intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam có phải nhờ đến Trịnh Cung lột xác không?

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

96
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết “Mỹ thuật Việt Nam - cần một cuộc lột xác” – (Tạp chí Mỹ thuật tháng 6/2006 M 85 trang 84), tác giả Trịnh Cung có đề cập tới nhiếp ảnh như sau: “Bộ Văn hóa Thông tin không nên coi nhiếp ảnh như một ngành lớn khi lập ra Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh. Nhiếp ảnh nước ta thực chất chỉ mới ở giai đoạn phong trào và hoạt động mạnh về mặt dịch vụ, chưa có hệ thống trường quy; ngôn ngữ nhiếp ảnh đơn điệu, lạc hậu, dù có gặt hái được một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam có phải nhờ đến Trịnh Cung lột xác không?

  1. Nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam có phải nhờ đến Trịnh Cung lột xác không? Trong bài viết “Mỹ thuật Việt Nam - cần một cuộc lột xác” – (Tạp chí Mỹ thuật tháng 6/2006 M 85 trang 84), tác giả Trịnh Cung có đề cập tới nhiếp ảnh như sau: “Bộ Văn hóa Thông tin không nên coi nhiếp ảnh như một ngành lớn khi lập ra Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh. Nhiếp ảnh nước ta thực chất chỉ mới ở giai đoạn phong trào và hoạt động mạnh về mặt dịch vụ, chưa có hệ thống trường quy; ngôn ngữ nhiếp ảnh đơn điệu, lạc hậu, dù có gặt hái được một số giải thưởng quốc tế (Những giải thưởng này thường do tác động bởi sự tài trợ của các công ty sản xuất phim và máy ảnh). Nên trả nhiếp ảnh về đúng vị trí của nó là một bộ môn trong hệ thống mỹ thuật Việt Nam”. Khi đọc những dòng viết trên, thực sự tôi đã không còn tin tưởng vào ngòi bút của Trịnh Cung. Tôi không hiểu trong giới tạo hình người ta coi trọng sức hấp dẫn và tin cậy của ngòi bút ông như thế nào, nhưng với giới nhiếp ảnh thì những phán xét của ông quả là vũ đoán. Khi phát biểu không có nghiên cứu trước, hoặc là chỉ xuất phát từ phía chủ quan, lại đưa ra kết luận có tính phán xét như trên liệu có xứng đáng là một ngòi bút lý luận hoặc phê bình không. Nếu chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, lấy câu chuyện làm vui thì người ta dễ có thể châm chước cho
  2. nhau, nhưng nếu bàn về đường hướng, đưa ra việc dẹp cái nọ bày cái kia thì lời phán xét như vậy quả là vô trách nhiệm. 1. Tôi không biết có bao giờ ông Trịnh Cung chụp một cái ảnh kỷ niệm nào chưa? Chí ít, khi lưu giữ bất kỳ một bức ảnhnào, ông chắc hẳn không bao giờ nghĩ đến cái công nghệ to lớn nằm đằng sau bức ảnh. Nghệ thuật nhiếp ảnh quả là chỉ sinh ra được khi có nền tảng kỹ thuật ấy. Và một bức ảnh tồi nhất bao giờ cũng tỷ mỉ mà chi tiết hơn bất kỳ hoạ sĩ chân dung nào tài năng nhất. Quả thực từ khi nhiếp ảnh ra đời các hoạ sĩ đã phải suy nghĩ lại, việc tái tạo các chi tiết như cách làm cũ nhiều khi có hại và mất thời giờ, đôi lúc không cần thiết. Ít nhất hoạ sĩ Vachol đã khôn ngoan hơn khi thực sự coi nhiếp ảnh là một phần sáng tạo của mình. Nhiếp ảnh đã làm thay đổi cách nhìn với thế giới. Bây giờ, giới truyền thông không thể hình dung ra thế giới không có nhiếp ảnh. Tôi tin một điều chắc chắn rằng lĩnh vực hoạt động của nhiếp ảnh không hẹp hơn bất kỳ một ngành nghệ thuật nào khác trong các nghệ thuật tạo hình. Kỹ thuật số đẩy nhiếp ảnh lên một bước tiến mới: mở rộng khoảng không sáng tạo, vĩnh cửu hóa tư liệu lịch sử và nghệ thuật. Sự tồn tại của hội hoạ giá vẽ truyền thống hiển nhiên là phải ghen tỵ với nhiếp ảnh về khả năng vĩnh cửu của nó, chỉ cần người ta muốn lưu giữ lại. Nhiếp ảnh làm nhiều việc có ích cho đời sống con người và cho nghệ thuật. Trong công nghiệp sản xuất máy ảnh, phim ảnh là một ngành sản xuất lớn và trong đời sống nghệ thuật nhiếp ảnh chiếm một phần khá quan trọng với những ai yêu thích nghệ thuật tạo hình. Không
