BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ HỒNG MINH

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ TIÊU LÂM SÀNG,

PHI LÂM SÀNG VÀ THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÒNG, TRỊ

HỘI CHỨNG VIÊM TỬ CUNG, VIÊM VÚ, MẤT SỮA (MMA)

Ở LỢN NÁI SINH SẢN

CHUYÊN NGÀNH : SINH SẢN VÀ BỆNH SINH SẢN GIA SÚC

: 62 64 01 06

MÃ SỐ

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Hà Nội, 2014

Công trình hoàn thành tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN THANH

2. TS. TRỊNH ĐÌNH THÂU

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Tấn Anh

Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Lan

Phản biện 3: TS. Nguyễn Văn Cảm

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học

viện Nông nghiệp Việt Nam

vào hồi , ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo các nhà chăn nuôi, một trong những nguyên nhân làm

hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái ở nước ta hiện nay là Hội

chứng viêm tử cung (metritis), viêm vú (mastitis), mất sữa

(agalactia) được viết tắt là MMA.

Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về hội chứng

MMA nhưng chủ yếu các nghiên cứu mới đánh giá tỷ lệ mắc, phân

lập vi khuẩn gây bệnh để thử nghiệm phác đồ điều trị (Lê Minh Chí

và Nguyễn Như Pho, 1985; Trịnh Đình Thâu và cs., 2010) còn việc

xác định sự thay đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu, xác định sự

biến động hàm lượng vi khuẩn và thành phần hóa học trong sữa lợn

mắc hội chứng MMA vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống.

Chính vì thế, việc nghiên cứu tổng thể từ nguyên nhân, biểu hiện lâm

sàng, cận lâm sàng, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc, đánh giá

thiệt hại do hội chứng MMA gây ra và hiệu quả của một số giải pháp

phòng trị là yêu cầu cấp thiết trong thực tế hiện nay.

Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, chúng tôi thực hiện đề tài:

“Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng và

thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm vú,

mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản”.

2. Mục tiêu của đề tài

Xác định đặc điểm bệnh lý lâm sàng, phi lâm sàng, đặc điểm dịch

tễ và tỷ lệ lưu hành của hội chứng MMA trên đàn lợn nái ngoại nuôi tập

trung tại trang trại ở một số tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Hồng

gồm: Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, thành phố Hà Nội từ đó đưa ra

các giải pháp phòng, trị hiệu quả. Góp phần nâng cao năng suất sinh sản

1

của đàn lợn nái và phát triển chăn nuôi lợn bền vững.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học

Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về hội

chứng MMA trên đàn lợn nái ngoại sinh sản nuôi tại trang trại của

một số tỉnh đồng bằng sông Hồng.

Ý nghĩa thực tiễn

Đưa ra các giải pháp phòng, trị hội chứng MMA có hiệu quả,

góp phần nâng cao năng suất sinh sản và hiệu quả chăn nuôi.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Đàn lợn nái ngoại sinh sản nuôi tập trung tại một số trang trại

của các tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hà Nội;

- Đàn lợn con được sinh ra từ những lợn nái được nghiên cứu.

5. Những đóng góp mới của đề tài

Nghiên cứu một cách hệ thống về hội chứng MMA từ triệu

chứng lâm sàng đến các chỉ tiêu phi lâm sàng, chất lượng sữa, thành

phần vi khuẩn trong sữa, trong dịch tử cung của lợn nái, làm kháng

sinh đồ và đề xuất các giải pháp phòng, trị.

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Khái quát hội chứng viêm tử cung (metritis), viêm vú

(mastitis), mất sữa (agalactia) - (MMA)

Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa được gọi bằng

nhiều tên khác nhau trên thế giới: theo Martin et al. (1967) hội

chứng MMA là tên thường được dùng ở các nước châu Âu; hội

chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ (postpartum dysgalactia syndrome -

PPDS/PDS) được dùng ở các nước nói tiếng Anh (Klopfenstein et al.,

2006), ngoài ra còn một số tên gọi khác như: hội chứng mất sữa

2

(Peny, 1970); hội chứng mất sữa sau đẻ (Hermannson et al., 1978)… Tuy nhiên, dù ở tên gọi nào cũng phản ánh căn nguyên gây nên những bệnh lý của hội chứng và được biểu hiện bằng các triệu chứng đặc trưng: kém ăn hoặc bỏ ăn, lười uống nước, bồn chồn, sốt > 39,5 0C, sưng vú, viêm tử cung và giảm tiết sữa từ 12 đến 48 giờ sau đẻ, lợn con chết đói tỷ lệ cao (Hoy, 2004; Shrestha, 2012).

1.2 Những nghiên cứu về hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất

sữa (MMA)

1.2.1 Nghiên cứu ở nước ngoài

Theo Maes et al. (2010), tỷ lệ lưu hành MMA là 6,9%; trong

27.656 lợn nái đẻ của một nghiên cứu được tiến hành tại bang

Missouri có tới 13% nái mắc MMA; tỷ lệ mắc hội chứng MMA theo

đàn ở Thụy Điển biến động từ 5,5% ở đàn quy mô nhỏ và 10,3% ở

đàn quy mô lớn. Một nghiên cứu mới đây ở 110 đàn lợn tại Bỉ cho

thấy 34% số đàn có liên quan đến hội chứng MMA.

Theo Shrestha (2012), MMA gây chết khoảng 2% lợn nái

nhưng tỷ lệ chết ở lợn con lên tới 80% do đói và ỉa chảy.

Tại Bhutan, một nghiên cứu về MMA vào năm 2001 thông

qua việc kiểm tra lâm sàng và kiểm tra các chỉ tiêu huyết học đã kết

luận: có 88,24% trường hợp lợn nái mắc bệnh có hiện tượng giảm

tiết sữa hoặc mất sữa sau đẻ, 11,76% trường hợp nái mắc bệnh có

hiện tượng viêm tử cung, không có trường hợp biểu hiện viêm vú và

không có trường hợp kết hợp cả ba triệu chứng: viêm tử cung, viêm

vú, mất sữa; thể tích hồng cầu, huyết sắc tố và tế bào bạch cầu nằm

trong khoảng sinh lý (Thapa, 2006).

