BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ HỒNG MINH

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ TIÊU LÂM

SÀNG, PHI LÂM SÀNG VÀ THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP

PHÒNG, TRỊ HỘI CHỨNG VIÊM TỬ CUNG, VIÊM VÚ,

MẤT SỮA (MMA) Ở LỢN NÁI SINH SẢN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: SINH SẢN VÀ BỆNH SINH SẢN GIA SÚC

HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ HỒNG MINH

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ TIÊU LÂM SÀNG,

PHI LÂM SÀNG VÀ THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÒNG, TRỊ

HỘI CHỨNG VIÊM TỬ CUNG, VIÊM VÚ, MẤT SỮA (MMA) Ở

LỢN NÁI SINH SẢN

CHUYÊN NGÀNH : SINH SẢN VÀ BỆNH SINH SẢN GIA SÚC

MÃ SỐ : 62 64 01 06

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN THANH

2. TS. TRỊNH ĐÌNH THÂU

HÀ NỘI, 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các

số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính xác và chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ thực hiện luận án đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 08 tháng 4 năm 2014

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Hồng Minh

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã

nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động

viên của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.

Nhân dịp hoàn thành luận án, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và

biết ơn sâu sắc PGS.TS Nguyễn Văn Thanh; TS Trịnh Đình Thâu đã tận tình

hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá

trình học tập và thực hiện đề tài.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo,

Bộ môn Ngoại Sản, Khoa Thú y - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp

đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức Chi

cục Thú y tỉnh Bắc Ninh, cảm ơn các trang trại chăn nuôi, các công ty lợn giống đã

giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo

mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi

hoàn thành luận án./.

Hà Nội, ngày 08 tháng 4 năm 2014

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Hồng Minh

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii

Mục lục iii

Danh mục các chữ viết tắt vii

Danh mục bảng viii

Danh mục hình x

MỞ ĐẦU 1

Tính cấp thiết của đề tài 1 1

Mục tiêu của đề tài 2 3

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3 3

4 Phạm vi nghiên cứu 3

5 Những đóng góp mới của đề tài 3

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

1.1 Khái quát hội chứng viêm tử cung (Metritis), viêm vú (Mastitis),

mất sữa (Agalactia) - MMA 4

1.1.1 Viêm tử cung (Metritis) 5

1.1.2 Viêm vú (Mastitis) 10

1.1.3 Mất sữa (Agalactia) 15

1.2 Những nghiên cứu về hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) 17

1.2.1 Nghiên cứu ở nước ngoài 17

1.2.2 Nghiên cứu trong nước 28

1.3 Ảnh hưởng của hội chứng MMA 35

1.3.1 Khả năng sinh sản của lợn nái 35

1.3.2 Sinh trưởng và phát triển của lợn con 35

Chương 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37

2.1 Đối tượng nghiên cứu 37

2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 37

2.3 Nội dung nghiên cứu 37

iii

2.3.1 Điều tra dịch tễ học hội chứng MMA 37

2.3.2 Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 37

2.3.3 Theo dõi một số chỉ tiêu phi lâm sàng 38

2.3.4 Theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần, tính chất của sữa lợn 38

2.3.5 Phân lập và giám định các loài vi khuẩn 38

2.3.6 Kiểm tra kháng sinh đồ 38

2.3.7 Thử nghiệm phác đồ điều trị hội chứng MMA 38

2.3.8 Đề xuất các biện pháp phòng hội chứng MMA 39

2.4 Phương pháp nghiên cứu 39

2.4.1 Xác định một số chỉ tiêu lâm sàng 39

2.4.2 Phương pháp điều tra hồi cứu để nắm được tình hình dịch tễ của

lợn mắc hội chứng MMA 39

2.4.3 Phương pháp xác định các chỉ tiêu sinh sản để đánh giá ảnh hưởng

của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 40

2.4.4 Phương pháp lấy mẫu 40

2.4.5 Các phương pháp dùng trong xét nghiệm một số chỉ tiêu phi lâm

sàng: sinh lý, sinh hóa máu 41

2.4.6 Phương pháp phân tích các chỉ tiêu chất béo, protein, đường, vật

chất khô và đo pH của sữa 41

2.4.7 Phương pháp phân lập và giám định vi khuẩn trong mẫu sữa lợn 42

2.4.8 Phương pháp phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí có trong dịch

tử cung 43

2.4.9 Phương pháp kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn phân lập từ

sữa và dịch viêm tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại

kháng sinh thông dụng 46

2.4.10 Ứng dụng điều trị hội chứng MMA 47

2.4.11 Thử nghiệm biện pháp phòng hội chứng MMA 48

2.4.12 Xử lý số liệu 49

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 50

3.1 Xác định một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA 50

iv

3.2 Tình hình mắc hội chứng MMA trên đàn lợn nái tại các trang trại

nghiên cứu 52

Ảnh hưởng của lứa đẻ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA 3.3 53

Ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA 3.4 55

Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 3.5 56

Kết quả kiểm tra huyết cầu và huyết sắc tố của lợn mắc hội chứng MMA 3.6 60

Số lượng và công thức bạch cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA 3.7 62

Kết quả kiểm tra hàm lượng protein tổng số, các tiểu phần protein huyết 3.8

thanh của lợn nái mắc hội chứng MMA và của lợn nái bình thường 63

3.9 Hàm lượng đường huyết và hoạt độ của enzyme GOT, GPT trong

máu lợn mắc hội chứng MMA 65

3.10 Kết quả phân lập, giám định vi khuẩn trong sữa lợn mắc hội

chứng MMA 66

3.11 Sự biến động số lượng vi khuẩn phân lập được trong sữa lợn mắc

hội chứng MMA và trong sữa lợn bình thường 68

3.12 Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu chất lượng, thành phần và tính chất

của sữa lợn 70

3.13 Kết quả phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung

lợn mắc hội chứng MMA 72

3.14 Kết quả kiểm tra số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung lợn

nái mắc hội chứng MMA 74

3.15 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn hiếu khí phân lập

được từ mẫu sữa, mẫu dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với

10 loại kháng sinh thông dụng 76

3.15.1 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn hiếu khí phân lập

từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh 76

3.15.2 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn hiếu khí

phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại

kháng sinh thông dụng 82

v

3.16 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ với tập đoàn vi khuẩn trong mẫu

dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA 93

3.17 Kết quả thử nghiệm điều trị hội chứng MMA 95

3.18 Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng hội chứng MMA bằng vệ

sinh thú y và chăm sóc nuôi dưỡng 97

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 103

Kết luận 1 103

Kiến nghị 2 104

Danh mục công trình đã công bố có liên quan đến luận án 105

Tài liệu tham khảo 106

Phụ lục 112

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Ý nghĩa của chữ viết tắt

Blood Agar: thạch máu BA

Clony Forming Unit: đơn vị khuẩn lạc CFU

cs Cộng sự

ĐVT Đơn vị tính

ELISA Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay: hấp phụ miễn dịch liên

kết với enzyme

FSH Follicle Stimulating Hormone: Hormon làm trúng chín

GOT Glutamate Oxalate Transaminase: men chuyển hóa

GPT Glutamate Pyruvate Transaminase: men chuyển hóa

LH Lutenizing Hormone: Hormon làm rụng trứng

MC Thạch Maconkey

MIC Minimum inhibitory concentration: nồng độ ức chế tối thiểu

MMA Metritis, mastitis, agalactia: hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa

OR Odds Ratio: hệ số tương quan

P Khối lượng cơ thể

PGF Prostaglandin F: hormon sinh sản

PPDS Post partum dysgalactia syndrome: hội chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ

PRRS Porcine reproductive and respiratory syndrome: hội chứng rối loạn

sinh sản và hô hấp ở lợn

PTNT Phát triển Nông thôn

SE Standard Error: Sai số chuẩn

Spp species Plural: loài

YCW yeast cell wall: men vách tế bào

vii

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng Trang TT

2.1 Bảng qui chuẩn lâm sàng phòng xét nghiệm NCCS 1999 47

2.2 Bố trí thử nghiệm biện pháp tổng hợp phòng hội chứng MMA 48

3.1 Kết quả theo dõi một số biểu hiện lâm sàng ở lợn nái mắc hội

chứng MMA 50

3.2 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA tại các địa phương 52

3.3 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ 54

3.4 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA qua các mùa trong năm 55

3.5a Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến một số chỉ tiêu sinh sản ở lợn nái 57

3.5b Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 58

3.6 Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu huyết học của lợn nái mắc hội

chứng MMA và lợn nái bình thường 60

3.7 Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu ở lợn nái mắc hội chứng

MMA và lợn nái bình thường 62

3.8 Kết quả kiểm tra hàm lượng protein huyết thanh của lợn mắc hội

chứng MMA và lợn bình thường 63

3.9 Hàm lượng đường huyết và hoạt độ men sGOT, sGPT ở lợn nái

mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường 65

3.10 Số loài vi khuẩn trong sữa lợn nái mắc hội chứng MMA và lợn nái

bình thường 67

3.11 Kết quả xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí trong sữa lợn mắc hội

chứng MMA và sữa lợn bình thường 69

3.12 Một số chỉ tiêu về thành phần, tính chất của sữa lợn 70

3.13 Kết quả phân lập vi khuẩn trong dịch tử cung của lợn nái mắc hội

chứng MMA và lợn nái bình thường 72

3.14 Kết quả xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung của

lợn nái mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường 75

viii

3.15 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn E. coli phân lập từ

sữa lợn mắc hội chứng MMA (n = 62) 77

3.16 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 54 chủng vi khuẩn

Staphylococcus spp phân lập từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA 78

3.17 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 17 chủng vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA 80

3.18 Tỷ lệ các chủng vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp và

Streptococcus spp mẫn cảm với 10 loại kháng sinh kiểm tra 81

3.19 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 135 chủng vi khuẩn E. coli

phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA 83

3.20 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 135 chủng vi khuẩn

Staphylococcus spp với 10 loại kháng sinh thường dùng 85

3.21 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 119 chủng vi khuẩn

Streptococcus spp với 10 loại kháng sinh thông dụng 86

3.22 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 83 chủng vi khuẩn Salmonella

spp với 10 loại kháng sinh thông dụng 88

3.23 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 34 chủng vi khuẩn

Pseudomonas spp với 10 loại kháng sinh thông dụng 90

3.24 Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của 5 loại vi khuẩn với 10 loại

kháng sinh 91

3.25 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của tập đoàn vi khuẩn có trong dịch

tử cung của lợn mắc hội chứng MMA 93

3.26 Kết quả điều trị hội chứng MMA 96

3.27 Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng hội chứng MMA ở lợn nái 100

3.28 Kết quả theo dõi các đàn lợn con của những lợn nái được phòng

ngừa hội chứng MMA 101

ix

DANH MỤC HÌNH

Tên hình Trang TT

Tiết diện núm vú và phân loại khả năng hoạt động của núm vú lợn cái 11 1.1

Lô thí nghiệm phòng hội chứng MMA 101 3.2

Lô đối chứng phòng hội chứng MMA 101 3.3

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Tên sơ đồ Trang TT

1.1 Cơ chế phát sinh chứng mất sữa 20

Cơ chế phát sinh chứng viêm tử cung 20 1.2

Cơ chế phát sinh chứng viêm vú 20 1.3

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Tên biểu đồ Trang TT

Tính mẫn cảm của các vi khuẩn trong sữa với 10 loại kháng sinh 82 3.1

Tính mẫn cảm của vi khuẩn trong dịch tử cung lợn nái với 10 loại 3.2

kháng sinh 92

x

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của

Việt Nam nói chung và của các tỉnh phía bắc nói riêng. Trong những năm qua

thịt lợn đã trở thành hàng hoá tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, góp phần tăng

thu nhập cho nông dân. Trong chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020,

ngành chăn nuôi sẽ được tổ chức lại theo hướng gắn với thị trường; Chăn nuôi sẽ

cơ bản chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa, theo phương thức chăn nuôi tập

trung công nghiệp, nhằm đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh thú y và vệ sinh an

toàn thực phẩm; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả chăn nuôi và cải thiện

điều kiện an sinh xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, việc nâng cao năng suất sinh

sản của đàn lợn nái, đăc biệt là đàn lợn nái ngoại luôn là mối quan tâm, là mục

tiêu hàng đầu của các nhà chăn nuôi và các nhà khoa học.

Trong những năm gần đây, cùng với những thiệt hại do các bệnh truyền

nhiễm nguy hiểm gây ra cho đàn lợn như: dịch tả, lở mồm long móng, tai xanh…

các bệnh về sinh sản cũng không ngừng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới năng

suất sinh sản của lợn nái. Theo các nhà chăn nuôi, một trong những nguyên nhân

làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái ở nước ta hiện nay là hội chứng viêm

tử cung (metritis), viêm vú (mastitis), mất sữa (agalactia) viết tắt là MMA. Thuật

ngữ MMA được dùng nhiều ở các nước châu Âu (Martin et al., 1967;

Waldmann, 2001), đặc trưng bởi việc giảm tiết sữa 12 - 48 giờ sau đẻ, viêm tử

cung, viêm vú ở lợn mẹ, còi cọc, dễ nhiễm bệnh và chết đói ở lợn con.

Ngày nay, hội chứng MMA còn được gọi là hội chứng rối loạn tiết sữa sau

đẻ (Post - Partum Dysgalactia Syndrome - PPDS/PDS), hoặc hội chứng giảm sữa

sau đẻ (Post - patrum Hypogalactia Syndrome - PHS). Lợn nái có tỉ lệ mắc bệnh

cao, tỉ lệ chết khoảng 2% nhưng lợn con có thể chết đến 80%, gây tổn thất lớn về

kinh tế (Shrestha, 2012).

Trong nghiên cứu đánh giá thiệt hại do ảnh hưởng của hội chứng MMA tại

1

Cộng Hòa Liên Bang Đức cho thấy: hội chứng này gây tổn thất kinh tế cho chăn

nuôi khoảng 15.000 Euro/1.000 lợn nái/năm (During and Friton, 2003).

Hội chứng MMA không những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, khả

năng sinh sản, sức sản xuất của lợn nái mà còn ảnh hưởng đến chất lượng lợn

con. Trên thế giới, mặc dù hội chứng MMA đã được biết đến từ lâu nhưng chỉ từ

khi có một số công bố về tỷ lệ mắc hội chứng MMA từ 30 đến 35% ở một số đàn

lợn nái sinh sản thì mới có nhiều nghiên cứu chi tiết về tổn thương vú (Jensen et

al., 2006), về mối tương quan giữa viêm nhiễm đường sinh dục với hội chứng

MMA (Busse, 2006; Hulten et al., 2006), về xác định các yếu tố nguy cơ mắc hội

chứng (Perestrelo et al., 1994) và thử nghiệm điều trị (Gevaert et al., 2006; Heber

et al., 2010). Cùng với những đặc điểm lợn nái kém ăn, mệt mỏi, sốt, sưng vú,

viêm tử cung sau đẻ từ 12 đến 48 giờ, hội chứng MMA còn làm giảm tiết sữa và

đặc biệt làm thay đổi thành phần của sữa qua đó làm tăng tỷ lệ chết ở lợn sơ sinh

tới 80% (Shrestha, 2012).

Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về hội chứng MMA

nhưng chủ yếu các nghiên cứu mới đánh giá tỷ lệ mắc, phân lập vi khuẩn gây

bệnh, thử nghiệm phác đồ điều trị (Lê Minh Chí và Nguyễn Như Pho, 1985;

Trịnh Đình Thâu và cs., 2010). Tuy nhiên, việc xác định sự thay đổi các chỉ tiêu

sinh lý, sinh hóa máu, xác định sự biến động hàm lượng vi khuẩn và thành phần

hóa học, tính chất của sữa lợn mắc hội chứng MMA thì chưa được nghiên cứu

một cách hệ thống. Chính vì thế, việc tiếp cận nghiên cứu tổng thể từ nguyên

nhân, biểu hiện lâm sàng, phi lâm sàng, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc và

đánh giá hiệu quả của một số giải pháp phòng, trị hội chứng MMA là yêu cầu cấp

thiết trong thực tế sản xuất hiện nay.

Để hạn chế tác hại của hội chứng MMA, góp phần nâng cao năng suất sinh

sản của đàn lợn nái và góp thêm tư liệu khoa học cho việc hoàn thiện chương

trình phòng chống, hạn chế dịch bệnh trên đàn lợn ở khu vực và trên toàn quốc,

chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sự biến đổi một số chỉ tiêu lâm sàng,

phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng viêm tử cung, viêm

vú, mất sữa (MMA) ở lợn nái sinh sản”

2

2. Mục tiêu của đề tài

Xác định đặc điểm bệnh lý lâm sàng, phi lâm sàng, đặc điểm dịch tễ và tỷ lệ

lưu hành hội chứng MMA trên đàn lợn nái ngoại nuôi tập trung tại các trang trại

ở các tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Hồng gồm: Bắc Ninh, Hải Dương,

Hưng Yên và thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp phòng, trị hội chứng

MMA có hiệu quả, góp phần nâng cao năng suất sinh sản và phát triển chăn nuôi

lợn bền vững.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học: là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống

về hội chứng MMA trên đàn lợn nái ngoại sinh sản nuôi tại một số trang trại của

các tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Hồng.

Ý nghĩa thực tiễn: đưa ra các giải pháp phòng, trị hội chứng MMA có hiệu

quả, góp phần nâng cao năng suất sinh sản và phát triển chăn nuôi bền vững.

4. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện trên một số trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại

tại các tỉnh: Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội và đàn lợn

con được sinh ra từ những lợn nái nghiên cứu.

5. Những đóng góp mới của đề tài

Nghiên cứu một cách hệ thống về hội chứng MMA, từ biểu hiện triệu

chứng lâm sàng đến các chỉ tiêu phi lâm sàng, chất lượng sữa, thành phần vi

khuẩn trong sữa, trong dịch tử cung của lợn nái, làm kháng sinh đồ và đề xuất

các giải pháp phòng, trị hội chứng MMA.

3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái quát hội chứng viêm tử cung (Metritis), viêm vú (Mastitis), mất

sữa (Agalactia) - MMA

Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa được gọi bằng nhiều tên khác

nhau trên thế giới: theo Martin et al. (1967) hội chứng MMA là tên thường được

dùng ở các nước châu Âu; hội chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ (postpartum

dysgalactia syndrome - PPDS/PDS) được dùng ở các nước nói tiếng Anh

(Klopfenstein et al., 2006), ngoài ra còn một số tên gọi khác như: hội chứng mất

sữa (Peny, 1970); hội chứng mất sữa sau đẻ (Hermannson et al., 1978)… Tuy

nhiên, dù ở tên gọi nào cũng phản ánh căn nguyên gây nên những bệnh lý của hội

chứng và được biểu hiện bằng các triệu chứng đặc trưng: kém ăn hoặc bỏ ăn, lười uống nước, bồn chồn, sốt > 39,50C, sưng tuyến vú, viêm tử cung, tiết nhiều dịch

viêm và giảm tiết sữa từ 12 đến 48 giờ sau đẻ, lợn con chết đói tỷ lệ cao (Hoy,

2004; Shrestha, 2012). Hội chứng do vi khuẩn gây ra và là nguyên nhân làm tăng

tỷ lệ chết, kém tăng trọng ở lợn con (BPEX, 2011) và gây tổn thất kinh tế trong

chăn nuôi lợn sinh sản trên thế giới (Bertschinger, 1999).

Theo Heber et al. (2010), bệnh ở lợn nái sau đẻ được gọi là hội chứng

MMA khi xuất hiện một trong những triệu chứng hoặc bao gồm các triệu chứng

sau: viêm tử cung, viêm vú, pH âm đạo > 8,0, bỏ ăn hoặc ăn ít và thân nhiệt > 39,40C, tỷ lệ lợn nái mắc bệnh trong đàn lên tới 35 - 40%.

Theo Đặng Đắc Thiệu (1978); Lê Minh Chí và Nguyễn Như Pho (1985);

Berstchinger and Pohlenz (1980); Ross (1981); Smith (1985); Mercy (1990);

Radostits and Blood (1997), những biểu hiện lâm sàng ở lợn nái sau sinh 12 - 72

giờ bao gồm hiện tượng sốt (Persson et al., 1989), tử cung tiết nhiều dịch viêm

(viêm tử cung); vú sưng cứng, nóng và đỏ (viêm vú); sữa giảm hay mất sữa, được

gọi là hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (Gardner et al., 1990). Trên từng

cá thể, có thể bệnh xuất hiện với từng triệu chứng riêng biệt hoặc kết hợp 2 - 3

triệu chứng cùng lúc, trong đó chứng viêm tử cung thường xuất hiện với tần xuất

4

cao hơn (Lê Minh Chí và Nguyễn Như Pho, 1985). Theo Taylor (1995), hội chứng

MMA phải là sự kết hợp cả 3 chứng viêm tử cung, viêm vú và mất sữa trên cùng

một cá thể lợn nái. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ hội chứng

MMA theo quan điểm của các tác giả Đặng Đắc Thiệu (1978); Lê Minh Chí và

Nguyễn Như Pho (1985); Berstchinger and Pohlenz (1980) để diễn tả những cá thể

bị viêm tử cung kèm mất sữa hoặc viêm tử cung kèm viêm vú được xem là mắc

hội chứng MMA. Trường hợp viêm tử cung, viêm vú, mất sữa cùng xuất hiện trên

một cá thể được gọi là thể điển hình của hội chứng MMA.

1.1.1. Viêm tử cung (Metritis)

Đặc điểm: Là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản

sau khi đẻ, quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng

của thành tử cung gây rối loạn sinh sản, từ đó gây ảnh hưởng lớn đến khả năng

sinh sản, thậm chí làm cho gia súc cái mất khả năng sinh sản.

Nguyên nhân: Theo Sobko and Gadenko (1978), nguyên nhân của bệnh

viêm tử cung là do tử cung bị tổn thương, do sót nhau khi đẻ. Bệnh phát triển do

nuôi dưỡng không đủ chất, do đưa vào đường sinh dục những chất kích thích đẻ,

chúng phá hủy hoặc làm kết tủa chất nhày ở bộ máy sinh dục lợn.

Theo Đào Trọng Đạt và cs. (2000), bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do

các nguyên nhân sau:

- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng

phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung; dụng cụ dẫn tinh

không được vô trùng khi phối giống đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái

gây viêm.

- Khi phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc

mang vi khuẩn từ những lợn nái khác bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang

cho lợn khỏe.

- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc

tử cung, theo đó vi khuẩn xâm nhập gây viêm tử cung kế phát.

- Lợn nái sau đẻ bị sót nhau xử lý không triệt để dẫn đến viêm tử cung.

5

- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sẩy thai truyền nhiễm, phó

thương hàn, lao…

- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ

không sạch; trong thời gian lợn đẻ cổ tử cung mở, tạo điều kiện cho vi sinh vật

xâm nhập và gây viêm.

- Do nấm xâm nhập.

Ngoài các nguyên nhân trên, viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm

trùng do vi khuẩn xâm nhập vào tử cung trong thời gian động dục (do lúc đó cổ

tử cung mở) (Lê Văn Năm, 1997).

Theo Madec and Neva (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường

tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong

âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.

Hậu quả của bệnh viêm tử cung

Theo Madec and Neva (1995), hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ

lứa đẻ trước đến lần động dục tiếp theo có thể giải thích cho nguyên nhân làm

giảm độ mắn đẻ, từ đó làm giảm năng suất sinh sản.

Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002); Trần Thị Dân (2004), khi lợn nái bị

viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:

- Sẩy thai: Lớp cơ trơn thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi gia súc cái

mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm dưới tác dụng của Progesterone, nhờ

vậy phôi thai mới bám chặt vào thành tử cung. Khi tử cung bị viêm cấp tính do

nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α) gây

phân hủy thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng, làm

chết tế bào, gây co mạch hoặc thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu

lượng máu đến thể vàng. Thể vàng bị phá hủy dẫn đến giảm tiết Progesterone

vào máu, hàm lượng Progesterone trong máu giảm, làm tăng trương lực cơ tử

cung do đó gia súc chửa rất dễ sẩy thai.

- Bào thai phát triển kém hoặc thai chết lưu: Lớp nội mạc tử cung có

nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để nuôi dưỡng phôi thai. Khi lớp nội mạc

6

bị viêm, lượng Progesteron giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm

mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít, thậm chí không nhận được dinh

dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.

- Giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của lợn con theo mẹ: Khi

lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt vi khuẩn E.

coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích tố tạo sữa

Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành

phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.

- Ảnh hưởng đến khả năng động dục trở lại: Nếu tử cung bị viêm mạn tính

thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại; thể vàng tiếp tục tiết

Progesterone. Progesterone ức chế thùy trước tuyến yên tiết FSH, do đó ức chế

sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở

lại và không thể rụng trứng.

Biểu hiện rõ nhất trên lâm sàng mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận

thấy ở lợn viêm tử cung lúc đẻ là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các

quá trình bệnh lý xảy ra lúc đẻ ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn

nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung.

Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên

nhân làm giảm độ mắn đẻ. Ngoài ra, viêm tử cung là một trong những nguyên

nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con cai sữa thấp. Đặc

biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt

động của buồng trứng (Madec and Neva,1995).

Chẩn đoán viêm tử cung

Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện

vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch

viêm có thể chảy ra ngoài. Lượng dịch viêm không ổn định, có thể từ vài millilit

(ml) đến vài trăm millilit. Tính chất của dịch viêm cũng khác nhau, từ dạng dung

dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng đặc như kem, có thể màu máu

cá. Người ta thấy rằng thời kì sau đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, còn

7

viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời kì cho sữa (Madec and Neva, 1995).

Để chẩn đoán, người ta dựa vào những triệu chứng điển hình cục bộ ở cơ

quan sinh dục và triệu chứng toàn thân như dịch viêm và thân nhiệt.

Thân nhiệt là một trị số hằng định ở động vật bậc cao. Theo Hồ Văn Nam và cs. (1997), thân nhiệt bình thường của lợn là 38 - 38,5oC; khi viêm, thân nhiệt tăng từ 1,5 đến 2oC.

Dịch viêm là sản phẩm được tiết ra tại ổ viêm, bao gồm nước, thành phần

hữu hình và các chất hòa tan.

Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ

ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu

quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm, từ đó

đưa ra phác đồ điều trị tối ưu, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp

nhất, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.

Điều trị viêm tử cung

Có nhiều phương pháp để điều trị bệnh viêm tử cung, Nguyễn Văn Thanh

(2003) đã nêu ra 4 phác đồ điều trị như sau:

- Phác đồ 1: Bơm rửa tử cung bằng dung dịch Rivanol 0,1% hay thuốc tím 0,1%

ngày 1 lần, sau khi bơm rửa, kích thích cho dung dịch đẩy ra ngoài, dùng Neomycin 12

mg/kg thể trọng bơm vào tử cung ngày 1 lần, liệu trình điều trị 3 - 5 ngày.

- Phác đồ 2: Dùng PGF2α hay các dẫn xuất của nó như Estrumat,

Oestrophan, Prosolvin, tiêm dưới da 2 ml (25 mg) tiêm 1 lần sau đó bơm vào tử

cung 200 ml dung dịch Lugol, ngày 1 lần, liệu trình điều trị 3 - 5 ngày.

- Phác đồ 3: Dùng oxytocin 6 ml tiêm dưới da, Lugol 200 ml, neomycin

12 mg/kg thể trọng bơm vào tử cung, ampicilline 3 - 5 g tiêm bắp hay tĩnh mạch

tai ngày 1 lần, liệu trình điều trị 3 - 5 ngày.

- Phác đồ 4: Dùng PGF2α (hay các dẫn xuất) tiêm dưới da 2 ml (25 mg)

tiêm 1 lần, Lugol 200 ml, neomycin 12 mg/kg khối lượng cơ thể, bơm vào tử

cung sau đó dùng Ampicilline 3 - 5 g tiêm bắp hay tĩnh mạch tai ngày 1 lần, liệu

trình điều trị 3 - 5 ngày.

8

Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết hiệu quả điều trị bệnh viêm tử cung

bằng phác đồ như sau:

- Thụt rửa tử cung bằng các dung dịch thuốc sát trùng như: Biocid - 30

(1%), Lugol 5%, Han - iodine 5%...

- Tiêm một trong các loại kháng sinh sau: gentamicin, oxytetracyclin,

penicillin…

- Tiêm oxytocin để đẩy các niêm dịch và dịch viêm ra ngoài.

- Dùng thuốc trợ sức, trợ lực như: ADE Bcomplex, Calci - B12,

Calci - fort…

Theo Nguyễn Đức Lưu và cs (2000), dùng oxytocin với liều 20 - 40

UI/con/ngày để tăng co bóp dạ con, tống dịch viêm ra ngoài. Sau đó thụt rửa tử

cung bằng Han - iodine 5%, tiêm kháng sinh: gentamicin 4% 1 ml/6 kg thể

trọng hoặc lincomycin 10% 1 ml/10 kg thể trọng liên tục trong 3 đến 5 ngày.

Tác giả Đoàn Thị Kim Dung và cs. (2002) đã dùng một số bài thuốc nam

trong việc điều trị viêm tử cung cho kết quả tốt.

Bài 1:

- Nước sắc vỏ cây xoan;

- Lá bạch đàn đồng nữ 500 g;

- Muối ăn 50 g;

- Nước sạch 3000 ml.

Các nguyên liệu trên cho vào ấm đun sôi trong 30 phút, chắt lấy nước để

nguội rồi dùng nước đó thụt rửa tử cung, âm đạo ngày 1 lần, rửa liên tục trong 7

đến 10 ngày.

Bài 2: Nếu tử cung, âm đạo bị viêm nặng, có mùi hôi thối, dịch viêm

nhiều có thể dùng 50 g tỏi ta bóc vỏ, rửa sạch, giã nhuyễn cho vào 500 ml nước,

đun sôi để nguội, khuấy đều, lọc lấy nước bơm vào tử cung 1 lần/ngày, dùng liên

tục từ 3 đến 5 ngày.

Bài 3: Vỏ rễ cây dâm bụt rửa sạch tráng qua nước muối loãng, cho thêm

nước và đun sôi sau đó chắt lấy nước để rửa tử cung, âm đạo cho lợn. Sau khi rửa

9

tiến hành lau khô, mỗi ngày rửa 2 lần.

Phòng bệnh

- Chăm sóc nuôi dưỡng: Bổ sung đầy đủ và cân đối thành phần dinh

dưỡng trong khẩu phần ăn của lợn, đặc biệt là trong giai đoạn lợn nái mang thai,

tránh tình trạng lợn quá béo hoặc quá gầy; cung cấp đủ nước sạch cho lợn.

- Vệ sinh: Thường xuyên dọn vệ sinh chuồng nuôi lợn nái, phân lợn thải

ra phải được thu gom hàng ngày, không để phân lưu trên nền chuồng quá lâu.

Chuồng đẻ phải được vệ sinh sạch sẽ, khi lợn đẻ có máu hoặc dịch ối trên nền

chuồng phải lau sạch. Khi lợn đẻ xong cần phải thu gom nhau thai, vệ sinh sàn

chuồng. Trường hợp lợn đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ trợ sản,

phải tuyệt đối tuân thủ các bước vệ sinh.

- Dùng thuốc: Khi lợn đẻ có dấu hiệu chậm ra con, tiêm một mũi

oxytocin; khi lợn đẻ xong tiêm một mũi Vime - cloprostenol (PGF2α) với liều 5

ml/con; Tiêm các loại thuốc trợ lực, tăng cường sức đề kháng như: Vitamin C,

Bcomplex, Canxi, B12… Tiêm phòng đầy đủ các loại vacxin phòng bệnh cho lợn

theo quy định.

- Phối giống: Đảm bảo phối giống đúng kỹ thuật, vô trùng.

1.1.2. Viêm vú (Mastitis)

Tuyến vú có hình chùm nho phức tạp và có nguồn gốc từ da. Tuyến vú gồm:

- Núm vú: Ở lợn có nhiều đôi vú từ vùng ngực đến vùng bẹn (thường có

từ 5 đến 8 đôi). Mỗi núm vú có 2 tuyến sữa, đầu núm vú có 2 - 3 ống dẫn thông

với các ống dẫn sữa lớn. Đầu núm vú là thụ quan ngoài quan trọng góp phần điều

hoà phản xạ tiết sữa.

- Bao tuyến: Do những tế bào biểu mô phân tiết tạo thành, là nơi sản sinh

ra sữa. Các bao tuyến giống như những túi nhỏ và những ống dẫn nhỏ trực tiếp

thông với xoang bao tuyến.

- Ống dẫn sữa: Các ống dẫn sữa đầu tiên là các ống dẫn nhỏ, sau đó tập

trung thành các ống dẫn trung bình, ống dẫn lớn; ở lợn không có bể sữa.

Cấu trúc bên trong và phân loại khả năng hoạt động của núm vú lợn cái

10

được trình bày tại hình 1.1.

Theo Rzasa et al. (2004), ở lợn nái có số lượng ống dẫn sữa trong núm vú

phân bố không đều nhau. Cụ thể: 43% lợn nái trong núm vú có 2 ống dẫn, 43%

lợn nái có núm vú với 1 và 2 ống dẫn, 11,5% có 2 và 3 ống dẫn, 2,5% có cả 1; 2

và 3 ống dẫn.

Bao tuyến và các ống dẫn sữa nhỏ có các tế bào biểu mô bao bọc tầng bên

ngoài. Những tế bào biểu mô đó co bóp để cho sữa ở trong xoang bao tuyến thải

ra. Ống dẫn sữa và bể sữa có các sợi cơ trơn bao bọc xung quanh, các sợi cơ này

co bóp để giúp cho quá trình thải sữa.

Hình 1.1. Tiết diện núm vú và phân loại khả năng hoạt động

của núm vú lợn cái

(Nguồn: Muirhead and Alexander (2010)

Các mô liên kết, mô mỡ bao quanh toàn bộ tuyến vú, đồng thời các mô

này đi sâu vào bên trong tạo thành các thuỳ nông, thùy sâu, chia tuyến vú thành

nhiều thuỳ nhỏ. Trong các thuỳ có nhiều sợi đàn hồi và khi sữa tích lại trong

tuyến vú thì toàn bộ bầu vú căng ra.

11

Trong các bao tuyến có hệ thống mạch quản dày đặc. Trong đó hệ tĩnh

mạch của tuyến vú phát triển hơn hệ động mạch nhiều lần. Hệ thống mạch quản

của tuyến vú có chức năng mang chất dinh dưỡng và oxy đến cung cấp cho bao

tuyến và là nguyên liệu để hình thành nên sữa.

Theo Rzasa et al. (2004), những núm vú có 1 ống dẫn cho ít sữa hơn núm

vú có 3 ống dẫn và ở lợn nái đẻ lứa đầu, tỉ lệ núm vú 1 ống dẫn nhiều hơn so với

lợn đã đẻ nhiều lứa.

Gia súc còn non thì tuyến vú của con đực và con cái đều giống nhau. Khi

gia súc cái sinh trưởng và phát dục thì các mô liên kết và mô mỡ tuyến vú tăng

dần làm cho thể tích tuyến vú tăng lên. Đến khi gia súc đến giai đoạn thành thục

về tính thì tuyến vú của con cái phát triển: các ống dẫn, sinh trưởng nhanh và

phát triển nhiều nhánh nhỏ phức tạp, đồng thời thể tích bầu vú và đầu vú cũng to

dần lên.

Đặc điểm

Viêm vú là bệnh thường xảy ra đối với lợn nái, với biểu hiện một hoặc

nhiều bầu vú sưng, nóng, đau có khi thành u, cục làm lợn đau đớn, bệnh có thể

gây chết lợn nái và làm chết lợn con do thiếu sữa.

Nguyên nhân

Theo Nguyễn Như Pho (2002), nguyên nhân gây viêm vú thông thường

nhất là trầy xước vú do sàn, nền chuồng nhám, vi trùng xâm nhập vào tuyến sữa.

Hai loại vi trùng chính gây bệnh là Staphylococcus spp và Streptococcus

agalactiae. Các nguyên nhân khác gây viêm như số con quá ít không bú hết lượng

sữa sản xuất ra, kế phát từ viêm tử cung nặng, hoặc do kĩ thuật cạn sữa không hợp

lý trong trường hợp cai sữa sớm. Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau:

Do vệ sinh không đảm bảo, chuồng trại quá nóng hoặc quá lạnh.

Do lợn con khi đẻ ra không được bấm răng nanh ngay.

Do táo bón: khi lợn nái mang thai không được vận động thường xuyên

đồng thời khối thai lớn chèn ép làm giảm nhu động ruột gây ra tình trạng táo bón.

Vi khuẩn trong phân sẽ có điều kiện sinh sôi, cùng với các độc tố gây viêm trong

phân xuyên qua thành ruột vào máu, đến vú gây viêm.

12

Do stress: Nái mang thai sắp đến ngày sinh thường hay bị stress. Stress

làm giảm sức khỏe và sức đề kháng của lợn nái tạo cơ hội cho các vi khuẩn gây

bệnh phát triển và gây viêm.

Với nguyên nhân chấn thương cơ học hoặc lợn con bú không hết sữa,

bệnh viêm vú chỉ xuất hiện trên một vài vú. Trường hợp kế phát viêm tử cung

hoặc cạn sữa không hợp lý, nhiều vú hoặc có khi toàn bộ bầu vú bị viêm.

Theo Muirhead and Alexander (2010), nguyên nhân gây viêm một hay

nhiều vú ở lợn do nhiều loại vi khuẩn hoặc có thể do kế phát từ bệnh khác, xảy ra

lác đác ở từng cá thể hoặc cả đàn. Bệnh thường xuất hiện tập trung từ khi lợn đẻ

đến 12 giờ sau đó, vi khuẩn xâm nhập vào một hay nhiều bầu vú thông qua núm

vú do trầy xước (do răng của lợn con hay nền chuồng cứng). Nhóm vi khuẩn gây

viêm vú gồm: Coliform, Klebsiella, Staphylococcus, Streptococcus,

Miscellaneous. Trong đó vi khuẩn Staphylococcus và Streptococcus chỉ gây viêm

từng tuyến vú, Klebsiella spp gây viêm vú cấp tính và nhóm vi khuẩn E. coli với

nhiều type khác nhau đã được phân lập ở hầu hết các trường hợp viêm vú, độc tố

của E. coli sinh ra là nguyên nhân gây viêm vú, mất sữa.

