức của NHTƯ, cho nên những tác động của nó đến nền kinh tế phải được hiểu là nằm trong hệ thống các mục đích mà NHTƯ cần đạt được. Tất cả các NHTƯ của các nước trên thế giới hiện nay đều có những mục tiêu khá giống nhau trong việc xây dựng chính sách tiền tệ và đ iều tiết cung ứng tiền. Trên đại thể, mục tiêu của chính sách tiền tệ có thể quy về hai nhóm sau: Mục tiêu tiền tệ và mục tiêu kinh tế. a. Mục tiêu tiền tệ: Về phương diện tiền tệ, có 4 mục tiêu mà chính sách tiền tệ mong muốn đ ạt tới: điều hoà khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền. a.1. Điều hoà khối tiền tệ: Đó là nhằm duy trì m ối tương quan tiền - hàng đ ược ổn đ ịnh bằng cách giữ nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát: nếu mỗi n ăm kinh tế đều tăng trưởng, thì ph ải tăng khối tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này khắc chế xu hướng ấn đ ịnh khối tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời gian d ài. Một khối tiền tệ ấn đ ịnh trư ớc một cách chặt chẽ sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương b ổng giảm nếu sản xuất tăng lên. Nhưng làm như vậy sẽ tạo ra nhiều căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối, làm nguy hại đến mức tăng trưởng kinh tế. Khối tiền tệ ở Việt Nam hiện nay bao gồm phần lớn là tiền giấy do ngân h àng Nhà nước phát hành. Hầu như tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán duy nhất. Đôi khi cũng có
- thanh toán bằng séc hay chuyển khoản, song séc thì đ ịnh mức, còn chuyển khoản thì rườm rà, khó kh ăn. Chính vì thành phần đ ơn nhất của khối tiền tệ (hầu như chỉ duy nhất là tiền giấy của NHTƯ ), mà việc điều hoà khối tiền tệ trước đây chỉ chăm chú vào quản lý tiền mặt, lãng quên tiền chuyển khoản, tiền bút tệ. Việc điều hoà khối tiền tệ kiểu đó không thừa nhận tiền trên các tài khoản tiền gởi thanh toán (tài kho ản có thể rút séc) có th ể chuyển hoá th ành tiền mặt; là thành phần đương nhiên của khối tiền tệ, thậm chí còn tìm cách ngăn chặn sự chuyển hoá của tiền tệ, ngăn cản nguồn phát sinh tiền mặt từ các tài khoản tiền gởi thanh toán. Đó là cách làm ngh ịch lý, dẫn tới việc các doanh nghiệp găm giữ tiền mặt, gây ra phản ứng dây chuyền thiếu tiền mặt thường xuyên trong hệ thống ngân hàng và trong nền kinh tế. Hạn chế tiền mặt sẽ kích thích tâm lý thông tin vào h ệ thống ngân hàng, không ai muốn gởi tiền vào ngân hàng và sẽ tự động chuỷen ra đô la hoặc ra vàng gây nên bất động hoá về vốn. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả n ăng k ỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, đ iều chỉnh mức cung tiền đ ể ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, n ên có việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương và tiền ngân h àng. Tiền trung ương là tiền cho NHTƯ độc quyền phát h ành. Tiền ngân hàng (tiền tín dụng) là tiền do các NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đ ặc biệt là tiền các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều lần qu ỹ dự trữ ngân hàng (thông qua h ệ số tạo tiền) . Hệ thống NHTM không thể tạo tiền tín dụng từ hư không mà phải dựa vào tiền trung ương. Mức tạo tiền tín dụng do hệ số tạo tiền hay tỉ lệ dự trữ bắt buộc quyết đ ịnh. Một đồng tiền ngân hàng trung ương mà NHTM huy động được tạo khả năng cho NHTM cung ứng cho nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần; ngược lại mức cung tiền tín
- dụng của NHTM cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền trung ương trong tay họ giảm đi một. Cơ chế tạo ra tiền của NHTM xuất phát từ 2 nguồn: a) tiền gởi của công chúng; b) sự cho vay của ngân h àng. Chính vì khả năng tạo ra bút tệ (tiền tín dụng) của các NHTM trong việc điều hoà khối tiền tệ, ngân hàng trung ương thường kiểm soát khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa các dự trữ của ngân h àng này với tổng số tiền gởi. Để điều hoà khối tiền tệ, NHTƯ sử dụng các phương tiện trực tiếp và gián tiếp. Nh ững phương tiện trực tiếp có ảnh hưởng thẳng đối với khối tiền tệ lưu hành, những phương tiện trực tiếp b ao gồm: 1) kiểm soát các NGTM; 2) sự bất động hoá vàng nhập khẩu; 3) hạn chế nhập nội các ngoại tệ... Nh ững ph ương tiện gián tiếp có ảnh hưởng không chắc chắn, ảnh hưởng có xảy ra hay không là tu ỳ ở phản ứng của các đối tượng, bao gồm: 1) tăng hay giảm lãi suất chiết khấu; 2) chính sách thị trư ờng mở. Những phương tiện gián tiếp chủ yếu thực hiện thông qua cơ chế thị trường, m à công cụ chủ yếu trong cơ ch ế thị trường là lãi suất. Nh ư vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc gián tiếp, NHTƯ hoàn toàn làm chủ khả n ăng điều hoà khối tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế và đó là lẽ sống còn của NHTƯ. a.2. Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền: Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thu ần có nhược điểm là không lưu ý tới tốc độ lưu hành tiền tệ. Cái gì ảnh h ưởng mạnh mẽ đến vật giá, không phải chỉ có khối tiền tệ M, mà còn có tốc độ lưu hành tiền tệ V nữa. Vậy kiểm soát khối lượng M ch ưa đủ, m à phải lưu ý tới V, hay đ úng hơn, kiểm soát M. V. mà người ta gọi là trào lượng tiền tệ, tức là tổng số lượng tiền tệ dùng đ ể chi trả trong khoảng thời gian nhất đ ịnh với tốc độ V.