Tại Rumani, theo Heber et al. (2010) khi nghiên cứu ảnh

hưởng của hội chứng MMA ở lợn nái đã dùng dimetridazol 1% cho

lợn ăn 03 ngày trước đẻ và 04 ngày sau đẻ và trong thời gian cho bú.

3

Kết quả cho thấy: mức độ tăng trọng của lợn con vào 30 ngày tuổi ở

lô dùng thuốc cao hơn (223 gram/ngày so với lô không dùng thuốc

208 gram/ngày), tỷ lệ chết ở lô dùng thuốc (9,35%) thấp hơn lô

không dùng thuốc (11,69%).

Qua theo dõi 347 nái, người ta chứng minh được khi giảm tỷ

lệ lưu hành bệnh MMA trong đàn sẽ tăng số lợn sơ sinh, tăng số lợn

cai sữa trên nái và giảm tỷ lệ nái chết (Perstrelo et al., 1994).

Schöning and Plonait (1990), cho thấy hiệu quả của việc dùng

thuốc Baytril để kiểm soát hội chứng MMA. Việc điều trị với Baytril

cũng cho kết quả tốt với khả năng kiểm soát pH sữa (nhỏ hơn 6,7) và

khả năng tăng trọng tốt, đồng đều ở lợn con.

Raszyk et al. (1979) cho rằng: Hội chứng MMA trở thành một

vấn đề lớn về sức khỏe của đàn lợn nái sinh sản, tỷ lệ mắc từ 20 -

50% trong đàn, bệnh thường kèm theo hiện tượng giảm sữa, thành

phần sữa của lợn bị thay đổi, bệnh làm tăng tỷ lệ chết của lợn con

trong những ngày đầu sau đẻ; xu hướng bệnh làm thay đổi cấu trúc,

chức năng của tuyến vú gây đau, do đó làm rối loạn trao đổi chất.

Tại Ba Lan, nghiên cứu hàm lượng các yếu tố xuất hiện khi bị sốt,

viêm TNFα (Tumour necrosis factor) và IL - 6 (Interleurkin - 6)

trong máu bằng phương pháp ELISA ở 02 nhóm lợn nái: nhóm 01

gồm 10 nái mắc hội chứng MMA, nhóm 02 gồm 10 nái khỏe trong

cùng trại lợn. Cho thấy, hàm lượng TNFα tăng ở giai đoạn sau đẻ có

ý nghĩa thống kê ở cả 02 nhóm lợn nái (P < 0,05). Tuy nhiên, so

sánh giữa hai nhóm thì nhóm lợn mắc MMA có hàm lượng TNFα

tăng cao hơn nhóm lợn khỏe (P < 0,05). Hàm lượng IL - 6 tăng cao

hơn ở nhóm lợn mắc hội chứng MMA vào thời điểm 48 - 72 giờ sau

đẻ và hàm lượng IL - 6 ở nhóm lợn nái mắc hội chứng tại các thời

điểm sau đẻ, đều cao hơn nhóm lợn khỏe. Kết quả nghiên cứu này

4

chỉ ra rằng hàm lượng TNFα và IL - 6 là một quá trình bệnh lý của

hội chứng MMA và việc xác định các chỉ số này có ích cho việc

chẩn đoán sớm và giám sát bệnh ( Szczubial and Urban, 2008).

Theo Baer and Bilkei (2005), khi nghiên cứu sự biến đổi cấu

trúc của tuyến vú ở lợn mắc hội chứng MMA tại Thụy Sỹ bằng máy

siêu âm cho thấy tuyến vú phần bụng thay đổi cấu trúc nhiều hơn so

với tuyến vú ở ngực (P < 0,001).

Tại Đức, nghiên cứu ảnh hưởng của hội chứng MMA đến khả

năng sinh sản của lợn nái được tiến hành trong 9 năm (1995 - 2003)

cho thấy: tỷ lệ lợn nái không động dục trở lại sau cai sữa (≥ 8 ngày)

ở nhóm lợn mắc hội chứng MMA là 1,1% cao hơn nhóm lợn nái

khỏe 0,3%; tỷ lệ lợn nái không thụ thai ở nhóm lợn mắc hội chứng

MMA cao hơn ở nhóm lợn khỏe (21,7% so với 16,1%); ở nhóm lợn

mắc hội chứng MMA có tỷ lệ sẩy thai cao gấp 2 lần và tỷ lệ chết cao

gấp 4 lần so với lợn nái khỏe (Hoy, 2004).

Tại Slovenia, một nghiên cứu về tác dụng điều trị của kháng sinh

enrofloxacin trong điều trị hội chứng MMA được tiến hành bởi Stukelj

et al. (2006) cho biết: hiệu quả cao của việc dùng thuốc enrofloxacin

trong điều trị hội chứng MMA đã được xác định bằng các phân tích

tổng quan và phân tích hệ thống trong 8 năm (1990-1998).

Kết quả nghiên cứu, tổng hợp của Gerjets and Kemper (2009),

cho thấy: 1/ để chẩn đoán sớm hội chứng MMA, người ta thường

dựa vào một số triệu chứng lâm sàng, trong đó triệu chứng đầu tiên

quan tâm là thân nhiệt ở lợn nái sau đẻ 12 - 48 giờ, khi thân nhiệt lên tới 39,40C thì có thể điều trị dự phòng, sau đó một số chỉ tiêu lâm sàng cần được kết hợp theo dõi như: sự thay đổi của hình dạng tuyến

vú, hiện tượng giảm tiết sữa hoặc mất sữa hoàn toàn, giảm tính thèm

ăn, ăn ít hoặc bỏ ăn hoàn toàn…

5

Hàm lượng các vi khuẩn phân lập được trong mẫu sữa lợn

mắc hội chứng MMA trong nghiên cứu của Kemper and Gerjets

(2009) như sau: E.coli 38,9%, Staphylococcus spp. 14,8%,

Enterococus spp. 33,3%, Klebsiella spp. 3,7%.

Hỗn hợp chất điện giải và các khoáng chất cũng được

Kotowski (1990) cung cấp cho lợn nái mang thai nhằm phòng ngừa

stress. Tác giả công bố hỗn hợp chất điện giải và các khoáng chất có

tác dụng làm giảm hội chứng MMA từ 60% xuống còn 32%.