Theo White (2013), nguyên nhân chủ yếu gây viêm vú cấp tính do các loại

vi khuẩn: E. coli, Klebsiella, đôi khi Pseudomonas nhiễm qua núm vú từ phân và

nền chuồng. Vì vậy, việc vệ sinh chuồng trại và núm vú đóng vai trò quan trọng

trong phòng bệnh.

Triệu chứng

Biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu

hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn

cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Tùy số lượng vú bị viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do

nhiễm trùng trực tiếp vào bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị

viêm. Tuy vậy, lợn nái cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi

bú, kêu rít, đồng thời do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị

tiêu chảy. Trường hợp viêm tử cung có mủ dẫn đến nhiễm trùng máu, thì toàn bộ

13

các bầu vú đều bị viêm. Đây là thể bệnh điển hình của hội chứng MMA, trường

hợp này cần ghép bầy con và loại thải lợn mẹ (McIntosh, 1996).

Đối với thể cấp tính, lợn nái có biểu hiện biếng ăn sau đẻ, mắt đỏ, da tai

và một hoặc toàn bộ núm vú nhợt nhạt, ở giai đoạn đầu có thể sờ thấy núm vú sưng, thân nhiệt lên tới 40 - 420 C, nái thường nằm sấp không cho con bú, sữa được vắt ra

bị vón cục, nhiều nước và đôi khi có máu, lợn con bị chết đói do không được bú.

Đối với thể mãn tính, xuất hiện các u, cục ở vú, nhiều nhất ở các vú phía sau, thể

viêm này thường xảy ra ở những nái được nuôi ở chuồng nhỏ có nền đất hoặc được

lót bằng rơm rạ… núm vú dễ bị trầy xước và nhiễm khuẩn.

Theo Christensen et al. (2007), khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học

từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp

và Arcanobacterium pyogenes.

Chẩn đoán

Dựa vào triệu chứng lâm sàng: lợn bỏ ăn hoặc ăn ít, bầu vú sưng, nóng, đỏ, đau…

Chẩn đoán phi lâm sàng: lấy mẫu sữa để kiểm tra sự có mặt các tế bào thể với sữa lợn bình thường tế bào thể đếm được là 1 x 106 tế bào/ml, đối với sữa của bệnh viêm vú số lượng tế bào thể tăng gấp đôi là 1 x 108 tế bào/ml; lấy các chất

tiết từ bầu vú để kiểm tra của vi khuẩn gây bệnh. Việc kiểm tra càng sớm càng có ý

nghĩa trong điều trị (Anonymous, 2012).

Phương pháp chẩn đoán viêm vú bằng cách xác định độ tăng của men

catalase và peroxidase:

Đây là hai loại enzyme oxy hóa quan trọng trong tế bào, khi các tế bào

nang tuyến vú bị phá hủy, trong sữa có máu, mủ và hai loại enzyme này tăng

theo tỉ lệ thuận. Tùy mức độ tăng enzyme peroxidase và catalase nhiều hay ít, có

thể kết luận viêm vú nặng hay nhẹ. Khi có mặt H2O2, enzyme catalase và

Catalase

peroxidase sẽ oxy hóa và giải phóng ra oxy theo cơ chế phản ứng sau:

H2O2 H2O + ½ O2 Peroxidase

14

Do giải phóng oxy, trong sữa có những bọt khí nổi lên dễ nhận ra. Ngoài

ra người ta có thể dùng các chất chỉ thị màu để phát hiện có oxy hay không. Các

chất hay sử dụng là Pyramidone, Benzidine, Phenolphtalein. Các chất chỉ thị màu

này dễ bị đổi màu khi bị oxy hóa, cụ thể:

- Pyramidone từ mầu trắng chuyển thành mầu tím.

- Benzidin từ mầu đen thành mầu xanh.

- Phenolphtalein từ mầu trắng chuyển thành mầu hồng.

Phòng và trị bệnh:

Phòng bệnh: vệ sinh, sát trùng chuồng đẻ, đảm bảo đủ diện tích (4 m2/nái)

và nền chuồng khô ráo, bằng phẳng, mài răng nanh cho lợn con trong vòng 24

giờ sau đẻ; cung cấp đủ nước uống sạch. Có thể dùng thuốc nhóm sulphonamide

trộn vào thức ăn cho nái chửa để phòng bệnh.

Trị bệnh: có thể dùng một số thuốc kháng sinh như: OTC, penicilline và

streptomycine, tremothoprime/sulfa, amoxycillin, enrofloxacin và ceftiofur, kết

hợp với các thuốc kháng viêm và tiêm oxytoxin để kích thích tiết sữa. Ở những

nơi tỷ lệ mắc bệnh cao, việc điều trị nên tiến hành sớm và dùng thuốc có tác dụng

lâu dài (Muirhead and Alexander, 2010)

1.1.3. Mất sữa (Agalactia)

Trong thời kỳ chửa, các hormone prolactin tăng tiết và tác động tăng sinh

tuyến vú, kết quả tuyến vú phát triển và tăng thể tích theo thời gian phát triển của

bào thai. Sau 3 tuần chửa, bầu vú bắt đầu căng lên, các tuyến vú phát triển mạnh

cho đến trước lúc đẻ 3 tuần, hormone Prolactin tăng tiết cùng với sự tác động của

nhau thai thông qua Progesterone. Sữa bắt đầu được sản sinh ở trong các tuyến

sữa. Quá trình này được tạo ra ở các tuyến sữa, quá trình sinh tổng hợp protein

sữa (cezein), đường sữa (galactoza), mỡ sữa và các thành phần sinh dưỡng khác

từ máu. Sự hình thành sữa được ưu tiên trong cơ thể lợn mẹ. Quá trình hình

thành này tùy thuộc hoàn toàn vào lượng máu đi qua bầu vú, chính vì vậy ở

những núm vú có hệ thống động, tĩnh mạch lớn thì có sản lượng sữa cao.

15

Sau khi sữa được hình thành và tích trữ ở các túi sữa, khi xuất hiện các

triệu chứng sắp đẻ, hormone oxytoxin được tiết ra và tác động lên tuyến sữa để

thải sữa theo các ống đầu núm vú. Sau khi đẻ, lợn con tìm vú mẹ và khi lợn con

bú tạo cảm giác truyền về thần kinh trung ương đến vùng dưới đồi, kích thích

tuyến yên tiết oxytocine. Oxytocine kích thích hệ cơ trơn đầu vú co bóp đẩy sữa

ra ngoài (Nguyễn Quang Linh, 2005).

- Lượng sữa được tiết ra trong vòng 24 giờ sau đẻ gọi là sữa đầu, lượng

sữa đầu có sự khác nhau ở từng cá thể (Rooke and Bland, 2002). Trong một

nghiên cứu được tiến hành bởi Devillers et al. (2007) trên đàn lợn nái giống

Landrace và Đại bạch đã xác định được lượng sữa đầu trong vòng 24 giờ sau đẻ

trung bình 3,67 ± 0,14kg. Sữa đầu có thành phần khác với sữa thường: trong sữa

đầu có 13,7% prealbumin; 11,48% albumin; 12,7% α - globulin; 11,29% β -

globulin và 45,29% γ - globulin. Đây chính là các kháng thể có chức năng miễn

dịch cho lợn con nếu lợn con sau khi đẻ được bú ngay sữa đầu.

- Sự tiết sữa không đều theo lứa đẻ: Sản lượng sữa tăng dần từ lứa 1 đến

lứa 5 sau đó giảm dần.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của sữa gồm: Tình

trạng sức khỏe, tình trạng dinh dưỡng, chăm sóc quản lý và yếu tố di truyền

(Eliasson and Isberg, 2011).

Triệu chứng: đối với nái: bỏ ăn hoặc ăn ít; sốt nhẹ, bầu vú không phát

triển hoặc teo đi hoặc phù nề và không có sữa; lợn con chết đói do không có sữa.

Đối với lợn con: kêu rít, gầy sút, da khô, ốm yếu.

Nguyên nhân: hiện tượng mất sữa thường gặp ở lợn nái sau khi đẻ với

những biểu hiện đặc trưng là núm vú bị teo dần và cứng lại, lợn con bị đói sữa kêu

rít, liên tục đòi bú, thể trạng gầy sút, da khô, lợn mẹ không có sữa nằm sấp để giấu

bầu vú không cho con bú. Chứng mất sữa thường do các nguyên nhân sau:

Lợn mẹ sót nhau, nhau còn sót trong tử cung, từ đó luôn tiết ra folliculin

ngăn trở sự phân tiết prolactin làm cho tuyến vú không sinh sữa.

16

Chứng mất sữa thường đi kèm trong các bệnh gây sốt cao như: viêm tử

cung có mủ, các trường hợp sốt do nguyên nhân khác như bệnh truyền nhiễm,

viêm phổi, viêm vú…

Do lợn mẹ sụt giảm canxi huyết.

Do đẻ khó làm quá trình sinh đẻ kéo dài dẫn đến tiêu hao nhiều năng

lượng mà năng lượng lại được lấy từ chất bột đường; do khẩu phần ăn thiếu chất

bột đường nên khi chất bột đường bị cạn thì tuyến vú căng nhưng không có sữa.

Thời tiết quá nóng, lượng nước uống thiếu cũng là nguyên nhân dẫn đến

kém sữa.

Trong bệnh viêm tử cung thể nhẹ, viêm vài bầu vú, sự mệt nhọc sau khi đẻ

chỉ làm kém sữa trong thời gian ngắn (2 - 3 ngày). Ngoài ra còn một số nguyên

nhân khác dẫn đến mất sữa như:

Bệnh sốt sữa, bệnh bại liệt sau khi đẻ (Penny, 1970).

Nái quá béo do ăn thừa năng lượng trong giai đoạn mang thai, mỡ tích

nhiều trong tuyến vú, chèn ép làm tuyến vú phát triển yếu; cho lợn ăn nhiều trong

giai đoạn mang thai dẫn đến sự chán ăn (bỏ ăn) sau khi đẻ.

Điều trị: các trường hợp mất sữa thường rất khó điều trị, biện pháp tốt

nhất là cai sữa đàn con sớm hoặc ghép bầy lợn con để tách lợn nái. Chỉ trong

trường hợp kém sữa mới sử dụng các biện pháp kích thích lợn nái ăn, cung cấp

đủ nước uống, truyền nước, tiêm Oxytocin. Vì vậy nếu nái bị viêm tử cung hoặc

sót nhau phải điều trị ngay, vì đó là những nguyên nhân gây mất sữa sau khi đẻ.

1.2. Những nghiên cứu về hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA)

1.2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài

Theo Martineau (2011), có nhiều bệnh nguyên học và sinh lý bệnh có thể

được đề cập trong hội chứng rối loạn tiết sữa và viêm vú ở lợn nái sau đẻ do dùng

những tên khác nhau: phức hợp viêm vú - viêm tử cung - mất sữa (MMA), hội

chứng mất sữa, hội chứng rối loạn tiết sữa, phù thũng vú, hội chứng giảm tiết sữa,

ngộ độc máu mất sữa và viêm vú sau đẻ. Tuy nhiên, những cụm từ này thường

17

không đồng nghĩa và hay bị lạm dụng. Gần đây, hội chứng này được phân loại

theo số lượng tuyến vú bị ảnh hưởng, ví dụ: viêm một tuyến vú hoặc viêm đa

tuyến vú (bao gồm hội chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ [PPDS], phức hợp MMA).

Viêm vú cấp tính hoặc mạn tính với chỉ 1 hoặc 2 tuyến vú (viêm một

tuyến vú cấp tính hoặc mạn tính) ở lợn cái thường xuất hiện hầu như trong tất cả

các đàn. Khi toàn bộ các tuyến vú bị viêm cấp tính, có thể gọi là viêm vú sơ cấp

hoặc thứ cấp (viêm đa tuyến vú cấp tính), hoặc cũng gọi là phù thũng vú “hội

chứng bầu vú cứng”, trường hợp này phổ biến ở lợn nái đẻ con so. Viêm đa tuyến

vú cấp tính thường kèm theo những biểu hiện toàn thân và mất sữa, nhưng không

có hội chứng bầu vú cứng. Cả 2 điều kiện này xuất hiện trong vòng 3 ngày đầu

sau khi đẻ và nhanh chóng dẫn đến hiện tượng lợn con bị đói. Mặc dù vấn đề này

xảy ra rải rác và hạn chế ở một số cá thể lợn, nhưng đôi khi xảy ra với số đông

lợn nái và trở thành ổ dịch.

Có thể khó phân biệt hội chứng viêm đa tuyến vú với hội chứng bầu vú

cứng. Trong trường hợp này, người chăn nuôi thường cho là “viêm vú cấp tính”.

PPDS được đặc trưng bằng hiện tượng giảm sữa tạm thời. Nó có thể trở

thành viêm đa tuyến vú cấp tính do đó nên xem là nguyên nhân bao trùm của

hiện tượng không tiết sữa ở lợn nái. Phức hợp MMA là dùng nhầm tên và nó chỉ

là một bộ phận của PPDS tổng quát hơn. Tuy các tuyến vú bị sưng và thường

nóng hơn bình thường, nhưng nếu chỉ thoáng qua cũng khó phát hiện đó là viêm

vú sơ cấp. Cũng tương tự, viêm tử cung (thường là viêm nội mạc tử cung) cũng

chỉ phát hiện cá biệt trong một số đàn. Cuối cùng, hiếm khi có hiện tượng mất

sữa hoàn toàn; phần lớn lợn nái có sinh sữa nhưng với mức độ giảm thấp (giảm

tiết sữa, hay nói chính xác hơn, đó là rối loạn tiết sữa). Triệu chứng lâm sàng sơ

bộ của lợn nái không có khả năng sản xuất đủ sữa cho lợn con bú là lợn con

chậm lớn và tỉ lệ chết tăng lên.

Về giải phẫu học, tuyến vú của lợn nái khác với tuyến vú của bò. Ở lợn

nái, trong vú không có bể sữa (xoang sữa) rõ rệt. Thường có 2 hệ thống tuyến

hoàn chỉnh và mỗi núm vú có 2 miệng ống sữa. Khi có 3 miệng ống, một xoang

18

tịt tận cùng đáy của núm vú và không có mô tuyến. Không có cơ vòng thắt quanh

miệng ra của núm vú, do đó không thể bơm thuốc vào trong vú thông qua miệng

núm vú. Sự phát triển của tuyến vú xảy ra mạnh vào nửa cuối thời kỳ chửa và

ngay trong những ngày cho sữa đầu tiên. Mỗi kỳ mang thai lại có những mô

tuyến mới được sản sinh ra. Do đó, việc cho ăn và dinh dưỡng là quan trọng hàng

đầu trong quá trình phát triển tuyến vú vào cuối kỳ chửa và ít quan trọng vào

giữa kỳ chửa. Tuy nhiên, những thương tổn mạn tính của tuyến vú có thể tồn tại

từ kỳ cho sữa này đến kỳ cho sữa tiếp theo.

Theo Maes et al. (2010), thuật ngữ Metritis, Mastitis, Agalactia (MMA)

được dùng rất thường xuyên trong các bài báo khoa học trước đây, ngày nay

được xem như một loại PDS (hội chứng rối loạn tiết sữa sau đẻ ở lợn nái),

MMA có tỷ lệ lưu hành 6,9% trong tổng số 16.450 lợn nái đẻ trong hơn 01 năm

tại 31 đàn ở Illinois (Bäckström et al., 1984); trong 27.656 lợn nái đẻ của một

nghiên cứu được tiến hành tại bang Missouri có tới 13% nái bị mắc hội chứng

MMA; tỷ lệ mắc hội chứng MMA theo đàn ở Thụy Điển biến động từ 5,5% ở

đàn quy mô nhỏ và tới 10,3% ở đàn quy mô lớn. Ông cũng cho biết, một nghiên

cứu mới đây ở 110 đàn lợn tại Bỉ cho thấy 34% số đàn có liên quan đến hội

chứng MMA.

Theo Shestha (2012), hội chứng MMA gây chết khoảng 2% lợn nái nhưng

tỷ lệ chết ở lợn con lên tới 80% do đói, ỉa chảy… Cơ chế sinh bệnh được biểu thị

như sơ đồ 1.1; 1.2 và 1.3. Nguyên nhân: (a) do dinh dưỡng: cho nái ăn quá nhiều

trong thời gian mang thai, nái quá béo; thay đổi thức ăn đột ngột, hàm lượng

vitamin E và Ca trong khẩu phần ăn thấp, thiếu xơ và nước uống; (b) do quản lý

chăm sóc: nái ít được vận động, lợn nái không được vệ sinh, vô trùng trước khi

đẻ, không được quan tâm khi đẻ, thời gian đẻ kéo dài; (c) do chuồng trại: chật

chội, nền chuồng không bằng phẳng, nhiệt độ môi trường cao, bầu vú lợn quá

nóng do đặt đèn sưởi không thích hợp; (d) do bản thân lợn nái: đẻ nhiều con, dạ con lớn và nhão. Chẩn đoán lâm sàng: lợn sốt (40 - 410C), bỏ ăn, táo bón, bầu vú

sưng cục bộ, nóng, đau…

19

Stress khi đẻ ↑Cortisol Suy giảm miễn dịch

↓ Oxytocin Viêm vú Vi khuẩn E. coli xâm nhập vào tuyến vú

Viêm tử cung ↓ PGF2α Nội độc tố Sốt

↓ Prolactin tiết ra từ tuyến yên

Mất sữa

(Nguồn: Shrestha, 2012)

Sơ đồ 1.1. Cơ chế phát sinh chứng mất sữa

. Khi lợn đẻ VSV trong âm đạo xâm nhập vào tử cung Viêm tử cung

(Nguồn: Shrestha, 2012)

Sơ đồ 1.2. Cơ chế phát sinh chứng viêm tử cung

Nội độc tố trong máu ↑Cytokines(ILl,6,TNFα) ↓ Ca & K

Cơ vòng miệng núm vú - hoạt động kém

Tạo điều kiện cho mầm bệnh từ môi trường xâm nhập

Viêm vú

(Nguồn: Shrestha, 2012)

Sơ đồ 1.3. Cơ chế phát sinh chứng viêm vú

20

Martineau et al. (1992) đã miêu tả các triệu chứng lâm sàng ở lợn nái và

lợn con như sau: với lợn nái: triệu chứng cục bộ như viêm vú, rối loạn tiết sữa,

dịch rỉ viêm âm đạo; triệu chứng toàn thân gồm: sốt, ủ rũ, bỏ ăn hoặc ăn ít. Với lợn

con <1 tuần tuổi: tăng tỷ lệ chết, ỉa chảy, phát triển không đồng đều trong đàn; >

1tuần tuổi: tăng trọng thấp, tăng tỷ lệ không đồng đều trong đàn. Với toàn đàn:

giảm số con/nái/năm. Ông cho rằng có nhiều nguyên nhân gây bệnh, do đó nên

kích thích lợn nái đẻ bằng F Prostaglandin để giảm tỷ lệ mắc hội chứng MMA.

Theo Kemper and Gerjets (2009) để chẩn đoán sớm hội chứng MMA,

người ta thường dựa vào một số triệu chứng lâm sàng: (1) thân nhiệt lợn nái sau đẻ 12 - 48 giờ (nếu > 39,40C thì điều trị dự phòng), sự thay đổi hình dạng tuyến

vú, giảm tiết sữa (hoặc mất sữa hoàn toàn), giảm tính thèm ăn (ăn ít hoặc bỏ ăn hoàn toàn), lượng tế bào soma trong sữa >107/ml, pH sữa > 6,7; tăng hàm lượng

các interleukin trong máu (tăng lượng IL-1β, IL-6, IL-8 và TNFα. (2) Các yếu tố

ảnh hưởng đến hội chứng MMA: thời gian mang thai dài (> 116 ngày), thời gian

đẻ dài (> 3 giờ), can thiệp bằng dụng cụ sản khoa khi đẻ, nhiều con (> 11con/ổ),

nhiễm trùng đường sinh dục, táo bón, sự tăng đàn, chuyển đàn, trong đàn có

nhiều nái mới, ảnh hưởng của mùa vụ, thiếu protein thô trong khẩu phần ăn, thay

đổi thức ăn đột ngột, lợn nái thiếu vận động…

Lợn được coi là mắc hội chứng MMA khi có một hoặc bao gồm các biểu

hiện sau: viêm tử cung, dịch tiết âm đạo có pH > 8, lười vận động, thân nhiệt > 39,40C, viêm vú (Heber et al., 2010).

Tại Bhutan, một nghiên cứu về hội chứng MMA năm 2001 ở Trại lợn

giống quốc gia nhằm tìm ra biện pháp hỗ trợ điều trị có hiệu quả thông qua kiểm

tra lâm sàng và kiểm tra huyết học, đã kết luận: có 88,24% số nái mắc bệnh có

hiện tượng giảm tiết sữa hoặc mất sữa sau đẻ, 11,76% số nái mắc bệnh có hiện

tượng viêm tử cung, không có trường hợp biểu hiện kết hợp cả ba hiện tượng

viêm tử cung, viêm vú, mất sữa; kiểm tra huyết học cho thấy thể tích hồng cầu,

huyết sắc tố và tế bào bạch cầu nằm trong khoảng sinh lý (Thapa, 2006).

Nghiên cứu nhằm điều tra các yếu tố rủi ro trong chiến lược quản lý chăm

21

sóc đến tình trạng mắc hội chứng giảm tiết sữa sau đẻ ở lợn nái (PDS) được tiến

hành trên đàn lợn 110 con, trong đó 37 lợn được xác định mắc PDS, 73 lợn

không mắc PDS, kết quả cho thấy có 4 yếu tố rủi ro có mức ý nghĩa thống kê

được tìm thấy là: 1/ chuyển lợn mang thai sang chuồng đẻ trước khi đẻ 4 ngày

hoặc ít hơn với hệ số tương quan (Odds Ratio [OR] 6.272), 2/ lạ chuồng đẻ (OR

4.804), 3/ bổ sung chất kích thích động dục trong thời gian tiết sữa (OR 3.149),

4/ sự giám sát thường xuyên sau đẻ (OR 0.085). Nghiên cứu chứng minh rằng

một số lượng đáng kể các đàn lợn chịu tổn thất bởi hội chứng PDS và để kiểm

soát tốt hội chứng này thì việc tối ưu hóa chương trình quản lý, chăm sóc nuôi

dưỡng cho đàn lợn là cần thiết (Papadopoulos et al., 2009).

Hoy (2004) miêu tả triệu chứng đặc trưng đầu tiên của hội chứng MMA là sốt > 39,30C kèm theo các triệu chứng lâm sàng khác: giảm ăn, uống ít nước, vú

sưng đỏ, nhiều dịch tiết âm đạo. Khi so sánh giữa lợn nái mắc hội chứng MMA

với lợn nái bình thường thì lợn mắc hội chứng MMA có tỷ lệ chậm động dục lại

sau cai sữa (≥ 8 ngày) cao hơn (tương ứng 1,1% và 0,3%), tỷ lệ không thụ thai

cao hơn (tương ứng 21,7% và 16,1%), tỷ lệ sẩy thai cao gấp 2 lần và tỷ lệ lợn con

chết cao gấp 4 lần.

Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc hội chứng MMA gồm: táo bón, sốt (thân nhiệt tăng từ 1 đến 1,5 0C), ăn ít hoặc bỏ ăn (1 đến 2 ngày) là những dấu

hiệu đầu tiên dễ nhận biết cùng với hiện tượng bồn chồn, không cho con bú. Rất

ít lợn nái xuất hiện tất cả các triệu chứng cùng lúc. Một số trường hợp xuất hiện

hiện tượng giảm tiết sữa, giảm tăng trọng ở lợn con (BPEX, 2011).

Theo Martin et al. (1990), hội chứng MMA xảy ra trong lúc lợn đẻ hoặc

vài ngày sau khi đẻ với các biểu hiện: thở nhanh, mệt mỏi, giảm ăn hoặc bỏ ăn, ít

uống nước, sốt, nằm một chỗ, một phần hoặc toàn bộ vú bị sưng, sờ vào thấy

nóng, tỷ lệ mắc trung bình 13,1%; sự có mặt của mủ trong chất tiết âm đạo khi đẻ

không khẳng định được lợn bị viêm tử cung vì theo tác giả, có tới hơn 60% lợn

có triệu chứng lâm sàng bình thường có dịch tiết âm đạo, khi mổ khám lợn nái bị

mất sữa, sự có mặt của chứng viêm tử cung là rất ít.

22

Tại Rumani, theo Heber et al. (2010) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hội

chứng MMA ở lợn nái, đã dùng dimetridazol 1% cho lợn ăn 03 ngày trước khi đẻ

và 04 ngày sau khi đẻ, đồng thời cho ăn trong thời gian cho bú. Kết quả cho thấy:

mức tăng trọng của lợn con vào 30 ngày tuổi ở lô dùng thuốc cao hơn (223

g/ngày) so với lô không dùng thuốc (208 g/ngày), tỷ lệ chết ở lô thí nghiệm

(9,35%) thấp hơn lô đối chứng (11,69%).

Theo tạp chí the Pig Health (2012), để kiểm soát tốt hội chứng MMA,

phải dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn và sản phẩm kích thích tiết sữa đồng

thời dùng thêm oxytocin điều trị hội chứng MMA, nên được phát hiện và tiến hành sớm khi nhiệt độ cơ thể nái > 39,50C 12 - 48 giờ sau đẻ; để phòng hội chứng

MMA chuồng trại phải được vệ sinh sạch sẽ, tăng cường vận động cho nái trước

khi đẻ, tránh để nái quá béo, đảm bảo đủ nước uống trong suốt thời gian chửa và

thời gian nuôi con, 15 - 30 lít nước/nái/ngày.

Tại Bồ Đào Nha, khi nghiên cứu những vấn đề ảnh hưởng đến năng suất

của lợn nái sau đẻ tại 20 trại chăn nuôi tập trung (800 - 1000 nái/trại) trong 7 năm

(1985 - 1992), người ta nhận thấy nguy cơ bị tấn công của các trại này là hội chứng

MMA. Qua theo dõi 347 nái, người ta chứng minh được khi giảm tỷ lệ lưu hành hội

chứng MMA trong đàn sẽ tăng số lợn sơ sinh, tăng số lợn cai sữa trên nái và giảm tỷ

lệ nái chết (Perstrelo et al., 1994).

Theo Schoning and Plonait (1990), khi tiêm Baytril cho lợn (1,25 mg/kg

khối lượng cơ thể) ngay sau đẻ, số mắc hội chứng MMA giảm xuống còn 10,8%

so với lô trộn thuốc có thành phần furazolidone, sulfadimidine (29,7%) và lô đối

chứng (41,3%). Việc điều trị với Baytril cũng cho kết quả tốt với khả năng kiểm

soát pH sữa (< 6,7) và khả năng tăng trọng tốt, đồng đều ở lợn con.

Theo Arut Kidcha-orrapin (2006), tại Thái lan hội chứng MMA là một

vấn đề lớn ở các trang trại chăn nuôi lợn, đặc biệt vào mùa hè (giữa tháng 3 và

tháng 5), ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái. Biện pháp tốt nhất để

phòng bệnh là quản lý tốt đàn nái, đặc biệt là trước khi đẻ. Cụ thể như sau:

23

- Thức ăn cho lợn nái chờ đẻ không vượt quá 18% protein; chất xơ >

4,5%; cung cấp nước uống đầy đủ.

- Tránh gây stress cho nái sau đẻ: không chuyển nái sang chuồng đẻ

trong thời tiết nóng, những ngày nắng nóng tốt nhất di chuyển trước 07 giờ

sáng; thời gian nuôi thích nghi tại chuồng đẻ thích hợp nhất là 05 ngày; giữ cho

lợn nái yên tĩnh.

- Vệ sinh chuồng đẻ bằng các thuốc sát trùng, để trống chuồng ít nhất 01

tuần, sau khi vệ sinh mới chuyển lợn vào.

- Dùng thuốc điều trị ký sinh trùng; thuốc điều trị E. coli: tiêm

enrofloxacin; thuốc điều trị Streptoccocus spp: tiêm amoxyclin 01 ngày trước đẻ.

- Bổ sung các vitamin A, D, E, K và khoáng chất để tăng khả năng miễn dịch

cho lợn.

Raszyk et al. (1979) cho rằng: Hội chứng MMA trở thành một vấn đề lớn

về sức khỏe của đàn nái sinh sản, tỷ lệ mắc 20 - 50% trong đàn, bệnh thường

kèm theo hiện tượng giảm sữa, thành phần sữa của lợn bị thay đổi, bệnh làm tăng

tỷ lệ chết của lợn con trong những ngày đầu sau đẻ, điều đó làm giảm năng suất

sinh sản và làm thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi; xu hướng bệnh làm thay

đổi cấu trúc, chức năng của tuyến vú gây đau, làm rối loạn trao đổi chất. Tác giả

đã nghiên cứu một số chỉ tiêu hoá học trong máu lợn bệnh và lợn khỏe cho thấy:

protein tổng số, hàm lượng đường ở lợn bệnh cao hơn lợn khoẻ (P < 0,05); một

số chất khoáng (sắt, canxi, phốt pho, magiê) trong máu lợn bệnh cao hơn lợn

khỏe (P < 0,05).

Nghiên cứu về huyết học, sinh hóa và tế bào sữa được thực hiện trên các

mẫu máu và mẫu sữa của 55 lợn nái cho con bú bởi Ognean et al. (2010) cho

biết: tỷ khối huyết cầu trung bình 35,74% nằm trong giới hạn sinh lý, số lượng hồng cầu trung bình 5,78 triệu/mm3, protein tổng số nằm trong giới hạn sinh lý

7,0 - 9,8 g/dl, glucose huyết 81,9 mg/dl có xu hướng giảm hơn mức sinh lý (95,9

- 70,2 mg/dl), chỉ số men GOT nằm trong giới hạn sinh lý với mức dao động 31 -

24

49,5 UI; tác giả cũng cho biết chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa sữa lợn trong tuần đầu cho con bú là: protein 7,97%, mỡ sữa 8,18%, điểm đông đặc 0,28 0C.

Tại Ba Lan, khi nghiên cứu các yếu tố xuất hiện trong quá trình sốt,

viêm, TNFα (Tumour necrosis factor) và IL-6 (Interleukin-6) trong máu bằng

ELISA lúc 12 - 24 giờ và 48 - 72 giờ trước và sau khi đẻ ở 02 nhóm lợn nái (10

nái/nhóm) mắc MMA và nái khỏe trong cùng trại (đồng đều về chăm sóc nuôi

dưỡng, quản lý); cho thấy, hàm lượng TNFα tăng ở giai đoạn sau đẻ với mức ý

nghĩa thống kê ở cả 02 nhóm lợn nái. Tuy nhiên, lợn mắc MMA có hàm lượng

TNFα tăng cao hơn lợn khỏe với mức ý nghĩa thống kê. Hàm lượng IL- 6 ở

nhóm lợn mắc hội chứng MMA tại các thời điểm sau đẻ đều cao hơn nhóm lợn

khỏe. Như vậy, hàm lượng TNFα và IL-6 là một quá trình bệnh lý của hội

chứng MMA và việc xác định các chỉ số này có ích cho việc chẩn đoán sớm và

giám sát bệnh (Szczubial and Urban, 2008).

Cikron V được chiết xuất từ cây Đước đỏ tại Cuba dùng điều trị viêm tử

cung lợn nái sau đẻ trong hội chứng MMA có hoạt lực kháng khuẩn cao, đạt hiệu

quả điều trị 90% (Esquijeroza, 2006).

Theo Baer and Bilkei (2005), cấu trúc tuyến vú phần bụng thay đổi nhiều

hơn so với tuyến vú ở ngực khi lợn nái mắc hội chứng MMA (P < 0,001).

Theo Lazarevic et al. (2012) (Serbia), khi bơm vách tế bào men (Yeast

Cell Wall - YCW) vào tử cung lợn mắc MMA đã giảm tỉ lệ tái phát còn 10%

(thấp nhất), khối lượng cai sữa và bình quân tăng trọng ngày của lợn con có lợn

mẹ mắc MMA đều cao hơn đối chứng (P < 0,05), số khuẩn lạc CFU trong mẫu

dịch lấy từ những lợn được điều trị bằng YCW giảm hơn nhiều so với đối chứng

và việc điều trị lợn nái bằng liệu pháp YCW không ảnh hưởng đến số con được

sinh ra ở chu kỳ tiếp theo.

Một nghiên cứu khác (Lallemand Animal Nutrition, 2012) cho biết, có

tương quan dương giữa nội độc tố trong sữa đầu với các triệu chứng lâm sàng

của hội chứng MMA (do nội độc tố từ mẹ truyền sang con). Khi cho lợn mẹ mắc

25

hội chứng MMA ăn Levucell® SB (S. cerevisiae boulardii CNCM-I 1079) với hàm lượng 2×109 CFU/kg thức ăn, đã cho kết quả điều trị cao.

Tại Slovenia, hiệu quả của việc sử dụng enrofloxacin để điều trị hội chứng

viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) đã được ghi nhận: hội chứng đã được

kiểm tra bằng các thử nghiệm lâm sàng cần thiết và bằng các phân tích tổng quan

và phân tích hệ thống trong 8 năm (1990 - 1998). Điều tra gồm 6 nghiên cứu,

trong đó 4 nghiên cứu tập trung vào phân tích tổng quan, 2 nghiên cứu xác định

tính mẫn cảm của enrofloxacin với các loại vi khuẩn, các phân tích cho thấy

enrofloxacin có hiệu quả trong điều trị hội chứng MMA Trong 6 nghiên cứu đều

cho hiệu quả có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) (Stukelj et al., 2006).

Khi nghiên cứu tính mẫn cảm của enrofloxacin với các loại vi khuẩn phân

lập được từ mẫu sữa, dịch ngoáy tử cung ở lợn nái được xác định mắc hội chứng

MMA lâm sàng và cận lâm sàng; Gevaert et al. (2006) cho biết đã phân lập được

34 loài vi khuẩn từ mẫu sữa và mẫu dịch ngoáy tử cung lợn, vi khuẩn phân lập

được chiếm ưu thế nhất là Streptococci và E. coli. 94% số vi khuẩn này có mức

mẫn cảm với enrofloxacin ở mức < 2 µg/ml, chỉ có 2 dòng vi khuẩn có mức mẫn

cảm bằng 2 µg/ml và hơn 32 µg/ml là E. coli trong mẫu sữa (MIC =>32 µg/ml)

và dòng Enterococcus trong mẫu dịch ngoáy tử cung (MIC = 2 µg/ml).

Theo Kemper and Gerjets (2009), vi khuẩn phân lập được trong mẫu sữa

lợn mắc hội chứng MMA là: E. coli 38,9%, Staphylococcus spp 14,8%,

Enterococus spp 33,3%, Klebsiella spp 3,7%, nhưng không có sai khác thống

kê về hàm lượng vi khuẩn phân lập được từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA

và lợn khỏe; tác giả cũng gợi ý một tỷ lệ lớn vi khuẩn E. coli trong sữa bị nhiễm

từ phân.

Theo Kemper et al. (2013), tại 6 đàn nái hạt nhân ở Đức (2008 - 2010),

99,1% các mẫu sữa phân lập được ít nhất có 01 loài vi khuẩn (trung bình 03

loài) được phân lập/mẫu sữa. Không có sai khác về số loài vi khuẩn trong mẫu

sữa lợn mắc hội chứng MMA và lợn khỏe. Vi khuẩn phân lập chủ yếu thuộc họ

Enterobacteriaceae, Staphylococcaceae, Streptococcaceae và Enterococcaceae.

26

Trong đó E. coli chiếm nhiều hơn cả và những loài này cũng được tìm thấy

trong sữa lợn khỏe, còn Staphylococcus spp, Lactococcus lactis được tìm thấy

trong sữa lợn mắc hội chứng MMA. Theo các tác giả, tuy các loại vi khuẩn có

trong sữa lợn khỏe, nhưng không thể đánh giá thấp vai trò vi khuẩn gây bệnh

trong hội chứng MMA do sự kết hợp với các vi khuẩn có sẵn trong chuồng

nuôi và sức đề kháng của mỗi con vật gây bệnh.

Ringap (1960); Đặng Đắc Thiệu (1978) cho biết, từ các mẫu sữa, dịch âm

đạo và sữa của nái mắc hội chứng MMA đã phân lập và công bố các loại vi sinh

vật sau đây gây nhiễm trùng tử cung và vú gây nên hội chứng MMA: Ecoli,

Staphylococcus spp, Streptococcus, Klebsiella aergenes, Pseudomonas spp

Urban et al. (1983), Berstchinger (1993) cũng ghi nhận các loại vi sinh vật trên

gây hội chứng MMA. Takagi et al. (1997) đã phân lập được 30 dòng vi khuẩn E.

coli gây hội chứng MMA và cho biết các vi khuẩn này không thuộc nhóm sản

xuất enterotoxin chịu nhiệt.

Theo Frazer (1970), ở Jamaica, do thời tiết quá nóng, nếu được tắm mát,

nhất là trước khi đẻ, sẽ làm giảm tỉ lệ mắc hội chứng MMA (Dẫn từ Đặng Đắc

Thiệu, 1978). Bilkei and Horn (1991), dùng ampicillin trihydrate (300 mg/kg

khối lượng cơ thể/ngày, hòa với 200 ml dung dịch nước muối vô trùng, dùng

trong 3 ngày liên tục sau khi đẻ) để thụt rửa tử cung lợn nái, cho kết quả phòng

ngừa hội chứng MMA tốt hơn so với tiêm bắp 50 mg/kg khối lượng cơ thể/ngày

(trong 3 ngày liên tục sau đẻ) hoặc thụt rửa với liều 50 mg/kg khối lượng cơ

thể/ngày, hòa với 200 ml dung dịch nước muối vô trùng, dùng trong 3 ngày liên

tục sau đẻ.

Theo Mendler et al. (1997), enrofloxacin có tác dụng giảm tỷ lệ mắc

MMA ở lợn mẹ và tỷ lệ tiêu chảy lợn con theo mẹ (với liều 2,5 mg/kg khối lượng

cơ thể trong 3 ngày liên tục sau đẻ). Theo Wowron (1996), dùng viên kháng sinh

sulfamethoxazole và trimethoprime đặt tử cung sau khi lợn đẻ có tác dụng giảm

bớt hội chứng MMA ở lợn nái. (Dẫn từ Nguyễn Như Pho, 2002).

