BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TĂNG XUÂN LƯU
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA BÒ SỮA
CHẬM SINH VÀ ỨNG DỤNG HORMONE ĐỂ KHẮC PHỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: SINH SẢN VÀ BỆNH SINH SẢN GIA SÚC
HÀ NỘI, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TĂNG XUÂN LƯU
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA BÒ SỮA
CHẬM SINH VÀ ỨNG DỤNG HORMONE ĐỂ KHẮC PHỤC
CHUYÊN NGÀNH: SINH SẢN VÀ BỆNH SINH SẢN GIA SÚC
Mã số: 62.64.01.06
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TSKH. CÙ XUÂN DẦN
2. PGS.TS. TRẦN TIẾN DŨNG
HÀ NỘI, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận án
i
Tăng Xuân Lưu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong Học
viện Nông nghiệp Việt Nam, những người đã giảng dạy và dìu dắt tôi trong suốt
hai năm học cao học đồng thời tạo điều kiện để tôi tiếp tục học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TSKH. Cù Xuân Dần và
PGS.TS. Trần Tiến Dũng, hai thầy hướng dẫn khoa học, đã tận tình động viên,
giúp đỡ tôi trong cuộc sống cũng như quá trình hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công
nhân viên Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì - Viện Chăn nuôi, cơ
quan công tác của tôi đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi vừa hoàn thành nhiệm
vụ công việc, vừa hoàn thành công trình nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đơn vị sau đây đã nhiệt tình giúp đỡ tôi có
thể hoàn thành luận án này:
- Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Bộ môn Ngoại sản, khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Bộ môn Sinh lý, Sinh sản và Tập tính vật nuôi, Viện Chăn nuôi.
- Trung tâm Phát triển chăn nuôi Hà Nội.
- Văn phòng tổ chức Jica – Viện Chăn nuôi.
Xin cảm ơn gia đình và người thân đã động viên, tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình công tác cũng như hoàn thành bản luận án này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận án
ii
Tăng Xuân Lưu
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................... i
Lời cảm ơn ............................................................................................................. ii
Mục lục .................................................................................................................. iii
Danh mục chữ viết tắt ........................................................................................... vi
Danh mục bảng .................................................................................................... vii
Danh mục ảnh ..................................................................................................... viii
Danh mục hình, sơ đồ ........................................................................................... ix
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết .............................................................................................. 1
2. Mục tiêu đề tài ............................................................................................. 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................... 3
4. Những đóng góp mới của luận án ............................................................... 4
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................... 5
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu đặc điểm sinh sản trên bò ................. 5
1.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh sản của bò cái .......................................................... 5
1.1.2. Sự điều hòa hoạt động sinh dục của tuyến nội tiết ................................... 13
1.1.3. Hormone tuyến yên và vai trò của chúng trong sinh sản .......................... 15
1.1.4. Hormone của buồng trứng, nhau thai và prostaglandin trong sinh sản ........ 16
1.1.5. Đặc tính sinh học của hormone sinh sản ................................................... 17
1.1.6. Vai trò của một số hormone đối với gia súc cái ........................................ 17
1.2. Progesterone và ứng dụng trong sinh sản ................................................. 19
1.2.1. Vai trò của progesterone ........................................................................... 19
1.2.2. Progesterone và hoạt động của buồng trứng ............................................. 24
1.2.3. Progesterone và ứng dụng trong chăn nuôi ............................................... 25
1.2.4. Định lượng progesterone để chẩn đoán có thai sớm ................................. 26
1.3. Một số nghiên cứu ở trong và ngoài nước về đặc điểm sinh sản và
điều tiết sinh sản trên bò có liên quan đến luận án ................................... 28
iii
1.3.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................... 28
1.3.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................. 31
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 37
2.1. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu ........................................ 37
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu ................................................................................... 37
2.1.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................. 37
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 38
2.2. Xử lý số liệu .............................................................................................. 47
2.3. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................. 47
2.4. Thời gian nghiên cứu ................................................................................ 48
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................... 49
3.1. Tình hình sinh sản của đàn bò sữa vùng Ba Vì, Hà Nội ........................... 49
3.1.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lần đầu .................................................. 49
3.1.2. Khối lượng cơ thể khi bò cái đẻ lần đầu ................................................... 53
3.1.3. Thời gian mang thai của đàn bò sữa qua các lứa đẻ ................................ 54
3.1.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ ............................................................. 56
3.1.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ ..................................................................... 60
3.1.6. Tỷ lệ đẻ, sẩy thai, đẻ non, sát nhau ........................................................... 63
3.1.7. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai ............................................................. 65
3.1.8. Hiện tượng chậm sinh (rối loạn sinh sản) ................................................. 67
3.2. Đánh giá tình trạng hoạt động của buồng trứng bò sau khi đẻ ................. 71
3.2.1. Động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau khi đẻ .............................. 71
3.2.2. Nguyên nhân gây chậm động dục sau 120 ngày sau đẻ ở buồng trứng ........ 73
3.2.3. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng sau đẻ ........................... 77
3.2.4. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng .................................. 80
3.2.5. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng buồng trứng bò sữa sau đẻ .......... 82
3.3. Định lượng progesterone phát hiện bệnh buồng trứng và chẩn đoán
thai sớm nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa ............................... 84
3.3.1. Kết quả chẩn đoán nguyên nhân chậm sinh bằng khám qua trực tràng ........ 85
3.3.2. Kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng định lượng progesterone
iv
trong sữa .................................................................................................... 86
3.3.3. Chẩn đoán có thai sớm bằng định lượng progesterone trong sữa ............. 90
3.4. Sử dụng hormone nhằm nâng cao khả năng sinh sản ............................... 92
3.4.1. Điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động ............................................. 92
3.4.2. Điều trị bệnh u nang buồng trứng ............................................................. 94
3.4.3. Điều trị bệnh thể vàng tồn lưu .................................................................. 96
3.4.4. Điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân bằng phác đồ tổng hợp
(GnRH- PGF2α- PGF2α- GnRH) ............................................................. 98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................ 102
1. Kết luận ................................................................................................... 102
2. Kiến nghị ................................................................................................. 104
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 106
v
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 117
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Ý nghĩa AC ATP BCS CIDR InsP3 DAG
Adenylate Cyclase Adenosine Triphosphate Body Condition Score Controlled internal drug release Inositol triphosphat Diacylglycerol Enzyme ImmunoAssay/ Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay Follitropin-Releasing Hormone Food and Agriculture Organization Follicle Stimulating Hormone Guanosine triphosphate Guanosine diphosphate Growth-Hormone-Releasing Factor Gonadotropin-Releasing Hormone EIA / ELISA FRH FAO FSH GTP GDP GHRF GnRH
Heritability (hệ số di truyền) Human Chorionic Gonadotropin Holstein Friesian Huyết thanh ngựa chửa Insulin-like Growth Factor-1 International Unit Temperature humidity index Luteinizing Releasing Hormone Luteinizing Hormone LuteinTrofic Hormone Metabolizable Energy Progesterone (pregn-4-ene-3,20-dione) Prostaglandin Progesterone internal drug release h2 hCG HF HTNC IGF-1 IU THI LRH LH LTH ME P4 PG PRID
vi
Prostaglandin F2α Prolactin-Releasing Hormone Viet Nam dairy management PGF2a PRLH VDM
DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
2.1. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng sau khi khám
qua trực tràng hai lần liên tục cách nhau 7 đến 10 ngày 44
49 3.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu
53 3.2. Khối lượng cơ thể bò cái khi đẻ lần đầu
55 3.3. Thời gian mang thai qua các lứa đẻ
57 3.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
60 3.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
63 3.6. Tỷ lệ đẻ, sẩy thai, đẻ non và sát nhau
65 3.7. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
68 3.8. Kết quả phân loại hiện tượng chậm sinh
3.9. Kết quả theo dõi động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau khi đẻ 72
73 3.10. Các nguyên nhân trên buồng trứng gây chậm động dục ở bò sữa
78 3.11. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng
80 3.12. Yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng đến hoạt động của buồng trứng
82 3.13. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng hoạt động buồng trứng
85 3.14. Chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng bằng khám qua trực tràng
3.15. Kết quả định lượng progesterone trong sữa của bò chậm động dục
86 trong vòng 120 ngày
90 3.16. Chẩn đoán thai sớm bằng định lượng progesterone trong sữa
93 3.17. Kết quả điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động
95 3.18. Kết quả điều trị bệnh u nang buồng trứng
97 3.19. Kết quả điều trị thể vàng tồn lưu
3.20. Kết quả điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân bằng phác đồ
vii
99 tổng hợp
DANH MỤC ẢNH
STT Tên hình ảnh Trang
3.1. Bò đẻ sớm do bị strees nhiệt .................................................................... 56
3.2. Buồng trứng kém hoạt động .................................................................... 74
3.3. U nang nang trứng và thể vàng cùng tồn tại trên buồng trứng ................ 74
3.4. U nang thể vàng ....................................................................................... 75
3.5. Thể vàng sinh lý (bên trái), thể vàng tồn lưu (bên phải) ......................... 75
3.6. Thể vàng sinh lý ngày thứ 5-6 của chu kỳ ............................................... 87
3.7. Buồng trứng không hoạt động (thiểu năng) ............................................. 88
3.8. U nang buồng trứng dạng tích nước ........................................................ 88
viii
3.9. Thể vàng ở bò có thai ở 35- 60 ngày tuổi ................................................ 91
DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ
STT Tên hình Trang
3.1. Các nguyên nhân của buồng trứng gây chậm động dục 76
3.2. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng 79
3.3. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng 81
3.4. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng buồng trứng 83
3.5. So sánh kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng khám lâm sàng
và định lượng progesterone 89
STT
Tên sơ đồ Trang
2.1. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong chu kỳ sinh lý bình thường 42
2.2. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong chu kỳ và thể vàng tồn lưu 42
2.3. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong chu kỳ thể vàng ngắn 42
2.4. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong trường hợp buồng trứng
không hoạt động 43
2.5. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong trường hợp bò có thể
thụ thai 43
45 2.6. Sử dụng vòng CIDR kết hợp hormone GnRH và PGF2α
45 2.7. Sử dụng GnRH và PGF2α để điều trị bệnh u nang buồng trứng
46 2.8. Sử dụng PGF2 điều trị bệnh thể vàng tồn lưu
ix
46 2.9. Sử dụng công thức GnRH- PGF2α- PGF2α- GnRH
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm 1960 và trở
thành ngành sản xuất hàng hóa vào những năm 1990. Từ năm 1986 đến 1999,
đàn bò sữa tăng trưởng trung bình 11% /năm. Năm 2001, Chính phủ đã có chủ
trương đẩy mạnh phát triển ngành sữa của Việt Nam với Quyết định
167/2001/QĐ/TTg về “Một số chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa trong giai
đoạn 2001-2010”. Do đó, năm 2001 Việt Nam có 41.241 con, năm 2002 là
55.848 con, tăng trưởng đạt 35,42%/ năm; giai đoạn 2001-2005 tăng 41,89%,
năm 2011 đạt 122.000 con và năm 2013 đạt 186.390 con, tăng 19,56%/năm. Dự
báo đến năm 2015 đạt 291.646 con (tăng 15%) và đến năm 2020 lên 469.700 con
(Hoàng Kim Giao, 2014). Để đạt được 469.700 con vào năm 2020, các nhà kỹ
thuật và người chăn nuôi cần phải làm gì ?.
Bò sữa ở nước ta chủ yếu là con lai HF (Holstein Friesian × Lai Zebu)
chiếm trên 60%, còn lại là bò HF (Holstein Friesian) thuần. Bò HF thuần chủ yếu
được nuôi tập trung với quy mô lớn ở một số doanh nghiệp, công ty lớn như:
Công ty cổ phần giống bò sữa Mộc Châu Sơn La, Công ty cổ phần sữa Vinamilk
(Tuyên Quang, Nghệ An…), Công ty cổ phần thực phẩm sữa TH (Nghệ An),
Công ty cổ phần sữa Đà Lạt milk… Riêng với bò lai HF, 60% tổng đàn được
nuôi trong nông hộ, gia trại với quy mô vừa và nhỏ (từ 5-20 con) trên khắp các
vùng trong cả nước. Tuy nhiên, phía Nam nuôi tập trung ở vùng thành phố Hồ
Chí Minh, miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long…, phía Bắc nuôi
tập trung ở vùng thành phố Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh Phúc… Có hai phương thức
chăn nuôi chủ yếu là nuôi nhốt hoặc bán chăn thả. Năng suất sữa của đàn bò khá
cao, từ 4.200 - 4.500 kg/chu kỳ, nhiều cá thể đạt trên 5.000 kg/chu kỳ.
Chăn nuôi bò sữa thực sự đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn
nuôi. Tuy nhiên hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, trình độ hiểu biết về kỹ
thuật chăn nuôi còn hạn chế; điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, khẩu phần thức ăn
1
xanh không đầy đủ, thiếu cân đối; phụ thuộc nhiều vào “thời vụ”; đồng cỏ chăn
thả, bãi chăn hầu như không có đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản
cũng như sức sản xuất sữa của đàn bò.
Bình thường bò sữa có tuổi động dục lần đầu từ 16-18 tháng tuổi và sau
khi đẻ động dục trở lại trong vòng 90 ngày. Những bò đẻ xong từ 91 đến 119
ngày mới động dục lại được coi là chậm sinh độ 2. Còn bò tơ trên 20 tháng và bò
sau khi đẻ đến 120 ngày (4 tháng) hoặc bò phối giống trên 3 lần mà không đậu
thai được coi là chậm sinh (Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997).
Đối với bò sữa vùng Ba Vì, Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, trong
điều kiện chăn nuôi nông hộ, các chỉ tiêu sinh sản thường không ổn định như:
tuổi động dục lần đầu cao, phối giống nhiều lần không đậu thai, khoảng cách hai
lứa đẻ dài, tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cao, bệnh sát nhau xảy ra nhiều
(Trịnh Quang Phong và cs., 2012). Việc đánh giá đúng thực trạng hoạt động sinh
sản thông qua các chỉ tiêu về sinh lý sinh sản của bò sữa là cách giúp chúng ta có
thể nhìn nhận khách quan hơn cũng như có biện pháp tác động hiệu quả hơn.
Những yếu tố gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của đàn bò sữa đó là:
giống, thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng, mùa vụ, thời điểm phát hiện động dục, kỹ
thuật phối giống, kỹ thuật chẩn đoán bệnh trên buồng trứng và phương pháp can
thiệp các bệnh về sinh sản... Do đó, nghiên cứu để xác định đúng những nguyên
nhân làm hạn chế khả năng sinh sản của bò sữa là việc làm cần thiết.
Hoạt động sinh sản của gia súc mang tính chu kỳ và chịu sự điều tiết của
hệ thần kinh và thể dịch. Yếu tố thần kinh điều khiển hoạt động có “định hướng”,
còn yếu tố thể dịch tác động theo hướng bản năng sinh học thông qua sự hoạt
động có tính quy luật của các hormone hướng sinh sản như: Follicle Stimulating
Hormone (FSH), Luteinizing Hormone (LH), Gonadotropin Releasing Hormone
(GnRH), Prostaglandin (PG), Progesterone… Trong số các hormone này,
progesterone có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của buồng trứng. Việc xác định
được hàm lượng hormone progesterone trong cơ thể bò cái là xác định được
trạng thái hoạt động của buồng trứng, làm căn cứ để cải thiện khả năng sinh sản
của chúng. Hướng này đang được nhiều nước quan tâm. Việc đánh giá tình trạng
2
hoạt động của buồng trứng cũng như sử dụng các chế phẩm hormone hướng sinh
dục để điều khiển nâng cao khả năng sinh sản của bò sữa theo ý muốn đã được
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả.
Đối với ngành chăn nuôi bò sữa, việc rút ngắn tuổi động dục lần đầu, rút
ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ, tăng số con được sinh ra đồng nghĩa với tăng
sản lượng sữa trong một đời con cái. Ngoài ý nghĩa kinh tế, tăng khả năng sinh
sản cũng có nghĩa tăng nhanh số lượng đàn giống, tái sản xuất mở rộng...
Đàn bò sữa lai HF vùng Ba Vì nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung
được chăn nuôi chủ yếu trong nông hộ, đã có những yếu tố không thuận lợi làm
ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của đàn bò này, nhưng mức độ tốt hay xấu,
những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chúng và giải pháp
nào có thể khắc phục hiện tượng chậm sinh cho đàn bò sữa là vấn đề được đặt ra.
2. Mục tiêu đề tài
Đánh giá được thực trạng sinh sản của đàn bò sữa nuôi tại Ba Vì, Hà Nội
và tình trạng hoạt động của buồng trứng ở bò chậm sinh, từ đó giúp cho người
chăn nuôi có được thông tin và hướng tác động đúng nhằm nâng cao hiệu quả
chăn nuôi.
Đánh giá được động thái của hormone progesterone trong những trường
hợp buồng trứng hoạt động không bình thường (không hoạt động, u nang, thể
vàng tồn lưu), giúp cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh sinh sản có hiệu quả.
Sử dụng một số hormone hướng sinh sản điều trị bệnh buồng trứng không
hoạt động, buồng trứng bị u nang và buồng trứng có thể vàng tồn lưu... để nâng
cao khả năng sinh sản của bò sữa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Đề tài làm rõ thêm quy luật hoạt động sinh lý, sinh sản của bò sữa nuôi
theo vùng sinh thái, giúp cho việc nghiên cứu, sản xuất có tác động phù hợp, chủ
động và hiệu quả. Kết quả sẽ góp phần bổ sung số liệu, tài liệu khoa học về đặc
điểm sinh lý sinh sản của bò nói chung và bò sữa nói riêng cũng như khả năng
điều khiển hoạt động sinh sản của bò bằng các chế phẩm hormone sinh sản.
Ứng dụng kỹ thuật ELISA để định lượng hormone progesterone trong sữa
3
hoặc huyết tương, để làm rõ tình trạng hoạt động của buồng trứng, hỗ trợ hữu
hiệu trong chẩn đoán lâm sàng (qua trực tràng), nâng cao độ chính xác của các kỹ
thuật trong chẩn đoán bệnh của buồng trứng, làm cơ sở áp dụng các chế phẩm
hormone có hiệu quả trong chăn nuôi.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá, phân tích được thực trạng sinh sản của đàn bò sữa cũng
như chỉ ra các yếu tố hạn chế năng suất chăn nuôi, giúp cho các nhà quản lý có
cơ sở để đưa ra những chính sách, phương pháp quản lý, biện pháp kỹ thuật tác
động một cách phù hợp trong chăm sóc, nuôi dưỡng và trị bệnh cho đàn bò sữa
nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Ứng dụng một số chế phẩm hormone hướng sinh sản để điều trị triệu
chứng rối loạn sinh sản của bò sữa hiện nay một cách có hiệu quả không những
tăng năng suất sinh sản ở bò mà còn hạn chế được sự ảnh hưởng của hormone
tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi.
Luận án đã tiếp cận một phương pháp nghiên cứu mới trong việc xác định, 4. Những đóng góp mới của luận án
đánh giá, phân loại cụ thể các nguyên nhân gây chậm sinh trên bò sữa. Đó là
phương pháp số hóa (định lượng hormone progesterone), kết hợp với phương
pháp truyền thống (lâm sàng) làm cho kết quả lâm sàng được chính xác hơn
trong chẩn đoán và điều trị bệnh trên buồng trứng.
Đưa ra các phác đồ điều trị bệnh một cách cụ thể cho từng trạng thái trên
buồng trứng đã giúp cho các nhà kỹ thuật ở cơ sở sản xuất có thể áp dụng một
cách thuận thiện và chính xác hơn, đạt được hiệu quả cao. Nhất là đối với các địa
bàn không có những kỹ thuật giỏi.
Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà chuyên môn,
tham khảo dùng trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu và ứng dụng trong thực
4
tiễn sản xuất.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu đặc điểm sinh sản trên bò
1.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh sản của bò cái
1.1.1.1. Sự thành thục về tính và tuổi phối giống lần đầu
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện,
buồng trứng có noãn bào chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ tinh, đồng
thời tử cung cũng biến đổi để đủ điều kiện cho phôi thai phát triển trong tử cung.
Những dấu hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc ở tuổi như vậy báo hiệu sự
thành thục về tính. Trong thực tế, thành thục về tính thường đến sớm hơn thành
thục về thể vóc và thời điểm đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, môi
trường sống và mức độ nuôi dưỡng. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, sự sinh
trưởng được thúc đẩy và thành thục về tính sẽ đến sớm hơn. Bò sữa thành thục
tính dục khi thể trọng đạt 30-40% so với lúc trưởng thành, còn bò thịt đạt 45-
50% (Nguyễn Kim Ninh, 1994).
Bò cái nếu được nuôi dưỡng tốt có thể thành thục tính dục lúc 12 tháng
tuổi, nhưng thành thục về thể vóc phải từ 18 tháng tuổi trở lên. Đối với bò lang
trắng đen Hà Lan, cho ăn đầy đủ, chăm sóc tốt, thành thục tính dục lúc 10-12
tháng tuổi; chăm sóc kém có thể kéo dài tới 16-18 tháng tuổi. Theo Mirnop
(1980), phối giống lần đầu tốt nhất vào lúc 15-18 tháng tuổi (dẫn theo Nguyễn
Kim Ninh, 1994).
Ở nước ta, do ảnh hưởng của khí hậu và chế độ dinh dưỡng chưa phù hợp
nên tuổi đẻ lứa đầu của bò thường cao. Bò vàng Việt Nam đẻ lứa đầu lúc 33-48
tháng tuổi (Nguyễn Văn Thưởng và Trần Doãn Hối, 1992), bò sữa Hà-Ấn F2
(75% máu bò Hà Lan) từ 46-48 tháng tuổi (Nguyễn Kim Ninh, 1994).
1.1.1.2. Chu kỳ động dục
Sau khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của bò được diễn ra
liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển lớn dần đến
độ chín, nổi cộm lên trên bề mặt buồng trứng được gọi là nang Graff, khi nang
5
Graff vỡ, trứng rụng thì gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần rụng trứng con vật có
những biểu hiện tính dục ra bên ngoài được gọi là động dục. Trứng rụng có chu
kỳ nên động dục cũng có chu kỳ. Chu kỳ động dục thông thường của bò là 21
ngày (dao động 18-24 ngày). Quá trình trứng phát triển đến chín và rụng đều chịu
sự điều hoà chặt chẽ của hormone, do đó, nhiều nhà nghiên cứu đã phân chia chu
kỳ động dục của bò thành 2 pha chính:
Pha Folliculin: gồm toàn bộ biểu hiện trước khi rụng trứng.
Pha Lutein: gồm những biểu hiện sau khi trứng rụng và hình thành thể
vàng. Trong một chu kỳ động dục của bò thường có các đợt sóng nang
(Foliculas Wave), đây là sự phát triển đồng loạt của một số bào noãn trong cùng
một thời gian. Theo dõi sự phát triển của buồng trứng bằng phương pháp nội soi
và siêu âm cho thấy ở bò trong một chu kỳ thường có 2-3 đợt sóng nang (một số
ít có 4 đợt). Đợt 1 bắt đầu diễn ra sau khi rụng trứng, vào ngày thứ 3-9 của chu
kỳ. Đợt 2 vào ngày 11-17 và đợt 3 vào ngày 18-0 (ngày 0 là ngày bắt đầu động
dục). Mỗi đợt sóng nang có thể phát triển (huy động) tới 15 nang kích thước từ 5-
7mm. Một số nang phát triển mạnh hơn gọi là nang trội (nang khống chế), kích
thước của nang khống chế ở đợt 1; 2; 3 có thể đạt tới 12-15mm vào các ngày 6;
13; 21 (Sato et al., 1992a). Trong mỗi sóng có một nang trứng phát triển nhanh
hơn các nang trứng khác và trở thành nang trội, mặc dù nang trội của mỗi đợt
sóng nang có khả năng phát triển đến rụng trứng nhưng do bị progesterone của
thể vàng ức chế nên không phát triển đến giai đoạn rụng trứng mà bị thoái hóa,
chỉ có một nang trội của đợt sóng nang cuối cùng phát triển đến giai đoạn rụng
trứng do lúc này thể vàng thoái hóa và hàm lượng progesterone bị giảm. Sự có
mặt của progesterone ở pha thể vàng làm cho các nang trứng trội bị thoái hóa và
đợt sóng nang mới lại xuất hiện.
Khi sử dụng progesterone ngoại sinh đã kéo dài chu kỳ động dục và tạo ra
sự luân chuyển của nang trội. Nồng độ progesterone trong máu tăng lên ức chế sự
liên tục của sóng LH (Luteinizing Hormone - hormone hoàng thể hóa do tuyến yên
tiết ra) có tác dụng kích thích rụng trứng và phát triển thể vàng ở con cái, làm cho
nang trội có thời gian sống ngắn hơn. Progesterone ức chế sự ảnh hưởng lên sự
6
phát triển của pha nang trội, do vậy các mức độ progesterone của thể vàng bình
thường thúc đẩy sự thoái hóa của các nang trội và tạo ra sóng nang mới (Adams et
al., 1992b). Tăng tính liên tục của nhịp LH kéo dài sự phát triển của nang trội và
tạo ra các cơ chất để tổng hợp estradiol, tăng nồng độ estradiol trong máu từ nang
trội. Nồng độ estradiol trong máu cao ức chế các sóng FSH và làm cho các nang
trứng 5mm hay lớn hơn không xuất hiện và hình thành các nang trội mới (Adams
et al., 1992b). Ở chu kỳ động dục có 2 đợt sóng nang, các nang trứng rụng phát
triển trong trạng thái progesterone cao trong 7 ngày, dài hơn so với chu kỳ có 3 đợt
sóng nang. Thêm vào đó, sự phát triển nang trứng rụng ở chu kỳ động dục có 2 đợt
sóng nang chiếm thời gian lâu hơn chu kỳ động dục có 3 đợt sóng nang (11 ngày
so với 7 ngày), do vậy nang trứng rụng ở chu kỳ động dục có 2 đợt sóng nang có
kích thước to hơn, 17mm so với 14mm. Do thời gian phát triển của nang trứng ở
chu kỳ động dục có 2 đợt sóng nang dài hơn chu kỳ động dục có 3 đợt sóng nang,
các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu và so sánh tỷ lệ có chửa và một số tác giả cho
rằng ở chu kỳ có 2 đợt sóng nang tỷ lệ có chửa thấp hơn, song một số tác giả khác
lại cho thấy không có sự khác nhau (Admas et al., 1992b).
Theo Siphilop (1967), chu kỳ động dục của bò biến động từ 18-28 ngày
(trung bình 21 ngày), thời gian động dục từ 6-36 giờ (phần lớn kéo dài từ 25-36
giờ). Chu kỳ động dục ở gia súc mang tính đặc trưng theo loài và được chia làm
4 giai đoạn (4 pha) riêng biệt nhưng liên tiếp nhau:
- Giai đoạn trước động dục: tính từ thời kỳ thoái hoá thể vàng của chu kỳ
trước cho đến giai đoạn động dục kỳ sau.
- Giai đoạn động dục: kéo dài 8-30 giờ, là giai đoạn bò chấp nhận sự phối
giống. Tế bào trứng và nang trứng đạt đến độ chín tối đa.
- Giai đoạn sau động dục: đầu giai đoạn sau động dục xảy ra hiện tượng
nang trứng rách ra và vách của nang trứng rách phát triển thành thể vàng trong
vòng 3 ngày.
- Giai đoạn cân bằng sinh học: giai đoạn này kéo dài từ 12-15 ngày và thể
vàng sản sinh mạnh progesterone (Satoet al., 1992a).
Chu kỳ động dục được điều hòa bởi các hormone được tiết ra từ vùng
7
dưới đồi (hypothalamus) và buồng trứng.
Hypothalamus tiết GnRH (Gonadotropin Releasing Hormone) vào hệ
thống động mạch vùng dưới đồi - tuyến yên làm thùy trước tuyến yên tăng tiết
FSH và LH, kích thích sự phát triển nang trứng. Trong hàng loạt các nang
phát triển, xuất hiện nang trứng phát triển nhanh hơn và trở thành nang trội.
Estradiol và Inhibin được tổng hợp từ các tế bào hạt của nang trội. Hàm lượng
estradiol tăng cao, tác động ngược dương tính vào hypothalamus, kích thích
sản xuất LH tăng cao làm nang trội giải phóng tế bào trứng. Inhibin tác động
ngược âm tính làm giảm hàm lượng FSH dưới ngưỡng cần thiết đối với sự tồn
tại của các nang còn lại, làm thoái hóa các nang trứng còn lại. Tuy nhiên, ở
hàm lượng FSH thấp nang trội vẫn có khả năng phát triển và rụng trứng do
nang trội có sự mẫn cảm với FSH nhờ sự có mặt của IGF-1 (Inhibin-like
Growth Factor-1: yếu tố sinh trưởng giống Inhibin) trong tế bào với hàm
lượng cao hơn và nang trội có thụ thể tiếp nhận LH của các tế bào hạt sớm
hơn các nang khác và do vậy nang trội phát triển đến giai đoạn rụng trứng mà
không bị thoái hóa trong điều kiện FSH thấp (Campbell et al., 1995).
Vai trò của FSH
Kích noãn tố gọi tắt là FSH, là một glycoprotein được tìm thấy ở người
và các động vật khác nhau, được tổng hợp và tiết ra bởi các tế bào nội tiết của
thùy trước tuyến yên. FSH có chức năng điều hòa quá trình sinh trưởng, phát
triển, thành thục về tính và các quá trình sinh sản của cơ thể. FSH hoạt động
thông qua sự liên kết vào các thụ thể (receptor) đặc trưng, được định vị vào một
nơi riêng biệt trên tế bào hạt của nang trứng và các tế bào hạt trên buồng trứng,
là vị trí đích để FSH hoạt động. Các nghiên cứu gần đây cho thấy FSH rất cần
thiết cho tất cả các giai đoạn phát triển của nang trứng như: chuyển hóa tiền các
tế bào hạt dẹt thành các tế bào hình lập phương, phát triển các nang trứng thứ
cấp và chuyển hóa nang trứng từ nang trứng thứ cấp thành nang trứng phát triển
do FSH ảnh hưởng trực tiếp lên sự hình thành nang. Vai trò của FSH trong sự
điều khiển phát triển các nang trứng nhỏ hơn 1mm được rất nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu và đến nay vẫn có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Một
8
số tác giả cho rằng FSH không có chức năng đối với các nang trứng ở trước giai
đoạn nang trứng thứ cấp ở bò cũng như các loài động vật có vú khác (Tanaka et
al., 2001). Song một số tác giả gần đây nghiên cứu cho thấy, FSH đóng vai trò
trong sự phát triển của nang trứng giai đoạn đầu, thiếu lượng FSH tối thiểu có
thể làm giảm tỷ lệ phát triển của nang trứng nhỏ do kéo dài thời gian cần thiết
để các tế bào hạt phát triển (Lussier et al., 1987), FSH là yếu tố đầu tiên điều
khiển quá trình phát triển của nang trứng ở tất cả các giai đoạn khác nhau. Khi
nghiên cứu mối quan hệ giữa sự xuất hiện của nang trứng trong giai đoạn đầu
của thời kỳ mang thai và hàm lượng FSH trong huyết thanh của bào thai cái,
Tanaka et al. (2001), thấy rằng trong thời kỳ bào thai cũng như ở bò trưởng
thành, số lượng của các nang trứng và các giai đoạn phát triển của nang trứng
được đánh giá thông qua sự thay đổi nồng độ FSH. Ở bò, ngay sau khi các nang
trứng nguyên thủy được hoạt hóa, thụ thể FSH được thể hiện lên các màng tế
bào hạt. Nghiên cứu ở loài gặm nhấm cho thấy FSH cần thiết cho quá trình
thành thục của tiền các tế bào hạt dẹt thành các tế bào hạt hình lập phương. Các
tế bào hình lập phương này đánh dấu cho sự chuyển đổi của quá trình hoạt hóa
nang trứng nguyên thủy thành nang trứng sơ cấp. Ức chế FSH là hạn chế quá
trình hoạt hóa nang trứng nguyên thủy thành nang trứng sơ cấp. Như vậy,
chúng ta có thể thấy rằng FSH cần thiết cho tất cả các giai đoạn phát triển của
nang trứng như chuyển hóa các tế bào hạt thành các tế bào hạt hình lập phương,
phát triển các nang trứng giai đoạn thứ cấp, chuyển hóa nang trứng từ giai đoạn
thứ cấp thành nang trứng phát triển và phát triển đến khi rụng trứng, qua đó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành các xoang của nang trứng.
Theo Adams et al. (1992b), sự phát triển của các nang trứng ở giai đoạn
phát triển, có kích thước nhỏ hơn 1mm phụ thuộc vào nồng độ FSH trong hệ
thống tuần hoàn. Trước khi rụng trứng, nồng độ FSH của nang trứng (có kích
thước 4-5mm) lặp đi lặp lại giống như sóng và hàm lượng FSH bắt đầu giảm
sau khi nang trứng lớn hơn 5mm. Estradiol và inhibin từ nang trứng 4-5mm dần
tăng tiết tạo ra sự phản hồi âm tính cho FSH ở trục dưới đồi tuyến yên. Sự suy
giảm FSH dẫn đến hàm lượng estrogene giảm đó là cơ sở xảy ra đồng thời với
9
sự ưu tiên một nang trội.
Vai trò của LH:
Đối với gia súc cái, LH có vai trò kết hợp với FSH làm giảm sự bài tiết
của estrogen ở những nang Graff lớn, làm cho bao noãn thành thục. Sự có mặt
của LH với nồng độ cao có vai trò làm rách vách nang trứng gây rụng trứng. Một
vai trò quan trọng của LH là kích thích sự tạo và duy trì hoạt động của tế bào thể
vàng buồng trứng (thực chất của quá trình này là tăng số lượng thể nhận LH ở
các tế bào hạt dưới ảnh hưởng của FSH). Đối với con đực, LH kích thích tế bào
kẽ (tế bào Leydig) của dịch hoàn sản xuất testosteron (Cù Xuân Dần và Lê Khắc
Thận, 1985).
1.1.1.3. Quá trình mang thai
Sự phát triển của thai là hiện tượng sinh lý đặc biệt của cơ thể, nó được
bắt đầu từ khi trứng được thụ tinh cho đến khi đẻ xong. Trong thực tế, sự có
thai của bò được tính ngay từ ngày phối giống cuối cùng cho đến ngày đẻ. Thời
gian mang thai phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như tuổi của bò mẹ, điều kiện
nuôi dưỡng, chế độ khai thác và sử dụng, số lượng thai, đôi khi còn phụ thuộc
vào lứa đẻ hoặc tính biệt của thai. Thời gian mang thai của bò dao động trong
khoảng 278-290 ngày.
Theo Trần Trọng Thêm (1986), đối với đàn bò Holstein Friesian tại Trung
tâm giống bò sữa Hà Lan Sao Đỏ, thời gian có chửa là 279,87 ngày. Thời gian
chửa của bò Sind đỏ Philipin là 280 ngày (252-299), của bò Pakistan là 285 ngày
(257-328). Theo Rubenkop (1975) thời gian chửa ở bò lang trắng đen (LTĐ), F2
3/4 (LTĐ), F3 7/8 LTĐ tương ứng là: 276,5; 275,5; 276,0 ngày; các nhóm bò lai
3/4 và 5/8 máu HF của Nông trường Ba Vì tương ứng là 278,3 và 280,1 ngày
(dẫn theo Nguyễn Văn Thưởng và Trần Doãn Hối, 1982).
1.1.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
Khoảng cách lứa đẻ là thước đo khả năng sinh sản của gia súc. Khoảng
cách lứa đẻ phụ thuộc vào chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, đặc điểm sinh vật của
giống, thời gian động dục lại sau đẻ, kỹ thuật phối giống, vắt sữa và cạn sữa. Ở
10
bò, 1 năm 1 lứa là khoảng cách lý tưởng; khoảng cách lứa đẻ dài ảnh hưởng đến
toàn bộ thời gian cho sản phẩm, tới tổng sản lượng sữa và số bê con được sinh
ra trong 1 đời bò mẹ, dẫn đến hạn chế việc nâng cao tiến bộ di truyền. Gia súc
càng mắn đẻ, hệ số tái sản xuất càng cao. Lauhiuna (Liên Xô cũ) đã đưa ra
công thức tính hệ số tái sản xuất của bò (K1) (dẫn theo Nguyễn Kim Ninh,
1994) như sau:
Ở đây: T là số bê do bò cái đẻ ra; V là tuổi bò cái (năm). K1 càng cao, hiệu
quả kinh tế càng lớn.
Sadal đã đưa ra chỉ tiêu đánh giá năng suất bò cái bằng khoảng cách lứa
đẻ. Bò có khoảng cách lứa đẻ 410 ngày là bò rất tốt, 411-460 ngày là tốt, 461
ngày trở lên là bò không tốt (Nguyễn Kim Ninh, 1994).
Ở Việt Nam, trong điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng chưa đầy đủ, khoảng
cách giữa 2 lứa đẻ là 18-20 tháng, bò Lai Sind là 417 ngày (Nguyễn Văn Thưởng
và Trần Doãn Hối, 1982), bò lai F1 (Holstein Friensian x lai Sind) là 398,6 ngày
(378 ngày nuôi dưỡng tốt và 424 ngày nuôi dưỡng kém) (Nguyễn Văn Thưởng
và Trần Doãn Hối, 1982); 540 ngày (Nguyễn Kim Ninh và Lê Trọng Lạp, 1992);
473 ngày (Trần Trọng Thêm, 1986).
1.1.1.5. Sự hồi phục sau khi đẻ
- Thời gian hồi phục tử cung sau đẻ:
Sau quá trình co bóp để đẩy thai ra ngoài, tử cung dần dần co lại (hầu
như trở lại kích thước ban đầu), quá trình đó gọi là hồi phục tử cung sau khi đẻ,
là giai đoạn sinh lý có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phân tiết prostaglandin ở
thân sừng tử cung, ảnh hưởng tới khả năng động dục trở lại sau khi đẻ.
Trước đây người ta cho rằng thời gian để bộ máy sinh dục của bò cái hồi
phục hoàn toàn sau khi đẻ chỉ là 3 tuần. Những kết quả nghiên cứu sau này
chứng minh rằng thời gian này dài hơn. Đối với bò đẻ lứa đầu là 42 ngày, bò đã
đẻ nhiều lần là 50 ngày. Kích thước tử cung của bò sau khi đẻ được hồi phục trở
lại gần như bình thường vào khoảng ngày thứ 30 nhưng cần thêm 15 ngày nữa thì
11
trương lực cơ tử cung mới được hồi phục hoàn toàn (Sato et al., 1992a).
Phương pháp khám qua trực tràng cho biết, 4 ngày sau khi đẻ thể tích tử
cung giảm còn 1/2 và tử cung hồi phục gần như hoàn toàn khoảng ngày thứ 18
sau khi đẻ. Trong thời gian sau khi đẻ, sự phá hoại của mô nội mạc tử cung kèm
theo sự có mặt của số lượng lớn bạch cầu và việc giảm thấp lòng mạch nội mạc
tử cung, các tế bào cổ tử cung giảm về số lượng và kích thước. Những biến đổi
nhanh chóng và không cân đối có thể là một nguyên nhân làm cho tỷ lệ thụ thai
sau khi đẻ bị giảm thấp. Các mô máu bị tróc và rụng khỏi dạ con 12 ngày sau
khi đẻ. Sự tái sinh của bề mặt biểu mô ở các núm xuất hiện bằng cách lớn lên từ
mô bao bọc xung quanh và được hoàn tất sau khi đẻ 30 ngày (Nguyễn Tấn Anh
và cs., 1995). Theo Sato et al. (1992a), quá trình hồi phục tử cung bò sau khi đẻ
(nếu không biến chứng) là 45 ngày và để nội mạc tử cung trở lại trạng thái mô
bào học bình thường thì cần 15 ngày tiếp theo nữa (Nguyễn Tấn Anh và
Nguyễn Duy Hoan, 1998). Ở dê cừu sau khi đẻ 15-20 ngày, tử cung co lại bình
thường. Theo Nguyễn Trọng Tiến và cs. (1991), sau khi đẻ 60 ngày, 75% số bò
cái có cơ quan sinh dục được hồi phục, sau 75 ngày có 87%. Đối với bò đẻ khó,
sót nhau, thời gian này là 4 tháng. Tác giả cũng cho biết ở đàn bò cái sự hồi
phục tử cung phía không mang thai là 11,4 ngày. Sự co dạ con còn phụ thuộc
vào cơ thể, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, quá trình đẻ và sự hộ lý chăm sóc
sau khi đẻ.