1.2.2 Nghiên cứu trong nước

Theo Nguyễn Như Pho (2002), tỷ lệ mắc hội chứng MMA lên

tới 60% tại các trang trại chăn nuôi quy mô lớn, trong đó chủ yếu là

chứng viêm tử cung.

Lê Minh Chí và Nguyễn Như Pho (1985) cho biết có khoảng

33 - 62% lợn nái mắc hội chứng MMA sau khi đẻ, trong đó chủ yếu

là viêm tử cung, đồng thời tác giả đã công bố các vi khuẩn tham gia

gây nhiễm trùng tử cung và tuyến vú trên lợn nái sau khi đẻ gồm có:

E. coli, Staphylococcus spp., Streptococcus spp., Klebsiella spp.,

Proteus mirabilis, Pseudomonas spp.

Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010): Lợn nái

ngoại nuôi theo mô hình trang trại taị các tỉnh phía Bắc Việt Nam, tỷ

lệ mắc hội chứng MMA dao động từ 47.39% đến 53,33%. Trong đó

lợn nái mắc thể điển hình là 6,45%. Trong nghiên cứu này, các tác

giả cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng

suất sinh sản của lợn nái và thử nghiệm các phác đồ điều trị hội

chứng MMA.

Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), kết quả nghiên cứu tình hình

mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại một số trang

trại ở đồng bằng sông Hồng cho thấy: tỷ lệ viêm tử cung trung bình

6

là 50,20%. Tác giả cũng cho biết khi khảo sát 237 lợn nái ngoại

viêm tử cung: tỷ lệ viêm tử cung ở những nái đẻ lứa đầu và nái đẻ

qua nhiều lứa, từ lứa thứ 8 trở đi cao hơn so với các lứa khác.

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa tỷ lệ viêm tử cung ở

lợn mẹ và hội chứng tiêu chảy ở lợn con tại Hà Nội, Hưng Yên, Thái

Bình, Bắc Ninh và Ninh Bình cho thấy: đàn lợn con được sinh ra từ

những nái mắc bệnh viêm tử cung bị tiêu chảy với tỷ lệ trung bình là

68,01% dao động từ 54,11 - 81,46% cao hơn tỷ lệ tiêu chảy ở những

đàn lợn con được sinh ra từ những nái mẹ bình thường (Nguyễn Văn

Thanh, 2003).

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đàn lợn nái sinh sản giống ngoại nuôi tập trung; đàn lợn con

được sinh ra từ các nái được nghiên cứu.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu: Tại 08 trại chăn nuôi lợn giống ngoại

tập trung, quy mô từ 200 đến 2000 nái của các tỉnh: Bắc Ninh, Hải

Dương, Hưng Yên, thành phố Hà Nội; Phòng thí nghiệm trọng điểm

công nghệ sinh học thú y, Phòng thí nghiệm khoa Thú y, khoa Chăn

nuôi và nuôi trồng thủy sản trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

- Thời gian nghiên cứu: từ 2011 đến tháng 2013.

2.3. Nội dung nghiên cứu

- Điều tra về dịch tễ học hội chứng MMA.

- Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của

lợn nái.

- Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý phi lâm sàng của lợn nái mắc

7

hội chứng MMA.

- Theo dõi một số chỉ tiêu thành phần hóa học, tính chất của

sữa lợn mắc hội chứng MMA.

- Phân lập, giám định các loài vi khuẩn trong mẫu sữa và dịch

tử cung của lợn mắc hội chứng MMA.

- Kiểm tra kháng sinh đồ với các vi khuẩn phân lập được.

- Thử nghiệm các phác đồ điều trị hội chứng MMA;

- Đề xuất các biện pháp phòng hội chứng MMA.

2.4. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng các phương pháp thường quy áp dụng cho việc nghiên

cứu theo dõi: các chỉ tiêu lâm sàng, chỉ tiêu năng suất sinh sản, xác

định tỷ lệ mắc bệnh, đặc điểm dịch tễ học của hội chứng MMA

Sử dụng các phương pháp lấy mẫu sữa, mẫu dịch tử cung và

phân lập, giám định vi khuẩn theo tiêu chuẩn;

Sử dụng các máy xét nghiệm hiện đại để xét nghiệm các chỉ

tiêu sinh lý, sinh hóa máu và phân tích thành phần sữa lợn.

Số liệu được thu thập và xử lý theo phương pháp thống kê

sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện (2002), chương trình Excell và

phần mềm Minitab 16.0.

So sánh tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ mẫu nhiễm khuẩn của lợn mắc

hội chứng MMA và lợn bình thường bằng phép thử χ2. So sánh các

chỉ tiêu huyết học của lợn mắc bệnh và lợn bình thường bằng phép

thử t (Student test).

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Xác định một số biểu hiện lâm sàng của lợn mắc hội chứng MMA Các biểu hiện mệt mỏi, kém ăn, dịch viêm đường sinh dục

8

xuất hiện với tỷ lệ từ 94 đến 100% ngay từ khi lợn mắc hội chứng

MMA cùng một số biểu hiện khác như: lợn nái đứng nằm không yên,

hay cắn con, sưng vú, mất sữa... Kết quả nghiên cứu của chúng tôi

phù hợp với kết quả nghiên cứu trên 793 lợn nái mắc hội chứng

MMA trong vòng 10 ngày sau đẻ tại Bulgari được công bố bởi

Bozhkova et al. (1983); nghiên cứu lợn nái sau đẻ tại Canada được

công bố bởi Martineau et al. (1992). Chính vì thế, có thể coi các biểu

hiện lâm sàng như: sốt, kém ăn, mệt mỏi, tiết dịch viêm tử cung,

không cho con bú, viêm sưng vú… là những triệu chứng điển hình

khi lợn nái mắc hội chứng MMA.