Theo Johnson and Cockerill (1970) (Dẫn từ Đặng Đắc Thiệu, 1978) trộn

27

200 g thyroprotein/1 tấn thức ăn, cho nái ăn 1 tuần trước khi đẻ và trong giai

đoạn nuôi con, có tác dụng kích thích sản xuất sữa trên cơ sở làm tăng toàn diện

sự biến dưỡng của cơ thể. Theo Mercy (1990); Bilkei and Boleskei (1993),

oxytocin kích thích thải sữa và co bóp tử cung để tống sản dịch hoặc nhau sót ra

ngoài, có tác dụng phòng ngừa kém sữa và viêm tử cung. Maffelo et al. (1984)

tiêm Prostaglandin F2α cho lợn nái 3 ngày trước khi đẻ, kết quả không có trường

hợp mắc hội chứng MMA.

Dùng Probiotic (Streptococcus faecium) cho lợn nái trong 7 ngày trước và

sau khi đẻ, đã giảm tỉ lệ lợn con tiêu chảy từ 8,5% xuống 2,5%. Probiotic có tác

dụng làm giảm hội chứng MMA trên lợn nái (Dẫn từ Nguyễn Như Pho, 2002).

Kotowski (1990) cung cấp hỗn hợp chất điện giải và các khoáng chất cho

lợn nái mang thai đã phòng ngừa được stress và giảm hội chứng MMA từ 60%

xuống còn 32%.

Theo Lerch (1987), việc tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể

lợn nái kết hợp giảm mật độ nuôi nhốt nái mang thai có tác dụng làm giảm hội

chứng MMA.

Việc chẩn đoán hội chứng MMA thường được căn cứ theo triệu chứng

lâm sàng như đã mô tả. Trong đó triệu chứng sốt sau khi đẻ được coi là dấu hiệu

quan trọng giúp phát hiện sớm khi viêm tử cung. Để chẩn đoán sớm viêm vú, Gooneratne et al. (1982) đề nghị phân tích lactose, protein và ion Na+ trong sữa. Nái viêm vú thường có hàm lượng lactose trong sữa tăng lên, protein và Na+

giảm xuống. Gooneratne et al. (1982), đã sử dụng finadyne (chất ức chế

prostaglandin synthetase) với liều 2,2 mg/kg thể trọng tiêm cho lợn nái thay thế

cho corticosteroid. Kết quả cho thấy finadyne có tác dụng tốt hơn corticosteroid

trong việc điều trị viêm vú.

1.2.2. Nghiên cứu trong nước

Theo nghiên cứu của công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam (2010), cơ

chế gây hội chứng MMA được thể hiện như sơ đồ sau:

28

Nóng, Stress

Tỷ lệ mắc hội chứng MMA hiện nay là 40 - 60% tại các trại chăn nuôi lợn

quy mô lớn, trong đó chủ yếu là viêm tử cung (Nguyễn Như Pho, 2002).

Tại TP Hồ Chí Minh, có khoảng 33 - 62% lợn nái mắc hội chứng MMA

sau đẻ, trong đó chủ yếu là viêm tử cung. Các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung

và tuyến vú bao gồm: E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp, Klebsialla

spp, Proteus mirabilis, Pseudomonas. Đây là những vi trùng cơ hội thường có

trong chuồng trại, khi lợn đẻ, tử cung, âm đạo xây xát, có nhiều sản dịch, chúng

sẽ xâm nhập và tấn công hệ thống niêm mạc sinh dục, gây nhiễm trùng (Lê Minh

Chí và Nguyễn Như Pho, 1985).

Lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam có

tỷ lệ mắc hội chứng MMA dao động từ 47,39% đến 53,33%. Trong đó lợn nái mắc

thể điển hình là 6,45% (Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh, 2010). Các tác giả

cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn

nái và thử nghiệm các phác đồ điều trị hội chứng MMA.

Lợn con có răng nanh nhọn làm xây sát bầu vú mẹ, tạo điều kiện cho vi

khuẩn xâm nhập vào bầu vú, dẫn đến viêm vú. Trong khẩu phần ăn có lượng đạm

quá cao làm sản sinh nhiều sữa, lợn con bú không hết, sữa ứ lại trong bầu vú là

môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Có khi lợn mẹ chỉ cho con bú một

29

hàng vú, do chuồng quá lạnh, quá nóng... cũng đều là nguyên nhân gây viêm vú.

Bệnh viêm vú thường xảy ra sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 7 - 10 ngày, có trường

hợp đến một tháng (Nguyễn Quang Linh, 2005).

Dụng cụ thụ tinh nhân tạo quá cứng sẽ gây xây sát và tạo ra các ổ viêm

trong âm đạo, tử cung. Tinh dịch bị nhiễm khuẩn, lợn đực giống bị viêm niệu

quản và dương vật nên khi nhảy trực tiếp hoặc khai thác tinh nhân tạo sẽ truyền

lây mầm bệnh cho lợn nái. Rối loạn sinh sản do nhiều nguyên nhân gây ra. Ngoài

các nguyên nhân cơ học, hóa học, sinh học thông thường như vận động,

hormone, dinh dưỡng, ký sinh trùng... phải kể đến các nguyên nhân do vi rút và

vi khuẩn (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2011).

Sau đẻ lợn mẹ bị mất sức nhiều do mất nước, mất máu và ăn kém. Trong

những lứa đẻ đầu lợn nái thường bị rách âm đạo nên bị viêm nhẹ gây sốt, làm giảm

sữa. Ở những lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng tay thì tỷ lệ viêm tử cung lên tới

100% (Nguyễn Văn Thanh, 2003).

Bệnh viêm vú do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do vi khuẩn xâm

nhập và gây bệnh. Các loại vi khuẩn đều có thể gây viêm vú nhưng chủ yếu là

liên cầu khuẩn: 86%, tụ cầu khuẩn: 5,4%, trực khuẩn sinh mủ: 2,7%, E. coli:

1,2%, các vi khuẩn khác: 4,7% (Nguyễn Như Pho, 2002).

Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), đàn lợn nái ngoại nuôi tại một số trang

trại ở đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trung bình 50,20%.

Theo đó, khi khảo sát 237 lợn nái ngoại bị viêm tử cung cho thấy tỷ lệ này ở

những nái đẻ lứa đầu và nái đẻ nhiều lứa (từ lứa thứ 8 trở đi), cao hơn các lứa

khác. Nguyên nhân, theo tác giả ở những nái đẻ lứa đầu xoang chậu còn hẹp nên

dễ dẫn đến đẻ khó phải can thiệp bằng tay và các dụng cụ trợ sản, dẫn tới làm

xây xát niêm mạc tử cung gây viêm tử cung. Những nái đẻ lứa thứ 8 và 9 trương

lực cơ tử cung giảm dẫn tới sự co bóp của tử cung yếu, không đủ cường độ để

đẩy hết các sản phẩm trung gian sau khi đẻ ra ngoài, sự hồi phục của tử cung

chậm, cổ tử cung đóng muộn tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây viêm. Tác

giả còn cho biết khi lợn nái bị viêm tử cung thì thân nhiệt và tần số hô hấp tăng,

30

đặc biệt là sự xuất hiện của dịch đường sinh dục. Dịch này có màu trắng, hồng

hay nâu đỏ lẫn nhiều lợn cợn, mùi tanh.

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa tỷ lệ viêm tử cung ở lợn mẹ và

hội chứng tiêu chảy ở lợn con tại Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Ninh và

Ninh Bình cho thấy: đàn lợn con được sinh ra từ những nái viêm tử cung bị mắc

bệnh tiêu chảy với tỷ lệ khá cao, trung bình 68,01% (54,11 - 81,46%). Trong khi

đàn lợn con được sinh ra từ những nái mẹ bình thường có tỷ lệ lợn con mắc hội

chứng tiêu chảy thấp hơn nhiều (23,38%). Nguyên nhân là do khi lợn nái bị viêm

tử cung làm cho thành phần sữa thay đổi. Thêm vào đó, do hệ thống tiêu hóa của

lợn con chưa phát triển hoàn hảo dẫn đến rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy (Nguyễn

Văn Thanh, 2003).

Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), PGF2α tạo ra những cơn co bóp nhẹ

giống những cơn co bóp sinh lý ở tử cung, giúp đẩy các chất bẩn và dịch rỉ

viêm ra ngoài, nhanh chóng hồi phục cơ tử cung, phá vỡ thể vàng giúp gia súc

động dục trở lại. Kết hợp với Iodine trong Lugol có tác dụng sát trùng, đồng

thời qua niêm mạc tử cung Iodine được hấp thu giúp cơ tử cung hồi phục

nhanh, buồng trứng hoạt động, noãn bao phát triển, làm xuất hiện lại chu kỳ

động dục. Vì vậy, khi tiêm PGF2α kết hợp với thụt rửa Lugol 0,1% tử cung ngày

1 lần cho hiệu quả rất cao, rút ngắn thời gian điều trị cũng như thời gian động

dục lại của lợn nái.

Khi gia súc bị viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên

thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử

cung co bóp yếu, chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu cữu trong đó làm cho

bệnh nặng thêm (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) . Các tác giả đề nghị dùng Oxytoxin

hoặc PGF2α kết hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.

Cơ chế và công dụng của Prostaglandin F2α (PGF2α)

Trong kỹ thuật điều khiển quá trình sinh sản ở gia súc, sử dụng các kích

dục tố đóng vai trò quyết định sự thành công của công nghệ sinh sản. Một trong

những kích dục tố đang thông dụng trên thế giới là prostaglandin F2α (PGF2α).

Nhờ tác dụng kích thích trực tiếp đối với cơ quan sinh dục cũng như hệ thống

31

điều khiển quá trình sinh sản của cơ thể gia súc mà PGF2α được sử dụng như một

công cụ kỹ thuật đặc biệt của công nghệ sinh sản trong chăn nuôi gia súc, nhất là

với gia súc lớn. Trên thế giới PGF2α đã được nghiên cứu, sử dụng một cách rộng

rãi trong nhiều lĩnh vực của công nghệ sinh sản và đã thu được nhiều kết quả

đáng khích lệ.

Prostaglandin được phát hiện trong tinh dịch người vào năm 1935 bởi nhà

khoa học người Thụy Điển Euler.

Có giả thiết cho rằng nguồn gốc của Prostaglandin từ tuyến tiền liệt

(Prostaglandula). Sau đó với hàng loạt nghiên cứu, Prostaglandin còn được phát hiện

thấy trong nhiều tổ chức khí quan khác của cơ thể: nội mạc tử cung, các tuyến của tử

cung, trong buồng trứng, tinh hoàn, trong nước ối của bào thai, trong mống mắt,

trong đại não, tủy sống, thận, lách, phổi, thành ruột. Do đó đến những năm gần đây,

cái tên ban đầu hầu như không còn ý nghĩa, nhưng do thói quen, thuật ngữ

Prostaglandin vẫn được sử dụng.

Công thức hóa học của PGF2α là: C20H34O5. Công thức cấu tạo phân tử

như sau:

Prostaglandin thực chất là sản phẩm của các axit béo chưa no, với 20 gốc

Cacbon. Nguyên tử Cacbon ở 2 vị trí số 8 và số 12 hợp thành theo cấu trúc vòng

Cyclopentan bao gồm hai đuôi dài, đuôi thứ nhất từ vị trí cacbon số 7 trở về số 1;

đuôi thứ 2 từ vị trí cacbon số 13 đến số 20. Tùy theo cách sắp xếp khác nhau của

các nguyên tử, cách kết hợp của hai nhóm Hydroxyl và Axeton để tạo ra các

Prostaglandin nhóm A, B, E, F. Trong những nhóm trên, chỉ có PG ở nhóm E và

PG ở nhóm F, đặc biệt là PGF2α có tác dụng mạnh đến hoạt động sinh dục.

32

Tác dụng chính của PGF2α làm thoái hóa thể vàng, giảm hàm lượng

Progesterone trong máu, kích thích bài tiết Gonadotropin, kích thích phát triển

nang trứng gây động dục và rụng trứng. PGF2α không có hiệu lực khi dùng cho

gia súc không có thể vàng. Do đó nó ít được dùng cho gia súc nuôi con vì phần

lớn những gia súc này không có khả năng động dục trước ngày thứ 50 sau khi đẻ.

Từ năm 1966, PGF2α và các chất có tác dụng tương tự đã được điều chế

sản xuất và sử dụng rộng rãi ở các nước Anh, Mỹ, Hà Lan... các chế phẩm

Prostaglandin được dùng phổ biến trong chăn nuôi gia súc hiện nay.

PGF2α VÀ CÁC SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ

Chế phẩm Hoạt chất Liều dùng

25mg PGF2α PGF2α

Cloprostenol 25mg Oestrophan

Cloprostenol 25 mg Estrumat

Synchlocept -B hoặc Bovilene Fenprostalene 1 mg

Dinoprostiol 25 mg Lutalyse

Luprostiol 15 mg Prosolvin

Ở Việt nam hiện nay cũng đã có nhiều sản phẩm tương tự PGF2α như

Hanprost, Fiveprost, Bioprost... đang được dùng rộng rãi trong lĩnh vực sinh sản

gia súc.

Theo Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997), trong chăn nuôi

đại gia súc, đặc biệt trong chăn nuôi bò sữa, PGF2α được dùng trong các trường

hợp sau:

Các dạng không sinh sản với thể vàng tồn lưu, rụng trứng yếu, động dục

ẩn, chết phôi, thai chết lưu, bọc mủ tử cung, viêm nội mạc tử cung, thai biến

thành xác khô.

Kiểm soát chủ động chu kỳ động dục của bò cái, kết hợp với các hormone

khác gây siêu bài noãn, gây động dục đồng pha trong công nghệ cấy truyền phôi.

+ Sử dụng PGF2α kích thích động dục cho những bò chậm động dục;

33

+ Sử dụng PGF2α để rút ngắn khoảng cách giữa các lứa đẻ;

+ Sử dụng PGF2α cho bò động dục yếu, rụng trứng kém hoặc động dục

thầm lặng;

+ Sử dụng PGF2α trong điều trị viêm tử cung;

+ Sử dụng PGF2α gây sẩy thai theo ý muốn;

+ Sử dụng PGF2α gây đẻ cho bò theo ý muốn;

+ Sử dụng PGF2α trong công nghệ phôi;

Tác dụng chính của PGF2α là phá hủy thể vàng, làm giảm hàm lượng

Progesteron trong máu gây ra sự kích thích phát triển của nang trứng, con vật sẽ

động dục sau khi tiêm 48 - 96 giờ. Trong công nghệ cấy truyền phôi có thể sử dụng

PGF2α để gây động dục đồng pha bằng cách tiêm 1 lần cho bò vào pha thể vàng của

chu kỳ hoặc tiêm 2 lần cách nhau 10 - 12 ngày, tiêm PGF2α trực tiếp vào cơ mông,

vào tử cung, vào âm đạo đều cho kết quả tốt. Thời gian PGF2α có tác dụng phá hủy

thể vàng từ ngày 5 - 16 của chu kỳ. Vì vậy, nó thường được tiêm 2 lần với khoảng

cách từ 11 - 13 ngày, liều lượng PGF2α dùng để gây động dục đồng pha phụ thuộc

vào bản chất hóa học của nó, trạng thái sinh dục của con cái, giai đoạn của chu kỳ

động dục, giống gia súc. Liều lượng của PGF2 α khi gây động dục đồng pha cũng có

nhiều ý kiến khác nhau.

Có nhiều ý kiến về thời gian xuất hiện động dục, rụng trứng sau khi tiêm

PGF2α. Cooper (1974) cho thấy, có hơn 90% bò có biểu hiện động dục, rụng trứng

trong khoảng 48 - 72 giờ. Kết quả nghiên cứu của Stellflug et al. (1973); Louis et al.

(1974) cho biết: động dục, rụng trứng sau khi tiêm PGF2α là 52 - 72 giờ và 85 - 89

giờ. Theo Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997), nếu khám buồng

trứng phát hiện có thể vàng, tiêm PGF2α tỷ lệ động dục trên 70%, tỷ lệ rụng trứng

90%. Thời gian xuất hiện động dục sau khi tiêm PGF2α là 72 - 96 giờ.

Nguyễn Như Pho (2002) đã dùng kháng sinh streptomycin phối hợp với

penicillin, chloramphenicol tiêm một lần ngay trước khi đẻ, hoặc tetracycline cho

ăn liên tục 3 ngày trước khi đẻ hoặc đặt viên kháng sinh vào tử cung trong 3 ngày

sau khi đẻ đã cho biết kết quả tốt trong việc phòng ngừa hội chứng MMA.

Như vậy, có nhiều công trình nghiên cứu về hội chứng MMA trong

34

nước và nước ngoài được công bố. Tuy nhiên, các nghiên cứu liệt kê trên đây

mới chỉ tập trung vào điều tra, đánh giá tỷ lệ mắc bệnh, khảo sát vi sinh vật

gây bệnh, sử dụng kháng sinh để điều trị… Việc nghiên cứu các biện pháp

làm tăng sức kháng bệnh cho lợn nái mang thai, chẩn đoán phi lâm sàng bệnh,

chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý phù hợp, làm giảm nguy cơ mắc hội

chứng MMA sau đẻ, tăng số lượng lợn sơ sinh/ổ, giảm tỷ lệ chết lợn con sau

đẻ… từ đó làm tăng năng suất của lợn nái là rất cần thiết hiện nay.

1.3. Ảnh hưởng của hội chứng MMA

1.3.1. Khả năng sinh sản của lợn nái

Hội chứng MMA có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái,

không chỉ tác động tức thời mà còn làm giảm khả năng sinh sản của lợn nái ở các

lứa đẻ tiếp theo. Cụ thể:

- Bệnh có thể làm tổn thương cơ quan sinh dục, làm lợn nái chậm hoặc

không động dục, giảm khả năng thụ thai, dễ sẩy thai, đẻ non hoặc thai dị hình.

Bệnh nặng có thể làm lợn nái mất khả năng sinh sản.

- Gây rối loạn hệ nội tiết, các kích tố ở lợn mẹ tiết ra không bình thường,

buồng trứng phát triển không đều, trứng không rụng hoặc rụng ít. Do vậy, lợn nái

sẽ chậm hoặc không động dục, phối nhiều lần không đậu thai hoặc có đậu nhưng

số con ít. Từ đó làm giảm số lứa đẻ/năm, giảm số con/lứa đẻ...

- Khi bộ máy sinh dục bị bệnh, sẽ gây khó khăn cho quá trình thụ thai, làm

biến đổi chức năng sinh sản của gia súc, tăng tỷ lệ vô sinh, tăng chi phí nuôi

dưỡng đàn nái, từ đó giảm hiệu quả chăn nuôi trên một đầu nái.

- Làm giảm thời gian sử dụng con nái, gia tăng số lợn nái bị loại thải sớm.

1.3.2. Sinh trưởng và phát triển của lợn con

Hội chứng MMA xảy ra trên lợn nái và thường trong giai đoạn đang nuôi

con. Do vậy hội chứng này còn tác động rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển

của lợn con ngay cả trong giai đoạn theo mẹ và sau khi cai sữa.

Lợn con theo mẹ, nhất là từ khi sinh đến 21 ngày tuổi, chịu tác động rất lớn

từ nguồn sữa mẹ. Bất kỳ sự thay đổi nào về số lượng và chất lượng sữa mẹ đều tác

động trực tiếp đến sinh trưởng và phát triển của lợn con. Những tác động này sẽ

35

làm cho các cơ quan trong cơ thể lợn con bị ảnh hưởng, nhất là các cơ quan của hệ

tiêu hoá vì sức đề kháng của lợn con thấp, dẫn đến khi cai sữa thì sinh trưởng, phát

triển của chúng cũng bị giảm sút, khả năng mắc bệnh cao.

- Khi lợn mẹ mắc hội chứng MMA, lượng sữa giảm sút, lợn con không đủ

sữa bú, còi cọc, chậm lớn, tăng tỷ lệ tiêu tốn thức ăn/lứa. Lợn con chậm lớn còn

kéo dài thời gian cai sữa.

- Thành phần sữa từ lợn mẹ mắc hội chứng MMA cũng thay đổi. Lợn

con bú sữa này sẽ bị rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy phân trắng. Theo Nguyễn Như

Pho (2002), tình trạng tiêu chảy của lợn con tăng cao trên lợn nái mắc hội

chứng MMA. Theo Nguyễn Văn Thanh (2003), đàn lợn con được sinh ra từ

những nái mắc bệnh viêm tử cung, sẽ mắc bệnh tiêu chảy với tỷ lệ khá cao. Đó

là do khi lợn mẹ bị viêm tử cung, thành phần sữa thay đổi đột ngột. Thêm vào

đó, do hệ thống tiêu hóa của lợn con chưa phát triển hoàn hảo dẫn đến rối loạn

tiêu hóa gây tiêu chảy.

- Những lợn con của nái bị hội chứng MMA có sức đề kháng thấp, dễ mắc

một số bệnh như còi xương, xương dị dạng, tỷ lệ lợn con mắc các bệnh khác

trong đàn tăng cao. Ngoài ra sau khi cai sữa số lợn con này cũng ăn ít, chậm lớn,

dễ bị tiêu chảy và mắc các bệnh khác.

Như vậy hội chứng MMA có tác động rất lớn đến năng suất sinh sản của

lợn nái cũng như khả năng sinh trưởng, phát triển của đàn lợn con, làm tăng chi

phí giá thành chăn nuôi, giảm hiệu quả kinh tế cho người nuôi lợn nái và người

nuôi lợn thịt.

36

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đàn lợn nái sinh sản giống ngoại nuôi tập trung tại 08 trang trại quy

mô từ 200 đến 2000 nái không mắc hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp

(PRRS) 03 năm trước khi nghiên cứu của các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải

Dương và thành phố Hà Nội;

- Đàn lợn con được sinh ra từ những lợn nái được nghiên cứu.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

+ Địa điểm nghiên cứu:

- 08 trang trại chăn nuôi lợn nái tập trung quy mô từ 200 đến 2000 nái

tại các tỉnh: Bắc Ninh (Xí nghiệp lợn giống Lạc Vệ, Công ty TNHH giống lợn

Tân Chi); Hải Dương (trại lợn giống Bùi Huy Hạnh, trại lợn giống Phạm Văn

Công); Hưng Yên (trại chăn nuôi lợn giống Hưng Thịnh, trại chăn nuôi lợn

nái Hồng Hà) và thành phố Hà Nội (trại lợn giống Nguyễn Văn Thanh, trại lợn

giống Minh Hoa);

- Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Sinh học Thú y Trường Đại

học Nông Nghiệp Hà Nội;

- Phòng Thí nghiệm Khoa Thú y trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội;

- Phòng Thí nghiệm khoa Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản, trường

Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

+ Thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 - 2013.

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Điều tra dịch tễ học hội chứng MMA

+ Các chỉ tiêu lâm sàng;

+ Thực trạng mắc hội chứng MMA;

+ Tỷ lệ mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ;

+ Ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA.

2.3.2. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái

Thời gian động dục lại; tỷ lệ động dục lại; tỷ lệ thụ thai ở lợn nái; số lợn

37

sơ sinh/ổ; số lợn con sinh ra còn sống sau 24h/ổ; số lợn con cai sữa/ổ; khối lượng

trung bình lợn cai sữa/con.

2.3.3. Theo dõi một số chỉ tiêu phi lâm sàng

+ Sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh lý máu của lợn nái mắc hội chứng MMA;

+ Sự thay đổi một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn nái mắc hội chứng MMA;

2.3.4. Theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần, tính chất của sữa lợn

+ Sự biến động thành phần hóa học sữa lợn như: mỡ, đường, vật chất khô

+ Sự thay đổi tính chất của sữa lợn như: độ đông đặc, pH sữa.

2.3.5. Phân lập và giám định các loài vi khuẩn

+ Phân lập và giám định các vi khuẩn hiếu khí trong sữa lợn bình thường;

+ Phân lập và giám định các vi khuẩn hiếu khí trong sữa lợn mắc hội

chứng MMA;

+ Xác định sự biến động số lượng các vi khuẩn trong mẫu sữa lợn mắc hội

chứng MMA và trong sữa lợn bình thường;

+ Phân lập và giám định các loài vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung của

lợn nái đẻ bình thường;

+ Phân lập và giám định các vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung của lợn

nái mắc hội chứng MMA;

+ Xác định số lượng vi khuẩn có trong mẫu dịch tử cung của lợn mắc hội

chứng MMA và trong mẫu dịch tử cung lợn bình thường.

2.3.6. Kiểm tra kháng sinh đồ

+ Kiểm tra kháng sinh đồ với các vi khuẩn hiếu khí phân lập được từ mẫu

sữa lợn mắc hội chứng MMA;

+ Kiểm tra kháng sinh đồ với các vi khuẩn hiếu khí phân lập từ dịch tử

cung lợn mắc hội chứng MMA.

2.3.7. Thử nghiệm phác đồ điều trị hội chứng MMA

Từ kết quả phân lập, giám định vi khuẩn và kiểm tra kháng sinh đồ, tiến

hành thử nghiệm điều trị hội chứng MMA qua 03 phác đồ, từ đó chọn ra 01 phác

đồ điều trị có hiệu quả cao nhất.

38

2.3.8. Đề xuất các biện pháp phòng hội chứng MMA

Sử dụng biện pháp vệ sinh thú y và chăm sóc nuôi dưỡng, phòng bệnh

bằng thuốc kết hợp với kỹ thuật phối giống, đỡ đẻ đối với lợn nái để đề xuất các

biện pháp phòng hội chứng MMA.

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Xác định một số chỉ tiêu lâm sàng

+ Dựa vào triệu chứng lâm sàng:

- Đo thân nhiệt: thân nhiệt được đo bằng nhiệt kế điện tử của hãng

Omron model MC - 240, đo qua trực tràng vào sáng và chiều;

- Quan sát bầu vú: vú viêm căng cứng; sưng, nóng, đỏ, đau khi sờ nắn;

- Lượng sữa: sữa ít hoặc mất sữa, biểu hiện ở lợn mẹ là nằm úp bụng

xuống sàn, tránh cho con bú, đàn con kêu rít do đói; lợn mẹ ăn ít hoặc bỏ ăn…

+ Chẩn đoán viêm tử cung: chúng tôi sử dụng phương pháp của Nguyễn

Văn Thanh và Trần Tiến Dũng (2002): Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung dựa

vào tính chất dịch viêm, quan sát: màu, mùi. Dịch viêm tử cung có màu trắng

xám, trắng sữa hoặc màu hồng, nâu đỏ; mùi tanh, tanh thối hoặc thối khắm.

+ Chẩn đoán viêm vú: Theo Hồ Văn Nam và cs. (1997); Trần Tiến

Dũng và cs. (2002), kiểm tra viêm vú lợn bằng phản ứng nước oxy già (H2O2)

với men catalaze và peroxydaza, cách tiến hành như sau:

Sát trùng bầu vú lợn bằng cồn 700C, vắt bỏ vài tia sữa đầu, sau đó lấy

1ml sữa cho vào khay thử, nhỏ vài giọt nước oxy già, trộn đều rồi quan sát,

dựa vào mức độ sủi bọt của sữa và vào sự đổi màu của chất chỉ thị màu

phenolphtalein ta có thể kết luận: âm tính (không viêm vú) nếu sữa không sủi

bọt và chất chỉ thị màu không đổi màu; dương tính (viêm vú) nếu sữa có sủi

bọt và chất chỉ thị màu chuyển từ màu trắng sang màu hồng.

2.4.2. Phương pháp điều tra hồi cứu để nắm được tình hình dịch tễ của lợn

mắc hội chứng MMA

- Xây dựng phiếu điều tra: xác định số lợn nghi mắc hội chứng MMA

tại 08 trại chăn nuôi lợn nái ngoại quy mô từ 200 đến 2000 nái;

- Căn cứ hồ sơ theo dõi lợn nái tại trại nghiên cứu;

39

- Theo dõi trực tiếp và phỏng vấn kỹ sư chăn nuôi, bác sỹ thú y.

2.4.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu sinh sản để đánh giá ảnh hưởng của

hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái

- Thời gian động dục sau cai sữa: Là thời gian tính từ khi lợn mẹ dừng cho

con bú đến khi động dục lại.

.

Số nái động dục lại x 100 - Tỷ lệ động dục lại (%) = Số nái theo dõi

Số nái thụ thai x 100 - Tỷ lệ thụ thai (%) = Số nái động dục lại

- Số lợn con sinh ra: Tổng số lợn con sinh ra của số nái khảo sát.

- Bình quân số lợn con sinh ra còn sống sau 24h/ổ = (tổng số lợn con sinh

ra - số lợn con chết trước 24h)/số nái theo dõi.

- Số lợn con cai sữa: Tổng số lợn con còn sống khi cai sữa của tổng số nái

khảo sát.

. Số lợn con cai sữa - Bình quân số lợn con cai sữa/ổ = Số nái theo dõi

2.4.4. Phương pháp lấy mẫu

* Đối với mẫu dịch tử cung: Theo Nguyễn Phúc Quý và cs. (1991), mẫu

dịch tử cung được lấy ở lợn nái sau đẻ 12 đến 48 giờ. Cách lấy như sau: dùng

ống dẫn tinh vô trùng đặt vào tử cung, đầu ngoài ống gắn với xi lanh, hút dịch từ

từ, sau đó đưa mẫu dịch vào ống nghiệm chứa dung dịch PBS đậy nút, ghi nhãn,

đánh số thứ tự, địa điểm lấy mẫu… Mẫu được bảo quản trong nhiệt độ 2 - 8°C và

được mang về phòng thí nghiệm để tiến hành xét nghiệm sau 1 - 2 giờ.

* Đối với mẫu máu dùng cho xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý: Máu phải

được lấy vào buổi sáng trước khi cho lợn ăn. Cố định lợn bằng cách tròng mõm,

lấy 5 ml máu từ tĩnh mạch cổ bằng xy lanh vô trùng rồi cho vào ống nghiệm có

chứa chất chống đông, đậy nắp, ghi nhãn mác, bảo quản lạnh, vận chuyển đến

phòng thí nghiệm.

* Đối với mẫu máu dùng cho xét nghiệm các chỉ tiêu sinh hóa: Máu lấy vào

40

buổi sáng trước khi cho lợn ăn, lấy 5 ml máu từ tĩnh mạch cổ bằng xy lanh vô trùng, kéo xy lanh ra để tạo khoảng trống và đặt nghiêng 450 cho máu đông rồi chắt huyết thanh vào ống nghiệm, đậy nắp, ghi nhãn mác, bảo quản ở 2 - 80C,

vận chuyển đến phòng thí nghiệm.

* Đối với mẫu sữa: Sữa được vắt bằng tay hoặc dụng cụ vắt sữa từ các núm vú của lợn sau khi được vô trùng bằng cồn 700C, các dòng sữa đầu tiên

được bỏ đi, lấy 5ml của những dòng sữa tiếp theo vào ống nghiệm, đậy nắp, ghi nhãn mác. Mẫu được bảo quản ở 40C trước khi chuyển đến phòng thí

nghiệm trong vòng 48 giờ.

2.4.5. Các phương pháp dùng trong xét nghiệm một số chỉ tiêu phi lâm sàng:

sinh lý, sinh hóa máu

Phương pháp thường quy và máy tự động:

- Xét nghiệm hàm lượng đường huyết bằng máy glucometter

- Xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý máu bằng máy xét nghiệm cen - difl

3700 với 25 chỉ tiêu

- Xét nghiệm các chỉ tiêu sinh hóa máu bằng máy xét nghiệm Hema

Screen 18

2.4.6. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu chất béo, protein, đường, vật chất

khô và đo pH của sữa

Thành phần hóa học của sữa như: chất béo, protein, đường lactose, tổng số

vật chất khô được phân tích bằng máy phân tích nhanh MilkoScan FT 120. Đây

là thiết bị chuyên dụng để phân tích sữa với thời gian phân tích là 30 giây. Máy

được cung cấp bởi hãng Foss Electric của Mỹ.

Máy MilkoScan FT 120 được sử dụng cùng với máy vi tính. Hoạt động

của máy được điều khiển bằng phần mềm vi tính, cho kết quả phân tích hiển thị

ra màn hình dưới dạng cột.

Nguyên tắc hoạt động máy MilkoScan FT 120

Máy MilkoScan FT 120 phân tích thành phần hóa học của mẫu sữa dựa

vào dụng cụ đo giao thoa phổ hồng ngoại FTIR (Fourier Transform Infrared

41

Spectrocopy). FTIR quét trên một dãy phổ hồng ngoại đầy đủ cho những chất

hóa học cần phân tích. Thu thập tất cả dữ liệu từ dãy quang phổ này cùng phân

tích một lúc bằng bộ phận hồng ngoại (IR analysis). Sự phân tích này dựa trên sự

so sánh dãy phổ hồng ngoại thu được với dãy phổ hồng ngoại chuẩn mà người sử

dụng đã định sẵn. Trình tự phân tích như sau:

Nguồn tia laser phát ra kích hoạt nguồn hồng ngoại phát ra tia hồng ngoại.

Tia hồng ngoại này đi qua bộ phận tách tia (beam splitter) tạo thành hai tia sáng

đi tới hai gương phẳng. Tới gương, hai tia sáng sẽ phản xạ lại và đi tới cốc chứa

mẫu. Hai tia sáng được mẫu sữa hấp thu và phát thành hai luồng sáng đặc trưng

cho mẫu, hai luồng sáng này sẽ giao thoa với nhau tạo thành phổ giao thoa hồng

ngoại. Phổ được ghi bằng dụng cụ đo giao thoa (enterferometer). Nhờ nguyên lý

toán học Fourier (thực hiện được 10 phép tính/giây), phổ giao thoa được chuyển

thành 1 dãy phổ đầy đủ đặc trưng cho mẫu cần phân tích dưới dạng hình sin có

tần số và biên độ xác định. Dãy phổ này sẽ được so sánh với dãy phổ chuẩn tại

bộ phận phân tích hồng ngoại (IR analysis) mà người sử dụng đã hiệu chỉnh sẵn.

Từ kết quả này sẽ đưa ra kết quả thành phần hóa học của mẫu sữa cần phân tích.

Đo pH sữa

Dùng pH kế cầm tay (Pocket pH Meter), cách đo như sau:

- Lấy khoảng 5ml sữa vào ống nghiệm sạch, để mẫu ở nhiệt độ phòng

- Cho đầu đo của dụng cụ đo pH vào ống nghiệm có sữa

- Để 1 phút trong ống đựng sữa

- Đọc kết quả: Độ pH chính là số đo hiển thị trên màn hình của dụng cụ

2.4.7. Phương pháp phân lập và giám định vi khuẩn trong mẫu sữa lợn

* Phân lập và định danh vi sinh vật trong các mẫu sữa (Quinn, 1994):

Đối với nhóm coliforms

50 µl mẫu sữa được cấy trên thạch MC và ủ ở 370C/24 giờ. Sau đó, từ mỗi

dạng khuẩn lạc mọc trên đĩa chọn 3 khuẩn lạc điển hình để xác định loài vi

khuẩn. Việc xác định loài theo sơ đồ (xem phụ lục).

42

Đối với Staphylococcus spp và Streptococcus spp

50 µl mẫu sữa được cấy trên thạch máu cừu 5% (BA) và ủ ở 37oC/24 giờ.

Từ mỗi đĩa, chọn 3 khuẩn lạc nghi ngờ với đặc điểm: khuẩn lạc tròn, màu trắng

sữa hay vàng, kích thước từ 2 - 3 mm để tiếp tục kiểm tra và định danh theo sơ

đồ (xem phụ lục).

2.4.8. Phương pháp phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí có trong dịch

tử cung

* Phương pháp xác định số loài vi khuẩn: mỗi loài vi khuẩn khi mọc trên

các môi trường thì khuẩn lạc có đặc tính mọc đặc trưng. Dựa vào những đặc

điểm đặc trưng đó để xác định loài vi khuẩn có trong mẫu dịch tử cung.

+ Môi trường thạch thường:

- Staphylococcus: khuẩn lạc dạng S, tròn bóng, rìa gọn, mặt lồi, màu vàng;

- Streptococcus: khuẩn lạc dạng S, nhỏ, màu hơi xám, bóng;

- Salmonella: khuẩn lạc dạng S, có thể dạng R, tròn, trong hoặc hơi xám,

nhẵn bóng, hơi lồi lên ở giữa;

- E. coli: khuẩn lạc dạng S, có thể dạng R, tròn, ướt, màu tro hay trắng

nhạt, hơi lồi.

+ Môi trường thạch MacConkey:

- E. coli: hình thành những khuẩn lạc dạng S, màu hồng cánh sen;

- Salmonella: khuẩn lạc tròn, trong, không màu, nhẵn, hơi lồi ở giữa;

- Pseudomonas: khuẩn lạc to, rìa nhăn, màu nâu xám.

+ Môi trường thạch Brilliant Green Agar:

- E. coli: khuẩn lạc dạng S, màu vàng chanh;

- Salmonella: khuẩn lạc dạng S, màu hồng nhạt.

+ Môi trường Chapman:

- Staphylococcus: khuẩn lạc to, rìa gọn, nếu là tụ cầu gây bệnh làm môi

trường biến màu vàng, nếu là tụ cầu không gây bệnh: môi trường màu đỏ.

+ Môi trường Edwards Medium:

- Streptococcus: vi khuẩn mọc tốt, khuẩn lạc nhỏ, mịn, ướt, mặt hơi lồi,

trong sáng.

43

Sau khi nuôi cấy mẫu trên môi trường thạch thường trong tủ ấm 37oC/18

- 24 giờ, quan sát hình thái và kích thước khuẩn lạc ta có thể phân loại và xác

định được số lượng của từng loại. Sau đó tiến hành phân lập, giám định các

khuẩn lạc đó bằng cách chọn các khuẩn lạc điển hình cho từng loài vi khuẩn

cấy sang các môi trường chuyên dụng.

* Phương pháp xác định số lượng vi khuẩn

- Phương pháp Koch: để có thể đếm được số khuẩn lạc trên môi trường

thạch thường, tuỳ theo số vi khuẩn có trong bệnh phẩm. Mẫu xét nghiệm cần

phải pha loãng đến mức độ cần thiết.

Sau khi pha loãng đến 106, chúng tôi tiến hành cấy vi khuẩn vào đĩa thạch. Cấy dịch pha loãng mẫu trong môi trường thạch đặc, đặt trong tủ ấm 370C/24

giờ, lấy ra đếm tổng số các loại khuẩn lạc (CFU) có trong một đĩa thạch. Số

lượng CFU tương đương với số lượng vi khuẩn. Để có kết quả chính xác, cần

thống nhất nồng độ pha loãng và thời gian nuôi cấy. Số vi khuẩn có trong 1 ml

dịch mẫu được tính theo công thức:

X = 10.A/N

Trong đó: X: số khuẩn lạc trong 1 ml dịch.