  3. ít họa sĩ đã tìm tới nhiếp ảnh để học tập, chia sẻ kinh nghiệm, hoặc dùng nhiếp ảnh làm phương tiện tái tạo cuộc sống. Bởi vậy, tôi lấy làm khó hiểu khi một người mang tiếng là hiểu biết về tạo hình lại hoàn toàn không quan tâm đến nhiếp ảnh và coi đó chỉ là thứ ngoài lề như các phát biểu của ông. Nhất là khi ông viết “không nên coi nhiếp ảnh như một ngành lớn” thì bạn đọc cảm thấy có phần nực cười vì quả thực từ trước khi ông viết như trên thì nhiếp ảnh là một ngành đâu có nhỏ. 2. Về nhận định “Nhiếp ảnh nước ta thực chất mới ở dạng phong trào và hoạt động mạnh về mặt dịch vụ, chưa có hệ thống trường quy”, thì như ông hơi vũ đoán, nói khi chưa có điều nghiên. Nhiếp ảnh nước ta không chỉ có phong trào mà còn có những hoạt động nghệ thuật đích thực, những người cống hiến sức lực tài năng cho nhiếp ảnh đâu có hiếm. Chưa kể những hoạt động có tính thời sự là hoạt động khá sở trường của nhiếp ảnh thì những hoạt động có bề sâu của các nghệ sĩ khi chụp chân dung, những phóng sự nghiên cứu về cuộc sống, những sáng tác mang tính thẩm mỹ không hiếm. Có cả những tác giả chỉ chụp cho sở thích của mình mà không phụ thuộc vào một phong trào hay giải thưởng nào cả. Còn trường Đại học Sân khấu Điện ảnh có khoa Nhiếp ảnh, khoa Báo chí Học viện chính trị Hồ Chí Minh có đào tạo về nhiếp ảnh và Khoa báo chí trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội… thì đấy có lẽ không phải là trường quy chăng? Chúng tôi còn chưa hài lòng về cách đào tạo cũng như giáo trình nhiếp ảnh, nhưng đó lại là một chuyện khác.
  4. 3. Nhận định của ông cho rằng “… ngôn ngữ nhiếp ảnh đơn điệu, lạc hậu, dù có gặt hái được một số giải thưởng quốc tế (những giải thưởng này thường do tác động bởi sự tài trựo của các công ty sản xuấtphim và máy ảnh)” lại cũng là một nhận xét không chính xác. Theo chỗ tôi được biết thì cho đến nay trong các ngành nghệ thuật Việt Nam chưa có ngành nào vươn lên mạnh mẽ như nhiếp ảnh. Đứng về khả năng hội nhập thì có thể nói nghệ thuật nhiếp ảnh hiện nay đang đứng ở hàng đầu. Nếu các họa sĩ, các nhà tạo hình “lừng lẫy” của chúng ta thường sang nước ngoài bầy tranh ở những vị trí không chính thống, không thể mơ tới các bảo tàng lớn, các vị thế quan trọng, thì nhiếp ảnh Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc khác trong lĩnh vực ảnh nghệ thuật. Giải thưởng Huy chương vàng FIAP cho bộ ảnh mười chiếc của Việt Nam, một cuộc thi toàn cầu gần đây, đâu có phải là một trò ban ơn vớ vẩn của các nhà tài trợ. Tôi nghĩ rằng đây là niềm tự hào của giới nhiếp ảnh Việt Nam trong lĩnh vực ảnh nghệ thuật. 4. Ý kiến của ông Trịnh Cung về việc “Nên trả nhiếp ảnh về đúng vị trí của nó là một bộ môn trong hệ thống mỹ thuật Việt Nam” cũng làm tôi thấy khó hiểu. Không biết người ta xếp nhiếp ảnh vào “hệ thống mỹ thuật” từ bao giờ vậy. Một khái niệm mù mờ và chưa chuẩn xác. Vì ông Trịnh Cung có những khái niệm riêng biệt nên theo tôi cũng chẳng cần tranh cãi với nhau làm gì. Tôi đọc được ở bài viết của ông sự coi thường và hạ thấp nhiếp ảnh
  5. Việt Nam so với thực tế đang diễn ra. Nhiếp ảnh từ khi ra đời đến nay vẫn là nhiếp ảnh không có gì khác. Không phải bỗng dưng có những cuốn từ điển dày cộp coi nhiếp ảnh là một nghệ thuật. Nhiếp ảnh cũng thừa những tên tuổi để tôn vinh. Tuy nhiên, thái độ trịch thượng của ông Trịnh Cung với nghệ thuật nhiếp ảnh làm tôi nhớ đến thái độ hoảng hốt của những hoạ sĩ châu Âu khi nhiếp ảnh chân dung xuất hiện và lấn át hội họa. Và câu chuyện nhiếp ảnh có phải là một nghệ thuật hay không đã là câu chuyện cũ thuộc về thế kỷ trước. Liệu đó có phải là thái độ đúng đắn của một người làm công tác phê bình tạo hình lịch duyệt và chân chính khi bàn về cái đẹp không?!
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2