3.2. Tình hình mắc MMA trên đàn lợn nái tại các trang trại

nghiên cứu

Dựa vào những biểu hiện lâm sàng ở lợn nái sau đẻ 12 - 72

giờ gồm: sốt, tử cung tiết nhiều dịch viêm (viêm tử cung); vú sưng,

nóng, đỏ, đau (viêm vú); sữa giảm hay mất sữa. Chúng tôi đã xác

định tỷ lệ mắc MMA ở lợn náii. Kết quả, tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng

MMA trung bình là 48,48%. Trong số 7.512 lợn nái theo dõi, có

1.637 nái mắc viêm tử cung kèm theo viêm vú, chiếm 21,79%; số

nái viêm tử cung kèm theo mất sữa là 1.598 con, chiếm 21,27%; số

nái mắc thể điển hình (viêm tử cung, viêm vú, mất sữa) là 408 con,

chiếm 5,43%. Kết quả này phù hợp với công bố của Nguyễn Như

Pho (2002), tỷ lệ lợn nái mắc MMA từ 40 đến 60% và của Raszyk et

al. (1979) tỷ lệ lưu hành bệnh từ 20 đến 50% trong đàn.

3.3. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA

Kết quả cho thấy: tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA cao ở

những lợn đẻ lứa đầu và những lợn đẻ nhiều lứa. Cụ thể ở lứa đầu là

51,35%, tỷ lệ mắc giảm ở lứa thứ 2, thứ 3, sau đó tăng dần. Từ lứa

thứ năm, tỷ lệ mắc lên tới 54,11%.

9

3.4. Ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA

Tiến hành điều tra nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ

mắc hội chứng MMA tại các trang trại. Kết quả cho thấy: mùa hè và

mùa xuân có tỷ lệ lợn mắc hội chứng MMA cao hơn (53,37%,

51,28%) so với mùa đông và mùa thu (46,05% và 43,70%). Như

vậy, sự khác nhau về tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở lợn nái là do

ảnh hưởng của sự biến đổi các chỉ tiêu về thời tiết khí hậu của các

mùa khác nhau.

3.5. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của

lợn nái

Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu liên quan đến năng suất sinh

sản của lợn nái giữa nhóm lợn nái bình thường so với nhóm lợn nái

mắc hội chứng MMA cho thấy: thời gian động dục lại sau cai sữa trên

nhóm lợn nái mắc hội chứng MMA ở tất cả các địa điểm nghiên cứu

kéo dài hơn so với nhóm lợn không mắc hội chứng MMA. Tỷ lệ lợn

nái thụ thai sau khi phối giống, bình quân số lợn con sinh ra còn sống

sau 24h/ổ ở lợn nái mắc hội chứng MMA thấp hơn so với lợn nái bình

thường. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Hoy

(2004) khi đánh giá ảnh hưởng của MMA đến năng suất sinh sản của

lợn nái trong 09 năm (1995 - 2003)

Trọng lượng lợn con 21 ngày tuổi và bình quân số lợn con cai

sữa/ổ ở lợn nái không mắc hội chứng MMA cao hơn so với lợn mắc

MMA, điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ chết của lợn con sau cai

sữa ở lợn mắc MMA cao hơn, lợn con sau cai sữa dễ mắc các bệnh

truyền nhiễm, kéo dài thời gian nuôi thịt, giảm lợi nhuận chăn nuôi.

3.6. Kết quả kiểm tra huyết cầu và huyết sắc tố của lợn mắc hội

chứng MMA

Kết quả theo dõi các chỉ số liên quan đến huyết cầu và huyết

10

sắc tố như số lượng hồng cầu; hàm lượng hemoglobin (Hb); tỷ khối

huyết cầu; thể tích hồng cầu; nồng độ huyết sắc tố; lượng huyết sắc

tố trong một hồng cầu... của 50 lợn mắc hội chứng MMA đã được

tổng hợp và so sánh với các chỉ số này của 50 lợn nái bình thường

cho thấy, biến động các chỉ số theo dõi có sự sai khác rõ rệt giữa hai

nhóm lợn nái nghiên cứu (P < 0,05) (bảng 3.1).

Bảng 3.1. Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu huyết học của lợn mắc

hội chứng MMA và lợn nái bình thường

Nhóm lợn bình Nhóm lợn mắc Xác xuất

Chỉ tiêu theo dõi P MMA (n = 50) xmX± thường (n = 50) xmX±

6,20 ± 0,13 5,57 ± 0,46 < 0,05 Số lượng hồng cầu (triệu/mm3)

Hàm lượng Hb (g%) 12,11 ± 0,25 10,8 ± 1,04 < 0,05

Tỷ khối huyết cầu (%) 40,73 ± 0,43 35,75 ± 0,45 < 0,05

67,06±0,38 63,46 ± 0,37 < 0,05 Thể tích hồng cầu (µm3)

Nồng độ huyết sắc tố 30,11 ± 0,37 28,05 ± 0,13 < 0,05 (%)

Lượng huyết sắc tố 20,30 ± 0,16 18,19 ± 0,10 < 0,05 trong một hồng cầu (Pg)

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn logic về mối

tương quan giữa các chỉ tiêu và tương đương với kết quả nghiên cứu

của Ognean et al. (2010) khi nghiên cứu biến động các huyết đồ và

một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn nái trong tuần đầu sau khi đẻ.

11

3.7. Số lượng và công thức bạch cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA

Có sự khác biệt về số lượng bạch cầu và tỷ lệ các loại bạch

cầu của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường (P < 0,05).

Trong đó, lợn nái mắc hội chứng MMA có tổng số bạch cầu và tỷ lệ

bạch cầu trung tính cao hơn so với lợn bình thường (P < 0,05). Theo

Chu Đức Thắng và Phạm Ngọc Thạch (2008), công thức bạch cầu

thay đổi do một số yếu tố, nếu mắc các bệnh nhiễm trùng thì bạch

cầu trung tính tăng lên đột ngột. Như vậy, theo chúng tôi, lợn mắc

hội chứng MMA do quá trình viêm đã gây phản ứng kích thích cơ

thể tăng cường miễn dịch, tăng cường đề kháng thông qua việc tăng

số lượng bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu có khả năng thực bào, đảm

nhận chức năng miễn dịch không đặc hiệu như bạch cầu trung tính.