A: số khuẩn lạc trung bình trên một đĩa petri.

N: độ pha loãng.

* Phương pháp giám định vi khuẩn gram (+):

Sau khi pha loãng với từng nồng độ thích hợp của các loại mẫu, nuôi cấy

trong môi trường thạch thường và môi trường chuyên dụng. Quan sát các loại

khuẩn lạc mọc trong đĩa của hai loại môi trường ở trên, dựa vào đặc điểm của

từng loại khuẩn lạc, chúng tôi có thể biết được trong mẫu kiểm tra có mấy loài vi

khuẩn (tương đương với số loại khuẩn lạc trong đĩa) với các đặc điểm điển hình

của từng loài: hình thái, kích thước, mầu sắc khuẩn lạc...

Tiếp tục chọn khuẩn lạc điển hình kiểm tra thêm các đặc tính sinh hóa cơ

bản, sử dụng một số biện pháp để phân biệt một số loài vi khuẩn gây bệnh chính.

* Phương pháp CAMP định danh Streptococcus spp gây viêm vú lợn:

Phương pháp CAMP: phản ứng CAMP được Christie et al. (1944) phát

44

minh và sử dụng để phân biệt các Streptococcus nhóm B (các Streptococcus gây

viêm vú bò thuộc nhóm B). Phản ứng dựa trên nguyên lý: Streptococcus nhóm B

sản sinh một chất có thành phần giống protein được gọi là CAMP factor, nó có

thể cộng hoạt với tốc độ β Hemolysin của Staphylococcus spp tạo ra một vòng

dung huyết hoàn toàn, hình mũi tên trên vùng dung huyết không hoàn toàn (β)

của Staphylococcus spp

Ngày nay, phản ứng CAMP được cải tiến bằng cách cho thêm vào môi trường

làm phản ứng 0,1% Esculin và 0,01% Ferric Citrat để xác định các Streptococcus có

khả năng phân giải Esculin và phản ứng được gọi là CAMP- Esculin test.

Tiến hành: Cấy một đường thẳng Staphylococcus spp chủng chuẩn (dung

huyết 2 vòng α và β) chia đôi đĩa thạch (0,1% Esculin và 0,01% Ferric Citrat).

Sau đó cấy các Streptococcus cần phân biệt theo hướng vuông góc và cách đường cấy Staphylococcus trên từ 2 - 3 mm, bồi dưỡng ở 37 0C/24 giờ.

Kết quả CAMP (+): Xuất hiện vùng dung huyết hoàn toàn hình mũi tên

nơi tiếp giáp giữa đường cấy Streptococcus với vùng dung huyết β của

Staphylococus spp

CAMP - Esculin test cho phép phân biệt các loại Streptococcus theo bảng sau:

Vi khuẩn CAMP Esculin Dung huyết

Strep. agalactiae + - α,β

Strep. dysgalactiae - - Α

Strep- uberis (-) hoặc (+) + O,α,γ

* Phương pháp định danh Staphylococcus spp

Staphylococcus bao gồm các chủng gây bệnh và không gây bệnh, các

chủng gây bệnh có khả năng tiết men Coagulase được sinh ra trong quá trình sống.

Căn cứ vào sự có mặt của men này để phân biệt các Staphylococcus gây bệnh với

Staphylococcus khác. Phản ứng dùng để phân biệt này gọi là Coagulase test.

- Nguyên lý của phản ứng: Các chủng Staphylococcus gây bệnh trong quá

trình sống có khả năng tiết ra một loại men Coagulase phân giải Fibrinogen thành

Fibrin làm đông huyết tương của một số động vật.

Phản ứng Coagulase trên phiến kính: Chuẩn bị đĩa cấy vi khuẩn cần phân

45

biệt, nước sinh lý trên một lam kính vô trùng, dùng que cấy lấy một vùng huyết

tương thỏ Citrat hóa trộn đều với hỗn hợp trên. Nếu phản ứng dương tính thì hiện

tượng đông vón sẽ xuất hiện sau vài giây.

2.4.9. Phương pháp kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn phân lập từ sữa và

dịch viêm tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Phương pháp làm kháng sinh đồ trên đĩa thạch theo Kirby - Bauer dùng

giấy tẩm kháng sinh của hãng Oxoi

d (Anh) sản xuất, code 1332 E. Kết quả được đánh giá theo hướng dẫn của nhà

sản xuất.

Chúng tôi kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn phân lập từ những mẫu

sữa và dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA theo phương pháp làm kháng sinh

đồ trên đĩa thạch theo Kirby - Bauer. Vi khuẩn phân lập được từ các mẫu bệnh phẩm được làm trẻ hóa sang môi trường thạch ống nghiêng NA, ủ 37oC/24h

(riêng Streptococcus thì trẻ hóa bằng thạch ống nghiêng BA). Lấy sinh khối vi

khuẩn cho vào 9 ml dung dịch NaCl 0,9% vô trùng, lắc đều và điều chỉnh để có

độ đục tương đương với độ đục Mc Farland 0,5. Sau đó, lấy tăm bông vô trùng

thấm huyễn dịch vi khuẩn trải đều lên bề mặt đĩa thạch Mueller - Hinton (MH)

hoặc thạch máu (đối với Streptococcus spp). Đặt đĩa giấy tẩm kháng sinh lên bề

mặt đĩa thạch đã được trải trùng, mỗi đĩa thạch có thể đặt tối đa 7 đĩa giấy tẩm

kháng sinh. Khoảng cách từ mép đĩa đến đĩa giấy tẩm kháng sinh tối thiểu là 10 mm, khoảng cách giữa 2 đĩa giấy tẩm kháng sinh tối thiểu là 20 mm. Ủ 37oC/18 -

24 giờ. Kết quả được đọc bằng cách đo đường kính vòng vô khuẩn rồi so với

bảng đường kính vòng vô khuẩn chuẩn để xác định tính mẫn cảm hay đề kháng

của vi khuẩn với kháng sinh tương ứng (xem bảng 2.1).

Các loại kháng sinh được sử dụng bao gồm: amoxycillin, cephalexin,

kanamycin, cefaclor, streptomycin, gentamycin, colistin, norfloxacin, ofloxacin và

trimethoprim-sulfamethoxazol. Các bước tiến hành như sau:

Bước 1: Chuẩn bị môi trường thạch Muellier Hinton hoặc Nutrient agar;

Bước 2: Các chủng vi khuẩn nuôi cấy trong các môi trường thích hợp

được dàn đều lên môi trường thạch đĩa Muellier Hinton hoặc Nutrient agar;

46

Bước 3: Giấy tẩm kháng sinh của hãng Oxoid được đặt khoảng cách đều

nhau trong đĩa;

Bước 4: Bồi dưỡng ở 370C trong 18 - 24 giờ, đo đường kính vòng vô

khuẩn để đánh giá mức độ mẫn cảm hay kháng kháng sinh của vi khuẩn.

Bảng 2.1. Bảng qui chuẩn lâm sàng phòng xét nghiệm NCCS 1999

Đường kính Đường kính vòng Hàm lượng vòng vô khuẩn vô khuẩn khi vi TT kháng sinh Tên thuốc còn mẫn cảm khuẩn kháng (µg/đĩa) (mm) thuốc (mm)

≥ 13 - 17 10 1 Amoxycillin < 13

≥ 14 - 21 30 2 Cephalexin < 14

≥ 18 - 21 30 3 Cephaclor < 18

≥ 13 - 19 300 4 Colistin < 13

≥ 13 - 17 10 5 Streptomycin < 13

≥ 15 10 6 Gentamycin < 15

≥ 14 - 17 30 7 Kanamycin < 14

≥ 12 - 17 10 8 Norfloxacin < 12

≥ 12 - 16 5 9 Ofloxacin < 12

Sulfamethoxazol/ 23,75/1,25 ≥ 10 - 16 10 < 10 Trimethoprim

2.4.10. Ứng dụng điều trị hội chứng MMA

Với mục tiêu tìm ra phương pháp điều trị có hiệu quả, giúp cơ sở chăn

nuôi lợn nái ứng dụng điều trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản.

Dựa vào kết quả phân lập vi khuẩn gây bệnh và kết quả kiểm tra kháng

sinh đồ với các chế phẩm thuốc thú y được phép lưu hành trên thị trường dùng để

điều trị hội chứng MMA. Chúng tôi chọn và đưa ra 03 phác đồ điều trị để đánh

giá kết quả điều trị của từng phác đồ.

Đánh giá kết quả điều trị: kết quả điều trị hội chứng MMA được đánh giá

khỏi bệnh khi lợn không còn sốt, không tiết dịch viêm tử cung, lợn ăn hết khẩu

phần, nhanh nhẹn, cho con bú bình thường, vú không có biểu hiện sưng.

47

2.4.11. Thử nghiệm biện pháp phòng hội chứng MMA

Thí nghiệm được thực hiện tại Xí nghiệp lợn giống Lạc Vệ và được bố trí

như bảng 2.2.

Bảng 2.2. Bố trí thử nghiệm biện pháp tổng hợp phòng hội chứng MMA

Lô đối chứng (Lô 2) Không có tổ kỹ thuật và khu

Biện pháp thực hiện Bước 1: Phối giống

Lô thí nghiệm (Lô 1) Có tổ kỹ thuật phối giống, khu

phối riêng mà phối giống tại

phối giống riêng, đảm bảo

chuồng nuôi, lợn không được

phối giống đúng kỹ thuật, vệ

vệ sinh trước và sau khi phối

sinh lợn trước và sau khi phối

Bước 2: Chăm sóc

Lợn được theo dõi thể trạng;

Lợn được cho ăn theo khẩu

nuôi dưỡng

cung cấp đầy đủ, cân đối, hợp

phần ăn đã định sẵn của xí

lý khẩu phần ăn khi mang

nghiệp đối với nái mang thai.

Lợn nái ít được vận động

thai. Cho lợn nái vận động

thường xuyên. Hai ngày trước

khi đẻ giảm thức ăn xuống

còn 1- 2 kg/ngày

Bước 3: Vệ sinh

01 tuần trước khi đẻ, lợn nái

Lợn không được vệ sinh bầu

được đưa đến khu chuồng dành

vú, bộ phận sinh dục trước và

riêng, được dọn sạch, khử trùng,

sau đẻ

được bố trí thiết bị sưởi ấm về

mùa đông, hệ thống thông gió,

hệ thống làm mát vào mùa hè

- Vệ sinh lợn bằng cách: dùng

khăn lau bầu vú, sát trùng bộ

phận sinh dục lợn và vệ sinh sàn

chuồng trước và sau khi lợn đẻ

Bước 4: Dùng thuốc Khi lợn bắt đầu đẻ, tiêm

Lợn không được tiêm kháng

Amoxoil retard 1 ml/30 kg thể

sinh dự phòng khi đẻ mà chỉ

trọng, khi đẻ xong

tiêm

khi lợn sốt, có dịch mủ chảy

Oxytocin 20 với

liều 2

ra ở âm đạo mới dùng thuốc,

ml/con, khi lợn đẻ xong 24

không dùng dung dịch lugol

giờ, bơm 1000 ml dung dịch

1% bơm vào tử cung sau khi

lugol 0,1%.

lợn đẻ xong.

48

Cả hai lô được thực hiện trên đàn lợn nái trong cùng một trại lợn không

mắc các bệnh truyền nhiễm như Lở mồm long móng, tai xanh… được theo dõi từ

bước 1 đến bước 4 và lặp lại sau 1 chu kỳ để đánh giá hiệu quả của biện pháp

phòng bệnh thử nghiệm. Các chỉ tiêu theo dõi đánh giá năng suất sinh sản gồm:

tỷ lệ mắc hội chứng MMA, thời gian động dục lại sau cai sữa, tỷ lệ phối giống

thụ thai…

2.4.12. Xử lý số liệu

Số liệu được thu thập và xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật học của

Nguyễn Văn Thiện (2002) và bằng chương trình phần mềm Excell, phân tích bằng

phần mềm Minitab 16.0

So sánh tỷ lệ mắc hội chứng MMA theo mùa vụ, theo lứa đẻ, tỷ lệ mẫu

sữa, mẫu dịch tử cung nhiễm khuẩn của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường bằng phép thử χ2. So sánh các chỉ tiêu huyết học của lợn mắc hội chứng

MMA và lợn bình thường bằng phép thử t (Student test).

49

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Xác định một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA

Mỗi bệnh đều có những đặc điểm bệnh lý riêng, với mục địch làm rõ đặc

điểm bệnh lý của hội chứng MMA ở lợn để có cơ sở khoa học giúp cho việc nhận

biết, chẩn đoán và đưa ra biện pháp phòng, trị phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu của

thực tiễn sản xuất. Chúng tôi đã tiến hành theo dõi những biểu hiện lâm sàng của

220 lợn nái mắc hội chứng MMA nuôi tại 04 trại của các tỉnh Bắc Ninh, Hải

Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội. Kết quả được trình bày tại bảng 3.1.

Bảng 3.1. Kết quả theo dõi một số biểu hiện lâm sàng ở lợn nái

mắc hội chứng MMA

Triệu chứng lâm sàng Địa Toàn thân Cục bộ Số nái phương nghiên Viêm vú, không Mệt mỏi, Có dịch viêm nghiên cứu cho con bú Sốt (> 39,50C) tử cung kém ăn cứu (con) Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số

100

98,18

98,18

98,18

con (%) con (%) con (%) con (%)

100

96,36

100

94,55

55 54 54 54 Bắc Ninh 55

100

100

98,18

94,55

55 53 55 52 Hải Dương 55

98,18

96,36

100

94,55

55 55 54 52 Hưng Yên 55

54 53 55 52 Hà Nội 55

219 99,55 215 97,73 218 99,09 210 95,45 Tính chung 220

* Chú thích: 01 lợn nái ở Bắc Ninh và 01 lợn nái ở Hưng Yên không

có dịch viêm tử cung do sau khi kiểm tra lại thấy dịch tử cung đặc và bị nút lại

bên trong cổ tử cung nên dịch không thoát ra ngoài được.

Tuy ở các địa điểm nghiên cứu khác nhau nhưng lợn nái mắc hội chứng

MMA có các biểu hiện lâm sàng tương tự nhau (bảng 3.1): sốt, mệt mỏi, kém

50

ăn, có dịch viêm tử cung và không cho con bú. Trong đó, tỷ lệ lợn sốt > 39,50C chiếm 99,55% (từ 98,18 đến 100%); tỷ lệ lợn có biểu hiện mệt mỏi, kém

ăn 97,73% (từ 96,36 đến 100%). Tỷ lệ lợn thải dịch viêm đường sinh dục 99,09%

(từ 98,18 đến 100%). Tỷ lệ lợn không cho con bú 95,45% (từ 94,55 đến 98,18%).

So sánh với kết quả nghiên cứu của Hermansson et al. (1978) khi nghiên cứu các

biểu hiện lâm sàng của lợn bị mất sữa sau đẻ với tỷ lệ lợn có biểu hiện mệt mỏi

kẻm ăn là 25% thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi thể hiện triệu chứng đặc

trưng rõ rệt. Các biểu hiện mệt mỏi, kém ăn, dịch viêm đường sinh dục thường

xuất hiện ngay từ khi lợn mắc hội chứng MMA cùng một số biểu hiện khác như:

lợn đứng nằm không yên, hay cắn con, sưng vú, mất sữa...

Theo Nguyễn Thị Hồng (2007), lợn mắc hội chứng MMA sốt cao 40 - 410C, mệt mỏi, bỏ ăn, giảm uống nước, táo bón, thường nằm sấp không cho con

bú (do vú bị viêm, sưng và đau), âm đạo tiết dịch lợn cợn, mùi hôi (nếu viêm

nặng, dịch có lẫn mủ), lợn con không được bú, kêu la, da khô, lông dựng và đa số

bị tiêu chảy.

Theo Preibler and Kemper (2011), trong nghiên cứu về lợn nái mắc MMA, có 16,6% bị sốt < 39,50C, 28,8% sốt > 400C, lợn kém ăn, sản lượng sữa

giảm hoặc rối loạn tiết sữa.

Kết quả nghiên cứu của Shrestha (2012) cho thấy, lợn nái mắc hội chứng MMA sốt cao (nhiệt độ trực tràng 40 - 410C), biếng ăn, táo bón, tuyến vú phù nề,

sưng, nóng, đau, núm vú rỗng, sữa vắt ra lợn cợn, không cho con bú, dịch âm đạo

màu xám nâu, mùi khắm. Lợn con đói, tăng trọng thấp, ỉa chảy, trước và sau cai

sữa có tỉ lệ chết cao.

Theo Bozhkova et al. (1983) (nghiên cứu trên 793 lợn nái mắc hội chứng

MMA trong 10 ngày đầu sau đẻ tại Bulgari), lợn ốm có thân nhiệt cao, có thay

đổi trong đường sinh dục và chảy mủ, có tổn thương tuyến vú và giảm tiết sữa,

số tế bào thể trong sữa cao.

Theo Martineau et al. (1992), lợn nái mắc hội chứng MMA sốt > 39,50C,

mệt mỏi, biếng ăn, viêm vú, có dịch viêm từ âm đạo chảy ra; lợn con dưới 1

tuần tuổi có tỉ lệ chết cao, ỉa chảy, lợn con trên 1 tuần tuổi có khối lượng cơ thể

51

thấp (kể cả khi cai sữa), giảm thấp số lợn con /nái/năm.

Nói chung, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên

cứu của các tác giả nêu trên. Chính vì thế, có thể dựa vào các biểu hiện lâm sàng

điển hình sau đây để bước đầu chẩn đoán về hội chứng MMA trên lợn nái sau đẻ:

* Triệu chứng toàn thân: sốt cao, mệt mỏi ủ rũ, bỏ hoặc biếng ăn…

* Triệu chứng cục bộ: có dịch viêm tử cung chảy ra, vú sưng, nóng, đỏ,

đau, lợn mẹ nằm sấp và không cho con bú…

3.2. Tình hình mắc hội chứng MMA trên đàn lợn nái tại các trang trại

nghiên cứu

Để đánh giá mức độ lưu hành của hội chứng MMA, dựa vào những biểu

hiện lâm sàng ở lợn nái sau khi đẻ 12 - 72 giờ gồm: sốt, tử cung tiết nhiều dịch viêm

(viêm tử cung); vú sưng, nóng, đỏ, đau (viêm vú); sữa giảm hay mất sữa. Chúng tôi

đã tiến hành xác định tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở lợn nái nuôi tại một số trang trại

thuộc các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Kết quả được

trình bày ở bảng 3.2.

Bảng 3.2. Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA tại các địa phương

Địa phương nghiên cứu

Hà Tính Hải Hưng Bắc Chỉ tiêu Yên Ninh chung Nội Dương

1.895 1.465 1.396 2.758 7.514 Số nái điều tra (con)

Số nái mắc hội chứng MMA (con) 865 766 565 1.447 3.643

Tỷ lệ mắc hội chứng MMA (%) 52,28 40,46 52,46 48,48 45,64

Số nái viêm tử cung + viêm vú (con) 460 307 242 628 1.637

Tỷ lệ viêm tử cung + viêm vú (%) 24,27 21,02 17,36 22,8 21,79

Số nái viêm tử cung + mất sữa (con) 329 404 281 584 1.598

Tỷ lệ viêm tử cung + mất sữa (%) 17,36 27,57 20,15 21,20 21,27

Số nái mắc MMA thể điển hình (con) 76 55 42 235 408

Tỷ lệ mắc MMA thể điển hình (%) 4,01 3,75 3,01 8,50 5,43

52

Tỷ lệ lợn lưu hành hội chứng MMA ở bảng 3.2 trung bình là 48,48% cho

chúng ta thấy: cứ 100 lợn nái sinh sản được theo dõi thì có tới gần 50 lợn mắc

hội chứng MMA, cụ thể: trong số 7.514 nái theo dõi, có 1.637 nái viêm tử cung

kèm viêm vú, chiếm 21,79%; số nái viêm tử cung kèm mất sữa là 1.598 con,

chiếm 21,27%; số nái mắc thể điển hình (viêm tử cung, viêm vú, mất sữa) là 408

con, chiếm 5,43%. So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Như Pho (2002)

tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA từ 40 đến 60%; kết quả nghiên cứu của

Raszyk et al. (1979) tỷ lệ lưu hành bệnh từ 20 đến 50%, thì tỷ lệ mắc hội chứng

MMA tại các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng là phù hợp và thống nhất.

Theo chúng tôi, nguyên nhân dẫn đến lợn nái mắc hội chứng MMA với tỷ

lệ khá cao là do:

- Công tác vệ sinh sàn chuồng, vệ sinh nái đẻ và kỹ thuật đỡ đẻ không

đảm bảo: chưa thực hiện đúng quy trình vệ sinh trước và sau đẻ, đặc biệt là thao

tác đỡ đẻ và vệ sinh bầu vú chưa phù hợp;

- Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh;

- Cơ cấu đàn nái của các trang trại: số nái đẻ nhiều lứa (từ lứa thứ 8 trở đi)

còn nhiều do tận dụng khai thác;

- Chế độ dinh dưỡng không hợp lý;

3.3. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA

Có nhiều yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA như tuổi (lứa

đẻ), mùa vụ, giống… để hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội chứng

MMA ở lợn nái, giúp người chăn nuôi có biện pháp ngăn ngừa phù hợp. Chúng

tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của số lứa đẻ đến tỷ lệ mắc hội chứng

MMA ở lợn nái. Kết quả được trình bảy tại bảng 3.3.

Số lứa đẻ có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA (bảng 3.3).

Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA cao ở những lợn đẻ lứa đầu và những lợn đẻ

nhiều lứa. Cụ thể ở lứa đầu là 51,35%, tỷ lệ mắc giảm ở lứa thứ 2, thứ 3, sau đó

tăng dần từ lứa thứ năm trở đi, tỷ lệ mắc tăng lên tới 54,11%. Kết quả này phù

53

hợp với nghiên cứu của Trịnh Đình Thâu và cs. (2010). Theo các tác giả, những

nái đẻ lứa đầu, khớp bán động háng mới mở lần đầu nên lợn khó đẻ. Công nhân

phải dùng tay và dụng cụ trợ sản để can thiệp, dẫn đến làm trầy xước niêm mạc

tử cung và gây viêm, đồng thời là cơ hội để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung, sau

đó vào máu gây nhiễm trùng máu kế phát, gây viêm vú và mất sữa.

Bảng 3.3. Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ

Số lợn theo Số mắc MMA Tỷ lệ mắc MMA Xác suất Lứa đẻ dõi (con) (con) (P)

1 1.256 645

2 1.176 484

3 1.201 515

4 1.112 500 < 0,01

5 1.344 728

6 1.423 770 (%) 51,35a 41,16b 42,88b 44,96b 54,17a 54,11a

Tổng số 7.512 3.642 48,48

(Ghi chú: Trong cùng một cột sự sai khác giữa các giá trị có một chữ cái

giống nhau là không có ý nghĩa).

Điều đáng lưu ý là ngay lứa đẻ đầu, tỉ lệ lợn mắc hội chứng MMA đã khá

cao. Theo Lallemand Animal Nutrition (2012), sự phóng thích nội độc tố của vi

khuẩn trong đường sinh dục và đường ruột lợn mẹ góp phần tăng cường tác hại của

hội chứng MMA. Có mối tương quan rõ rệt giữa hàm lượng nội độc tố trong sữa

đầu với các triệu chứng lâm sàng của hội chứng MMA (lợn mẹ sốt và lợn con ỉa

chảy), đó là do sự chuyển tải nội độc tố từ lợn mẹ sang lợn con qua sữa đầu. Đồng

thời cũng có tương quan thuận giữa nội độc tố huyết tương với nội độc tố trong sữa

đầu (r = 0,35; p = 0,004). Hiện tượng ỉa chảy ở lợn con là phổ biến ở những trại có

MMA, nhất là ở những lợn mẹ đẻ lứa 1 và lứa 2.

Baer and Bilkei (2005), khi nghiên cứu vấn đề này cho rằng lợn đẻ

nhiều lứa dễ mắc hội chứng MMA. Khi siêu âm tuyến vú, sẽ có nhiều hình

ảnh “tạo dội cao” (hyperechologic image) và có nhiều biến đổi đại thể ở

tuyến vú hơn so với lợn đẻ lứa 1 và lứa 2 (P < 0,01).

54

Đối với đàn nái đẻ nhiều lứa thì sức khoẻ và sức đề kháng giảm sút, sức

rặn đẻ yếu, sự co bóp của tử cung giảm, không đủ cường độ để đẩy thai cũng như

các sản dịch ra ngoài, dẫn đến sát nhau và kế phát viêm tử cung, viêm vú, mất

sữa. Nhau thai còn tồn trong tử cung gây tiết Folliculin ngăn trở sự phân tiết

Prolactin làm cho tuyến vú không sinh sữa dẫn đến viêm vú. Mặt khác thời gian

phục hồi của tử cung chậm, thời gian đóng kín cổ tử cung dài hơn, là cơ hội cho

vi khuẩn xâm nhập và gây viêm.

3.4. Ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA

Hội chứng MMA do nhiều nguyên nhân gây nên trong đó nguyên nhân

chính do các loại vi khuẩn và điều kiện thời tiết khí hậu có ảnh hưởng lớn tới sự

tồn tại, phát sinh, phát triển và gây bệnh của các loại vi khuẩn.

Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, thời tiết khí hậu được chia làm

bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông do đó cũng giống như các bệnh nhiễm trùng

khác, thời tiết, khí hậu từng mùa cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA.

Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ đến tỷ lệ mắc MMA

tại các trang trại. Kết quả được trình bày tại bảng số 3.4.

Bảng 3.4. Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA qua các mùa trong năm

Số lợn theo dõi Số lợn mắc Tỷ lệ Xác suất Mùa MMA (con) (%) (P) (con)

Xuân 1.757 901 51,28a

Hạ 1.864 995 53,37a

Thu 1.954 854 43,70b < 0,01

Đông 1.937 892 46,05b

Tổng số 7.512 3.642 48,48

(Ghi chú: Trong cùng một cột, sự sai khác giữa các giá trị có một chữ cái

giống nhau là không có ý nghĩa).

Yếu tố thời tiết, mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA.

Cụ thể tại bảng 3.4: mùa hạ có tỷ lệ mắc cao nhất 53,37%, tiếp theo là mùa xuân

55

51,28%, mùa đông 46,05%, mùa thu có tỷ lệ mắc thấp nhất 43,70%. Theo chúng

tôi sự khác nhau về tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở đàn lợn nái là do ảnh hưởng của

sự biến đổi các chỉ tiêu về thời tiết khí hậu của các mùa khác nhau.

Mùa hè, nhiệt độ chuồng đẻ cao, vào những buổi trưa có khi lên tới 360C - 380C. Nhiệt độ này vượt xa so với nhiệt độ thích hợp cho lợn nái là 260C - 280C. Nếu trong chuồng đẻ không có biện pháp điều chỉnh thích hợp thì

nhiệt độ còn cao hơn, làm cho lợn nái mệt mỏi, khả năng thu nhận thức ăn giảm, sức

khoẻ và sức đề kháng giảm nên tỷ lệ mắc bệnh tăng cao. Mặt khác, nhiệt độ cao còn

là điều kiện thúc đẩy nhanh sự phân huỷ các sản phẩm của quá trình đẻ, là môi

trường thuận lợn cho vi khuẩn có sẵn trong tử cung phát triển nhanh về số lượng và

độc lực gây viêm tử cung dẫn đến nhiễm trùng huyết, gây viêm vú và mất sữa. Mùa

xuân, do độ ẩm không khí cao, việc vệ sinh chuồng trại kém là điều kiện thuận lợi

cho mầm bệnh phát triển và gây bệnh. Mùa thu và mùa đông nhiệt độ môi trường

thấp, khí hậu mát mẻ con vật thu nhận thức ăn tốt, sức khoẻ và sức đề kháng được

tăng cường nên tỷ lệ mắc hội chứng MMA giảm.

Backstrom et al. (1984) nghiên cứu 16.405 lượt đẻ của lợn trên 31 đàn nái

sinh sản ở bang Illinois (Mỹ), cho thấy hội chứng MMA xảy ra nhiều nhất

(10,3%) vào quý III hàng năm vì thời tiết không thuận lợi cho sức khỏe lợn;

Masalmeh et al. (1990) cho biết mùa vụ ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ mắc hội

chứng MMA.

Ringarp (1960), cho biết yếu tố mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội

chứng mất sữa sau đẻ ở lợn nái, cụ thể: tỷ lệ mắc thấp nhất vào tháng giêng và

tháng hai, tỷ lệ mắc cao nhất vào tháng tư hàng năm.

3.5. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái

Lợn mắc hội chứng MMA làm kéo dài thời gian động dục, tỷ lệ động dục

thấp (do ảnh hưởng của viêm tử cung). Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của hội

chứng MMA đối với các chỉ tiêu sinh sản. Chúng tôi tiến hành theo dõi một số

chỉ tiêu năng suất sinh sản của nhóm lợn mắc hội chứng MMA và của nhóm lợn

bình thường. Kết quả được trình bày tại bảng 3.5a.

56

Bảng 3.5a. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến một số chỉ tiêu sinh sản

ở lợn nái

Nhóm lợn nghiên cứu Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày) Địa điểm nghiên cứu Tỷ lệ thụ thai (%) Số thụ thai (con) Số lợn nái theo dõi (con) Tỷ lệ động dục lại (%)

96,00 115 100 120 Không mắc MMA Hà Nội 85,00 162 81,00 Mắc MMA 200

100 138 98,50 Không mắc MMA 140 Hưng Yên 88,00 162 92,00 Mắc MMA 200

100 143 98,60 Không mắc MMA 145 Hải Dương 87,00 198 93,00 Mắc MMA 245

100 148 98,70 Không mắc MMA 150 Bắc Ninh Số động dục lại (con) ( X ± SD) 5,39b±1,18 115 6,20a±1,31 170 5,37b±0,80 140 6,12a±0,87 176 5,24b±0,93 145 6,32a ±1,16 213 5,28b±0,68 150 6,29a±1,30 221 90,00 201 91,00 Mắc MMA 245

Thông thường, lợn nái động dục lại sau cai sữa từ 4 đến 6 ngày. Tuy nhiên,

theo nghiên cứu của chúng tôi: thời gian động dục lại sau cai sữa ở nhóm lợn mắc

hội chứng MMA dài hơn so với nhóm lợn không mắc hội chứng MMA tới hơn 1

ngày. Tỷ lệ động dục lại và tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ của nhóm lợn nái mắc hội

chứng MMA thấp hơn ở nhóm lợn bình thường (bảng 3.5a). Như vậy, theo chúng tôi

khi lợn mắc hội chứng MMA làm kéo dài thời gian động dục lại, giảm khả năng thụ

thai, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù

hợp với công bố của Hoy (2004) khi nghiên cứu ảnh hưởng của hội chứng MMA đến

năng suất sinh sản của lợn nái trong 09 năm (1995 - 2003) và đây là nguyên nhân làm

số lứa đẻ/nái/năm giảm, kéo theo giảm số con/nái/năm, tăng giá thành sản xuất lợn

con do phải tăng chi phí thức ăn, thuốc thú y và tăng ngày công lao động.

Cùng với việc so sánh tỷ lệ động dục lại, tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ ở

nhóm lợn mắc hội chứng MMA và nhóm lợn bình thường, chúng tôi tiếp tục theo

dõi các chỉ tiêu liên quan đến năng suất sinh sản của lợn như: số lợn con sinh

ra/ổ, số lợn con cai sữa/ổ, trọng lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi… Kết quả được

trình bày tại bảng 3.5b

57

Bảng 3.5b. Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái

Trọng lượng lợn Bình quân số Số lợn Bình quân Số lợn con Số lợn nái Địa điểm con 21 ngày tuổi con lợn con sinh ra Nhóm lợn nghiên theo dõi nghiên cai sữa số lợn cai (kg/con) sinh ra còn sống sau 24 cứu (con) (con) cứu sữa/ổ (con) (con) giờ/ổ (con) ( X ± SD)

1.374 11,21 1.263 10,98 Không mắc MMA 120 6,75a±0,15 Hà Nội 2.157 10,5 1.636 10,10 5,37b±0,17 Mắc MMA 200

5 8

1.645 11,09 1.511 10,95 Không mắc MMA 140 6,36b±0,11 Hưng Yên 2.130 10,35 1.596 9,85 5,33a±0,18 Mắc MMA 200

1.680 11,25 1.567 10,96 6,57b±0,14 Không mắc MMA 145 Hải

2.520 10,25 Dương 1.940 9,80 5,48a±0,13 Mắc MMA 245

1.746 11,6 1.672 11,30 6,32a±0,16 Không mắc MMA 150 Bắc Ninh 2.535 10,26 1.829 9,10 5,38b±0,14 Mắc MMA 245

*Ghi chú: Trong cùng 1 cột, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau là khác nhau có ý nghĩa thống kê (P < 0,01)

Kết quả ở bảng 3.5b cho thấy: số lợn con sinh ra còn sống sau 24 giờ/ổ và

trọng lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi của những lợn nái mắc hội chứng MMA thấp

hơn so với các chỉ tiêu này của lợn nái không mắc hội chứng MMA (bảng 3.5b).

Với lợn con sơ sinh, 3 ngày đầu sau khi sinh là thời kỳ quan trọng nhất cho

sự sống của lợn. Do dự trữ glucogen trong cơ thể lợn sơ sinh rất thấp và quá trình

sản sinh glucogen không đủ, sự giảm đường huyết có thể làm cho lợn con giảm

nhanh glucose do bú sữa đầu không đủ nên lợn con chết vì đói và thiếu đường huyết.

Bên cạnh đó còn do sự chuyển hóa không đủ những yếu tố miễn dịch từ mẹ sang

con (Sujatha et al., 2003; dẫn từ Gerjets, 2011).

Theo Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng (2006), bình quân số lợn con

cai sữa/ổ là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng suất sinh sản

của lợn nái. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi: Khối lượng lợn con lúc 21

ngày tuổi, bình quân số lợn con cai sữa/ổ ở lợn nái bình thường cao hơn so với

lợn nái mắc hội chứng MMA, điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ chết của lợn con

sau cai sữa ở lợn mắc hội chứng MMA cao hơn, lợn con sau cai sữa dễ mắc các

bệnh truyền nhiễm, kéo dài thời gian nuôi thịt, giảm lợi nhuận chăn nuôi.

Những tổn thất do hội chứng MMA gây ra được các tác giả nêu lên gồm:

- Với lợn mẹ: kéo dài thời gian động dục lại sau đẻ, giảm tỷ lệ thụ thai,

giảm số lợn con sinh ra trong ổ, sẩy thai, giảm số lứa đẻ trong năm, giảm sản

lượng và chất lượng sữa… Hậu quả là giảm khả năng sinh sản của lợn nái ở các

chu kỳ sinh sản tiếp theo.

- Với lợn con: tăng tỉ lệ tiêu chảy của lợn con theo mẹ (do số lượng và

chất lượng sữa mẹ giảm hoặc biến chất), lợn con còi cọc, bú được ít sữa đầu, tăng

trọng thấp, tăng tỷ lệ chết… dẫn đến giảm số đầu lợn con do lợn mẹ sản xuất ra

trong năm.

- Tăng giá thành chăn nuôi, giảm hiệu quả kinh tế.

(Nguyễn Thị Hương, 2010; Preibler and Kemper, 2011; Svendsen, 1992;

Công ty Nhân Lộc, 2011; Nguyễn Thị Hồng, 2007).

Kết quả của chúng tôi phù hợp với các công trình của các tác giả nêu trên.

59

3.6. Kết quả kiểm tra huyết cầu và huyết sắc tố của lợn mắc hội chứng MMA

Ở trạng thái sinh lý, máu của động vật có những chỉ tiêu ổn định. Khi

động vật bị bệnh thì tính chất, thành phần của máu có những thay đổi tương ứng

và đặc hiệu, thông qua những chỉ tiêu này chúng ta có thể chẩn đoán được bệnh.

Vì vậy, xét nghiệm máu là một trong những xét nghiệm cơ bản để đánh giá tình

trạng sức khỏe con vật, giúp cho việc chẩn đoán bệnh được thuận lợi. Chúng tôi

kiểm tra một số chỉ tiêu sinh lý máu ở lợn nái mắc hội chứng MMA, so sánh với

các chỉ tiêu này ở lợn nái bình thường (bảng 3.6).

Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu huyết học của lợn nái mắc hội

chứng MMA và lợn nái bình thường

Xác Nhóm lợn nái Nhóm lợn nái

mắc hội chứng bình thường xuất Chỉ tiêu theo dõi MMA (n = 50) (n = 50) (P)

xmX± 6,20 ± 0,13

xmX± 5,57 ± 0,46

Số lượng hồng cầu (triệu/mm3)

Hàm lượng Hb (g%) 12,11 ± 0,25 9,08 ± 1,04

40,73 ± 0,43 35,75 ± 0,45

< 0,05 67,06 ± 0,38 63,46 ± 0,37 Tỷ khối huyết cầu (%) Thể tích hồng cầu (µm3)

Nồng độ huyết sắc tố (%) 30,11 ± 0,37 28,05 ± 0,13

Lượng huyết sắc tố trong một hồng 20,30 ± 0,16 18,19 ± 0,10 cầu (Pg)

Kết quả theo dõi các chỉ số liên quan đến huyết cầu và huyết sắc tố như

số lượng hồng cầu; hàm lượng hemoglobin (Hb); tỷ khối huyết cầu; thể tích

hồng cầu; nồng độ huyết sắc tố; lượng huyết sắc tố trong một hồng cầu... của 50

lợn nái mắc hội chứng MMA đã được tổng hợp và so sánh với các chỉ số này

của 50 lợn nái bình thường cho thấy: biến động các chỉ tiêu theo dõi có sự sai

khác rõ rệt giữa hai nhóm lợn nái nghiên cứu (P < 0,05) (bảng 3.6). Số lượng

hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố, tỷ khối huyết cầu, thể tích hồng cầu, nồng độ

huyết sắc tố và lượng huyết sắc tố trong một hồng cầu của lợn nái mắc hội

60

chứng MMA đều cao hơn so với các chỉ tiêu này của lợn nái bình thường. Cụ

thể, số lượng hồng cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA là 6,20 ± 0,13 triệu/mm3, của lợn nái bình thường là 5,57 ± 0,46 triệu/mm3. Số lượng hồng cầu

của lợn mắc hội chứng MMA cao hơn số lượng hồng cầu của lợn bình thường

có thể do độc tố của vi khuẩn và các sản phẩm của quá trình viêm làm tăng nhu

cầu oxy của các mô bào, kích thích thận sản sinh Erythropoietin thúc đẩy tủy

xương sản sinh và tăng cường tuần hoàn hồng cầu nhằm đáp ứng yêu cầu vận

chuyển oxy của cơ thể. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với dẫn liệu của

Sjaastad et al. (2010).