- Tốc độ V có tác dụng khuyếch đại nhiều hay ít khối lượng tiền tệ M. Trào lượng tiền tệ tăng hay giảm ch ưa nói lên được tác dụng của nó làm giảm hay tăng giá trị tiền tệ. Cần phải xem nó có tác dụng như thế nào đối với T. Mà T bao gồm trong bản thân nó hai thành phần: một là số lượng hàng hoá và dịch vụ do sản xuất trong nước cung ứng và một là số lượng hàng hoá dịch vụ xuất phát từ nhập khẩu. Nếu đứng trên phương diện cả nước nói chung, số lượng tiền tệ M được lưu thông từ tay người n ày sang tay ngư ời khác với một tốc độ nào đó , ta gọi là V. Với V, M biến thành một trào lượng tiền tệ M. V tức là tổng số giá trị chi trả để trao đổi với T (hàng hoá và dịch vụ), tổng số hàng hoá và dịch vụ được dùng trao đổi với M qua V lần sử dụng. Nh ưng việc kiểm oast M. V. rất khó, bởi vì tuỳ thuộc vào cách hành động của các chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tuỳ thuộc vào niềm tin của những người nầy đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính sách kinh tế của Nhà nước. Ngo ài ra, nó còn tu ỳ thuộc vào khả năng thanh toán của ngân hàng, trình độ kỹ thuật ngân h àng, mức độ tin tưởng của dân chúng đối với ngân h àng. Ở n hững nư ớc công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân h àng được sử dụng rộng rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán. Tổng số thanh toán các cuộc giao dịch bằng phương tiện này lên đến 70 - 80% trên tổng số thanh toán của dân cư. Vì vậy, NHTƯ kiểm soát số chi trả của toàn xã hội qua hệ thống ngân h àng bằng cách tính tổng giá trị séc đưa đ i giao hoán tại NHTƯ và theo dõi biến chuyển của nó. Ở nước ta, việc dùng séc trong dân cư ít thông dụng, dùng tiền mặt đ ể chi trả là phổ biến, cho nên một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân h àng, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ . Đó là đầu mối gây bất ổn cho nền kinh tế một cách
- đột biến. Đó cũng là lý do cần phải thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới h ình thức tiền gởi không kỳ hạn và dùng sẽ để thanh toán, một yếu tố cần thiết để cho việc thực thi chính sách tiền tệ được hữu hiệu. a.3. Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn đ ịnh vật giá: Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và d ịch vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm. Ngược lại, khi mức vật giá chung giảm, sức mua của đồng tiền tăng. Tuy nhiên, nếu vế thứ nhất không có điều gì ph ải tranh cãi, vế thứ hai cần xác đ ịnh rõ hơn. Sức mua đồng tiền tăng khi mức vật giá chung giảm chỉ là đ iều đáng mừng khi nào do năng su ất chung tăng lên. Thật vậy, trong trường hợp này, nhfa sản xu ất tuy bán lẻ với giá hạ hơn nhưng vẫn có lời vì nhờ năng suất tăng, giá thành mỗi đơn vị sản phẩm vẫn thấp hơn giá bán. Nhà sản xuất có lời, họ vẫn tiếp tục sản xuất, nhân công chẳng những duy trì được việc làm mà còn có thể tăng thu nhập đó là do n ăng suất lao động tăng. Trái lại, nếu vật giá chung giảm, không do năng suất mà do m ức cầu trên thị trường giảm, thì là một biểu hiện đ áng lo. Vật giá giảm, sức mua đồng tiền tuy có tăng, nhưng đó ch ỉ là tăng nh ất thời, vì người sản xuất có thể rơi vào tình trạng lỗ lã. Họ có thể xét lại kế hoạch sản xuất, có thể sẽ bớt nhân công, bớt số lượng sản xuất, nếu tình trạng hạ giá, hàng hoá tồn đọng kéo d ài. Tình hình đó m à lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm số cầu của thị trường, làm cho kinh tế suy thoái thêm. Do đó chính sách tiền tệ phải nhằm đ ảm bảo mức vật giá chung ổn định. Sự ổn đ ịnh của vật giá là điều cần thiết đ ể mọi người được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán
- công việc đ ầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy cần có sự ổn định lâu d ài mới khuyến khích sức đầu tư. Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, một mức vật giá tăng hàng năm ở mức 2 hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển m à chính sách tiền tệ có thể ch ấp nhận được. Lẽ tất nhiên, một chính sách tiền tệ có thể tác động tới sự gia tăng năng su ất trong hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế vẫn là điều mỏng mỏi. a.4. Ổn đ ịnh giá trị quốc ngoại của đồng tiền: Giá trị quốc ngoại của đồng tiền được đo lường bởi tỷ giá hối đoái thả nổi. Một sơ biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nươc tu ỳ theo m ức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước với tiền tệ n ước ngoài. Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trư ờng và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nư ớc. Do đó , một chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong n ước cần phải đ i đô i với những biện pháp nhằm ổn đ ịnh tỷ giá hối đoái. Về phương tiện tiền tệ, khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái, tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tệ. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết những yếu tố này ở phần dưới đây. Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đ ều có khối dự trữ ngoại hối , lớn hay nhỏ tùy theo kh ả năng của nền kinh tế nước đó có thể tạo lập được nhiều hay ít. Nó là kết quả của tổng số thu và chi ngo ại tệ (kể cả vàng) của một nước trong thời hạn nhất định, thường là một năm. Dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi, bất kể thu, chi ngoại hối vì lý do gì. Điều đó có được khi Ngân hàng trung ương mua bán ngoại hối. Ngân hàng trung ương mua ngoại hối, khối tiền tệ tăng thêm; ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại hối, khối tiền tệ giảm, nếu những yếu tố khác không thay đổi.
- Khối dữ trữ ngoại hối nước ta hiện nay còn khiêm nhường, vì vậy tác động của sự biến chuyển trong dự trữ ngoại hối không lớn lắm đối với khối tiền tệ. Tuy nhiên, trong tương lai thì dự trữ ngoại hối trở nên quan trọng hơn, tác động của nó trên khối tiền tệ cũng lớn hơn. Nói chung, một sự gia tăng dự trữ ngoại hối kéo theo sự gia tăng trong khối tiền tệ. Ngược lại, một sự giảm thiểu trong dự trữ đó đưa đến hậu quả tất yếu là giảm thiểu khối tiền tệ. Sự biến chuyển trong dự trữ ngoại hối tuỳ thuộc vào thị trường và chính sách hối đoái. Thị trư ờng hối đoái: là nơi mua, bán ngo ại tệ. Trong một nước mà thị trường hối đoái tổ chức quá đơn sơ, thị trường hối đoái không tổ chức sẽ b ành trướng mạnh mẽ, khiến cho NHTƯ chẳng những không thể tích luỹ được dự trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động được nguồn cung ứng tiền tệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có nhu cầu ngoại tệ lại đi mua ngo ại tệ trôi nổi trên th ị trường không tổ chức bằng lượng tiền đồng Việt Nam mà hậu quả cuối cùng là số lư ợng tiền đồng lớn luân lưu ngoài hệ thống ngân hàng: một yếu tố làm tăng áp lực vay tiền ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lưu động mà ngân hàng thương m ại lại thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát h ành tiền sẽ gia tăng. Thị trường hối đoái ở nước ta còn đ an g ở d ạng là những điểm mua, bán ngoại tệ (mua nhiều hơn bán), thật ra thì là điểm mua ngoại tệ thì đúng hơn. Cần phải tổ chức thị trường hối đoái với quy mô lớn hơn, hoàn ch ỉnh hơn. Ở đây mới nêu lên với tính cách đặt vấn đ ề, chưa đề cập đến cách tổ chức một thị trường hối đoái hoàn ch ỉnh. Thị trư ờng hối đoái có tổ chức hoàn hảo hay không còn phụ thuộc vào chính sách hối đoái (đáp ứng chính sách kinh tế mở cửa đất nước tới mức độ nào...) Chính sách hối đoái: Trên nguyên tắc, n ước ta áp dụng chính sách ngoại hối có quản lý ch ặt. Điều 51 pháp lệnh NHNN nêu rõ: Tất cả các tổ chức, cá nhân có ngoại tệ đều
- phải bán cho ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối, khi có nhu cầu th ì mua ngo ại tệ tại ngân h àng. Các tổ chức th ì có th ể mua ngoại tệ tại thị trư ờng hối đoái trong nước. Nh ưng trong thực tế, các tổ chức, cá nhân lại có thể mua bán ngoại tệ trôi nổi ngo ài những nơi chỉ định trên, m ặc dầu bị cấm đoán. Chính vì vậy một lượng lớn ngoại tệ đang luân lưu bên ngoài hệ thống ngân h àng. Lại nữa, chúng ta đ ang tổ ch ức thị trường mua bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở cung cầu thị trường, đồng thời vẫn duy trì một cơ ch ế tiền gởi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng để rồi nhận lấy hết những rủi ro không đ áng có. Xin kể ra đ ây một nghịch lý: trong khi chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nư ớc đ ể đầu tư phát triển kinh tế, nh ưng với cơ ch ế và cách làm của ta, chúng ta phải mang ngoại tệ ra gởi ở nước ngoài, vô tình dã làm lợi cho những nư ớc có ngoại tệ đó. Từ những ví dụ trên, tu ỳ theo góc độ đ ánh giá, có thể có nhiều cách phân tách, lý giải. Chúng ta hãy nghe những lý giải xung