3.8. Kết quả kiểm tra hàm lượng protein tổng số, các tiểu phần

Protein huyết thanh của lợn mắc hội chứng MMA và của lợn nái

bình thường

Kết quả định lượng protein tổng số, Albumin huyết thanh và

các tiểu phần protein huyết thanh của 50 lợn nái mắc hội chứng

MMA và 50 lợn nái bình thường cho thấy: Hàm lượng protein tổng

số, β - Globulin và albumin trong huyết thanh của lợn nái bình

thường cao hơn so với các thành phần này trong huyết thanh của lợn

mắc MMA (P < 0,05).

3.9. Hàm lượng đường huyết và hoạt độ của enzyme GOT,

GPT trong máu lợn mắc hội chứng MMA

Hàm lượng đường trong máu của lợn mắc hội chứng MMA

thấp hơn hàm lượng đường trong máu của lợn bình thường (3,35 ±

0,16 mmol/L so với 5,15 ± 0,53mmol/L) (P < 0,05). Ngược lại,

hoạt độ của enzym GOT và GPT trong máu của lợn mắc hội

chứng MMA cao hơn trong máu lợn bình thường (P < 0,05). Kết

12

quả của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của Raszyk et al. (1979) 3.10. Kết quả giám định vi khuẩn trong sữa lợn mắc hội chứng

MMA

Trong 86 mẫu sữa của lợn mắc MMA và 37 mẫu sữa của lợn

nái bình thường, phân lập được ba loài vi khuẩn gồm: E.coli,

Staphylococcus spp, Streptococcus spp (bảng 3.2).

Bảng 3.2. Số loài vi khuẩn trong sữa lợn nái mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường Mẫu sữa lợn mắc hội Mẫu sữa lợn bình thường

chứng MMA Đối tượng

Số Số Số Số mẫu Tỷ lệ Tỷ lệ mẫu mẫu mẫu dương Vi khuẩn (%) (%) dương kiểm kiểm tính tính tra tra

E. coli 86 62 72,1 37 25 67,57

Staphylococcus spp 86 54 62,8 37 13 35,1

Streptococcus spp 86 17 19,7 37 6 16,2

Salmonella spp 86 0 0 37 0 0

Pseudomonas spp 86 0 0 37 0 0

Kết quả cho thấy vi khuẩn Staphylococcus spp., Streptococcus

spp. E.coli phân lập được trong sữa lợn mắc hội chứng MMA nhiều

hơn so với vi khuẩn Staphylococcus spp., Streptococcus spp., E.coli

13 trong sữa lợn bình thường (62,8%, 19,7% và 72,1% so với 35,1%, 16,2% và 67,57%). Sự sai khác nhau về tỷ lệ xuất hiện các loài vi khuẩn này trong mẫu sữa phân tích có ý nghĩa thống kê.

3.11. Sự biến động số lượng các vi khuẩn phân lập trong sữa lợn

mắc hội chứng MMA và lợn bình thường

Kết quả kiểm tra tổng số vi khuẩn hiếu khí có trong 1ml sữa

hay ∑VK (CFU/ml sữa) của 86 mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA

và 37 mẫu sữa lợn bình thường (bảng 3.3). Bảng 3.3. Kết quả xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí trong sữa lợn mắc hội chứng MMA và sữa lợn bình thường

Mẫu sữa lợn mắc hội Mẫu sữa lợn

chứng MMA bình thường

Vi khuẩn Số mẫu Số mẫu ∑VK ∑VK kiểm (CFU/ml) (CFU/ml) kiểm tra tra

37 E. coli 86

Staphylococcus spp 37 86

Streptococcus spp 37 86

Salmonella spp 37 4,65x106 4,43x106 13,65x106 0 56,5x106 5,74x106 39,54x106 0 86

Pseudomonas spp 37 86

0 22,73x106 0 101,78x106

∑VK(CFU/ml) Với 37 mẫu sữa lợn bình thường có tổng số 3 loài vi khuẩn hiếu khí ∑VK (CFU/ml sữa) là 22,73 x 106. Trong đó số lượng của

E.coli, Staphylococcus spp., Streptococcus spp tương ứng là 4,65 x 106; 4,43x106 và 13,65 x 106 CFU/ml sữa; với 86 mẫu sữa lợn mắc

hội chứng MMA có tổng số các vi khuẩn hiếu khí này ∑VK (CFU/ml sữa) là 101,78 x 106 cao hơn 4,5 lần so với số lượng của 3 vi khuẩn

này có trong sữa lợn bình thường. Như vậy, mặc dù cùng nhiễm các

loài vi khuẩn như nhau nhưng số lượng vi khuẩn trong sữa lợn mắc hội

chứng MMA cao hơn 4,5 lần so với sữa của lợn nái bình thường.

14

3.12. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu chất lượng, thành phần,

tính chất của sữa lợn

Để đánh giá ảnh hưởng của tình trạng viêm vú, viêm tử cung

trong hội chứng MMA đến chất lượng sữa, chúng tôi phân tích hàm

lượng mỡ sữa, protein sữa, đường sữa, vật chất khô, pH sữa và kiểm

tra nhiệt độ đông đặc của lợn mắc MMA so với các thành phần này

của sữa lợn bình thường, từ 228 mẫu sữa (được lấy cùng thời điểm 12

- 48 giờ sau đẻ trong cùng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc) (bảng 3.4) .

Bảng 3.4. Một số chỉ tiêu về thành phần, tính chất của sữa lợn

Xác Sữa lợn mắc hội Sữa lợn bình

chứng MMA thường suất Chỉ tiêu

(n = 176) (n=52) P

6,4 ± 2,38 8,03 ± 1,39 < 0,05 Mỡ (%)

6,7 ± 0,46 7,49 ± 0,47 < 0,05 Protein (%)

3,47 ± 0,63 4,14 ± 0,72 < 0,05 Đường (%)

< 0,05 Vật chất khô (%) 18,9 ± 1,19 20,35 ± 1,32

Nhiệt độ đông đặc - 0,92 ± 0,07 - 1,0 3 ± 0,08 < 0,05

6,43 ± 0,68 6,70 ± 0,71 pH < 0,05

Hàm lượng mỡ, protein, đường, vật chất khô, pH của sữa lợn

mắc hội chứng MMA đều thấp hơn các hàm lượng này trong sữa của lợn bình thường (P < 0,05). Trong các chỉ tiêu này cần quan tâm đến sự giảm lượng protein sữa. Sự giảm này theo chúng tôi, có liên quan

đến sự giảm của hàm lượng kháng thể hay albumin và globulin. Do

chất lượng sữa bị giảm nên nhiệt độ đông đặc của những mẫu sữa lợn

mắc hội chứng MMA cũng khác so với sữa lợn bình thường. Đây

chính là nguyên nhân làm cho tỷ lệ ỉa phân trắng ở lợn con của

những lợn mẹ mắc hội chứng MMA tăng cao, theo đó, số lượng lợn

15

con còi cọc, chậm lớn tăng cao.