- Rụng trứng và động dục lại sau khi đẻ
Sau khi sinh, nhiều cá thể bò sẽ động dục lại và rụng trứng trong vòng 20-
30 ngày. Tuy nhiên, hiện tượng “động dục ngầm” hay là rụng trứng “thầm lặng”
thường chiếm tỷ lệ cao và những con bò này rụng trứng trở lại vào lúc 45-50
ngày. Phần lớn chúng có biểu hiện động dục và những bò như vậy thường ít có
vấn đề về sinh sản so với những bò có thời kỳ động dục kéo dài sau đẻ (Nguyễn
Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan, 1998).
Vấn đề động dục trở lại sau khi đẻ còn phụ thuộc rất nhiều vào chế độ
chăm sóc nuôi dưỡng (dinh dưỡng) trong thời gian trước và sau khi đẻ. Vấn đề
dinh dưỡng và nuôi con, tiết sữa sẽ kéo dài thời gian động dục trở lại sau 100
12
ngày. Một số nguyên nhân khác cũng làm cho thời gian động dục lại kéo dài
sau đẻ là nhiễm bệnh (viêm nhiễm ở tử cung), rối loạn trao đổi chất, môi trường
sống kém...
1.1.2. Sự điều hòa hoạt động sinh dục của tuyến nội tiết
Hoạt động sinh dục chịu sự điều tiết của hệ thần kinh - thể dịch, hệ thần
kinh tác động thông qua các thụ quan nhạy cảm, nơi tiếp nhận tất cả các xung
động của ngoại cảnh vào cơ thể. Đầu tiên là đại não và vỏ não mà trực tiếp là
Hypothalamus tiết ra các chất kích thích (yếu tố giải phóng) GH-RF kích thích
thùy trước tuyến yên tiết FSH, LH và các hormone đó theo máu tác động tới
buồng trứng làm nang trứng phát triển đến mức độ chín và tiết ra estrogen.
Ở quá trình sinh lý bình thường, trong gia súc đến tuổi trưởng thành,
buồng trứng đã có nang trứng phát triển ở các giai đoạn khác nhau, trong cơ
thể con vật đã có sẵn một lượng nhất định về estrogen, chính estrogen tác
động lên trung khu vỏ đại não và ảnh hưởng đến hypothalamus, tạo điều kiện
cho sự xuất hiện và lan truyền các xung động thần kinh gây tiết GnRH chu kỳ
(Gonadotropin Releasing Hormone hay là hormone giải phóng FRH và LRH)
(Trần Tiến Dũng và cs., 2002).
Hormone giải phóng FRH (Follitropin-Releasing Hormone) và LRH
(Luteinizing Releasing Hormone) được gọi chung là GnRH.
Hormone FRH kích thích thùy trước tuyến yên tiết FSH, kích tố này kích
thích sự phát triển noãn nang của buồng trứng, cũng đồng nghĩa với việc lượng
estrogen tiết ra nhiều hơn. Estrogen tác động vào các bộ phận sinh dục thứ cấp
đồng thời tác động lên trung tâm hypothalamus, vỏ đại não, gây nên hiện tượng
động dục.
Thùy trước tuyến yên tiết ra hormone LH và LRH dưới sự kích thích của
LRH. LH tác động vào buồng trứng, làm trứng chín; kết hợp với FSH làm nang
trứng vỡ ra và gây nên hiện tượng thải trứng, hình thành thể vàng. LRH kích
thích thuỳ trước tuyến yên phân tiết LTH (Luteino Trofic Hormone). LTH tác
13
động vào buồng trứng duy trì sự tồn tại của thể vàng, kích thích thể vàng phân
tiết progesterone. Progesterone tác động ngược lên tuyến yên ức chế phân tiết
FSH, LH và quá trình động dục chấm dứt.
Progesterone tác động vào tử cung làm cho tử cung dày lên, tạo cơ sở tốt
cho việc làm tổ của hợp tử - phôi lúc ban đầu (tạo sữa tử cung). Ở con vật có
chửa, thể vàng tồn tại suốt thời gian mang thai, có nghĩa là lượng progesterone
được duy trì với nồng độ cao trong máu. Nếu không có chửa, thể vàng tồn tại
đến ngày thứ 15-17 của chu kỳ, sau đó teo dần, đồng thời hàm lượng
progesterone cũng giảm dần, giảm đến một mức độ nhất định nó lại cùng với
một số nhân tố khác kích thích vỏ đại não, hypothalamus, tuyến yên, lúc này
tuyến yên ngừng phân tiết LTH, tăng cường phân tiết FSH, LH, chu kỳ sinh dục
mới lại hình thành.
Sự liên hệ giữa hypothalamus, tuyến yên và tuyến sinh dục để điều hòa
hoạt động sinh dục của gia súc cái không chỉ theo chiều thuận mà còn theo cơ
chế điều hoà ngược. Cơ chế điều hoà ngược đóng vai trò quan trọng trong việc
giữ vững “cân bằng nội tiết”.
Lợi dụng cơ chế điều hòa ngược, người ta sử dụng một lượng
progesterone đưa vào để điều khiển chu kỳ tính ở gia súc cái.
Khi đưa một lượng progesterone vào cơ thể làm cho hàm lượng
progesterone trong máu tăng lên, theo cơ chế điều hòa ngược trung khu điều
khiển sinh dục ở hypothalamus bị ức chế, kìm hãm sự tiết các kích tố của tuyến
yên, làm cho các bao noãn tạm thời ngừng phát triển, do đó làm cho chu kỳ động
dục tạm thời ngừng lại. Sau khi kết thúc sử dụng progesterone, hàm lượng này
trong máu sẽ giảm xuống đột ngột, sự kìm hãm được giải tỏa, trung khu điều
khiển sinh dục được kích thích, kích tố FSH lại được bài tiết đã kích thích sự
phát triển của noãn nang làm cho chu kỳ động dục của bò cái (được xử lý) trở lại
hoạt động cùng một lúc. Hiệu quả tác động sẽ cao hơn nếu có sự kết hợp của một
số loại hormone khác như huyết thanh ngựa chửa (HTNC), estradiol benzoat, LH
14
(Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985).
1.1.3. Hormone tuyến yên và vai trò của chúng trong sinh sản
Theo Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận (1985), trước đây người ta quan
niệm rằng hormone là những chất của các tuyến nội tiết tiết ra đi thẳng vào
máu hay bạch huyết có tác dụng sinh học cao, điều hòa hoạt động chức năng
của cơ quan thích ứng.
Ngày nay quan niệm về hormone đã được mở rộng hơn, nó bao gồm cả
những chất có tác dụng sinh học không do tuyến nội tiết chế tiết, mà còn do các
tế bào, các tổ chức tiết ra tuần hoàn theo máu.
Từ quan niệm mở rộng trên, hormone có thể được định nghĩa tóm tắt là
những chất truyền tin hóa học tuần hoàn theo máu đi từ cơ quan sản sinh ra
chúng đến cơ quan tiếp nhận (cơ quan đích) để điều khiển nhịp độ các quá trình
sinh hoá học của cơ thể thông qua sự tăng tiết hay giảm tiết nồng độ.
Theo định nghĩa trên, hormone sinh dục là những hormone tham gia
điều khiển hoạt động sinh dục ở trong cơ thể động vật nói chung và ở gia súc
nói riêng. Hormone thùy trước tuyến yên tiết ra bao gồm FSH và LH.
Tác dụng chính của FSH là kích thích nang trứng phát triển mà không gây
rụng trứng. Muốn gây được trứng rụng phải có LH. Hầu hết các nhà sinh học đều
thống nhất rằng, để trứng rụng được thì lượng LH phải lớn hơn lượng FSH,
thường với tỷ lệ (Lê Văn Thọ và Lê Xuân Cương, 1979).
Hiện nay, cùng với việc thu được những chế phẩm FSH và LH tinh khiết,
quan niệm về kích dục tố của tuyến yên cũng thay đổi.
- Hormone giải phóng FSH và LH (GnRH) là một polypeptid gồm có 10
axit amin: pGlu-His-Trp-Ser-Tyr-Gly-Leu-Arg-Pro-Gly-NH2. Nguồn gốc của
GnRH là từ các tận cùng thần kinh nằm ở vùng lồi giữa, thân của những nơron khu
trú ở nhân (arcuate nucleus) của vùng dưới đồi. Hormone được bài tiết theo nhịp,
cứ 1-3 giờ một lần, thời gian mỗi lần kéo dài trong vài phút. Tác dụng của GnRH
là kích thích tế bào thùy trước tuyến yên bài tiết FSH và LH(Sato et al., 1992a).
Tuy nhiên, nhịp tiết LH liên quan chặt chẽ với nhịp tiết của GnRH hơn là FSH. Có
15
lẽ chính vì lí do này, nhiều khi người ta gọi GnRH là LRH. Vắng mặt GnRH hoặc
nếu đưa GnRH liên tục vào máu đến tuyến yên thì cả FSH và LH đều không được
bài tiết. Ngày nay, người ta đã sản xuất ra GnRH để điều khiển sự hoạt động của
buồng trứng nhằm khắc phục một số chứng vô sinh hoặc sinh sản kém ở gia súc.
1.1.4. Hormone của buồng trứng, nhau thai và prostaglandin trong sinh sản
Estrogen
Hormone của buồng trứng được tạo ra bởi toàn bộ tế bào nang trứng và tổ
chức kẽ. Ở động vật khi có chửa, estrogen được tổng hợp bởi nhau thai (hoặc bởi
vỏ tuyến trên thận với một lượng nhỏ), vì thế vẫn thấy estrogen được tiết ra không
ngừng. Estrogen gồm 3 loại: estradiol, estron và estriol. Trong đó, estradiol là
estrogen được bài tiết nhiều nhất và có tác dụng sinh học mạnh nhất, nó tồn tại
dưới hai dạng đồng phân và , trong đó 17-estradiol có hoạt tính sinh học mạnh
hơn cả (lớn hơn 17-estradiol tới 40 lần và hơn estron 10 lần). Còn estriol là
estrogen yếu nhất, nó là dạng chuyển hóa của 17β-estradiol và estrone. Cả ba loại
đều có bản chất hóa học là steroid được tổng hợp từ cholesterol (Nguyễn Xuân
Tịnh và cs., 1996).
Trong quá trình sinh tổng hợp estrone người ta thấy có sự chuyển hóa qua
lại của chúng. Ví dụ: esterone 17 dễ dàng chuyển thành estron, estron bị phân
giải thành những sản phẩm steroid.
Công dụng của estrogen là kích thích cơ quan sinh dục cái phát triển, làm
cơ quan sinh dục tăng sinh và tiết dịch, giúp gia súc cái có những biểu hiện động
dục. Bằng thực nghiệm đã chứng minh rằng khi cho estrogen vào cơ thể con cái
làm tăng khối lượng của dạ con và buồng trứng, là kết quả của sự tăng tổng hợp
protein và axit nucleic (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
Prostaglandin (PG)
Tác dụng sinh học chủ yếu của PG trong chăn nuôi là điều khiển chức
năng sinh sản. Progesterone của thể vàng ức chế tiết kích dục tố của hệ thống
hypothalamus và tuyến yên. Trong khi PG tăng lên trong dạ con vào cuối chu kỳ
sinh dục đã gây ra sự tiêu biến thể vàng. Chính vì thế, người ta đã áp dụng tiêm
16
PGF2 để gây thoái hoá thể vàng vào bất kỳ giai đoạn nào của chu kỳ sinh dục, và
qua cơ chế điều khiển ngược, tuyến yên sẽ thúc đẩy sự phát triển noãn bao ở
buồng trứng và gây ra động dục và rụng trứng (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
Điều này tạo ra khả năng gây động dục đồng loạt để tiến hành phối
giống cho gia súc bằng thụ tinh nhân tạo trong cùng một thời gian. Ngày
nay, PGF2 và các chất đồng dạng của nó đã được dùng rộng rãi và phổ biến
để gây động dục đồng loạt và kế hoạch hóa trong phối giống gia súc.
Henricks et al. (1986), Louis et al. (1972) đã đề cập đến việc sử dụng PGF2
để điều chỉnh sinh sản. Cách sử dụng PGF2 phụ thuộc vào bản chất hoá học
của nó, trạng thái sinh dục của con cái, giai đoạn của chu kỳ động dục, giống gia
súc và mục đích sử dụng của người kỹ thuật.
1.1.5. Đặc tính sinh học của hormone sinh sản
Cũng giống như các hormone khác, hormone sinh dục có các đặc tính cơ
bản như sau:
Tác dụng của hormone không mang tính đặc trưng cho loài. Người ta có
thể lấy hormone từ loài động vật này gây kích thích cho nhiều loài động vật khác
(Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985). Ví dụ: dùng huyết thanh ngựa chửa có
thể gây động dục cho nhiều loài gia súc khác như lợn, bò, dê, cừu…
Mỗi hormone chỉ có một cơ quan đích nhất định tức là nó chỉ có tác dụng
đối với một cơ quan, một chức năng xác định. Ví dụ LH chỉ tác động tới buồng
trứng gây rách vách nang để trứng rụng và hình thành thể vàng.
Hormone là những hoạt chất sinh học có hoạt tính cao, mặc dù ở liều
lượng nhỏ nhưng tác động của nó rất lớn. Ví dụ để gây động dục cho bò người ta
sử dụng huyết thanh ngựa chửa với liều 500-1.500 UI/1 bò hoặc từ 10-12 đơn vị
chuột/1kg thể trọng (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
1.1.6. Vai trò của một số hormone đối với gia súc cái
Inhibin
Inhibin được sinh ra từ các tế bào lớp hạt của buồng trứng và các tế bào
Sertoli của dịch hoàn và sự sản sinh được thúc đẩy nhờ hormone sinh dục như
FSH và gonadotropin màng đệm nhau thai người (hCG). Inhibin ức chế hoạt
17
động chế tiết FSH từ tuyến yên của gia súc, làm giảm nhanh nồng độ FSH
trong máu. Giai đoạn đầu, khi các nang trứng có kích thước nhỏ, nồng độ
inhibin thấp và FSH được tiết từ tuyến yên, kích thích sự tăng trưởng của nang
trứng. Khi nang trứng chín, sự chế tiết inhibin từ nang trứng tăng nhanh, dẫn
đến ức chế sự chế tiết FSH. Sau đó nang trứng chín này được phóng thích
(rụng trứng) và lúc đó nguồn sản sinh inhibin cũng không còn, điều này gây ra
sự giảm nhanh nồng độ inhibin trong máu dẫn đến hiện tượng chế tiết ồ ạt
FSH từ tuyến yên (Sato, et al., 1992a).
Estrogen
Estrogen là hormone do buồng trứng tiết ra, ngoài ra còn được tổng hợp từ
nhau thai và một lượng ít trong vỏ tuyến trên thận (còn gọi là thượng thận).
Estrogen tồn tại dưới hai đồng phân (α và β), chúng khác nhau về tính chất
hoá học và sinh học (Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985).
Estrogen quy định đặc tính sinh dục thứ cấp của gia súc cái. Trong thời kỳ
gia súc cái thành thục về tính, estrogen kích thích sự phát triển của tuyến vú. Khi
gia súc cái đã thành thục, sự tiết của estrogen gây nên phản xạ động dục. Mặt
khác, estrogen tăng tiết sẽ kích thích tuyến yên giảm tiết FSH làm ngừng quá
trình động dục.
Oxytocin
Oxytoxin được coi là hormone thần kinh được chế tiết từ thùy sau tuyến
yên. Tuy nhiên, gần đây người ta đã phát hiện ra oxytocin được chế tiết từ thể
vàng và đóng vai trò quan trọng trong việc biểu hiện các chức năng sinh sản.
Oxytocin từ buồng trứng tăng nhanh do tiêm PGF2và có cơ chế điều hòa
ngược dương tính được xem là đã gây nên tiêu biến thể vàng (Sato et al.,
1992a). Oxytocin tăng lên có ảnh hưởng đến nội mạc tử cung, làm tăng tiết
PGF2 do đó làm tăng hơn nữa sự chế tiết oxytoxin từ thể vàng.
Hormone này có tác dụng kích thích co bóp đối với cơ trơn tử cung
lúc chuyển dạ đẻ, kích thích co bóp cơ trơn ống dẫn tuyến vú gây thải sữa
18
(Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985). Oxytocin có tác dụng làm co bóp
thân sừng tử cung để đẩy dịch bẩn, tế bào chết ra ngoài trong thời gian hồi
phục tử cung.
Prolactin (PRL)
Theo Leaves (1987) Hormone prolactin được tiết ra từ thùy trước tuyến
yên, thúc đẩy tiết sữa, kích thích sự hoạt động của thể vàng và tiết progesterone,
thúc đẩy bản năng làm mẹ của gia súc cái (trích từ Sato et al.,1992a).
Hormone này kích thích tuyến vú tiết sữa sau khi gia súc sinh con và kích
thích thể vàng tiết progesterone. Nói chung, PRL có vai trò hình thành bản năng
làm mẹ cho gia súc cái (Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985). Prolactin với một
hàm lượng cao trong thời kỳ tiết sữa có tác dụng ức chế trung khu điều khiển
sinh dục (hypothalamus) phân tiết GnRH (Sato et al., 1992a), vì vậy đối với gia
súc thời kỳ cho sữa cao sẽ chậm động dục trở lại hơn so với những gia súc có sản
lượng sữa thấp.
1.2. Progesterone và ứng dụng trong sinh sản
1.2.1. Vai trò của progesterone
Với các kết quả nghiên cứu hiện nay về progesterone, chúng ta có thể thấy
rõ vai trò của hormone này thể hiện theo hai hướng.
- Hướng thứ nhất: Tác động tới cơ quan sinh dục:
Đối với buồng trứng: Với liều lượng thấp (mới bắt đầu phân tiết) nó kích
thích sự phát triển của thể vàng, liều lượng cao sẽ gây thoái hoá nang trứng và ức
chế sự rụng trứng. Ngoài ra, progesterone còn được xem là nhân tố quan trọng
trong quá trình rụng trứng. Dưới ảnh hưởng của LH nồng độ cao trước thời kỳ
rụng trứng, sự tạo thành progesterone có tác dụng làm tăng hoạt tính của enzyme
phá vỡ thành bao noãn và cùng với estrogen phát triển tập tính sinh dục ở con cái
(Homeida, 2002).
Đối với tử cung: Progesterone có tác dụng giảm tính mẫn cảm co bóp của
nội mạc tử cung thông qua cơ chế ức chế các men oxy hoá như glucuronidaza,
photphataza và anhydraza, vì vậy nó được coi là loại hormone an thai. Theo
Hammond et al. (1975), dưới tác dụng của progesterone, biểu mô nội mạc tử
19
cung tăng lên, chứa nhiều nguyên liệu để hình thành chất tiết, các tuyến tử cung
của nội mạc tử cung bắt đầu lớn lên, trở thành uốn khúc và tăng tiết dịch, dịch
tiết này là nguồn dinh dưỡng chủ yếu nuôi phôi cho đến khi làm tổ.
Đối với tuyến vú: Progesterone kích thích sự hình thành các tiểu thùy và
các túi (bao) tuyến của bầu vú, chuẩn bị cho tiết sữa.
- Hướng thứ hai: Tác động ngược trở lại hypothalamus và tuyến yên nhằm
kích thích hoặc ức chế tiết các hormone sinh dục (cơ chế điều hòa ngược -
feedback).
Điều tiết progesterone
Tiết progesterone là chức năng chủ yếu của thể vàng, tuy nhiên có quan
điểm cho rằng sự tạo thành thể vàng và tiết progesterone là do prolactin (PRL)
giữ vai trò chính.
Một số công trình nghiên cứu hiện nay đã chứng minh rằng việc kiểm soát
sự chế tiết progesterone ngoài thời kỳ mang thai được đảm nhiệm bởi những
luteotrophin có nguồn gốc từ tuyến yên (LH, PRL) và một số chất có vai trò phân
giải lutein đã được xác định rõ là PGF2. Ngoài ra ở một số loài, estradiol cũng là
một yếu tố luteotrophin (Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985).
Cùng với quan điểm này, nhiều tác giả cho rằng PRL kích thích và duy trì
sự có mặt của các thể tiếp nhận LH trên tế bào lutein. Sự có mặt của LH thông
qua các thể nhận này có vai trò ức chế sự dị hoá của progesterone thành 20
dihydro progesterone (Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan, 1998).
Vai trò của LH trong điều hoà phân tiết progesterone
Ở phần lớn các loài động vật, LH cần thiết cho việc duy trì sự chế tiết bình
thường của progesterone tại thể vàng.
Khi mới bắt đầu phân tiết, nồng độ progesterone trong máu tăng dần có
tác dụng kích thích trung khu sinh dục vùng dưới đồi hypothalamus tăng tiết các
yếu tố giải phóng LRF. LRF kích thích tuyến yên tiết FSH và LH thông qua hệ
thống “thông tin thứ hai” là inositol triphosphat (InsP3 hay IP3) và Diacylglycerol
20
hay diglycerid (DAG hay DG) (Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận, 1985).
InsP3 và DAG là hệ thống thông tin thứ hai đối với các hormone giải
phóng (GnRH), là các thông tin nội bào được hình thành từ phosphatydin inositol
4-5 diphosphat (PIP2) sau khi đã thuỷ phân phospholipaza C (PLC), một loại
phospholipid màng tế bào có bản chất là enzyme.
Cơ chế tác dụng: Khi có mặt của hormone GnRH, nó gắn với thể nhận
trên bề mặt tế bào tạo thành phức hợp Hormone - Thể nhận (H-R), cụ thể: GnRH
- Thể nhận. Tín hiệu từ phức hợp này thông qua protein kích hoạt trung gian thứ
ba có tên là protein G đến và hoạt hóa phospholipaza C. Protein G được tạo thành
bởi sự kết hợp giữa protein và guanylnucleotid, có khối lượng phân tử 42.000
Dalton và có khả năng kết hợp với guanosine triphosphate (GTP) và
guanosine diphosphate (GDP) (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
Phospholipaza C thuỷ phân tạo ra InsP3 và DAG. Đây chính là thông tin
thứ hai trong cơ chế tác dụng của hormone protein. DAG hoạt hoá proteinkinaza
C làm tăng ái lực của proteinkinaza C với ion Ca2+. Mặt khác proteinkinaza C
được hoạt hoá sẽ phosphryl hóa những protein đặc hiệu trong tế bào làm thay đổi
hoạt động xúc tác của những protein này. Một trong những hoạt động của các
protein này là tham gia vận chuyển FSH và LH ra ngoài tế bào (Nguyễn Xuân
Tịnh và cs., 1996).
Còn InsP3 kết hợp với thể nhận ở màng lưới nội nguyên sinh chất kích
thích sự giải phóng ion Ca2+ vào bào tương. Nồng độ Ca2+ trong bào tương tăng
sẽ hoạt hóa proteinkinaza C. Sau khi gắn vào thể nhận đặc hiệu của nó ở màng tế
bào, LH kích thích sự hoạt hóa của men adenyl cyclaza, kích thích sự tổng hợp
AMP vòng (cAMP). Một trong những “thông tin thứ hai” là cAMP, có vai trò hết
sức quan trọng trong cơ chế tác động của LH (thuộc nhóm hormone protein). Sự
tăng nồng độ của nó ở trong bào tương sẽ làm thay đổi nhiều quá trình hoạt động
của enzyme trong tế bào đồng thời làm thay đổi sự thẩm thấu của màng tế bào, gây
co giãn cơ.
Theo Nguyễn Xuân Tịnh và cs. (1996) hệ thống Adenylat cyclaza (AC)
là cơ chế dẫn truyền thần kinh phổ biến đối với hormone protein (trong đó có
21
LH) và các chất dẫn truyền thần kinh của tế bào. Hệ thống này bao gồm protein
Adenylat cyclaza có bản chất là một protein màng. Khi hệ thống này được kích
hoạt sẽ kích thích sự tạo thành cAMP, còn khi bị ức chế, quá trình này sẽ ngừng
lại. Hệ thống này được Sutherland tìm ra năm 1950 khi nghiên cứu tác dụng của
adrenalin tới sự phân hủy glycogen thành glucoza ở tế bào gan. cAMP sau khi
được tạo thành sẽ hoạt hoá một loại proteinkinaza trong tế bào (còn gọi là
proteinkinaza A), giải phóng ra các tiểu đơn vị điều hoà. Về bản chất,
proteinkinaza là một enzyme có khả năng phosphoryl hoá một số axit amin trong
một số protein. Về cấu tạo, proteinkinaza A gồm hai thành phần:
+ Tiểu đơn vị điều hoà (regulatory subunit) có khả năng kết hợp với cAMP.
+ Tiểu đơn vị xúc tác (catalytic subunit) có vai trò của một enzyme.
Bình thường hai tiểu đơn vị điều hoà và xúc tác kết hợp với nhau tạo
thành phức hợp không hoạt động gọi là proteinkinaza A. Khi có mặt của cAMP,
nó kết hợp với tiểu đơn vị điều hoà của proteinkinaza A, phức hợp này phân ly
thành tiểu đơn vị điều hoà gắn với cAMP không hoạt động và giải phóng tiểu
đơn vị xúc tác ở trạng thái tự do. Tiểu đơn vị xúc tác ở trạng thái tự do mới có
hoạt động enzyme, enzyme này sẽ hoạt hoá một loạt protein trong tế bào nhận
thông qua quá trình phosphoryl hoá. Sự tạo ra một thông tin nội bào như cAMP
cho phép thể nhận ở màng không những truyền thông tin có trong hormone thành
tín hiệu nội bào mà còn cho phép khuếch đại một cách lớn mạnh tín hiệu ban đầu:
một phân tử thông tin, khi kết hợp với thể nhận, sẽ hoạt hoá nhiều phân tử adenylat
cyclaza (AC), mỗi phân tử AC lại xúc tác để tạo thành nhiều phân tử cAMP từ
ATP, sau đó mỗi phân tử cAMP lại hoạt hoá một phân tử proteinkinaza. Mỗi phân
tử proteinkinaza lại phosphoryl hoá nhiều phân tử protein của tế bào, từ đó làm thay
đổi hoạt động của nhiều phân tử protein đặc hiệu của tế bào đích. Nếu mỗi phân tử
protein đặc hiệu là một enzyme thì enzyme này sẽ có thể tạo thành nhiều sản phẩm
mới từ một cơ chất.
Cơ chế tác dụng này cho phép giải thích vai trò của LH trong việc kích
thích sự tổng hợp và tiết progesterone từ thể vàng buồng trứng. Hoạt động của
22
LH đòi hỏi tính toàn vẹn của quá trình tổng hợp protein, phải có sự tích tụ nhanh
chóng trong ty thể (dưới tác động của LH) những protein mới vừa được tổng hợp
trong bào tương. Ngoài sự tác động nhanh chóng này đến quá trình sản sinh
steroid, LH còn có một tác động kích thích chậm đến sự tổng hợp những enzyme
tạo steroid ở ty thể, thể hiện rõ ở những tổ chức tế bào trong nhiều ngày.
Prostaglandin F2 đối với phân giải progesterone
Prostaglandin F2 (PGF2), được tiết ra bởi buồng trứng, vỏ thượng thận,
rốn nhau thai nhưng chủ yếu là ở thân sừng tử cung, có vai trò quan trọng trong
điều hoà chu kỳ động dục của gia súc cái nhờ chức năng điều khiển hoạt động
của thể vàng ở những gia súc không có chửa.
Có hai giả thuyết hiện đang cùng tồn tại về vai trò của PGF2 .
Giả thuyết thứ nhất cho rằng PGF2 tác động gián tiếp tới thể vàng, theo
giả thuyết này, PGF2 tác động gây co mạch máu ngoại biên làm giảm lượng máu
đến nuôi thể vàng, thể vàng sẽ bị thoái hoá trong vòng 24 giờ do không được
cung cấp chất dinh dưỡng (Hoàng Kim Giao và cs., 1997).
Theo Sato et al. (1992b), nồng độ PGF2 được tiết ra từ tử cung được
chuyển theo cơ chế ngược dòng từ tĩnh mạch tử cung đến động mạch buồng
trứng và sau đó đến thể vàng, nơi thể hiện tác động trực tiếp của nó.
Giả thuyết thứ hai cho rằng PGF2 tác động trực tiếp lên tế bào lutein và
tác động theo hai hướng:
+ Hướng thứ nhất: Ức chế tiết progesterone. Khi nồng độ progesterone
trong máu cao, PGF2 tác động tới hệ thống AC ức chế sự tổng hợp cAMP, sự
giảm tổng hợp cAMP sẽ giảm thấp số lượng thể tiếp nhận LH trên màng tế bào,
kết quả làm ngừng quá trình tổng hợp progesterone.
+ Hướng thứ hai: Kích thích tiết progesterone. Do ảnh hưởng của PGF2
hàm lượng Inositol 1, 4, 5-triphosphat (InsP3 hay IP3) tăng, kích thích giải phóng
ion Ca2+ bị phong tỏa trong lưới nội sinh chất vào bào tương từ đó kích thích các
phần tử có nhiệm vụ vận chuyển progesterone ra ngoài màng tế bào.
Sự tăng nồng độ của LH sẽ kích thích quá trình lutein, kích thích phân tiết
23
progesterone (Hoàng Kim Giao và cs., 1997).
Sự phân tiết progesterone ở bò
Động thái progesterone trong chu kỳ động dục của bò được Xukhoep
(1985) mô tả như sau: Trong thời gian động dục, hàm lượng progesterone trong
huyết tương là 0,16 0,02 ng/100ml, vào ngày thứ 2-3 của chu kỳ (tức là lúc rụng
trứng và sau khi rụng trứng), hàm lượng progesterone trong máu giảm ở mức
thấp nhất, gần như bằng không. Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 6 progesterone bắt
đầu tăng (0,28 µg/100ml), đến ngày thứ 12-14 đạt mức độ tối đa (0,45
µg/100ml), sau đó giảm dần, đến ngày thứ 18 lại không thấy xuất hiện (Nakao et
al., 1983a).
Nghiên cứu của Homeida (2002) trên bò sữa cho biết: Hàm lượng
progesterone biến động trong các ngày của chu kỳ, vào ngày động dục là 0,17
ng/ml; ngày thứ 6 là 1,1 ng/ml; ngày thứ 9 là 1,7 ng/ml; ngày thứ 12 là 2,36
ng/ml; ngày thứ 15 là 2,55 ng/ml; ngày thứ 18 là 1,26 ng/ml và ngày thứ 21 là
0,22 ng/ml.
Sau khi phối giống có chửa, nồng độ progesterone trong máu bắt đầu tăng.
Các kết quả nghiên cứu của Sato et al. (1992a) cho thấy, sau khi phối giống có
chửa, nồng độ progesterone trong máu bò bắt đầu tăng đạt 2 ng/ml trong khoảng
thời gian từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 24. Từ ngày thứ 25 trở đi, nồng độ
progesterone tăng cao và thường duy trì ở mức 6-8 ng/ml. Nếu không có chửa
nồng độ progesterone trong máu không tăng và chỉ duy trì ở mức thấp, đạt 0,5
ng/ml hoặc thấp hơn trong khoảng thời gian từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 24.
1.2.2. Progesterone và hoạt động của buồng trứng
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Tiến Dũng và cs. (2002), đối với gia
súc cái nếu buồng trứng hoạt động bình thường thì quá trình phân tiết
progesterone theo quy luật sinh học của loài. Với bò, trong chu kỳ động dục bình
thường, hàm lượng progesterone tương đối thấp vào ngày động dục (<0,21
ng/ml), bắt đầu tăng nhanh từ ngày thứ 6, đến ngày thứ 15 đạt cao nhất (bình
quân 2,43 ng/ml), sau đó giảm dần và thấp nhất vào ngày động dục ở chu kỳ tiếp
24
theo. Căn cứ vào quy luật phân tiết của progesterone mà người ta có thể biết
được trạng thái hoạt động của buồng trứng như thế nào thông qua việc định
lượng progesterone.
Có nhiều phương pháp xác định nồng độ progesterone trong sữa và máu,
trong đó kỹ thuật định lượng miễn dịch enzyme (EIA/ELISA) được sử dụng để
định lượng hàm lượng progesterone (còn gọi là ELISA-progesterone) là kỹ thuật
có độ chính xác cao, có thể nhanh chóng xác định được nồng độ progesterone
trong sữa và trong máu, giúp đánh giá đúng tình trạng hoạt động của buồng trứng
gia súc.
Khi xác định được hàm lượng progesterone sẽ chẩn đoán được nguyên
nhân gây rối loạn sinh sản trên buồng trứng bò, ví dụ: với những bò có u buồng
trứng, nếu hàm lượng progesterone trong máu lớn hơn 1,4 ng/ml được xác định
là u thể vàng, nếu hàm lượng progesterone trong máu nhỏ hơn 0,6 ng/ml được
xác định là u nang. Đối với bò có buồng trứng nhỏ và hàm lượng progesterone
nhỏ hơn 0,2 ng/ml được xác định là buồng trứng kém hoạt động (Phan Văn
Kiểm và cs., 2000). Đối với gia súc có thể vàng tồn lưu hoặc bị u nang thể vàng,
nồng độ progesterone trong máu luôn luôn cao, nó ức chế sự hình thành và phân
tiết các hormone sinh dục khác. Đối với gia súc cái chậm sinh, chậm động dục
trở lại sau khi đẻ trong trường hợp dinh dưỡng kém, đặc biệt là thiếu protein thì
buồng trứng kém phát triển (thiểu năng buồng trứng) thì hàm lượng progesterone
trong máu luôn ở mức thấp dưới 0,5 ng/ml. Đối với gia súc cái bị u nang nang
trứng, hàm lượng estrogen luôn cao trong máu, hàm lượng progesterone thấp ở
mức ngày 0 của chu kỳ động dục, trường hợp này làm cho bò động dục kéo dài
(thậm chí loạn chu kỳ sinh dục), phối giống nhiều lần không đậu thai.
1.2.3. Progesterone và ứng dụng trong chăn nuôi
Chu kỳ sinh sản ở gia súc cái được đặc trưng bởi sự biến đổi về hàm
lượng các loại hormone của cơ thể, đặc biệt là hormone sinh dục (chủ yếu là các
sản phẩm từ tuyến yên, buồng trứng). Khi gia súc cái đã thành thục về tính, ở
buồng trứng có trứng chín và rụng. Quá trình này diễn ra trong một khoảng thời
25
gian nhất định, có tính chất chu kỳ để hình thành chu kỳ sinh dục. Sự điều tiết
chặt chẽ của thần kinh và thể dịch là một trong những yếu tố chính để hình thành
và duy trì chu kỳ sinh dục đối với gia súc.
Các nhà khoa học nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng: FSH và LH có vai
trò quan trọng trong điều hoà chu kỳ sinh dục ở gia súc cái (Trần Tiến Dũng và
cs., 2002).
Cùng với các hormone đã nêu trên, chu kỳ động dục ở gia súc còn chịu sự
điều tiết của progesterone được tiết bởi thể vàng hình thành tại vị trí rụng trứng.
Từ những năm 70 của thế kỷ trước, sau khi tìm ra mối quan hệ hai chiều của
hormone trong điều hoà hoạt động sinh sản của gia súc quan niệm về vai trò của
progesterone cũng thay đổi, progesterone được coi là hormone có vai trò quyết
định tới sự hình thành hoặc không hình thành một chu kỳ động dục ở động vật
nói chung và ở gia súc nuôi nói riêng.
Khi tồn tại ở trạng thái thể vàng sinh lý, progesterone do thể vàng phân
tiết ra có vai trò kiểm soát và điều khiển sự phân tiết của các hormone sinh dục
khác để hình thành chu kỳ sinh dục bình thường. Khi tồn tại ở trạng thái bệnh lý,
progesterone do thể vàng tiết ra không theo đúng quy luật sinh học sẽ ức chế sự
phân tiết của các hormone khác, đặc biệt là FSH, kết quả gây ức chế và không
hình thành được chu kỳ sinh dục.
Những gia súc có thể vàng tồn tại ở trạng thái bệnh lý thường không xuất
hiện động dục, tình trạng này kéo dài có thể dẫn tới vô sinh, gây thiệt hại không
nhỏ cho người chăn nuôi và ảnh hưởng đến hiệu quả của nghành chăn nuôi nói
chung . Chính vì thế, việc xác định nồng độ progesterone có thể chẩn đoán đúng
bệnh ở buồng trứng và giúp cho việc can thiệp có hiệu quả.
1.2.4. Định lượng progesterone để chẩn đoán có thai sớm
Nếu gia súc phối giống không có chửa thì thể vàng buồng trứng chỉ tồn tại
trong một khoảng thời gian nhất định (lợn 14-16 ngày, bò 13-14 ngày), sau đó
thoái hoá để chuẩn bị cho chu kỳ động dục mới. Khi thể vàng thoái hoá, nồng độ
progesterone trong máu giảm thấp. Nếu phối giống có chửa, thể vàng sẽ tồn tại
26
trong một thời gian dài để tiết progesterone duy trì sự an thai.
Căn cứ vào nồng độ progesterone trong máu có thể xác định sự mang
thai, xác định ngày của chu kỳ động dục và giúp chẩn đoán nguyên nhân các
trường hợp bị rối loạn sinh sản đối với bò (Nakao et al., 1982a). Nghiên cứu
trên bò cho thấy từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 24 sau khi phối giống có thể kiểm
tra nồng độ progesterone trong máu để chẩn đoán có thai sớm. Trong khoảng
thời gian nếu nồng độ progesterone trong máu bò đạt trên 2 ng/ml huyết tương
thì bò được xác định là có thai, nếu bò không chửa, nồng độ progesterone chỉ
đạt bằng hoặc thấp hơn 0,5 ng/ml huyết tương.
Theo Sato et al. (1992b), có thể chẩn đoán bò cái có chửa thông qua nồng
độ progesterone trong sữa khử bơ (dùng phương pháp ELISA). Bò được xem là
có chửa khi nồng độ progesterone lớn hơn 1,5 ng/ml, không chửa khi nồng độ
progesterone nhỏ hơn 1,5 ng/ml. Mức độ chính xác của phương pháp này đạt
84% khi kết luận có thai và đạt 100% khi kết luận không có thai. Cũng theo Phan
Văn Kiểm và cs. (2006), nếu sau 21 ngày kể từ khi phối giống, hàm lượng
progesterone trong máu lớn hơn 2 ng/ml thì có thể kết luận bò đã có chửa, chính
xác tới 84,84%.
Khi bao noãn chín, trứng rụng khỏi nang trứng. Tại nơi đó, mạch quản
và tế bào sắc tố vàng phát triển thành thể vàng. Khi còn tồn tại và hoạt động,
thể vàng tiết ra progesterone (nó cũng được tiết ra ở nhau thai và một lượng nhỏ
từ tuyến thượng thận). Progesterone kích thích sự phát triển hơn nữa của niêm
mạc tử cung, âm đạo tích luỹ nhiều glucogen ở các niêm mạc đó, làm phát triển
lưới mao mạch tử cung. Progesterone làm giảm tính mẫn cảm co bóp của nội
mạc tử cung, tham gia vào sự chuẩn bị của nội mạc dạ con cho sự làm tổ của
hợp tử đồng thời nó cũng làm tăng sinh và phát triển các bao tuyến trong tuyến
vú. Khi trứng đã được thụ tinh và làm tổ, hormone này có tác dụng dưỡng thai,
làm nhau thai phát triển và duy trì sự phát triển của thai, làm giảm tính mẫn
cảm của cơ trơn tử cung với oxytoxin, ức chế sự sản sinh RSH (FSH và LH)
của tuyến yên, do đó ức chế quá trình phát triển của bao noãn (Hoàng Kim Giao
27
và cs., 1997).