Hàm lượng huyết sắc tố của lợn mắc hội chứng MMA là 12,11 ± 0,25g%,

cao hơn hàm lượng huyết sắc tố của lợn bình thường (9,08 ± 1,04g%). Hb tăng

có tác dụng tăng vận chuyển oxy, cacbonic và điều hòa độ pH của máu. Hàm

lượng hemoglobin tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu trong máu. Theo Nguyễn

Đức Hưng (2008), số lượng hồng cầu tăng trong một số trường hợp như: lao

động nặng, mất nước, ở độ cao trên 700 m so với mặt nước biển... So sánh với

dẫn liệu trên thì khi lợn nái mắc hội chứng MMA có số lượng hồng cầu tăng, do

đó hàm lượng huyết sắc tố cũng tăng so với hàm lượng huyết sắc tố của lợn nái

bình thường.

Tương tự các chỉ số khác như tỷ khối huyết cầu, thể tích hồng cầu, nồng

độ huyết sắc tố và lượng huyết sắc tố có trong một hồng cầu của lợn nái mắc hội

chứng MMA (lần lượt là 40,73 ± 0,43%, 67,06 ± 0,38 µm3, 30,11 ± 0,37% và

20,30 ± 0,16 Pg) đều cao hơn các chỉ tiêu này của lợn bình thường (lần lượt là

35,75 ± 0,45%; 63,46 ± 0,37 µm3; 28,05 ± 0,13% và 18,19 ± 0,10 Pg).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn logic về mối tương quan giữa

các chỉ tiêu và thống nhất với kết quả nghiên cứu của Ognean et al. (2010) khi

nghiên cứu biến động các huyết đồ và một số chỉ tiêu sinh hóa máu của lợn nái

trong tuần đầu sau khi đẻ.

61

3.7. Số lượng và công thức bạch cầu của lợn nái mắc hội chứng MMA

Cùng với việc kiểm tra các chỉ số huyết cầu, các chỉ số bạch cầu cũng

được xác định. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt về số lượng bạch cầu

và tỷ lệ các loại bạch cầu của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường (P <

0,05). Trong đó, lợn nái mắc hội chứng MMA có tổng số bạch cầu và tỷ lệ bạch

cầu trung tính cao hơn so với lợn bình thường (P < 0,05) (lần lượt là 23,16 ± 0,62 nghìn/mm3 và 48,17 ± 0,76% của lợn nái mắc hội chứng MMA so với 17,05 ± 0,43 nghìn/mm3 và 41,18 ± 1,39% của lợn nái bình thường). Theo Chu Đức

Thắng và Phạm Ngọc Thạch (2008), công thức bạch cầu thay đổi do một số yếu

tố, nếu mắc các bệnh nhiễm trùng thì bạch cầu trung tính tăng lên đột ngột. Như

vậy, theo chúng tôi, lợn mắc hội chứng MMA, do quá trình viêm đã gây phản

ứng kích thích cơ thể tăng cường miễn dịch, tăng cường đề kháng thông qua việc

tăng số lượng bạch cầu, đặc biệt bạch cầu có khả năng thực bào, đảm nhận chức

năng miễn dịch không đặc hiệu như bạch cầu trung tính. Còn lại, tỷ lệ các loại

bạch cầu ái toan, bạch cầu đơn nhân lớn và lâm ba cầu của lợn mắc hội chứng

MMA đều thấp hơn so với các tỷ lệ này của lợn nái bình thường (P < 0,05).

Bảng 3.7. Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu ở lợn nái mắc hội chứng

MMA và lợn nái bình thường

Công thức bạch cầu (%) Đối tượng Lâm ba Bạch cầu Bạch cầu Bạch cầu BC Đơn nghiên cứu Số lượng BC (nghìn/mm3) ái toan trung tính ái kiềm nhân lớn cầu

Lợn nái bình thường 17,05±0,43 4,11±0,58 4,20±0,07 41,18±1,39 6,13±0,96 48,16±0,87 (n = 50)

xmX ± Lợn mắc hội chứng MMA (n=50)

xmX±

23,16 ± 0,62 2,02±0,17 3,02±0,05 48,17±0,76 4,07±0,20 44,33±1,66

Xác xuất (P) P < 0,05

62

Như vậy, số lượng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu trong máu lợn bình thường

nằm trong khoảng dao động sinh lý của lợn nái ở tuần đẻ thứ nhất. Kết quả này

phù hợp với kết quả nghiên cứu của Ognean et al. (2010) khi nghiên cứu số

lượng và công thức bạch cầu của lợn nái. Tuy nhiên, số lượng bạch cầu và tỷ lệ

bạch cầu của lợn mắc hội chứng MMA đã có sự biến động và khác biệt rõ rệt so

với chỉ số này ở lợn nái bình thường.

3.8. Kết quả kiểm tra hàm lượng protein tổng số, các tiểu phần protein

huyết thanh của lợn nái mắc hội chứng MMA và của lợn nái bình thường

Bình thường, các thành phần hóa học trong máu động vật luôn ổn định.

Trong trạng thái bệnh lý, nhất là những trường hợp rối loạn chức năng các cơ quan

như gan, thận… dẫn đến sự thay đổi thành phần hóa học của máu. Do đó những

xét nghiệm sinh hóa máu giúp cho việc chẩn đoán và theo dõi diễn biến của bệnh.

Cùng với việc theo dõi các biểu hiện lâm sàng và các chỉ tiêu sinh lý máu, chúng

tôi kiểm tra các chỉ tiêu sinh hóa máu ở lợn nái. Kết quả định lượng protein tổng

số, Albumin huyết thanh và các tiểu phần protein huyết thanh của 50 lợn nái mắc

hội chứng MMA và 50 lợn nái bình thường (bảng 3.8).

Bảng 3.8. Kết quả kiểm tra hàm lượng protein huyết thanh

của lợn mắc hội chứng MMA và lợn bình thường

Chỉ tiêu nghiên cứu (g%) Đối tượng Protein Albumin α- β- γ- nghiên cứu Globulin Globulin Globulin tổng số huyết thanh

Lợn nái bình thường 7,48±0,47 3,47±0,33 2,41± 0,23 1,62±0,29 0,68±0,15 (n = 50)

P < 0,05

Lợn nái mắc MMA 5,87±0,42 1,21±0,49 3,04±0,12 0,81±0,23 1,12±0,13 (n = 50)

Xác xuất (P)

Hàm lượng protein tổng số, β - Globulin và albumin trong huyết thanh

của lợn nái bình thường cao hơn so với các thành phần này trong huyết thanh

của lợn nái mắc hội chứng MMA (P < 0,05). Cụ thể, hàm lượng protein tổng

63

số, β - Globulin và albumin trong huyết thanh lợn nái bình thường lần lượt là

7,48 ± 0,47 g%, 1,62 ± 0,29 g% và 3,47 ± 0,33 g%, thì trong huyết thanh lợn

mắc hội chứng MMA lần lượt chỉ là 5,87 ± 0,42 g%, 0,81 ± 0,23 g% và 1,21 ±

0,49 g% (bảng 3.8). Theo Hồ Văn Nam và cs. (1997), protein của lợn bình

thường trung bình là 7,35 g% thì kết quả kiểm tra protein tổng số của lợn nái

bình thường trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong khoảng sinh lý. Theo

chúng tôi, sở dĩ hàm lượng protein tổng số, β - Globulin và albumin trong huyết

thanh của lợn mắc hội chứng MMA thấp hơn so với các thành phần này trong

huyết thanh của lợn bình thường có thể là do lợn mắc hội chứng MMA có những

phản ứng viêm, sốt kèm theo giảm ăn, giảm hiệu quả tiêu hoá, giảm khả năng

hấp thu và ảnh hưởng gián tiếp đến chức năng gan nên khả năng tổng hợp

albumin kém hơn so với lợn bình thường (Sjaastad et al., 2010). Như vậy, ở lợn

mắc hội chứng MMA, cùng với các triệu chứng mệt mỏi, kém ăn, sốt, tăng tiết

dịch rỉ viêm, các vi khuẩn và độc tố của chúng tác động làm tổn thương tế bào

gan làm cho lượng protein tổng số và albumin huyết thanh giảm.

Hàm lượng các tiểu phần protein như α - Globulin và γ - Globulin trong

huyết thanh của lợn nái mắc hội chứng MMA đều tăng so với các tiểu phần

này của lợn nái bình thường. Cụ thể, ở lợn mắc hội chứng MMA hàm lượng α

- Globulin và γ - Globulin lần lượt là 3,04 ± 0,12 g%, 1,12 ± 0,13 g% còn hàm

lượng các tiểu phần này trong huyết thanh của lợn nái bình thường lần lượt là

2,41 ± 0,23 g% và 0,68 ± 0,15 g%. Các tiểu phần globulin trong huyết thanh

đảm nhận những chức năng khác nhau, trong khi α và β - Globulin đảm nhận

chức năng vận chuyển cholesteron, hormone nhóm steroid thì γ - Globulin

ngoài việc đảm nhận chức năng miễn dịch, tạo đề kháng cho cơ thể còn tham

gia vào quá trình đông máu (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996). Theo Tạ Thị

Vịnh (1991), khi bị nhiễm khuẩn, quá trình viêm diễn ra thì γ - Globulin tăng

lên nhằm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể. Như vậy, theo chúng tôi

khi lợn mắc hội chứng MMA, quá trình viêm diễn ra làm tăng γ - Globulin

nhằm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể là phù hợp với dẫn liệu trên.

64

3.9. Hàm lượng đường huyết và hoạt độ của enzyme GOT, GPT trong máu

lợn mắc hội chứng MMA

Hàm lượng đường huyết phản ánh tình trạng sức khỏe của động vật.

Nhờ một loạt các điều tiết sinh lý, sinh hóa của tuyến tụy qua Insulin, của

tuyến thượng thận qua Adrenalin và hoạt động của gan mà nồng độ glucose

trong máu được ổn định. Vì vậy, khi gan bị tổn thương thì nồng độ glucose

trong máu cũng thay đổi. Trong các quá trình trao đổi chất, đặc biệt trao đổi

đường trong cơ thể được diễn ra khi có sự tham gia của các enzym, trong đó

enzym transaminase (có trong tế bào gan, thận, cơ vân...) đóng vai trò rất quan

trọng. Phổ biến và quan trọng nhất là enzym Glutamate Oxalat Transaminase

(GOT) và Glutamate Pyruvat Transaminase (GPT) (Hồ Văn Nam và cs., 1997;

Sjaastad et al., 2010). Với mục đích đánh giá ảnh hưởng của hội chứng MMA

đến hàm lượng đường, hoạt độ men GOT và GPT, nghiên cứu này đã tiến

hành định lượng hàm lượng đường, hoạt độ enzym GOT và GPT trong máu

của lợn mắc hội chứng MMA và của lợn bình thường. Kết quả nghiên cứu

được chúng tôi tổng hợp ở bảng 3.9.

Bảng 3.9. Hàm lượng đường huyết và hoạt độ men sGOT, sGPT ở lợn nái

mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường

Lợn nái Lợn nái

xmX±

xmX±

bình thường mắc MMA Xác Chỉ tiêu theo dõi (n = 20) (n = 12) xuất (P)

Hàm lượng đường huyết (mmol/L) 5,15±0,53 3,35±0,16

sGOT (U/l) 37,05±1,23 68,70±1,12 P < 0,05

sGPT (U/l) 36,90±1,72 49,15±1,22

Như vậy, hàm lượng đường trong máu của lợn nái mắc hội chứng

MMA thấp hơn hàm lượng đường trong máu của lợn bình thường (3,35 ±

0,16mmol/L ở lợn nái mắc hội chứng MMA so với 5,15 ± 0,53mmol/L ở lợn nái

65

bình thường) (P < 0,05). Điều này cho thấy khi lợn mắc hội chứng MMA, vi

khuẩn xâm nhập, độc tố của vi khuẩn và sản phẩm của quá trình viêm làm cho

lợn sốt, kém ăn hoặc bỏ ăn, ít vận động... Quá trình tiêu hóa, hấp thu thức ăn

kém dẫn đến nguồn cung cấp ngoại sinh không đủ, ngoài ra khi lợn sốt cũng

làm tiêu hao năng lượng do sự tăng cường khai thác năng lượng từ việc oxy

hóa glucose dẫn đến hàm lượng đường huyết giảm.

Ngược lại, hoạt độ của enzym GOT và GPT trong máu của lợn mắc hội

chứng MMA cao hơn trong máu lợn bình thường với độ tin cậy P < 0,05. Cụ thể

hoạt độ enzym GOT và GPT trong máu lợn mắc hội chứng MMA lần lượt là 68,70

± 1,12 U/l và 49,15 ± 1,22 U/l so với của lợn bình thường là 37,05 ± 1,23 và 36,90 ±

1,72. Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của Raszyk et al. (1979).

3.10. Kết quả phân lập, giám định vi khuẩn trong sữa lợn mắc hội chứng MMA

Hội chứng MMA do nhiều nguyên nhân liên quan đến các triệu chứng lâm

sàng, trong đó viêm vú là biểu hiện nổi bật (Heinritzi and Hagn, 1999; Ross et

al., 1981; Wegmann et al., 1986) và nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn gây ra.

Để xác định những loài vi khuẩn chính gây viêm vú lợn trong hội chứng MMA

cũng như biết được sự mẫn cảm của chúng với kháng sinh để làm cơ sở đưa ra

những khuyến cáo thích hợp cho việc điều trị, chúng tôi lấy mẫu sữa từ những

lợn mắc hội chứng MMA để phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ. Theo đó,

86 mẫu sữa được lấy từ những lợn nái mắc hội chứng MMA (lợn nái được xác

định mắc hội chứng MMA khi có các biểu hiện sau: sốt, ăn ít hoặc bỏ ăn, tránh

cho con bú, có dịch viêm tử cung, vú sưng, giảm sữa hoặc mất sữa, lợn con tiêu

chảy và chết với tỷ lệ cao) và 37 mẫu sữa được lấy từ những lợn nái bình thường

trong cùng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc để phân lập vi khuẩn và sau đó xác

định tính mẫn cảm của các loại kháng sinh với vi khuẩn phân lập được. Kết quả

được trình bày tại bảng 3.10.

Trong 86 mẫu sữa của lợn mắc hội chứng MMA và 37 mẫu sữa của lợn

bình thường đều thấy xuất hiện ba loài vi khuẩn hiếu khí: E. coli, Staphylococcus

spp, Streptococcus spp (bảng 3.10). Tuy nhiên, cả mẫu sữa lợn mắc hội chứng

MMA và mẫu sưa lợn bình thường, chúng tôi đều không tìm thấy sự xuất hiện

66

của hai loài vi khuẩn: Salmonella spp và Pseudomonas spp Trong số ba loài vi

khuẩn hiếu khí trên thì tần xuất xuất hiện của chúng trong các mẫu sữa lợn mắc

hội chứng MMA đều cao hơn. Cụ thể tỷ lệ mẫu sữa của lợn mắc hội chứng

MMA xuất hiện Staphylococcus spp là 62,8%, trong mẫu sữa lợn bình thường là

35,1% (gấp 1,79 lần). Còn với Streptococcus spp cũng có tỷ lệ xuất hiện là

19,7% cao hơn so với mẫu sữa của lợn bình thường (chiếm 16,2%). Với vi khuẩn

E. coli phân lập được từ sữa lợn bình thường là 25/37 mẫu, chiếm 67,57% thấp

hơn so với E. coli phân lập được từ sữa lợn mắc hội chứng MMA là 62/86 mẫu

chiếm 72,1%. Sự sai khác về tỷ lệ xuất hiện các loài vi khuẩn này trong mẫu sữa

phân tích có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.10. Số loài vi khuẩn trong sữa lợn nái mắc hội chứng MMA

và lợn nái bình thường

Mẫu sữa lợn Mẫu sữa lợn Đối tượng mắc hội chứng MMA bình thường

Số mẫu Số mẫu Số mẫu Số mẫu Tỷ lệ Tỷ lệ kiểm dương kiểm dương Vi khuẩn (%) (%) tra tính tra tính

E. coli 72,1 67,57 37 25 86 62

Staphylococcus spp 62,8 35,1 37 13 86 54

Streptococcus spp 19,7 16,2 37 6 86 17

Salmonella spp 0 0 37 0 86 0

Pseudomonas spp 0 0 37 0 86 0

Số lượng các vi khuẩn phân lập được trong mẫu sữa lợn mắc hội chứng

MMA trong nghiên cứu của Kemper and Gerjets (2009) như sau: E. coli: 38,9%,

Staphylococcus spp: 14,8%, Enterococcus spp: 33,3%, Klebsiella spp: 3,7%, tác

giả cho biết không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về số lượng vi khuẩn

phân lập được từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA và mẫu sữa lợn bình thường.

Đồng thời tác giả cũng cho biết có một tỷ lệ lớn vi khuẩn E. coli trong sữa bị

nhiễm từ phân, từ dịch tiết tử cung của lợn nái.

67

Theo Kemper et al. (2013), nguyên nhân gây viêm vú ở lợn nái đã được

thảo luận trong nhiều nghiên cứu, theo đó nhiều loại vi khuẩn đã được phân lập

trong sữa của cả lợn viêm vú và lợn bình thường, hầu hết trong số đó là vi khuẩn

thuộc họ Enterobacteriaceae, Staphylococcaceae, Streptococcaceae và

Enterococcaceae. Theo tác giả, sự có mặt của các vi khuẩn này có nguồn gốc từ

phân, từ đường tiết niệu nhiễm khuẩn và có thể được coi là có mặt khắp nơi trong

môi trường chăn nuôi. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có một số lợn nái có biểu hiện lâm

sàng của viêm vú. Như vậy các yếu tố nguy cơ làm cho lợn dễ mắc bệnh gồm: chế

độ dinh dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi và đặc biệt là điều kiện vệ sinh chuồng đẻ.

Ngoài ra, theo Preißler et al. (2012) yếu tố sức đề kháng của giống lợn chiếm 9%

các yếu tố rủi ro này.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Kemper et

al. (2013) khi nghiên cứu về thành phần, vai trò tác nhân gây bệnh của vi khuẩn

trong sữa của lợn mắc hội chứng MMA được tiến hành từ 2008 - 2010 tại 6 đàn

nái hạt nhân ở Đức, cho biết: 99,1% các mẫu sữa phân lập được ít nhất 01 loài vi

khuẩn, trung bình 03 loài vi khuẩn được phân lập/mẫu sữa. Không có sự khác

nhau về số loài vi khuẩn trong mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA và lợn khỏe;

tổng số 5.580 vi khuẩn phân lập được trong tất cả các mẫu sữa, trong đó có 2.844

vi khuẩn trong mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA và 2.736 vi khuẩn được tìm

thấy trong sữa lợn khỏe.

So với kết quả nghiên cứu của các tác giả nêu trên, kết quả nghiên cứu của

chúng tôi về tỷ lệ xuất hiện các loài vi khuẩn trong các mẫu sữa lợn mắc hội

chứng MMA cao hơn rõ rệt.

3.11. Sự biến động số lượng vi khuẩn phân lập được trong sữa lợn mắc hội

chứng MMA và trong sữa lợn bình thường

Cùng với việc phân lập, giám định số loài vi khuẩn trong mẫu sữa ở nhóm

lợn mắc hội chứng MMA và nhóm lợn bình thường. Để đánh giá mức độ nhiễm

khuẩn của từng loài, cũng từ 86 mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA và 37 mẫu sữa

lợn bình thường, chúng tôi tiến hành phân lập và xác định số lượng vi khuẩn/1ml

sữa của từng loài vi khuẩn. Kết quả được tổng hợp ở bảng 3.11.

68

Bảng 3.11. Kết quả xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí trong sữa lợn

mắc hội chứng MMA và sữa lợn bình thường

Mẫu sữa lợn mắc hội Mẫu sữa lợn

chứng MMA bình thường Loại vi khuẩn Số mẫu ∑VK Số mẫu ∑VK

kiểm tra kiểm tra

37 E. coli 86

Staphylococcus spp 37 86

Streptococcus spp (CFU/ml) 56,5x106 5,74x106 39,54x106 37 (CFU/ml) 4,65x106 4,43x106 13,65x106 86

Salmonella spp 0 37 0 86

Pseudomonas spp 37 86

0 101,78x106 0 22,73x106 ∑VK(CFU/ml)

Ghi chú: CFU = (Colony Forming Unit), đơn vị khuẩn lạc

Kết quả kiểm tra tổng số vi khuẩn hiếu khí có trong 1 ml sữa hay ∑VK

(CFU/ml) của 86 mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA và 37 mẫu sữa lợn bình

thường ở bảng 3.11 như sau:

Kiểm tra 37 mẫu sữa thường có tổng số cả 3 loài vi khuẩn hiếu khí ∑VK (CFU/ml) là 22,73 x 106, trong đó số lượng cụ thể của E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp tương ứng là 4,65 x 106; 4,43 x 106 và 13,65 x 106

CFU/ml sữa.

Kiểm tra 86 mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA có tổng số các vi khuẩn hiếu khí là ∑VK (CFU/ml) là 101,78 x 106 cao hơn gấp 4,5 lần so với số lượng

của 3 vi khuẩn này có trong sữa lợn bình thường. Cụ thể số lượng của E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp trong mẫu sữa bệnh lần lượt là 56,5 x 106; 5,74 x 106 và 39,54 x 106. Như vậy, mặc dù cùng nhiễm các loài vi khuẩn như

nhau nhưng số lượng vi khuẩn trong sữa lợn mắc hội chứng viêm tử cung, viêm

vú, mất sữa cao gấp 4,5 lần. Theo chúng tôi, chính sự bội nhiễm của cả ba loài

vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp và Streptococcus spp trong sữa cũng là

nguyên nhân gây viêm vú. Đặc biệt, cùng với sự gia tăng về số lượng thì những

69

độc tố của chúng tiết ra cũng tăng theo. Chính sự bội nhiễm về số lượng và độc

tố này là nguyên nhân gây viêm vú và làm ảnh hưởng đến việc tiết sữa cũng

như làm thay đổi thành phần sữa. Đây cũng là nguyên nhân gây giảm tiết sữa,

ảnh hưởng đến tỷ lệ nuôi sống của lợn con. Để làm rõ hơn, chúng tôi đã bố trí

thí nghiệm tiếp theo để kiểm tra một số chỉ tiêu có liên quan đến chất lượng sữa

của lợn khi bị bệnh.

3.12. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu chất lượng, thành phần và tính chất

của sữa lợn

Sữa là nguồn dinh dưỡng duy nhất của lợn mẹ nuôi dưỡng lợn con khi chưa

biết ăn. Để đánh giá ảnh hưởng của tình trạng viêm vú trong hội chứng MMA đến

chất lượng sữa, chúng tôi phân tích hàm lượng mỡ sữa, protein sữa, đường sữa, vật

chất khô, pH sữa và kiểm tra nhiệt độ đông đặc của sữa lợn mắc hội chứng MMA

và của sữa lợn bình thường từ 228 mẫu sữa, được lấy cùng thời điểm 12 - 48 giờ

sau đẻ trong cùng điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc. Kết quả được trình bày tại

bảng 3.12.

Bảng 3.12. Một số chỉ tiêu về thành phần, tính chất của sữa lợn

Sữa lợn bình Xác xuất Sữa lợn mắc hội chứng Chỉ tiêu (P) MMA (n = 176) thường (n = 52)

Mỡ sữa (%) 6,41 ± 2,38 8,03 ± 1,39

Protein sữa (%) 6,71 ± 0,46 7,49 ± 0,47

P < 0,05

3,47 ± 0,63 4,14 ± 0,72 Đường (%)

Vật chất khô (%) 18,9 ± 1,19 20,35 ± 1,32

- 1,03 ± 0,08 Nhiệt độ đông đặc - 0,92 ± 0,07

6,70 ± 0,71 pH sữa 6,43 ± 0,68

Hàm lượng mỡ, protein, đường, vật chất khô, pH sữa của lợn mắc hội chứng

MMA đều thấp hơn các hàm lượng này trong sữa của lợn bình thường (bảng 3.13).

Cụ thể: mỡ, protein, đường, vật chất khô, pH của sữa lợn mắc hội chứng MMA là

6,41%, 6,71%, 3,47%, 18,9%; 6,43 hàm lượng các chất tương ứng trong sữa lợn

bình thường là 8,03%, 7,49%, 4,14%, 20,35%; 6,70. Sự sai khác nhau này có ý

70

nghĩa về mặt thống kê sinh học (P < 0,05). Đặc biệt, sự sụt giảm lượng protein sữa.

có liên quan đến sự giảm sút hàm lượng kháng thể của sữa. Do thay đổi thành phần

sữa nên nhiệt độ đông đặc của sữa lợn bệnh cũng khác so với sữa lợn bình thường

(nhiệt độ đông đặc của sữa lợn mắc hội chứng MMA là - 0,92, giá trị này ở sữa lợn

bình thường là - 1,03). pH sữa lợn mắc hội chứng MMA thấp hơn so với pH sữa lợn

bình thường theo chúng tôi là do sữa lợn mắc hội chứng MMA đã nhiễm khuẩn

với số lượng cao như phân tích hàm lượng vi khuẩn trong sữa tại bảng 3.12.

Đây chính là nguyên nhân làm cho tỷ lệ ỉa phân trắng ở những lợn con của

lợn mẹ mắc hội chứng MMA cao hơn. Theo đó, số lượng lợn con còi cọc, chậm

lớn cũng tăng cao.

Theo Hurley (1997), thành phần chính các chất rắn trong sữa là mỡ, protein,

đường và các khoáng chất. Sữa lợn có chứa 7 hoặc 8% mỡ. Tuy nhiên, lượng mỡ

sữa thay đổi do ảnh hưởng bởi giống lợn, khẩu phần ăn, giai đoạn tiết sữa và

những yếu tố khác; protein sữa cung cấp các axit amin cần thiết cho sự phát triển

của lợn con, chiếm khoảng 6% và là thành phần bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi

khẩu phần ăn; đường chiếm khoảng 4%, trong đó đường lactoza là thành phần

chủ yếu và là thành phần ít thay đổi nhất bởi các yếu tố giống, giai đoạn tiết sữa

và khẩu phần ăn. Vật chất khô trong sữa lợn chiếm khoảng 19%, dao động từ 17

- 25%. So sánh với kết quả nghiên cứu của Hurley (1997) về thành phần sữa lợn

thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi về các thành phần này trong sữa lợn bình

thường là phù hợp.

Theo Farhana (2012), pH là chữ viết tắt của trọng lượng riêng của

hydrogen, được giới thiệu vào năm 1909 bởi nhà hóa học người Đan Mạch

Sorensen, pH có 03 mức độ là trung tính (pH = 7), tính axit (pH < 7) và tính bazơ

(pH > 7). Giống như sữa bò, sữa lợn gồm các muối axit và bazơ yếu đóng vai trò

dung dịch đệm, sữa tươi có giá trị pH nằm trong khoảng 6,5 - 6,7, vì vậy có tính axit

nhẹ, nếu pH sữa lớn hơn 6,7 điều này cho thấy có hiện tượng viêm vú, nếu pH nhỏ

hơn 6,5 có hiện tượng nhiễm khuẩn (do đường trong sữa chuyển hóa thành axit dưới

sự tác động của vi khuẩn). So sánh với công bố của Farhana (2012) thì kết quả

nghiên cứu của chúng tôi về pH trong sữa lợn là phù hợp.

71

Theo Baer and Bilkei (2005), khi kiểm tra đại thể về bệnh lý học và vi

khuẩn học tuyến vú của những lợn nái loại thải (lợn có tiền sử mắc hội chứng

MMA và lợn bình thường), cho thấy: lợn nái đã mắc hội chứng MMA thì có

nhiều “hình ảnh tạo dội cao” (hyperechologic images) trong tuyến vú lớn hơn so

với những lợn không có tiền sử mắc hội chứng MMA (P < 0,001). Hiện tượng

này làm thay đổi thành phần của sữa, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sữa.

3.13. Kết quả phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung

lợn mắc hội chứng MMA

Để hiểu rõ vai trò của các vi khuẩn trong hội chứng MMA, chúng tôi tiếp

tục phân lập và giám định các loài vi khuẩn hiếu khí trong135 mẫu dịch tử cung

lợn mắc hội chứng MMA và 36 mẫu dịch tử cung của lợn bình thường. Kết quả

thí nghiệm được trình bày ở bảng 3.13.

Bảng 3.13. Kết quả phân lập vi khuẩn trong dịch tử cung

của lợn nái mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường

Dịch tử cung của lợn nái Loại dịch Dịch tử cung của lợn nái

mắc hội chứng MMA đẻ bình thường

(n = 135) (n = 36)

Số mẫu Số mẫu Tỷ lệ Số mẫu Số mẫu Tỷ lệ

Vi khuẩn (%) (%) kiểm tra dương tính kiểm tra dương tính

135 100 36 36 100 E. coli 135

Staphylococcus spp 135 100 36 31 86,11 135

119 88,15 36 19 52,77 Streptococcus spp 135

83 61,48 36 5 13,88 Salmonella 135

34 25,19 36 0 0 Pseudomonas 135

Kết quả phân lập từ 135 mẫu sản dịch của lợn nái mắc hội chứng MMA và

36 mẫu sản dịch của lợn nái bình thường cho thấy: 100% các mẫu dịch tử cung

của lợn mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường đều phân lập được vi khuẩn

E. coli. Ngoài ra còn phân lập được Staphylococcus spp, Streptococcus spp và

Salmonella spp, nhưng với tỷ lệ khác nhau. Cụ thể đối với mẫu dịch tử cung lợn

72

mắc hội chứng MMA: với Staphylococcus spp có 100% mẫu xuất hiện, với

Streptococcus spp có 119/135 mẫu xuất hiện, chiếm 88,15%, với Salmonella spp

có 83/135 mẫu kiểm tra xuất hiện, chiếm 61,48%.

Đặc biệt, chỉ ở mẫu dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA mới tìm

thấy Pseudomonas spp với 34/135 mẫu kiểm tra xuất hiện vi khuẩn

Pseudomonas spp, chiếm 25,19 %.

Tuy nhiên trong 36 mẫu dịch tử cung của lợn đẻ bình thường, tần suất

xuất hiện các loài vi khuẩn này đều thấp hơn, ngoại trừ E. coli. Kết quả cụ thể:

Có 31/36 mẫu xuất hiện Staphylococcus spp chiếm 86,11%. Số mẫu

dương tính với Streptococcus spp là 19/36 chiếm 52,77%. Chỉ có 5/36 mẫu

dương tính với vi khuẩn Salmonella spp chiếm 13,88%. Không có mẫu dịch tử

cung của lợn đẻ bình thường xuất hiện vi khuẩn Pseudomonas spp

Theo Hồ Văn Nam và cs. (1997), E. coli, Staphylococcus, Streptococcus,

Salmonella là những vi khuẩn cơ hội, luôn có mặt trong chuồng nuôi. Đồng thời,

chúng tồn tại trên da, niêm mạc ngay cả ở lợn khỏe, trong phân, nước tiểu lợn...

100% mẫu phân lợn khoẻ có E. coli, 40 - 80% có chứa Salmonella, ngoài ra, còn

phát hiện được Staphylococcus, Streptococcus.

Theo Urban et al. (1983); Bilkei et al. (1994b), các vi khuẩn gây nhiễm

trùng tử cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập được vi khuẩn

từ mẫu nước tiểu của lợn nái sắp đẻ. Kết quả cho thấy nước tiểu thường chứa các

vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp. Theo Bilkei et al.

(1994a), viêm tử cung thường xảy ra trong lúc đẻ do nhiễm vi khuẩn E. coli gây

dung huyết và các vi khuẩn gram dương. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Như

Pho (2002) cũng cho biết E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp là

nguyên nhân gây nhiễm trùng tử cung ở lợn nái sau khi đẻ.

Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên

cứu của Nguyễn Như Pho (2002), khi nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố chăn

nuôi đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA ở lợn.

Trong điều kiện sinh lý bình thường, cổ tử cung lợn luôn đóng chặt nên

các vi khuẩn không có cơ hội xâm nhập vào tử cung. Nhưng trong quá trình đẻ,

73

cổ tử cung mở ra và sau khi đẻ cổ tử cung vẫn tiếp tục mở nên vi khuẩn từ môi

trường có điều kiện xâm nhập gây viêm. Vì vậy việc tăng cường vệ sinh chuồng

trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm

trùng tử cung sau đẻ. Theo Collet (1999), ngoài việc lựa chọn loại thuốc sát trùng

tốt, phương pháp tiến hành sát trùng có ý nghĩa rất lớn trong việc tiêu diệt vi

khuẩn trong môi trường. Vì hầu hết các hóa chất sát trùng đều không có tác dụng

hoặc chỉ có tác dụng giới hạn trong môi trường có chất bẩn, chất hữu cơ. Do đó,

việc cọ rửa vệ sinh sạch phân và tẩy uế chất thải phải thực hiện trước khi phun

thuốc sát trùng. Theo Collet (1999) việc sát trùng chuồng trại được đánh giá tốt

khi hiệu quả sát trùng đạt mức trên 95%. Nhờ hiệu quả sát trùng đã góp phần hạn

chế nhiễm trùng tử cung lợn nái sau khi đẻ (trích dẫn bởi Nguyễn Như Pho,

2002). Khi tử cung bị viêm, dịch viêm tử cung chứa các sản phẩm độc kích thích

cổ tử cung không đóng chặt, thu hút vi khuẩn xâm nhập vào tử cung.

3.14. Kết quả kiểm tra số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung lợn nái

mắc hội chứng MMA

Để thấy rõ hơn mức độ bội nhiễm vi khuẩn khi tử cung bị viêm,

chúng tôi tiến hành pha loãng mẫu dịch xét nghiệm, nuôi cấy trên các môi

trường chuyên dụng để đếm số khuẩn lạc ∑CFU/ml (CFU = Colony

Forming Unit). Từ đó xác định sự biến động số lượng các loài vi khuẩn

phân lập được từ dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA và của lợn bình

thường. Kết quả được trình bày ở bảng 3.14.

Khi kiểm tra dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA và lợn đẻ bình

thường đã cho thấy mức độ bội nhiễm các vi khuẩn hiếu khí từ mẫu sản dịch của lợn

mắc hội chứng MMA (bảng 3.15). Cụ thể: tổng số vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA dao động từ (65,12 đến 73,88) x 106 CFU/ml, trong khi đó của lợn đẻ bình thường chỉ có (26,34 - 30,07)x106. Như vậy, khi lợn mắc hội

chứng MMA, số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch viêm đã tăng 2,5 đến 3,5 lần so

với lợn đẻ bình thường. Chính sự bội nhiễm vi khuẩn là nguyên nhân quan trọng gây

ra hội chứng MMA. Cụ thể:

74

Bảng 3.14. Kết quả xác định số lượng vi khuẩn hiếu khí trong dịch tử cung

của lợn nái mắc hội chứng MMA và lợn nái bình thường

Loại dịch Dịch tử cung của lợn nái Dịch tử cung của lợn nái

mắc hội chứng MMA bình thường

(n = 135) (n = 36)

Số lượng VK Số lượng VK Số mẫu Số mẫu Loài vi khuẩn (CFU/ml) (CFU/ml)

E. coli 135 27,72x106 19,07x106 36

Staphylococcus spp 135 13,54x106 5,04x106 31

Streptococcus spp 119 8,09x106 2,23x106 19

Salmonella spp 83 15,77x106 3,73x106 5

Pseudomonas spp 34 8,76x106 0 0

∑CFU/ml (65,12 - 73,88)x106 (26,34 - 30,07)x106

Số lượng vi khuẩn E. Coli ở dịch tử cung của lợn mắc MMA là 27,72 x 106, so

với lợn đẻ bình thường là 19,07 x 106, tăng 1,5 lần.

Số lượng vi khuẩn Staphylococcus spp của lợn mắc MMA. là 13,54 x 106

CFU/ml so với lợn đẻ bình thường tăng 5,04 x 106 (gấp 2,69 lần).

Streptococcus spp có số lượng là 8,09 x 106 CFU/ml, so với lợn đẻ bình

thường là 2,23 x 106, tăng gấp 3,63 lần.

Cuối cùng là số lượng vi khuẩn Salmonella spp của lợn mắc MMA. là

15,77x106 CFU/ml, so với lợn đẻ bình thường là 3,73 x 106, tăng gấp 4,23 lần.

Trong số những loài vi khuẩn hiếu khí tìm thấy của dịch tử cung, những mẫu

dịch mà khi kiểm tra xuất hiệu từ 4 đến 5 loài vi khuẩn thường rất khó điều trị, thậm

chí còn bị loại thải nếu như can thiệp chậm. Theo dõi trên lâm sàng, chúng tôi nhận

thấy ở những lợn mắc hội chứng MMA điển hình (đủ ba triệu chứng) khi xét

nghiệm sản dịch cũng thường xuất hiện từ 4 đến 5 loài vi khuẩn hiếu khí kể trên.

Khi tiến hành điều trị lợn mắc hội chứng MMA mà có bội nhiễm Pseudomonas spp

Thường cho hiệu quả thấp.

75

Điều này có thể giải thích, khi tử cung viêm sự co bóp của cơ tử cung yếu,

dịch tử cung tăng tiết, bài xuất ra môi trường là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn

xâm nhiễm, phát triển và nhân lên. Đường xâm nhiễm của chúng không chỉ từ

bên ngoài mà còn có thể từ đường tiết niệu, đường ruột của lợn nái.

Như vậy, khi lợn mắc hội chứng MMA, cùng với sự xâm nhiễm của các vi

khuẩn E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp và Salmonella spp thì số

lượng các vi khuẩn này cũng tăng lên rất nhanh. Khi tử cung bị viêm, trong một

số trường hợp còn bội nhiễm thêm Pseudomonas spp. Vì vậy, để điều trị viêm tử

cung ngoài việc dùng kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn là liệu pháp bắt buộc, cần

kết hợp các biện pháp kích thích cho tử cung co bóp để đẩy hết dịch viêm ra

ngoài nhằm hạn chế sự bội nhiễm của nhóm vi khuẩn gây bệnh.