3.13. Kết quả phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí trong

dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA

Kết quả phân lập vi khuẩn cho thấy: 100% các mẫu dịch tử

cung sau đẻ của cả lợn mắc hội chứng MMA và của lợn bình thường

đều phân lập được vi khuẩn E.coli, Staphylococcus spp. Ngoài ra còn

phân lập được vi khuẩn Streptococcus spp., Salmonella spp. với tỷ lệ có mặt khác nhau. Đặc biệt, chỉ ở mẫu sản dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA mới tìm thấy Pseudomonas spp.

3.14. Kết quả kiểm tra số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử

cung lợn nái mắc hội chứng MMA

Khi kiểm tra sản dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA và của

lợn nái bình thường đã cho thấy mức độ bội nhiễm cao các vi khuẩn hiếu

khí của mẫu sản dịch lấy từ tử cung lợn mắc MMA . Cụ thể, tổng số vi

khuẩn hiếu khí trong sản dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA dao động từ (65,12 đến 73,88) x 106 CFU/ml, trong khi đó sản dịch lợn nái bình thường chỉ có (26,34 - 30,07) x 106 CFU/ml.

3.15. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn phân lập

từ mẫu sữa, mẫu dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

3.15.1. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn hiếu khí

phân lập từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh

Từ 86 mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA, chúng tôi đã phân

lập được 62 mẫu có chứa vi khuẩn E. coli, 54 mẫu chứa

Staphylococcus spp. và 17 mẫu chứa vi khuẩn Streptococcus spp.

Theo đó chúng tôi tiến hành kiểm tra kháng sinh đồ của từng loại vi

16

khuẩn với 10 loại kháng sinh. Để giúp việc chọn lựa thuốc điều trị

phù hợp, chúng tôi đã tổng hợp và so sánh tính mẫn cảm của 03 loài

vi khuẩn với 10 loại kháng sinh tại bảng 3.5

Bảng 3.5. So sánh tỷ lệ các vi khuẩn E.coli,

Staphylococcus spp. và Streptococcus spp. mẫn cảm với 10 loại

kháng sinh

E.coli Staphylococcus Streptococcus

(n = 62) (n = 54) (n = 17) Tên thuốc TT

n % n % n %

1 Amoxycillin 62 100 45 93,33 17 100

2 Cephalexin 54 100 15 92,24 50 80,65

3 Cefaclor 54 100 17 100 58 93,55

4 Colistin 29 46,77 0 0 0 0

5 Streptomycin 7 11,29 0 0 0 0

6 Gentamycin 100 35 64,81 6 35,29 62

7 Kanamycin 13 20,97 11 20,37 2 11,76

8 Norfloxacin 39 92,22 15 92,24 59 95,17

9 Ofloxacin 38 59,68 0 0 13 76,47

10 Sulphamethoxazol 5 9,26 3 17,65 23 37,10 /trimethoprin

Cả ba loài vi khuẩn E.coli, Staphylococcus spp và

Streptococcus spp phân lập được từ sữa lợn mắc hội chứng MMA có

tỷ lệ mẫn cảm cao từ trên 90% đến 100% với các thuốc theo thứ tự

giảm dần bao gồm: amoxycilin, cefaclor, norfloxacin và cephalexin

(bảng 3.5). Trong điều trị chúng ta có thể chọn các thuốc này hay

17

chọn các biệt dược có bán trên thị trường với thành phần của thuốc

có các loại kháng sinh kể trên.

3.15.2. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn hiếu khí phân lập được từ dịch tử cung, lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Từ kết quả phân lập vi khuẩn hiếu khí của các mẫu dịch tử

cung lợn mắc hội chứng MMA, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra

kháng sinh đồ của 135 chủng E. coli, 135 chủng Staphylococcus spp,

119 chủng Streptococcus spp, 83 chủng Salmonella spp và 34 chủng

Pseudomonas spp với 10 loại kháng sinh thông dụng gồm:

amoxycillin, cephalexin, cefaclor, colistin, streptomycin, gentamycin,

kanamycin, norfloxacin, ofloxacin, sufamethoxazol/trimethoprim

nhằm đánh giá sự mẫn cảm hay sự kháng thuốc của chúng. Sau đó

chúng tôi tổng hợp và so sánh tính mẫn cảm của 5 loài vi khuẩn phân

lập từ mẫu dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA với 10 kháng

sinh. Kết quả cho thấy: theo thứ tự mẫn cảm giảm dần thì cao nhất là

amoxycillin, sau đó đến norfloxacin, gentamycin và cephalexin…

3.16 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ với tập đoàn vi khuẩn trong

mẫu dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA

Nguyên tắc sử dụng kháng sinh cũng như yêu cầu thực tiễn

sản xuất là phải phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời. Do đó,

không có thời gian để phân lập, giám định vi khuẩn, làm kháng

sinh đồ rồi mới chọn thuốc. Vì vậy, để đáp ứng kịp thời yêu cầu

điều trị, chúng tôi đã làm kháng sinh đồ trực tiếp với cả tập đoàn

vi khuẩn có trong mẫu dịch viêm tử cung của lợn nái mắc hội

chứng MMA. Kết quả được trình bày tại bảng 3.6.