1.3. Một số nghiên cứu ở trong và ngoài nước về đặc điểm sinh sản và điều
tiết sinh sản trên bò có liên quan đến luận án
1.3.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh sinh sản của bò sữa có ý nghĩa hết sức
to lớn đến việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong chăn
nuôi bò sữa.
Các tiến bộ kỹ thuật về chọn lọc di truyền giống, lai tạo con giống và dinh
dưỡng đã làm tăng đáng kể năng suất sữa. Tuy nhiên, việc tăng nhanh năng suất
sữa đã dẫn tới kết quả giảm tỷ lệ thụ thai và các chỉ tiêu sinh sản khác (Mann et
al., 2005). Vì vậy, nghiên cứu nguyên nhân làm tỷ lệ thụ thai giảm và xây dựng
chiến lược nhằm nâng cao sức sinh sản ở bò sữa là cần thiết. Các nghiên cứu
trước đây đã chỉ ra rằng bò sữa cao sản bị giảm tỷ lệ thụ thai là do mất cân đối về
năng lượng trong khẩu phần ăn, do u nang buồng trứng, viêm nhiễm đường sinh
dục, sảy thai, chết thai sớm, thai chết lưu, sót nhau, đẻ khó, kỹ thuật phối giống
cho bò tơ chưa tốt...
Các nghiên cứu cũng chỉ ra 4 nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh sản
kém của gia súc nuôi tại khu vực châu Á (FAO & IAEA, 1993) đó là:
- Stress nhiệt và độ ẩm của môi trường, đặc biệt trong mùa hè.
- Chế độ dinh dưỡng không đảm bảo và mất cân đối, đặc biệt thiếu dinh
dưỡng và thức ăn thô xanh trong mùa khô (mùa đông).
- Chế độ chăm sóc, quản lý sinh sản, quy trình vệ sinh vắt sữa kém.
- Tình trạng dịch bệnh gây ra do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng. Ngoài
ra, một trong những nguyên nhân gây tỷ lệ thụ thai giảm ở bò sữa cao sản là do
mất cân đối về năng lượng trong khẩu phần ăn, từ đó dẫn tới hiện tượng buồng
trứng không hoạt động, thể vàng tồn lưu kéo dài, mất chu kỳ động dục.
Nakao (1983a), đã sử dụng phương pháp ELISA để phân tích hàm lượng
progesterone đối với bò sữa chậm sinh có u nang thể vàng trên buồng trứng.
Năm 1983, tác giả trên cũng đã nghiên cứu sử dụng chế phẩm hormone nhân
tạo GnRH nhằm điều khiển thùy trước tuyến yên tăng tiết FSH và LH để phục
28
hồi lại chu kỳ động dục ở bò.
Hiện nay, phương pháp ELISA được sử dụng trong y học để tiến hành các
xét nghiệm sinh hoá, huyết học, chẩn đoán vi khuẩn, virus...Trong chăn nuôi,
người ta ứng dụng ELISA để xác định hàm lượng progesterone trong sữa, trong
huyết thanh, trong nước tiểu, trong phân của bò cái.
Stanley et al. (1986), phân tích hàm lượng progesterone trong sữa để
xác định sự mang thai, xác định ngày của chu kỳ động dục và chẩn đoán
các trường hợp bị rối loạn sinh sản và điều khiển hoạt động sinh sản đối với
bò ở Anh. Ở Nhật Bản, Nakao et al. (1982a, 1982b) đã định lượng progesterone
trong sữa nhằm chẩn đoán sớm sự mang thai của bò, chẩn đoán u nang buồng
trứng, thể vàng tồn lưu và u nang thể vàng. Lee et al. (1996) cũng dùng kỹ thuật
này để xác định sự mang thai và chẩn đoán các trường hợp bị rối loạn sinh sản ở
bò. Allen (1975, 1976, 1984), Eissa et al. (1997), Mann et al. (1998), Niekerk
et al. (1998) đã xác định hàm lượng progesterone để duy trì và bảo vệ thai ở
gia súc. Prakash et al. (1987), dùng ELISA để định lượng progesterone trong
huyết thanh và sữa của bò ở Hà Lan. Maurice et al. (1981), Nakao et al. (1983a),
Prakash et al. (1987) đã nghiên cứu động thái của progesterone trong thời gian
động dục. Baruselli et al. (2003), Fukui et al. (1999), Cutaia et al. (2003), Gavara
et al. (2003), đã có những nghiên cứu, ứng dụng progesterone trong điều khiển chu
kỳ sinh dục, rụng trứng theo ý muốn nhằm nâng cao tỷ lệ thụ thai ở gia súc. Dochi
et al. (1998), đã sử dụng progesterone để gây rụng trứng nhiều trong cấy truyền
phôi ở gia súc. Zavadopxki (1944), sử dụng HTNC tiêm vào ngày 16-18 của chu
kỳ động dục gây được bò đẻ sinh đôi, ông đã thu được 135 bê/ 100 bò cái. Tỷ lệ
sinh đôi là 26%, sinh ba là 5%. Kostov (1982), sử dụng HTNC kết hợp với
PGF2 thu được tỷ lệ sinh đôi là 34%. Các nhà chăn nuôi Bắc Ai len (Thexenkov,
1987), đã dùng HTNC + PGF2 tiêm cho bò thu được tỷ lệ bò sinh đôi là 40%
(dẫn theo Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997). Valheim (1996),
thử nghiệm với 130 bò được đặt PRID thì 128 con (98,4%) động dục và 75 con
(62,5%) có chửa sau 1-2 lần thụ tinh.
Nhiều nghiên cứu đã xác định prostaglandin tăng lên trong dạ con vào
29
cuối chu kỳ, đã gây ra sự tiêu biến thể vàng. Khám phá đó đã mở ra nhiều biến
động trong công nghệ chăn nuôi vì tiêm prostaglandin ngoại sinh gây thoái hoá
thể vàng vào bất kỳ giai đoạn nào trong pha thể vàng của chu kỳ động dục.
Sử dụng prostaglandin điều khiển sinh sản đã được ứng dụng rộng rãi và
tổng kết bởi Louis et al., (1972), Mialot et al., (1999). Những nghiên cứu trên đã
đưa ra liều lượng và cách sử dụng PGF2. Liều lượng và cách sử dụng phụ thuộc
vào bản chất hoá học của nó, trạng thái sinh lý của con cái và giai đoạn của chu
kỳ động dục.Tervit et al. (1973), cho biết tiêm PGF2 vào những ngày 1-4 của
chu kỳ động dục không có ảnh hưởng gì đến thể vàng, nhưng nếu tiêm vào ngày
5-17 của chu kỳ đều làm thoái hoá thể vàng. Buse (1995), dùng đồng đẳng của
PGF2 tiêm cho bò tơ 2 lần cách nhau 11 ngày. Sau khi tiêm lần hai 60 giờ đã có
87,2% bò động dục.Theo Cooper and Furr (1976), gây động dục đồng loạt cho bò
tơ bằng PGF2 tiêm 2 lần cách nhau 12 ngày (giai đoạn 5 ngày và 17 ngày của
chu kỳ động dục), bò động dục lại sau khi tiêm lần 2 từ 48-96 giờ. Tervit et al.
(1973), nhận xét rằng trong hầu hết thí nghiệm, gia súc đều động dục sau khi
tiêm PGF2 3 ngày. Agarwal at al.,(1987), nghiên cứu trên bò lai cho rằng sau
khi tiêm PGF2 bò động dục 100%. Thời gian từ khi tiêm đến khi xuất hiện động
dục là 48-96 giờ, kể cả tiêm 1 lần hay 2 lần cách nhau 11 ngày. Tác giả cho là
phương pháp này tạo động dục đồng loạt, phù hợp cho việc chủ động thực hiện
kế hoạch phối giống. Từ kết quả đó, các nhà chăn nuôi có thể sử dụng PGF2 kết
hợp với PMSG gây rụng trứng nhiều và tạo động dục đồng pha trong kỹ thuật
cấy truyền phôi. Theo Bor et al. (1986), chỉ cần tiêm 1 liều PGF2 đối với bò cái
tơ đã có kết quả rất tốt về động dục, khoảng cách từ khi tiêm đến khi động dục
48-72 giờ và tỷ lệ có chửa 70%. Kết quả tương tự như vậy đã được Dhoble và
Gupta (1987), thông báo. Họ cho rằng sử dụng PGF2 và các chất đồng đẳng của
nó có tác dụng rất tốt trong gây động dục đồng loạt, gây rụng trứng, làm giảm
khoảng cách lứa đẻ và nâng cao hiệu quả sinh sản ở bò. Theo Martiner et al.
(2001), phối hợp GnRH-PGF2α-GnRH và estradiol-PGF2α-GnRH cho tỷ lệ thụ
thai không khác nhau. Khi bổ sung estradiol benzoate và progesterone trên nền
30
MGA làm bò xuất hiện động dục sớm hơn so với bổ sung GnRH trên nền
MGA, tuy nhiên tỷ lệ thụ thai ở công thức bổ sung GnRH lại cao hơn. Theo
Alinmer (2005), sử dụng phối hợp hai liều estradiol benzoate với PGF2α gây
động dục, tỷ lệ động dục đạt 70%, rồi dẫn tinh cho bò vào thời điểm 12 giờ sau
khi xuất hiện động dục, đạt tỷ lệ thụ thai 64% (kiểm tra ở ngày thứ 28) và đạt tỷ
lệ thụ thai 40% (kiểm tra ở ngày thứ 45) tính từ sau khi phối giống. Với công
thức GnRH-PGF2α-GnRH, phối giống cho toàn bộ số bò được thụ tinh vào một
thời điểm định trước, tỷ lệ bò có chửa so với số bò thụ tinh không khác so với
tỷ lệ đạt được khi sử dụng công thức phối hợp estradiol với PGF 2α ở cả giai
đoạn 28 và 45 ngày sau khi phối giống, tuy nhiên tổng số bò có chửa ở công
thức GnRH lại cao hơn so với công thức sử dụng estradiol. Kết quả cũng cho
thấy tuy tỷ lệ thụ thai không khác nhau ở lần phối giống đầu tiên nhưng lần
phối giống thứ 2 tới lần thứ 4 tỷ lệ thụ thai ở công thức sử dụng GnRH lại có xu
hướng cao hơn so với công thức sử dụng estradiol. Kết quả động dục và thụ thai
cao hơn ở công thức GnRH-PGF2α-GnRH so với công thức PGF2α-PGF2α
(Martiner et al., 2001). Theo Moberg (1961), Donald and Thompson (1961) (dẫn
theo Hoàng Kim Giao và cs., 1997), bổ sung iode hay thyreoprotein vào cơ thể sẽ
làm tăng khả năng sinh sản, vì vậy bổ sung iode vào cơ thể qua thức ăn hoặc vào
tử cung là một biện pháp hữu hiệu. Sự hấp thu iode của tử cung bò cái từ dung
dịch lugol và iodoforme là nhanh và hoàn toàn hơn so với cho ăn; lợi ích của
phương pháp này không chỉ trong điều trị viêm tử cung và còn trong một số trường
hợp chậm sinh (Ekman et al., 1965, dẫn theo Hoàng Kim Giao và cs., 1997).
Hiện nay nhiều nhà khoa học trên thế giới và các nhà chuyên môn vẫn tiếp
tục khắc phục hiện tượng chậm sinh ở bò thể hiện trên “bệnh” ở buồng trứng vẫn
sử dụng hormone sinh sản để điều trị và cho kết quả tốt (Bilego et al., 2013;
Giordano et al., 2013; Shephard, 2013; Souza et al., 2013).
1.3.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh sản và những biện
pháp kỹ thuật để nâng cao khả năng sinh sản của bò. Việc sử dụng kích tố hướng
31
sinh sản để nâng cao khả năng sinh sản, khắc phục hiện tượng chậm sinh, và vô
sinh tạm thời đã được các nhà khoa học trong nước sử dụng. Các kích tố có thể
sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp với nhau và thu được nhiều kết quả tốt.
Kết quả thụ thai không khác nhau khi phối hợp giữa hCG hay GnRH
với PGF2α để gây động dục và dẫn tinh đồng loạt cho bò sữa sau khi đẻ trong
cùng một mùa và cùng một khoảng thời gian sau đẻ, nhưng khác nhau ở tỷ lệ
thụ thai của các nhóm bò ở các khoảng thời gian sau đẻ. Tỷ lệ chửa ở nhóm bò
90 ngày sau đẻ đạt 40%, tương ứng là 70% ở nhóm bò 130 ngày sau đẻ (Quản
Xuân Hữu, 2006). Số lần tiêm GnRH trong một chu kỳ gây động dục không
ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai khi cho phối giống, nhưng có ảnh hưởng dương
tính lên tỷ lệ động dục ở bò không có chu kỳ và sau đẻ mà không làm ảnh
hưởng tới chức năng của thể vàng. Tiêm hai lần GnRH cách nhau 3 ngày,
ngày thứ 7 tiêm PGF2α làm tăng tỷ lệ bò biểu hiện động dục rõ nhưng không
làm tăng tỷ lệ thụ thai.
Tỷ lệ động dục, thời gian động dục và tỷ lệ có thai không khác nhau ở bò
có chu kỳ và không có chu kỳ. Trạng thái của noãn bào trước khi xử lý hormone
có ảnh hưởng đến kết quả. Noãn bào có kích thước càng lớn thì tỷ lệ thụ thai sau
khi xử lý càng thấp (Nguyễn Xuân Trạch, 2004b). Khi sử dụng kết hợp huyết
thanh ngựa chửa (HTNC) với progesterone, tác giả công bố, một liều 550 UI
HTNC tiêm sau khi kết thúc xử lý progesterone cho tỷ lệ rụng trứng ở bò cao hơn
liều 450 IU (95,4% so với 85,5%, P<0,05) mặc dù không có sự khác có ý nghĩa
giữa hai liều lượng trên về tỷ lệ thụ thai sau đó. Tuy nhiên, giữa liều lượng
HTNC và trạng thái chu kỳ tính của bò có tương tác có ý nghĩa lên tỷ lệ thụ thai.
Liều 450 IU tỏ ra tốt hơn cho bò đã có thể vàng, trong khi đó liều 550 IU lại tốt
hơn với bò không có thể vàng (Nguyễn Xuân Trạch, 2004b). Nguyễn Tấn Anh
và cs. (1995) đã sử dụng HTNC cho bò sữa sinh sản và bò tơ đạt tỷ lệ động dục
tương ứng là 76,75% và 72,94%, tỷ lệ chửa là 76,05% và 73,38%. Sau khi
tiêm progesterone 6 -7 ngày đại bộ phận bò xuất hiện động dục, nhất là sau
khi tiêm HTNC và hCG. Tuy nhiên số lần tiêm tối đa là 3 lần, cách nhau 2-3
ngày. Như vậy, liệu trình tiêm progesterone từ 6-9 ngày, sau đó 2 ngày tiêm
32
HTNC là thích hợp nhất (Lê Văn Thọ và Lê Xuân Cương, 1979). Ngoài ra,
các chế phẩm của progesterone còn được tẩm vào bọt biển rồi đặt vào âm đạo
10-12 ngày, ngày cuối cùng lấy ra tiêm HTNC sẽ gây cho bò động dục đồng
loạt. Để sử dụng progesterone gây động dục ở bò, có nhiều phác đồ điều trị và
liều lượng khác nhau, có thể dùng riêng biệt hoặc kết hợp với HTNC và hCG.
Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997), đã sử dụng 2 phác đồ sau để
điều trị cho bò chậm sinh đạt hiệu quả cao:
- Bò được tiêm progesterone vào các ngày 1, 3, 5 với liều tương ứng
25mg, 50mg, 75mg. Ngày thứ 7 tiêm 1.500-1.800 đơn vị chuột HTNC, ngày
9-10 bò sẽ động dục và phối giống.
- Tiêm progesterone vào ngày 1,4,7 với liều tương ứng là 30mg, 60mg,
90mg progesterone, ngày thứ 9 tiêm HTNC liều 1.500-1.800 đơn vị chuột
HTNC, ngày thứ 11 hoặc 12 bò sẽ động dục và phối giống.
Progesterone có thể sử dụng ở dạng bột trộn vào thức ăn, dạng nước để
tiêm như trên đã trình bày, nhưng cũng có thể sử dụng dưới dạng các dụng cụ đặt
vào âm đạo, cụ thể như sau:
Đặt PRID trong vòng 12 ngày, khi rút ra có tiêm hoặc không tiêm thêm
250-600 UI HTNC, đạt tỷ lệ thụ thai 55-65% (tương đương với động dục tự
nhiên qua thụ tinh nhân tạo ở chu kỳ đầu là 60-65%, (Hoàng Kim Giao và
Nguyễn Thanh Dương, 1997).
Trong điều kiện chăn nuôi tiêu chuẩn hóa, quản lý sinh sản tốt, việc gây
động dục đồng loạt cho bò cái có thể chỉ cần sử dụng một liều PGF 2α tiêm vào
ngày thứ 5-14 của chu kỳ động dục có thể gây động dục và dẫn tinh cho bò cái.
Một chương trình khác là có thể tiêm hai mũi PGF2α vào bất kỳ ngày nào của
chu kỳ, cách nhau 11 ngày và cho phối giống đồng loạt vào một thời điểm định
trước hoặc phối giống vào lúc bò có biểu hiện động dục. Với việc sử dụng hai
mũi PGF2α cách nhau 11 ngày, tỷ lệ xuất hiện động dục của bò có thể là: ngày
thứ 1 đạt 5%, ngày 2- 20%, ngày 3- 45%, ngày 4- 20%, ngày 5- 5% (Quản
Xuân Hữu, 2006). Theo Nguyễn Thị Ước (1996), khi sử dụng phương pháp tiêm
hai liều PGF2α cách nhau 11 ngày để gây động dục đồng pha cho bò cái nhận
33
phôi đã gây động dục ở bò nội là 57,8%, ở bò Lai Sind là 52,9% và ở bò sữa là
90%. Khi sử dụng phương pháp tiêm kết hợp giữa hai liều PGF2α cách nhau 11
ngày, ngày thứ 9 tiêm 500 IU HTNC, cũng chính tác giả này đã thông báo, tỷ lệ
bò có biểu hiện động dục ở bò Lai Sind đạt 59,7%, ở bò sữa đạt 90%. Dùng
PGF2α điều trị bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu (chẩn đoán qua định lượng
progesterone), đã có 88,90% bò động dục và tỷ lệ thụ thai đạt 65,22% (Phan Văn
Kiểm và cs.,2006). Gây động dục đồng pha cho bò bằng phương pháp kết hợp
giữa CIDR và PGF2α (Lưu Công Khánh và cs., 2004) đạt được tỷ lệ động dục ở
bò Lai Sind là 85,71% và ở bò lai HF là 87,30%. Cũng theo báo cáo kết quả cải
tiến phương pháp gây động dục đồng pha của Tăng Xuân Lưu và cs. (2010), kết
quả động dục ở bò tơ là 90,0-91,67%, ở bò lai HF sinh sản là 89,58-89,65%.
Trong công trình “Công nghệ sinh sản trong chăn nuôi bò”, Hoàng Kim Giao và
Nguyễn Thanh Dương (1997), đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả năng
sinh sản cho bò, công nghệ cấy truyền phôi. Chung Anh Dũng (2001), đã xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả truyền giống nhân tạo và khả năng sinh
sản của đàn bò sữa ở các hộ chăn nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố: số bò cái được phát hiện động dục và phối giống, trình độ
tay nghề của dẫn tinh viên, chất lượng sinh sản của đàn bò cái và chất lượng tinh
trùng đông lạnh. Tăng Xuân Lưu và cs. (2001), đã dùng PGF2α điều trị bò cái lai
hướng sữa tại Ba Vì có thể vàng tồn lưu, kết quả đạt tỷ lệ động dục 85,71 -
87,5% và phối giống có chửa đạt 68,57-70,83%. Các tác giả này cũng đã sử dụng
progesterone kết hợp với HTNC điều trị cho bò thiểu năng buồng trứng, đã gây
động dục cho bò đạt 70,05% và phối giống có chửa đạt 61,22%. Đặt âm đạo cho
bò bằng vòng CIDR đạt tỷ lệ bò động dục là 82,14% ở bò cái sinh sản và 75,5%
ở bò cái tơ. Phan Văn Kiểm và cs. (2006), dựa vào kết quả định lượng
progesterone ở bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu, sau đó điều trị bằng PGF2α
đạt kết quả 88,90% bò động dục và đạt tỷ lệ thụ thai 65,22%. Trịnh Quang Phong
và cs. (2012), đã nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật tổng hợp nâng cao khả năng
sinh sản cho bò sữa nuôi tại miền Bắc Việt Nam.
Nhiều công trình khác đã sử dụng kích dục tố để cải thiện khả năng sinh
34
sản bò (Phan Văn Kiểm, 1998; Tăng Xuân Lưu và cs., 2001; Chung Anh Dũng
., 2001) hoặc cải thiện khả năng sinh sản ở bò sau khi dùng kỹ thuật ELISA để
định lượng progesterone ở những bò bệnh lý (Lê Xuân Cương, 1993; Chung
Anh Dũng, 2001).
Một số nghiên cứu cũng đã xác định được những nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng sinh sản kém của đàn bò sữa trong nước như: bò lai có tỷ lệ máu
Hà Lan cao (>87,5% HF), bò mới đẻ 1-2 lứa hoặc đẻ quá nhiều (>6 lứa), bò có
năng suất sữa quá cao (>25 lít/ ngày); có biểu hiện động dục yếu, thời điểm
TTNT không đúng, thiếu thức ăn xanh (đặc biệt vào mùa khô), hoặc thức ăn tinh
chiếm tỷ lệ cao trong khẩu phần ăn hàng ngày... Hậu quả là rối loạn hormone
hướng sinh dục làm ảnh hưởng tới khả năng rụng trứng và tỷ lệ thụ thai. Ngoài
ra, khoảng thời gian từ khi phát hiện bò động dục đến khi thụ tinh nhân tạo quá
ngắn (12 giờ) hoặc quá dài (30 giờ) (Chung Anh Dũng, 2001).
Trong chăn nuôi thú y, kỹ thuật ELISA mới được ứng dụng từ tháng 8
năm 2002 nhờ sự giúp đỡ của tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và bước
đầu đạt được một số kết quả trong chăn nuôi bò sinh sản, ví dụ: như trong nghiên
cứu động thái LH tiền rụng trứng ở bò lai hướng sữa F1 (HF x lai Sind), hàm
lượng hormone này trong máu bò tăng dần kể từ khi bắt đầu xuất hiện động dục
(lúc 0 giờ đạt 4,650,28 ng/ml), đạt cao nhất lúc 12 giờ kể từ khi bắt đầu động
dục (9,160,18 ng/ml) sau đó đột ngột giảm xuống lúc 16 giờ (6,880,22 ng/ml)
và đạt thấp nhất lúc 24 giờ (2,870,35 ng/ml). Dẫn tinh cho bò sau khi bắt đầu
động dục 14-16 giờ đạt kết quả thụ thai 81,08%, tỷ lệ đẻ 78,37%, cao hơn so với
kết quả dẫn tinh theo phương pháp truyền thống (dựa theo quy luật sáng-chiều)
(tỷ lệ thụ thai 75% và tỷ lệ đẻ 66,6%). Đối với bò có thể vàng tồn lưu trên buồng
trứng: điều trị bằng PGF2 liều 25 mg/con, đạt tỷ lệ động dục sau điều trị 88,9%,
tỷ lệ thụ thai ở lần phối đầu 65%. Đối với bò bị u nang noãn: điều trị bằng HCG,
liều 3.000-3.500UI/ con, đạt tỷ lệ động dục sau điều trị 100%, tỷ lệ thụ thai ở lần
phối đầu 62,5%. Đối với bò buồng trứng kém hoạt động: dùng PRID đặt âm đạo
cho tỷ lệ động dục 82,3%, tỷ lệ thụ thai ở lần phối đầu 64,3%. Nếu sử dụng
35
PGF2 (liều 25mg) kết hợp với GnRH (liều 200 mg/con) cho tỷ lệ động dục 85%,
tỷ lệ thụ thai 76,5% (Tăng Xuân Lưu và cs., 2004). Với bò cái sinh sản bị viêm
nội mạc tử cung, viêm âm đạo, tiêm PGF2và kết hợp bơm dung dịch lugol đạt tỷ
lệ động dục 80% và tỷ lệ thụ thai 60% (Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh
Dương, 1997).
Những nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề chậm sinh ở bò
sữa bằng các liệu pháp hormone. Tuy nhiên mỗi điều kiện, địa điểm, thời gian
nghiên cứu cho các kết quả khác nhau với liều lượng và cách tiếp cận khác nhau.
Những nghiên cứu trên chưa đề cập đến vấn đề cụ thể tình trạng hoạt động của
buồng trứng sau đẻ thời gian là bao nhiêu thì được coi là chậm sinh ở mức độ
nào, sự ảnh hưởng của lứa đẻ, mùa vụ, thể trạng cơ thể... phương pháp chẩn đoán
bệnh trên buồng trứng chủ yếu là dựa trên kết quả khám lâm sàng mà chưa có kết
quả đánh giá qua sự biến đổi hàm lượng hormone. Cũng như chưa đưa ra được
phác đồ cụ thể cho từng trường hợp bệnh trên buồng trứng... Chính vì vậy, cần có
36
những nghiên cứu để bổ sung vấn đề này.
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên đàn bò cái lai hướng sữa Holstein Friesian (HF-
tỷ lệ máu HF≥75%), sinh sản bình thường, bò chậm sinh bò sau đẻ để đánh giá
tình hình sinh sản thông qua khám tử cung buồng trứng, bò được nuôi ở gia trại.
- Mẫu sữa của bò chậm sinh để định lượng progesterone xác định trạng
thái hoạt động của buồng trứng
- Kít định lượng progesterone của trường Đại học Hiroshima, Nhật Bản, 2002.
- Dụng cụ đặt âm đạo bò CIDR (Controlled internal drug release) có chứa
1,9 gprogesterone được tẩm trong vòng làm bằng chất dẻo silicon của hãng
InterAg-Australia sản xuất.
- PGF2α, GnRH… của hãng Faizer và Intervet (Hà Lan) sản xuất.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
2.1.2.1. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò sữa tại Ba Vì, Hà Nội
- Tuổi phối giống lần đầu.
- Tuổi đẻ lứa đầu.
- Khối lượng cơ thể khi đẻ lứa đầu.
- Thời gian động dục lại sau khi đẻ.
- Khoảng cách giữa hai lứa đẻ.
- Tỷ lệ đẻ toàn đàn.
- Tỷ lệ thụ thai.
- Hệ số phối giống.
- Tỷ lệ chậm sinh, tỷ lệ sảy thai, đẻ non.
2.1.2.2. Đánh giá tình trạng hoạt động của buồng trứng bò sau khi đẻ
- Động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau đẻ.
- Nguyên nhân gây chậm động dục lại sau 120 ngày ở buồng trứng.
- Ảnh hưởng của mùa vụ đến chức năng buồng trứng sau đẻ.
37
- Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng.
- Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng buồng trứng bò sữa sau đẻ
2.1.2.3. Định lượng hormone progesterone để phát hiện bệnh buồng trứng và
chẩn đoán thai sớm nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa
- Xác định nguyên nhân bò chậm sinh bằng phương pháp khám qua trực
tràng (nhóm 1), để chẩn đoán các nguyên nhân gây ra rối loạn sinh sản (thể vàng
tồn lưu, u nang buồng trứng, buồng trứng kém phát triển (thiểu năng))...
- Xác định nguyên nhân bò chậm sinh bằng định lượng progesterone trong
sữa (nhóm 2), để chẩn đoán nguyên nhân gây rối loạn sinh sản (thể vàng tồn lưu,
u nang buồng trứng, buồng trứng kém phát triển (thiểu năng)). Các thời điểm lấy
mẫu: 5 ngày một lần trong vòng 45 ngày (10 mẫu) trên một bò cái bị rối loạn
sinh sản.
- Định lượng progesterone để chẩn đoán có thai sớm: ngày động dục
(ngày 0) để khẳng định độ chính xác của phát hiện động dục, ngày sau phối
giống: 7, 14, 21, 28 và 35 để theo dõi sự rụng trứng, phát triển của thể vàng và
chẩn đoán có thai sớm.
2.1.2.4. Ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản
của bò sữa
- Sử dụng CIDR, GnRH và PGF2 đối với bò có buồng trứng kém hoạt
động (thiểu năng buồng trứng).
- Sử dụng GnRH, PGF2 kết hợp thụt rửa thân sừng tử cung đối với bò bị
u nang buồng trứng.
- Sử dụng PGF2 kết hợp thụt rửa thân sừng tử cung đối với bò có thể vàng
tồn lưu.
- Sử dụng tổng hợp: dùng công thức GnRH - PGF2- PGF2- GnRH trong
trường hợp chậm sinh không rõ nguyên nhân.
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu
2.1.3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản
Đánh giá các chỉ tiêu sinh sản bằng phương pháp theo dõi, ghi chép trực
38
tiếp, qua sổ sách giống đã ghi chép theo phương pháp hồi cứu và điều tra trực
tiếp các hộ chăn nuôi với 815 bò trong độ tuổi sinh sản và 746 bò đã sinh sản
(sau đẻ) (Theo phương pháp của Nguyễn Trọng Tiến và cs., 1991).
- Tuổi phối lần đầu được tính từ khi con vật sinh ra tới khi bò được phối
giống lần đầu (thời gian tính bằng tháng).
- Tuổi đẻ lứa đầu: Tuổi đẻ lứa đầu được tính từ khi con vật sinh ra đến khi
đẻ lứa đầu tiên (thời gian tính bằng tháng).
- Khối lượng cơ thể gia súc khi phối giống lần đầu, khi đẻ lần đầu: dùng
cân điện tử hoặc sử dụng thước dây của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
miền Nam (bò sau khi đẻ 1 tháng tiến hành xác định khối lượng cơ thể khi đẻ
lứa đầu).
- Thời gian động dục lại sau khi đẻ (ngày): được tính từ ngày đẻ đến ngày
động dục lần thứ nhất sau khi đẻ, chỉ tiêu này được theo dõi thông qua sổ đẻ và
sổ phối giống.
- Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (tính bằng ngày hoặc tháng): là khoảng thời
gian từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ tiếp theo, thông qua sổ sách phối giống và sổ đẻ.
- Tỷ lệ đẻ toàn đàn (%): là tỷ lệ giữa tổng số bò đẻ trong năm và số bò đến
tuổi sinh sản.
Tổng số bò đẻ trong năm
Tỷ lệ đẻ toàn đàn (%) = × 100 Tổng số bò cái đến tuổi sinh sản
- Tỷ lệ chậm sinh (%) (Theo Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương,
1997; Lê Xuân Cương, 1993): Đối với bò tơ từ 20 đến 26 tháng tuổi chưa phối
giống lần đầu và sau khi đẻ 4-6 tháng không xuất hiện động dục hoặc những bò
phối giống trên 3 lần mà không đậu thai được coi là chậm sinh.
Tổng số bò chậm sinh
Tỷ lệ chậm sinh (%) = × 100
Tổng số bò trong độ tuổi sinh sản
- Tỷ lệ đẻ non và sảy thai là những trường hợp sau khi phối có chửa 3
tháng (đã khám thai) đến 8,5 tháng có chửa mà đẻ hoặc sẩy thai, tiêu biến thai
39
được coi là đẻ non và sảy thai.
Tổng số bò sảy thai, đẻ non
Tỷ lệ đẻ non, sảy thai (%) = × 100 Tổng số bò phối có chửa trong năm
- Tỷ lệ sát nhau là tỷ lệ giữa số ca đẻ không ra nhau sau 12 giờ trên số bò
đẻ trong năm.
Tổng số ca đẻ sát nhau
Tỷ lệ sát nhau (%) = × 100
Tổng số ca đẻ trong năm
- Tỷ lệ thụ thai: là tỷ lệ (%) giữa số gia súc có chửa trên số gia súc được
phối giống trong một năm ở lần phối giống đầu.
Tổng số bò có chửa trong năm
Tỷ lệ thụ thai (%) = × 100
Tổng số bò được phối trong năm
- Hệ số phối giống: là tỷ số giữa tổng số lần phối giống của tổng số
bò/tổng số bò được phối đến có chửa, bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo do dẫn
tinh viên theo dõi, ghi chép vào sổ phối giống.
Tổng số lần (bò) được phối
Hệ số phối giống (lần) =
Tổng số bò được phối có chửa
2.1.3.2. Phương pháp đánh giá thể trạng và khám lâm sàng để phân loại buồng
trứng của bò
Chấm điểm thể trạng (Body Condition Scoring In Dairy Cattle - BCS)
theo phương pháp đánh giá cho điểm của Nhật Bản. 125 bò được đánh giá
cho điểm và khám lâm sàng buồng trứng.
Xác định trạng thái hoạt động của buồng trứng sau đẻ bằng kỹ thuật khám
qua trực tràng, mỗi lần khám cách nhau 7-10 ngày.
2.1.3.3. Phương pháp định lượng progesterone
- Sử dụng phương pháp định lượng miễn dịch Enzyme Immuno Assay
(ELISA-P4- Phụ lục) để phân tích hàm lượng progesterone (P4) trong sữa của 53
cá thể bò chậm sinh để xác định nguyên nhân chậm sinh trên buồng trứng. 26 bò
được theo dõi và lấy mẫu từ ngày động dục đến ngày thứ 35 (ngày lấy mẫu: ngày
40
0, 7, 14, 21, 28 và 35).
- Mẫu phân tích là sữa.
- Hàm lượng progesterone tính bằng nonagam/mililit (ng/ml).
- Phương pháp lấy mẫu sữa: sữa được vắt xong (từng cá thể), khuấy đều
rồi cho vào ống nghiệm và bảo quản lạnh rồi chuyển đến phòng thí nghiệm trong
thời gian không quá 3 giờ.
- Phương pháp xử lý mẫu:
+ Mẫu sữa được ly tâm 3.000 vòng /phút, tách bỏ bơ, lấy sữa gầy.
+ Kít chẩn đoán progesterone của trường Đại học Hiroshima, Nhật Bản
năm 2002, quy trình của Isobe (2002), được tiến hành tại phòng thí nghiệm trọng
điểm của Viện Chăn nuôi.
2.1.3.4. Phương pháp xác định bệnh buồng trứng qua định lượng progesterone
Hiện nay định lượng progesterone đã được ứng dụng rộng rãi trong
quản lý sinh sản bò sữa ở hầu hết các nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát
triển như Nhật, New Zealand, Hà Lan… Định lượng progesterone cho biết dự
kiến ngày bò động dục, bò bị thể vàng tồn lưu và bò bị u nang buồng trứng,
thậm chí còn biết được bò chậm rụng trứng (tại thời điểm bò động dục mà
không rụng trứng).
Đồng thời progesterone trong máu hay trong sữa cũng đã được tính toán
và đưa ra ngưỡng chuẩn hóa, Theo Isobe (2004), Mann et al. (2005) và Su
Thanh Long et al., (2009), cho rằng đối với bò tơ định lượng progesterone
trong máu cứ ≥1ng/ml tức là thời điểm đó buồng trứng xuất hiện thể vàng.
Còn progesterone < 1ng/ml tức là không có thể vàng tại thời điểm kiểm tra
máu. Tuy nhiên, trong luận án của chúng tôi chỉ định lượng progesterone
trong sữa ở những bò sữa sau đẻ và ngưỡng progesterone quy định trong sữa
là ≥ 5ng/ml là có thể vàng còn <5ng/ml tức là buồng trứng không có thể vàng.
Do vậy:
- Nếu hàm lượng progesterone trong sữa từ 5ng/ml trở lên thì buồng trứng
có thể vàng đang hoạt động và tiết progesterone. Nếu dưới 5ng/ml hoặc gần bằng
41
0 thì coi như không có thể vàng (Sơ đồ 2.1).
Progesterone
5ng
N42
N0
N21
Sơ đồ 2.1. Sự thay đổi hàm lượng progesterone
trong chu kỳ sinh lý bình thường
- Thể vàng tồn lưu được xác định nếu sau khi ngừng động dục, hàm lượng
progesterone không giảm mà vẫn duy trì cao liên tục cho đến nhiều ngày tiếp
theo (Sơ đồ 2.2).
Progesterone
5ng
N0
N21
N42
Sơ đồ 2.2. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong chu kỳ và thể vàng tồn lưu
- U nang buồng trứng: có hiện tượng xuất hiện pha thể vàng ngắn, tức là
cứ 7 ngày progesterone giảm rồi lại tăng dẫn đến bò động dục liên tục 7 ngày
một chu kỳ động dục (loạn dục) (Sơ đồ 2.3).
Progesterone
5ng
N0
N7
N14
N21
Sơ đồ 2.3. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong chu kỳ thể vàng ngắn
42
(buồng trứng có hoạt động)
- Buồng trứng không hoạt động (thể vàng không hình thành): khi kiểm tra
một thời gian dài hơn (trên 10 ngày) mà progesterone lúc nào cũng thấp hơn 5
ng/ml thì kết luận là buồng trứng không hoạt động (vì không có nang trứng,
không có trứng chín nên không có rụng trứng, do đó thể vàng không được hình
thành) (Sơ đồ 2.4).
5 ng/ml
Progesterone
Sơ đồ 2.4. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong trường hợp buồng
trứng không hoạt động
Bò có thể thụ thai: Bò động dục và được dẫn tinh, sau đó lượng
progesterone liên tục tăng cao kéo dài hơn 24 ngày, nhiều khả năng bò thụ thai
(nếu không có chửa thì do thể vàng tồn lưu) (Sơ đồ 2.5).
Progesterone
TTNT
5ng
N21
N0
N42
Sơ đồ 2.5. Sự thay đổi hàm lượng progesterone trong trường hợp
bò có thể thụ thai
2.1.3.5. Phương pháp xác định bệnh ở buồng trứng bò qua khám lâm sàng
- Sau khi bò đẻ đến 120 ngày, nếu chưa động dục lại, được khám buồng
trứng (qua trực tràng) hai lần liên tiếp cách nhau 7-10 ngày (Hoàng Kim Giao và
Nguyễn Thanh Dương, 1997).
- Ghi chép sự thay đổi về kích thước, các tình trạng bệnh lý trên buồng
43
trứng (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng sau khi
khám qua trực tràng hai lần liên tục cách nhau 7 đến 10 ngày
Khám lần thứ hai Khám lần thứ nhất Đánh giá tình trạng Vị trí khám (ngày 1) buồng trứng (sau lần thứ nhất 7- 10 ngày)
+ Thể vàng tồn lưu +
+ Sinh lý - Thể vàng - Sinh lý +
+ U nang buồng trứng +
+ Sinh lý - Nang trứng - Sinh lý +
Thể vàng và - Không hoạt động - nang trứng
Nếu thấy thể vàng cùng ở một vị trí trên buồng trứng mà không tiêu biến
thì sơ bộ kết luận là thể vàng tồn lưu. Còn khám thể vàng lúc có lúc không tại hai
thời điểm khám thì kết luận là chức năng buồng trứng bò bình thường.
Nếu thấy nang trứng cùng vị trí trên một buồng trứng mà không tiêu biến
thì sơ bộ kết luận là u nang buồng trứng. Còn khám nang trứng lúc có lúc không
tại hai thời điểm khám thì kết luận chức năng buồng trứng bình thường.