quanh ví dụ 1. Nhìn theo một khía cạnh nào đó, thì đây là một điều hại, vì ngân hàng Nhà nước, qua hệ thống ngân h àng trung gian, không mua được nhiều ngoại tệ cho nhu cầu của mình. Và như vậy, khả n ăng điều hoà lưu lượng tiền tệ cũng bị hạn chế. Một lượng tiền tệ và một lượng ngoại tệ đang nằm bên ngoài th ẩm quyền điều tiết của hệ thóng ngân hàng. Trái lại, nhìn ở khía cạnh khác, đ iều đó cũng có mặt thuận lợi là giảm bớt căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ của đ ơn vị sản xuất kinh doanh. Một chính sách độc quyền hối đoái quá cứng nhắc sẽ không tránh khỏi những căng thẳng nói trên. Đó là đ iểm cần lưu ý khi thiết lập một thị trường hối đoái có tổ chức trong tương lai với những qu y đ ịnh sao cho uyển chuyển thích hợp với tình hình thực tế trong nước mà không cản trở sản xuất kinh doanh.
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn bẩy kinh tế tác động mạnh đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh. xuất khẩu, nhập khẩu trong nư ớc. Một tỷ giá hối đoái quá thấp (tức là đồngbản tệ có giá trị tăng lên so với ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xu ất khẩu tương đối đ ắt, khó bán ra n ước ngo ài, tức là gây trở n gại cho ngành sản xuất trong nư ớc hướng về xuất khẩu, bất lợi cho cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngo ài vào trong nước; khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị xói mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao (ngh ĩa là đồng bản tệ có giá trị thấp so với ngoại tệ), có tác động bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng xuất khẩu đắt hơn, hàng xu ất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm được thị trư ờng hơn. Do đó, những ngành sản xuất có nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại, trong khi ngành sản xuất hàng cho thị trường nư ớc ngo ài thuận lợi hơn, lư ợng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước khá h ơn, khối dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Mức tỷ giá quá cao hay thấp là so với tỷ giá thực tế được quyết định bởi cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái hay th ị trường đen (nơi nào không có thị trường hối đoái tự do). Tỷ giá hối đoái cao hay th ấp là tỷ giá do NHTƯ ấn định, cố định (fixed exchange rates), còn t ỷ giá hối đoái trên thị trư ờng tự do hoàn toàn không có sự can thiệp của NHTƯ là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết đ ịnh (floating rates). Th ế giới đã trải qua một thời kỳ khá lâu áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định, cố định từ thập niên 1930 đến giữa thập niên 1970. Từ năm 1973, nhiều nước công nghiệp hàng đ ầu đã thử nguyệm tỷ giá hối đoái thả nổi và sau đó áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi có "quản lý". Đến năm 1976 các nư ớc phương tây đ ã đạt được một
- tho ả hiệp tạm thời gọi là Thoả hiệp Jamaica, công khai chấp nhận hệ thốgn tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý (system of managed floating rates), vì cả hai tỷ giá cố định cứng nhắc và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có điều bất tiện tác động trên n ền kinh tế trong nư ớc và trên sự chuyển dịch tài nguyên ngoại tệ trên bình diện quốc tế. Theo h ệ thống NHTƯ can thiệp đ ể giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng trầm quá đáng, làm dịu bớt tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước. NHTƯ can thiệp trên thị trường hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ đ ể duy trì t ỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không quá lớn, nhờ đó ch ế ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước, khi giá ngoại tệ lên cao, NHTƯ đư a ngoại tệ ra bán đ ể làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại tệ. Dĩ nhiên, chỉ làm được đ iều đó khi dự trữ ngoại hối còn ở mức độ tương đối khả quan. Ngược lại, khi giá ngoại tệ xuống quá thấp, NHTƯ dùng tiền trong n ước mua ngoại tệ vào để duy trì một biên vực biến đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước, nhất là để tái tạo khối dự trữ ngoại tệ đã bị thiếu hụt. Nư ớc ta đ ang áp dụng tỷ giá hối đoái ấn đ ịnh nhưng không quá cứng nhắc, có thể thay đổi theo tình hình ngoại hối trong nư ớc. Một phần nào có hiệu quả, nhất là trong tình hình ngoại hối chậm biến đổi. Trái lại, khi tình hình ngoại hối biến đổi thường xuyên, một sự chậm trễ trong việc thay đổi tỷ giá ấn đ ịnh thường gây thiệt hại cho các ngành hoạt động kinh tế trong nước. Đối với nước ta hiện nay, khả n ăng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền còn rất hạn chế. Vì vậy, cần có kế hoạch mở rộng đ ầu tư các thành ph ần kinh tế trong và ngoài nước, làm sao cho nước ta trở th ành điểm thu hút đầu tư quốc tế mạnh hơn nữa để tăng nhanh kh ả n ăng ổn đ ịnh giá trị quốc ngoại của đồng tiền Việt Nam. b. Mục tiêu kinh tế:
- Chính sách tiền tệ còn nhằm đến mục đ ích xa h ơn: đó là mục tiêu kinh tế, gồm hai điểm chính dưới đây: + Tăng trưởng kinh tế, trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao. + Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế. b.1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Hiện nay còn có quan đ iểm khác nhau về vai trò tác đ ông của tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế. Còn nhiều ý kiến khác nhau về chi tiết, những xác định được quan điểm chung về tác động của lãi suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức tăng trưởng đó. Tác động đó thông qua hai ngõ: Khi kh ối tiền tệ M tăng, nói chung nó có tác dụng làm giảm lãi su ất (vì NHTƯ khi chủ trương bành trướng khối tiền tệ thì cũng muốn như vậy), lãi suất giảm sẽ khuyến khích việc đ ầu tư. Đầu tư gia tăng, tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội lớn hơn nh ịp gia tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, sự gia tăng khối tiền tệ đ ưa đ ến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp: các thành phần dân cư có tiền nhiều hơn, sẽ tiêu thụ nhiều hơn và mãi lực trên thị trường tăng giúp giải quyết hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp tăng gia sản xuất, hàng hoá lưu thông, phân phối với nhịp đ iệu rộn rịp h ơn. Đến một lúc nào đó , doanh nghiệp cũng phải tăng thêm việc mua sắm máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng... Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm đ ầu tư đều tăng, từ đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu mức gia tăng đó lớn hơn nh ịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trưởng kinh tế. Trong cả hai trư ờng hợp, đều có sự gia tăng nhân dụng, vì nhân công, tư bản (máy móc), kỹ thuật công nghệ (technology) là 3 yếu tố quan trọng quyết định số lướng, trong đó yếu tố nhân công được tăng lên trước khi xí nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với
- xí nghiệp quản lý có hiệu quả, việc tuyển dụng th êm nhân công chỉ xảy ra khi số nhân lực hiện hữu được tận dụng. Nh ư vậy, muốn đ ạt được mục tiêu tăng trư ởng kinh tế, ngoài việc gia tăng khối tiền tệ trong chính sách tiền tệ, cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất để thâm dụng nhân công. b.2. Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế: Sự tăng trưởng kinh tế b ất cứ nước nào không thể kéo d ài mãi với thời gian. Lý do cơ bản là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng số cung không thể đáp ứng m ãi mãi được. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, đáng kể trước tiên là nhân công. Khi n ền kinh tế tăng trưởng liên tục, đ ến một lúc nào đó, nhân công khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất . Đó là ch ưa kể nguyên liệu có thể cũng khan hiếm. Sự khan hiếm của yếu tố nhân công, nguyên liệu làm tăng phí tổn sản xuất, nâng cao giá thành và giá bán trên thị trường. Vào thời đ iểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không kềm chế, số cầu tăng m ạnh, hậu quả tất yếu làm tăng vật giá, tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Tình hình đó buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm số cầu, làm giảm khuynh hướng tiêu thụ của dân cư. Ho ạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ. Trước tình hình này, các đơn vị sản xuất hàng hoá bán chậm lại, h àng tồn kho tích luỹ ngày càng nhiều, tất sẽ có phản ứng là giảm bớt sản xuất. Trong trường hợp tiên đoán tình hình tiêu thụ trên th ị trường xấu nhiều hơn nữa và có tính cách lâu dài, họ phải sa thải bớt nhân công, sau một thời gian nghỉ giảm lương. Nhân công thất nghiệp, giảm thu nhập, giảm tiêu pha, kéo theo suy giảm trong khối lượng sản xuất. Không ai chịu đầu tư trong tình huống như thế: tình trạng: suy thoái kinh tế lan rộng.