18

Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của tập đoàn vi khuẩn

trong dịch viêm tử cung của lợn mắc hội chứng MMA

Đường kính Tỷ lệ Số Số

__

mẫn mẫu mẫu TT Tên thuốc cảm mẫn kiểm

tra 60 cảm 53 vòng vô khuẩn Φ (mm) xmX ± 20,18±0,15 (%) 88,33 1 Amoxycillin (1)

66,66 60 40 17,24±0,18 2 Cephalexin (4)

3 Cefaclor 33,33 60 20 16,35±0,44

4 Colistin 30,00 60 18 14,21±0,15

5 Streptomycin 18,33 60 11 7,34±0,23

81,66 60 49 19,24±0,19 6 Gentamycin (3)

7 Kanamycin 31,66 60 19 14,23±0,12

91,66 60 55 22,09±0,31 8 Norfloxacin (2)

9 Ofloxacin 45,00 60 7 11,07±0,22

10 Sulphamethoxazol/ 16,66 60 10 07,54±0,56

Trimethoprin

Từ kết quả xác định được ở bảng 3.6 và dựa vào bảng

đánh giá đường kính vòng vô khuẩn chuẩn cho thấy: mức độ

mẫn cảm của các vi khuẩn có trong dịch viêm tử cung của lợn

nái với thuốc kháng sinh rất cao. Đối chiếu với bảng qui chuẩn

lâm sàng trong phòng xét nghiệm NCCS 1999, trong 10 loại

kháng sinh thí nghiệm, có 03 loại kháng sinh là amoxycillin,

gentamycin và norfloxacin là những thuốc có tỷ lệ vi khuẩn đạt độ

mẫn cảm cao từ 81,66 đến 91,66% với đường kính vòng vô khuẩn

đều đạt trên 19mm. Kết quả này cũng phù hợp với việc xác định tính

mẫn cảm của từng vi khuẩn với 10 loại thuốc kháng sinh.

19

3.17. Kết quả thử nghiệm điều trị hội chứng MMA

Dựa vào kết quả phân lập vi khuẩn, thử kháng sinh đồ cũng

như các chế phẩm thuốc thú y trên thị trường, chúng tôi chọn 03 sản

phẩm chứa kháng sinh có tác dụng với vi khuẩn E. coli,

Staphylococcus spp, Streptococcus spp, Salmonella spp,

Pseudomonas spp (là những vi khuẩn chủ yếu gây nên hội chứng

MMA) chia làm 03 phác đồ điều trị, ngoài ra còn dùng một số thuốc

kháng viêm, hạ sốt, dung dịch sát trùng tử cung, âm đạo, các sản

phẩm hỗ trợ sinh sản và vitamin. Sau đó đánh giá hiệu quả điều trị

của từng phác đồ qua việc theo dõi các chỉ tiêu: thời gian khỏi bệnh

lâm sàng (lợn hết sốt, không còn dịch viêm, ăn uống bình thường và

cho con bú trở lại), tỷ lệ khỏi bệnh, tỷ lệ động dục lại, tỷ lệ thụ thai.

Kết quả được trình bày tại bảng 3.7.

Bảng 3.7. Kết quả điều trị hội chứng MMA

khỏi bệnh Thời gian điều trị (ngày) Thời gian động dục lại (ngày) Phác đồ điều trị con % Thụ thai sau phối giống con %

6,75 ± 0,5

Phân tích các liệu trình khác nhau, tỷ lệ khỏi bệnh chênh lệch

Số nái điều trị (con) 30 30 26 27 23 24 1 2 6,25 ± 0,25 88,46 88,89 30 29 28 3 86,67 4,5 ± 0,25 90,00 4,00 ±0,25 96,67 3,00 ± 0,5 5,50 ± 0,5 96,55

không nhiều dao động từ 88,46% - 96,55% (bảng 3.7). Tuy nhiên sự

kết hợp giữa các thuốc khác nhau đưa lại thời gian điều trị và thời

gian động dục lại khác nhau, cụ thể: thời gian điều trị ngắn nhất là

3,00 ngày, thời gian động dục trở lại nhanh nhất là 5,50 ± 0,5 ngày,

20

tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ cao nhất là 96,55%. Theo chúng tôi,

hiệu quả điều trị của phác đồ 3 đạt tỷ lệ cao là do kết hợp giữa thuốc

kháng sinh, kháng viêm, Lutalyze và dung dịch Lugol.

3.18. Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng hội chứng MMA

bằng vệ sinh thú y và chăm sóc nuôi dưỡng

Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ lợn mắc hội chứng MMA ở

các trang trại là khá cao, do đó việc áp dụng các biện pháp phòng

bệnh nhằm hạn chế tỷ lệ lợn mắc hội chứng MMA là rất cần thiết.

Trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi đã xây dựng biện pháp phòng hội chứng MMA bằng việc vệ sinh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng theo 04 bước. Sau đó, chúng tôi theo dõi, đánh giá hiệu quả

của các bước phòng ngừa hội chứng MMA ở lợn qua các chỉ tiêu:

thời gian động dục trở lại, tỷ lệ phối lần đầu thụ thai. Kết quả được

trình bày tại bảng 3.8.

Bảng 3.8. Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng

hội chứng MMA ở lợn nái

Tỷ lệ lợn phối

Chỉ tiêu lần đầu thụ Lợn mắc bệnh Thời gian Số nái

thai nghiên động dục lại

Lô (ngày) cứu Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

(con) con (%) con (%)

Lô 1 54 94,73 57 9 15,79 4,12a ± 1,13

Sau khi áp dụng đầy đủ 04 bước phòng hội chứng MMA

Lô 2 73 22 30,01 6,48b ± 1,18 65 89,04

(bước 1: phối giống; bước 2: chăm sóc nuôi dưỡng; bước 3: vệ sinh;

bước 4: dùng thuốc), tỷ lệ mắc hội chứng MMA của lợn ở lô 1 (thí

21

nghiệm) là 15,79%, thấp hơn so với tỷ lệ lợn mắc hội chứng MMA ở

lô đối chứng (30,01%), thời gian động dục lại của lợn ở lô thí

nghiệm ngắn hơn so với lô 2 (lô đối chứng) ( tương ứng là 4,12 ±

1,13 ngày so với 6,48 ± 1,18 ngày), tỷ lệ lợn phối giống lần đầu thụ

thai ở lô thí nghiệm cao hơn ở lô đối chứng (94,73% so với 89,04%)

(bảng 3.8).