Nếu qua hai lần khám liên tiếp không thấy xuất hiện thể vàng cũng như
nang trứng, mà cả hai buồng trứng trơn “nhẵn bóng” thì kết luận chức năng
buồng trứng không hoạt động.
2.1.3.6. Sử dụng một số hormone hướng sinh dục để nâng cao khả năng sinh sản
+ Điều trị bệnh thiểu năng buồng trứng (đối với bò cái không có chu kỳ
tính, bò tơ, bò cái sinh sản sau khi đẻ):
Đặt vòng CIDR (chứa 1,9g progesterone) từ ngày thứ nhất của chu kỳ, đến
ngày thứ 12 thì rút vòng. Trước khi rút vòng CIDR một ngày (ngày 11): tiêm
PGF2α, ngày thứ 13: tiêm GnRH (100µg/bò). Theo dõi và phát hiện động dục từ
ngày 14 đến ngày 20, nếu bò động dục thì dẫn tinh và khám thai sau 45 - 60 ngày
44
(Sơ đồ 2.6).
CIDR
N14-15
N11
N1
N12
N13
N45 –N60 sau TTNT
TTNT
PGF2α
GnRH 50-100g
PGF2α Rút Đặt
12
13
11
Theo dõi động dục phối giống 14-15 Ngày
1 (0 )
Sơ đồ 2.6. Sử dụng vòng CIDR kết hợp hormone GnRH và PGF2α
+ Điều trị u nang buồng trứng
Khi khám lâm sàng hoặc kiểm tra progesterone và kết luận bò bị u nang
buồng trứng, tiến hành tiêm GnRH (100µg/bò). Sau 7 ngày, tiếp tục tiêm PGF2α
(25mg/bò) và theo dõi trong 7 ngày, nếu bò động dục, tiến hành dẫn tinh. Khám
PGF2α
thai ở ngày thứ 45 - 60 sau dẫn tinh (Sơ đồ 2.7).
GnRH
Khám thai
N8-N15
N7-N10
N1
N45 –N60 sau TTNT
TTNT
Sơ đồ 2.7. Sử dụng GnRH và PGF2α để điều trị bệnh u nang buồng trứng
+ Điều trị bệnh thể vàng tồn lưu
Đối với bò xác định có thể vàng tồn lưu: tiêm PGF2α liều 25mg ở ngày thứ
nhất sau đó theo dõi động dục ở ngày thứ 3-4; nếu bò động dục thì phối giống.
Nếu không động dục, ngày thứ 11 tiêm PGF2α liều 2 và theo dõi bò động dục vào
ngày thứ 13-14. Nếu bò động dục, phối giống bình thường và khám thai ở ngày
45
45-60 (Sơ đồ 2.8).
13- 14
11 3-4 1
Ngày PGF2α PGF2α Động dục phối giống Động dục phối giống
Khám thai
PGF2α
PGF2α
N11
N45 – N60 sau TTNT
N1
TTNT
TTNT
Sơ đồ 2.8. Sử dụng PGF2 điều trị bệnh thể vàng tồn lưu
(N: ngày; TTNT: Thụ tinh nhân tạo-dẫn tinh)
+ Phương pháp điều trị tổng hợp
Trong thực tế sản xuất không phải thú y cơ sở nào cũng có trình độ tay
nghề cao trong khám, chẩn đoán lâm sàng buồng trứng để xác định chính xác
bệnh trên buồng trứng của bò. Vì vậy, chúng tôi đưa ra phác đồ điều trị tổng hợp
cho tất cả các trường hợp bò chậm sinh mà không biết nguyên nhân cụ thể như
đã trình bày ở trên. Phác đồ điều trị như sau:
Ngày thứ nhất (ngày 0) tiêm GnRH liều 100g;
Ngày thứ 7 tiêm PGF2α liều 25mg;
Ngày thứ 8 tiêm GnRH liều 100g và cuối ngày thứ 9 phối giống cho tất
cả các bò đã điều trị, dù có biểu hiện động dục hay không (Sơ đồ 2.9).
9 8 7 3 1
Ngày PGF2 Phối giống PGF2α 25mg GnRH 100g GnRH 100g
46
Sơ đồ 2.9. Sử dụng công thức GnRH- PGF2α- PGF2α- GnRH
Phối giống và chẩn đoán có thai cho bò (Theo Sato et al., 1992a):
Bò động dục được phối giống bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, sử dụng
tinh bò đông lạnh dạng cọng rạ được sản xuất tại Trung tâm tinh đông lạnh
Moncada - Ba Vì, Hà Nội.
Thời gian phối giống từ 12-18 giờ kể từ khi bò xuất hiện động dục.
Định lượng progesterone cho bò sau 2 ngày phối giống để xác định sự thụ thai.
Khám thai qua trực tràng sau khi bò được phối giống 45-60 ngày.
2.2. Xử lý số liệu
Các chỉ tiêu tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khối lượng cơ thể khi
đẻ lần đầu, thời gian mang thai, thời gian dộng dục lại sau đẻ, khoảng cách giữa
hai lứa đẻ. Số liệu thu thập được xử lý bằng chương trình Minitab 16. Các tham
số thống kê bao gồm dung lượng mẫu (n), giá trị trung bình ( ), độ lệch chuẩn
(SD), giá trị nhỏ nhất (Min), giá trị lớn nhất (Max).
Các chỉ tiêu bao gồm tỷ lệ đẻ, xảy thai, đẻ non, sát nhau, hệ số phối giống
và tỷ lệ thụ thai, hiện tượng chậm sinh, động dục trở lại của bò đến 120 ngày sau
khi đẻ, ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng sau đẻ, chẩn đoán lâm
sàng bệnh buồng trứng bằng khám qua trực tràng, định lượng progesterone trong
sữa, điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động, điều trị bệnh u nang buồng
trứng, điều trị bệnh thể vàng tồn lưu, điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân
bằng phác đồ tổng hợp.
Các tham số thông kê được xác định bao gồm: dung lượng mẫu, tần xuất
quan sát và tỷ lệ. Dữ liệu được phân tích thông kê và so sánh bằng phép thử (χ2)
(Chi-square test) và phép thử chính xác của Fisher (Fisher’s exact test). Phép thử
chính xác của Fisher được sử dụng trong trường hợp mẫu bé (có ít nhất một giá
trị tần suất ước tính lý thuyết <5).
2.3. Địa điểm nghiên cứu
- Các vùng nuôi bò sữa trên địa bàn Ba Vì, Hà Nội.
- Phòng Thí nghiệm trọng điểm, Bộ môn Sinh lý, Sinh sản và Tập tính vật
nuôi, Viện Chăn nuôi.
47
- Bộ môn Ngoại Sản, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
2.4. Thời gian nghiên cứu
Các nội dung của đề tài là sự tiếp tục kế thừa của những nghiên cứu từ
năm 2003-2005 (về hormone); phần đánh giá sinh sản, phân loại buồng trứng và
48
điều trị sinh sản được nghiên cứu từ năm 2010 - 2014.
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình sinh sản của đàn bò sữa vùng Ba Vì, Hà Nội
Để đánh giá khả năng sinh sản của đàn bò sữa trên địa bàn huyện Ba Vì,
Hà Nội, thông qua sổ ghi chép, phần mềm quản lý bò sữa Việt Nam (VDM) trên
máy tính và điều tra thực tế, chúng tôi đã thu được những kết quả sau đây.
3.1.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lần đầu
Tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lần đầu là hai chỉ tiêu quan trọng trong
chăn nuôi bò sữa. Các chỉ tiêu này phản ảnh tình trạng chăm sóc nuôi dưỡng, khả
năng thích nghi với điều kiện sống cũng như kỹ thuật theo dõi động dục, kỹ thuật
phối giống của một cơ sở chăn nuôi. Nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt bò phát triển
thành thục sinh lý sớm sẽ dẫn đến phối giống sớm và ngược lại. Tuổi đẻ lần đầu
rất có ý nghĩa khi đánh giá các chỉ tiêu sinh sản đối với bò sữa. Nếu bò sữa đẻ
muộn, vòng đời hữu ích ngắn, thời gian khai thác sữa ngắn, tổng sản lượng sữa
sẽ thấp và hiệu quả kinh tế không cao.
Kết quả theo dõi và điều tra 1006 cá thể bò về tuổi phối giống lần đầu và
2.781 cá thể khi đẻ lứa đầu của đàn bò sữa trên địa bàn Ba Vì, Hà Nội chúng tôi
có được kết quả trình bày tại bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu
Tuổi phối giống lần đầu Tuổi đẻ lần đầu Chỉ số (tháng) (tháng)
2781 1006 n (con)
31,10 17,43
13,6 21,57 SD
23,05 13,00 Min
46,30 35,5 Max
Bò sữa vùng Ba Vì, Hà Nội có tuổi phối giống lần đầu là 17,43 tháng
49
(biến động 13,00-35,50 tháng), tuổi đẻ lần đầu trung bình là 31,10 tháng (dao
động 23,05-46,30) (bảng 3.1). Để có thể đánh giá được các kết quả nghiên cứu
của mình, chúng tôi cần so sánh với các kết quả nghiên cứu khác.
Các kết quả nghiên cứu về tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu trên
đàn bò sữa cả nước cho biết:
Nghiên cứu trên đàn bò sữa Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Quốc Đạt
và cs. (1998) cho biết nhóm bò lai ( ≥ 75% HF) F2 và F3 có tuổi phối giống lần
đầu tương ứng là 17,37 và 16,63 tháng, tuổi đẻ lần đầu tương ứng là 27,37 và
26,63 tháng. Lê Xuân Cương (1993), nghiên cứu đàn bò sữa lai và bò HF thuần ở
miền Bắc (vùng Hà Tây cũ) cho biết, tuổi động dục lần đầu của đàn bò lai hướng
sữa F1 là 19,00 0,77 tháng. Trong khi cũng nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa
vùng Ba Vì nuôi thử nghiệm bê từ 7-24 tháng tuổi. Nguyễn Kim Ninh (1994),
cho biết nhóm bò F1 có tuổi động dục lần đầu lúc 19,06 1,14 tháng tuổi, tuổi đẻ
lứa đầu là 32,1 1,1 tháng và ở nhóm bò F2 là 30,8 1,7 tháng.
Nghiên cứu trên đàn bò sữa lai chọn lọc nuôi tại Trung tâm nghiên cứu
Bò và Đồng cỏ Ba Vì nhóm tác giả Tăng Xuân Lưu và cs. (2004a) cho biết
tuổi phối giống lần đầu của nhóm bò lai 3/4 HF là 16,53±0,21 tháng và nhóm
7/8 HF là 16,93±0,28 tháng, tuổi đẻ lứa đầu tương ứng là 26,02±0,21 và
26,43±0,28 tháng. Theo Nguyễn Xuân Trạch (2004b), đàn bò lai có tỷ lệ máu lai
trên 75% HF (F2, F3) ở khu vực Hà Nội và vùng phụ cận có kết quả chung về tuổi
phối giống lần đầu là 18,7±0,2 tháng, tuổi đẻ lứa đầu là 29,3 tháng.
Theo Phạm Văn Giới và cs. (2007b), khi nghiên cứu trên đàn bò sữa vùng
Hà Nội cho kết quả là tuổi đẻ lần đầu ở nhóm bò lai 75% HF và 87,5% HF là
29,92 và 29,24 tháng và không có sự sai khác đáng kể giữa hai nhóm bò lai này
(P>0,05). Nhóm tác giả này cũng cho biết khi phân tích theo các đàn chọn lọc
trong tháp giống cho thấy tuổi đẻ lần đầu ở đàn hạt nhân là 29,86 tháng; đàn nhân
giống 31,55 tháng và đàn sản xuất là 30,84 tháng. Sự sai khác về tuổi đẻ lần đầu
của các đàn trong tháp giống là rõ rệt (P<0,05). Theo Vũ Văn Nội và cs. (2007) khi
nghiên cứu trên đàn bò sữa lai tại Ba Vì cho thấy, đàn bò lai cố định 75% HF có
tuổi đẻ lần đầu là 28,41 tháng. Trần Thị Loan và cs. (2012), khi nghiên cứu trên
50
đàn bò lai HF cũng tại Ba Vì cho biết tuổi phối giống lần đầu của nhóm bò lai F2
(75% HF) là 24,06 ± 0,94 tháng, nhóm F3 (87,5% HF) là 24,48 ± 1,04 tháng và
tuổi đẻ lứa đầu tương ứng: 33,61 ± 0,98 tháng và 33,93 ± 1,11 tháng.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014) trên đàn bò
lai hướng sữa tại thành phố Hồ Chí Minh (≥ 75% HF) có tuổi phối giống lần đầu
là 18,4 tháng và tuổi đẻ lứa đầu 28,2 tháng.
Tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lần đầu ở bò sữa có tỷ lệ máu lai ở mức
75-87,5% HF so với bò có tỷ lệ 100% máu HF cũng khác nhau rõ rệt. Kết quả
nghiên cứu qua các giai đoạn của các tác giả cho thấy: khi nghiên cứu trên đàn
đàn bò HF thuần nuôi ở Mộc Châu Sơn La với hai hình thức nuôi khác nhau cho
kết quả khác nhau: nuôi trong hộ gia đình có tuổi đẻ bình quân lứa đầu qua các
năm 1992, 1993, 1994, 1995 tương ứng là 39,5; 41.7; 3,5 và 36,6 tháng, nuôi ở
đàn giống chế độ dinh dưỡng cao hơn đạt bình quân tương ứng là 37,3; 36,9;
35,3 và 35,2 tháng (Lê Viết Ly và cs., 1997).
Bò HF thuần nhập nội từ Úc về nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và Lâm
Đồng đẻ lần đầu lúc là 33,7 tháng (Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh Bình,
2006). Cũng đàn bò HF Úc nhập về nuôi tại Tuyên Quang có tuổi đẻ lần đầu là
29,8 ± 2,8 tháng (Nguyễn Hữu Lương và cs., 2007).
Đánh giá về sự ảnh hưởng đến tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lần
đầu trên bò nói chung và bò sữa nói riêng, các tác giả trong và ngoài nước đều
có những nhận định khác nhau ở các giống cũng như ở các vùng, thời điểm
khác nhau:
Khi nghiên cứu trên các nhóm bò Shorthorn, Africander, Friesian, Jersey
ở Nam Phi, Chamberlain (1992), cho rằng nếu nuôi dưỡng tốt, bò động dục sớm
ở 13,8 tháng, nuôi dưỡng kém bò sẽ động dục ở 21,1 tháng. Theo Nguyễn Trọng
Tiến và cs. (1991), mức độ dinh dưỡng thiếu sẽ kìm hãm sự sinh trưởng phát
triển của cơ thể, sự còi cọc thường dẫn đến chậm thành thục tính dục.
Dinh dưỡng ảnh hưởng lớn đến khả năng thành thục về tính và tuổi
động dục lần đầu, thiếu dinh dưỡng sẽ dẫn đến động dục kín đáo chậm chạp.
Khẩu phần ăn thiếu khoáng hoặc vi lượng cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh
51
sản của chúng, gây rối loạn sinh sản và ức chế động dục, nhất là thiếu phốt
pho. Bò cái thường thiếu phốt pho do đã cung cấp cho tiết sữa, trường hợp này
buồng trứng bị thu nhỏ lại, sau khi đẻ thường chỉ động dục một lần, nếu không
phối kịp thời thì sau cai sữa mới động dục lại. Bổ sung một lượng kẽm đầy đủ
sẽ làm tăng độ mắn đẻ và làm giảm tỷ lệ chết của phôi (Nguyễn Trọng Tiến và
cs., 1991). Khi thiếu mangan, sự thành thục về tính dục của bò chậm, có
những chu kỳ không rụng trứng. Ở động vật chửa có thể chết thai trong bụng,
đẻ con chết hoặc thai sinh ra sức sống kém (Nguyễn Trọng Tiến và cs., 1991).
Chamberlain (1992), khi nghiên cứu ở Nam Phi trên 4 giống bò
Shorthorn, Africander, Friesian và Jersey nuôi dưỡng ở 2 mức dinh dưỡng tốt
và kém kết quả là tuổi đẻ lứa đầu bình quân của nhóm bò nuôi dưỡng kém kéo
dài hơn 9-10 tháng. Theo Sato et al. (1992a), bò sữa có biểu hiện động dục ở 8-
10 tháng tuổi nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt, nhưng phối giống có thể bắt đầu từ
15-16 tháng tuổi hoặc lúc bò đạt khối lượng cơ thể 350-400kg.
Như vậy, kết quả của chúng tôi về tuổi phối giống lần đầu thấp hơn các
nghiên cứu khác trên cùng một địa điểm cũng như ở các nơi khác trong khi tuổi
đẻ lứa đầu lại rất cao. Điều này có thể lý giải là: chăn nuôi nông hộ, chăn nuôi
nhỏ phụ thuộc và chịu tác động rất nhiều vào ý chủ quan cũng như yếu tố khách
quan của chính người nuôi và yếu tố thị trường (đầu ra). Yếu tố người chăn nuôi:
năm kinh nghiệm chăn nuôi, trình độ học vấn, khả năng đầu tư, phẩm giống bò
lai, phương pháp chăn nuôi… Yếu tố thị trường: vào giai đoạn đó giá bò và giá
sữa đang rất cao (giá bò giống từ 50-70 triệu đồng/ con, giá sữa từ 11.000-14.000
đ/kg), đàn bò được đầu tư, chăm sóc tốt hơn; khi yếu tố lợi nhuận của người chăn
nuôi không cao thì thường chăm sóc nuôi dưỡng, đầu tư sẽ hạn chế. Mặt khác do
sự phát triển bò sữa tăng nhanh ở một số xã mới nuôi mà bà con nông dân ở đó
còn thiếu nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm chăn nuôi và hệ thống dịch vụ
kèm theo cũng hạn chế. Bên cạnh đó trình độ tay nghề của đội ngũ kỹ thuật
truyền tinh nhân tạo còn nhiều hạn chế nên dẫn đến phối giống không đúng thời
điểm, bỏ lỡ chu kỳ động dục của bò, cũng dẫn đến làm tăng tuổi đẻ lứa đầu, mặc
52
dù tuổi động dục lần đầu sớm.
Theo Vũ Chí Cương (2006), khi máu lai HF ở bò sữa càng cao, chăm sóc
càng tốt, thì sinh trưởng càng nhanh nhưng cũng ảnh hưởng bởi những stress
nhiệt lại cao hơn bò có máu HF thấp nhất và bò HF thuần. Từ kết quả trên cho
thấy ảnh hưởng của yếu tố chủ quan và khách quan với thời gian khác nhau, trình
độ người chăn nuôi khác nhau, giá sản phẩm chăn nuôi ở từng thời điểm khác
nhau đều có ảnh hưởng đến tuổi phối giống và tuổi đẻ lần đầu của đàn bò đối với
chăn nuôi nông hộ.
3.1.2. Khối lượng cơ thể khi bò cái đẻ lần đầu
Khối lượng cơ thể khi đẻ lứa đầu là một chỉ tiêu phản ánh sự phát triển về
thể chất của đàn bò thông qua chế độ chăm sóc nuôi dưỡng chúng trước và sau
khi phối giống, đồng thời thể hiện khả năng hồi phục chức năng sinh sản và sức
sản xuất sữa của chúng. Kết quả đánh giá khối lượng cơ thể của 4.274 cá thể bò
sữa khi đẻ lần đầu tại vùng Ba Vì, Hà Nội được trình bày trong bảng 3.2.
Bảng 3.2. Khối lượng cơ thể bò cái khi đẻ lần đầu
Chỉ số Khối lượng cơ thể khi đẻ lần đầu (kg)
n (con) 4.273
410,79
SD 49,68
Min 398
Max 620
Khối lượng cơ thể trung bình khi đẻ lứa đầu của đàn bò sữa trong vùng Ba
Vì Hà Nội là 410,79 kg, khoảng giao động khá lớn từ 398 đến 620 kg.
Kết quả nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu (1999), cũng trên đàn bò lai HF
tại Ba Vì cho biết khối lượng cơ thể khi đẻ lần đầu của nhóm bò F1 là 334,47 6,3
kg, nhóm F2 là 355,35 5,16 kg, nhóm F3 là 363,33 4,09 kg.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở thời điểm này có cao hơn so
với nghiên cứu cũng trên đàn bò sữa vùng Ba Vì. Theo chúng tôi có lẽ do trong
những năm 2000-2001, chăn nuôi bò sữa vùng Ba Vì nói riêng và Hà Nội nói
53
chung phát triển chậm (khoảng 3.500 con) bò lai chủ yếu ở mức 50 - 75,5% HF
và bò sữa lai trền nền đàn bò lai Zebu ở phía Bắc và điều kiện chăm sóc nuôi
dưỡng còn hạn chế (giá sữa và giá bò giống cũng ở mức trung bình). Đến nay,
đàn bò sữa đã tăng lên trên 8.000 con và chủ yếu là bò lai trên 85 % HF. Thêm
vào đó là một số lượng lớn bò tơ được chuyển từ khu vực phía Nam ra, mà
những bò này lại là những con lai trên nền bò Brahman, giống bò có khối lượng
cơ thể lớn hơn rất nhiều so với bò lai trên nền bò Sind. Mặt khác, chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng bò sữa những năm sau này đã được cải tiến nhiều do yếu tố giá
sữa và giá giống bò, với hai lí do giống và dinh dưỡng, như vậy khối lượng cơ
thể bò lai trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn giai đoạn trước là hoàn toàn
phù hợp và tương đương với các kết quả nghiên cứu gần đây của Nguyễn Văn
Đức (2005) và Phạm Văn Giới và cs. (2007b).
3.1.3. Thời gian mang thai của đàn bò sữa qua các lứa đẻ
Thời gian mang thai là một trong những chỉ tiêu phản ánh trung thực khả
năng thích nghi với điều kiện sống cũng như duy trì tính ổn định của các giống
gia súc. Đối với bò sữa, biết được thời gian mang thai giúp người quản lý cũng
như người chăn nuôi có kế hoạch chủ động trong việc phân lô, phân đàn chăm
sóc nuôi dưỡng trước khi đẻ, vừa đảm bảo an toàn cho bê con và bò mẹ trong
quá trình sinh đẻ. Biết được thời gian dự kiến đẻ giúp cho người quản lý còn
chủ động cho bò đẻ theo ý muốn như: tránh bò đẻ vào ban đêm, các ngày nghỉ
lễ, nghỉ tết, ngày mưa bão, lũ...Tránh được những chí phí không cần thiết trong
sản xuất sẽ giảm được chi phí trong chăn nuôi. Chính vì ý nghĩa đó, chúng tôi
tiến hành theo dõi các lứa đẻ từ lứa đẻ 1 đến trên lứa đẻ thứ 6 của 1.068 bò cái
sinh sản. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.3 cho thấy thời gian mang thai bình
quân của bò lai HF nuôi tại Ba Vì Hà Nội giữa các lứa đẻ không có sự sai khác
nhau rõ rệt (P>0,05).
Kết quả của Tăng Xuân Lưu và cs. (2012) nghiên cứu chi tiết theo từng
nhóm tỷ lệ máu lai (50, 75, 87,5%...) ở các lứa đẻ cho biết thời gian mang thai
nằm trong khoảng 276,33 ± 0,56 đến 278,55 ± 2,26 ngày, sự sai khác giữa các
phẩm giống trong năm không lớn (P>0,05). Tuy nhiên, nếu so sánh giữa các mùa
trong năm thì có sự sai khác giữa mùa hè và mùa thu đông (P<0,05), đặc biệt là
54
nhóm F2 và nhóm F3. Nhóm F2 có thời gian mang thai trong mùa hè là 271,02 ±
2,31 ngày và mùa đông xuân là 276,87 ± 2,21 ngày. Đối với phẩm giống F3 trở
lên, có sự sai khác đáng kể giữa các tháng mùa hè và các tháng mùa thu và mùa
đông từ 6-8 ngày.
Bảng 3.3. Thời gian mang thai qua các lứa đẻ
Chỉ tiêu Lứa 1 - 2 Lứa 3 - 5 Lứa ≥ 6
n (con) 432 492 144
(ngày)
SD
277,24 277,65 276,63
Min
23,69 21,74 16,56
Max
275 275 275
287 290 290
Quá trình theo dõi nhiều năm cho thấy nhiệt độ, độ ẩm và chỉ số THI có tác
động rõ rệt đến bò sữa như tỷ lệ đẻ sớm, đẻ non, sảy thai, đặc biệt là vào các tháng
nắng nóng trong năm do bò bị stress nhiệt (Vũ Chí Cương và cs., 2006).
Một số tác giả khác đã nghiên cứu về thời gian mang thai của bò lai HF tại
vùng Ba Vì và một số địa phương trong cả nước. Theo Lương Văn Lãng và Võ
Văn Sự (1979), bò HF nuôi tại Nông trường Sao Đỏ, Sơn La có thời gian mang
thai là 279,87 ngày. Theo Nguyễn Văn Thưởng và Trần Doãn Hối (1982), thời
gian có chửa của các nhóm bò lai 3/4 và 5/8 máu HF tại Nông trường Ba Vì
tương ứng là 278,3 và 280,1 ngày. Theo Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh
Bình (2006), thời gian mang thai của bò Holstein Friensian thuần nhập nội nuôi ở
khu vực TP Hồ Chí Minh là 276,57 ngày. Theo Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận
(1985), thời gian mang thai của bò dao động trong khoảng 278 - 290 ngày. Theo
Sato et al. (1992a), thời gian mang thai của bò HF là 281 ngày.
Như vậy, kết quả của chúng tôi thu được thấp hơn của các nghiên cứu trên
từ 5 đến 7 ngày nhưng sự sai khác này đều nằm trong ngưỡng dao động chung.
Tuy nhiên, theo chúng tôi về lý do bò vùng Ba Vì đẻ sớm hơn từ 5 đến 7 ngày so
với quy luật, có thể là trong những năm gần đây đàn bò nuôi tại Ba Vì Hà Nội
55
phần lớn là bò tăng cơ học từ nhiều vùng khác nhau trong cả nước đưa về (chủ
yếu là bò tơ có chửa từ miền Nam ra), nên bị stress do chuyển vùng, mặt khác
đều nuôi theo phương thức nhốt tại chuồng là chủ yếu. Hơn nữa do nhiệt độ và
ẩm độ môi trường nuôi cũng biến đổi khí hậu nóng lên trền toàn cầu theo chiều
hướng bất lợi cho đàn bò sữa nói chung. Đối với bò sữa thì khi nhiệt độ trên 250C
và ẩm độ trên 75% là bị stress nhiệt. Sự mẫn cảm với nhiệt độ, ẩm độ càng thể
hiện ở bò HF thuần và bò có máu lai HF cao. Tất cả các yếu tố đó đã ảnh hưởng
đến thời gian mang thai của bò.
Trong sản xuất, biết được thời gian bò đẻ sớm hơn bình thường từ 5 đến 7
ngày, điều này sẽ giúp cho vùng chăn nuôi bò sữa Ba Vì quản lý bò đẻ được tốt
hơn, hạn chế được rùi ro trong quá trình đẻ của bò, chăm sóc bê, bò mẹ chủ động
và có hiệu quả hơn. Sự phát hiện này giúp cho việc quản lý ở các cơ sở chăn nuôi
tập thể, tập trung có ý nghĩa thiết thực.
Nguồn: Dự án Jica - Viện Chăn nuôi (2002)
Ảnh 3.1. Bò đẻ sớm do bị strees nhiệt
3.1.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Thời gian động dục lại sau khi đẻ là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh chế
độ chăm sóc nuôi dưỡng bò sinh sản giai đoạn trước khi đẻ và giai đoạn đầu sau
khi đẻ, phản ánh khả năng phục hồi tử cung sau khi đẻ. Thời gian động dục lại
sau khi đẻ càng ngắn thì khoảng cách giữa hai lứa đẻ càng giảm và năng suất
sinh sản cũng như khả năng sản xuất sữa của một đời bò được nâng cao, hiệu quả
chăn nuôi trong một đời bò lớn. Kết quả nghiên cứu về thời gian động dục lại sau
56
đẻ của bò sữa vùng Ba Vì được thể hiện qua bảng 3.4.
Bảng 3.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Chỉ số Thời gian động dục lại sau khi đẻ
n (con) 746
117,69 (ngày)
SD 97,23
Min 35
Max 180
Kết quả theo dõi 746 bò sau khi đẻ, từ lứa 1 đến lứa 6 cho thấy thời gian
động dục lại sau khi đẻ của bò lai hướng sữa vùng Ba Vì, Hà Nội là 117,69
ngày với độ biến động lớn (35-160 ngày). Theo chúng tôi có sự biến động lớn
là do chế độ đầu tư, chăm sóc nuôi dưỡng của các hộ khác nhau, tỷ lệ máu lai
HF khác nhau và năng suất sữa cũng khác nhau, dẫn đến thời gian động dục của
bò cũng khác nhau sau khi đẻ. Qua quá trình theo dõi chúng tôi thấy thời gian
động dục lại sau khi đẻ có xu hướng giảm dần ở các lứa đẻ sau. Điều này có thể
do khả năng thích nghi, thích ứng với các điều kiện sống của đàn bò tốt hơn qua
thời gian.
Thời gian động dục lại sau khi đẻ phụ thuộc nhiều vào chế độ chăm sóc,
nuôi dưỡng còn phụ thuộc vào thời gian hồi phục tử cung và sự tái sinh của bề
mặt biểu mô ở các núm nhau. Sự hồi phục này thường hoàn thiện sau khi đẻ 30
ngày và để nội mạc tử cung trở lại trạng thái bình thường thì cần thêm 15 ngày
(Nguyễn Tấn Anh và cs., 1995). Theo Nguyễn Trọng Tiến và cs. (1991), khoảng
60 ngày sau khi đẻ có 75% số bò cái có cơ quan sinh dục được hồi phục, sau 75
ngày có 87%. Đối với bò đẻ khó, sót nhau, thời gian này là 4 tháng, và tác giả
cũng cho biết sự hồi phục tử cung phía không mang thai chỉ mất 11,4 ngày. Sự co
dạ con còn phụ thuộc vào từng cơ thể, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, quá trình
đẻ và sự hộ lý chăm sóc sau khi đẻ.
Theo Sato et al. (1992a), quá trình hồi phục tử cung bò sau khi đẻ không
57
biến chứng là 45 ngày và để cơ quan sinh dục hồi phục nhanh nhất cần chăm sóc,
nuôi dưỡng thật tốt giai đoạn trước khi đẻ 1 tháng và sau khi đẻ 2 tháng. Như
vậy, thời gian động dục lại sau khi đẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng đặc biệt
quan trọng là dinh dưỡng trong thời kỳ trước khi đẻ.
Nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa ở thành phố Hồ Chí Minh, Chung
Anh Dũng (2001), cho biết, đối với những bò có điểm thể trạng từ 3,0-3,5, sau
khi đẻ đã biểu hiện khả năng sinh sản tốt, thời gian động dục lại sau khi đẻ là
62,81 ngày. Cũng theo tác giả này, thời gian động dục lại sau khi đẻ của các
nhóm bò lai trung bình là 88 ngày. Theo nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu và cs.
(1999), cũng trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Ba Vì, Hà Tây (cũ), thời gian
động dục lại sau khi đẻ ở nhóm bò lai F1 là 91,88 4,2 ngày; nhóm bò F2 là
106,17 5,45 ngày. Theo Trần Thị Loan và cs. (2012), thời gian động dục lại sau
đẻ nhóm bò F2 là 102,13 ± 4,46 ngày và nhóm F3 là 118,11 ± 4,52 ngày. Đinh
Văn Cải và cs. (2005) khi nghiên cứu ảnh hưởng của stress nhiệt đối với bò lai
hướng sữa và bò Hà Lan thuần (HF) nhập nội nuôi tại khu vực phía Nam nhận
thấy bò lai động dục lại vào mùa khô (tính từ sau khi đẻ) là 76,72 ngày, vào
mùa mưa là 76,62 ngày, còn bò HF thuần là 130,1 và 154,4 ngày tương ứng.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014) trên đàn bò sữa thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy thời gian sau khi đẻ đến phối giống lần đầu là 95,9 ngày
(78,4-136,4 ngày), còn khoảng cách từ sau đẻ đến phối giống có chửa là 209,9
ngày (201,6-241,2 ngày).
Theo Shearer et al. (1990), Wolfenson et al. (2000), stress gây hiện
tượng không động dục ở bò đang trong thời kỳ cho sữa vì tuyến thượng thận
tiết ra nhiều progesterone và làm tăng tỷ lệ chết phôi. Cùng tác giả Sato et al.
(1992a), cho biết, bò sau khi sinh, nhiều bò sẽ rụng trứng trong vòng 20-30
ngày. Tuy nhiên, hiện tượng động dục ngầm hay rụng trứng thầm lặng thường
chiếm tỷ lệ cao, những bò này sẽ rụng trứng trở lại vào lúc 45-50 ngày sau đẻ.
Rụng trứng thầm lặng cũng thường xảy ra đối với những bò có mặt bằng dinh
dưỡng thấp và gầy yếu trước lúc đẻ và cũng thường động dục sau 100 ngày
58
sau đẻ.
Như vậy, thời gian động dục lại sau khi đẻ trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đối cao so với các kết quả trước đây. Theo chúng tôi, kết quả này là do sự
tác động của 3 yếu tố đó là sự thay đổi tỷ lệ máu lai HF trong đàn bò ngày càng
cao hơn, sự biến đổi nhiệt độ môi trường nuôi theo hướng ấm lên và sự chăm sóc
không hợp lý của người chăn nuôi đối với bò giai đoạn cạn sữa cũng như giai
đoạn sau khi đẻ khi mà năng suất sữa ở giai đoạn đỉnh trong chu kỳ. Điều này
được thể hiện rõ hơn trong phần đánh giá sự ảnh hưởng của thể trạng bò đến khả
năng hoạt động của buồng trứng sau khi đẻ (mục 3.2.5)
Trong quá trình theo dõi và nghiên cứu chúng tôi thấy rằng thời gian động
dục lại sau đẻ còn phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng, nhất là tỷ lệ protein trong
khẩu phần thức ăn, phụ thuộc vào năng suất sữa của từng cá thể và bởi mùa vụ...
Đối với bò có sản lượng sữa cao, thời gian động dục lại sau khi đẻ kéo dài hơn và
ngược lại.
Theo Abdelrahim et al. (2004), chu kỳ hoạt động của buồng trứng (chu kỳ
sinh nang) không phụ thuộc vào khả năng hồi phục tử cung sau đẻ mà hoàn toàn
phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng do người chăn nuôi cung cấp cho bò và khả
năng thu nhận thức ăn của bản thân con vật. Nếu trong tháng cuối của thời kỳ
thai kỳ (tháng thứ 9) có chế độ dinh dưỡng tốt, điểm thể trạng đạt trung bình
(3,0-3,5 điểm), bò sẽ sinh sản tốt vào thời kỳ tiếp theo.
Như vậy, thời gian động dục lại sau khi đẻ của bò phụ thuộc rất lớn vào
chế độ chăm sóc nuôi dưỡng trong thời kỳ cạn sữa và sau khi đẻ cũng như thời
tiết khí hậu vùng nuôi. Tỷ lệ máu bò HF trong con lai tăng lên, sản lượng sữa cao
nên ảnh hưởng của prolactin đến phân tiết GnRH trong chu kỳ sóng nang của bò
cũng tăng lên, đồng nghĩa với việc kéo dài thời gian động dục lại sau khi đẻ.
Đỉnh sữa trong chu kỳ tiết sữa của bò sữa Việt Nam thường đạt ở tháng sữa thứ
nhất đến tháng sữa thứ 3 (Phạm Văn Giới và cs., 2007). Chính yếu tố này ảnh
hưởng lớn đến khả năng động dục trở lại của bò sữa trong thời gian sau khi đẻ.
Mặt khác, do không chủ động được nguồn thức ăn xanh thô vào mùa đông và
59
đầu xuân (từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau) nên giai đoạn này dinh
dưỡng cho bò thường không ổn định ở chăn nuôi nhỏ. Một điểm yếu trong chăn
nuôi nhỏ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế nên trong thời gian bò cai sữa chờ đẻ (2
tháng chửa cuối) trước khi bò đẻ ít được chú trọng so với bò đang khai thác sữa.
Chính hai yếu tố này đã tác động rất lớn đến khả năng động dục trở lại của bò sau
khi đẻ. Vì vậy, trong chăn nuôi bò sữa cần có kế hoạch chủ động chăm sóc nuôi
dưỡng tốt từ những tháng trước khi đẻ và ngay sau khi đẻ cũng như có kế hoạch
kiểm tra sự hồi phục tử cung sau đẻ để có tác động kịp thời giúp cho bò nhanh
trở lại chu kỳ sinh sản.
3.1.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
Bình thường thời gian mang thai của bò là 9 tháng 10 ngày (trung bình
280-285 ngày), sau khi đẻ từ 35-50 ngày tử cung hồi phục lại chức năng sinh lý
bình thường, khả năng sinh sản lại trở lại bình thường, tiếp đó đến thời gian chờ
phối 30-45 ngày. Muốn rút ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ để nâng cao hiệu
quả trong chăn nuôi bò sữa, người chăn nuôi phải quan tâm đặc biệt đến thời gian
chờ phối nhằm phát hiện động dục chính xác và phối giống kịp thời để nâng cao
tỷ lệ có chửa và không bỏ lỡ một chu kỳ động dục nào. Như vậy, khoảng cách lý
tưởng giữa hai lần đẻ của bò là 12 tháng (cứ mỗi năm sinh ra một bê). Tuy nhiên,
trong thực tế do nhiều nguyên nhân làm cho khoảng cách giữa hai lứa đẻ kéo dài,
thậm chí dài tới 3 năm hoặc hơn thế và trong trường hợp này thường phải loại
thải bò.
Bảng 3.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
Chỉ số Khoảng cách giữa hai lứa đẻ (ngày)
n (con) 746
437,43
SD 258,65
Min 400
Max 540
Do vậy, chúng tôi tiến hành điều tra theo dõi khoảng cách giữa hai lứa đẻ
60
nhằm góp phần đánh giá thực trạng sinh sản ở đàn bò sữa nuôi tại Ba Vì, Hà Nội
để giúp cho người chăn nuôi có cái nhìn khách quan hơn, thấy được những việc
cần làm trong quá trình chăn nuôi bò sữa. Kết quả thể hiện ở bảng 3.5.
Qua bảng 3.5 cho thấy với 746 bò đẻ được kiểm tra, khoảng cách giữa hai
lứa đẻ của đàn bò sữa nuôi tại Ba Vì, Hà Nội là 437,43 ngày (dao động 400-540
ngày). Để có thể đánh giá được con số này, chúng ta cần so sánh với một số
nghiên cứu khác về khoảng cách giữa các lứa để trên bò sữa của các tác giả khác.
Theo Nguyễn Hữu Lương và cs. (2007 khi nghiên cứu trên đàn bò HF
thuần nhập nội nuôi tại Tuyên Quang cho biết khoảng cách giữa lứa đẻ 1 và 2
của bò là 17,0 ± 3,2 tháng. Nhóm tác giả Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh
Bình (2006), nghiên cứu trên đàn bò HF nhập nội nuôi tại TP. Hồ Chí Minh và
Lâm Đồng có khoảng cách lứa đẻ 1-2 là 15,3 ± 2,1 tháng. Tác giả Nguyễn Kim
Ninh (1994), cho biết nhóm bò lai F1 được nuôi với thức ăn ổn định có khoảng
cách giữa hai lứa đẻ 416,6 10,68 ngày (13,7 tháng). Theo Trần Trọng Thêm
(1986), khoảng cách hai lứa đẻ của đàn bò sữa Phù Đổng là 503 37,8 ngày. Tác
giả Lê Xuân Cương (1993), khoảng cách giữa hai lứa đẻ của nhóm bò lai F1 Miền
Nam là 488,0 ngày, ở đàn bò vàng Việt Nam là 20,2 tháng.