3.15. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn hiếu khí phân lập

được từ mẫu sữa, mẫu dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại

kháng sinh thông dụng

3.15.1. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn hiếu khí phân lập từ

mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh

Từ các thí nghiệm trên, khi phân lập và giám định vi khuẩn trong 86 mẫu

sữa lợn mắc hội chứng MMA, chúng tôi thấy 62 mẫu có chứa vi khuẩn E. coli,

54 mẫu chứa Staphylococcus spp và 17 mẫu có chứa vi khuẩn Streptococcus spp

Tiến hành kiểm tra kháng sinh đồ của các vi khuẩn này với 10 loại kháng sinh

thông dụng. Kết quả được trình bày tại bảng 3.15; 3.16 và 3.17.

3.15.1.1. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các chủng E. coli phân lập từ mẫu

sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Từ kết quả phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí có trong mẫu sữa lợn

mắc hội chứng MMA, chúng tôi đã kiểm tra kháng sinh đồ của 62 chủng vi

khuẩn E. coli phân lập được từ sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng

sinh thường dùng. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.15.

76

Bảng 3.15. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn E. coli

phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA (n = 62)

Mẫn cảm Mẫn cảm trung Tổng số vi khuẩn Vi khuẩn kháng

mẫn cảm cao (S) bình (I) thuốc (R) TT Tên kháng sinh Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu mẫu (%) mẫu (%) (%) mẫu (%)

1 Amoxycillin 38 61,29 24 38,71 0 0 62 100

2 Cephalexin 31 50 19 30,65 12 19,35 50 80,65

3 Cefaclor 25 40,32 33 53,23 58 93,55 4 6,45

4 Colistin 13 20,96 16 25,80 29 46,77 33 53.23

5 Streptomycin 0 0 7 11,29 7 11,29 55 88,71

6 Gentamycin 50 80,65 12 19,35 0 0 62 100

7 Kanamycin 0 0 13 20,97 13 20,97 49 79,03

8 12,9 3 4 ,83 8 Norfloxacin 51 82,25 59 95,17

38 59,68 24 40,32 9 Ofloxacin 12 19,35 26 40,32

10 Sulphamethoxazol/ 0 0 23 37,10 23 37,10 39 62,90 trimethoprim

Như vậy, trong số 10 thuốc kiểm tra kháng sinh đồ, chúng tôi nhận thấy vi

khuẩn E. coli phân lập từ sữa mẫn cảm nhất với amoxycilin và gentamycin. Tất cả

62 chủng kiểm tra đều còn mẫn cảm, tỷ lệ mẫn cảm đạt 100%. Trong đó số chủng

đạt độ mẫn cảm cao của gentamycin là 80,65%, của amoxycilin là 61,29%. Không

có chủng E. coli phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA kháng lại hai kháng sinh

này. Đồng thời, các chủng E. coli này vẫn còn mẫn cảm cao với norfloxacin và

cefaclor với tỷ lệ lần lượt là 82,25% và 40,38%. Kết hợp cả với số chủng có độ mẫn

cảm trung bình thì hiện nay E. coli phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA có tỷ lệ

mẫn cảm với norfloxacin là 95,17% và với cefaclor là 93,55%. Ngược lại với các

thuốc như streptomycin, kanamycin hiện đã có từ 79,03 đến 88,71% số chủng E.

coli kiểm tra kháng thuốc. Các chủng E. coli cũng đã kháng lại hỗn hợp thuốc hóa

học trị liệu sulphamethoxazol/trimethoprim tới 62,90%.

77

Bostedt et al. (1998) đã tìm thấy một tỷ lệ lớn vi khuẩn E. coli trong mẫu

dịch ngoáy hầu họng của lợn viêm vú đề kháng với các loại kháng sinh, chỉ có

gentamycin là còn mẫn cảm 100%, các kháng sinh được kiểm tra còn lại có mức

mẫn cảm < 100%. So với kết quả nghiên cứu của Bostedt et al. (1998) thì kết quả

nghiên cứu của chúng tôi tương đương về tính mẫn cảm của gentamycin.

3.15.1.2. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm đối với 10 loại kháng sinh của các

chủng Staphylococcuss spp phân lập từ mẫu sữa của lợn mắc hội chứng MMA

Từ kết quả phân lập và giám định vi khuẩn hiếu khí có trong mẫu sữa lợn

mắc hội chứng MMA ở thí nghiệm trên, chúng tôi đã kiểm tra kháng sinh đồ của

54 chủng vi khuẩn Staphylococcus spp phân lập được với 10 loại kháng sinh

thường dùng. Kết quả được tổng hợp ở bảng 3.16.

Bảng 3.16. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 54 chủng vi khuẩn

Staphylococcus spp phân lập từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA

Vi khuẩn Tồng số vi Mẫn cảm Mẫn cảm cao trung bình kháng thuốc khuẩn mẫn cảm (S) (R) (I) TT Tên kháng sinh

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu mẫu (%) mẫu (%) (%) mẫu (%)

39 72,22 6 11,11 9 16,67 1 Amoxycillin 45 93,33

42 77,78 12 22,22 0 0 2 Cephalexin 54 100

3 Cefaclor 0 0 54 100 54 100 0 0

4 Colistin 0 0 0 0 0 0 54 100

5 Streptomycin 0 0 0 0 0 0 54 100

35 64,81 0 0 19 35,19 6 Gentamycin 35 64,81

7 Kanamycin 0 0 11 20,37 11 20,37 43 79,63

0 0 14 25,93 40 74,07 8 Norfloxacin 39 92,22

9 Ofloxacin 0 0 0 0 0 0 54 100

10 Sulphamethoxazol 0 0 5 5 9,26 9,26 49 90,74 /trimethoprim

78

Bảng 3.16 cho thấy: cephalexin, cefaclor là những thuốc có 100% số

chủng Staphylococcus spp kiểm tra còn mẫn cảm với thuốc, không có chủng nào

kháng lại. Trong đó có 42/54 chủng Staphylococcus spp kiểm tra đạt độ mẫn cảm

cao với cephalexin chiếm 77,78%. Các chủng Staphylococcus spp chỉ đạt độ mẫn

cảm trung bình với cefaclor, không có chủng đạt độ mẫn cảm cao. Với

amoxycillin, gentamycin là những kháng sinh còn đạt được độ mẫn cảm cao với

vi khuẩn Staphylococcus spp, các tỷ lệ tương ứng là 72,22%, 64,81%. Riêng với

gentamycin khi kiểm tra kháng sinh đồ với E. coli đã có 100% mẫn cảm, không

có chủng nào kháng thuốc, còn với vi khuẩn Staphylococcus spp đã có 35,19% số

chủng kháng thuốc. Đặc biệt với ofloxacin đã có 100% số chủng Staphylococcus

spp kháng lại và hỗn hợp sulphamethoxazol/trimethoprim cũng có 90,74% số

chủng Staphylococcus spp kháng lại. Các chủng Staphylococcus spp kháng tự

nhiên với streptomycin và colistin.

Theo nghiên cứu của Phạm Bảo Ngọc (2002), kết quả khảo sát về tính

mẫn cảm với kháng sinh của Staphylococcus spp trong sữa bò bị viêm vú cho

thấy các kháng sinh có tác dụng với vi khuẩn Staphylococcus spp là

oxytetracyclin mẫn cảm tới 81,80%; penicillin 77,22%; neomycin 76,95%;

ampicillin 64,15%.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Phát (2010), kết quả khảo sát về tính

mẫn cảm với kháng sinh của Staphylococcus spp trong sữa bò bị viêm vú cho

thấy các kháng sinh có tác dụng với vi khuẩn Staphylococcus spp là norfloxacin

(70,99%); kế đến gentamycin (61,79%). Staphylococcus spp ít mẫn cảm hơn với

cephalexin (57,31%), kanamycin (52,59%) thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi

tương đương về tính mẫn cảm với một số kháng sinh norfloxacin, gentamicin; có

một số khác biệt về tính mẫn cảm đối với kháng sinh như: cephalexin, kanamycin

(kết quả thử tính mẫn cảm của Staphylococcus spp với cephalexin trong nghiên

cứu của chúng tôi là mẫn cảm cao nhất (77,78%), kanamycin có tỷ lệ kháng

thuốc tới 79,63%, còn trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Phát (2010) cephalexin

ít mẫn cảm hơn (57,31%), kanamycin mẫn cảm (52,59%).

79

3.15.1.3. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn Streptococcus

spp phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA với loại 10 thuốc

Chúng tôi đã phân lập và kiểm tra kháng sinh đồ của 17 chủng vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng

sinh thông dụng (bảng 3.17).

Bảng 3.17. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 17 chủng vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ mẫu sữa lợn mắc hội chứng MMA

Tổng số vi Vi khuẩn kháng Mẫn cảm cao Mẫn cảm

khuẩn mẫn cảm trung bình (I) thuốc (R) (S) TT Tên kháng sinh Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu mẫu (%) mẫu (%) (%) mẫu (%)

10 58,82 41,18 17 100 0 0 7 1 Amoxycillin

11 64,72 23,52 15 88,24 2 11,76 4 2 Cephalexin

0 0 17 100 0 0 3 Cefaclor 17 100

0 0 0 17 100 0 4 Colistin 0 0

0 0 0 0 0 17 100 0 5 Streptomycin

0 0 35,29 6 35,29 11 64,71 6 6 Gentamycin

0 0 11,76 0 0 15 88,24 2 7 Kanamycin

2 11,76 12 70,59 17,65 3 8 Norfloxacin 15 88,24

7 41,18 35,29 13 76,47 4 23,53 6 9 Ofloxacin

Ghi chú: Trong thí nghiệm này chúng tôi sử dụng streptomycin là thuốc đối chứng dương để kiểm tra lại kết quả phân lập vi khuẩn. Nếu trong quá trình làm kháng sinh đồ mà thấy vòng vô khuẩn thì phải hủy kết quả phân lập vì vi khuẩn Staphylococcus spp kháng tự nhiên với streptomycin.

10 Sulphamethoxazol 0 0 3 17,65 3 17,65 14 82,35 /trimethoprim

Kết quả ở bảng 3.17 cho thấy: 100% số vi khuẩn Streptococcus spp kiểm

tra còn mẫn cảm với amoxycillin và cefaclor, nhưng chỉ có amoxycillin còn

58,82% số chủng kiểm tra có độ mẫn cảm cao, số còn lại có độ mẫn cảm trung

bình. Còn với cefaclor thì 100% số chủng kiểm tra chỉ đạt độ mẫn cảm trung bình.

Với hai loại kháng sinh là cephalexin và norfloxacin còn 88,24% số chủng

80

Streptococcus spp kiểm tra còn mẫn cảm, trong đó norfloxacin có độ mẫn cảm cao

đạt 70,59% cao hơn cephalexin. Vi khuẩn Streptococcus spp kháng lại thuốc

kanamycin là 88,24%, gentamycin là 64,71% cao hơn các chủng Staphylococcus

spp Cũng giống như vi khuẩn Staphylococcus spp hai thuốc còn lại là

streptomycin và colistin đều bị vi khuẩn Streptococcus spp kháng tự nhiên.

Phạm Bảo Ngọc (2002) khi nghiên cứu tính mẫn cảm của Streptococcus

spp trong sữa bò cho biết Streptococcus spp nhạy cảm cao với ampicillin

(62,33%). So sánh với kết quả của tác giả thì kết quả khảo sát của chúng tôi về

tính mẫn cảm của các chủng Streptoccocus spp với kháng sinh như ampicillin

thấp hơn (62,33% so với 58,82%).

3.15.1.4. Kết quả so sánh tính mẫn cảm của các loại vi khuẩn phân lập từ sữa

lợn mắc hội chứng MMA với các loại kháng sinh

Để giúp người chăn nuôi chọn thuốc điều trị phù hợp và hiệu quả, chúng tôi đã

tiến hành so sánh tỷ lệ các chủng vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp và

Streptococcus spp mẫn cảm với 10 loại kháng sinh kiểm tra. Kết quả được thể hiện

tại bảng 3.18.

Bảng 3.18. Tỷ lệ các chủng vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp

và Streptococcus spp mẫn cảm với 10 loại kháng sinh kiểm tra

E. coli Staphylococcus spp Streptococcus spp Trung

(n=62) (n=54) (n=17) TT Tên kháng sinh bình

(%) n % n % % n

62 50 58 1 Amoxycillin 2 Cephalexin 3 Cefaclor 100 80,65 93,55 45 54 54 100 92,24 100 93,33 100 100 17 15 17 97,78 90,96 97,85

29 7 4 Colistin 5 Streptomycin 46,77 11,29 0 0 0 0 0 0 0 0

35 11 35,29 11,76 64,81 20,37 6 2 62 13 100 20,97 6 Gentamycin 7 Kanamycin 15,59 3,76 66,70 17,70

39 0 92,24 76,47 92,22 0 15 13 59 38 95,17 59,68 93,21 45,38

8 Norfloxacin 9 Ofloxacin 10 Sulphamethoxazol/ 23 3 37,10 5 9,26 17,65 21,34 trimethoprim

81

Tỷ lệ (%)

97.78

97.85

93.21

100

90.96

80

66.70

60

45.38

40

21.34

17.70

15.59

20

3.76

0

Kháng sinh

Amo

Cepha

Cefaclor

Colistin

Stre

Genta

Kana

Nor

Oflo

Sulpha/tri

Biểu đồ 3.1 Tính mẫn cảm của các vi khuẩn trong sữa với 10 loại kháng sinh

Cả ba loại vi khuẩn: E. coli, Staphylococcus spp và Streptococcus spp

phân lập được từ sữa lợn mắc hội chứng MMA đều có tỷ lệ mẫn cảm cao từ 90%

đến 100% với các thuốc kháng sinh theo thứ tự giảm dần bao gồm: amoxycilin,

cefaclor, norfloxacin và cephalexin. Trong điều trị chúng ta có thể chọn các

thuốc này hay chọn các biệt dược có bán trên thị trường với thành phần của thuốc

có các loại kháng sinh kể trên (bảng 3.18 và hình 3.1).

3.15.2. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn hiếu khí phân lập

từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Phương pháp tiến hành như đã nói ở chương 2, mục các phương pháp

nghiên cứu. Từ kết quả phân lập vi khuẩn hiếu khí của các mẫu dịch tử cung lợn

mắc hội chứng MMA, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra kháng sinh đồ của 135

chủng E. coli, 135 chủng Staphylococcus, 119 chủng Streptococcus, 83 chủng

Salmonella và 34 chủng Pseudomonas với 10 loại kháng sinh thông dụng gồm:

amoxycillin, cephalexin, cefaclor, colistin, streptomycin, gentamycin, kanamycin,

82

norfloxacin, ofloxacin, sufamethoxazol/trimethoprim nhằm đánh giá sự mẫn cảm

hay sự đề kháng của chúng. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của các loài vi khuẩn

được trình bày ở bảng 3.19; 3.20; 3.21; 3.22 và 3.23.

3.15.2.1. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn E. coli phân lập từ dịch tử

cung lợn mắc hội chứng MMA

Khi kiểm tra 135 chủng E. coli phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội

chứng MMA với 10 loại thuốc kháng sinh thông dụng (bảng 3.19) có kết quả như

sau: Khác với các chủng E. coli phân lập từ sữa lợn mắc hội chứng MMA, các

chủng E. coli phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA đối với 10 thuốc

kiểm tra, không có kháng sinh nào đạt 100% số chủng E. coli mẫn cảm. Trong số

các thuốc kiểm tra, tỷ lệ E. coli mẫn cảm cao nhất là amoxycillin có 127/135

chủng kiểm tra mẫn cảm, đạt tỷ lệ 94,07%.

Bảng 3.19. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 135 chủng vi khuẩn E. coli

phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA

Vi khuẩn mẫn cảm Vi khuẩn

kháng thuốc Mẫn cảm cao Mẫn cảm Tổng số (R) TT Tên kháng sinh trung bình (I) (S)

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

(%) mẫu (%) (%) mẫu (%) mẫu mẫu

1 Amoxycillin 101 74,81 19,26 127 94,07 8 5,93 26

20,74 118 87,41 17 12,59 2 Cephalexin 90 66,67 28

20 107 79,26 28 20,74 3 Cefaclor 80 59,26 27

23,70 82 60,74 53 39,26 4 Colistin 50 37,04 32

20,74 90 66,67 45 33,33 5 Streptomycin 62 45,93 28

6,67 108 80,00 27 20,00 6 Gentamycin 99 73,33 9

9,63 34 25,19 101 74,81 7 Kanamycin 21 15,56 13

25,93 124 91,85 11 8,15 8 Norfloxacin 89 65,93 35

17,78 64 47,41 71 52,59 9 Ofloxacin 40 29,63 24

Sulphamethoxazol 10 78 57,78 37 27,41 20 14,81 57 42,22 /trimethoprim

83

Số chủng kiểm tra có độ mẫn cảm cao là 101/135 chiếm 74,81%, các

chủng có độ mẫn cảm trung bình là 26/135 chiếm 19,26%. Thuốc có độ mẫn cảm

sau đó là norfloxacin, 124/135 chủng mẫn cảm, đạt 91,85%. Tiếp theo là những

thuốc có độ mẫn cảm cao như cephalexin 118/135 chủng mẫn cảm chiếm

87,41%. Gentamycin 108/135 chủng mẫn cảm, đạt 80,00%. Với cefaclor cũng có

107/135 chủng mẫn cảm chiếm 79,26%, kanamycin chỉ có 25,19% và

streptomycin có 66,67% số chủng E. coli kiểm tra còn mẫn cảm.

Ngược lại khi kiểm tra, chúng tôi đã phát hiện trong 10 thuốc thường dùng

đều có hiện tượng kháng thuốc của E. coli. Thuốc có tỷ lệ kháng thấp nhất là

amoxycilin (5,93%), kanamycin có tỷ lệ E. coli kháng thuốc cao nhất, chiếm

74,81%, sau đó là sulfamethoxazol/trimethoprim chiếm 57,78%; ofloxacin là

52,59%. Các thuốc này nếu sử dụng trong điều trị bệnh sẽ cho hiệu quả thấp.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác

giả: Bùi Thị Tho và Nguyễn Thị Thanh Hà (2007) xác định mức độ mẫn cảm kháng

sinh của vi khuẩn E. coli phân lập từ phân chó tiêu chảy cấp tính, Nguyễn Ngọc

Nhiên và cs. (1999) với vi khuẩn E. coli phân lập từ sữa bò bị viêm vú, Nguyễn Văn

Thanh (1999) (2007) với E. coli phân lập từ dịch viêm đường sinh dục của trâu

và bò cái. Trong nghiên cứu của các tác giả nêu trên đều cho rằng vi khuẩn E. coli

mẫn cảm cao với các loại kháng sinh norfloxacin và gentamycin. 3.15.2.2. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Staphylococcus spp phân

lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA.

Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của 135 chủng vi khuẩn Staphylococcus

spp với 10 loại kháng sinh thường dùng cho thấy: Cũng giống như E. coli,

Staphylococcus spp phân lập từ dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA cũng

mẫn cảm cao nhất với amoxycillin. Có 118/135 chủng kiểm tra mẫn cảm đạt 87,

41%, trong đó số chủng có độ mẫn cảm cao là 98/118 đạt 72,59%. Tiếp theo là

số chủng E. coli kiểm tra mẫn cảm cao với norfloxacin. Có 112/135 chủng còn

mẫn cảm, chiếm 82,96%, trong đó số chủng mẫn cảm cao đạt 65,19%. Thuốc

gentamycin còn mẫn cảm với E. coli kiểm tra đạt tỷ lệ 75,56% (có 102/135

chủng mẫn cảm). Sau gentamycin là thuốc cephalexin với 99/135 chủng kiểm tra

84

còn mẫn cản chiếm 73,33%. Trong 10 thuốc kiểm tra, không thuốc nào có độ

mẫn cảm 100% với Staphylococcus spp Thuốc amoxycillin có tỷ lệ kháng thấp

nhất với Staphylococcus spp đạt 12,59%. Thuốc có tỷ lệ kháng thuốc cao nhất

trong 10 kháng sinh kiểm tra là kanamycin và cefaclor với tỷ lệ kháng là 62,96%

và 57,78% (bảng 3.20).

Bảng 3.20. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 135 chủng vi khuẩn

Staphylococcus spp với 10 loại kháng sinh thường dùng

Vi khuẩn mẫn cảm Vi khuẩn

kháng Mẫn cảm TB Mẫn cảm cao Tổng số thuốc (R) (I) TT Tên kháng sinh (S)

Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ

mẫu (%) mẫu (%) mẫu (%) mẫu (%)

118 87,41 73,33 99 42,22 57 51,85 70 0 0

98 84 23 26 0 90 19 88 48 72,59 62,22 17,04 19,26 0 66,67 14,07 65,19 35,56 20 15 34 44 0 12 31 24 21 14,81 11,11 25,19 32,59 0 8,89 22,96 17,78 15,56 102 75,56 37,04 50 112 82,96 51,11 69 17 12,59 36 26,67 78 57,78 65 48,15 135 100 33 24,44 85 62,96 23 17,04 66 48,89

* Ghi chú: Trong thí nghiệm này chúng tôi đã sử dụng streptomycin là thuốc đối chứng dương để kiểm tra lại kết quả phân lập vi khuẩn. Nếu trong quá trình làm kháng sinh đồ mà thấy vòng vô khuẩn thì phải hủy kết quả phân lập. Vì vi khuẩn Staphylococcus spp kháng tự nhiên với streptomycin.

32 23,70 50 37,04 82 60,74 53 39,26 1 Amoxycillin 2 Cephalexin 3 Cefaclor 4 Colistin 5 Streptomycin 6 Gentamycin 7 Kanamycin 8 Norfloxacin 9 Ofloxacin 10 Sulphamethoxazol /trimethoprim

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả:

Nguyễn Ngọc Nhiên và cs. (1999), các chủng vi khuẩn Staphylococcus spp phân

lập từ mẫu sữa bò bị viêm vú có sự mẫn cảm cao với kháng sinh ampicillin là

69,27%; Nguyễn Văn Thanh (1999) trong công trình nghiên cứu của mình về các

vi khuẩn gây viêm đường sinh dục trên trâu cái cũng đưa ra kết quả vi khuẩn

Staphylococcus spp mẫn cảm cao với 2 loại kháng sinh là ampicillin và

85

neomycin với các tỷ lệ lần lượt là 88,89% và 83,33%. Tác giả cũng cho rằng các

loại kháng sinh bị vi khuẩn Staphylococcus spp kháng thuốc nhiều nhất là

furazolidon và penicillin. Vì vậy, trong điều trị các bệnh nhiễm trùng do

Staphylococcus spp, chúng ta nên sử dụng các loại kháng sinh có mức độ mẫn

cảm cao như: amoxycilin và gentamycin.

3.15.2.3 Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Streptococcus spp phân

lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA

Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Streptococcus spp với 10

loại kháng sinh thông dụng được trình bày tại bảng 3.21

Bảng 3.21. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 119 chủng vi khuẩn

Streptococcus spp với 10 loại kháng sinh thông dụng

Vi khuẩn mẫn cảm Vi khuẩn

kháng Mẫn cảm cao Mẫn cảm Tổng số thuốc (R) TT Tên kháng sinh trung bình (I) (S)

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu mẫu mẫu (%) mẫu (%) (%) (%)

1 Amoxycillin 101 84,87 7,56 110 92,44 9 7,56 9

80 67,23 13 10,92 93 78,15 26 21,85 2 Cephalexin

46 38,66 36 30,25 82 68,91 37 31,09 3 Cefaclor

37 31,09 15 12,61 52 43,70 67 56,30 4 Colistin

0 0 0 0 0 0 119 100 5 Streptomycin

87 73,11 11 9,24 98 82,35 21 17,65 6 Gentamycin

30 25,21 14 11,76 44 36,97 75 63,03 7 Kanamycin

81 68,07 21 17,65 102 85,71 17 14,29 8 Norfloxacin

54 45,38 18 15,13 72 60,50 47 39,50 9 Ofloxacin

10 Sulphamethoxazol 41 34,45 20 16,81 61 51,26 58 48,74 /Trimethoprim

* Ghi chú: Trong thí nghiệm này chúng tôi sử dụng streptomycin là thuốc đối chứng dương để kiểm tra kết quả phân lập vi khuẩn ở trên. Nếu trong quá trình làm kháng sinh đồ mà thấy vòng vô khuẩn thì phải hủy kết quả phân lập vì vi khuẩn Streptococcus spp kháng tự nhiên với streptomycin.

86

Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Streptococcus spp tại bảng

3.21 cho thấy: Trong số 10 loại thuốc kiểm tra, thì amoxycillin vẫn giữ được tỷ lệ

mẫn cảm cao với vi khuẩn Streptococcus spp phân lập từ dịch tử cung lợn mắc hội

chứng MMA. Có 110/119 chủng Streptococcus spp mẫn cảm, chiếm 92,44%.

Trong đó, số chủng có độ mẫn cảm cao là 101/110, chiếm 84,87%. Sau

amoxycillin, các chủng Streptococcus spp mẫn cảm cao với norfloxacin. Có

102/119 chủng Streptococcus spp kiểm tra mẫn cảm với thuốc, chiếm 85,71%. Với

thuốc gentamycin cũng có 98/119 chủng Streptococcus spp kiểm tra còn mẫn cảm

chiếm 82,35%. Các chủng Streptococcus spp kiểm tra cũng còn mẫn cảm với

cephalexin với tỷ lệ 78,15%. Các chủng Streptococcus spp kiểm tra có tỷ lệ kháng

thuốc cao với kanamycin là 63,03%, colistin là 56,30%, các thuốc còn lại đều đã bị

Streptococcus spp kháng lại thấp nhấp là 7,56% với amoxycillin.

Trong nghiên cứu của mình về các loại vi khuẩn gây viêm đường sinh dục

trâu cái, tác giả Nguyễn Văn Thanh (1999), cho biết vi khuẩn Streptococcus spp

phân lập từ dịch viêm đường sinh dục trâu cái có mức độ mẫn cảm cao với một

số loại kháng sinh như: với neomycin và chlotetracyclin là 100%; với ampicillin

là 72,22%. Gần đây, trong công trình nghiên cứu của mình về vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ dịch viêm đường sinh dục bò cái năm 2007, tác giả

cũng cho rằng chúng có mức mẫn cảm cao với một số loại kháng sinh:

ciprofloxacin đạt 90,10%, norfloxacin 72,72% và với ampicillin là 63,63%. Tuy

nhiên chúng mẫn cảm không cao với gentamycin và penicillin là 36,36%. Tỷ lệ

này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của chúng tôi với vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ dịch viêm tử cung của lợn. Điều đó chứng tỏ

không có sự khác biệt nhiều về tính mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn

Streptococcus spp phân lập từ dịch viêm đường sinh dục trâu cái, dịch viêm

đường sinh dục bò cái với vi khuẩn phân lập từ dịch viêm tử cung ở lợn nái.

3.15.2.4. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Salmonella spp phân lập

từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Trong số 10 loại thuốc kiểm tra thì hiện còn 3 loại là: amoxycillin,

cephalexin và gentamycin có độ mẫn cảm đạt trên 90% đối với vi khuẩn

87

Salmonella spp phân lập từ dịch viêm tử cung của lợn mắc hội chứng MMA (bảng

3.22). Vi khuẩn Salmonella spp, phân lập từ dịch viêm tử cung của lợn mắc hội

chứng MMA cũng mẫn cảm cao nhất với amoxycillin: có tới 80/83 chủng

Salmonella spp kiểm tra mẫn cảm, chiếm 96,39%, trong đó số chủng mẫn cảm cao

với thuốc gồm 72/80 chủng chiểm tỷ lệ 86,75%. Tiếp theo là gentamycin, có tới

70/78 chủng vi khuẩn Salmonella spp có độ mẫn cảm cao, 93,98% chủng mẫn cảm

với kháng sinh này. Đứng thứ ba là cephalexin, các chủng vi khuẩn Salmonella

spp phân lập từ dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA có độ mẫn cảm đạt

91,57%. Norfloxacin cũng còn mẫn cảm với vi khuẩn Salmonella spp phân lập từ

dịch viêm tử cung của lợn mắc hội chứng MMA là 85,54%.

Bảng 3.22. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 83 chủng vi khuẩn

Salmonella spp với 10 loại kháng sinh thông dụng

Vi khuẩn mẫn cảm Vi khuẩn

kháng thuốc Mẫn cảm cao Mẫn cảm trung Tổng số (R) bình (I) TT Tên kháng sinh (S)

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu (%) mẫu (%) mẫu (%) mẫu (%)

72 86,75 8 9,64 80 96,39 3 3,61 1 Amoxycillin

58 69,88 18 21,69 76 91,57 7 8,43 2 Cephalexin

41 49,40 9 10,84 50 60,24 33 39,76 3 Cefaclor

31 37,35 14 16,87 45 54,22 38 45,78 4 Colistin

23 27,71 20 24,10 43 51,81 40 48,19 5 Streptomycin

70 84,34 8 9,64 78 93,98 5 6,02 6 Gentamycin

34 40,96 18 21,69 52 62,65 31 37,35 7 Kanamycin

62 74,70 9 10,84 71 85,54 12 14,46 8 Norfloxacin

37 44,58 19 22,89 56 67,47 27 32,53 9 Ofloxacin

10 Sulphamethoxazol/ 30 36,14 7 8,43 37 44,58 46 55,42 Trimethoprim

88

Các kháng sinh có tỷ lệ kháng cao nhất với vi khuẩn Salmonella spp phân

lập từ dịch viêm tử cung của lợn mắc hội chứng MMA là sulfamethoxazol

/trimethoprim với tỷ lệ 55,42%, sau đó là streptomycin với tỷ lệ 48,19%, với

colistin là 45,78%.

Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thanh (2007), vi khuẩn

Salmonella spp được phân lập từ dịch viêm đường sinh dục của bò sữa có mức

độ mẫn cảm cao với một số loại kháng sinh như: norfloxacin, ofloxacin và có

mức độ mẫn cảm không cao với penicillin và streptomycin. Tác giả Bùi Thị Tho

và Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), trong nghiên cứu về Salmonella spp phân lập

từ phân chó bị tiêu chảy cấp tính cũng cho rằng 77,78% vi khuẩn mẫn cảm với 2

loại kháng sinh: norfloxacin và gentamycin. Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng

penicillin không có tác dụng đối với vi khuẩn Salmonella spp phân lập được.

Qua đó, có thể thấy kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp

với các nghiên cứu của các tác giả nêu trên về mức độ mẫn cảm với kháng sinh

của vi khuẩn Salmonella spp Vì vậy, chúng tôi cho rằng nên sử dụng các kháng

sinh amoxycilin, norfloxacin và gentamycin trong việc điều trị các bệnh do vi

khuẩn Salmonella spp gây ra.

3.15.2.5. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của vi khuẩn Pseudomonas spp phân

lập từ dịch tử cung lợn mắc hội chứng MMA với 10 loại kháng sinh thông dụng

Pseudomonas spp là vi khuẩn gram âm, hiếu khí tồn tại trong môi trường,

trên da của động vật. Ở điều kiện bình thường, khi chưa đẻ không có trong sản

dịch của cơ thể lợn nái khỏe mạnh, chúng không gây bệnh. Nhưng khi lọn nái bị

viêm đường sinh dục, chúng sẽ từ môi trường qua dụng cụ chăn nuôi và động vật

trung gian: ruồi, mòng... xâm nhập vào đường sinh dục và chúng sẽ có mặt trong

mẫu dịch tử cung của lợn mắc bệnh. Kết quả phân lập và giám định ở thí nghiệm

trên cho thấy vi khuẩn Pseudomonas spp xuất hiện ỏ 34/135 mẫu sản dịch. Kết quả

kiểm tra kháng sinh đồ của 34 chủng vi khuẩn này được thể hiện ở bảng 3.23.

Trong số 10 kháng sinh kiểm tra, chỉ còn amoxycillin là kháng sinh có tỷ lệ

mẫn cảm cao với vi khuẩn Pseudomonas spp. Có tới 31/34 chủng mẫn cảm, đạt

89

tỷ lệ 91,18%. Tiếp đến, có 3 kháng sinh còn tỷ lệ mẫn cảm cao trên 80% là:

cephalexin và norfloxacin (đạt 88,24%), gentamycin (đạt 82,35%) với các chủng

Pseudomonas spp Tuy nhiên Pseudomonas spp có tỷ lệ kháng thuốc cao với

kanamycin (55,88%) và ofloxacin (44,12%) (bảng 3.23).

Bảng 3.23. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của 34 chủng vi khuẩn

Pseudomonas spp với 10 loại kháng sinh thông dụng

Vi khuẩn mẫn cảm Vi khuẩn

kháng thuốc Mẫn cảm cao Mẫn cảm Tổng số (R) TT Tên kháng sinh trung bình (I) (S)

Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

mẫu mẫu mẫu mẫu (%) (%) (%) (%)

27 79,41 4 11,76 31 91,18 3 8,82 1 Amoxycillin

25 73,53 5 14,71 30 88,24 4 11,76 2 Cephalexin

11 32,35 10 29,41 21 61,76 13 38,24 3 Cefaclor

16 47,06 7 20,59 23 67,65 11 32,35 4 Colistin

15 44,12 7 20,59 22 64,71 12 35,29 5 Streptomycin

24 70,59 4 11,76 28 82,35 6 17,65 6 Gentamycin

9 26,47 6 17,65 15 44,12 19 55,88 7 Kanamycin

23 67,65 7 20,59 30 88,24 4 11,76 8 Norfloxacin

9 26,47 10 29,41 19 55,88 15 44,12 9 Ofloxacin

10 Sulphamethoxazo 21 61,76 4 11,76 25 73,53 9 26,47 /Trimethoprim

3.15.2.6. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của các loại vi khuẩn phân lập từ mẫu

dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA với các loại kháng sinh

Để giúp người chăn nuôi lựa chọn thuốc điều trị có hiệu quả, chúng

tôi đã tiến hành so sánh kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của cả 5 loại vi

khuẩn hiếu khí phân lập được từ dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA.

Trên cơ sở đó lựa chọn thuốc có độ mẫn cảm cao. Kết quả được trình bày tại

bảng 3.24

90

Bảng 3.24. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của 5 loại vi khuẩn với 10 loại kháng sinh

Staphylococcus

Salmonella

Pseudomonas

E. coli

Streptococcus spp

Trung

(n=135)

spp (n=135)

(n=119)

spp (n=83)

spp (n=34)

TT Tên kháng sinh

bình

(%)

n

%

n

%

n

%

n

%

n

%

92,30

127

94,07

118

87,41

110

92,44

80

96,39

31

91,18

1 Amoxycillin

83,74

118

87,41

99

73,33

78,15

76

91,57

30

88,24

93

2 Cephalexin

62,48

107

79,26

57

42,22

68,91

50

60,24

21

61,76

82

3 Cefaclor

55,63

4 Colistin

82

60,74

70

51,85

43,7

45

54,22

23

67,65

52

9 1

36,64

5

90

66,67

0

0

0

43

51,81

22

64,71

0

Streptomycin

82,85

108

80

102

75,56

82,35

78

93,98

28

82,35

98

6 Gentamycin

41,19

34

25,19

50

37,04

36,97

52

62,65

15

44,12

44

7 Kanamycin

86,86

124

91,85

112

82,96

102

85,71

71

85,54

30

88,24

8 Norfloxacin

56,47

64

47,41

69

51,11

60,5

56

67,47

19

55,88

72

9 Ofloxacin

Sufamethoxazol

57

42,22

82

60,74

51,26

37

44,58

25

73,53

61

10

54,47

/Trimethoprim

Tỷ lệ (%)

92.30

100

86.86

83.74

82.85

80

62.48

55.63

56.47

54.47

60

41.19

36.64

40

20

0

Amo

Cepha

Cefaclor Colistin

Stre

Genta

Kana

Nor

Oflo

Sulpha/tri

Kháng sinh

Biểu đồ 3.2. Tính mẫn cảm của vi khuẩn trong dịch tử cung lợn nái với 10 loại kháng sinh

Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ với các vi khuẩn phân lập được từ mẫu

dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA chúng ta thấy: theo thứ tự mẫn cảm

giảm dần thì đầu tiên là amoxycillin, norfloxacin, gentamycin và cephalexin

(bảng 3.24; hình 3.2). Cụ thể như sau:

Kháng sinh có tỷ lệ mẫn cảm cao nhất là amoxycillin: cả 5 loại vi khuẩn

kiểm tra đều có tỷ lệ mẫn cảm cao. Số lượng và tỷ lệ mẫn cảm cao nhất với vi

khuẩn Salmonella spp là 80/83 chủng đạt tỷ lệ 96,39% và tỷ lệ mẫn cảm thấp nhất

là vi khuẩn Staphylococcus spp đạt 82,96%

Đứng thứ hai là norfloxacin với tỷ lệ các vi khuẩn mẫn cảm cao nhất là E.

coli đạt 91,85% và thấp nhất là Staphylococcus spp cũng đạt 82,96%.

Tiếp theo là cephalexin, tỷ lệ 5 vi khuẩn có trong dịch viêm tử cung lợn mắc

hội chứng MMA còn mẫn cảm dao động trong khoảng 73,33% với Staphylococcus

spp đến 91,57% với Salmonella spp

92

Đứng thứ tư là gentamycin có tỷ lệ vi khuẩn mẫn cảm trung bình với 5 loại

vi khuẩn cũng đạt 82,85% trong đó, độ mẫn cảm với Staphylococcus spp đạt thấp

nhất là 75,56% và tỷ lệ thuốc còn độ mẫn cảm cao nhất với vi khuẩn Salmonella spp

là 93,98%.

3.16. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ với tập đoàn vi khuẩn trong mẫu dịch tử

cung của lợn mắc hội chứng MMA

Nguyên tắc sử dụng kháng sinh cũng như yêu cầu thực tiễn sản xuất phải

phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời. Do đó, chúng ta không có thời gian để

phân lập, giám định vi khuẩn rồi làm kháng sinh đồ như trên được. Vì vậy, để

đáp ứng kịp thời công tác điều trị chúng tôi đã làm kháng sinh đồ trực tiếp với

cả tập đoàn vi khuẩn có trong mẫu dịch viêm tử cung của lợn nái mắc hội

chứng MMA để chọn thuốc. Kết quả được trình bày tại bảng 3.25.