Ngoài ra, theo dõi đàn lợn con của những lợn nái được áp

dụng các bước phòng hội chứng MMA tại bảng 3.28 cho thấy: tỷ lệ

lợn con tiêu chảy ở lô 2 là 29,87%, cao hơn so với lô 1 là 12,73%;

trọng lượng cai sữa lúc 21 ngày tuổi ở lô 1 là 83,46 ± 0,03 kg/ổ cao

hơn lô 2 là 63,52 ± 1,28 kg/ổ; số lợn con cai sữa/ổ lô 1 là 12,41 ± 0,18 con cao hơn lô 2 là 10,29 ± 0,22 con. Như vậy, thông qua việc

tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái trước và sau

khi đẻ đã phòng ngừa có hiệu quả sự nhiễm trùng, từ đó góp phần

giảm tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA, giảm thấp tình trạng tiêu

chảy ở lợn con, giúp lợn con lớn nhanh, hạn chế tỷ lệ chết, nâng cao

trọng lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

1. Biểu hiện lâm sàng của lợn mắc hội chứng MMA gồm:

sốt, mệt mỏi ủ rũ, bỏ hoặc biếng ăn, có dịch viêm tử cung, vú

sưng, nóng, đỏ, đau, lợn mẹ nằm sấp và không cho con bú.

Tỷ lệ lưu hành hội chứng MMA ở đàn lợn nái ngoại tại các

tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội là

48,48%. Lứa đẻ và mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ lưu hành của

22

hội chứng MMA; lứa đẻ đầu và từ lứa đẻ thứ 5 trở đi có tỷ lệ lưu

hành cao hơn những lứa đẻ còn lại; tỷ lệ lưu hành hội chứng MMA

cao nhất ở mùa hè và thấp nhất vào mùa thu.

2. Hội chứng MMA ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh

sản của lợn nái. Ở nhóm lợn nái mắc hội chứng MMA, thời gian

động dục lại sau cai sữa dài hơn, tỷ lệ thụ thai thấp hơn và số lợn con

sinh ra còn sống sau 24h/ổ ít hơn so với các chỉ tiêu này ở nhóm lợn nái

bình thường.

3. Có sự thay đổi rõ rệt về các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu

của lợn mắc hội chứng MMA so với các chỉ tiêu này của lợn bình

thường: Số lượng hồng cầu, hàm lượng Hb, thể tích hồng cầu, tỷ

khối huyết cầu, nồng độ huyết sắc tố, huyết sắc tố trong một hồng

cầu, tổng số bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu trung tính của lợn nái mắc hội

chứng MMA đều cao hơn, ngược lại tỷ lệ các loại bạch cầu khác thấp

hơn so với lợn nái bình thường (P < 0,05); Hàm lượng Albumin

huyết thanh, Protein tổng số và hàm lượng đường trong máu của lợn

nái mắc hội chứng MMA thấp hơn các hàm lượng này trong máu lợn bình thường. Ngược lại các tiểu phần α và γ - Globulin, hoạt độ của

enzyme GOT và GPT trong huyết thanh của lợn mắc hội chứng

MMA cao hơn các hàm lượng này trong huyết thanh của lợn nái bình

thường (P < 0,05).

4. Hàm lượng mỡ, protein, đường, vật chất khô, nhiệt độ

đông đặc và pH của sữa lợn mắc hội chứng MMA thấp hơn so với

các thành phần này trong sữa lợn bình thường (P < 0,05).

5. Trong sữa của lợn mắc hội chứng MMA phân lập được 03

loài vi khuẩn là: E. coli, Staphylococcus spp., Streptococcus spp.

23

Trong dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA phân lập được 05 loài

vi khuẩn là: E. coli, Staphylococcus spp., Streptococcus spp.,

Salmonella spp. và Pseudomonas spp. Tổng số các vi khuẩn có trong

mẫu sữa, mẫu dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA cao hơn

nhiều lần so với tổng số vi khuẩn trong các mẫu này ở lợn nái bình

thường.

6. Các loại kháng sinh: norfloxacin, gentamycin, amoxyclin,

cephalexin có tính mẫn cảm cao với các vi khuẩn phân lập được từ

mẫu sữa, mẫu dịch tử cung lợn nái mắc hội chứng MMA.

7. Kết quả điều trị hội chứng MMA bằng kháng sinh phụ

thuộc vào việc chọn thuốc và kết hợp với một số chế phẩm hỗ trợ

điều trị như Lutalyze nhằm rút ngắn thời gian điều trị.

8. Thực hiện tốt biện pháp vệ sinh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng

và kỹ thuật đỡ đẻ phù hợp có thể giảm tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở

lợn nái (từ 30,01% xuống còn 15,79%), giảm tỷ lệ tiêu chảy, còi cọc

ở lợn con (từ 33% xuống còn 15%).

Kiến nghị

Để hạn chế lợn mắc hội chứng MMA, các trang trại cần áp

dụng đầy đủ, nghiêm ngặt các bước phòng bệnh vào thực tế chăn

nuôi. Xây dựng kế hoạch loại thải lợn nái phù hợp để duy trì ổn định

cơ cấu đàn; áp dụng điều trị dự phòng cho lợn nái khi thân nhiệt lợn sau đẻ tăng đến 39,50C bằng các thuốc kháng sinh và chế

phẩm hỗ trợ sinh sản như Lutalyze PGF 2α với liều 1,5 - 2 ml/con,

dùng 01 lần trong thời gian điều trị.

Khi lợn mắc hội chứng MMA thể điển hình, biện pháp khắc

phục tốt nhất là ghép đàn con và loại thải lợn mẹ.

24

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Văn Thanh và Trịnh Đình Thâu (2013). Thực trạng

hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (Metritis, Mastitis, Agalactia -

M.M.A) và ảnh hưởng của nó đến năng suất sinh sản của lợn nái, Tạp chí Khoa

học Kỹ thuật Thú y tập XX, số 6 - 2013: 47-52

2. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Văn Thanh, Trịnh Đình Thâu và Phạm Kim

Đăng (2013). Biểu hiện lâm sàng và một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của

lợn mắc hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa, Tạp chí Khoa học Phát

triển, tập 11, số 5: 641-647.