Nghiên cứu trên đàn bò HF nuôi tại Mộc Châu, Lê Viết Ly và cs. (1997)
cho biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ toàn đàn qua các năm 1992, 1993, 1994,
1995 tương ứng là 17,1; 16,8; 15,2; 15,4 tháng. Vũ Chí Cương và cs. (2004) cho
biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của hai nhóm bò lai F2 và F3 HF nuôi tại Phù
Đổng là 440,6 7,2 và 442,8 10,9 ngày, ở Ba Vì là 443,12 10,12 và 461,58
19,24 ngày, ở TP. Hồ Chí Minh là 457,4 14,89 và 460,9 16,4 ngày. Khoảng
cách giữa hai lứa đẻ của đàn bò F3 có xu hướng dài hơn F2. Khoảng cách hai lứa đẻ
của đàn F2, F3 nuôi tại Ba Vì lớn hơn nuôi tại Phù Đổng và cũng có hệ số biến
động lớn hơn (22,89-29,77% so với 11,10-11,85%). Theo kết quả nghiên cứu của
Tăng Xuân Lưu và cs. (2004b), khoảng cách hai lứa đẻ của bò lai hướng sữa 3/4
HF tại Ba Vì là 443 ngày, bò lai 7/8 HF là 461 ngày. Kết quả của Trần Thị Loan
và cs. (2012), theo dõi trên đàn bò sữa Ba Vì có khoảng cách giữa hai lứa đẻ
nhóm bò lai F1 432,2±7,16 ngày và nhóm bò lai F3 là 441,01±7,86 ngày. Nguyễn
61
Văn Đức (2005), khảo sát khả năng sản xuất sữa của đàn bò lai hướng sữa Việt
Nam ở hai vùng Đông Bắc bộ và Nam bộ cho kết quả khoảng cách giữa hai lứa
đẻ của cả hai vùng là 419,6 ngày. Theo Đinh Văn Cải và cs. (2005), ảnh
hưởng của stress nhiệt đối với bò lai hướng sữa và bò Hà Lan thuần (HF)
nhập nội nuôi tại khu vực phía Nam, có khoảng cách lứa đẻ ở bò lai 370,3-
378,6 ngày và 455,4-497,4 ngày.
Sadal (dẫn theo Nguyễn Kim Ninh, 1994) đã đưa ra chỉ tiêu đánh giá
năng suất bò cái bằng khoảng cách lứa đẻ, bò có khoảng cách lứa đẻ 410 ngày
là bò rất tốt, 411-460 ngày là tốt, 461 ngày trở lên là bò không tốt. Khi nghiên
cứu trên đàn bò sữa nuôi theo phương thức tập trung, nhóm tác giả Nguyễn
Kim Ninh và Lê Trọng Lạp (1992) cho biết trong điều kiện chăm sóc nuôi d-
ưỡng đầy đủ, khoảng cách giữa 2 lứa đẻ là 378 ngày, còn nuôi dưỡng kém thì
424 -540 ngày.
Theo Sato et al. (1992a), khi nghiên cứu ảnh hưởng của giống đến sinh
sản đã có kết luận bò lai hướng sữa có tỷ lệ máu bò nhiệt đới cao (Bò Bosindicus)
có khoảng cách lứa đẻ và thời gian động dục lại sau khi đẻ ngắn hơn rõ rệt so với
nhóm bò có tỷ lệ máu ôn đới cao (Bò Bos taurus).
Khoảng cách giữa hai lứa đẻ là thước đo khả năng sinh sản cũng như sức
sản xuất sữa trên đời con bò sữa. Khoảng cách lứa đẻ dài ảnh hưởng đến toàn bộ
thời gian cho sản phẩm, tới tổng sản lượng sữa và số bê con được sinh ra trong
một đời bò mẹ, dẫn đến hạn chế việc nâng cao tiến bộ di truyền. Khoảng cách hai
lứa đẻ phụ thuộc lớn vào thời gian động dục lại sau khi đẻ. Đồng thời, phụ thuộc
vào khả năng phát hiện động dục, trình độ tay nghề của dẫn tinh viên; phụ thuộc
cơ địa của bản thân con vật, khả năng phục hồi tử cung, khả năng “sạch” của
đường sinh dục; phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, chế độ chăm sóc dinh dưỡng
trong thời gian trước và sau khi phối giống…
Các kết quả nghiên cứu trên phù hợp với nhận xét của nhiều tác giả cho
rằng khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò cái sinh sản trước hết phụ thuộc vào
yếu tố di truyền (giống), thứ đến là tác động của yếu tố ngoại cảnh như điều
kiện chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ khai thác sử dụng, khí hậu, mùa vụ, trình
62
độ quản lý... Về yếu tố di truyền, các giống khác nhau có khoảng cách lứa đẻ
khác nhau; các phẩm giống có máu lai khác nhau cũng có khoảng cách giữa
hai lứa đẻ khác nhau. Trong cùng một giống (một nhóm) nhưng điều kiện
chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau cũng có khoảng cách lứa đẻ khác nhau
(Nguyễn Tiến Văn, 1992).
Trong nghiên cứu này, khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò sữa nuôi tại Ba
Vì là khá dài so với một số công bố khác. Theo chúng tôi, vùng Ba Vì trong
những năm gần đây đàn bò có tỷ lệ máu lai HF tăng cao trên 87,5%, hơn nữa bò
chủ yếu được đưa từ TP. Hồ Chí Minh ra nên chúng thường bị stress trong thời
gian 1 đến 2 năm đầu sau đó mới ổn định. Trong năm đầu đàn bò còn bị bệnh ký
sinh trùng đường máu nên sự hồi phục sức khỏe sau điều trị kéo dài. Mặt khác,
do sản lượng sữa của đàn bò cũng được nâng cao nên việc sử dụng thức ăn tinh
trên 40% trong khẩu phần ăn có thể dẫn đến sự rối loạn hormone sinh sản cũng
dẫn đến giảm tỷ lệ đậu thai sau khi phối giống.
Chúng tôi thấy kết quả thu được ở các nhóm bò lai hướng sữa vùng Ba
Vì, Hà Nội là hoàn toàn phù hợp với những nhận định của các tác giả trong
nước khi nghiên cứu về sinh sản trên bò sữa.
3.1.6. Tỷ lệ đẻ, sẩy thai, đẻ non, sát nhau
Các giống bò sữa hiện nuôi ở nước ta đều có nguồn gốc từ các nước ôn
đới nên khả năng chống chịu với bệnh tật không cao so với vùng thích nghi
của chúng, tỷ lệ máu ngoại càng cao thì sức đề kháng càng giảm. Bên cạnh đó,
việc khai thác sữa và chế độ nuôi dưỡng chăm sóc chưa phù hợp cũng dễ làm
bò mắc một số bệnh liên quan đến sinh sản như sảy thai, đẻ non và sát nhau.
Kết quả về điều tra các bệnh này ở bò vùng Ba Vì, Hà Nội được thể hiện tại
bảng 3.6.
Bảng 3.6. Tỷ lệ đẻ, sẩy thai, đẻ non và sát nhau
Chỉ tiêu Số con theo dõi Số con đẻ Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ đẻ toàn đàn 815 569 69,82
Tỷ lệ sẩy thai, đẻ non 619 29 4,68
63
Tỷ lệ sát nhau 569 25 4,39
Theo dõi 815 bò trong tuổi sinh sản cho thấy có 619 bò được phối có
chửa, 569 bò đẻ trong năm (69,82%), 29 bò đẻ non, sảy thai (4,68%) và 25 bò bị
sát nhau (4,39%). Tham khảo một số nghiên cứu tương tự cho thấy:
Kết quả nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu và cs. (2001), trên đàn bò sữa
vùng Ba Vì cho biết tỷ lệ đẻ toàn đàn là 69,44%, trong đó tỷ lệ đẻ ở nhóm bò lai
F1 là 71,9%, F2 69,2% và F3 66,85%. Tỷ lệ đẻ non, sảy thai 4,06%, tỷ lệ sát nhau
20,31% (nhóm F1 là 16,56%, nhóm F3 là 23,53%).Trịnh Quang Phong và cs.
(2012) điều tra sinh sản trên đàn bò vùng Tản Lĩnh, Ba Vì và Gia Lâm, Hà Nội
cho biết tỷ lệ đẻ của hai vùng tương ứng là 61,22% và 62,31%. Nhóm tác giả cho
rằng tỷ lệ đẻ này là của những vùng mới phát triển chăn nuôi bò sữa và bò chủ
yếu là chuyển vùng từ TP. Hồ Chí Minh ra nên tỷ lệ đẻ thấp. Theo Phan Văn
Kiểm (1998), đàn bò sữa vùng Hà Nội có tỷ lệ đẻ toàn đàn là 60-65%, tỷ lệ đẻ
non, sảy thai là 5,86%, tỷ lệ sát nhau là 4,34% và nhận thấy các chỉ tiêu trên có
chiều hướng gia tăng ở nhóm bò có tỷ lệ máu lai HF cao và ở bò HF thuần.
Theo Sato et al. (1992a), đàn bò sinh sản của Nhật Bản bị sót nhau từ 5-
15% (nhiều trường hợp đẻ non từ 270-275 ngày). Nếu đàn bò có tỷ lệ sát nhau từ
15-20%, cần phải xem xét sự thiếu hụt dinh dưỡng, đặc biệt là yếu tố selen hoặc
vitamin A. Phần lớn bò sát nhau thường bị nhiễm trùng tử cung, sẽ dẫn đến giảm
năng suất sinh sản.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ đẻ toàn đàn cao hơn
(69,82%) và tỷ lệ đẻ non sảy thai và sát nhau thấp hơn các nghiên cứu trước
đây. Để có kết quả này phải khẳng định rằng trong những năm gần đây, các
điều kiện về dinh dưỡng, chăm sóc, vệ sinh thú y, quản lý kỹ thuật được nâng
lên. Đặc biệt là tỷ lệ sát nhau giảm từ 20,31% xuống còn 4,39%. Nguyên nhân
đó là do hơn 5 năm trở lại đây đàn bò ở Ba Vì đã được sử dụng hỗn hợp
khoáng KL-01, một sản phẩm chống sát nhau và bại liệt dùng cho bò ăn trước
khi đẻ 30-35 ngày đã làm giảm được tỷ lệ bại liệt và sát nhau trên đàn bò. Mặt
khác một lượng thức ăn tinh cho đàn bò được sử dụng từ các nhà máy chế
64
biến thức ăn thay cho việc tự phối trộn trước đây của người chăn nuôi.
3.1.7. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai có sự liên quan chặt chẽ với nhau, hệ số
phối giống là số lần phối để một bò cái có chửa. Hệ số bằng 1 là lý tưởng nhất
trong thụ tinh nhân tạo hoặc cho đực nhảy trực tiếp. Trong thực tế chăn nuôi khó
đạt được chỉ số này.
Hệ số phối giống cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như giống
bò, phát hiện động dục, thời gian phối giống, chất lượng tinh dịch, kỹ thuật
dẫn tinh, tình trạng sinh lý cơ thể gia súc, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, chế độ
chăm sóc nuôi dưỡng thời kỳ trước và sau khi động dục, khả năng hồi phục tử
cung sau đẻ…
Hệ số phối giống càng cao có nghĩa tỷ lệ thụ thai càng thấp và ảnh hưởng
tới khoảng cách giữa hai lứa đẻ, cũng như hiệu quả chăn nuôi sẽ thấp. Qua theo
dõi hệ số phối giống ở bò sữa Ba Vì, Hà Nội trong những năm qua chúng tôi thu
được kết quả trình bày tại bảng 3.7.
Bảng 3.7. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
Hệ số phối giống Tỷ lệ thụ thai Chỉ tiêu (Liều tinh) (%)
Tổng số lần phối 1.793 1.793
Số con có chửa 812 812
Kết quả 2,21 45,29
Bảng trên cho thấy hệ số phối giống của bò vùng Ba Vì, Hà Nội là 2,21
lần, tương ứng với tỷ lệ thụ thai lần đầu trung bình là 45,29%.
Theo Lê Xuân Cương (1993), đàn bò lai hướng sữa Miền Nam có hệ số
phối giống là 1,78 lần và trong điều kiện khí hậu nóng, dinh dưỡng không đủ đã
làm cho hệ số phối giống tăng từ 1,45 lên 1,58 và 2,25 lần và tỷ lệ thụ thai ở
nhóm bò F1 là 57,1% với nền thức ăn ổn định. Nguyễn Kim Ninh (1994), cho
biết hệ số phối giống đàn bò lai F1 thí nghiệm là 1,67 lần và tỷ lệ thụ thai là
65
58,03%. Nguyễn Quốc Đạt (1998), cho biết hệ số phối đậu thai của nhóm bò lai
hướng sữa gia tăng từ 1,68 đến 1,93 và 2,07 lần khi tỷ lệ máu HF trong con lai
tăng tương ứng 50,0; 75,0 và 87,5%. Theo kết quả nghiên cứu trên đàn bò sữa Ba
Vì của Tăng Xuân Lưu và cs. (2001), hệ số phối giống là 1,96 lần, trong đó nhóm
bò lai F1 là 1,76; F2 là 1,94 lần và F3 là 2,19 lần. Tỷ lệ thụ thai trung bình là
51,36%; nhóm bò F1 là 56,84%, F2 là 54,54% và F3 là 45,70%. Nguyễn Xuân
Trạch (2004b), khi nghiên cứu trên đàn bò lai khu vực Hà Nội và vùng phụ cận
cho thấy hệ số phối giống của nhóm bò F2, F3 tương ứng là 2,2 và 2,4 lần.
Các kết quả nghiên cứu phía nam cho biết: Chung Anh Dũng (2001), tỷ lệ
thụ thai ở bò 50% HF là 73,1%, bò 75% HF: 67%; 87,5% HF là 63,3%. Cũng
theo Chung Anh Dũng (2001), bò lai có máu HF từ 50,0% tăng lên đến 87,5% đã
làm tỷ lệ thụ thai từ 73,1% giảm xuống còn 63,3%. Theo nghiên cứu của Đinh
Văn Cải và cs. (2005) về ảnh hưởng của stress nhiệt đối với bò lai hướng sữa và
bò Hà Lan thuần (HF) nhập nội nuôi tại khu vực phía Nam, hệ số phối giống ở bò
lai mùa mưa là 1,48, mùa khô là 1,56 và ở HF tương ứng là 1,91 mùa mưa và
2,04 lần ở mùa khô và bò nuôi tại Thành Phố Hồ Chí Minh có hệ số phối giống
2,93. Khi nghiên cứu trên đàn bò HF thuần nhập nội, tác giả Nguyễn Quốc Đạt
và Nguyễn Thanh Bình (2006), cho kết quả là hệ số phối giống của bò HF nuôi ở
khu vực TP. Hồ Chí Minh là 1,93 lần. Theo Phạm Văn Giới và cs. (2007b), tỷ lệ
phối có chửa của tinh bò đực lai hướng sữa 3/4 và 7/8 HF tương ứng ở Miền Bắc
là 58,6% và Miền Nam là 61,6%. Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014) nghiên cứu
trên đàn bò sữa TP. Hồ Chí Minh cho thấy số lần phối giống đậu thai là 3,4 (2,6-
3,7) và chỉ có khoảng 25% số bò đậu thai ở lần gieo tinh đầu tiên và còn lại
35,7% số bò chưa mang thai sau 3 lần gieo tinh. Theo Chamberlain (1992), hệ số
phối giống của bò sữa nhiệt đới là 1,5 lần.
Trong chăn nuôi bò sữa nói riêng và chăn nuôi bò nói chung, một mong
muốn có được hệ số phối giống phải thấp. Hệ số phối giống thấp tức là đánh giá
yếu tố khách quan từ khâu chăm sóc nuôi dưỡng đàn bò tốt, phát hiện động dục
tốt và tay nghề người phối giống tốt. Theo chúng tôi sở dĩ hệ số phối giống cao,
tỷ lệ thụ thai của bò Ba Vì thấp là vì ảnh hưởng bởi kiến thức chăn nuôi của
66
người dân còn ít, họ chưa nắm rõ được đặc điểm sinh lý sinh sản của bò sữa, khả
năng phát hiện bò động dục còn yếu, dẫn đến thời điểm báo cho các dẫn tinh viên
cũng không chính xác. Thêm vào đó, đội ngũ dẫn tinh nhân tạo, tay nghề còn
chưa cao, chưa đồng bộ giữa các vùng cũng ảnh hưởng lớn đến hệ số phối giống
và tỷ lệ thụ thai ở đàn bò. Ngoài ra, những yếu tố như gen, stress, môi trường,
chế độ chăm sóc nuôi cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ thụ thai của đàn bò.
3.1.8. Hiện tượng chậm sinh (rối loạn sinh sản)
Hiện tượng chậm sinh, vô sinh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng
suất sinh sản, sản lượng sữa cũng như hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò sữa.
Chậm sinh, vô sinh do rất nhiều nguyên nhân.
Sự cung cấp đầy đủ năng lượng trong những tuần đầu sau khi đẻ (hoặc được dự
trữ) góp phần giúp cho buồng trứng hoạt động trở lại và tử cung phục hồi. Sự
thiếu hụt dinh dưỡng sau khi đẻ dẫn đến hiện tượng buồng trứng kém phát triển,
động dục thầm lặng, chậm rụng trứng hoặc xuất hiện u nang trứng. Mức protein
trong khẩu phần ăn của bò sữa và tỷ lệ thụ thai có mối tương quan với nhau.
Khi cung cấp thừa hoặc thiếu protein so với nhu cầu sẽ gây ra tình trạng chu kỳ
động dục không bình thường và tỷ lệ thụ thai thấp. Thiếu phospho cũng được
xem là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng vô sinh. Tỷ lệ
Ca/P mất cân đối gây viêm niêm mạc tử cung, làm cho bò động dục có rụng
trứng nhưng khả năng làm tổ kém. Thiếu Na và thiếu K có thể làm giảm khả
năng sinh sản vì gây ra chu kỳ động dục bất thường, viêm niêm mạc tử cung và
u nang buồng trứng. Vitamin A ảnh hưởng nhiều nhất đến khả năng sinh sản
của bò sữa; trong nhiều thí nghiệm người ta đã chứng minh được tầm quan
trọng của β caroten đối với sinh sản của bò sữa. Khi thiếu caroten gây nên hiện
tượng động dục thầm lặng, trì hoãn việc rụng trứng, u noãn nang, thể vàng tồn
lưu, sảy thai sớm và gây bệnh ỉa chảy ở bò. Ngoài ra yếu tố khí hậu thời tiết, vệ
sinh chuồng trại, bệnh tật, kỹ thuật dẫn tinh nhân tạo, chất lượng đực giống,
chất lượng tinh trùng đông lạnh, thời điểm phát hiện động dục, chất lượng tay
nghề kỹ thuật dẫn tinh… cũng ảnh hưởng đến hiện tượng chậm sinh ở bò sữa.
Theo FAO and IAEA (1993, trong điều kiện chăn nuôi phân tán ở các
67
nông hộ và các trang trại nhỏ, các chỉ tiêu sản xuất của đàn bò sữa rất khác nhau.
Đặc biệt, các chỉ tiêu về sinh sản thường thấp và không ổn định, biểu hiện như
tuổi động dục lần đầu cao (24-36 tháng), khoảng cách giữa hai lứa đẻ dài (14-18
tháng), tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục, bệnh sát nhau cao. Đối với bò sữa tại
châu Á, các chuyên gia cho rằng có 4 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng sinh
sản kém là:
- Stress do nhiệt độ và độ ẩm môi trường.
- Dinh dưỡng kém, đặc biệt là tình trạng thiếu năng lượng và protein trong
mùa khô.
- Chăm sóc gia súc kém, nhất là việc quản lý sinh sản và phối giống gia súc.
- Tình trạng bệnh tật gây ra do vi rus, vi khuẩn và ký sinh trùng
Khi tiến hành khám lâm sàng qua trực tràng và kết hợp với định lượng P4
để đánh giá khả năng hoạt động của cơ quan sinh dục thông qua tử cung và
buồng trứng của những bò có biểu hiện chậm sinh, chúng tôi thu được kết quả
như trong bảng 3.8.
Bảng 3.8. Kết quả phân loại hiện tượng chậm sinh
Tổng
Bò cái Cái tơ
Cái sinh sản
746
69
815
Tổng số
141
12
153
n (con)
18,90a
17,39b
18,78
Số chậm sinh
n (con)
76
(%)
%
68 48,22a
8 66,66b
49,68
n (con)
25
Buồng trứng không hoạt động
%
22 15,60a
3 25,00b
16,34
n (con)
36
Thể vàng tồng lưu
%
35 24,83a
1 8,34b
23,53
n (con)
9
Các trạng thái bệnh lý trên buồng trứng
U nang
%
9 6,39a
0 0,0b
5,88
n (con)
7
Viêm thân sừng tử cung, âm đạo
%
7 4,96a
0 0,0b
4,57
Ghi chú: Trong cùng hàng, những giá trị trung bình có mang chữ cái khác nhau là
sai khác có nghĩa thông kê với P<0,05.
68
Chai noãn nang
Kết quả theo dõi trên 815 cá thể với 746 bò sinh sản và 69 bò tơ ở tuổi
sinh sản chúng tôi thấy tỷ lệ chậm sinh trong toàn đàn là 18,78%, trong đó
nhóm bò tơ 17,39% (12 con), bò đã sinh sản là 18,90% (141 con), có sự sai
khác nhau (P<0,05). Trong số các nguyên nhân, thiểu năng buồng trứng
(buồng trứng kém hoạt động) chiếm 49,68% (nhóm bò cái tơ chiếm tỷ lệ cao
66,66%, nhóm bò sinh sản 48,22%, các chỉ tiêu ở hai nhóm bò có sự sai khác
nhau rõ rệt và có nghĩa thống kê (P<0,01)), thể vàng tồn lưu tổng đàn là
16,34%, u nang buồng trứng 23,53% tổng đàn, trong khi đó ở nhóm bò sinh
sản là 24,83%, ở bò cái tơ 8,34%. Như vậy, tỷ lệ chậm sinh ở hai đàn bò có
khác nhau nhưng không đáng kể. Nhóm bò tơ chủ yếu bị thiểu năng buồng trứng
và thể vàng tồn lưu, trong khi đó bò sinh sản có xu hướng u nang, viêm tử cung
và chai noãn nang.
Nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa tại Ba Vì, Tăng Xuân Lưu và cs.
(2001), cho biết tỷ lệ chậm sinh là 18,26% trong đó thể vàng tồn lưu ở nhóm bò
F2 là 29,69%, nhóm F1 là 13,46%. Trạng thái buồng trứng kém hoạt động ở bò tơ
nhóm F1 và F2 là 60,86% và 50,49%. Tỷ lệ u nang ở nhóm bò F2 và F1 tương
đương nhau và tương ứng 17,04 và 17,30% ở bò sinh sản, 3,96 và 3,26% ở bò tơ.
Trịnh Quang Phong và cs. (2012) khi nghiên cứu trên đàn bò sữa vùng Tản Lĩnh,
Ba Vì và Gia Lâm, Hà Nội cho biết bệnh u nang buồng trứng ở nhóm bò F2
16,70%, nhóm F3 là 3,12%, bò HF là 7,14%, thể vàng tồn lưu nhóm F2 là
20,80%, F3 là 25,0% và HF là 21,43%, Buồng trứng kém hoạt động của F2 là
62,5%, F3 là 71,88% và HF thuần là 71,43%.
Chung Anh Dũng và cs. (2013), khi nghiên cứu về bệnh sinh sản trên bò
sữa trong cả nước cho thấy có 41,7% đàn cái sinh sản bị các bệnh sinh sản khác
nhau (các tỉnh phía Bắc 32,2%, đồng bằng sông Cửu Long 48,9%), trong đó
chậm sinh 59,2%, phối giống nhiều lần 12%, sót nhau 11,7%, động dục không
theo chu kỳ 4,25%, trong đó bò chậm sinh sản là bò vắt sữa 5 tháng mà vẫn chưa
được thụ thai.
So sánh với các nghiên cứu trước đây, kết quả của chúng tôi có khác về tỷ
69
lệ nhưng vẫn cùng một xu hướng đó là bò tơ bị thiểu năng buồng trứng (buồng
trứng kém hoạt động) và thể vàng tồn lưu nhiều hơn, còn bò đã sinh sản chủ yếu
ảnh bởi viêm nhiễm đường sinh dục.
Đối với bò vùng Ba Vì, theo kết quả khám buồng trứng, bò chậm sinh
do buồng trứng kém hoạt động chiếm tỷ lệ cao ở bò tơ là 66,66%, ở bò đã sinh
sản là 48,22%. Theo chúng tôi sở dĩ bò tơ có tỷ lệ buồng trứng kém hoạt động
cao hơn các nhóm khác là do người chăn nuôi thường có thói quen là khi bò
chưa cho sữa thì chế độ chăm sóc nuôi dưỡng ít được quan tâm, đặc biệt là
thức ăn tinh vừa hạn chế về số lượng lại kém về chất lượng như tỷ lệ protein
thấp hơn (12-13%) so với bò đang khai thác sữa (16-18%), năng lượng trong
một đơn vị thức ăn cũng thấp (2300-2400 kclo/kg), tỷ lệ các chất khoáng bổ
sung đa, vi lượng và vitamin thường không ổn định thậm chí còn thiếu do thức
ăn tinh người chăn nuôi tự phối trộn. Điều này ảnh hưởng lớn đến phát triển
nang trứng.
Đối với bệnh u nang buồng trứng xẩy ra trên đàn bò đã sinh sản cao hơn là
do: khi bò đã ở giai đoạn khai thác sữa thì chế độ chăm sóc nuôi dưỡng bằng đầu
tư thức ăn tinh dàu protein và năng lượng cao và được quan tâm hơn, thậm chí
lượng thức ăn tinh chiếm đến 40-45% trong khẩu phần ăn hàng ngày. Sự mất cân
đối về tỷ lệ tinh/thô hàng ngày đã làm ảnh hưởng đến khả năng điều tiết hormone
sinh sản nhất là hormone LH và FSH trong chu kỳ không cân đối dẫn đến làm
cho bò động dục mà không rụng trứng.
Theo Sato et al. (1992a), ở bò khai thác sữa thường bị stress nhất là
trong mùa hè cũng làm cho quá trình chế tiết bất bình thường của hormone
gonadotropin từ tuyến yên như tiết quá thừa FSH và tiết không đủ LH. Do
stress một lượng lớn ACTH (hormone adrenocorticotropic) và hormone vỏ
thượng thận (cortisol) được tiết ra từ tuyến yên và miền vỏ thượng thận, trong
khi các thể tiếp nhận FSH, LH và estrogen giảm trong các nang trứng có u
nang. Hơn nữa, quá trình chế tiết progesterone từ tuyến thượng thận tăng lên
đã ức chế quá trình chếtiết GnRH, LH và FSH từ hypothalamus và tuyến yên
70
và làm giảm hàm lượng của chúng trong máu. Một sóng rụng trứng của LH và
FSH không xuất hiện tại thời điểm mong đợi ở chu kỳ sau, dẫn đến hình thành
u nang nang trứng.
Nhìn tổng thể về chăn nuôi nông hộ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng của
các hộ gia đình rất khác nhau, chế độ dinh dưỡng chưa đầy đủ và thiếu cân đối
giữa tỷ lệ protein, năng lượng, khoáng đa lượng, vi lượng… trong khẩu phần ăn
hàng ngày, đặc biệt về mùa đông thức ăn xanh thô còn thiếu. Tình trạng vắt sữa
kéo dài, dẫn đến hiện tượng bò bị suy kiệt, buồng trứng chậm phát triển. Hơn
nữa do chuồng nuôi chật, ẩm độ cao, nuôi nhốt ít vận động… đã làm tăng tỷ lệ
bệnh sản khoa, bệnh thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng, viêm nhiễm đường
sinh dục...
3.2. Đánh giá tình trạng hoạt động của buồng trứng bò sau khi đẻ
3.2.1. Động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau khi đẻ
Để có cơ sở cho việc điều trị bò chậm sinh có hiệu quả chúng tôi tiến hành
phân loại, đánh giá hoạt động của buồng trứng trên những bò được gọi là “chậm
sinh” sau đẻ 120 ngày.
Bò có hoạt động sinh lý sinh sản bình thường là bò có động dục trước 35
ngày sau khi đẻ. Bò được gọi là chậm động dục thể 1 là bò có động dục trong
khoảng thời gian từ 36-60 ngày sau khi đẻ. Bò chậm động dục thể 2 là bò có
động dục trong khoảng thời gian trên 61 ngày sau khi đẻ (Gautam et al., 2010).
Tuy nhiên, thực tế ở Ba Vì, Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, bò được coi
là chậm động dục nếu sau khi bò đẻ từ 90-120 trở lên vẫn chưa động dục hoặc
phối 3 lần trở lên chưa được. Sở dĩ có sự phân loại như vậy là vì trong khoảng
90 ngày sau đẻ bò đang trong thời kì cho sữa nhiều nhất (đỉnh sữa), mọi hoạt
động sinh lý đều tập trung cho việc tiết sữa, trong thời gian này bò ít động dục
và nếu động dục thì khả năng đậu thai cũng kém. Theo Hoàng Kim Giao và cs.
(1997), thời gian động dục trở lại sau đẻ khoảng 90-120 ngày, dao động 30-180
ngày tùy thuộc vào chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và hộ lý sau khi đẻ.
Kết quả theo dõi động dục trở lại sau đẻ của đàn bò Ba Vì, Hà Nội được
71
thể hiện ở bảng 3.9.
Bảng 3.9. Kết quả theo dõi động dục trở lại của bò sữa
đến 120 ngày sau khi đẻ
Chỉ tiêu Số lượng (con)
Tổng số bò theo dõi n (con) 764
Số bò (con) 621 Động dục Tỷ lệ (%) 83,25
Số bò (con) 125
Không động dục Tỷ lệ (%) 16,75
Trong số 746 bò được điều tra, theo dõi, có 621 bò (đạt 83,25%) động
dục lại sau đẻ trong vòng 120 ngày, 125 bò (chiếm 16,75%) không có biểu hiện
động dục.
Theo Bilego et al. (2013), bò đẻ sau 100 ngày có 75,1% được thụ tinh
nhân tạo còn lại là không biểu hiện động dục. Tỷ lệ bò không động dục lại sau
đẻ ở các tài liệu nước ngoài chiếm khoảng 50-67% (Isobe, 2004). Theo Gautam
et al. (2010), tỷ lệ bò không động dục lại sau đẻ chiếm khoảng 40,0% (tuy
nhiên, tác giả chỉ tính chậm động dục sau đẻ là 60 ngày). Theo Washburn et al.
(2002), tỷ lệ phát hiện bò động dục và thụ tinh lại sau đẻ ở bò sữa hiện nay
giảm dần và theo Crowe (2008), hiện tượng chậm động dục ở bò sữa ngày càng
gia tăng ở các trang trại chăn nuôi bò sữa. Lucy et al. (2001), Pursley et al.
(1997), Royal et al. (2000), Washbum et al. (2002) đều cho rằng tỷ lệ phối
giống lần đầu thấp chỉ khoảng từ 20-40%.
Theo đánh giá của Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014), trên đàn bò TP. Hồ
Chí Minh, số bò không động dục lại sau 60 ngày đẻ là 11,7%, số bò động dục
được phối giống trên 80 ngày sau đẻ là 27,4% và khoảng cách từ sau đẻ đến phối
giống có chửa là 209,9 ngày.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên đàn bò sữa tại Ba Vì Hà
Nội về tỷ lệ chậm sinh so với “khái niệm” của nước ngoài thì tỷ lệ này là lớn, so
72
với các nghiên cứu ở trong nước thì cũng là một con số cao. Nguyên nhân gây
nên chậm động dục lại sau khi đẻ ở bò sữa Ba Vì sau 120 ngày cao (16,75%),
theo chúng tôi là do chế độ chăm sóc nuôi dưỡng bò trước khi đẻ không đảm
bảo, bò gầy - điểm thể trạng chỉ đạt dưới 3.5, cộng thêm quy luật tiết sữa cao
của bò lai ở Việt Nam nói chung và Ba Vì nói riêng lại tập trung vào tháng thứ
3-4 sau đẻ, trong khi đó mức độ dinh dưỡng cung cấp cho bò không đủ nên
dẫn đến bò đã gầy trước khi đẻ lại càng gầy thêm, dinh dưỡng chỉ đủ cung cấp
cho sản xuất sữa, không đủ dành cho sự phát triển nang trứng.
Theo Sato et al. (1992a), sự thiếu dinh dưỡng, stress và vắt sữa là
những nguyên nhân thứ phát dẫn đến sự rối loạn sinh sản và chậm động dục
lại sau khi đẻ.
3.2.2. Nguyên nhân gây chậm động dục sau 120 ngày sau đẻ ở buồng trứng
Với 125 bò sữa sau khi đẻ 120 ngày không có biểu hiện động dục hoặc
động dục không rõ ràng, chúng tối tiến hành khám buồng trứng qua trực tràng,
hai lần liên tiếp nhau (cách nhau từ 7 đến 10 ngày) để xác định bệnh ở buồng
trứng thông qua là thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng hay buồng trứng không
hoạt động. Kết quả khám lâm sàng được thể hiện ở bảng 3.10.
Bảng 3.10. Các nguyên nhân trên buồng trứng gây chậm động dục ở bò sữa
Tổng bò n (con) 125
Số bò (n) 68 Không hoạt động Tỷ lệ (%) 54,40
Số bò (n) 35 U nang Các trạng thái buồng trứng Tỷ lệ (%) 28,00
Số bò (n) 22 Thể vàng tồn lưu Tỷ lệ (%) 17,60
Qua thực tế chúng tôi thấy: buồng trứng không hoạt động thường xuất
hiện ở những bò có chế độ dinh dưỡng kém, đặc biệt là thức ăn thiếu năng
lượng. Bò không động dục thường có buồng trứng dẹt hoặc nhẵn, không có
thể vàng và không có nang trứng. Kết quả theo dõi của chúng tôi cho thấy
73
buồng trứng không hoạt động xuất hiện khá cao ở những bò không động dục
(68 bò chiếm 54,40%). Trên thực tế, buồng trứng kém hoạt động có thể ở một
hoặc cả hai bên buồng trứng với kích thước buồng trứng nhỏ (bằng hạt ngô,
hạt dẻ), bề mặt buồng trứng trơn nhẵn. Cũng có khi buồng trứng to nhưng trên
bề mặt không có nang trứng (Ảnh 3.2).
Ảnh 3.2. Buồng trứng kém hoạt động
Kết quả cũng cho thấy, tỷ lệ u nang buồng trứng bò chiếm 28,0%, trong
trường hợp này buồng trứng to hơn bình thường, trên bề mặt buồng trứng nổi
lên những “khối” u, khối u này thường mềm hơn so với khi sờ vào thể vàng,
cứng hơn so với khi sờ vào nang trứng trong chu kỳ (Ảnh 3.3).
Ảnh 3.3. U nang nang trứng và thể vàng cùng tồn tại trên buồng trứng
(nang bên trái và thể vàng bên phải)
Trên những buồng trứng bị u nang, những nang trứng không rụng mà lưu
lại trên buồng trứng, chúng thường có đường kính lớn hơn 2,5cm. Rối loạn này
74
thường thấy xuất hiện trên những bò có sản lượng sữa cao. Bò có u nang buồng
trứng đa số có biểu hiện động dục thường xuyên hoặc động dục bất thường không
theo chu kỳ, thời gian biểu hiện động dục kéo dài, một số khác lại không động dục.
Theo Sato et al. (1992a), có hai loại u nang buồng trứng: u nang nang
trứng và u nang thể vàng. U nang nang trứng gồm một u nang hoặc nhiều hơn và
có vách nang trứng. U nang thể vàng thường có một hoặc nhiều u nang với vách
dày hơn so với vách của u nang nang trứng. U nang nang trứng cần được phân
biệt với thể vàng u nang. Thể vàng u nang được coi là hoàn toàn bình thường nếu
chu kỳ động dục bình thường.
Ảnh 3.4. U nang thể vàng
Có thể nói rằng, trong các nguyên nhân gây nên hiện tượng chậm động
dục, thể vàng tồn lưu chiếm tỷ lệ thấp nhất 17,60% (Ảnh 3.5).
Ảnh 3.5. Thể vàng sinh lý (bên trái), thể vàng tồn lưu (bên phải)
Trong quá trình thăm khám chúng tôi nhận thấy thông thường thể vàng
chỉ xuất hiện trên một buồng trứng, tuy nhiên cũng có trường hợp trên một buồng
75
trứng có mặt cả thể vàng tồn lưu và nang trứng (Ảnh 3.3).
Thể vàng tồn lưu là thể vàng không thoái hóa và chu kỳ động dục
không được biểu hiện. Thể vàng tồn lưu thường xuất hiện ở những bò có sừng
tử cung không bình thường, có thể là viêm nội mạc tử cung, viêm tử cung
dạng cata hoặc tử cung có chứa dịch không bình thường, có thể là dịch mủ
viêm, xuất hiện trong trường hợp phôi chết, thai chết lưu, u nhầy (Sato et al.,
1992a). Chất PG làm thoái hóa thể vàng và đến 80% chất này được tiết ra từ
niêm mạc thân sừng tử cung. Vì vậy khi viêm thân, sừng tử cung sẽ làm
ngưng trệ quá trình phân tiết PG và như vậy bò càng bị viêm tử cung thì càng
dễ bị tồn lưu thể vàng.
Hình 3.1 cho thấy hiện tượng chậm động dục sau đẻ là do bệnh ở buồng
trứng, trong đó buồng trứng không hoạt động là nguyên nhân chính.
Theo Sato et al. (1992a), những nguyên nhân chủ yếu gây hiện tượng rối
loạn sinh sản, chậm động dục bao gồm: độ tuổi, hệ nội tiết, hệ thần kinh, mùa vụ,
lứa đẻ, điểm thể trạng và dinh dưỡng, chăm sóc.
Hiện tượng bò sữa chậm động dục trở lại sau khi đẻ 90-120 ngày có
nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do trong thời gian cho sữa nhiều nhất
(đạt đỉnh sữa), hầu hết lượng dinh dưỡng ăn vào đều tập trung cho việc tiết
sữa, vì thế trong thời gian này bò ít động dục và nếu có động dục thì khả năng
đậu thai kém.
76
Hình 3.1. Các nguyên nhân của buồng trứng gây chậm động dục
Cũng theo Sato et al. (1992a), khi bò trong giai đoạn cao sữa, hormone
prolactin phân tiết cao làm ức chế sự tiết hormone GnRH, vì vậy bò sữa khó
lên giống trong giai đoạn này.
Theo Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997), thời gian động
dục trở lại sau đẻ khoảng 90-120, ngày dao động 30-180 ngày, phụ thuộc vào
chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và hộ lý sau khi đẻ. Cần thiết phải tiến hành
kiểm tra khả năng sinh sản thông qua khám cơ quan sinh dục, buồng trứng sau
khi đẻ để quan tâm, chăm sóc, xử lý nhanh và kịp thời các nguyên nhân gây
chậm động dục. Tuy nhiên, nhiều dẫn tinh viên không chú ý tìm nguyên nhân
đối với những trường hợp bò cái được phối giống mà không thụ thai, đây cũng
là nguyên nhân làm hệ số phối giống cao.
3.2.3. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng sau đẻ
Bò sinh sản quanh năm nhưng về mùa nóng khả năng điều tiết thải nhiệt
kém, đồng thời chế độ chăm sóc nuôi dưỡng bò chưa tốt nên sự hồi phục sau khi
đẻ chậm, thời gian động dục trở lại kéo dài, thậm chí kéo dài cả năm. Ngay cả
một số nghiên cứu về gây rụng trứng cũng cho thấy mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt.