Bảng 3.25. Kết quả kiểm tra kháng sinh đồ của tập đoàn vi khuẩn có trong

dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA

__

xmX ±

Φ (mm)

Đường kính vòng Số mẫu Số mẫu Tỷ lệ mẫn vô khuẩn TT Tên kháng sinh kiểm tra mẫn cảm cảm (%)

20,18 ± 0,15 60 53 88,33 1 Amoxycillin (2)

17,24± 0,18 60 40 66,66 2 Cephalexin (4)

16,35± 0,44 33,33 60 20 3 Cefaclor

14,21± 0,15 30,00 60 18 4 Colistin

7,34 ± 0,23 18,33 60 11 5 Streptomycin

19,24± 0,19 60 49 81,66 6 Gentamycin (3)

14,23 ± 0,12 31,66 60 19 7 Kanamycin

22,09± 0,31 60 55 91,66 8 Norfloxacin (1)

11,07± 0,22 45,00 60 7 9 Ofloxacin

07,54± 0,56 16,66 60 10 10

Sulphamethoxazol/ Trimethoprim

93

Từ kết quả ở bảng 3.25 và dựa vào bảng đánh giá đường kính vòng vô khuẩn

chuẩn cho thấy: mức độ mẫn cảm của các vi khuẩn có trong dịch viêm tử cung của

lợn nái với thuốc kháng sinh rất cao. Đối chiếu với bảng qui chuẩn trong phòng xét

nghiệm NCCS 1999, trong 10 loại kháng sinh thí nghiệm, có 03 loại kháng sinh là

amoxycillin, gentamycin và norfloxacin là những thuốc có tỷ lệ vi khuẩn đạt độ

mẫn cảm cao từ 81,66% đến 91,66% với đường kính vòng vô khuẩn đều đạt trên 19

mm. Các loại kháng sinh streptomycin, sulphamethoxazol/trimethoprim,

ofloxacin... có tỷ lệ vi khuẩn mẫn cảm rất thấp. Kết quả này của chúng tôi phù

hợp với kết quả kiểm tra kháng sinh đồ đối với từng loại vi khuẩn phân lập được

từ dịch viêm tử cung lợn mắc hội chứng MMA. Như vậy, trong thực tiễn sản

xuất để chọn ra những thuốc kháng sinh và hoá dược trị liệu dùng điều trị hội

chứng MMA ở lợn nái một cách kịp thời có thể dùng phương pháp làm kháng

sinh đồ ngay với tập đoàn vi khuẩn có trong dịch viêm của tử cung lợn mắc hội

chứng MMA.

Gevaert et al. (2006), khi xác định tính mẫn cảm của kháng sinh enrofloxacin

với các vi khuẩn phân lập được từ mẫu sữa và mẫu dịch ngoáy cổ tử cung lợn nái

mắc hội chứng MMA cho biết, có 34 giống vi khuẩn được tìm thấy trong mẫu sữa

và mẫu dịch cổ tử cung lợn mắc hội chứng MMA, vi khuẩn nhiều nhất là E. coli và

Streptococcus spp và 94% vi khuẩn trong đó bị ức chế bởi norfloxacin ở nồng độ

dưới 2 µg/ml, chỉ có 1 giống E. coli trong mẫu sữa có MIC = > 32 (nồng độ ức chế

tối thiểu) và 1 giống Enterococcus trong dịch cổ tử cung có MIC = 2.

Theo Stukelj et al. (2006), vi khuẩn phân lập được từ sữa, dịch ngoáy cổ tử

cung của lợn mắc hội chứng MMA mẫn cảm 99,7% với enrofloxacin, 99,0% với

gentamycin, 61,7% với neomycin, 54,2% với ampicillin và chúng đề kháng với

tetracycline tới 86,8%, streptomycin là 81,1%.

So sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên thì kết quả xác định tính

mẫn cảm của vi khuẩn có trong mẫu sữa, mẫu dịch viêm tử cung với nofloxacin,

gentamicin, ampicillin trong nghiên cứu của chúng tôi là tương đương.

94

3.17. Kết quả thử nghiệm điều trị hội chứng MMA

Dựa vào kết quả phân lập vi khuẩn, thử kháng sinh đồ cũng như các chế

phẩm thuốc thú y trên thị trường, chúng tôi chọn những chế phẩm chứa kháng sinh

có tác dụng với vi khuẩn E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp,

Salmonella spp, Pseudomonas spp để điều trị, đây là những vi khuẩn chủ yếu gây ra

hội chứng MMA, ngoài ra còn dùng một số thuốc kháng viêm, hạ sốt, dung dịch sát

trùng tử cung, âm đạo, các sản phẩm hỗ trợ sinh sản và vitamin. Các phác đồ điều

trị được bố trí như sau:

Phác đồ 1:

Amoxoil retard: 1 ml/15 kg thể trọng, tiêm bắp

Oxytocin: 2 ml/ngày, tiêm bắp

Dung dịch KMnO4 0,1%: thụt vào tử cung 2 lít/lần/con/ngày

Diclofenac 2,5 % tiêm bắp 1 ml/10 kg thể trọng

Gluco K C: 1 ml/10 kg thể trọng

Phác đồ 2:

Baytril 5%: 1 ml/20 kg thể trọng, tiêm bắp 2 ngày một lần

Oxytocine: 2 ml/lần/ ngày

dung dịch Rivanol 0,1% bơm vào tử cung 2000 ml/ ngày 1 lần

Gluco K C: 1 ml/10 kg thể trọng

Phác đồ 3:

Biogenta: 1 ml/10 kg thể trọng, tiêm bắp ngày 1 lần.

Lutalyse: 2 ml/con, chỉ dùng 1 lần trong suốt quá trình điều trị.

Dung dịch Lugol 0,1% thụt rửa với liều 1500 ml/con/ngày

Flu - viem 1 ml/25 kg thể trọng, tiêm bắp

Gluco K C: 1 ml/10 kg thể trọng

* Ghi chú: thành phần của các thuốc dùng trong 03 phác đồ như sau:

- Amoxoil: amoxycillin trihydrate và dung môi

- Baytril 5%: enrofloxacin 5% (cùng nhóm với kháng sinh norfloxacin được

95

dùng trong bảng thử kháng sinh đồ với các vi khuẩn trong sữa, trong dịch tử

cung lợn mắc hội chứng MMA)

- Biogenta: amoxycillin trihydrate, gentamycin và dung môi

Thử nghiệm được thực hiện trên 90 lợn nái mắc hội chứng MMA. Trong

số nái được điều trị, nái đẻ lứa đầu và các lứa đẻ sau được chia đều cho các lô

thí nghiệm để đảm bảo yếu tố đồng đều về điều kiện vệ sinh chuồng trại cũng

như chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, hộ lý, đồng thời không mắc các bệnh truyền

nhiễm. Thời gian điều trị quy định tối đa là 5 ngày.

Để đánh giá hiệu quả điều trị của từng phác đồ, chúng tôi theo dõi các chỉ

tiêu: thời gian khỏi bệnh về mặt lâm sàng (lợn hết sốt, ăn uống trở lại, không có

dịch viêm tử cung và cho con bú bình thường), tỷ lệ khỏi bệnh, tỷ lệ động dục lại, tỷ

lệ thụ thai. Kết quả được trình bày tại bảng 3.26.

Bảng 3.26. Kết quả điều trị hội chứng MMA

Số nái Số nái thụ thai Phác Số nái Thời gian Thời gian

sau một chu kỳ khỏi bệnh đồ điều điều trị điều trị động dục

(con) (ngày) trị lại (ngày) (con) (%) (con) (%)

88,46 26 86,67 4,5 ± 0,25 6,75 ± 0,5 23 30 1

27 90,00 4,00 ± 0,25 6,25 ± 0,25 24 88,89 30 2

96,55 29 96,67 3,00 ± 0,5 5,50 ± 0,5 28 30 3

Phân tích các liệu trình điều trị khác nhau (bảng 3.26) cho thấy: tỷ lệ khỏi

bệnh về mặt lâm sàng chênh lệch không nhiều, dao động từ 88,46% - 96,55%. Tuy

nhiên sự kết hợp giữa các thuốc khác nhau đưa lại thời gian điều trị và thời gian

động dục lại khác nhau, cụ thể: thời gian điều trị ngắn nhất là 3,00 ngày, thời gian

động dục trở lại nhanh nhất là 5,50 ± 0,5 ngày, tỷ lệ thụ thai sau một chu kỳ đạt cao

nhất là 96,55%. Theo chúng tôi hiệu quả điều trị của phác đồ 3 đạt tỷ lệ cao là do

kết hợp giữa thuốc kháng sinh, kháng viêm, Lutalyze và dung dịch Lugol. Lutalyze

là chất có chứa prostaglandin F2α tự nhiên, có tác dụng tăng cường co bóp, tống

96

sạch nhau và sản dịch sau đẻ ra ngoài, có tác dụng ngăn ngừa viêm tử cung, kích

thích tiết prolactin, tăng sản lượng sữa, rút ngắn khoảng cách từ cai sữa đến động

dục lại, khi dùng Lutalyze kết hợp với dùng dung dịch Lugol 0,1% hạn chế được

viêm tử cung, viêm vú, mất sữa và thúc đẩy lợn nhanh động dục lại sau cai sữa. Kết

quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thanh (2003) khi

nghiên cứu tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại nuôi ở đồng bằng

sông Hồng, tác giả cho biết khi tiêm PGF2α kết hợp với việc sử dụng Lugol 0,1%

thụt rửa tử cung ngày 1 lần cho hiệu quả cao, rút ngắn thời gian điều trị cũng như

thời gian động dục lại của lợn nái. Do PGF2α tạo ra những cơn co bóp nhẹ giống

như những cơn co bóp sinh lý ở tử cung, giúp đẩy sản dịch và dịch viêm ra ngoài,

nhanh chóng hồi phục cơ tử cung, phá vỡ thể vàng giúp gia súc động dục lại. Kết

hợp với Iodine trong Lugol có tác dụng sát trùng, đồng thời qua niêm mạc tử cung

Iodine được hấp thu giúp cơ tử cung hồi phục nhanh, buồng trứng sớm hoạt động,

noãn bao phát triển, làm xuất hiện chu kỳ động dục lại.

Nhận xét của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Hoàng Kim

Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997). Theo Baer and Bilkei (2005), khi tiêm

PGF2α vào tĩnh mạch làm tăng nồng độ Oxytocine trong tĩnh mạch tử cung - buồng

trứng và trong máu ngoại vi. Oxytocine kích thích tuyến vú thải sữa nên có tác dụng

phòng, trị viêm vú và mất sữa.

3.18. Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng hội chứng MMA bằng vệ sinh

thú y và chăm sóc nuôi dưỡng

Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA ở các trang trại là

khá cao, do đó việc áp dụng các biện pháp phòng bệnh nhằm hạn chế tỷ lệ lợn mắc

hội chứng MMA là rất cần thiết. Trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi đã xây

dựng biện pháp phòng hội chứng MMA bằng các biện pháp vệ sinh thú y kết hợp

với chăm sóc nuôi dưỡng theo các bước như sau:

Bước 1: Phối giống: Đảm bảo phối giống đúng kỹ thuật, vô trùng dụng cụ

phối, vệ sinh phần mông và bộ phận sinh dục lợn bằng nước sạch và nước cất, tránh

làm xây sát niêm mạc tử cung.

97

Bước 2: Chăm sóc, nuôi dưỡng: điều chỉnh khẩu phần ăn cho lợn, không để

lợn nái có thể trạng quá béo hoặc quá gầy, bổ sung vitamin, khoáng chất cho lợn nái

mang thai.

Bước 3: Vệ sinh:

Vệ sinh chuồng đẻ: Dọn vệ sinh, sát trùng chuồng đẻ trước khi chuyển lợn

đến, nền chuồng đẻ không được trơn trượt hoặc không bằng phẳng.

Vệ sinh cho lợn: khi lợn có dấu hiệu sắp đẻ, cần được làm vệ sinh sạch phần

mông và âm hộ, lau bầu vú và sàn nhựa bằng nước sát trùng, khi lợn đẻ có máu,

dịch ối chảy ra cần dùng giẻ khô lau sạch, thu gom nhau thai, đồng thời vệ sinh

thường xuyên phần mông, âm hộ, bầu vú, sàn chuồng. Sau khi lợn đẻ 24 giờ bơm

1.500 ml dung dịch lugol 0,1% vào tử cung, bơm 3 lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ.

Bước 4: Dùng thuốc: khi lợn bắt đầu đẻ, tiêm Amoxoil retard 1 ml/30 kg thể

trọng, khi đẻ xong tiêm Oxytocin 2 ml/con, khi lợn đẻ xong 24 giờ, bơm 1000 ml

dung dịch Lugol 0,1%. Dùng thuốc trợ sức, trợ lực.

Chúng tôi tiến hành chọn ngẫu nhiên lợn nái trong cùng 1 trại, chia làm hai

lô: lô thí nghiệm và lô đối chứng. Thí nghiệm được thực hiện tại 04 trang trại:

Lô 1: cho ăn, vệ sinh chăm sóc nuôi dưỡng theo các bước thí nghiệm;

Lô 2: đối chứng (không theo các bước thí nghiệm mà áp dụng theo điều kiện

sẵn có của trại).

Trong quy trình thử nghiệm phòng bệnh, việc vệ sinh cho lợn nái cần được

tiến hành ngay từ khi lợn mang thai, chuồng trại được giữ khô thoáng, phân thải ra

được dọn ngay không để lợn nằm lên phân. Tùy vào thời tiết mà có thể tắm cho nái

ngày một lần, hoặc hai ngày một lần vào mùa hè, lối đi được rửa sạch và giữ khô

thoáng. Mùa đông một tuần tắm cho nái hai lần. Việc phun thuốc sát trùng được tiến

hành hai lần/tuần. Đối với khu vực phối giống cần được vệ sinh sạch sẽ ngay sau

khi phối giống và phun thuốc sát trùng hai lần/ngày. Trước khi lợn đẻ một tuần cần

làm vệ sinh chuồng đẻ: chuồng, gầm chuồng, sàn và tấm đan phải được tháo rời và

ngâm với hóa chất sát trùng, cọ rửa sạch, lắp ghép, quét vôi loãng, để khô rồi phun

98

thuốc sát trùng. Trước khi chuyển lợn đến chuồng đẻ cần tắm rửa cho lợn bằng

nước xà phòng nhất là vệ sinh bộ phận sinh dục trước và sau đẻ là rất quan trọng.

Mỗi ô chuồng phải có dụng cụ vệ sinh và dụng cu đỡ đẻ riêng. Thực hiện

việc phối giống đúng kỹ thuật, đỡ đẻ an toàn, dụng cụ phối giống, dụng cụ đỡ đẻ

phải được sát trùng, không làm xây xát niêm mạc tử cung; cho lợn uống nước sạch

theo nhu cầu; tiêm amoxoil 1 ml/30 kg thể trọng khi lợn đẻ, nhằm ngăn chặn các

loại vi khuẩn phát triển và gây bệnh; tiêm Hanprost hoặc Lutalyse là một đồng phân

chức năng của PGF2α được chỉ định trong các trường hợp: kích thích phát triển

buồng trứng, hoàn thiện chu kỳ động dục ở kỳ sau; gây cảm ứng đồng bộ về động

dục và cho nái đẻ đồng loạt để quản lý sinh sản một cách hữu hiệu; chủ động chọn

thời điểm cho lợn nái đẻ theo ý muốn, nái đẻ tự nhiên sau khi tiêm thuốc 20 - 30

giờ; điều trị viêm nội mạc tử cung, viêm tử cung hoá mủ, hội chứng MMA; đẩy sản

dịch ra ngoài làm sạch tử cung; điều trị rối loạn chức năng rụng trứng, chu kỳ rụng

trứng không đều và không có trứng.

Ngoài ra, việc đảm bảo chế độ ăn uống hợp lý cho lợn nái là rất quan trọng:

khẩu phần ăn của lợn nái mang thai có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản.

Lợn nái ăn khẩu phần không hợp lý trong lúc mang thai sẽ giảm khả năng tích lũy

chất dinh dưỡng trong cơ thể, năng suất sữa sẽ thấp trong lúc nuôi con, thể trạng

yếu, lợn con sinh ra yếu ớt, trọng lượng sơ sinh thấp, tỷ lệ lợn con chết cao. Ngược

lại, cho lợn nái ăn khẩu phần nhiều năng lượng sẽ gây tình trạng quá béo, ảnh

hưởng xấu đến năng suất sinh sản. Do đó, cần lưu ý đến thể trạng của lợn nái, mức

tăng trọng dự kiến lúc mang thai, các yếu tố quản lý và tiểu khí hậu chuồng nuôi để

cung cấp khẩu phần thích hợp, giúp lợn nái có thể trạng tốt. Theo Aherne and

Kirkwood (1985), lợn nái cần tăng khối lượng cơ thể 25 kg qua mỗi lứa đẻ từ lứa

một đến lứa thứ tư, ngoài ra khối lượng cơ thể của lợn con và nhau thai khoảng 20

kg. Như vậy, tổng trọng lượng cần tăng từ lúc phối đến lúc đẻ là 45 kg. Đây là mục

tiêu quan trọng mà các nhà chăn nuôi cần lưu ý để cung cấp khẩu phần ăn thích hợp

cho lợn nái mang thai. Tiêm phòng đầy đủ các loại vac xin phòng bệnh như: dịch tả,

lở mồm long móng, tai xanh, giả dại, đóng dấu, suyễn lợn…

99

Sau khi áp dụng các bước phòng bệnh như trên, chúng tôi tiến hành theo dõi,

đánh giá hiệu quả phòng ngừa hội chứng MMA ở lợn qua các chỉ tiêu: thời gian

động dục lại, tỷ lệ thụ thai và năng suất sinh sản của lợn nái. Kết quả được trình bày

tại bảng 3.27 và 3.28

Bảng 3.27. Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng hội chứng MMA ở lợn nái

Số lợn Số lợn phối Thời gian Lô thí mắc bệnh giống thụ thai Số nái động dục lại nghiệm nghiên cứu Tỷ lệ Tỷ lệ (ngày) (con) (con) (con) (%) (%)

57 Lô 1 9 15,79 4,12a ± 1,13 54 94,73

73 Lô 2 22 30,01 6,48b ± 1,18 65 89,04

Ghi chú : Trong cùng một cột, những số trung bình có mang chữ con khác

nhau thì sai khác có ý nghĩa mức P < 0,05.

Sau khi áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng bệnh, tỷ lệ mắc hội chứng

MMA của lợn ở lô 1 (lô thí nghiệm) là 15,79%, thấp hơn so với tỷ lệ lợn mắc hội

chứng MMA ở lô 2 (lô đối chứng) (30,01%), thời gian động dục lại của lợn ở lô thí

nghiệm cũng ngắn hơn so với lô đối chứng (lô thí nghiệm là 4,12 ± 1,13 ngày, lô

đối chứng là 6,48 ± 1,18 ngày), tỷ lệ lợn phối giống lần đầu thụ thai ở lô thí nghiệm

cao hơn ở lô đối chứng (94,73% so với 89,04%).

Như vậy, khi áp dụng đầy đủ các bước kỹ thuật chăn nuôi nhằm phòng ngừa

hội chứng MMA đã giảm tỷ lệ mắc bệnh ở lợn nái, rút ngắn thời gian chờ phối, tăng

tỷ lệ lợn nái phối giống lần đầu thụ thai. Qua đó làm tăng hiệu quả sinh sản của lợn

nái, giảm chi phí cho người chăn nuôi. Kết quả theo dõi của chúng tôi phù hợp với

những nghiên cứu của Nguyễn Như Pho (2002) khi nghiên cứu các yếu tố kỹ thuật

chăn nuôi ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc hội chứng MMA và phù hợp với nghiên cứu của

Lerch (1987), Gajecki (1990), Martineau (1990), Smith et al. (1995), Taylor (1995),

cho rằng tăng cường điều kiện vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố

quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau đẻ.

100

Bảng 3.28. Kết quả theo dõi các đàn lợn con của những lợn nái

được phòng ngừa hội chứng MMA

Lô 1 Lô 2 Chỉ tiêu theo dõi Xác xuất (P)

Số đàn theo dõi 73 57

Số lợn con chọn nuôi/ổ 14,80±0,33 11,92±0,41 < 0,05

Tỷ lệ lợn con tiêu chảy (%) 12,73 29,87 < 0,05

Trọng lượng 21 ngày tuổi/ổ (Kg) 83,46±1,03 63,52±1,28 < 0,05

Số lợn con cai sữa/ổ 12,41±0,18 10,29±0,22 < 0,05

Tỷ lệ lợn con tiêu chảy ở lô 2 là 29,87%, cao hơn so với lô 1 là 12,73%;

trọng lượng cai sữa lúc 21 ngày tuổi ở lô 1là 83,46 ± 0,03 kg/ổ cao hơn lô 2 là

63,52 ± 1,28 kg/ổ; số lợn con cai sữa/ổ lô1 là 12,41 ± 0,18 con/ổ cao hơn lô 2

là 10,29 ± 0,22 con/ổ (bảng 3.28).

Hình 3.2. Lô thí nghiệm phòng Hình 3.3. Lô đối chứng phòng

hội chứng MMA hội chứng MMA

101

Kết quả thí nghiệm cho thấy: tỷ lệ tiêu chảy lợn con cao ở các lợn nái mắc hội

chứng MMA. Trong trường hợp lợn bị viêm tử cung, sản dịch rơi vãi trên nền

chuồng, dính vào thân và núm vú lợn nái. Trường hợp lợn nái bị viêm vú, sữa lợn

chứa các vi khuẩn gây bệnh, khi lợn con bú mẹ hoặc liếm nền chuồng sẽ tạo cơ hội

cho vi khuẩn xâm nhập vào đường tiêu hoá gây tiêu chảy. Các kết quả khảo sát

phân lợn tiêu chảy cũng cho thấy vi khuẩn gây tiêu chảy chủ yếu là E. coli. Điều

này giúp khẳng định tình trạng tiêu chảy trên lợn con có liên quan đến sự nhiễm

trùng tử cung hoặc bầu vú của lợn mẹ. Nhờ hiệu quả sát trùng cao ở lô 1 mà hội

chứng MMA giảm thấp đã góp phần hạn chế đáng kể tình trạng tiêu chảy ở lợn con.

Branstad and Ross (1987) cũng cho biết tình trạng tiêu chảy tăng cao trên lợn con từ

nhóm lợn nái mắc hội chứng MMA.

Như vậy, thông qua việc tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn

nái trước và sau khi đẻ đã phòng ngừa có hiệu quả sự nhiễm trùng, góp phần làm

giảm tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA, giảm thấp tình trạng tiêu chảy ở lợn con,

giúp lợn con lớn nhanh, hạn chế tỷ lệ chết, nâng cao trọng lượng lợn con lúc 21

ngày tuổi.

102

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Từ những kết quả thu được trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi rút ra

những kết luận và kiến nghị sau đây:

1. Kết luận

1. Những biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA là: sốt cao,

mệt mỏi, ủ rũ, bỏ hoặc biếng ăn, dịch viêm tử cung chảy ra từ âm hộ, vú sưng,

nóng, đỏ, đau; lợn mẹ nằm sấp không cho con bú.

Tỷ lệ lưu hành hội chứng MMA ở đàn lợn nái ngoại nuôi tại các tỉnh Bắc

Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội là 48,48%. Lứa đẻ và mùa vụ

ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ lưu hành của hội chứng MMA; lứa đẻ đầu và từ lứa thứ 5

trở đi có tỷ lệ mắc hội chứng MMA cao hơn những lứa đẻ còn lại; tỷ lệ lưu hành hội

chứng MMA cao nhất ở mùa hè và thấp nhất vào mùa thu.

2. Hội chứng MMA ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất sinh sản của lợn nái;

thời gian động dục lại sau cai sữa dài hơn, tỷ lệ thụ thai và số lợn con sinh ra còn

sống sau 24h/ổ thấp hơn so với lợn nái bình thường.

3. Có sự thay đổi rõ rệt về các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của lợn nái mắc

hội chứng MMA so với lợn nái bình thường: Số lượng hồng cầu, hàm lượng Hb, thể

tích hồng cầu, tỷ khối huyết cầu, nồng độ huyết sắc tố, huyết sắc tố trong một hồng

cầu, tổng số bạch cầu và tỷ lệ bạch cầu trung tính của lợn nái mắc hội chứng MMA đều

cao hơn, ngược lại tỷ lệ các loại bạch cầu khác thấp hơn so với lợn nái bình thường (P

< 0,05); Hàm lượng Albumin huyết thanh, Protein tổng số và hàm lượng đường trong

máu của lợn nái mắc hội chứng MMA thấp hơn của lợn nái bình thường. Ngược lại các

tiểu phần α và γ - Globulin, hoạt độ của enzyme GOT và GPT trong huyết thanh của

lợn mắc hội chứng MMA cao hơn của lợn nái bình thường (P < 0,05).

4. Hàm lượng mỡ, protein, đường, vật chất khô, nhiệt độ đông đặc và pH của

sữa lợn mắc hội chứng MMA thấp hơn so với các hàm lượng này của lợn nái bình

thường (P < 0,05).

103

5. Trong sữa lợn mắc hội chứng MMA phân lập được 03 loài vi khuẩn là: E.

coli, Staphylococcus spp, Streptococcus spp Trong dịch tử cung lợn mắc hội chứng

MMA phân lập được 05 loài vi khuẩn là: E. coli, Staphylococcus spp, Streptococcus

spp, Salmonella spp và Pseudomonas spp Tổng số các vi khuẩn có trong mẫu sữa,

mẫu dịch tử cung của lợn mắc hội chứng MMA cao hơn nhiều lần so với tổng số vi

khuẩn trong các mẫu này ở lợn nái bình thường.

6. Các loại kháng sinh: norfloxacin, gentamycin, amoxyclin, cephalexin có

tính mẫn cảm cao với các loài vi khuẩn phân lập được từ mẫu sữa, mẫu dịch tử cung

lợn nái mắc hội chứng MMA.

7. Kết quả điều trị hội chứng MMA bằng kháng sinh phụ thuộc vào việc

chọn thuốc và kết hợp với một số chế phẩm hỗ trợ điều trị như Lutalyze, PGF2α

nhằm rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả điều trị.

8. Thực hiện tốt biện pháp vệ sinh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng và kỹ thuật đỡ

đẻ có thể giảm tỷ lệ mắc hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa ở lợn nái (từ

30,01% xuống còn 15,79%), giảm tỷ lệ tiêu chảy, còi cọc ở lợn con (từ 33% xuống

còn 15%).

2. Kiến nghị

Để hạn chế lợn mắc hội chứng MMA, các trang trại cần áp dụng đầy đủ,

nghiêm ngặt các bước phòng bệnh vào thực tế chăn nuôi. Xây dựng kế hoạch loại

thải lợn nái phù hợp để duy trì ổn định cơ cấu đàn. Khi lợn mắc hội chứng MMA

thể điển hình, biện pháp khắc phục tốt nhất là ghép đàn con và loại thải lợn mẹ.

Các trang trại nên áp dụng điều trị dự phòng cho lợn nái sau đẻ để giảm thiểu tỷ lệ mắc hội chứng MMA khi thân nhiệt lợn sau đẻ tăng đến 39,50C bằng

các thuốc kháng sinh và chế phẩm hỗ trợ sinh sản như Lutalyze PGF 2α với liều

1,5 - 2 ml/con, dùng 01 lần trong thời gian điều trị.

104

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Văn Thanh, Trịnh Đình Thâu (2013). Thực trạng hội

chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (Metritis, Mastitis, Agalactia - M.M.A) và

ảnh hưởng của nó đến năng suất sinh sản của lợn nái, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật

Thú y tập XX, số 6 - 2013: 47-52

(2013). Biểu hiện lâm sàng và một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của lợn mắc

hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa, Tạp chí Khoa học Phát triển, tập 11, số

5:641-647.

2. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Văn Thanh, Trịnh Đình Thâu, Phạm Kim Đăng

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt 1. Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng (2006). Năng suất sinh sản, nuôi thịt và chất lượng thịt của lợn nái Yorkshire phối giống với đực Landrace và đực Pietrain, Tạp chí Chăn nuôi số 12 - 2006, Hội Chăn nuôi Việt Nam, tr 4-7.

2. Lê Minh Chí và Nguyễn Như Pho (1985). Hội chứng MMA ở heo nái sinh sản, Kết quả nghiên cứu khoa học 1981-1985, Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM, tr 48-51 3. Trần Thị Dân (2004). Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, NXB Nông nghiệp TPHCM. 4. Đoàn Thị Kim Dung, Lê Thị Tài và Phương Song Liên (2002). Phòng và trị một số

bệnh trong thú y bằng thuốc nam, NXB Nông nghiệp.

5. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long và Nguyễn Văn Thanh (2002). Giáo trình sinh sản

gia súc, NXB Nông nghiệp.

6. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ và Huỳnh Văn Kháng (2000). Bệnh

ở lợn nái và lợn con, NXB Nông nghiệp.

7. Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997). Công nghệ sinh sản trong chăn

nuôi bò, NXB Nông nghiệp.

8. Nguyễn Thị Hồng (2007). Hội chứng MMA (Mastitis, Metritis, Agalactia) trên heo,

Truy cập ngày 17/9/2013 từ http://www.khuyennongtphcm.com.

9. Nguyễn Thị Hương (2010). Khả năng sinh sản và hội chứng viêm tử cung, viêm vú và mất sữa (MMA) trên đàn lợn nái ngoại sinh sản nuôi tại Trại giống lợn Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

10. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Hữu Quán, Hoàng Văn Hoan, Trần Đức Hạnh, Nguyễn Huy

Đăng và Đỗ Ngọc Thúy (2011). Bệnh sinh sản ở vật nuôi, NXB Hà Nội.

11. Nguyễn Quang Linh (2005). Giáo trình Chăn nuôi lợn, NXB Nông nghiệp Hà Nội -

2005.

12. Công ty Nhân Lộc (2011). Hội chứng Viêm vú - Viêm tử cung - Mất sữa (Mastitis - Metritis - Agalactic), truy cập ngày 15/9/2013 từ http://www.rovetco.com. 13. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ và Nguyễn Văn Trí (2000). Thuốc thú y và cách sử

dụng, NXB Nông nghiệp.

14. Madec.F và Neva.C (1995). Viêm tử cung và chức năng sinh sản của lợn nái, Tạp chí

khoa học kỹ thuật thú y, tập 2.

15. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên và Phạm Ngọc Thạch (1997). Giáo trình Chẩn

đoán lâm sàng Thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Nhiên, Cù Hữu Phú và Phạm Bảo Ngọc (1999). Kết quả phân lập vi khuẩn từ bò sữa bị viêm vú, thử kháng sinh đồ và điều trị thử nghiệm, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y tập VI, số 1, tr 43-47.

17. Nguyễn Văn Phát (2010). Bệnh viêm vú bò và một số biện pháp phòng trị, Luận án tiến sĩ

106

Nông nghiệp, trường Đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Như Pho (2002). Ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật chăn nuôi đến hội chứng MMA và năng suất sinh sản heo nái, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.

19. Nguyễn Phúc Quý, Phùng Đắc Cam và Lương Ngọc Trân (1991). Kỹ thuật xét nghiệm

vi sinh vật y học, NXB Văn Hóa.

20. Sobko A.I. và N.I.Gadenko (1978). Cẩm nang bệnh lợn, (Trần Hoàng và

Phan Thanh Phượng dịch), Tập 1, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Thanh (1999). Tính mẫn cảm và tính kháng thuốc của các vi khuẩn phân lập từ dịch viêm đường sinh dục trâu cái, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập VI, số 1, tr 37 - 42.

22. Nguyễn Văn Thanh (2003). Khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại ĐBSH và thử nghiệm điều trị, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, tập 10.

23. Nguyễn Văn Thanh (2007). Thành phần các loài vi khuẩn trong dịch viêm tử cung và âm đạo của bò sữa và tính mẫn cảm với một số loại kháng sinh thường dùng, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, số 2, tập 14, tr 51-55.

24. Chu Đức Thắng và Phạm Ngọc Thạch (2008). Chẩn đoán bệnh gia súc, NXB Nông nghiệp 25. Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010). Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y tập XVII, tr 72.

26. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh và Đoàn Đức Thành (2010). Thực trạng hội chứng viêm vú, viêm tử cung, mất sữa (MMA) ở đàn lợn nái ngoại nuôi theo mô hình trang trại thuộc tỉnh Thái Bình và thử nghiệm phòng trị, Tạp chí KHKT Chăn nuôi (JAHST) , số 1 - 2010, Hà Nội.

27. Đặng Đắc Thiệu (1978). Hội chứng MMA ở heo nái sinh sản, Tập san KHKT số 1-

2/1978, Trường Đại học Nông nghiệp IV, tr.58 - 60.

28. Bùi Thị Tho và Nguyễn Thị Thanh Hà (2007). Kiểm tra tính mẫn cảm, kháng thuốc của vi khuẩn E. coli và Salmonella phân lập từ phân chó bị bệnh tiêu chảy cấp tính. ứng dụng trong điều trị lâm sàng, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y. Tập XIV. Số 4, tr 42-49.

29. Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi và Lê Mộng Loan (1996). Sinh

lý học gia súc, NXB Nông nghiệp Hà Nội.

30. Tạ Thị Vịnh (1991). Giáo trình sinh lý bệnh Thú y, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà

Nội.

107

Tài liệu dịch 31. Madec F. và C.Neva (1995). Viêm tử cung và chức năng sinh sản của lợn nái, Tạp chí

khoa học kỹ thuật thú y, Tập 2.

32. Sobko, A.I. and Gadenko, N.I. (1978). Cẩm nang bệnh lợn, (Trần Hoàng và

Phan Thanh Phượng dịch) Tập 1, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

33. Xưxoep, A.A (1985). Sinh lý sinh sản gia súc (1985), NXB Nông nghiệp. tr 429.

Tài liệu tiếng nước ngoài 34. Aherne, F.X. and Kirkwood, R.N. (1985). Nutrition and sow prolificacy, Journal of

reproduction, 33, pp. 169-183.

35. Anonymous (2012). Mastitis-inflammation of the mamnary glands, Truy cập ngày

18/9/2013 từ http://www.thepigsite.com/ thepigsite pig health.

36. Arut Kidcha - orrapin (2006). MMA at farrowing: Guidelines for monitoring and

prevention, truy cập ngày 16/9/2013 từ http://www.better pharma.com

37. Backstrom, L., Morkoç, A.C., Connor, J., Larson, R. and Price, W. (1984). Clinical study of mastitis-metritis-agalactia in sows in Illinois, Journal of the American Veterinary Medical Association (impact factor: 1.79). 08/1984; 185(1), pp. 70. 38. Baer, C. and Bilkei G. (2005). Ultrasonographic and Gross Pathological Findings in the Mammary Glands of Weaned Sows Having Suffered Recidiving Mastitis Metritis, Agalactia, Reproduction in Domestic Animals, Volume 40, Issue 6, pp 544-547, Dec. 2005.

39. Berstchinger, H.U. and Pohlenz, J. (1980). Coliforms mastitis (In: Diseases of swine,

5th edition), Iowa State University Press.

40. Berstchinger, H.U. (1993). Escherichia coli infections, In: Diseases of swine, 7th

edition, Iowa State University Press, Iowa, U.S.A., pp.511-517.

41. Bilkei G. and Horn, A. (1991). The therapy of the metritis, mastitis, agalactia (MMA) complex of swine, Berl Munch Tierarztl Wochenschr. 1991 Dec 1, 104(12), pp. 421 [Article in German].

42. Bilkei,G. and Boleskei, A. (1993). The effects of feeding regimes in the last month of gestation on the body condition and reproductive performance of sow of different body condition and parity, Tieraztliche Umschau, 48(10), pp. 629-635.

43. Bilkei, G., Boleskei, A., Clavadetscher, E., Goos, T., Hofmann, C., Bilkei, H. and Szenci, O. (1994a). Periparturient diseases complex of the sow. The influence of peripartal bacteriuria on the development of puerperal diseases of sows with a history of urinary tract infection and vaginal-vulva discharge, Berliner und munchener Tieraztliche- wochenaschrift, 107(11), pp. 373-376.

44. Bilkei, G., Boleskei, A., Goos, T., Hofmann, C. and Szenci, O. (1994b). The prevalence of E. coli in urogenital tract infections of sows, Tieraztliche Umschau, 49(8), pp. 471-472.

45. Bostedt, H., Maier, G., Herfen, K. and Hospen, R. (1998). Clinical examinations on gilts

108

with puerperal septicaemia and toxaemia, Tierärztliche Praxis. 1998;26, pp. 332-338.

46. Bozhkova, G., Gŭlŭbinov, G.V., Korudzhiĭski, N., Dzhurova, I. and Angelov, L. (1983). Clinical, cytological and microbiological studies of the MMA syndrome, Vet Med Nauki, 1983;20(5-6), pp. 57-63.

47. BPEX (2011). Mastitis, Metritis, Agalactia (MMA), Knowledge Transfer Bulletin, No.

10.

48. Branstad, J.C. and Ross, R.F. (1987). Lactation falture in swine, Iowa state university

veterinarian, 49(1), pp.36-39.

49. Busse, F. W. B. (2006). Correlation between the infection of the urogenital tracts and MMA and steps against infection, Proc. 19th IPVS Congr., Denmark, 2006, 2: 480, pp.199.

50. Christensen, RV., Aalbaek, B. and Jensen, HE. (2007). Pathology of udder lesions in

sows, J Vet Med A Physiol Pathol Clin Med. 2007 Nov; 54(9), pp. 491

51. Christie, R., Atkins, N. E. and Munch-Petersen, E. (1944). A note on a lytic phenomenon shown by group B streptococci. Aust J Exp Biol Med Sci 22, pp. 197- 200.

52. Colett, D.J.A. (1989). Nutrional strategies for breeding sows, In: Manipulating pig

production II, Australian pig science association, pp. 281-284.

53. Devillers, N., Farmer, C., Le Dividich, J. and Prunier, A. (2007). Variability of colostrum

yield and colostrum intake in pigs, Animal. 1 (7), pp. 1033-1041.

54. During, F. and Friton, G. (2003). Control losses from MMA and locomotor disorders,

The PigSite.com, Nov.

55. Eliasson C. and Isberg, S. (2011). Production and composition of sow milk, Literature

Review • 3 hec • Second cycle, A1N Uppsala

56. Esquijeroza, Y. (2006). Effectiveness of cirkon V to prevent postpartum metritis in

sow, Truy cập ngày 19/9/2013 từ http://www.monografias.com.