- Để chặn đứng đ à suy thoái, NHTƯ sẽ phải thi hành chính sách bành trướng khối tiền tệ, khuyến khích các ngân h àng cho vay để nâng số cầu lên, giúp các nhà sản xuất có một cái nhìn lạc quan trên thị trường. Nhân công thất nghiệp nhiều và lâu ngày, nên giá nhân công rẻ, h àng tồn kho giảm dần, nhu cầu tái sản xuất theo một nhịp độ lớn dần, khiến cho nhu cầu đầu tư tăng lên. Những sự kiện đó đưa n ền kinh tế từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hưng. Lúc này, tiền được rót thêm vào guồng máu kinh tế kích thích tiêu thụ tăng mạnh kéo theo sức gia tăng trong số lượng đầu tư , trước tiên là thay thế máy móc hư hỏng, rồi dần dần đổi mới guồng máu sản xuất. Từ đó có kh ả năng nền kinh tế chuyển từ giai đo ạn phục hưng sang giai đo ạn tăng trư ởng mạnh. Trước đ ây, có một nhận thức cho rằng, một chu kỳ kinh tế là một chuỗi các trạng huống kinh tế, nhìn chung được phân ra làm bốn giai đo ạn: - Mở rộng (giai đo ạn thăng hoa). Bối cảnh thuận. - Phồn vinh (đỉnh cao). Bối cảnh tốt. - Suy thoái (giai đo ạn xuống dốc). Bối cảnh bất thuận. - Suy sụp (giai đo ạn lõm). Bối cảnh xấu. Nh ưng ngày nay, phác đồ n ày đã bị biến đổi do: a) các doanh nghiệp đ ã quản lý tốt sản xuất; b) các NHTƯ can thiệp cho trượt lạm phát đ ể tránh bất kỳ căng th ẳng n ào. Trong mỗi giai đoạn kinh tế, chính sách tiền tệ đ óng một vait rò quan trọng, góp phần rút ngắn thời gian ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai đo ạn tăng trưởng kinh tế, nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với lạm phát ở tỷ lệ chấp nhận được, có thể là tỷ lệ lạm phát một con số, hay tổng quát hơn, một tỷ lệ lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp thấp. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã từng thay đổi, kế tiếp nhau trong thời gian, phù h ợp với trình độ hiểu biết ngày càng cao hơn về mối tương quan giữa tiền tệ và nền kinh tế.
- Trước đây, người ta áp dụng luận điểm của kinh tế học cổ điển cho rằng những thay đổi về tiền tệ chỉ tác động đến giá cả và tiền công, chứkhông ảnh hưởng đ ến công ăn việc làm và chu k ỳ phát triển kinh tế vào việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Loại chính sách tiền tệ này chư a được coi là công cụ quan trọng đ ể ổn định kinh tế và không có tác động đ ến quá trình tăng trư ởng, có cơ ch ế vận hành bao gồm các yếu tố chủ yếu: mức lãi suất thực âm cao triền miên và có độ bất định lớn. Nó có khuynh hướng làm xói mòn nguồn vốn, trong thực tế, kết quả thu được đi ngược lại ý đồ ban đầu được dành cho nó: thay vì mức tiết kiệm và năng lực đầu tư nội địa được nâng lên là tình trạng thâm hụt ngân sách, khối lư ợng nợ nước ngoài và phần của cải đất nư ớc sản xuất ra nhưng phải dành cho trả nợ và lãi n ợ ngày càng lớn; hậu quả không tránh khỏi sau đó là lạm phát cao, bất ổn định và trì trệ, suy thoái. Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, chính sách tiền tệ mới trở thành khái niệm trung tâm trong hoạt động quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, đ ược coi là công cụ quan trọng đ ể ổn định kinh tế và tác động đến quá trình tăng trưởng, hướng tới mục tiêu phát triển môi trường tài chính, kích thích tối đa sự vận động của các nguồn lực khác của đ ất nước. Chính sách tiền tệ kiểu này đ ược gọi là chính sách tiền tệ mở rộng nguồn vốn, có cơ chế vận hành bao gồm các yếu tố chính: duy trì mức lãi su ất thực dương, quy đ ịnh dự trữ bắt buộc thấp đối với các ngân hàng thương mại. Ngày nay do nh ững đối nghịch của các mục tiêu, các NHTƯ khó có th ể thực hiện được ngay mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Thông th ường, trong một thời kỳ xác định, việc thực hiện mục tiêu này sẽ cản trở việc đ ạt th ành tích cao ở mục tiêu khác trong hệ mục tiêu đã nêu. Muốn có lạm phát thấp th ì khó lòng tăng trưởng cao. Duy trì t ỷ giá hối đoái cố định thfi dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát". Do đó, NHTƯ phải xác định những mục tiêu đặc th ù hay trung gian, từ đó phải có nghệ thuật
- phối hợp các mục tiêu ngắn hạn và dài h ạn trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ trên thực tế. Với tư cách là một công cụ trong tay Nh à nư ớc, chích sách tiền tệ có hai đ ặc điểm nổi bật vềmặt chức năng của nó là: 1) Phù hợp với chức năng can thiệp chung của Nhà n ước đối với mọi hoạt động của nền kinh tế. Đó là điều chỉnh lại sự phân bổ các nguồn lực, điều chỉnh lại sự phân phối thu nh ập và của cải trong xã hội và ổn đ ịnh lại tình hình kinh tế vĩ mô. 2) Chính sách tiền tệ là lo ại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ ch ế thị trường và các quy lu ật vận động của nó. Có th ể xem các chức năng chung có tính chất nguyên lý của chính sách tiền tệ như một mô hình chính sách cơ bản, còn những biến thể của nó th