Yếu tố thời tiết tác động nhiều đến các hoạt động sinh lý của cơ thể trong
đó có cả hoạt động của buồng trứng. Miền Bắc nước ta có thời tiết thay đổi bốn
mùa, vì vậy để đánh giá ảnh hưởng của từng thời vụ đến khả năng sinh sản cũng
như chức năng của buồng trứng chúng tôi tiến hành kiểm tra tình trạng hoạt động
của buồng trứng trong cả bốn mùa. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.11.
Kết quả bảng 3.11 cho thấy rõ xu hướng bệnh sinh sản tăng cao trong mùa
xuân, hè của đàn bò Ba Vì, Hà Nội.
Theo Shea et al. (1981), ở Canada vào tháng 1, 2 và 3 (mùa đông), số
lượng thể vàng do gây siêu bài noãn ít hơn so với các tháng mùa thu khoảng
20%, tỷ lệ phôi thu được cũng giảm từ 90% xuống 50% và khả năng cấy truyền
từ 60% xuống còn 30%. Kết quả của Chung Anh Dũng và cs. (2013) khi nghiên
cứu về bệnh sinh sản trên bò sữa trong cả nước cũng cho thấy về mùa mưa
77
(mùa hè) tỷ lệ bò bị bệnh sinh sản cao 44,3% và mùa khô giảm còn 39,1%.
Bảng 3.11. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng
Các trạng thái buồng trứng
Không hoạt động U nang Thể vàng tồn lưu Mùa vụ
Số bò (con) Tỷ lệ (%) Số bò (con) Tỷ lệ (%) Số bò (con) Tỷ lệ (%)
Xuân 20 13 7
Hè 23 10 8
Thu 9 7 4
Đông 16 29,41a 33,82a 13,23b 23,52b 5 37,14c 28,57 20,00 14,28d 3 31,81e 36,36e 18,18f 13,63f
Ghi chú: Trong cùng cột, các giá trị trung bình có mang những chữ cái khác nhau là sai khác ở
mức P<0,05. Mùa xuân từ tháng 2-4, mùa hè từ tháng 5-9, mùa thu từ tháng 10-11 và mùa
đông từ tháng 12-1năm sau.
Tổng số 68 100 35 100 22 100
Chúng ta biết rằng u nang nang trứng ở bò là do sự chế tiết bất bình
thường của hormone gonadotropin từ tuyến yên (thừa FSH và không đủ LH). Sự
bất bình thường này do nhiều yếu tố gây nên nhưng theo chúng tôi có lẽ do bò bị
thiếu dinh dưỡng (mùa xuân thiếu thức ăn thô xanh và mùa hè nhiệt độ cao, bò bị
stress nhiệt dẫn đến không thu nhận được nhiều thức ăn). Chính vì vậy, vào mùa
xuân và hè tỷ lệ bò bị u nang buồng trứng cao hơn các mùa khác trong năm.
Theo Sato et al. (1992a), sự hình thành u nang là do bò bị stress, do một
lượng lớn hormone adrenocorticotropic (ACTH) và hormone vỏ thượng thận
(cortisol) được tiết ra từ tuyến yên và miền vỏ thượng thận, trong khi các thể
tiếp nhận FSH, LH và estrogen giảm trong các nang trứng có u nang. Hơn
nữa, quá trình chế tiết GnRH, LH, FSH từ hypothalamus và tuyến yên làm
giảm hàm lượng của chúng trong máu. Một sóng rụng trứng của LH và FSH
không xuất hiện tại thời điểm mong đợi ở chu kỳ sau dẫn đến hình thành u
nang nang trứng.
Kết quả nghiên cứu này cho biết, thể vàng tồn lưu ở buồng trứng xảy ra
cao nhất vào mùa hè với 8 bò chiếm 36,6%, mùa đông tỷ lệ này giảm hẳn chỉ còn
78
13,63% (P<0,05).
Hình 3.2. Ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng trứng
Bệnh thể vàng tồn lưu thường mắc tỷ lệ cao vào mùa hè và mùa xuân có
thể do bò sữa thường đẻ nhiều vào mùa thu và đầu mùa đông, sang mùa xuân đến
đầu hè tỷ lệ bò động dục có rụng trứng cao nhưng gặp phải một số yếu tố bất lợi
về nhiệt độ và thức ăn làm ảnh hưởng… Độ ẩm cao cộng với thời tiết nóng, vi
khuẩn gây bệnh ngoài môi trường hoạt động mạnh, bò hay nằm nơi ẩm ướt nên
tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cao gây ảnh hưởng lớn đến việc phân tiết
prostaglandin để làm thoái hóa thể vàng trong chu kỳ sinh dục hoặc làm chết
phôi giai đoạn đầu…
Bò sữa có nguồn gốc từ vùng ôn đới, do vậy mùa hè (nhiệt độ nóng) và mùa
xuân (ẩm độ cao) là thời điểm không thuận lợi, nếu bò đẻ vào thời gian này,
ngoài việc hồi phục cơ quan sinh dục sau khi đẻ, gia súc còn phải tập trung năng
lượng để đáp ứng với sự thay đổi của thời tiết. Khi đó, sự điều tiết của thần kinh
thể dịch không còn ưu tiên nhiều cho buồng trứng, quá trình điều tiết hormone
mất sự nhịp nhàng vốn có dẫn đến chức năng buồng trứng bị ảnh hưởng. Chính
vì thế mùa này bò dễ mắc bệnh trên buồng trứng như thể vàng tồn lưu, u nang
buồng trứng và buồng trứng không hoạt động. Mùa thu, mùa đông có khí hậu
mát mẻ và lạnh hơn, do đó bò sữa dễ thích nghi, các hoạt động sinh lý ở bò ổn
79
định hơn, buồng trứng cũng hoạt động bình thường hơn.
Như vậy, bệnh ở buồng trứng xảy ra cả bốn mùa xuân, hè, thu và đông
(Hình 3.2). Tuy nhiên, mùa xuân và mùa hè có tỷ lệ các bệnh về buồng trứng cao
hơn hẳn mùa thu và mùa đông. Mặt khác vùng Ba Vì do chăn nuôi nông hộ nên
việc dự trữ đảm bảo thức ăn xanh thô cho bò vào mùa đông thường là thiếu về số
lượng và kém về chất lượng, nên ảnh hưởng đến sức khỏe của đàn bò. Mùa đông
thì thiếu thức ăn xanh thô, bước sang mùa xuân thì cỏ non, hàm lượng nước cao,
ẩm độ môi trường lớn ảnh hưởng đến tỉ lệ tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng
của bò nên cũng ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của bò.
3.2.4. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng
Những bò cái tơ hoặc những bò mới đẻ 1-2 lứa thường động dục rõ ràng
và tỷ lệ có chửa khi được thụ tinh nhân tạo thường cao. Trong khi đó, những bò
đã đẻ nhiều khả năng có chửa thấp, thường phải thụ tinh nhiều lần mới có chửa.
Để đánh giá được mức độ ảnh hưởng của lứa đẻ đến khả năng sinh sản của bò,
chúng tôi tiến hành theo dõi trạng thái của buồng trứng theo từng lứa đẻ. Kết quả
được thể hiện ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng đến hoạt động của buồng trứng
Các trạng thái buồng trứng
U nang buồng trứng Thể vàng tồn lưu Lứa đẻ Buồng trứng không hoạt động
Số bò (n) Tỷ lệ (%) Số bò (n) Tỷ lệ (%) Số bò (n) Tỷ lệ (%)
1 5 7,35 2 5,71 2 9,09
2 5 7,35 4 11,42 4 18,18
3 11 16,17 4 11,42 3 13,63
4 11 16,17 7 20,00 4 18,18
5 10 14,70 6 17,14 3 13,63
6 12 17,64 7 20,00 4 18,18
>6 14 20,58 5 14,28 2 9,09
Tổng 68 100 35 100 22 100
Nghiên cứu đã theo dõi 125 bò cái sinh sản từ lứa đẻ thứ nhất nhất đến sau
lứa đẻ thứ 6, kết quả cho thấy những bò đẻ lứa thứ nhất và lứa thứ hai có tỷ lệ bị
80
bệnh về buồng trứng thấp nhất (buồng trứng không hoạt động chỉ chiếm 7,35%, u
nang buồng trứng 5,71-11,42% và thể vàng tồn lưu là 9,09%). Các bệnh của
buồng trứng tỷ lệ thuận theo lứa đẻ, có nghĩa là càng những lứa đẻ sau thì bệnh ở
buồng trứng càng có tỷ lệ cao.
Từ lứa đẻ 2 đến lứa 6, bò mắc bệnh thể vàng tồn lưu tăng từ 13,63% đến
18,18%, sau đó giảm dần ở sau lứa đẻ 6 (9,09%). Buồng trứng không hoạt động
cũng tăng theo lứa đẻ của bò, lứa đẻ thứ nhất chỉ có 5,35% sau đó tăng dần đến
20,58% ở sau lứa đẻ 6. Bệnh u nang buồng trứng cũng có chiều hướng gia tăng
từ lứa đẻ 2 đến lứa đẻ 6 (11,42 đến 14,28% bảng 13.2 và hình 3.3).
Hiện tượng bệnh thể vàng tồn lưu tăng dần theo lứa đẻ rất có thể do bò
mang thai nhiều lần nên trương lực cơ tử cung giảm, bò đẻ khó nên thường bị
can thiệp mạnh trong lúc đẻ, thậm chí cả người nuôi bò cũng tự ý giúp bò đẻ
nhưng vệ sinh không đúng phương pháp dẫn tới bò bị viêm tử cung sau khi đẻ,
làm ảnh hưởng đến sự phân tiết PG ở tử cung, yếu tố làm tiêu biến thể vàng,
dẫn tới thể vàng tồn lưu trên buồng trứng và dẫn đến bò không có biểu hiện
động dục.
25
20
15 Buồng trứng không hoạt động U nang
10 Thể vàng
5
1
2
3
4
5
6
>6
0
Hình 3.3. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng
Đối với bệnh u nang buồng trứng, sự tăng cao ở những bò đẻ nhiều lứa là do
năng suất sữa tăng, người chăn nuôi tăng lượng thức ăn tinh trong khẩu phần làm
81
ảnh hưởng đến sự chế tiết hormone FSH, LH dẫn đến u nang buồng trứng.
3.2.5. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng buồng trứng bò sữa sau đẻ
Theo nhiều nhà khoa học, hầu hết bệnh buồng trứng xuất phát từ dinh
dưỡng. Khẩu phần thức ăn không được cân đối hợp lý thường dẫn đến các bệnh
về buồng trứng như thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng và buồng trứng không
hoạt động. Đánh giá mức độ dinh dưỡng của bò được thể hiện thông qua điểm
thể trạng. Bò quá béo hay quá gầy đều ảnh hưởng rất rõ tới chức năng sinh lý của
buồng trứng. Bảng 3.13 và hình 3.4 thể hiện mối tương quan giữa thể trạng của
bò với các bệnh buồng trứng.
Theo phương pháp đánh giá thể trạng bò của Nhật Bản (Body Condition
Scoring In Dairy Cattle - BCS), bò có điểm thể trạng trong khoảng 3,5-4,5 là
bò béo, trong đó số bò quá béo (3,75-4,50) có tỷ lệ mắc bệnh buồng trứng cao
hơn. Kết quả bảng 3.13 cho thấy bò béo hay quá béo (3,5-4,5) có mắc bệnh
buồng trứng không hoạt động, u nang buồng trứng và thể vàng tồn lưu lần lượt
là 63,23%, 57,14% và 59,09%, cao hơn rất nhiều so với bò có điểm thể trạng
thấp hơn.
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng hoạt động buồng trứng
Các trạng thái buồng trứng
Không hoạt động U nang Thể vàng tồn lưu Thể trạng bò
Số bò (n) Tỷ lệ (%) Số bò (n) Tỷ lệ (%) Số bò (n) Tỷ lệ (%)
16 23,52 13 37,14 1 4,54 Gầy, quá gầy (BCS: 2,00-2,50)
9 13,23 2 5,71 8 36,36 Bình thường (BCS: 2,75-3,25)
43 63,23 20 57,14 13 59,09 Béo, quá béo (BCS: 3,50-4,50)
68 100 35 100 22 100 Tổng số
Bò gầy hay quá gầy cũng có tỷ lệ mắc bệnh u nang và buồng trứng không
hoạt động tương đối cao (37,14% và 23,52% tương ứng). Tuy nhiên, bò có điểm thể
82
trạng bình thường cũng không tránh khỏi bệnh thể vàng tồn lưu (36,36%).
Hình 3.4. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng buồng trứng
Kết quả nghiên cứu cho thấy bò bị bệnh ở buồng trứng chủ yếu xảy ra ở
những nhóm bò gầy hay quá gầy và nhóm bò béo hay quá béo.
Theo kết quả nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu và cs. (2003a) khi nghiên
cứu về hàm lượng hormone trên bò chậm sinh cho thấy bò có điểm thể trạng 3,5-
3,75 thường bị bệnh u thể vàng chiếm 38%, u nang buồng trứng 25% và bò có
điểm thể trạng ≥ 4,0 bị bệnh u thể vàng là 32,0%, u nang buồng trứng 25% và
buồng trứng kém hoạt động 4,0%. Những bò có thể vàng tồn lưu thì hàm lượng
progestrone giao động mức1,48-1,62 ng/ml, còn u nang buồng trứng hàm lượng
đó là 0,45-0,56 ng/ml. Theo Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014) qua nghiên cứu tình
hình sinh sản của bò sữa khu vực thành phố Hồ Chí Minh cho thấy trong số
những bò có buồng trứng kém hoạt động, nhóm có hàm lượng progesterone dưới
0,5 ng/ml, điểm thể trạng ở mức 2,7 chiếm 26,25%, nhóm có progesterone 0,5-
0,99 ng/ml ở mức thể trạng 3,1 chiếm 17,5%, còn lại là nhóm có thể vàng hoạt
động với progesterone lớn hơn 1,0 ng/ml, điểm thể trạng 2,9 chiếm tỷ lệ 56,25%.
Bò có thể trạng béo hay quá béo lại có tỷ lệ mắc bệnh thể vàng và u nang
83
buồng trứng cao theo chúng tôi có thể do hormone thường tan trong mỡ nên đối
với bò béo khi hormone được tiết ra sẽ bị mỡ “hấp thụ” một phần, làm giảm
lượng hormone đi đến đích dẫn đến không đủ để làm cho trứng rụng (LH) và teo
biến thể vàng (PG).
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi và một số tác giả khác cho chúng
ta thấy rằng trong chăn nuôi bò sữa cần thiết phải điều chỉnh khẩu phần ăn hợp lý
để gia súc không béo quá hay gầy quá, cần giữ mức thể trạng từ 3,0-3,75 là tốt
cho sinh sản. Mặc dù với thể trạng béo gia súc dễ bị thể vàng tồn lưu nhưng lại
hạn chế tối đa hiện tượng buồng trứng kém hoạt động.
3.3. Định lượng progesterone phát hiện bệnh buồng trứng và chẩn đoán thai
sớm nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa
Ở hầu hết các nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển, ngoài việc chẩn
đoán bệnh sinh sản qua khám trực tràng, phương pháp định lượng progesterone
bằng phản ứng ELISA luôn được áp dụng để biết được chính xác hoạt động chức
năng buồng trứng.
Progesterone do thể vàng của buồng trứng tiết ra từ ngày thứ 3, thứ 4 sau
khi rụng trứng và duy trì đến ngày 18-19 của chu kỳ. Ở ngày cuối của chu kỳ,
niêm mạc tử cung tiết ra PGF2α có tác dụng làm tiêu biến thể vàng, sau khi thể
vàng tiêu biến, hàm lượng progesterone trong máu thấp nhất và tuyến yên tiết ra
FSH để nang trứng chín, sau đó hàm lượng LH tăng cao và gây rụng trứng. Như
vậy, nếu định lượng hàm lượng progesterone trong máu hoặc trong sữa chúng ta
có thể biết chu kỳ của bò đang ở giai đoạn nào (giai đoạn thể vàng hay giai
đoạn nang trứng), thậm chí biết được bò đang mang thai hay đang bị bệnh thể
vàng tồn lưu.
Như kết quả đã phân tích ở trên, đánh giá và phân loại qua khám lâm sàng
buồng trứng ở bảng 3.11, tổng số 125 bò sữa được theo dõi sau 120 ngày không có
biểu hiện động dục hoặc động dục không rõ ràng, chúng tôi đã xác định nguyên
nhân gây chậm sinh là thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng và buồng trứng không
hoạt động. Trong số đó buồng trứng không hoạt động xuất hiện với tỷ lệ là 54,40%
84
(68 bò). Trên thực tế, buồng trứng kém hoặc không hoạt động có thể là một hoặc cả
hai buồng trứng với kích thước nhỏ (bằng hạt ngô, hạt đậu), trơn nhẵn. Cũng có khi
buồng trứng to nhưng trên bề mặt không xuất hiện nang trứng cũng như thể vàng.
Số bò bị u nang buồng trứng là 35 con, chiếm 28,0%, các trường hợp này
buồng trứng to hơn bình thường (bằng quả bóng bàn), trên bề mặt nổi lên những
bọc nước to “bùng nhùng”, bọc này thường mềm hơn so với khi sờ vào thể vàng
nhưng cứng hơn khi sờ vào nang trứng. Có thể nói rằng trong các nguyên nhân
gây nên hiện tượng chậm động dục, số con bị thể vàng tồn lưu có tỷ lệ thấp nhất
với 22 bò (chiếm 17,60%). Trong quá trình thăm khám chúng tôi nhận thấy thông
thường thể vàng chỉ xuất hiện trên một buồng trứng, tuy nhiên cũng có trường
hợp bên cạnh thể vàng tồn lưu vẫn tồn tại nang trứng.
3.3.1. Kết quả chẩn đoán nguyên nhân chậm sinh bằng khám qua trực tràng
Kết quả đánh giá, phân loại hoạt động của buồng trứng bằng khám lâm
sàng qua trực tràng (với hai lần khám cách nhau 7-10 ngày) được thể hiện ở
bảng 3.14.
Qua kiểm tra 53 bò chậm động dục có 28 trường hợp buồng trứng không
hoạt động, chiếm tỷ lệ cao nhất (52,83%). Sau đó phát hiện được 20 trường hợp
thể vàng tồn lưu với tỷ lệ 37,74% và thấp nhất là 5 trường hợp bị u nang buồng
trứng, chiếm 9,43%.
Bảng 3.14. Chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng bằng khám qua trực tràng
Trạng thái buồng trứng Số bò (con) Tỷ lệ (%)
Thể vàng 20 37,74
U nang 5 9,43
Buồng trứng không hoạt động 28 52,83
Tổng 53 100
Như vậy, bò bị chậm động dục sau đẻ là do bị bệnh ở buồng trứng như thể
vàng tồn lưu, u nang buồng trứng và buồng trứng không hoạt động nhưng tỷ lệ
85
cao nhất là buồng trứng không hoạt động.
3.3.2. Kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng định lượng progesterone
trong sữa
Để đánh giá chính xác các nguyên nhân gây chậm sinh do hoạt động
của buồng trứng, chúng tôi tiến hành phân tích (định lượng) hàm lượng
hormone progesterone của những bò này. Tuy nhiên, việc xác định
progesterone trong thực tế sản xuất không phải lúc nào cũng thực hiện được
mà công việc thăm khám buồng trứng qua trực tràng vẫn là phương pháp được
áp dụng nhiều nhất.
Để kiểm chứng cho kết quả khám lâm sàng và nâng cao kết quả khám
lâm sàng, cần định lượng hormone progesterone trong phòng thí nghiệm.
Cũng để xác định chính xác bệnh của buồng trứng bằng định lượng progesterone,
chúng tôi tiếp tục lấy mẫu sữa (cứ 5 ngày một lần và liên tục trong vòng 45 ngày)
của 53 bò không động dục trong vòng 120 ngày sau đẻ đã được khám lâm sàng
trước đó và tiến hành định lượng progesterone trong phòng thí nghiệm. Kết quả
được trình bày trong bảng 3.15.
Bảng 3.15. Kết quả định lượng progesterone trong sữa
của bò chậm động dục trong vòng 120 ngày
Trạng thái buồng trứng Số con Tỷ lệ (%) Hàm lượng progesterone (ng/ml)
Thể vàng tồn lưu 16 Liên tục ≥ 5,0
U nang 7 30,19a 13,20b Lên xuống
Buồng trứng kém hoạt động 30 56,60c Liên tục nhỏ < 5,0
Tổng số 53 100
(Pa,b,c<0,05)
Trong số 53 bò không động dục, sau khi định lượng progesterone và so
sánh với biến động progesterone ở phần phương pháp tại mục 2.1. 3.4, chúng tôi
phát hiện có 30 trường hợp bò có buồng trứng kém hoạt động, chiếm tỷ lệ cao
86
nhất (56,60%). Bò có buồng trứng tồn lưu thể vàng là 16 trường hợp, chiếm
30,19% và thấp nhất là u nang buồng trứng với 7 bò, chiếm 13,20% (P<0,05)
(Bảng 3.15).
Nhóm tác giả Kafi et al. (2011) cho biết qua kiểm tra định lượng
progesterone phát hiện có 23,8% bò bị thể vàng tồn lưu sau khi đẻ. Theo
Shrestha et al., (2004a), bằng định lượng progesterone đã phát hiện 32,5% bò
mắc thể vàng tồn lưu, chủ yếu do viêm tử cung nên không tiết được PGF2α, dẫn
đến thể vàng không bị tiêu biến (Crowe, 2008; Opsomer et al., 2000).
Đối với bò có buồng trứng nhỏ và có hàm lượng progesterone dưới 0,2
ng/ml được xác định là buồng trứng kém hoạt động (Tăng Xuân Lưu và cs.
2003b). Đối với gia súc có thể vàng tồn lưu hoặc bị u nang thể vàng thì nồng độ
progesterone trong máu luôn luôn cao, ức chế sự hình thành và phân tiết các
hormone sinh dục khác, hậu quả là trong buồng trứng không có quá trình trứng
phát triển, chín và rụng, gia súc không động dục. Nguyễn Hùng Nguyệt và cs.
(2009) khi nghiên cứu trên bò sữa vùng Hà Nội cho biết những bò có hàm lượng
progesterone từ 1,77 - 1,80 ng/ml là bị thể vàng tồn lưu, progesterone thấp từ
0,38 - 0,42 ng/ml là buồng trứng không hoạt động hoặc u nang và progesterone
từ 0,21 - 2,28 ng/ml từ ngày 0 đến ngày 21 là buồng trứng có hoạt động bình
thường. Chẩn đoán lâm sàng buồng trứng qua trực tràng kết hợp với định lượng
progesterone cho kết quả có 28,12% buồng trứng có thể vàng, 25,0% buồng
trứng có u nang, 34,38% buồng trứng kém hoạt động và 12,5% buồng trứng hoạt
động bình thường.
(Thể vàng nằm trên buồng trứng) (Thể vàng tách khỏi buồng trứng)
87
Ảnh 3.6. Thể vàng sinh lý ngày thứ 5-6 của chu kỳ
Đối với gia súc cái chậm sinh, chậm động dục trở lại sau khi đẻ do dinh
dưỡng kém, đặc biệt là thiếu protein thì buồng trứng kém phát triển (thiểu năng
buồng trứng), hàm lượng progesterone luôn ở mức thấp dưới 0,5 ng/ml. Khám
qua trực tràng thấy buồng trứng nhỏ (1cm × 1,5cm × 1cm), cứng, bề mặt nhẵn
bóng, không có noãn nang phát triển (Ảnh 3.7).
(dạng dẹt không có nang) (dạng ô van có nang nhỏ) (buồng trứng cắt dọc)
Ảnh 3.7. Buồng trứng không hoạt động (thiểu năng)
Đối với gia súc cái bị u nang, nang trứng, hàm lượng estrogen luôn cao
trong máu, hàm lượng progesterone thấp ở mức ngày 0 của chu kỳ động dục,
trường hợp này bò động dục kéo dài (thậm chí loạn chu kỳ sinh dục), phối giống
nhiều lần không đậu thai. Khám qua trực tràng (hoặc siêu âm) thấy trên buồng
trứng có nang trứng nổi cộm, bùng nhùng hoặc có bọc nước to (Ảnh 3.8)
Ảnh 3.8. U nang buồng trứng dạng tích nước
Khái quát so sánh kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng khám lâm
88
sàng và bằng định lượng progesterone được thể hiện ở hình 3.5.
Qua kết quả so sánh và kiểm chứng thể hiện trong hai bảng 3.14; 3.15 và
hình 3.5, chúng tôi nhận thấy khám lâm sàng cho kết quả tỷ lệ thể vàng tồn lưu
cao ở mức 37,74 %, trong khi đó chẩn đoán qua định lượng progesterone chỉ cho
kết quả 30,10%. Với hai kỹ thuật chẩn đoán trên, kết luận buồng trứng không
hoạt động tương ứng là 52,83 % và 56,60 %, còn u nang buồng trứng tương ứng
là 9,43 % và 13,20 %.
Hình 3.5. So sánh kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng
bằng khám lâm sàng và định lượng progesterone
Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Phan Văn Kiểm và cs. (2006) cũng
áp dụng hai phương pháp chẩn đoán như trên để tìm nguyên nhân gây chậm sinh
ở bò sữa cho biết, bằng kỹ thuật khám qua trực tràng phát hiện thể vàng tồn lưu
là 37,74%, u nang 9,43% và buồng trứng không hoạt động 52,83%. Bằngphương
pháp định lượng progesterone (EIA-P4) xác định chính xác buồng trứng có thể
vàng tồn lưu 29,55%, u nang 15,91% và buồng trứng kém hoạt động 43,18%.
Khi nghiên cứu kit chẩn đoán progesterone trong sữa bò và ứng dụng vào
lĩnh vực sinh sản bò sữa, việc chẩn đoán sớm có thai qua định lượng
progestenone cho độ chính xác tương đối cao khoảng 80% (Nguyễn Kim Anh,
2006 dịch từ Shearer, 2006). Tuy nhiên, có thể còn một số yếu tố khác ảnh hưởng
đến kết quả như độ dài của chu kỳ động dục giữa các bò có khác nhau, các nhầm
89
lẫn trong phát hiện động dục, bệnh tử cung (bọc mủ tử cung), hoạt động khác
thường của buồng trứng (u nang thể vàng hoặc nang trứng) và phôi chết sớm,
như vậy cần kết hợp để khám thai ở 40 ngày (hoặc muộn hơn).
So sánh giữa hai kết quả khám lâm sàng và định lượng progesterone, tuy có
sự nhau, nhưng sự sai khác không lớn, do vậy chúng tôi có thể đánh giá trình độ
tay nghề của nhóm bác sỹ thú y tại Ba Vì có kinh nghiệm khám và chẩn đoán bệnh
sinh sản nói chung và bệnh buồng trứng nói riêng là tốt. Điều này khẳng định rằng
khi dự án JICA hợp tác với Viện Thú y (2000-2004) và dự án tăng cường năng lực
chăn nuôi bò sữa cho các trang trại quy mô vừa và nhỏ giai đoạn 2006-2012 đã có
hiệu quả. Các chuyên gia giỏi về bò sữa đã sang và trực tiếp hướng dẫn cho các thú
y cơ sở điều trị các bệnh ở đại gia súc, tập trung đào tạo nhiều nhất về chẩn đoán
bệnh bò sữa (bệnh buồng trứng). Hơn thế nữa, dự án JICA còn cử một số cán bộ
thú y tại Ba Vì sang Nhật Bản học nâng cao cách chẩn đoán bệnh sản khoa ở bò
sữa bằng phương pháp khám qua trực tràng. Chính vì vậy, tại Ba Vì, kết quả khám
lâm sàng về bệnh của buồng trứng cũng gần giống như kết quả kiểm tra bệnh
buồng trứng bằng định lượng progesterone trong sữa.
3.3.3. Chẩn đoán có thai sớm bằng định lượng progesterone trong sữa
Để chẩn đoán có thai sớm ở bò, sau khi dẫn tinh cho 26 con có biểu hiện
động dục rõ, chúng tôi lấy mẫu sữa từ ngày 0 (ngày phối giống), sau đó lấy ở ngày
7, ngày 14, ngày 21, ngày 28 và ngày 35 sau ngày phối giống và kiểm tra khám
thai qua trực tràng ở ngày 60 sau khi phối. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.16.
Bảng 3.16. Chẩn đoán thai sớm bằng định lượng progesterone trong sữa
Thời điểm theo dõi Số bò con
Bò động dục và thụ tinh nhân tạo Hàm lượng progesterone (ng/ml) 26
Bò động dục lại sau 21±3 ngày 3,68±0,21 8
Bò có hàm lượng progesterone cao liên tục đến 5,68±0,27 18
35 ngày sau phối
Bò có chửa khi khám thai ở 60 ngày sau phối - 15
90
Bò không có chửa khi khám ở 60 ngày sau phối - 3
Trong khi theo dõi, chúng tôi nhận thấy trong số bò được lấy mẫu sữa ở
ngày 21, có 8 bò cho hàm lượng progesterone rất thấp (<5 ng/ml). Trong 8 bò đó,
5 con có biểu hiện động dục lại rõ ràng, còn 3 bò tuy hàm lượng progesterone rất
thấp nhưng chúng tôi không hề thấy có biểu hiện động dục lại (Bảng 3.16).
Cũng theo bảng 3.16, bò có hàm lượng progesterone luôn cao (>5 ng/ml),
nhưng khi khám thai ở ngày 60, chỉ 15 bò trong số 18 con có thai, chiếm tỷ lệ
83,33%. Ba trường hợp còn lại không có chửa (16,66%), qua khám buồng trứng
phát hiện có thể vàng tồn lưu.
Dựa vào hàm lượng progesterone trong sữa để chẩn đoán có thai sớm
(chính xác trên 80%) ở bò lúc 21 - 25 ngày sau phối giống là điều rất có ý nghĩa
trong thực tế sản xuất, vì phát hiện được bò động dục và động dục ẩn tính để dẫn
tinh lại hoặc có kế hoạch phối giống lại trong chu kỳ tiếp theo. Ngược lại, để hỗ
trợ cho việc chẩn đoán bằng định lượng progesterone, sau dẫn tinh 45-60 ngày,
chúng tôi tiến hành khám thai qua trực tràng.
Theo Phan Văn Kiểm và cs. (2006), kết quả định lượng hormone xác định
có thai sớm ở ngày thứ 21 sau thụ tinh đạt 84,78% và sau 60-90 ngày đạt
69,56%. Nakao et al. (1982b) cho biết độ chính xác của phương pháp xác định có
thai sớm bằng progesterone là 75-85% và không có chửa 100% sau 21 ngày phối.
Mô phỏng kết quả khám thai và phát hiện thể vàng ngày thứ 45-60 sau dẫn
tinh được thể hiện minh họa qua hình ảnh (Ảnh 3.9).
91
Ảnh 3.9. Thể vàng ở bò có thai ở 35- 60 ngày tuổi
Chẩn đoán có thai là một khâu quan trọng trong công tác thụ tinh nhân
tạo. Việc chẩn đoán sớm có thai đem lại hiệu quả kinh tế lớn trong chăn nuôi.
Nếu thời gian nuôi bò sữa “trống” kéo dài: không có chửa, chí phí nuôi không
hiệu quả bởi: không có sữa, chi phí thức ăn, chuồng trại, thuốc thú y, công lao
động, chí phí điện nước…Thông thường sau khi bò được phối giống 45 - 60 ngày
là có thể khám thai được nếu bác sỹ thú y có kinh nghiệm, muộn hơn thì khám
khám thai ở 90 ngày. Nếu như xác định được tình trạng bò không có thai ở 28-35
ngày hoặc ở 45-60 ngày so với 90 ngày, thì chúng ta sẽ có thể kịp phối giống lại,
nếu không sẽ mất một khoảng thời gian nuôi “báo cô” từ 20-60 ngày. Thời gian
này trên tổng thể một đàn lớn sẽ mang lại một lợi nhuận không nhỏ cho người
chăn nuôi.
Việc xác định có thai sớm cũng là một trong những biện pháp để rút
ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò sữa và nâng cao hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi.
3.4. Sử dụng hormone nhằm nâng cao khả năng sinh sản
Căn cứ vào kết quả khám lâm sàng, phân loại trạng thái hoạt động của
buồng trứng sau đẻ 120 ngày, kết hợp kết quả xác định hàm lượng progesterone
trong chẩn đoán vào thực tế trong sản suất, chúng tôi sử dụng hormone để điều
khiển cũng như “thức tỉnh” buồng trứng hoạt động trở lại thông qua chẩn đoán
lâm sàng và định lượng progesterone trong thời gian điều trị. Với các phác đồ
điều trị khác nhau theo trạng thái của buồng trứng, chúng tôi thu được kết quả
điều trị cho từng trường hợp cụ thể như sau.
3.4.1. Điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động
Khi khám qua trực tràng, nếu thấy hai bên buồng trứng dẹt, cứng, nhỏ,
không cân đối (một bên to, một bên nhỏ) và bề mặt buồng trứng trơn nhẵn,
không có thể vàng và cũng không có nang trứng thì kết luận buồng trứng không
hoạt động. Kết hợp với việc chẩn đoán qua định lượng hormone progesterone
với những bò có hàm lượng progesterone dưới 5 ng/ml. Bò không xuất hiện chu
kỳ động dục, những trường hợp này thường gặp ở những con có thể trạng gầy
92
hoặc đang trong thời điểm cho sữa cao…
Đối tượng điều trị là 68 bò được chẩn đoán buồng trứng không hoạt động
(Bảng 3.13)
Do buồng trứng bò ở trạng thái không hoạt động, chúng tôi sử dụng vòng
CIDR đặt vào âm đạo, thời gian đặt trong 12 ngày. Với thời gian này nhằm cung
cấp lượng progesterone vào máu (thay cho vai trò của thể vàng trong chu kỳ từ
ngày 5 đến ngày 17). Đến ngày 11 sau khi đặt CIDR, bò được tiêm 25mg PGF2
(thay cho vai trò của niêm mạc tử cung tiết ra PGF2để tiêu biến thể vàng). Đến
ngày thứ 12 vòng CIDR được rút ra (để hàm lượng progesterone giảm dần và
bằng không). Sau đó tiêm 100 µg GnRH để kích thích nang trứng phát triển và
rụng dưới tác dụng của FSH và LH. Vào thời điểm sau khi rút vòng CIDR 2-3
ngày, bò có biểu hiện động dục và tiến hành phối giống cho bò bằng thụ tinh
nhân tạo. Kết quả được trình bày ở bảng 3.17.
Trong tổng số 68 bò được khi điều trị thì 57 bò có biểu hiện động dục (đạt
83,82%) phối giống và 42 bò có chửa (42/57 bò động dục), đạt 73,68%.
Bảng 3.17. Kết quả điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động
Chỉ tiêu Kết quả điều trị
n (con) 68 Tổng số bò có buồng trứng không hoạt động
n (con) 57 Bò động dục Tỷ lệ (%) 83,82
n (con) 42 Có chửa Tỷ lệ (%) 73,68
Tham khảo một số kết quả khi nghiên cứu về gây động dục đồng pha cho
bò bằng phương pháp kết hợp giữa CIDR và PGF2, tác giả Lưu Công Khánh và
cs. (2004), cho tỷ lệ động dục ở bò Lai Sind là 85,71% và ở bò lai HF là 87,30%.
Phan Văn Kiểm và cs. (2006) sử dụng CIDR với PGF2 điều trị bệnh buồng
trứng không hoạt động cho kết quả bò động dục 78,95% (chẩn đoán bằng phương
pháp progesterone). Kết quả của nhóm tác giả Trịnh Quang Phong và cs. (2012)
93
khi điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động trên đàn bò Hà Nội cho biết
79,16-84,2% bò động dục và 71,2-81,2% bò có chửa ở 2 kỳ phối giống khi sử
dụng kết hợp giữa CIDR, hCG, estrogen và PGF2.
Như vậy, kết quả của chúng tôi cũng tương đương với kết quả của các tác
giả nghiên cứu trên bò lai. Điều khác biệt là chúng tôi không sử dụng hormone
estrogen trong điều trị bò chậm sinh dạng buồng trứng không hoạt động vì sự tồn
lưu của nó trong sữa và dễ gây nên hiện tượng phì buồng trứng với chứng động
dục giả hoặc động dục kéo dài ở bò.
Sự khác biệt kết quả nghiên cứu của chúng tôi là sử dụng CIDR kết hợp
với PGF2 trong thời gian cuối của ngày rút CIDR là để làm “sạch” các tế bào
hạt, kích thích nang trứng và làm “sạch” dịch tử cung ngay sau khi rút CIDR,
đồng thời bổ sung lượng GnRH ngay sau khi rút CIDR đã tạo ra một kích thích
cho trung khu sinh dục hypothalamus phân tiết FSH và LH một cách chủ động
nên làm cho tỷ lệ động dục và phối giống đạt hiệu quả ngay ở kỳ động dục lần
đầu can thiệp. So với các nghiên cứu trước đây kết quả phối giống được tính cho
hai kỳ động dục liên tiếp.
3.4.2. Điều trị bệnh u nang buồng trứng
U nang buồng trứng là trường hợp của những nang trứng không rụng và lưu
lại lâu trên buồng trứng. Chúng có đường kính lớn hơn 2,5cm. Bò bị u nang có
biểu hiện động dục thường xuyên và liên tục không theo chu kỳ (chu kỳ ngắn hoặc
loạn chu kỳ). Khám qua trực tràng thấy hai buồng trứng to hơn bình thường (bằng
quả trứng gà con so), nếu sờ trên bề mặt buồng trứng thấy có u nang cảm giác
mềm, dễ vỡ và có vách ngăn không rõ ràng thì gọi là u nang nang trứng. U nang
thể vàng thường có một u nang với vách dày hơn so với vách của u nang nang
trứng, sờ mềm nhưng khó vỡ hơn. Những bò bị u nang nang trứng thường trước đó
có chu kỳ không ổn định, bất thường và thời gian động dục kéo dài. Với 35 bò
được kết luận là u nang buồng trứng (Bảng 3.13), chúng tôi tiến hành điều trị bằng
GnRH với liều 100µg và sau 7 ngày tiêm PGF2, kết hợp thụt rửa thân sừng tử
cung bằng dung dịch Iodin hoặc Haniodin 0,1% . Theo dõi trong vòng 1 tuần, nếu
thấy động dục thì tiến hành phối giống cho bò bằng thụ tinh nhân tạo. Sau đó khám
94
thai vào ngày thứ 45-60 sau thụ tinh. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.18.
Bảng 3.18. Kết quả điều trị bệnh u nang buồng trứng
Chỉ tiêu Kết quả điều trị
Tổng số bò bị u nang buồng trứng n (con) 35
n (con) 31 Bò động dục Tỷ lệ (%) 88,57
n (con) 25 Có chửa Tỷ lệ (%) 71,42
Trong 35 bò có bệnh lý, sau khi tiêm GnRH đến ngày thứ 5, có 2 bò biểu
hiện động dục trước khi tiêm PGF2. Số bò còn lại không động dục, đến ngày thứ
7, chúng được tiêm PGF2 và theo dõi trong một tuần, có thêm 29 bò động dục
và được thụ tinh nhân tạo. Như vậy, tổng số bò động dục là 31 con, đạt tỷ lệ
88,57% và sau 45-60 ngày khám thai kết luận có chửa là 25 bò, đạt 71,42%.
Theo Nguyễn Thị Ước (1996), gây động dục đồng pha cho bò bằng
phương pháp phối hợp giữa hai mũi tiêm PGF2 và một mũi tiêm PMSG cho tỷ
lệ bò rụng trứng so với tổng số bò gây động dục đồng pha đạt 81,0% ở bò Lai
Sind, 90,0% ở bò sữa. Phan Văn Kiểm và cs. (2006) sử dụng GnRH điều trị bệnh
buồng trứng u nang cho kết quả 57,14% động dục sau khi chẩn đoán bằng
phương pháp progesterone. Trần Thị Loan và cs. (2012) sử dụng GnRH và
PGF2 hoặc vòng CIDR kết hợp PGF2 điều trị bò u nang buồng trứng cho kết
quả 83,33% bò động dục và 80% bò có chửa sau hai kỳ phối giống.
