
năm 2014, CĐKM được coi là cơn động kinh có nguồn gốc từ xa hoặc
cơn không do kích thích và cũng được gọi là Post Stroke Epilepsy.
1.1.2. Cơ chế
Hiện nay các giả thuyết chính được chấp nhận rộng rãi cho cơ chế
của CĐKS, bao gồm: tổn thương hàng rào máu não (blood-brain
barrier-BBB), rối loạn chức năng kênh ion, mất cân bằng dẫn truyền
thần kinh, nồng độ cortisol huyết thanh tăng cao, lắng đọng
hemosiderin.
Các tổn thương ở não trong CĐKM có tính chất dài hạn hơn so với
những tổn thương có tính nhất thời gây nên CĐKS. Nhiều cơ chế được
gây CĐKM như viêm mạn tính, tăng sinh các tế bào hình sao, thay đổi
cấu trúc của mạng lưới tế bào não, tăng sinh mạch, thoái hóa sợi trục,
hình thành synap mới, độ dẻo của khớp thần kinh bị thay đổi hoặc thay
đổi huyết động khu vực, rối loạn về gen.
1.2. Lâm sng, cận lâm sng v tiên lượng ĐKSĐQ.
1.2.1. Lâm sàng.
Tần suất các dạng CĐKSĐQ không có nhiều sự khác biệt giữa
CĐKS và CĐKM, với các cơn cục bộ chiếm ưu thế (bao gồm cục bộ
có/không có khiếm khuyết nhận thức, và cơn cục bộ thứ phát toàn thể
2 bên. Các nghiên cứu về lâm sàng của ĐK sau đột quỵ cho thấy, các
dấu hiệu về cơn vận động cục bộ được ghi nhận sớm nhất. Xét về tần
suất, cơn co giật-co cứng cục bộ tiến triển 2 bên được ghi nhận nhiều
nhất; tiếp đến là CĐK cục bộ vắng hoặc không vắng ý thức.
1.2.2. Cận lâm sng.
Điện não đồ (EEG) là phương tiện hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các
rối loạn thần kinh nhưng đặc biệt phù hợp với những người bị ĐK.
EEG thường quy được chỉ định để chẩn đoán CĐK và có thể hỗ trợ lựa
chọn các phương án điều trị bằng thuốc chống ĐK. Các dấu hiệu bất