57. Farhana (2012). Measuring the pH of milk, Truy cập ngày 16/11/2013 từ

http://www.slideshare.net.

58. Gajecki, M., Milo, Z., Zdunczyk, E., Przala, F., Bakula, T. and Baczek, W. (1990). The influence of basic zoohygienic fators on the prevalence of MMAsyndrome in young sow, Medycyna Weterynaryjna, 46(11), pp. 447-449.

59. Gardner, J.A.A., Dunkin, A.C. and Lloyd, L.C. (1990). Metritis-Mastitis-Agalactia, In: Pig

production in Autralia, Butterworths, Sydney, pp. 166-167.

60. Gerjets Imke (2011). Coliform mastitis in sows: Analysis of potential influencing factors and bacterial pathogens with special emphasis on Escherichia coli, Journal of swine health and production, Vol 17, No 2, pp 97-105

61. Gevaert, D., Vyt, P. H. and Vanrabaeys, M. (2006). Susceptibility to enrofloxacin of bacteria isolated from sows suffering from (sub) clinical MMA, Proc. 19th IPVS Congr., Denmark, 2: 444, pp.88.

62. Gooneratne, A.D., Hartmann, P.E. and Nottage, H.M. (1982). The initiation of lactation in

109

sows and the mastitis-metritis-agalactia syndrome, Anim. Reprod. Sci. 5, pp. 135-140. 63. Heinritzi, K. and Hagn, J. (1999). Comparison of therapeutic performance of the new Cephalosporin Cefquinome with other treatment regimes in gilts with puerperal septicaemia and toxaemia syndrome, Tierärztl Prax 27, pp. 114-121.

64. Heber L, Cornelia P, Ioan Pe, Ioana B, Diana M, Ovidiu S. and Sandel P (2010). Possibilities to Combat MMA Syndrome in Sows, Scientific Papers: Animal Science and Biotechnologies, 2010, 43 (2)

65. Hermansson, S., Einarsson, K., Larsson and Backstrom, L. (1978). On the agalactia postpartum in the sow -A clinical study, Nord Vet Med, 1978; 30, pp. 465-473.

66. Hoy, S. (2004). Nine year of data MMA, Pig progress, Volume 20, No. 4 2004. 67. Hulten, F., Phrsson, A., Baverrnd, V. and Magnnson, U. (2006). Experimental infection of the sow's mammary gland during lactation - A pilot study, Proc. 19th IPVS Congr., Denmark, 2006, 2: 481, pp.256-257.

68. Hurley, W. (1997). Milk composition, Illini PorkNet Papers. 69. Jensen, H. E., Christensen, R. V. and Aalbaek, B. (2006), Udder lesions in sows, Proc.

19th IPVS Congr., Denmark, 2006, 2: 483, pp. 87-88.

70. Kemper, N. and Gerjets, I. (2009). Bacteria in milk from anterior and posterior mammary glands in sows affected and unaffected by postpartum dysgalactia syndrome (PPDS). Acta Veterinaria Scandinavica 51, pp. 26.

71. Kemper, N., Bardehle1, D., Lehmann, J., Gerjets, I., Looft, H. and Preißler, R. (2013). The role of bacterial pathogens in coliform mastitis in sows, Berliner und Münchener Tierärztliche Wochenschrift 126, Heft 3/4, Seiten, pp.130-136. 72. Klopfenstein, C., Farmer, C. and Martineau, G.P. (2006). Diseases of the Mammary Glands and Lactation Problems. In: Straw, B.E., Zimmermann, J.J., Taylor, D.J. (Eds.), Diseases of swine. Iowa State University Press, pp. 833-860.

73. Kotowski, K. (1990). The efficacy of wisol-T in pig production, Medycyna

weterynaryjna, 46(10), pp. 401-402.

74. Lallemand Animal Nutrition (2012). Live yeast Levucell® SB reduces the incidence of Mastitis Metritis Agalactia in at-risk pig farms, On June 1st the results of two studies were shown for the first time at the 12th International Symposium on Digestive Physiology in Pigs, in Keystone, Colorado, USA.

75. Lazarević, M., Milovanović, A, Barna, T., Miljas, N. and Dubravka, M. (2012). Endometritis therapy in sows by intra-uterine installation of yeast cell wall solution, Acta Veterinaria (Beograd), Vol. 62, No. 5-6, pp. 611-626.

76. Lerch, A. (1987). Origins and prevention of the mastitis metritis agalactia complex in

sows, Wiener tierarztliche monatsschrift, 74(2), pp. 71.

77. Maffelo, G., Redaelli, G., Ballabio, R. and Baroni, P. (1984). Evaluation of milk production and MMA complex in sows treat with PGF2α analogues on day 111 of pregnancy, Proceeding of the 8th international pig veterinary society congress, Ghent, Belgium, pp. 288.

110

78. Maes, D., Papadopoulos, G., Cools, A. and Janssens G. P. J (2010). Postpartum dysgalactia in sows: pathophysiology and risk factors. Tierärztl Prax (2010); 38 (Suppl 1), pp. S15-S20.

79. Martin, CE., Hooper, BE. and Armstrong, CH (1967). A clinical and pathological study of the mastitis-metritis-agalactia syndrome of sows. J Am Vet Med Assoc 1967, 151, pp. 1629-1634

80. Martin C.E., Wagner W.C., Elmore R.G. and Ross R.F. (1990). Mastitis, metritis, agalactia in swine, Colorado State University Extension Service, no. 8.011. 81. Martin, H.J. and Barry J.E (2000). Essential Reproduction, Fifth ed. 2000: Blackwell

Science. 1, pp. 274.

82. Martineau, G.P. (1990). Body building syndrome in sows, Proceeding animal

association swine practice, pp. 345-348.

83. Martineau G.P., Smith B. and Doize B. (1992). Pathogenesis, prevention and treatment of lactational insufficiency in sows, Vet Clin North Am: Food Anim Pract; 8, pp. 661-683.

84. Martineau, G.P. (2011). Pospartum Dysglactia Syndrome in sows, Truy cập ngày

18/9/2013 từ http://www.merck mauals.com.

85. Masalmeh M., Baumgartner, W., Passerning, A., Silber, R. and Hinterdorfer, F. (1990). Bacteriological studies on sows with puerperal mastitis (MMA syndrome) on various farm in Austria, Tierarztliche- Umschau, 45(8), pp. 526-535.

86. McIntosh, G.B. (1996). Mastitis metritis agalactia syndrome, Science report, Animal research institute, Yeerongpilly, Queensland, Australia, Unpublish, pp. 1-4. 87. Mendler, Z., Sudaric, B., Fazekas, J., Knapic, A. and Bidin, S. (1997). Etoflok injection solution in Prophylaxis and therapy of MMA Syndrome in sows, Praxis veterinaria zagreb, 45(3), pp. 261-265.

88. Mercy, A.R. (1990). Post natal disorders of sows, In: Pig production in Australia,

Butterworths Sydney, pp. 165-167.

10/9/2013

ngày

89. Muirhead, M and Alexander, T. (2010). Reproductive System, Managing Pig Health từ of Disease, Truy

cập

the Treatment

and http://www.thepigsite.com

90. Ognean, L., Beres, M., Gh., Pavel, G, Vlasiu, A., Cernea, C., Mihai, C., Modovan M. and Sebastian, T (2010). The Evolution of the Hemogram and Certain Biochemical Parameters from Blood and Milk of Sows During the first Week Post-Partum, Bulletin UASVM, Veterinary Medicine, 67(1).

91. Papadopoulos, G., Vanderhaeghe, C., Janssens, GPJ., Dewulf, J. and Maes, D. (2009).

Risk factors associated with postpartum dysgalactia syndrome, Vet. J.

92. Penny, R.H.C. (1970). The agalactia complex in the sow, American veterinary journal,

46, pp. 153-159.

93. Perestrelo. R, H. Perestrelo F. Madec JP. and Tillon J (1994). Prevention of metritis- mastitis - agalaxia - syndrome in sows, Veterinary Research; 1994: 25, pp. 262-264 94. Persson, A., Pedersen, A.E., Goransson, L. and Kuhl, W. (1989). A long term study on

111

the health status and performance of sows on different feed allowances during late pregnancy, Clinical observation with special reference to agalactia postpartum, Acta veterinaria scandinavica, 30(1), pp. 9-17.

95. Preibler, R. and Kemper, N. (2011). Mastitis in sows - current knowledge and opinions, 62nd Annual Meeting of the European Federation of Animal Science, EAAP 2011, Stavanger, Norway.

96. Preibler R., Hinrichs D., Reiners K., Looft H. and Kemper N. (2012). Estimation of variance components for postpartum dysgalactia syndrome in sows, J Anim Breed Genet 129, pp. 98-102.

97. Quinn, P.J., Carter, M.E., Markey and Carter, G.R., 1994. Clinical veterinary microbiology,

University College Dublon, London, USA. pp. 331- 340.

98. Radostits, O.M. and Blood, D.C. (1997). Mastitis metritis agalactia (MMA) syndrome in sows (toxemic agalactia, farrowing fever, lactation failure), Veterinary medicine, W.B. Saunders company Ltd, London, pp. 618-623.

99. Raszyk, J., Canderle. J., Dvorak, M., Toulova, M. and Matouskova, O. (1979). Biochemical changes in the blood sera of sows with the metritis - mastitis agalacitia syndrome, Acta Vet., Brno, 1979, 48, pp. 61-66.

100. Ringarp, N. (1960). Clinical and experimental investigations into a post parturient syndrome with agalactia in sows, Journal Acta Agriculturae Scandinavica 1960, No. Suppl. 7 pp. 166.

101. Rooke, J. A. and Bland, I. M. (2002). The acquisition of passive immunity in the new- born piglet, Livestock Production Science. 78: 13-23. Iowa State University Press; 1999, pp. 457-464.

102. Ross, R.F. (1981). Agalactia syndrome of sows, Current veterinary therapy,

Philadelphia, pp. 962-965.

103. Ross, R.F., Orning AP., Woods RD., Zimmermann BJ., Cox DF. and Harris DL. (1981). Bacteriologic study of sow agalactia, Am J Vet Res 42, pp. 949-955. 104. Rzasa, A., Poznański, W., Akińcza, J. and Procak, A. (2004). Composition of sow’s từ

18/9/2013

ngày

cập

point

new

of

a

-

milk view, Truy http://www.eaap.org/previous_Annual_Meetings.

105. Schoning G. and Plonait H., (1990). Metaphylaxis and therapy of the MMA syndrome of sows with Baytril, Dtsch Tierarztl Wochenschr. 1990 Jan;97(1), pp. 5-10 106. Shrestha, A. (2012). Mastitis, Metritis and Agalactia in sows, Truy cập ngày

16/11/2013 từ http://www.slideshare.net.

107. Sjaastad, O. V., Hove, K. and Sand, O. (2010). Physiology of domestic animals, Second edition, Scandinavian Veterinary Press. http://www.scanvetpress.com 108. Smith, B.B. (1985). Phathogenesis and therapeutic management of lactation failure in

periparturient sows, Pratical veterinary, 7(s), pp. 523-534.

109. Smith, B.B. Martineau, G. and Bisaillon, A. (1995). Mammary gland and lactaion

problems, In: Disease of swine, 7th edition, Iowa state university press, pp. 40-57.

112

110. Stukelj, M., Scukaz, L. and Vlencak (2006). Therapeutic Effects of Enrofloxacin in Mastitis-metritis-agalactia Syndrome, A Review. ACTA VET. BRNO 2006, 75, pp. 515-522.

111. Svendsen, J. (1992). Perinatal mortality in pigs, Animal reproduction science, Elsevier

science publishers, B.V., Amsterdam, 28, pp. 59-67.

112. Szczubial, M. and Urban, R. (2008). Tumor necrosis factor - α and interleukin – 6 concentration in the serum of sows with the MMA syndrome, Bull Vet Inst Pulawy 52, pp. 267-270.

113. Takagi, M., Amorim, C.R.N, Ferreia, H. and Yano, T. (1997). Virulence related charracteristics of E. coli from sow with MMA sydrome, Revista de microbiologia, 28(1), pp. 56-60.

114. Taylor, D.J. (1995). Pig diseases, 6th edition, Glasgow university, U.K, pp. 315-320. 115. Thapa, N.K. (2006). Study on MMA (Mastitis Metritis Agalactia) syndrome at national pig breeding centre, serbithang & wangchutaba thimphu, Bhutan, Abstract published in Compendium of Invited papers and abstracts and Souvenir of XXIII annual conference of Indian association of veterinary pathologists.

116. Urban, V.P., Schnur, V.I. and Grechukhin, A.N. (1983). The metritis mastitis agalactia syndome of sows as seen on a large pig farm, Vestnik sel,skhozyaistvennoinauki, 6, pp. 69-75.

117. Waldmann, KH. and Wendt, M (2001). Handbook of pig diseases, 4th edition.

Stuttgart: Parey Verlag.

118. Wegmann, P., Bertschinger, HU. and Jecklin, H. (1986): A field study on the prevalence of coliform mastitis (MMA syndrome) in Switzerland and the antimicrobial susceptibility of the coliform bacteria from the milk, Proceedings of the 8th International Pig Veterinary Society Congress, Barcelona, Spain 1986, 92.

119. White

(2013). Pig health - Sow mastitis, Truy cập ngày 17/9/2013

từ

http://www.nadis.org.uk.

113

PHỤ LỤC

I. PHIẾU ĐIỀU DỊCH TỄ HỌC HỘI CHỨNG MMA Ở LỢN NÁI

1. Tên, địa chỉ trang trại

- Quy mô đàn: . Trong đó: Nái hậu bị: con; Nái sinh sản: con;

- Giống lợn:

- Hình thức chăn nuôi:

2. Tình hình mắc hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa ở lợn nái sinh sản

Biểu hiện khi đẻ Số con Số Số Khối Ngày, Lứa Số con còn con tai Không lượng tháng nái Có dịch đẻ sinh ra sống cai của Sốt cho con đẻ cai sữa viêm sau 24h sữa nái bú

II. THUỐC VÀ HÓA CHẤT SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU

1. FLU-VIEM (dung dịch tiêm 100 ml)

THÀNH PHẦN

Flunixin meglumine.....5g

Chất mang vđ.........100ml

CHỈ ĐỊNH:

Đặc trị: Hạ sốt, tiêu viêm, giảm đau, hồi sức, hỗ trợ điều trị các loại bệnh truyền

nhiễm như sốt đỏ (tai xanh, PRRS), LMLM. Thuốc an toàn không ảnh hưởng đến

nái có chửa, tiết sữa nuôi con và cho con bú.

CÁCH DÙNG VÀ LIỀU LƯỢNG:

Tiêm bắp thịt hoặc dưới da

Lợn con, chó, mèo: 1ml/7-10kg thể trọng/ngày/ 3-5 ngày.

Lợn, trâu, bò: 1ml/15-25kg thể trọng/ngày/3-5 ngày.

112

THỜI GIAN NGỪNG THUỐC:

Khai thác thịt: 3 ngày! Sữa: 0 ngày!

BẢO QUẢN:

Nơi khô mát, tránh ánh sáng trực tiếp

Sản xuất bởi công ty Cổ phần thuốc Thú y MARPHAVET.

2. DICLOFENAC 2,5%

THÀNH PHẦN

Mỗi ml chứa:

Diclofenac: ............................. 25 mg.

Tá dược vd: ............................... 1 ml.

CHỈ ĐỊNH:

- Trường hợp sốt cao, bỏ ăn, viêm vú; kết hợp điều trị viêm mũi, hạ sốt.

- Các chứng viêm khớp cấp và mãn tính, viêm cơ, viêm gân, viêm dây thần kinh,

chấn thương, hậu phẫu.

- Điều trị các chứng đau bụng co thắt ở ngựa và gia súc.

Tiêm bắp thị ( I.M)

CÁCH DÙNG:

Dùng liên tục 3-5 ngày.

Liều trung bình: 2,5 mg/kg TT tương đương 1 ml/10 kg TT.

- Trâu, bò, ngựa: ....................... 10-15 ml.

- Lợn, dê, cừu, bò........................2-5-8 ml.

- Lợn con:........................................1-3 ml.

- Chó, mèo: ................................ .0,3-3 ml.

THỜI GIAN GIẾT MỔ: Sau 4 ngày.

Thú y (HANVET).

BẢO QUẢN: Nơi khô, mát, tránh ánh sáng. Sản xuất bởi công ty Cổ phần dược và vật tư

3. BIOGENTA

Nhà sản xuất: Interchemie werken “de Adelaar” BV Thành phố Castenray, Hà Lan

113

Nhà phân phối: Công ty Cổ phần PP và TT Minh Long 488 Hà Huy Tập – Yên

Viên – Gia Lâm – Hà Nội

SĐT: (04) 3698 3693 Fax: (04) 3698 3506

Thành phần:

Amoxycillin trihydrate 150 mg

Gentamycin base 40 mg

Dung môi vừa đủ 1 ml

Mô tả: Biogenta là sự kết hợp giữa Amoxycillin và Gentamycin base. Amoxycillin

là một kháng sinh phổ rộng hoạt động chống lại vi khuẩn Gram âm và cả Gram

dương. Gentamycin là một Aminoglycosidic, là một chất kháng sinh phổ rộng, hoạt

động chống lại các vi khuẩn nhạy cảm bằng cahcs vận chuyển oxy theo cách khuếch

tán chủ động.

Công dụng: Gia súc: viêm nhiễm đường tiêu hóa, hô hấp, viêm vú gây ra do vi

khuẩn mẫn cảm với Amoxycillin và Gentamycin, như viêm phổi, tiêu chảy, viêm

ruột do vi khuẩn, viêm vú, viêm tử cung và áp xe ngoài da.

Lợn: nhiễm trùng đường hô hấp và đường tiêu hóa do vi khuẩn mẫn cảm với sự kết

hợp của Amoxycillin và Gentamycin, như viêm phổi, bệnh do E. coli, tiêu chảy do

vi khuẩn, và viêm vú, viêm tử cung (hội chứng MMA).

Đường đưa thuốc: Tiêm bắp hoặc tiêm dưới da.

Động vật sử dụng: trâu, bò, bê, cừu và heo.

Liều lượng sử dụng:

+ Liều lượng chung: 1 ml/10 kg trọng lượng cơ thể mỗi nagyf trong 3 ngày.

Trâu bò: 30 – 40 ml/con/ngày – trong 3 ngày

+Bê: 10 - 15 ml/con/ngày – trong 3 ngày

+Heo: 5 - 10 ml/con/ngày – trong 3 ngày

+Heo con: 1 - 5 ml/con/ngày – trong 3 ngày

Lắc kỹ trước khi sử dụng và không tiêm quá 20 ml ở trâu bò, 10 ml ở lợn và 5 ml ở

bê ngé, dê cừu ở một vị trí tiêm.

Tương kỵ của thuốc: Chú ý khi sử dụng kết hợp với các kháng sinh khác:

Tetracyclin, Clramphenicol, Macrolide, Lincosamid, Quinolon

114

Những lưu ý cần thiết khi sử dụng:

Lắc đều thuốc khi sử dụng

Số đăng ký: ICW – 58

Số lô sản xuất: Xem “Batch no” trên nhãn thuốc.

Hạn Sử dụng: Xem “Expiry date” trên nhãn thuốc.

Chống chỉ định: Không dùng cho thú mẫn cảm với các thành phần của thuốc

Động vật suy yếu chức năng gan thận.

Bảo quản: Để thuốc ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng, bảo quản ở nhiệt độ phòng.

Thời gian ngừng sử dụng thuốc khi cần thiết:

Lấy thịt: 30 ngày, lấy sữa: 2 ngày

Thể tích thực: Chai thủy tinh 100 ml, 48 chai/thùng.

4. AMOXOIL RETARD

THÀNH PHẦN:

Mỗi ml dung dịch chứa:

Amoxycillin trihydrate 150 mg

Dung môi 1 ml

ĐẶC TÍNH:

Amoxycillin là kháng sinh bán tổng hợp có hoạt phổ rộng thuộc nhóm kháng sinh

Betalactam. Tác động lên sự tổng hợp tế bào vi khuẩn bằng cách ức chế men

transpeptidase và carboxypeptidase, làm mất cân bằng sự thẩm thấu nên diệt vi

khuẩn trong giai đoạn tăng trưởng.

Các vi khuẩn nhạy cảm như:

- Gram dương: Actinomyces spp, Bacillus anthracis, Clostridium spp,

Corynebacterium spp, Erysipelothrix rhusiopathiae, Listeria monocytogenes,

Staphylococcus spp, Streptococcus spp.

- Gram âm: Actinobacillus spp, Bordetella bronchiseptica, Escherichia coli,

Fusobacteium spp, Haemophylus spp, Moraxella spp, Pasteurella spp, Proteus

mirabilis, Salmonella spp, Leptospira spp. Tác động trên các vi khuẩn không có sản

xuất men penicillinase. Phần lớn các chủng Klebsiella và Enterobacter đều nhạy

115

cảm, cũng như Pseudomonas.

Được hấp thu nhanh và khuếch tán rộng trong cơ thể, đạt hàm lượng cao trong cơ,

gan, mật, thận và đường ruột.

CHỈ ĐỊNH:

Các viêm nhiễm do các vi khuẩn mẫn cảm với Amoxycllin trên trâu bò, dê cừu,

heo, chó mèo:

- Trên đường tiêu hóa: tiêu chảy và viêm ruột do E. coli, Salmonella,…

- Trên đường hô hấp: viêm phổi, viêm màng phổi, viêm teo xoang mũi,…

- Trên đường niệu và sinh dục: viêm bàng quang, viêm tử cung, viêm vú, mất sữa

(MMA),…

- Trên da và mô mềm: Viêm khớp, viêm rốn, các vết thương, áp xe,…

- Phòng các viêm nhiễm hậu phẫu bằng cách tiêm trước khi giải phẫu.

LIỀU DÙNG – ĐƯỜNG DÙNG:

Tiêm bắp hay dưới da.

Liều: 1 ml AMOXOIL RETARD cho 15-30 kg thể trọng, cách một ngày tiêm nhắc

lại một lần. Liệu trình điều trị không quá 5 – 7 ngày. Nếu không thấy cải thiện sau

48 giờ, nên xem lại chẩn đoán bệnh.

Liều dùng và liệu trình có thể tăng theo hướng dẫn của thú y.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

Không dùng cho thú có tiền sử quá mẫn với kháng sinh nhóm beta-lactam. Không

được tiêm tĩnh mạch. Không dùng chung với các kháng sinh dạng tĩnh khuẩn như

Tetracyclline, Chloramphenicol, Sufamides,…

BẢO QUẢN:

Nơi mát, khô ráo và tránh ánh sáng. Tránh xa tầm tay trẻ em.

Sản xuất bởi LABORATORIOS SYVA, S.A TÂY BAN NHA, Nhà phân phối:

Công ty TNHH TM thuốc Thú y Hoàng Kim.

5. OXYTOCIN -20

Nhà sản xuất: Interchemie werken “de Adelaar” BV Thành phố Castenray, Hà

Lan.

Nhà phân phối: CN Công ty TNHH DP Đô Thành ĐT: (04) 35523932 –

116

38549252/3/6 . 465 Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội

Thành phần:

Oxytocin 20 UI

Dung môi vừa đủ 1 ml

Mô tả: Oxytocin là một hormon protein được cấu tạo bởi 8 amino acid (octa-

peptide), nó là sản phẩm nội sinh của thùy sau tuyến yên. Oxytocun thúc đẩy quá

trình co bóp của cơ trơn như cơ tử cung và tuyến vú nhạy với hormon sinh dục nữ.

Công dụng:

Làm tăng khả năng co bóp tử cung, chống mệt mỏi, xuất huyết tử cung, điều trị mất

sữa sau khi sinh.

Đường đưa thuốc:

Tiêm bắp hoặc tiêm dưới da

Động vật sử dụng: Ngựa, bò, dê, cừu, heo nái.

Liều lượng sử dụng:

Ngựa cái và bò cái: 2-2,5 ml

Cừu cái, dê cái: 0,5-1,5 ml

Heo nái: 1-2 ml

Tương kỵ của thuốc: Chú ý khi sử dụng kết hợp với các chất kháng sinh khác:

Tetracylin, Clramphenicol, Macrolide, Lincosamid

Những lưu ý cần thiết khi sử dụng: Lắc đều chai khi sử sụng

Số đăng ký: ICW-31.

Chống chỉ định: Không mở tử cung, vị trí sai của bào thai và tử cung, tắc nghẽn

đường đẻ, nhạy cảm với Oxytocin.

Bảo quản: Để thuốc ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng, bảo quản ở nhiệt độ phòng.

Thời gian ngừng sử dụng thuốc khi cần thiết:

Lấy thịt: 1 ngày, lấy sữa: 1 ngày

Thể tích thực: Chai thủy tinh 50 ml, 96 chai/thùng.

Chai 100 ml, 48 chai/thùng.

117

6. LUTALYSER

THÀNH PHẦN:

Dinoprost là chất prostaglandin F2 tự nhiên, được trình bày dưới dạng dung dịch vô

trùng Dinoprost 5mg/ml (trình bày như 6,71 mg/ml của muối dinoprost

tromethamine) có chứa 1,65 % benzyl alcohol như chất bảo quản.

CHỈ ĐỊNH :

LUTALYSER có tác dụng làm tiêu thể vàng và thúc đẻ nên được chỉ định dùng cho

trâu bò, ngựa và heo :

Trâu bò, ngựa :

1. Kiểm soát hiệu quả hơn thời gian lên giống và rụng trứng trong chu kỳ lên

giống của trâu bò và ngựa.

2. làm tiêu thể vàng đang hoạt động ở trâu bò và ngựa giúp con vật lên giống

lại ;

3. Trục thai ở trâu bò và ngựa 4. Kích đẻ ở trâu bò 5. Điều trị viêm tử cung mãn tính và mủ trong tử cung ở trâu bò ; 6. Kiểm soát gieo tinh hay phối giống ở trâu bò.

Heo

1. Kích đẻ cho heo nái trong vòng 3 ngày so với ngày đẻ dự kiến. 2. Tăng cường co bóp tử cung, tống sạch nhau và sản dịch sau khi sinh, ngăn

ngừa viêm tử cung.

3. Rút ngắn khoảng cách từ cai sữa đến lên giống lại và cai sữa đến gieo tinh

trên những đàn nái có vấn đề sinh sản.

4. Làm tiêu thể vàng và phá hủy các u nang trên buồng trứng là nguyên nhân

làm heo nái chậm lên giống sau cai sữa hoặc không lên giống sau cai sữa.

5. Nâng cao tỷ lệ thụ thai và số heo con đẻ ra chọn nuôi nhiều hơn. 6. Kích thích tiết prolactin, tăng sản lượng sữa. 7. Pha trong tinh dịch nhằm nâng cao tỷ lệ đậu thai.

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG VÀ LIỀU DÙNG :

118

Trâu bò:

1. Làm tiêu thể vàng trên trâu bò với liều 25 mg (5ml) chích bắp. Tác động tiêu

thể vàng được sử dụng :

a. Kiểm soát hiệu quả thời gian lên giống và rụng trứng của chu kỳ động dục

trên trâu bò ;

b. Điều trị trâu bò có hoàng thể nhưng không biểu hiện lên giống (động dục

thầm lặng hoặc không thấy động dục) ;

c. Điều trị viêm tử cung mãn, viêm mủ tử cung trên trâu bò ; d. Kiểm soát phối giống trên trâu bò

LUTALYSER được chỉ định làm tiêu thể vàng ở trâu bò để kiểm soát thời gian lên

giống trong chu kỳ lên giống của trâu bò có thể vàng, tác động của LUTALYSER

cho phép có nhiều chương trình kiểm soát lên giống. Đối với với những thú có chu

kỳ thông thường, ít nhất là 35 ngày sau sinh.

Chương trình 1 :

1. Chích bắp 5 ml LUTALYSER 2. Chích lặp lại vào 11 (10 tới 12) ngày sau 3. Phối giống 78 (75 tới 80) giờ sau khi chích LUTALYSER mũi thứ 2

Khi chích thuốc không cần phát hiện lên giống hoặc quan sát nếu con thú có chu kỳ

bình thường.

Chương trình này khuyến cáo cho hầu nhết các đàn với kinh nghiệm gieo tinh nhân

tạo thành công và khi chu kỳ bò cái đã được biết trước.

Chương trình 2 :

1. Chích bắp 5 ml LUTALYSER 2. Chích lặp lại vào 11 (10 tới 12) ngày sau 3. Phối giống 72 (70 tới 72) giờ và 90 (88 tới 96) giờ sau khi chích

LUTALYSER mũi thứ 2

Khi chích thuốc không cần phát hiện lên giống hoặc quan sát nếu con thú có chu kỳ

bình thường. Phối giống lần 2 cho thấy có sự gia tăng tỷ lệ đậu thai ở một số đàn.

Chương trình 3 :

1. Chích bắp 5 ml LUTALYSER 2. Chích lặp lại vào 11 (10 tới 12) ngày sau

119

3. Phối giống ngay khi phát hiện lên giống

Chương trình 4 :

1. Chích bắp 5 ml LUTALYSER 2. Phối giống ngay khi phát hiện lên giống

Nếu không biết chu kỳ của các thú đang điều trị, thì trong chương trình 3, 4 bắt

buộc phải theo dõi phát hiện lên giống còn chương trình 1, 2 chỉ yêu cầu về thời

gian phối giống.

“Bò đực phối trực tiếp” có thể sử dụng bất cứ chương trình nào của LUTALYSER

hoặc cần phối giống lặp lại ở lần lên giống kế tiếp, chu kỳ sau, trên những thú

không mang thai ở lần phối giống đầu tiên.

2. Trục thai và kích thích trâu bò đẻ:

LUTALYSER được sử dụng liều cao hơn các liều lượng dùng để làm tiêu thể vàng

ở gia súc không có mang.

Căn cứ các chỉ định này, liều hiệu nghiệm biến đổi từ 25-35 mg (5-7 ml) chích bắp.

Giai đoạn mang thai là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quarcuar liều dùng.

Các thử nghiệm thực tế cho thấy ở bò mang thai tới 150 ngày, LUTALYSER gây

sảy thai nhân tạo thành công. Tuy nhiên, ở bò mang thai từ 150-270 ngày thì thậm

chí dùng LUTALYSER liều cao cũng kém hiệu quả hơn.

Ngựa:

LUTALYSER làm tiêu thể vàng trên ngựa cái với liều 5mg (1ml) chích bắp. Tác

động tiêu thể vàng được sử dụng nhằm :

a. Kiểm soát hiệu quả hơn thời gian lên giống và rụng trứng của chu kỳ động

dục trên ngựa cái. Điều trị ngựa cái có thể vàng nhưng không biểu hiện lên giống

(khó phối giống)

b. Tạo sẩy thai nhân tạo trên ngựa cái (đáp ứng rất khác nhau do đó cần điều

trị lặp lại)

Heo:

1. Kích đẻ trên heo:

Chích bắp 10 mg (2ml/nái) trong vòng 3 ngày so với ngày đẻ dự kiến.

LUTALYSER có thể được sử dụng để kích đẻ trên heo trong vòng 3 ngày so với

120

ngày đẻ dự kiến. Đáp ứng với thuốc khác nhau trên từng cá thể dao động từ 24-36

giờ từ lúc chích thuốc tới lúc sinh. Nó thuận tiện chop người nhân viên trong việc

kiểm soát thời gian sinh trên heo nái và heo hậu bị mang thai ở giai đoạn cuối. Sử

dụng sớm hơn 3 ngày trước ngày đẻ dự kiến, heo con đẻ ra sẽ yếu ớt, tỷ lệ sống sót

giảm. Có tỷ lệ nhỏ heo không đáp ứng do một số lý do cá biệt chưa được xác định.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH - CHÚ Ý :

a. Thận trọng, phụ nữ trong tuổi sinh đẻ tránh tiếp xúc với dung dịch. b. Những người mắc bệnh hen, suyễn hoặc có các bệnh về hô hấp, phụ nữ có

thai không được phép chích thuốc cho gia súc.

c. LUTALYSER đổ trên da cần rửa ngay với xà phòng và nước. d. Không cần thiết phải ngưng tiêu thụ sữa cho người và cho thú. e. Không giết mổ gia súc đã sử dụng thuốc để tiêu thụ cho người trong vòng 24

giờ sau khi diều trị.

f. Không nên sử dụng thuốc cho trâu bò bị rối loạn cấp tính hoặc bán cấp tính

về tim mạch, hô hấp hoặc tiêu hóa.

g. Phải kiểm tra tình trạng mang thai trước khi chích LUTALYSER vì thuốc gây

sảy thai hoặc kích đẻ khi sử dụng ở liều đủ cao đối với nhiều loài động vật.

h. Không tiêm tĩnh mạch i. LUTALYSER không hiệu quả khi sử dụng trước ngày thứ 5 sau khi rụng trứng. j. Ở thú mang thai, cần nghĩ đến khả năng tử cung có thể bị vỡ, đặc biệt nếu cổ

tử cung không giãn nở.

k. Kích đẻ trên heo sớm hơn 72 giờ so với ngày sinh dự kiến có thể làm giảm

khả năng sống sót đối với heo con.

l. Bảo quản ở nhiệt độ phòng , không quá 300C

SĐKNK : PFU-56 QUY CÁCH : lọ 10 ml hoặc lọ 30 ml.

NGÀY SẢN XUẤT VÀ HẠN SỬ DỤNG : 24 tháng kể từ ngày sản xuất. Sử dụng

hết trong vòng 28 ngày kể từ khi mở nắp chai. Ngày bsanr xuất và hạn sử dụng xem

trên bao bì.

Doanh nghiệp nhập khẩu : Công ty TNHH TN và DP SANG -18Bis/9 Ng. T.Minh

Khai –Q1.-Tp. HCM

121

VPĐD PFIZER H.C.P. Cororation Vietnam

Phòng 7.1B, lầu 7 tòa nhà Etown – 364 Cộng Hòa, P.13, Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí

Minh

ĐT: 08.38122461-38122737-FAX : 08. 38122712

7. BAYTRIL® 5%

Hoạt chất Enrofloxacin 5% phổ kháng khuẩn rộng, Baytril 5% được dùng để điều

trị các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hoá, niệu sinh dục, da và khớp như

suyễn, tụ huyết trùng, viêm teo mũi truyền nhiễm, thương hàn. E.coli, MMA (viêm

vú, viêm tử cung, mất sữa), viêm da, khớp và các nhiễm trùng kế phát trên heo, trâu,

bò, dê, cừu.

LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG

- Liều lượng: Heo, trâu, bò, dê, cừu: 1ml/20kg thể trọng/ngày, trong 2-3 ngày

Lưu ý

- Ngưng sử dụng sản phẩm 7 ngày trước khi giết thịt.

- Không dùng Baytril cho ngựa

BẢO QUẢN: Để nơi khô mát, tránh ánh nắng trực tiếp.

ĐÓNG CHAI: Chai 100 ml

III. SƠ ĐỒ PHÂN LẬP VI KHUẨN

(1) Sơ đồ phân lập nhóm coliforms

Mẫu sữa

MC

37OC/24h

MC: khuẩn lạc màu hồng

Gram -, trực

OF test: +

Oxidase: –

KIA: (vàng/vàng/ H2S -)

LDC

LDC+ LDC –

122

*E.coli *Citrobacter diversus

Khuẩn lạc khô dẹp Khuẩn lạc bóng dẹp

Một vài chủng có khuẩn lạc nhầy Malonate: +

IMViC: +/+/-/- IMViC: +/+/-/+

*Klebsiella pneumonia Urease: +

Khuẩn lạc bóng lồi, tâm có màu trắng sữa

IMViC: -/-/+/+

Di động: -

Urease: +

* Enterobacter aerogenes

Khuẩn lạc lồi bóng

IMViC: -/-/+/+

Di động : +

Urease: -

123

(2) Sơ đồ phân lập cầu khuẩn Gram dương

Mẫu sữa

Thạch máu BA

370C/24 – 48 giờ

Chọn khuẩn lạc điển hình và nhuộm Gram (cầu khuẩn Gram dương)

Catalase

Catalase (-) Streptococcus spp. (tiếp tục sơ đồ 3.…)

Catalase (+) Staphylococcus spp. Micrococcus spp.

Nitrate

Nitrate (-) Micrococcus spp. Nitrate (+) Staphylococcus spp.

Coagulase (+), dung huyết β Oxidase (-), Manitol (+)

Staphylococcus aureus

124

Streptococcus spp. catalase (-), oxidase (-)

Dung huyết dạng β S. pyogenes, S. agalactiae, S. zooepidemicus,

Dung huyết dạng α, γ S. dysgalactiae, S. agalactiae, S. uberis, S. faecalis, S. pneumoniae

CAMP test (+) S. agalactiae

(3) Sơ đồ xác định các loài Streptococcus

CAMP test (-) S. pyogenes, S. zooepidemicus

Không mọc trên MC S. dysgalactiae, S. agalactiae, S. uberis, S. pneumoniae

S. pyogenes

Trehalose (-), Lactalose (+), Sorbitol (+), Manitol (-) S. zooepidemicus

CAMP test (+) S. agalactiae

CAMP test (-) S. dysgalactiae, S. uberis, S. pneumoniae

Optochin test (+) S. pneumoniae

Optochin test (-) S. dysgalactiae, S. uberis

Ewards medium esculin hydrolysis (-) S. dysgalactiae

Ewards medium esculin hydrolysis (+) S. uberis

Mọc trên MC S. faecalis

125

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

Ảnh 1. Lợn viêm vú trong hội chứng MMA

126

Ảnh 2. Lợn viêm tủ cung trong hội chứng MMA

127

Ảnh 3. Dịch viêm tử cung ở lợn mắc hội chứng MMA

128

Ảnh 4. Lợn nái sốt khi mắc hội chứng MMA

Ảnh 5. Lợn nái viêm tử cung, viêm vú, mất sữa

129

Ảnh 6. Lợn nái viêm tử cung, mất sữa trong hội chứng MMA

Ảnh 7. Lợn mẹ mắc hội chứng MMA, lợn con tiêu chảy

130

Ảnh 8: vệ sinh kém, lợn nái mắc MMA, lợn con tiêu chảy, còi cọc

Ảnh 9: vệ sinh đảm bảo, lợn mẹ khỏe, lợn con phát triển đồng đều

131

Ảnh 10: lợn mẹ viêm tử cung, mất sữa, lợn con tiêu chảy.

132

Ảnh 11: xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý máu lợn

133

Ảnh 12. Phân tích chỉ tiêu sinh lý máu lợn

134