Kết quả điều trị của chúng tôi có khác hơn so với một số tác giả ở chỗ:
sử dụng GnRH và PG mà không sử dụng vòng CIRD cũng như PMSG và kết
quả ở 1 kỳ phối giống đạt cao. Theo chúng tôi khi bò bị u nang buồng trứng,
tức là sự phát triển nang trứng bởi lượng FSH cao mà lượng LH quá thấp không
đủ làm cho nang trứng thành thực dẫn đến chín và rụng. Khi tiêm lượng GnRH
đã làm tăng tiết đồng thời hai loại hormone FSH và LH, lượng GnRH đã kích
thích tuyến yên tiết FSH làm các noãn nang phát triển và tiết LH có tác dụng
làm vỡ nang trứng gây rụng trứng ở biểu hiện động dục ngay sau đó. Tuy nhiên,
95
nếu nang trứng phát triển mà trên buồng trứng vẫn tồn tại thể vàng (hàm lượng
progesterone trong máu vẫn còn cao bởi các tế bào hạt trên buồng trứng) thì đến
ngày thứ 7 tiêm PGF2 làm thể vàng tiêu biến, tuyến yên không bị ức chế sự
phân tiết FSH và LH nữa. Sự “thức tỉnh” tuyến yên bởi GnRH nên việc giải
phóng FSH và LH ngay sau đó 2-3 ngày bò mới biểu hiện động dục và tiến
hành thụ tinh nhân tạo. Mặt khác chúng ta biết rằng khi bò bị bệnh u nang
buồng trứng đã làm cho chu kỳ ngắn lại, thời gian động dục lại kéo dài, sự tăng
tiết dịch nhầy tử cung lớn. Chính sự tăng tiết dịch này mà thường làm cho sự
nhiễm khuẩn dẫn đên viêm nhiễm tử cung dạng cata hoặc nội mạc tử cung, sự
viêm này làm ảnh hưởng đến khả năng làm tổ của hợp tử sau khi bò được thụ
tinh là lớn. Vì vậy ngoài việc sử dụng GnRH, PG điều trị u nang nang trứng thì
việc kết hợp thụt rửa tử cung bằng dung dịch sát trùng đã mang lại hiệu quả
điều trị cao.
3.4.3. Điều trị bệnh thể vàng tồn lưu
Thể vàng tồn lưu là thể vàng không bị thoái hóa, làm chu kỳ động dục
không được biểu hiện, làm tăng tiết progesterone. Nguyên nhân có thể do một
rối loạn nào đó trong tử cung như viêm, bọc mủ, dịch nhầy trong tử cung, thai
chết lưu (phù thai), thai gỗ… Khám qua trực tràng sẽ cảm nhận được hai bên
buồng trứng to bằng nhau, dùng ngón tay cái xoa nhẹ trên bề mặt buồng trứng
cảm thấy có một khối (bằng hạt ngô, đậu tương, củ lạc hoặc to hơn) nhô lên
khỏi bề mặt buồng trứng, cứng, có chân đế, ranh giới giữa thể vàng và bề mặt
buồng trứng rõ. Khi định lượng progesterone trong sữa đều cho kết quả lớn hơn
5 ng/ml. Xác định chắc chắn là thể vàng tồn lưu trên buồng trứng, chúng tôi
tiến hành điều trị bằng PGF2α với liều 25 mg, kết hợp với thụt rửa thân sừng tử
cung bằng dung dịch Han Iodin 0,1%.
Tất cả 22 bò sữa được xác định có thể vàng tồn lưu đã được chúng tôi điều
trị bằng PGF2α. Sau khi điều trị từ 5-7 ngày, theo dõi nếu thấy động dục rõ ràng,
bò được dẫn tinh. Nếu không có biểu hiện động dục, tiếp tục tiêm PGF2 lần 2 và
cũng theo dõi động dục trong vòng 1 tuần sau đó thụ tinh nhân tạo với những bò
96
có biểu hiện động dục. Kết quả điều trị được thể hiện ở bảng 3.19.
Bảng 3.19. Kết quả điều trị thể vàng tồn lưu
Động dục Có chửa
Số bò xử lý Lần điều trị PGF2α
Số bò (con) 16 Tỷ lệ (%) 72,72 Số bò (con) 13 Tỷ lệ (%) 81,25 22 Lần 1
4 66,66 3 75,0 6 Lần 2
20 90,90 16 80,0 22 Tổng số
Trong số 22 bò được tiêm PGF2 lần 1 có 16 bò biểu hiện động dục, đạt
72,72% và tiến hành thụ tinh nhân tạo, sau 45 ngày kiểm tra thấy 13 bò có chửa,
đạt 81,25%. Sáu bò còn lại không biểu hiện động dục sau đó được tiến hành tiêm
PGF2 lần 2 và có 4 bò biểu hiện động dục đạt 66,66%, sau đó 3 bò có chửa đạt
75,0%. Nhìn chung, kết thúc hai lần điều trị bò bị thể vàng tồn lưu bằng PGF2
chúng ta thấy số bò động dục rõ là 90,90% và số bò phối giống có chửa là 80,0
%. Khi bò bị thể vàng tồn lưu thì trong máu luôn có hàm lượng progesterone cao,
chính hormone này ức chế hoạt động của FSH và LH làm bò không biểu hiện
động dục và cũng không rụng trứng. Do vậy, sử dụng PGF2 là để làm co mạch
quản nuôi thể vàng và làm tiêu biến thể vàng, giảm progesterone trong máu, tạo
điều kiện cho FSH và LH tăng tiết làm trứng phát triển, chín và rụng trứng dẫn
đến bò có biểu hiện động dục.
Theo Hoàng Kim Giao và cs. (1997), sử dụng PGF2 gây động dục đồng loạt
trên bò bị tồn lưu thể vàng ở giai đoạn 5-14 ngày cho kết quả động dục 71,43% (bò
lai Sind) và 78,87% (bò lai hướng sữa). Theo Nguyễn Tấn Anh và cs. (1995), sử
dụng PGF2 cho bò lai Sind chậm sinh đạt tỷ lệ động dục 85,18%, tỷ lệ thụ thai đạt
65,21%. Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997) cho biết sử dụng PGF2
trên bò lai hướng sữa tại Hà Nội đạt tỷ lệ động dục 82,0%, tỷ lệ thụ thai 64,0%.Phan
Văn Kiểm và cs. (2006) sử dụng PGF2 điều trị bệnh thể vàng tồn lưu đạt kết quả
76,92% động dục sau khi chẩn đoán bằng phương pháp progesterone.
So với các kết quả trước đây, việc chúng tôi sử dụng hai liều PGF2 cho
bò có thể vàng tồn lưu cho kết quả bò động dục và phối giống có chửa cao hơn.
97
Theo chúng tôi nếu mũi tiêm thứ nhất vào những ngày đầu của đợt sóng nang
trong chu kỳ thì khả năng động dục sau đó 2-3 ngày tiêm là thấp, nếu tiêm vào
những ngày giữa hoặc cuối của đợt sóng nang thì tỷ lệ động dục lại cao hơn, bởi
vì khi sử dụng PGF2 lần 2 sẽ tạo cho buồng trứng được “sạch” các tế bào hạt, từ
đó làm cho sóng nang và nang trứng phát triển được tốt hơn. Hơn nữa, nếu được
tiêm 2 lần PGF2 thì tử cung được kích thích tăng nhu động và tăng cường đẩy
dịch bẩn ra ngoài, giúp cho tử cung không bị viêm dẫn đến khả năng làm tổ của
hợp tử được tốt hơn. Mặt khác chúng ta biết rằng PG làm thoái hóa thể vàng
phần lớn đến 80% được tiết ra từ niêm mạc thân sừng tử cung vì vậy khi thân
sừng tử cung bị viêm nhiễm thì việc phân tiết PG bị hạn chế, mặt khác nếu thân
sừng tử cung bị viêm nhiễm thì việc làm tổ của hợp tử là khó khăn. Vì vậy việc
điều trị thể vàng tồn lưu bằng PG kết hợp với điều trị viêm nhiễm thân sừng tử
cung bằng thụt rửa đã làm cho kết quả đậu thai cao ngay ở lần phối giống đầu
tiên khi bò động dục.
3.4.4. Điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân bằng phác đồ tổng hợp
(GnRH- PGF2α- PGF2α- GnRH)
Trong thực tế sản xuất, việc xác định rõ nguyên nhân dẫn đến chậm sinh
trên bò do buồng trứng nói chung và bò sữa nói riêng không phải dễ đối với các
thú y, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ hiểu biết về lâm sàng,
hormone, tay nghề của từng bác sỹ thú y, kỹ thuật viên, phương tiện hỗ trợ chẩn
đoán và chế phẩm hormone thực có... Vì vậy, để giúp cho sản xuất được thuận
lợi hơn trong quá trình điều trị bệnh chậm sinh trên bò sữa, chúng tôi đã tiến
hành thử nghiệm bằng phác đồ điều trị tổng hợp để kiểm chứng. Cụ thể:
- Ngày thứ nhất (ngày 0): tiêm GnRH liều 100g tiêm cho bò (liều 1);
- Ngày thứ 3: tiêm PGF2 liều 25mg (liều 2);
- Ngày thứ 7: tiêm PGF2 liều 25mg (liều 3);
- Ngày thứ 8: tiêm GnRH liều 100g (liều 4);
- Cuối ngày thứ 9: phối giống cho tất cả các bò dù có phát hiện bò động
dục hay không động dục. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.20.
Việc xác định bò chậm sinh để điều trị được coi như không biết rõ nguyên
98
nhân gây chậm sinh trên buồng trứng. Tuy nhiên trước khi sử dụng hormone,
chúng tôi tiến hành khám lâm sàng tử cung, buồng trứng để đánh giá trạng thái
hoạt động của từng cá thể để kiểm chứng kết quả. Kết quả điều trị cho thấy: sau
khi tiêm GnRH (liều tiêm 1) 1 ngày đã có 4 bò động dục, đạt 10,81%. Ngày thứ 3
(liều tiêm 2), đến ngày thứ 6-7, có 11 bò động dục (15 bò/37 bò được tiêm,
chiếm 40,54% bò động dục ở sau mũi tiêm thứ 2). Ngày thứ 7 (liều 3) và đến
chiều ngày thứ 8 (sau khi tiêm PGF2) thêm 4 bò động dục nữa. Sang đến ngày
thứ 9, có 13 trong số 18 bò còn lại tiếp tục động dục. Tuy nhiên cả 18 bò còn lại
đều được phối giống vào chiều tối cùng ngày và trong 5 bò không có biểu hiện
động dục rõ được tiến hành phối giống và có 2 bò trong số 5 bò này có chửa
(chiếm 40% trong số bò không có biểu hiện động dục rõ). Như vậy, tổng số bò có
biểu hiện động dục trong liệu trình điều trị là 32 bò (32/37 bò điều trị), đạt
86,49% và tỷ lệ phối có chửa là 67,56% ở hai kỳ phối giống.
Bảng 3.20. Kết quả điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân
bằng phác đồ tổng hợp
Số lượng
Chỉ tiêu Bò tổng số n (con) 37
GnRH (ngày 1) n (con) % 4 10,81
Thuốc điều trị PGF2α (ngày 3) n (con) % 11 24,32
GnRH (ngày 8) Con (n) Tỷ lệ (%) 4 10,81
Động dục Con (n) Tỷ lệ (%) 13 35,14
Phối giống (ngày 9) Không động dục
Có thai
Có thai Con (n) Tỷ lệ (%) Con (n) Tỷ lệ (%) Con (n) Tỷ lệ (%) 5 13,51 2 40,00 25 67,56
Để có được kết quả như trên theo chúng tôi: sau khi sử dụng GnRH (ngày
99
0), có 4 bò động dục ở ngày thứ 2 là những bò có xuất hiện nang trứng trên
buồng trứng và bò có chu kỳ tính vào ngày thứ 18-19 của chu kỳ (vào ngày thứ
3-4 của đợt sóng nang), được sự tác động của GnRH nên đã xuất hiện động dục.
Số bò động dục sau khi tiêm PGF2α ở ngày thứ 3 là những bò có thể vàng tồn lưu
hoặc bò ở trạng thái sóng nang hoạt động nhờ lượng GnRH ở ngày thứ nhất (đối
với những bò có u nang tức là động dục trước đó mà không rụng trứng hoặc bò
có trạng thái buồng trứng hoạt động bình thường). Những bò được tiêm PGF2α
lần 2 ở ngày thứ 7 (làm teo biến u thể vàng còn lại hoặc tế bào hạt trên buồng
trứng) và tiêm GnRH vào ngày tiếp theo (ngày 8) là những trường hợp bò bị u
nang thể vàng, u nang noãn nang và thiểu năng buồng trứng nên đều xuất hiện
động dục. Số bò không xuất hiện động dục sau khi tiêm GnRH lần cuối nhưng có
thai là có hoạt động sóng nang (nang trứng hoạt động) trội, có trứng chín và rụng
nhưng không có biểu hiện động dục rõ ra bên ngoài (tức là động dục ngầm), số
còn lại là ở trạng thái buồng trứng bé, cứng, kém phát triển (qua khám lâm sàng)
nên phản ứng kém với sự tác động của hormone, do đó, số bò này không động
dục và sẽ trở lại hoạt động ở những kỳ tiếp theo.
Kết quả của chúng tôi so với một số tác giả nghiên cứu trước đây khi sử
dụng liệu trình kết hợp này. Cụ thể:
Khi nghiên cứu sử dụng GnRH, huyết thanh ngựa chửa (PMSG) trong gây
siêu bài noãn và sử dụng FSH tinh chế (Antorin) để tiêm cho bò 1, 2 hoặc 4 lần
với liều 6; 9; 10; 12 và 13mg sẽ tăng hiệu quả. Khi điều trị kết hợp với PGF2α thì
hiệu quả còn tăng cao hơn (Sato et al., 1992b).
Khi tiêm PGF2α vào bất kỳ ngày nào của chu kỳ, rồi tiêm lặp lại sau 11
ngày và cho phối giống đồng loạt vào một thời điểm định trước hoặc phối giống
vào lúc bò có biểu hiện động dục, tỷ lệ xuất hiện động dục của bò đã đạt được là:
ngày 1: 5%, ngày 2: 20%, ngày 3: 45%, ngày 4: 20%, ngày 5: 5% (Quản Xuân
Hữu, 2006). Sử dụng công thức hỗn hợp GnRH - PGF2- hCG (công thức 1) và
GnRH – SMB - PGF2α - GnRH (công thức 2) để gây động dục cho bò, Quản
Xuân Hữu và cs. (2003) đã đạt kết quả như sau:
Công thức 1: Trên bò lai Sind có 60% động dục rõ, tập trung sau mũi tiêm
100
PGF2α cuối trong vòng 71-96 giờ (30%). Công thức 2: Bò lai Sind động dục
100%. Sau mũi tiêm PGF2α cuối cùng 40-49 giờ có 68,75% bò động dục, kết quả
khám thể vàng sau 7 ngày là 87,5%.
Theo Martiner et al. (2001), sử dụng phương pháp phối hợp hormone
GnRH - PGF2- GnRH và phương pháp phối hợp estradiol - PGF2α - GnRH
cho kết quả tỷ lệ thụ thai không khác nhau. Khi bổ sung estradiol benzoate và
progesterone làm bò xuất hiện động dục sớm hơn so với chỉ bổ sung GnRH,
tuy nhiên tỷ lệ thụ thai ở công thức bổ sung GnRH lại cao hơn.
Theo Mialot et al. (1999), với công thức GnRH - PGF2α - GnRH, phối giống
cho toàn bộ số bò được thụ tinh vào một thời điểm định trước, tỷ lệ bò có chửa so
với số bò thụ tinh không khác so với tỷ lệ đạt được khi sử dụng công thức phối hợp
estradiol với PGF2α ở cả giai đoạn 28 và 45 ngày sau khi phối giống, tuy nhiên
tổng số bò có chửa ở công thức GnRH lại cao hơn so với công thức sử dụng
estradiol. Kết quả cũng cho thấy tuy tỷ lệ thụ thai không khác nhau ở lần phối
giống đầu tiên nhưng lần phối giống thứ 2 tới lần thứ 4 tỷ lệ thụ thai ở công thức
sử dụng GnRH lại có xu hướng cao hơn so với công thức sử dụng estradiol. Kết
quả động dục và thụ thai ở công thức GnRH - PGF2α - GnRH cao hơn so với công
thức PGF2α - PGF2α. Sử dụng hCG hay GnRH với PGF2α để gây động dục và dẫn
tinh đồng loạt cho bò sữa sau khi đẻ trong cùng một mùa và cùng một khoảng thời
gian sau khi đẻ cho kết quả thụ thai khác nhau. Tuy nhiên, kết quả này có khác nếu
các nhóm bò ở các khoảng thời gian sau khi đẻ khác nhau. Theo Fabio de Rensis et
al. (2002) tỷ lệ chửa ở nhóm bò 90 ngày sau đẻ đạt 40%, tương ứng là 70% ở
nhóm bò 130 ngày sau đẻ (dẫn theo Quản Xuân Hữu, 2006).
Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi là hoàn toàn có cơ sở và phù
hợp với các nghiên cứu khác khi sử dụng phác đồ tổng hợp để điều trị cho bò
chậm sinh mà không biết rõ nguyên nhân trên buồng trứng.
Kết quả nghiên cứu này giúp cho những thú y cơ sở khi chăn nuôi bò nói
chung và bò sữa nói riêng, khi thấy bò đến tuổi sinh sản hoặc sau đẻ thời gian dài
không thấy bò có biểu hiện động dục hoặc có biểu hiện động dục mà phối giống
không có kết quả mà không xác định được nguyên nhân chậm sinh do đâu thì áp
101
dụng công thức trên để điều trị.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1) Khả năng sinh sản của đàn bò sữa có tỷ lệ máu lai ≥ 75% HF Ba Vì,
Hà Nội
Đàn bò có tuổi phối giống lần đầu (17,43 tháng), tuổi đẻ lần đầu (31,10
tháng), cao hơn một số vùng nuôi bò sữa lai trong cả nước. Thời gian động dục
lại sau khi đẻ dài (117,69 ngày).Khoảng cách giữa hai lứa đẻ dài (437,43 ngày).
Tỷ lệ đẻ thấp (69,82%), tỷ lệ sảy thai, đẻ non còn cao (4,68%). Tỷ lệ sát
nhau thấp (4,39%) và hệ số phối giống thụ thai (2,21 liều tinh) tốt so với nhiều
nơi trong cả nước.Tỷ lệ chậm sinh cao (18,78%) ở cả bò tơ đến tuổi sinh sản và
bò đã sinh sản thể hiện ở tình trạng buồng trứng không hoạt động, thể vàng tồn
lưu và u nang, trong đó buồng trứng không hoạt động chiếm tỷ lệ lớn (49,68%) và
tập trung ở đàn bò tơ (66,66%).
Thời gian động dục lại sau khi đẻ trước 120 ngày dài (117,69 ngày)
83,25%, số bò động dục sau 120 ngày chỉ có 16,75%. Nguyên nhân xác định
chậm động dục sau đẻ 120 ngày là do buồng trứng không hoạt động (54,40%), u
nang buồng trứng (28,0%) và thể vàng tồn lưu (17,6%).
2) Mùa vụ ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của buồng trứng ở bò sữa
khá rõ.
Mùa xuân tỷ lệ bò bị u nang (37,14%) và thể vàng (31,81%); mùa hè bò bị
buồng trứng không hoạt động (33,82%), thể vàng tồn lưu (36,36%), mùa thu và
mùa đông có tỷ lệ các bệnh thấp (13,23-23,52%).
3) Số lứa đẻ có ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của buồng trứng của
bò sữa.
Buồng trứng kém hoạt động chiều hướng tăng từ lứa 1 đến lứa 6 (7,35–
20,58%), thể vàng tồn lưu tăng từ lứa 1 đến lứa đẻ 6 (9,09-18,18%) và u nang
102
cũng tăng từ lứa 1 đến lứa đẻ 6 (5,71% -20,0%).
4) Thể trạng của bò sữa sau khi đẻ ảnh hưởng đến chức năng hoạt động
buồng trứng bò sữa
Thể trạng bò gầy (2,0-2,5) và bò béo, quá béo (3,5-4,5) đều ảnh hưởng xấu
đến khả năng sinh sản của bò sữa thể hiện qua chức năng hoạt động của buồng
trứng: bò gầy buồng trứng không hoạt động (23,52%) và u nang (37,14%); bò
béo hoặc quá béo thì buồng trứng không hoạt động (63,23%), u nang (57,14%)
và thể vàng tồn lưu (59,09%) đều cao.
Ngược lại, thể trạng bò vừa phải (2,75-3,25) tốt đối với sinh sản của bò sữa,
chỉ có 13,23% buồng trứng không hoạt động, 5,71% u nang và 36,36% thể vàng
tồn lưu.
5) Chẩn đoán tình trạng hoạt động của buồng trứng và xác định tỷ lệ có thai
sớm của bò sữa bằng định lượng progesterone trong sữa cho kết quả chính xác cao.
Hàm lượng progesterone ≥ 5,0 ng/ml là thể vàng tồn lưu; hàm lượng
progesterone < 5,0 ng/ml là buồng trứng không hoạt động và lên xuống thất thường là
u nang buồng trứng.
Chẩn đoán có thai sớm bằng định lượng progesterone với hàm lượng
progesterone ≥ 5,0 ng/ml với tỷ lệ chính xác là 83,33%.
6) Sử dụng hormone trong điều trị bệnh chậm sinh ở bò sữa cho kết quả tốt
và đã nâng cao được khả năng sinh sản của bò.
Điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động bằng CIRD với PGF2 và
GnRH đạt 83,82% bò động dục và 61,76% bò có chửa.
Điều trị bệnh u nang buồng trứng bằng GnRH và PGF2α có 88,57% bò
động dục và 71,42% bò có chửa.
Điều trị bệnh thể vàng tồn lưu bằng PGF2 có 90,9% bò động dục và
72,72% bò có chửa.
Điều trị bò chậm sinh bằng phương pháp sử dụng phác đồ tổng hợp có
103
86,49% bò động dục và 67,56% bò có chửa
2. Kiến nghị
1) Để nâng cao khả năng sinh sản của bò sữa ở các vùng có nuôi bò sữa cần
xác định rõ nguyên nhân gây nên chậm sinh và đưa ra phác đồ đúng để mang lại
hiệu quả cao trong điều trị.
2) Áp dụng kết quả nghiên cứu này ở tất cả các vùng chăn nuôi bò sữa để
khắc phục tình trạng chậm sinh để nâng cao khả năng sinh sản và hiệu quả cho
104
người chăn nuôi.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Tăng Xuân Lưu, Phạm Văn Giới, Cù Xuân Dần và Trần Tiến Dũng (2013). Tuổi đẻ lần đầu, khối lượng, sản lượng sữa và chất lượng sữa của đàn bò lai Holstein Friesian trong tháp giống tại Ba Vì và vùng phụ cận, Tạp chí Chăn nuôi, 12: 39-45.
2. Tăng Xuân Lưu, Trần Thị Loan, Nguyễn Hữu Cường, Sử Thanh Long, Cù Xuân Dần, Trần Tiến Dũng và Nguyễn Thị Thoa (2014). Ảnh hưởng của mùa vụ, lứa đẻ và thể trạng đến hoạt động của buồng trứng bò sữa sau đẻ 120 ngày nuôi tại Ba Vì, Hà Nội Tạp chí Khoa học và Phát triển, 12 (5) : 720-726.
105
3. Tăng Xuân Lưu, Cù Xuân Dần và Sử Thanh Long (2014). Ứng dụng hormone sinh sản trong điều trị bệnh buồng trứng bò sữa tại Ba Vì, Hà Nội, Tạp chí Công nghệ sinh học, 12 (3): 447-454.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Thiện, Lưu Kỷ, Trịnh Quang Phong và Đào Đức Thà (1995). Biện pháp nâng cao khả năng sinh sản cho bò cái, Tuyển tập công trình nghiên cứu Khoa học kỹ thuật chăn nuôi Viện Chăn nuôi (1969 - 1995), Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 325 - 329.
2. Nguyễn Tấn Anh và Nguyễn Duy Hoan (1998). Sinh lý sinh sản gia súc, Nhà xuất
bản Nông nghiệp.
3. Đinh Văn Cải (2003). Khả năng sinh sản và sản xuất của bò HF thuần nhập nội tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Thông tin Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, Viện Chăn nuôi, 4: 23-11.
4. Đinh Văn Cải, Hồ Quế Anh và Nguyễn Văn Trí (2005). Ảnh hưởng của stress nhiệt đối với bò lai hướng sữa và bò Hà Lan thuần (HF) nhập nội nuôi tại khu vực phía nam, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 10: 4-6.
5. Lê Xuân Cương (1993). Đánh giá đặc điểm sinh sản, sức sản xuất thịt sữa của giống bò địa phương và bò lai đang nuôi tại miền Nam - Việt Nam, Báo cáo khoa học Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, tr. 9-10.
6. Vũ Chí Cương, Nguyễn Thạc Hòa và Vương Tuấn Thực (2006). Ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ, chỉ số nhiệt ẩm (THI - Temperature Humidity Index) đến một số chỉ tiêu sinh lý, của bò lai F1, F2, HF nuôi tại Ba Vì trong mùa hè, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 3: 46-54.
7. Vũ Chí Cương, Tăng Xuân Lưu, Lê Trọng Lạp (2004). Nghiên cứu chọn tạo đàn bò 3/4 và 7/8 HF hạt nhân để tạo đàn bò đạt sản lượng sữa trên 4000 kg/chu kỳ, Báo cáo khoa học, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
8. Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận (1985). Sinh lý sinh sản gia súc, Nhà xuất bản
Nông nghiệp.
9. Chung Anh Dũng (2001). Sử dụng kỹ thuật miễn dịch phóng xạ và một số biện pháp kỹ thuật để nâng cao hiệu quả gieo tinh nhân tạo cho bò sữa, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Chung Anh Dũng, Hồ Quế Anh, Nguyễn Huy Tuấn, Nguyễn Văn Phá, Dương Nguyên Khang, Phan Văn Kiểm, Tăng Xuân Lưu và Cù Hữu Phú (2013). Nghiên cứu bệnh sinh sản, viêm vú bò sữa và xác định biện pháp phòng trị, Kết quả nghiên cứu nổi bật trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn những năm đầu thế kỷ 21, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1: 439-452.
11. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long và Nguyễn Văn Thanh (2002). Giáo trình Sinh
sản gia súc, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
12. Trần Tiến Dũng (2003). Định lượng một số hormone sinh sản và sử dụng hormone tổng hợp Estrumate khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản ở trâu, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 2:71-74.
106
13. Nguyễn Thanh Dương, Hoàng Kim Giao và Lưu Công Khánh (1995). Một số biện pháp nâng cao khả năng sinh sản của bò, Tuyển tập công trình nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật chăn nuôi, Viện Chăn nuôi, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 246-250.
14. Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, Bùi Thế Đức và Nguyễn Thanh Bình (1998). Khả năng sản xuất của đàn bò cái lai hướng sữa (HolsteinFriesian x Lai Sind) trong điều kiện chăn nuôi trang trại ở thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo khoa học, Viện Chăn nuôi, tr.16 - 18.
15. Nguyễn Quốc Đạt và Nguyễn Thanh Bình (2006). Khả năng sinh sản và sản xuất của bò Holstein Frisian thuần nhập nội nuôi ở khu vực TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 2: 12-16.
16. Nguyễn Văn Đức (2005). Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến phát triển chăn nuôi bò sữa (2003-2005), Báo cáo nghiệm thu đề tài độc lập cấp Nhà nước.
17. Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương và Lưu Công Khánh (1996). Sử dụng prostaglandin F2α để gây động dục đồng loạt cho bò cái, Hội thảo Quốc gia về khoa học và phát triển chăn nuôi đến năm 2000, Hội Chăn nuôi, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 186-189.
18. Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997). Công nghệ sinh sản trong chăn
nuôi bò, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
19. Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương, Đỗ Kim Tuyên, Lưu Công Khánh và Lê Thị Thúy (1997). Công nghệ cấy truyền phôi bò, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
20. Hoàng Kim Giao (2014). Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi bò sữa, Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 5:23-28.
21. Phạm Văn Giới, Nguyễn Văn Đức và Trần Trọng Thêm (2007a). Hệ số di truyền, tương quan di truyền, môi trường và kiểu hình giữa sản lượng sữa lứa 1, 2, 3 của bò Holstein Friesian ở Mộc Châu và Tuyên Quang, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi, Phần Di truyền giống gia súc vật nuôi, tr. 47-54.
22. Phạm Văn Giới, Nguyễn Văn Đức, Trần Trọng Thêm, Nguyễn Quốc Đạt, Lê Văn Ngọc, Ngô Đình Tân, Đinh Văn Cải, Lê Văn Thông và Lê Bá Quế (2007b). Một số tính trạng sinh trưởng, phát triển, chất lượng tinh và tỷ lệ phối có chửa của bò đực lai hướng sữa 3/4 và 7/8 HF, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 11: 9-13.
23. Hammond J., I. Johanson and F. Haring (1975). Nguyên lý sinh học của năng suất
động vật, Phan Sỹ Điệt dịch, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
24. Quản Xuân Hữu, Lê Văn Ty, Nguyễn Thị Ước, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Việt Linh và Bùi Xuân Nguyên (2003). Nghiên cứu sử dụng GnRH tái tổ hợp để điều khiển động dục đồng pha và cấy phôi cho bò, Hội nghị Khoa học Công nghệ sinh học toàn quốc 2003, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr. 646-649.
25. Quản Xuân Hữu (2006). Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng tới kết quả gây động dục đồng pha trong công nghệ cấy truyền phôi bò tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
107
26. Phan Văn Kiểm (1998). Nghiên cứu động thái Luteinizing hormone tiền rụng trứng ở bò lai hướng sữa F1 và ứng dụng trong thụ tinh nhân tạo nhằm đạt tỷ lệ thụ thai cao, Viện Chăn nuôi, tr. 41-43.
27. Phan Văn Kiểm, Trịnh Quang Phong và Tăng Xuân Lưu (2000). Kết quả nghiên cứu động thái Luteinizing Hormone tiền rụng trứng ở bò lai hướng sữa (Holstein Friensian x Lai Sind) và ứng dụng trong thụ tinh nhân tạo nhằm đạt tỷ lệ thụ thai cao, Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tr. 47-52.
28. Phan Văn Kiểm, Đào Đức Thà, Trịnh Quang Phong, Đỗ Hữu Hoan, Trịnh Văn Thân, Nguyễn Thị Hòa, Vũ Ngọc Hiệu, Nguyễn Quý Quỳnh Hoa và Tăng Xuân Lưu (2006). Xác định hàm lượng progesterone ở bò lai hướng sữa bằng kỹ thuật miễn dịch Enzyme (ELISA), Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi số 5(87): 16-19.
29. Lưu Công Khánh, Phan Lê Sơn, Nguyễn Văn Lý, Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thị Thoa và Chu Thị Yến (2004). Gây động dục đồng pha và cấy truyền phôi bò, Thông tin khoa học kỹ thuật, Viện Chăn nuôi, 6: 12-25.
30. Lương Văn Lãng và Võ Văn Sự (1979). Khả năng sinh trưởng phát triển và cho sữa của bò HF nuôi tại Nông trường Sao Đỏ, Sơn La, Tuyển tập kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật, Viện Chăn nuôi.
31. Trần Thị Loan, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Thị Dương, Khuất Thị Thu Hà và Nguyễn Yên Thinh (2012). Đánh giá khả năng sinh sản và ứng dụng một số hormone hướng sinh dục nâng cao năng suất sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Ba Vì, Hà Nội, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 5: 26-31.
32. Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Đức, Trần Sơn Hà, Nguyễn Hùng Sơn và Trần Hữu Hùng (2007). Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản và sản xuất sữa của bò HF nhập nội tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi, Phần Di truyền giống gia súc vật nuôi, tr. 38-46.
33. Tăng Xuân Lưu (1999). Đánh giá một số đặc điểm sinh sản của đàn bò lai hướng sữa tại Ba Vì, Hà Tây và biện pháp nâng cao khả năng sinh sản của chúng, Luận văn thạc sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
34. Tăng Xuân Lưu, Cù Xuân Dần và Hoàng Kim Giao (2001). Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản cho đàn bò lai hướng sữa tại Ba Vì, Hà Tây, Báo cáo Khoa học, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
35. Tăng Xuân Lưu, Phan Văn Kiểm, Trần Thị Loan và Ngô Đình Tân (2003a). Ứng dụng kết quả định lượng progesterone kết hợp chẩn đoán lâm sàng để điều trị pha thể vàng kéo dài, động dục không rõ ở bò sữa, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi.
36. Tăng Xuân Lưu, Phan Văn Kiểm, Trịnh Quang Phong và Nguyễn Quý Quỳnh Hoa, (2003b). Ứng dụng kết quả nghiên cứu hàm lượng progesterone để chẩn đoán và điều trị rối loạn sinh sản ở bò cái sữa, Hội nghị Công nghệ Sinh học toàn quốc năm 2003, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, tr. 708-711.
108
37. Tăng Xuân Lưu, Lê Trọng Lạp, Ngô Đình Tân, Vương Tuấn Thực, Nguyễn Quốc Toản, Vũ Chí Cương, Nguyễn Văn Niêm (2004). Kết quả chọn tạo đàn bò cái 3/4 và 7/8 HF hạt nhân đạt sản lượng sữa trên 4000 kg/chu kỳ tại Trung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì, Hà Tây, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, số 9, 67: 15-17.
38. Tăng Xuân Lưu, Phan Văn Kiểm, Trịnh Quang Phong và Nguyễn Quý Quỳnh Hoa (2004). Ứng dụng kết quả nghiên cứu hàm lượng progesterone để chẩn đoán và điều trị rối loạn sinh sản ở bò cái sữa, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, 2: 45-51.
39. Tăng Xuân Lưu, Trịnh Văn Thuận, Trịnh Văn Tuấn, Nguyễn Thị Thoa và Phan Văn Kiểm (2010). Báo cáo kết quả cải tiến phương pháp gây động dục đồng pha và cấy truyền phôi bò sữa cao sản bằng công nghệ in vivo và in vitro, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi.
40. Tăng Xuân Lưu, Trần Thị Loan, Vương Tuấn Thực, Ngô Đình Tân, Khuất Thị Thu Hà, Nguyễn Yên Thịnh và Đặng Thị Dương (2012). Một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian mang thai của bò sữa trong phương thức chăn nuôi nông hộ tại Ba Vì, Báo cáo khoa học năm 2011, Viện Chăn nuôi, 11: 292-304.
41. Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Võ Văn Sự và Trịnh Quang Phong (1997). Phân tích hiện trạng và hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò sữa ở các quy mô hộ gia đình tại Công ty sữa Thảo Nguyên, Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, tr. 169-179.
42. Nguyễn Kim Ninh và Lê Trọng Lạp (1992). Nghiên cứu mô hình chăn nuôi bò hướng sữa ở hộ gia đình và hiệu quả của nó, Báo cáo Khoa học Viện Chăn nuôi.
43. Nguyễn Kim Ninh (1994). Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, sinh sản và cho sữa của bò lai F1 Holstein Friesian × Lai Sind nuôi tại Ba Vì, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
44. Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Thưởng, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Lạp, Nguyễn Hữu Lương, Lê Văn Ngọc và Tăng Xuân Lưu (1995). Kết quả nghiên cứu về bò lai hướng sữa và xây dựng mô hình bò sữa trong dân, Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi (1969 - 1995), Viện Chăn nuôi, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 225 - 231.
45. Vũ Văn Nội, Trần Trọng Thêm, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Hùng Sơn, Trần Sơn Hà, Ngô Đình Tân và Lê Thu Hà (2007). Xác định khả năng sinh trưởng, sinh sản, sản xuất sữa của bò lai hướng sữa 75% HF cố định ở thế hệ thứ nhất, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi,4: 28-35.
46. Nguyễn Hùng Nguyệt, Trần Tiến Dũng, Phan Văn Kiểm (2009). Chẩn đoán nguyên nhân chậm sinh ở bò sữa bằng phương pháp Elisa, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 1/2009, tr 55 – 59.
47. Trịnh Quang Phong (1996). Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm khắc phục hiện tượng chậm sinh ở bò cái Hà - Ấn và bò cái Lai Sind góp phần nâng cao tỷ lệ đẻ cho đàn bò, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
109
48. Trịnh Quang Phong, Nguyễn Văn Đức, Phạm Văn Giới, Phạm Bảo Ngọc, Nguyễn Hữu Lương, Phan Văn Kiểm, Phan Trung Hiếu, Đặng Trương Phục, Nguyễn Thái Thức và Nguyễn Đình Đảng (2012). Ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản và phòng chống viêm vú bò sữa tại khu vực Hà Nội, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 8: 19-25.
49. Roelofs J.B., E.F.J.C.M. Van, W. Hazeleger, N.M. Soede and B. Kemp (2005). Mối tương quan giữa hàm lượng progesterone trong sữa và trong huyết tương với thời điểm rụng trứng ở bò sữa, Vũ Ngọc Hiệu dịch, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, Viện Chăn nuôi, 5: 43-48.
50. Shearer, J.K. (2006). Các TEST chẩn đoán progesterone trong sữa bò và ứng dụng của chúng trong lĩnh vực sinh sản bò sữa, Nguyễn Thị Kim Anh dịch, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, Hội Chăn nuôi Việt Nam, 4: 40-42.
51. Nguyễn Ngọc Tấn, Bùi Ngọc Hùng, Phạm Văn Quyến, Đoàn Đức Vũ và Giang Visal (2014). Thực trạng về tình hình sinh sản của bò sữa khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 6: 76-84.
52. Nguyễn Trọng Tiến, Mai Thị Thơm, Nguyễn Xuân Trạch và Lê Văn Ban (1991). Giáo trình chăn nuôi trâu bò, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
53. Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi và Lê Mộng Loan (1996). Sinh
lý học gia súc, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
54. Trần Trọng Thêm (1986). Một số đặc điểm về khả năng sản xuất của các nhóm bò Lai Sind với bò sữa gốc Hà Lan, Luận án Phó tiến sĩ Nông nghiệp,Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
55. Lê Văn Thọ và Lê Xuân Cương (1979). Kích dục tố ứng dụng trong chăn nuôi, Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
56. Nguyễn Văn Thưởng (1984). Kết quả nghiên cứu cải tạo giống bò nội theo hướng
khai thác sữa, Viện chăn nuôi.
57. Nguyễn Văn Thưởng và Nguyễn Văn Đức (1991). Đặc điểm di truyền một số tính trạng bò lai hướng sữa Việt Nam, Hội nghị Khoa học kỹ thuật Chăn nuôi - Thú Y, Bộ Nông nghiệp và Công nghệ Thực phẩm, tr. 12-13.
58. Nguyễn Văn Thưởng, Trần Doãn Hối (1992). Đặc điểm di truyền bò lai hướng sữa Việt Nam, Kết quả nghiên cứu khoa học, Viện Chăn nuôi (1985-1990), Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr. 88-93.
59. Nguyễn Xuân Trạch (2004a). Chăn nuôi bò sinh sản, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
60. Nguyễn Xuân Trạch (2004b). Khả năng sinh sản và sản xuất sữa của các loại bò lai hướng sữa nuôi tại Mộc Châu và Hà Nội, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, 1: tr. 12-14.
61. Nguyễn Thị Ước (1996). Nghiên cứu gây rụng trứng nhiều và gây động dục đồng pha trong cấy phôi trâu bò, Luận án Phó Tiến sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
62. Nguyễn Tiến Văn (1992). Một số đặc điểm sinh sản của nhóm bò lai vùng duyên hải Miền trung, Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học trường Đại học Nông nghiệp Huế, tr. 146-149.
110
63. Viện Chăn nuôi (2002). Phương pháp ELISA để kiểm tra progesterone, dự án nâng cao thụ tinh nhân tạo bò, Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Viện Chăn nuôi, Hà Nội.
64. Xưxoep A.A (1985). Sinh lý sinh sản gia súc, Cù Xuân Dần, Lê Khắc Thận dịch,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
65. Abdelrahim A.H., T. Nakao and H. Kubota (2004). Luteal function and conception in lactating cows and some factors influencing luteal function after first insemination, Theriogenology, 62: 217-225.
66. Adams D.A., R.R. Nelson and P.A. Todd (1992a). Perceived Usefulness, Ease of Use, and Usage of information Technology, A Replication, MIS Quarterly, 16 (2): 227-247.
67. Adams G.P., R.L. Matteri and O.J. Ginther (1992b). Effect of progesterone on ovarian follicles, emergence of follicular waves and circulating follicle- stimulating hormone in heifers, Journal of Reproduction and Fertility, 95: 627-640.
68. Agarwal S.K., RL. Shanker, Dhoble and S.K. Gupta (1987). Synchronisation of oestrus and fertility with PGF2 alpha cossbred cattle, Indian J. Anim. Sci., 54 (4): 292 - 293.
69. Ake L., R. Jesus, G. Alfaro, E. Miltza, A. Aguayo, M. Ana and L. Holy (1999). Plasma progesterone concentration and embryo yield in superovulated cow under tropical conditions in the state of Yucatan in Mexico, Veterinaria- Mexico, 30(1): 19-24.
70. Alinmer M.A. (2005). Comparison of an oestrus synchronization protocol with Oestradiol benzoate and PGF2 alpha and insemination at detected oestrus to a timed insemination protocol (Ovsynch) on reproductive performance of lactating cows”, Reprod Nutr Dev, pp. 699-708.
71. Allen W.E. (1975). The effect of human chorionic gonadotropin and exogenous progesterone on luteal function during early pregnancy in pony mares, Animal Reproduction Science, UK, 6(3): 223-228.
72. Allen W.E. (1976). Pregnancy protecting effect of progesterone against human chorionic gonadotropin challenge in mares, Irish Veterinary Journal, 30(2): 23-27.
73. Allen W.E. (1984). Hormone control of early pregnancy in the mare, Animal reproduction sciene, TAB Equine Fertility unit, Animal research station, 307 Huntingdon road, Cambridge CB3 OJQ, UK, pp. 283-304
74. Amlstrong D.V. (1994). Heat Stress Interaction with Shade and Cooling (Symposium: Nutition and Heat Stress), University of Arizona.
75. Baruselli P.S., M.O. Marques, L.F. Nasser, E.L. Reis and G.A. Bo (2003). Effect of ECG on pregnant rates of lactating Zubu beef cows treated with CIRD-B devices for time artificial insemination, Therionology an internationnal Journal Peproduction, Elsevier, 59(1): 214.
111
76. Bilego, U.O., F.C. Santos, R.N., Porto, B.C., Pires, Oliveira, B.D., Filho, M.A., Viu and M.L., Gambarini (2013). Ovarian evaluation of Girolando (Holstein × Gir) heifers submitted to a GnRH-PGF2α GnRH protocol in the dry or rainy seasons in the tropical savannah, Trop. Anim. Health Prod. 45(7): 1461-1467.
77. Bor T.C., Dhople, S.K. Guptaand N. Baishya (1986). Some observation on response to PGF2 alpha analogue in suboestrus crossbred heifers in tropical climate,Indian J. Anim. Sci 1986.
78. Busse T. (1995). Investigation on diffirent factors affecting embryo recovery fromsuperovulated cows. Freien univessitat Berlin, 119 pp; 234 ref.
79. Campbell B.K., R.J. Scaramuzzi and R. Webb (1995). Control of antral follicle development and selection in sheep and cattle, Journal of Reproduction and fertility, 49: 335-350.
80. Chamberlain A. (1989). Milk production in the tropics, intermediate Tropical Agriculture Series(W J A Payne, Editor), Longman Group UK Limited, pp 210-219.
81. Cooper M.J. and B.J.A. Furr (1976). The use of prostagladins in the control of the bovine oestrous cycle, In: L.E.A. rowson (Ed.), Egg transfer in cattle, OBE, FRCVS, FRS, Directorate general for Agriculture, pp. 249-265.
82. Crowe M.A. (2008). Resumption of ovarian cyclicity in post-partum beef and dairy
cows. Reproduction in Domestic Animals, 43: 20-28.
83. Cutaia L., R. Tribulo, D. Moreno and G.A. Bo (2003). Effect of ECC treatmant in postpartum beef cows synchronized with progesterone vaginal device and estradiol benzoat and inseminated at a fix time, Theriology an international Journal of Animal, Reproduction, Argentina.
84. Dhoble R.L. and S.K. Gupta (1987). Progtaglandin F2 alpha analogue in managemaent of postpartum suboestrus in cows, Indian J. Anim. Sci., 57(5): 439 - 444.
85. Dochi O., K. Konishi, K. Imai, M. Tomizawa, H. Okuchi, M. Okada, Y. Doto and H. Takakura (1998). Effect of Syncro-Mate B implants (SMB) on embryo production by repeated superovulation in Japanese black cattle, Animal - Science and Technology (Japan), 69(4): 370-375.
86. Eissa H.M., R.F. Nachreiner and K.R. Refsal (1997). Skim milk progesterone in pregnant cows from insemination throughout lactation, Veterinary research Communication, 18: 149-157.
87. FAO & IAEA (1993). Proceedings of Final Research. Animal Production and
Health Div., p. 157-164.
88. Fukui Y., D. Ishikawa, N. Ishida, M. Okada, R. Itagaki and T. Ogiso (1999). Comparison of fertility of estrous synchronized ewes with four different intravaginal devices during the breeding season, Journal of Reproduction and Development (Japan), 45(5): 337-343
89. Gautam R., N.C. Hsu and K.M. Lau (2010). Premonsoon Aerosol Characterization and Radiative Effects over the Indo-Gangetic Plains: Implications for Regional Climate Warming, J. Geophys, Res. 115: D17208, doi: 10.1029/201 0JD013819.
112
90. Gavara Q.A., M.G. Golazo, M.F. Martinez, R.E. Wilde and J.P. Kastelic (2003). Used CIRD infectable progesterone for resynchronization of estrus in fix- time inseminated beef heifers, Theriology, 59: 221.
91. Giordano J.O., M.C. Wiltbank, P.M. Fricke, S. Bas, R. Pawlisch, J.N. Guenther and A.B. Nascimento (2013). Effect of increasing GnRH and PGF2α dose during Double-Ovsynch on ovulatory response, luteal regression, and fertility of lactating dairy cows, Theriogenology, 80(7): 773-783.
92. Green Cross Veterinary Products Co, LTD. (2001). One-step test kit for the diagnosis of early non-pregnancy of inseminated cow by immunochro- matographic assay, Genedia protest, Korea.
93. Henricks R.C, L.S. Peltier and Kushinsky (1986). Effect or ferprostelene,A prostaglandin F2 alpha analogue on plasma levels of estradiol - 17 and progesterone in Cycles heifers.
94. Hernandez-Ochoa I., B.N. Karman and J.A. Flaws (2009). The role of the aryl the female reproduction system, Biochem,
in
hydrocarbon receptor Pharmacol, 77: 547-559.
95. Homeida (2002). Progesterone levels in skim milk in cow with conceived and not
conveived after AI, Hiroshima University, Japan.
96. Isobe N. (2002). Theory and application of ELISA, Hiroshima Universsity, Japan.
97. Isobe N. (2004). Incidence of silent ovulation in dairy cows during post partum
period, Dtsch Tierarztl Wochenschr, 111(1): 35-8.
98. Kafi M., A. Mirzaei, A. Tamadon, and M. Saeb (2011). Factors affecting the occurrence of post partum prolongedluteal activity in clinically healthy high- producing dairy cows, Theriogenology, 77(2): 421-429.
99. Lee J.M., H.S. Kim, S.G. Jeong and J.K. Jung (1996). Studies on the early pregnancy determination cows by using the enzyme immunoassay and radio-immunoassay in milk, Assian Australian Journal of Animal Science, 9(3): 299-302.
100. Louis T.M., H.D. Haf and D.A. Morrow (1972). Estrus and ovulation after PGF2α
in cows, J.Anim Sci., 35: 274-248,
101. Long S.T., C. Yoshida andT. Nakao (2009). Plasma progesterone profile in ovariectomized beef cows after intra-vaginal insertion of new, once-used or twice-used CIDR,Reprod Domest Anim.Volume 44, Issue 1, pages 80-82.
102. Lucy M.C. (2001). Reproductive loss in high-producing dairy cattle: where will it
end? J. Diry Sci., 84: 1277-1293.
103. Lussier J.G., P. Matton and J.J. Dufour (1987). Growth rates of follicles in the ovary of cow, Journal of Reproduction and Fertility, 81: 301-307.
113
104. Mann G.E., G.E. Lamming and M.D. Fray (1998). Role of early lutein phase progesterone in control of the timing of the luteolytic signal in cows, Journal of Reproduction and Fertility, 113: 47-51.
105. Mann G.E., S.J. Mann, D. Blache and R. Webb (2005). Metabolic variables and plasma leptin concentrations in dairy cows exhibiting reproductive cycle abnormalities identified through milk progesterone monitoring during the post partum period, Animal Reproduction Science, 88: 191-202.
106. Martiner M.F., J.P. Kastelic, G.P. Adams and R.J. Mapletoft (2001). The use of GnRH or estradiol to facilitate fixed-time insemination in an MGA based synchronization regimen in beef cattle, Anim. Reprod. Sci., 67: 221-229.
107. Maurice J.S., A.F. Jhon and D.C. Alan (1981). Direct enzyme immuno assay of
progesterone in bovine milk, Steroid, 38(1): 45-52.
108. Mialot J.P., G. Laumonnier, C. Ponsart, H. Fauxpoint, E. Barassin, A.A. Ponter and Deletang (1999). Postpartum subestrus in dairy cow: Comparison of treatment with Prostaglandin F2 alpha or GnRH + Prostaglandin F2 alpha + GnRH, Theriogenology, 52(5): 901-911.
109. Nakao T., A. Sugihashi and N. Saga (1983a). Use milk P4 enzyme immuno assay for differential diagnosis of follicular cyst, luteal cyst and cystic corpus luteum in cows, Journal animal. Veterinary res., 44: 888-890.
110. Nakao T., A. Sugihashi, and E. Tosa (1982a). Use of milk P4 ELISA for early
pregnancy diagnosis in cows, pp. 267-272.
111. NakaoT., A. Sugihashi, Y. Ishibashi, F. Tosa, Y. Nakagawa, H. Yoto, T. Nomura, T. Ohe, S. Ishimi, H. Takahshi, M. Koiwa, N.T. Sunodo and K. Kawata (1982b). Use of milk progesterone Enzyme immune assay for early pregnancy diagnosis in cows, Theriogenology, Japan, 18(3): 267-274.
112. Nakao T., A. Sugihashi, N. Saga, N. Tsunoda and K. Kawata (1983b). Use of milk progesterone enzyme immune assay for differential diagnosis of follicular cyst, luteal cyst, and cystic corpus luteum in cows, American Journal of Veterinary Research, 44(5).
113. Nakao T., A. Sugihashi, N. Saga, N. Tsunoda and K. Kawata (1983c). An improved enzyme immune assay of progesterone applied to bovine milk, Br. Veterinary, Japan 13(9): 109-117.
114. Niekerk F.E.V. and C.H. Van (1998). The effect of dietary protein on reproduction in the mare VI, Serum progesterone concentration during pregnancy. Journal of the South African Veterinary Association, South Africa, 69(4): 143-149.
115. Opsomer G., Y.T. Grohn, J. Hertl, M. Coryn, H. Deluyker and A.D. Kruif (2000). Risk factors for post partum ovarian dys-function in high producing dairy cows in Belgium, A field study, Theriogenology, 53: 841-857.
116. Plotka E.D., C.W. Foley, D.M. Witherspoon, G.C. Schmoller and D. De Goetsch (1975). Periovulatory changes in peripheral plasma progesterone and oestrogen concentrations in the mare, American Journal of veterinary Research, 36(9): 1359-1362.
114
immune assay
(ELISA)
117. Prakash B.S., H.H.D. Meyer, E. Schallenberger and D.F.M. Van De Wiel (1987). Development of a sensitive enzyme for progesterone determination in unextracted bovine plasma using the second antibody technique, Journal Steroid Biochemistry, 28(6): 623-627.
118. Pursley J.R., M.C. Wiltbank, J.S. Stevenson, J.S. Ottobre, H.A. Garverick and L.L. Aderson (1997). Pregnancy rate per artificial insemination for cows and heirfers inseminated at synchronized ovulation for synchronized estrus, J. Dairy Sci., 80: 295-300.
119. Royal M.D., A.O. Darwash, A.P.F. Flint, R. Webb, J.Uwe Woolliams and G.E. Lamming (2000). Declining fertility in dairy cattle: changes in traditional and endocrine parameters of fertility, Anim. Sci., 70: 487-501.
120. Russe, I. (1983). Oogenesis in cattle and sheep, Bibliotheca Anatomica, 24: 77-92.
121. Sato K., J. Mori, H. Masudaaud,T. Kahashi, S. Kudo, M. Kobayashi, N. Saito, S. Yamada, S. Hanatate, T. Misumoto, T. Abe, H. Takemoto, and T. Yanai (1992a). Artificial insemination manual for cattle, Japan- Japan internation cooperation agency (8) 2003
122. Sato K., N. Funayama, A. Nagafuchi, S. Yonemura, S. Tsukita and S. Tsukita (1992b). A gene family consisting of ezrin, radixin, and moesin, Its specific localization at actin filament /plasma membrane association sites, J. Cell. Sci., 103: 131-143.
123. Sato T., K. Nakata, Y. Uchiyama, Y. Kimura, N. Fujuwara, Y. Sato and M. Umeda (2005). Effect of pretreatment with different doses of GnRH to synchronize follicular wave on superstimulation of follicular growth in dairy cattle, J.Teprod. dev., 573.
124. Shea B.F., D.J. Hines, D.E. Light Food, G.W. Ollis and S.M. Olson (1981). The transfer of bovine embryo, Pro. EEC Seminer Egg Transfer in cattle, pp. 145-152.
125. Shearer J.K., D.V.M., M.S., D.K., and M.S. Beede (1990). Effects of high environmental temperature on production, reproduction, and health of dairy cattle, Agripractice, 11(4): 6-8.
126. Shephard R.W. (2013). Efficacy of inclusion of equine chorionic gonadotropin into a
treatment protocol for anoestrous dairy cows, NZ. Vet. J., 61(6): 330-336.
127. Shrestha H., T. Nakao, T. Higaki, T. Suzuki and M. Akita (2004a). Resumption of in high - producing Holstein cows,
postpartum ovarian cyclicity Theriogenology, pp. 637-649.
128. Shrestha H., T. Nakao, T.Higaki, T. Suzukiand M. Akita (2004b). Effects of abnormal ovarian cycles during pre-service period postpartum on subsequent reproductive performance of high-producing Holstein cows, Theriogenology, 61(7-8): 1559-1571.
115
129. Sipilop R.M. (1967). Progesterone levels in skimmilk in cows which conceived
and not conceived after AI, Hiroshima Univ. Journal.
emergence with
follicle-wave
estradiol
130. Souza L.B., R. Dupras, L. Mills, Y. Chorfi and C.A. Price (2013). Effect of synchronization of and progesterone and superstimulation with follicle-stimulating hormone on milk estrogen concentrations in dairy cattle, Can. J. Vet., 77(1): 75-78.
131. Stanley C.J., F. Paris, A.E. Webb, R.B. Heap, S.T. Ellis, M. Hamon, A. Worsfold and J.M. Booth (1986). Use of a new and rapid milk progesterone assay to monitor reproductive activity in the cow, The Veterinary Record, 118: 664- 667.
132. Tanaka Y., K. Nakada, M. Moriyoshi and Y. Sawamukai (2001). Appearance and number of follicles and change in the concentration of serum FSH in female bovine fetuses, Animal Reproduction, 121: 777-782.
133. Tervit H.R., L.E.A. Rowson and A.L. Brand (1973). Sychronization of oestrus in cattle using a protaglandin F2 alpha analogue- 1973, ICI 79939, J. Report, Fert., 34: 1979 - 1981.
134. Valheim J. (1996). A field study on the effect of an intravaginal hormone - releasing device (PRID), Norsk - veterinaertidsskift, 108(12). 878 - 879. 1 ref.
135. Washbum S.P., W.J. Sivia, C.H. Brown, B.T. McDanial and A.J. McAllister (2002). Trends in productive performance in Southeatern Holstein and Jersey DHI herds, J. Dairy Sci., 85: 244-251.
136. Wolfenson D., Z. Roth and R. Meidan (2000). Impaired reproduction in head- stressed cattle: basic and applied aspects, Animal reproduction science, pp. 535-547.
116
PHỤ LỤC
I. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. ĐÁNH GIÁ ĐIỂM THỂ TRẠNG LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC NĂNG BUỒNG TRỨNG BÒ
117
Thang điểm thể trạng bò theo Sato, 1992
BUỒNG TRỨNG BÒ
Buồng trứng có hoạt động Buồng trứng không hoạt động
118
Thiểu năng buồng trứng Buồng trứng không hoạt động
Thể vàng ngày thứ 6, 7 trong gây rụng trứng nhiều
Thể vàng sinh lý ngày thứ 7-8 của chu kỳ
119
Thể vàng tồn lưu
Thể vàng và nang trứng song song tồn tại trên buồng trứng
Thể vàng và bào thai bò lúc 60 ngày tuổi
120
Thể vàng trong thời kỳ mang thai 45-70 ngày và các loại thể vàng khác nhau
Các dạng u nang buồng trứng 2. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
121
Hình ảnh siêu âm buồng trứng và khám buồng trứng
Siêu âm chẩn đoán hoạt động buồng trứng và xác định có thai trên bò và phòng thí nghiệm
122
Chẩn đoán thai sớm bằng siêu âm
Kiểm tra trạng thái hoạt động buồng trứng qua trực tràng
Phân tích P4 trong phòng thí nghiệm
123
Dụng cụ đặt âm đạo Vòng Prid Vòng Cird
Vòng Cird Vòng CUEMETE
124
Thao tác tiêm và đặt vòng Cird cho bò
Một số chế phẩm hormone dùng trong điều trị chậm sinh ở bò
125
Dụng cụ hỗ trợ phát hiện động dục ở bò - đo điện trở âm đạo
Phối giống cho bò trong thí nghiệm
Chẩn đoán có thai bằng siêu âm và bê sinh ra từ can thiệp chậm sinh
Bằng và lễ trao giải thưởng cho tác giả của thành phố Hà Nội về: Giải pháp
126
hữu ích trong sinh sản ở bò sữa, bò thịt năm 2014
II. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG HORMONE PROGESTERONE
1. Phương pháp lấy mẫu
1.1. Lấy mẫu máu
- Thời gian lấy mẫu vào buổi sáng;
- Lấy máu ở tĩnh mạch cổ hoặc ở động mạch đuôi bằng xi lanh 5ml và kim
18G vô trùng, mỗi lần lấy 3-5ml máu;
- Đựng máu trong ống nghiệm vô trùng có chứa sẵn chất chống đông;
- Bảo quản mẫu trong hộp đá và chuyển về phòng thí nghiệm trong thời
gian không quá 3 giờ sau khi lấy.
1.2. Lấy mẫu sữa
Thời gian lấy mẫu vào buổi sáng: vắt sữa vào xô, thùng và lắc đều, sau đó lấy
10 ml/con trong ống nghiệm vô trùng; bảo quản mẫu sữa trong đá lạnh (hộp xốp đá)
và chuyển đến phòng thí nghiệm trong vòng 3 giờ sau khi lấy.
2. Nguyên lý phương pháp ELISA trong định lượng progesterone tại phòng
thí nghiệm
Phương pháp ELISA định lượng progesterone trong đề tài nghiên cứu của
chúng tôi dựa trên nguyên lý của phản ứng cạnh tranh gián tiếp theo quy trình
của Tổ chức nghiên cứu khoa học động vật, trường Đại học tổng hợp Hiroshima,
Nhật Bản. Các bước tiến hành như sau:
- Cho lần lượt vào các giếng nhựa đã được gắn trước kháng kháng thể đặc
hiệu của progesterone:
+ Một lượng mẫu nhất định có chứa progesterone cần chẩn đoán.
+ Một lượng nhất định dung dịch progesterone gắn enzyme (Horse Radish
Peroxydase).
+ Một lượng kháng thể đặc hiệu kháng progesterone.
- Để cho quá trình gắn giữa progesterone-kháng thể-kháng kháng thể xảy
ra, ta đem ủ giếng trong một thời gian nhất định sau đó đổ bỏ dung dịch trong
giếng và rửa để loại bỏ phần không gắn kết.
- Cho cơ chất vào giếng và ủ lần thứ hai để tạo phản ứng cạnh tranh. Phản
127
ứng cạnh tranh giữa cơ chất và enzyme sẽ tạo màu cho dung dịch.
2
1
3
Kháng kháng thể P4 Kháng thể kháng P4 P4 ®· g¾n enzyme C¬ chÊt (OPD)
Hình 1.1. Cơ chế cạnh tranh của progesterone trong phản ứng ELISA
Căn cứ vào mức độ biểu hiện về màu của dung dịch cần định lượng so với
màu của dãy dung dịch chuẩn, có thể nhận biết nồng độ progesterone thông qua
quan sát sự khác nhau về màu sắc của dung dịch trong giếng bằng mắt thường
hoặc bằng máy so màu quang phổ.
Lượng progesterone gắn enzyme và lượng progesterone có trong mẫu cần
định lượng có mối tương quan tỷ lệ nghịch khi cùng gắn kháng thể trong giếng.
Nồng độ progesterone trong mẫu cần phân tích càng cao thì càng có ít
progesterone-enzyme được gắn vào kháng thể trong giếng, do đó màu của phản
NẾU NỒNG ĐỘ P4 TRONG MÁU CAO
NẾU NỒNG ĐỘ P4 TRONG MÁU CAO
Mẫu
Mẫu
Rửa bỏ phần không gắn
OPD (0-Phenylenalamine)
HRA-P4
HRA-P4
Nhạt màu
ứng khi có cơ chất vào trong giếng sẽ nhạt (Hình 1.2).
128
Hình 1.2. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu cao
Nếu nồng độ progesterone trong mẫu cần phân tích thấp, sẽ có nhiều
progesterone-enzyme được gắn vào kháng thể trong giếng, do đó màu của phản
NẾU NỒNG ĐỘ P4 TRONG MÁU THẤP
NẾU NỒNG ĐỘ P4 TRONG MÁU THẤP
Mẫu
MÉu
Rửa bỏ phần không gắn
OPD (0-Phenylenalamine)
HRA-P4
HRA-P4
Sẫm màu
ứng khi cho cơ chất vào trong giếng sẽ sẫm màu (Hình 1.3).
Hình 1.3. Trường hợp nồng độ progesterone trong máu thấp
2.1. Các bước tiến hành phản ứng ELISA
Bước 1: Chuẩn bị
- Chuẩn bị thiết bị phục vụ (Bảng 1)
- Chuẩn bị hoá chất (Bảng 2)
- Chuẩn bị dụng cụ:
+ Pipét các loại
+ Đĩa nhựa trên có giếng, mỗi đĩa chứa 96 giếng; ống nghiệm, cốc thuỷ
tinh.
- Chuẩn bị Kít định lượng: Bộ Kít chuẩn trong phản ứng ELISA để định
lượng progesterone bao gồm:
+ Kháng kháng thể progesterone (Second antibody): là kháng thể dễ
kháng lại kháng thể (IgG) của thỏ, sản phẩm này do trường Đại học tổng hợp
Hiroshima (Nhật Bản) sản xuất.
+ Kháng thể kháng progesterone (First antibody).
+ Progesterone gắn enzyme HRP_P4 (Horse Radish Peroxydase
Progesterone).
- Chuẩn bị mẫu định lượng: Mẫu để phân tích hàm lượng progesterone là
129
huyết thanh (được lấy từ máu) hoặc sữa.
+ Phương pháp lấy mẫu huyết thanh: Chọn đối tượng gia súc cần kiểm tra,
lấy 5-10ml máu từ tĩnh mạch cổ hoặc đuôi vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối.
Huyết thanh cần được tách ra khỏi máu càng sớm càng tốt sau đó bảo quản ở
nhiệt độ lạnh sâu (-300C). Có hai phương pháp tách huyết thanh:
Cách thứ nhất: Máu sau khi được lấy ra khỏi tĩnh mạch, để trong ống
nghiệm ở một vị trí cố định, sau một thời gian phía trên ống nghiệm xuất hiện
phần dịch trong màu vàng, phía bên dưới là phần kết tủa của tế bào máu. Gạt bỏ
lớp gellatin trên bề mặt lớp dịch trong và hút lấy phần dịch lỏng màu vàng đó
chính là mẫu huyết thanh cần định lượng. Cách này thường được áp dụng để lấy
huyết thanh ngựa.
Cách thứ hai: Lấy máu từ tĩnh mạch cho vào ống nghiệm, bổ sung thêm 20ml
Heparin và lắc cho tan đều sau đó đưa lên máy ly tâm 3.000 vòng/phút để tách huyết
tương. Huyết tương thu được đem bảo quản ở nhiệt độ lạnh sâu (-300C).
+ Đối với mẫu sữa, bảo quản bởi K2Cr2O8 sau đó ly tâm (3.000
vòng/phút) để tách bơ ra khỏi sữa.
Bước 2: Làm phản ứng ELISA
Phản ứng ELISA được thực hiện trong các giếng của đĩa nhựa cứng, mỗi
đĩa có 96 giếng. Quá trình của phản ứng trải qua ba giai đoạn: Gắn kháng thể vào
các giếng nhựa, tạo phản ứng kết hợp đặc hiệu kháng kháng thể-kháng thể-kháng
nguyên và phản ứng cạnh tranh giữa enzyme với cơ chất.
* Giai đoạn gắn kháng thể vào các giếng (hay còn gọi là “coat” đĩa hay
“coát” giếng):
- Pha loãng kháng kháng thể đến nồng độ 4l/ml bằng dung dịch đệm
carbonat (Carbonate buffer).
- Cho 100l kháng kháng thể đã pha loãng trên vào từng giếng của đĩa
nhựa (giếng mới chưa sử dụng).
- Ủ giếng nhựa có chứa kháng kháng thể ở nhiệt độ phòng trong 48 giờ, trong
130
thời gian này kháng kháng thể sẽ bám vào bề mặt của đáy và thành giếng.
Lưu ý: Để tránh hiện tượng bay hơi của dung dịch trong các giếng, sau khi
cho kháng kháng thể vào các giếng, sử dụng một miếng film dính dán kín trên
mặt đĩa nhựa và miệng các giếng.
- Sau 48 giờ lấy đĩa nhựa ra, bóc miếng film dán trên bề mặt, đổ bỏ dung
dịch trong giếng, rửa ba lần các giếng nhựa bằng dung dịch nước sinh lý.
- Cho vào mỗi giếng nhựa trên 200l dung dịch Blocking, dán film dính
lên mặt đĩa rồi tiếp tục ủ ở nhiệt độ phòng trong 24 giờ. Trong thời gian này dung
dịch Blocking sẽ gắn chặt kháng kháng thể vào đáy và thành giếng.
- Sau khi ủ xong 24 giờ, đổ bỏ dung dịch trong các giếng. Làm khô các
giếng của đĩa nhựa ở nhiệt độ phòng sau đó dùng film dính dán kín để tránh sự
hút ẩm và đem bảo quản ở 40C chuẩn bị cho phản ứng ELISA.
Lưu ý: Các giếng càng được làm khô hoàn toàn thì kháng kháng thể càng
được gắn chặt vào đáy và thành giếng.
* Giai đoạn tạo phản ứng kết hợp đặc hiệu kháng kháng thể - kháng thể -
kháng nguyên:
- Tách Progesterone ra khỏi mẫu:
+ Tráng ống nghiệm bằng dung dịch hỗn hợp giữa cồn Methanol và
Diethyl ether với tỷ lệ pha trộn 1:1 (1ml hỗn hợp cho 1 ống nghiệm). Để khô ống
nghiệm trong tủ sấy.
+ Lấy ống nghiệm trong tủ sấy ra, cho vào mỗi ống 100l huyết thanh.
+ Cho thêm 3ml Petrolium ether, đậy nắp ống nghiệm và lắc bằng máy
Sheker trong thời gian 10 phút (có thể lắc bằng tay 30 lần sau đó đưa vào máy lắc
nhỏ Vortex trong thời gian 1 phút) cho progesterone hoà tan hết trong petrolium
ether.
+ Mở nắp và để cố định ống nghiệm trong vòng 10 phút cho phần không
tan lắng hết xuống đáy.
+ Để ống nghiệm theo chiều thẳng đứng và ngâm trong cồn lạnh (cồn
Methanol 50%) ở 30oC trong thời gian 1-3 phút để phần không tan dưới đáy ống
nghiệm đông cứng lại.
131
+ Đổ phần dung dịch có ether ở phía trên sang ống nghiệm khác.
+ Ngâm ống nghiệm có dung dịch chứa ether vào cốc nước, nâng từ từ
nhiệt độ của nước lên 60oC để dầu ether bay hơi hết. Lúc này trong ống nghiệm
chỉ còn lại progesterone bám vào thành và đáy ống nghiệm.
+ Cho vào ống nghiệm 100l dung dịch Assay buffer, lắc kỹ bằng máy
Vortex trong thời gian 1 phút để progesterone hoà tan trong dung dịch đệm sẽ thu
được dung dịch mẫu cần định lượng.
- Thực hiện phản ứng kết hợp đặc hiệu theo cơ chế cạnh tranh
+ Cho vào mỗi giếng 50l dung dịch mẫu hoặc dung dịch chuẩn.
+ Cho vào mỗi giếng 5l dung dịch HRP-P4 (progesterone đã gắn
enzyme).
+ Cho thêm vào mỗi giếng 50l dung dịch kháng thể progesterone.
+ Dùng film dính dán kín miệng các giếng để tránh bay hơi đồng thời đưa
đĩa nhựa lên máy Vortex lắc nhẹ trong vòng 1 phút.
+ Đem các giếng ủ ở nhiệt độ phòng trong thời gian 2 giờ hoặc ủ qua đêm
trong tủ lạnh 4oC.
Lưu ý: Vì thí nghiệm đòi hỏi độ chính xác rất cao nên mỗi mẫu cần lặp lại
ít nhất 2 lần (mỗi mẫu làm vào 2 giếng) theo sơ đồ như sau:
8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6 7
17 25 25 33 33 1 1 9 9 17 A S1 S1
18 26 26 34 34 2 2 10 10 18 B S2 S2
19 27 27 35 35 3 3 11 11 19 C S3 S3
20 28 28 36 36 4 4 12 12 20 D S4 S4
21 29 29 37 37 5 5 13 13 21 E S5 S5
22 30 30 38 38 6 6 14 14 22 F S6 S6
23 31 31 39 39 H H 7 7 15 15 23 G
24 32 32 40 40 L L 8 8 16 16 24 H
Ghi chú: - Các giếng nhựa ở cột dọc 1 và 2 chứa mẫu chuẩn để so sánh,
trong đó: S1-S2: Dãy dung dịch progesterone chuẩn có nồng độ (ng/ml) lần lượt
132
là: 0; 0,1; 0,3; 1; 3; 10 (ng/ ml).
H: Mẫu chuẩn có nồng độ progesterone cao
L: Mẫu chuẩn có nồng độ progesterone thấp
H và L luôn được đo ở mọi lần thí nghiệm nhằm tính hệ số sai khác và độ
lệch chuẩn giữa các lần thí nghiệm.
- Các giếng còn lại có số từ 1 đến 40 thuộc các cột dọc từ 3 đến 12 là mẫu
chứa progesterone cần định lượng, mỗi mẫu 2 giếng đánh số thứ tự giống nhau.
* Giai đoạn thực hiện phản ứng cạnh tranh giữa enzyme và cơ chất
- Đổ bỏ dung dịch trong giếng sau khi ủ, rửa sạch giếng bằng nước cất để
loại bỏ phần không kết hợp.
- Cho vào mỗi giếng 150l dung dịch OPD (cơ chất).
- Ủ giếng trong thời gian 30 phút ở nhiệt độ phòng để phản ứng giữa cơ
chất và enzyme xảy ra.
- Cho vào mỗi giếng 50l dung dịch H2SO4 6N để dừng phản ứng, lúc này
màu của dung dịch trong giếng chuyển từ màu vàng sang màu da cam.
- Đưa đĩa vào đầu đọc để đọc màu trên quang phổ kế với bước sóng
490nm.
Từ kết quả thu được, tiến hành vẽ đường cong chuẩn biểu thị mối tương
quan giữa mật độ quang học (Optical Density-OD) với nồng độ của dãy dung
dịch chuẩn.
2,5
2,0
1,5 1,0 0,5 0
0
0,1 1,0 10 100
Đường cong có dạng như sau:
133
Nồng độ progesterone (ng/ml)
Đại lượng biểu thị mật độ quang học luôn tỷ lệ nghịch với đại lượng biểu
thị nồng độ progesterone có trong mẫu cần đo. Khi giá trị của đại lượng biểu thị
mật độ quang học càng cao thì nồng độ progesterone trong mẫu càng thấp và
ngược lại.
Đối chiếu kết quả về mật độ quang học với đường cong chuẩn biểu thị
nồng độ progesterone của dãy dung dịch chuẩn để xác định được nồng độ của
progesterone trong mẫu cần định lượng.
Bảng 1: Các thiết bị phục vụ cho phản ứng ELISA
Tên thiết bị Chức năng
Máy ly tâm (Centrifuge) Ly tâm mẫu để tách huyết thanh
trong máu hoặc tách bỏ bơ trong sữa
Tủ lạnh sâu (Frizer) Bảo quản mẫu và kháng thể
Tủ lạnh dương (Refrigerator) Bảo quản bộ Kít và hoá chất ở 40C
Máy rửa siêu âm (Ultrasonic washer) Rửa ống nghiệm
Tủ sấy (Dryer) Sấy ống nghiệm
Máy lắc lớn (Shaker) và nhỏ (Vortex) Lắc dung dịch và mẫu cho tan đều
Quang phổ kế (Opsys MRTM DYNEX) Đo mật độ quang học của phản ứng
kèm máy vi tính tạo màu. Máy tính có phần mềm điều
khiển quang phổ kế
Bảng 2: Hoá chất cho phản ứng ELISA
Số TT Công thức hóa chất
1 (C2H2)2O
2 CH3OH
134
3 C2H5OH
III. Phương pháp phát hiện động dục và phối giống cho bò trong thí nghiệm
(Phương pháp của Saito và cộng sự, 1992)
1. Phương pháp quan sát bằng mắt thường (căn cứ vào các triệu chứng động dục
của bò cái).
Chu kì động dục ở bò cái từ 19-22 ngày (chủ yếu là 21 ngày), trong đó
thời gian bò cái có biểu hiện động dục ra bên ngoài có thể quan sát được từ 1-2
ngày, đây gọi là thời gian động dục và được chia ra 3 giai đoạn:
- Giai đọan trước động dục đứng yên (hay trước chịu đực): Bò có những
biểu hiện sau:
+ Ngửi bò khác, tâm trạng bồn chồn, đi lại để tìm kiếm bò cái hoặc bò đực
khác;
+ Cố nhảy lên con khác nhưng không đứng yên khi bị bò cái khác hoặc bò
đực nhảy lên lưng;
+ Thích gần người, gần bò khác hơn thường lệ;
+ Thỉnh thoảng kêu rống lên;
+ Âm hộ ướt, đỏ và hơi phồng lên (phù nề);
+ Bò giảm ăn, sữa giảm;
+ Đi lại nhiều;
Các biểu hiện ở giai đoạn này thay đổi nhiều và không giống nhau ở mỗi
bò và điều kiện chăm sóc.
- Giai đọan động dục đứng yên (chịu đực): kéo dài khoảng 10-19 giờ và
bò có biểu hiện sau:
+ Đứng yên cho bò khác nhảy lên lưng mà không nhảy lên lưng con khác;
+ Bồn chồn và kêu rống thường xuyên, thích ngửi cơ quan sinh dục bò khác;
+ Tai dựng lên, tỏ vẻ dễ gần hơn;
+ Lưng cong lên, phần thắt lưng lõm xuống, xương khum cong lên;
+ Âm hộ phồng lên và dịch nhờn tiết ra (lúc đầu dịch tiết lỏng, sau dịch
đặc lại có thể kéo thành sợi dài 20-30 cm màu trắng đục;
+ Tính thèm ăn giảm, sản lượng sữa giảm;
135
+ Thân nhiệt cao hơn bình tường (10C);
+ Đứng yên khi bò khác nhảy lên lưng hoặc bị vỗ vào mông;
+ Điện trở âm đạo tăng cao hơn so với bình thường;
+ Khi khám cơ quan sinh dục thì thấy thân sừng tử cung bớt căng và có độ
đàn hồi; kiểm tra buồng trứng thì thấy nang trứng nổi lên trên bề mặt.
Thời gian động dục đứng yên (thời gian chịu đực) phụ thuộc vào giống và
khí hậu. Bò sữa, bò chuyên thịt, thời gian này ngắn hơn so với bò địa phương. Bò
HF nuôi ở xứ nóng thời gian chịu đực ngắn hơn so với khi nuôi ở xứ lạnh.
- Giai đoạn sau động dục đứng yên (sau chịu đực)
Sau giai đoạn động dục đứng yên, một số bò tiếp tục hoạt động. Những
hoạt động này chủ yếu là thụ động và có biểu hiện như sau:
+ Không cho con khác nhảy lên lưng;
+ Ngửi bò khác và bị bò khác ngửi;
+ Dịch keo đặc từ âm hộ dính lên mông và đuôi có màu nâu;
Khoảng 2-3 ngày sau khi kết thúc giai đoạn động dục, ở nhiều bò có thể
quan sát thấy có máu chảy ra cùng dịch nhầy từ âm hộ. Điều này là sinh lý bình
thường, không liên quan gì đến đậu thai hay sự rụng trứng, chỉ có ý nghĩa là bò
đã động dục trước đó 2-3 ngày.
* Thời điểm phối giống thích hợp
Trong TTNT, thời điểm phối giống thích hợp là từ nửa sau của giai đoạn
động dục đứng yên (chịu đực) cho đến khoảng 6 giờ sau khi kết thúc giai đoạn
động dục đứng yên.
Cần phải kiểm tra thường xuyên để biết khi nào bò bắt đầu động dục.
Trong thực tế thường áp dụng quy tắc phối giống “sáng-chiều”, có nghĩa là: Nếu
phát hiện thấy bò ở giai đoạn động dục đứng yên vào sáng sớm thì phối giống
vào buổi chiều cùng ngày; nếu bò động dục vào buổi chiều hoặc buổi tối thì phối
giống vào sáng hôm sau.
Hình ảnh dưới minh họa quy luật phối giống “sáng-chiều” và thời gian
136
động dục để phối giống
Điểm đổ tinh được xác định là điểm tiếp giáp giữa cổ tử cung và thân tử
cung (mặt trước của cổ tử cung và mặt sau của thân tử cung)
2. Phương pháp phát hiện bò cái động dục trong thí nghiệm
Dùng phương pháp quan sát bằng mắt thường kết hợp với đo điện trở âm đạo.
Căn cứ vào các triệu chứng động dục của bò đã được mô tả trên là chính và kết
hợp với sử dụng dụng cụ đo điện trở âm đạo bằng thiết bị của cộng hòa liên bang
Đức (electronics in agriculture- estrous detecter).
Thiết bị đo điện trở âm đạo bò trong phát hiện bò động dục
137