ì như những mô h ình chính sách đ ặc thù. Tuy dựa trên n ền tảng của kinh tế thị trường n ên đương nhiên nguyên tắc chung về điều chỉnh kinh tế của các nh à nước pháp quyền thống nhất ở chỗ được thể ch ế hoá bằng hệ thống pháp luật chặt chẽ, song các mô hình chính sách đặc thù luôn mang đậm dấu ấn của những đ iều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc cũng như thiết chế và n ăng lực thực tiễn của Nh à nước ở mỗi quốc gia, đồng thời nó phản ánh rõ những mâu thuẫn, những vấn đề nổi lên cần được tập trung giải quyết của mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ nhất đ ịnh. Phạm vi và thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cụ thể cần đạt tới của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ đư ợc xác định một cách không giống nhau. Thành ra một đ iều rất tự nhiên là mỗi nước trong lịch sử có một chính sách tiền tệ riêng của mình. Các mô hình chính sách cụ thể cho thấy sự phong phú của các sắc thái riêng biệt trong cơ ch ế vận hành của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Vì mỗi giai đoạn phát triển ở mỗi quốc gia có những mục tiêu kinh tế - xã hội không giống nhau, n ên các chính sách tiền tệ luôn bao hàm trong đó những nét đặc thù và do vậy chúng đ ược biểu hiện dưới nhiều hình thức đ a d ạng, phong phú, phù hợp với mỗi một mô h ình đ iều chỉnh kinh tế đặc thù. Điều này góp phần làm phong phú thêm lý luận kinh tế học hiện đại và cung cấp ngày càng nhiều hơn những bài học kinh nghiệm từ thực tế cho việc nghiên cứu, học hỏi và lựa chọn để xây dựng chính sách tiền tệ phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Từ nhiều thập kỷ nay và nhất là từ cuộc thế chiến lần thứ hai, chính sách tiền tệ của nhiều nước có nền kinh tế phát triển luôn luôn nhằm mục tiêu chủ yếu là đấu tranh chống lạm phát, nhưng đồng thời không được làm ảnh hưởng đ ến sản xuất quốc dân và việc tạo đầy đ ủ côgn ăn việc làm. Căn cứ vào những mục tiêu cơ bản này, các nư ớc đó lựa chọn các công cụ can thiệp cần thiết, các công cụ n ày chủ yếu tác động vào nguồn đối ứng của khối lư ợng tiền tệ, vì đó là nguồn tạo ra tiền, nhưng chúng còn có thể có tác dụng phụ là nhằm định h ướng việc sử dụng đồng tiền đã được tạo ra cho các chủ thể kinh tế. II. PHƯƠNG THỨC VẬN HÀNH CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: Ngân hàng trung ương nói chung không giao dịch trực tiếp với công chúng, mà chỉ quan hệ với bốn đầu mối chính sau đ ây: - Giao dịch với chính phủ (Bộ Tài chính, kho bạc...) - Giao dịch với ngân hàng trung gian. - Giao dịch với các thị trường tiền tệ. - Giao dụch với các khu vực tài chính, tiền tệ đối ngoại.
- Bốn đ ầu mối quan hệ của NHTƯ là bốn con kênh qua đó NHTƯ thực thi chính sách tiền tệ; bằng cách xử lý tổng hợp bốn đầu mối quan hệ đó , NHTƯ tăng hay giảm khối tiền tệ tuỳ theo tình hình nh ằm đạt tới những mục tiêu nhất đ ịnh. Dư ới đ ây sẽ tập trung trình bày ph ương thức vận hành những công cụ tác động đến hai đầu mối là ngân hàng trung gian và th ị trường tiền tệ. Hai đ ầu mối quan hệ còn lại không ph ải là đối tượng chính và sẽ đ ược đề cập ở một chừng mực cần thiết. Điều này cho th ấy tính giới hạn của chính sách tiền tệ và sự cần thiết phải tiến hành song song những chính sách khác nhằm xử lý h ai đầu mối quan hệ còn lại: quan hệ với chính phủ và quan hệ với khu vực tài chính tiền tệ đối ngoại. 1. Phương th ức vận hành các công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ đối với các ngân hàng trung gian và thị trư ờng tiền tệ. Có tất cả 7 công cụ nằm trong tay NHTƯ : dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường tiền tệ mở, kiểm soát tín dụng chọn lọc, lãi suất tiền gởi, kiểm soát tín dụng tài trợ thị trường chứng khoán, kiểm soát tín dụng tiêu thụ. Các công cụ n ày là những thao tác hoạt động hàng ngày của cá NHTƯ. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của NHTƯ đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra. Sự đ iều tiết tiền tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. a. Thay đ ổi dự trữ bắt buộc đối với ngân h àng trung gian: Ngân hàng trung gian gồm nhiều loại ngân hàng mà quan trọng hàng đầu là ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là ngân hàng thực h iện nhiều loại nghiệp vụ ngân hàng hơn hết trong số ngân h àng trung gian. Chính vì vai trò quan trọng của ngân hàng thương m ại n ên NHTƯ của hầu hết các nước được luật pháp cho phép có rất nhiều
- thẩm quyền đối với NHTM. Điều đó nhằm mục đ ích thực thi chính sách tiền tệ, giữ vững hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp và công chúng, đồng thời tạo thuận lợi cho NHTM hoạt động hữu hiệu góp phần phát triển kinh tế đất nư ớc. Ngân hàng trung ương được giao quyền bắt buộc các ngân hàng trung gian phải ký gởi tại NHTƯ một phần của tổng số tiền gởi m à họ nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất đ ịnh. Phần bắt buộc ký gởi đó gọi là dự trữ bắt buộc. NHTƯ ấn đ ịnh tỷ lệ đ ó khi tăng khi giảm tuỳ theo tình hình. Mục đ ích của việc bắt buộc dự trữ nh ư vậy là để giới hạn khả n ăng cho vay của NHTM, tránh trường hợp ngân hàng này ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gởi tiền ở ngân hàng. Hơn nữa, việc tập trun g dự trữ của NHTM ở NHTƯ còn là một phương tiện để ngân hàng này có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM đối với NHTƯ . Khả n ăng cho vay của NHTM bị hạn chế do tỷ lệ dự trữ bắt buộc nêu trên sẽ buộc họ phải đi vay lại ở NHTƯ, NHTƯ là ngư ời cho vay sau cùng của mọi ngân hàng và là cứu tinh của họ trong nh ững trường hợp khẩn cấp nh ư trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gởi của công chúng. Số nhân mức cung tiền n = NHTM sử dụng công cụ này với nội dung mức cung tiền tệ đ ể tăng V, giảm lượng tiền cơ sở ngoài lưu thông. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ khối lượng quan trọng nhất của NHTƯ. Việc quy đ ịnh dự trữ bắt buộc này làm tăng khả năng điều tiết của NHTƯ đối với các NHTM. Các công cụ lãi suất của NHTƯ càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dự trữ bắt buộc càng ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế ch ưa có thị
- trường chứng khoán, nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức là những công cụ có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất, th ì tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn còn là công cụ quan trọng của NHTƯ. Đối với NHTM hiện đ ại, tức là tạo ra những công cụ thanh toán qua ngân h àng thay tiền trung ương hoặc cơ số tiền tệ mà NHTƯ không sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thì không thể khống chế được khối tín dụng bằng biện pháp kinh tế. Về nguyên tắc, khi ấn đ ịnh một mức dự trữ bất buộc ở mức thấp NHTƯ m uốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn b ành trướng khối tiền tệ. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTƯ giới hạn khả năng cho vay của ngân h àng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ "thắtc hặt" hay giảm thiểu khối tiền tệ, từ đó tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng. Chính vì vậy, một sự gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trư ớc sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để cho ngân hàng này không bị lỗ và cộng tác trong việc thực thi chính sách tiền tệ, NHTƯ có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư n ào đócủa ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi su ất thích hợp. NHTƯ có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn một mức dự trữ bắt buộc cho loại tiền gởi không kỳ hạn và một mức dự trữ thấp hơn cho lo ại tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi có kỳ hạn. Cũng có thể áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp h ơn cho ngân hàng ho ạt động ở nông thôn... Biện pháp thay đ ổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu quả, cần phải đi kèm nh ững biện pháp khác. Theo Điều 44 và 45 của Pháp lệnh và Ngân hàng Nhà nư ớc, Ngân hàng Nhà nư ớc có quyền bắtb uộc các tổ chức tín dụng duy trì: - Các qu ỹ dự trữ pháp đ ịnh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÀI THẢO LUẬN NHÓM 10: MÔ HÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỂ HIỆN QUA ĐẠI HỘI VII – ĐẠI HỘI X
34 p | 382 | 128
-
LUẬN VĂN: Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn hiên nay
30 p | 236 | 123
-
Luận văn: Phân tích hoạt động quảng cáo của công ty Ford
53 p | 525 | 90
-
Đề tài: "Xuất khẩu thủy sản Việt Nam"
16 p | 167 | 38
-
Luận văn:" Vai trò của nhà nước đối với CNH-HDH Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam"
224 p | 127 | 25
-
Tiểu luận:Bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ 1977, cơ hội ngàn vàng có bị bỏ lỡ
13 p | 84 | 13
-
Tiểu luận:Tổng quan chính sách thương mại EU
21 p | 80 | 12
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Giải pháp marketing trong cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng
26 p | 14 | 6
-
Luận văn: Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2003
42 p | 67 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích thực nghiệm về các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam
77 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Chiến lược tài trợ vốn cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
96 p | 14 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại của Việt Nam
88 p | 38 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu yếu tố vĩ mô và vi mô tác động đến nợ xấu tại các NHTM Việt Nam
119 p | 15 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn