BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------

ĐOÀN NGỌC PHƯƠNG

NGHIÊN CỨU SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

HÀ NỘI, NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------

ĐOÀN NGỌC PHƯƠNG

NGHIÊN CỨU SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh (QTKD Bất động sản)

Mã số: 9340101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS. HOÀNG VĂN CƯỜNG

2. PGS.TS. NGÔ THỊ PHƯƠNG THẢO

HÀ NỘI, NĂM 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Nghiên cứu sinh

Đoàn Ngọc Phương

ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn và biết ơn sâu sắc GS.TS Hoàng Văn

Cường, PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo đã tận tâm, nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm Nghiên cứu sinh và hoàn thành Luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Ban Lãnh đạo Khoa Bất động sản và Kinh tế tài nguyên, Bộ môn kinh doanh Bất động

sản, các Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tâm truyền đạt, trang bị

kiến thức để tôi hoàn thành tốt Luận án.

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo, các Cán bộ của Viện Đào tạo sau

đại học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện về các thủ tục và hướng dẫn các quy trình thực hiện trong thời gian tôi làm nghiên cứu sinh tại Trường.

Tôi xin gửi tấm lòng biết ơn sâu sắc đến Ban lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất

đai, cơ quan, gia đình đã chia sẻ, động viên và tạo điều kiện hỗ trợ tôi trong suốt quá

trình học tập và làm nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn tất cả các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ

và đóng góp nhiều ý kiến để tôi hoàn thành luận án này.

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... vii

DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... ix

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ

THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................................................. 7

1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn ...................................................... 7 1.1.1. Sự thỏa mãn ................................................................................................................. 7

1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 11

1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn ................................................................................... 16

1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................... 22 1.2.1. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ ................................................................. 22

1.2.2. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường ............................................................... 24

1.2.3. Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất và sự tham gia của người dân .......................................................................... 26 1.2.4. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo đặc điểm

của người dân ....................................................................................................................... 27

1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam ................................................... 32

1.4. Đề xuất khung nghiên cứu................................................................................ 33 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 39 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 40 2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể ............................................................................ 40 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 40

2.1.2. Địa bàn khảo sát ........................................................................................................ 41

2.2. Nghiên cứu định tính ........................................................................................ 44 2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính .......................................................................... 44

2.2.2. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................................. 44

2.2.3. Phát triển thang đo .................................................................................................... 48

iv

2.3. Nghiên cứu định lượng ..................................................................................... 56 2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng ............................................................................. 56

2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng ............................................................................... 57

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 74

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ....................................... 76

3.1. Sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất ........................................................................................................................ 76 3.1.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ... 76

3.1.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất ............................................................................................................................. 80

3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất ........................................................................................................................ 91 3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất . 91

3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất ............................................................................................................................. 92

3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất ............................................................................................... 98 3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất ............................................................................................................................. 98

3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................................... 100

3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất ............................................................................................. 109

3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất ...................................................................................................................... 115

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 124 CHƯƠNG 4: ............................................................................................................... 126 MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................. 126 4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ....................................................................................... 126 4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ......................................... 126

4.1.2. Về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ....................................... 129

4.1.3. Về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................... 130

4.1.4. Về giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có đất bị thu hồi .... 131

4.1.5. Về giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai ......................... 132

v

4.1.6. Về giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn thu từ đất, bảo đảm tiến độ thực hiện dự án đầu tư và kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................ 132

4.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................... 133 4.2.1. Hạn chế của luận án ................................................................................................ 133

4.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................................................... 134

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 .......................................................................................... 135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................. 136

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 137 PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................ 149

PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................ 153

PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................ 157

PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................ 162

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANOVA Phân tích phương sai

BT, HT Bồi thường, hỗ trợ

CMKT Trình độ chuyên môn kỹ thuật

CFA Phân tích nhân tố khẳng định

CT-XH Chính trị - xã hội

TĐC Tái định cư

GPMB Giải phóng mặt bằng

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM

UBND Ủy ban nhân dân

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Mô tả mẫu khảo sát định tính ............................................................................ 46

Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi .......................................... 51

Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng ........................... 58

Bảng 2.4. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho mức BT, HT .............................................. 61

Bảng 2.5. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phương thức bồi thường ........................... 62

Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện ..................................... 62

Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện ..................................... 63

Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống .............................. 63

Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett .............................................................................. 64

Bảng 2.9. Bảng ma trận hệ số các thành phần................................................................... 65

Bảng 2.10. Tiêu chuẩn kiểm định sự phù hợp của mô hình ............................................... 67

Bảng 2.11. Kết quả kiểm định giá trị phân biệt giữa các thang đo .................................... 70

Bảng 2.12. Bảng danh sách các biến tiềm ẩn ...................................................................... 71

Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT ............................................................................ 81

Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT ................ 87

Bảng 3.3. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo nghề nghiệp .............. 89

Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền ................ 90

Bảng 3.5 Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường ................................ 93

Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo trình độ CMKT . 95

Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo nghề nghiệp .. 96

Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo vùng miền ... 97

Bảng 3.9. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT ..................................................... 101

Bảng 3.10. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo trình độ CMKT ....................... 106

Bảng 3.11. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo nghề nghiệp ............................. 107

Bảng 3.12. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo vùng miền ................................ 108

Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân.......................... 110

Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo trình độ CMKT 112

Bảng 3.15. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo nghề

nghiệp của người dân ....................................................................................... 113

viii

Bảng 3.16. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo vùng miền .. 114

Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân ......................................................... 115

Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng .............. 117

Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ ...... 118

Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp ......... 118

Bảng 3.21. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo mục đích và giá đất .. 120

Bảng 3.22. Kết quả ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự thỏa mãn ................................ 122

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu

hồi đất ................................................................................................................. 34

Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................... 55

Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA ................................................................................... 69

Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với giá xấp

xỉ giá thị trường (%) ........................................................................................... 84

Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới ........ 104

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu

Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, việc thu hồi đất để

phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội như xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu đô thị... là một tất yếu khách quan.

Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội càng lớn dẫn đến nhu cầu về thu hồi đất càng cao và

trở thành thách thức lớn của mỗi quốc gia đối với các vấn đề bảo đảm an ninh lương

thực, an sinh, trật tự an toàn xã hội và sinh kế của người dân.

Bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi bởi nó liên quan trực tiếp đến mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư

và người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất, BT, HT ngày càng xuất hiện nhiều mâu

thuẫn, nguyên nhân chính là chưa giải quyết được hài hòa về sự hài lòng, thỏa mãn của

người dân khi được BT, HT. Theo các nghiên cứu của Kotilainen (2011), Xinliang

(2012), Oladapo and Ige (2012), mức tiền bồi thường hay sự chênh lệch giữa tiền bồi

thường với giá trị thị trường của đất là yếu tố lớn dẫn đến sự không thoả mãn của

những người dân; sự không thỏa mãn đã gây nên mâu thuẫn xã hội, tạo ra sự không

đồng thuận của người dân trong mỗi dự án phải thu hồi đất. Theo Kakulu (2008), cộng

đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường khi thu hồi đất nếu có liên quan đến cưỡng

chế hoặc tranh chấp.

Vấn đề thỏa mãn hay không thỏa mãn rất quan trọng trong lĩnh vực cung cấp

dịch vụ công và tư nhân; hậu quả của việc không thỏa mãn của người dân trong

cung cấp dịch vụ rất nghiêm trọng. Hoyer and Maclnns (2001) đã chỉ ra rằng nếu

người dân không được thỏa mãn với dịch vụ cung cấp thì họ có thể chấm dứt việc

“sử dụng” dịch vụ này, nhưng trong các dự án thu hồi đất, có thể tạo ra việc người

dân kháng cự, từ chối bàn giao mặt bằng, khiếu kiện kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc bồi thường đất là: mức bồi thường, thủ tục bồi thường và phương thức bồi thường (Wang, 2013). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra sự thỏa mãn trong BT, HT còn khác biệt bao gồm: đặc điểm cá nhân thu nhập; việc làm, tính gắn kết

xã hội; văn hóa xã hội; cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự

nhiên; sức khỏe; đất đai - nhà ở; chính quyền địa phương (Qin và cộng sự, 2016;

Ibem and Aduwo, 2013).

2

Theo Kotler và cộng sự (2002), sự thỏa mãn của người dân là một cảm giác vui lòng hoặc không thỏa mãn của một người khi so sánh một hiệu suất cảm nhận

được của các sản phẩm và dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Do đó, nếu kết

quả nhận được không đáp ứng được như kỳ vọng, người dân sẽ thấy không thỏa mãn

và nếu kết quả đáp ứng được như kỳ vọng, có nghĩa là người dân được thỏa mãn. Trong việc thu hồi đất, “sự không thỏa mãn” là trạng thái hay cảm giác khó chịu

hoặc không bằng lòng hoặc bất mãn với mức BT, HT hoặc các quy trình được áp dụng, điều này thể hiện trạng thái không thỏa mãn với các quá trình thu hồi đất bắt

buộc. Các bên có quyền lợi đối với khu đất thu hồi có thể sẽ không thỏa mãn với

nhiều vấn đề.

Việc người dân được hài lòng, được thỏa mãn với các dịch vụ công của Nhà

nước, với chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước là điều hết sức quan trọng. Làm cho người dân thỏa mãn sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của tổ

chức như gia tăng hiệu quả công việc do người dân thỏa mãn sẽ có thái độ tích cực

và hành vi tốt hơn. Sự thỏa mãn của người dân sẽ góp phần duy trì và ổn định trật tự

xã hội. Người dân sẽ ít bị kích động từ bên ngoài, người dân sẽ đề cao lợi ích tập thể

bởi khi họ muốn gắn bó là họ sẽ “chăm sóc”, “xây dựng” và “bảo vệ” ngôi nhà chung

của mình. Khi người dân thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, họ sẽ hợp

tác và ứng xử tốt hơn với Nhà nước và chủ đầu tư dự án, họ cũng là người sẽ truyền

thông chủ trương chính sách thu hồi đất, BT, HT ra bên ngoài, tác động tích cực đến

các hộ gia đình khác.

Ở Việt nam, với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện

chủ sở hữu; Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng và thực hiện việc thu hồi đất trong các trường hợp cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh,

để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,

hàng năm Việt Nam phải thu hồi diện tích lớn đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp để thực hiện các dự án phát triển công nghiệp, phát triển hạ tầng, xây dựng các khu đô thị, khu dân cư... Chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đã được quan tâm, xây dựng theo hướng ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân khi bị thu

hồi đất như giá đất tính bồi thường được quy định theo nguyên tắc phù hợp với giá đất chuyển nhượng phổ biến trên thị trường, ngoài việc bồi thường còn được hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ tái định cư (TĐC) tuỳ theo nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất (Từ

Điều 74 đến Điều 94 của Luật Đất đai năm 2013). Tuy nhiên, thực tế trong thời gian

3

vừa qua việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, kể cả các dự án lớn, dự án trọng điểm của Trung ương và địa phương vẫn chậm trễ, ách

tắc, có dự án triển khai thu hồi đất trên 5, 10 năm vẫn chưa hoàn thành giải phóng

mặt bằng (GPMB) do người có đất bị thu hồi còn chưa đạt được sự thoả mãn về mức

BT, HT, phương thức bồi thường; tổ chức thực hiện BT, HT và thoả mãn về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất, dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn giao mặt bằng, làm

đội vốn đầu tư, ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư; mức độ đồng thuận của người người dân cũng có sự khác nhau theo vùng miền, trình độ học

vấn, loại hình dự án khi thu hồi đất...

Việc xác định và hiểu rõ thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong việc thực

hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, sự thoả mãn theo các khía cạnh khác nhau,

dẫn đến sự đồng thuận sẽ thúc đẩy tích cực tiến độ bồi thường, GPMB để thực hiện các dự án đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội và giúp cho người có đất bị thu hồi có

quan điểm nhìn nhận tích cực hơn về các chính sách BT, HT cũng như cách thức tiến

hành trước và sau khi thu hồi đất, sẽ góp phần làm giảm thiểu những khiếu kiện, bức

xúc của người dân có đất bị thu hồi đất.

Tại Việt Nam, đã có khá nhiều các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân

trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, sản phẩm hàng hóa... trong đó đã

tập trung xây dựng các thang đo để đánh giá chất lượng dịch vụ hoặc sự hài lòng của

người dân trong sử dụng các dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu ứng dụng

các lý thuyết, các thang đo để phân tích các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người

dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, chưa phân tích đồng thời các mối quan

hệ giữa các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người dân với các nhóm đặc điểm của người dân; chưa xem xét sự thay đổi cuộc sống của người dân, sự thay đổi giá đất

sau khi thu hồi cũng như các yếu tố nội tại của người dân đến sự thỏa mãn khi Nhà

nước thu hồi đất.

Xuất phát từ thực tế nêu trên, nhằm góp phần tổng quát hóa cơ sở lý thuyết về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, xác định các yếu tố và đo lường mức độ thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, để có cơ sở khuyến nghị sửa đổi chính sách, pháp luật về đất đai ở Việt Nam

hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” làm nội dung nghiên cứu cho luận án

của mình.

4

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thoả mãn và đánh giá mức độ thỏa mãn của

người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khuyến nghị điều chỉnh chính

sách cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Một là, nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn và phát triển thang đo

đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp

với chính sách, pháp luật và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam.

Hai là, đánh giá được mức độ thỏa mãn chung và mức độ thỏa mãn theo các nhóm

yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.

Ba là, nghiên cứu đưa ra được một số những khuyến nghị điều chỉnh chính sách

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự thỏa mãn và các yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn

của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu sự thỏa mãn của người

dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi

ích quốc gia, công cộng của Việt Nam; không nghiên cứu trường hợp thu hồi đất do vi

phạm pháp luật về đất đai, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật và người dân

bị ảnh hưởng nhưng nằm ngoài phạm vi ranh giới thu hồi đất.

- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2016-2020.

4. Những đóng góp mới của luận án

4.1. Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

Nghiên cứu đã dựa trên các lý thuyết về sự thỏa mãn (Lewin, 1975; Peyton và

cộng sự, 2003; Hovlvà và cộng sự, 1957; Kotler và cộng sự; 1996), lý thuyết về sự

công bằng (Adams, 1963, 1966; Colquitt và cộng sự, 2005) và từ kết quả nghiên cứu

5

định tính thông qua phỏng vấn sâu đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia,

chủ đầu tư và hộ gia đình có đất bị thu hồi, nghiên cứu đã bổ sung và thảo luận các yếu

tố cấu thành sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà

nước thu hồi đất, bao gồm: (1) Sự thỏa mãn về mức BT, HT; (2) Phương thức bồi

thường; (3) tổ chức thực hiện BT, HT và (4) Sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất.

4.2. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ nghiên cứu

1. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra:

i) Thông qua phân tích EFA và CFA cho thấy sự thoả mãn chung, thoả mãn về

mức BT, HT, phương thức bồi thường, tổ chức thực hiện BT, HT, sự thay đổi cuộc

sống sau khi bị thu hồi đất của người dân còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, vẫn có một số

hộ dân có sự thỏa mãn tích cực do được hưởng lợi từ việc thu hồi đất.

ii) Thông qua sử dụng phương pháp phân tích phương sai ANOVA và hàm hồi

quy đa biến cho thấy sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất có sự khác biệt theo nhóm dân cư như trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp

và theo vùng miền.

2. Trên cơ sở những phát hiện chính từ kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra

các hàm ý chính sách cho các bên liên quan như sau:

i) Cần bảo đảm mức BT, HT đầy đủ cho người có đất bị thu hồi, theo đó: việc

định giá đất tính bồi thường phải phù hợp với giá đất thị trường, tính toán đầy đủ thiệt

hại về tài sản gắn liền với đất; các khoản hỗ trợ phải đáp ứng được mục tiêu ổn định

cuộc sống, sản xuất và phát triển bền vững.

ii) Đa dạng phương thức bồi thường, trong đó chú trọng việc chuẩn bị quỹ đất,

quỹ nhà để đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân.

iii) Việc tổ chức thực hiện BT, HT phải công khai, minh bạch, kịp thời, đúng

quy định của pháp luật và có sự tham gia của người dân; phải nâng cao năng lực, trách

nhiệm của tổ chức làm nhiệm vụ BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.

iv) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai và nâng cao hiệu quả sử

dụng nguồn thu từ đất. Việc tăng sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà

nước thu hồi đất sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

6

6. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

được trình bày thành 4 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về sự thoả mãn của người

dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Đánh giá sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất

Chương 4: Một số khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu.

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn

1.1.1. Sự thỏa mãn

Sự thỏa mãn là một khái niệm đã xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như đánh giá

sự thỏa mãn của nhân viên, đánh giá theo sự thỏa mãn của bệnh nhân trong bệnh viện

và đánh giá trang Website bởi sự thỏa mãn của khách truy cập giữa những người khác

nhau. Tuy nhiên, sự thỏa mãn là nền tảng cho khái niệm tiếp thị trong hơn ba thập kỷ;

như việc sử dụng rộng rãi nhất của sự thỏa mãn đã có trong tài liệu liên quan đến sự

thỏa mãn của khách hàng. Wilton and Nicosia (1986) cho rằng một số mô hình về sự

thỏa mãn đã xuất hiện theo thời gian trong các lĩnh vực khác nhau. Kim (1997) lập

luận rằng các mô hình được phát triển cho đến nay đều xem sự thỏa mãn của người

dùng liên quan đến niềm tin và đánh giá của người tiêu dùng về hàng hóa và hành vi

mua hàng. Tuy nhiên, khái niệm được thừa nhận rộng rãi nhất là lý thuyết xác nhận kỳ

vọng (McQuitty and Wiley, 2000). Lý thuyết xác nhận kỳ vọng được phát triển bởi Oliver (1980), người đã đề xuất rằng mức độ thỏa mãn của người dùng là kết quả của

sự khác biệt giữa sản phẩm được mong đợi và cảm nhận, kỳ vọng như dự đoán về kết

quả trong tương lai. Các kỳ vọng đề xuất rằng các sản phẩm đáp ứng kỳ vọng cao

được dự đoán sẽ tạo ra sự thỏa mãn của khách hàng lớn hơn các sản phẩm đáp ứng kỳ

vọng thấp. Còn theo Bachelet (1995) thì cho rằng “sự thỏa mãn của khách hàng là một

phản ứng mang tính cảm xúc của khách hàng đáp lại trải nghiệm của họ đối với một

sản phẩm hay dịch vụ”. Sự thỏa mãn của khách hàng là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với việc đáp ứng những mong muốn của họ (Oliver, 1997). Tương tự, Zeithaml and Bitner (2000) cho rằng, “sự thỏa mãn của khách hàng là sự đánh giá của khách hàng thông qua một sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được mong muốn và yêu cầu của họ”. Như vậy, những khái niệm này đã cho thấy sự thỏa mãn của khách hàng là sự đánh giá và được đo dựa trên sản phẩm hoặc dịch vụ.

Theo Kotler (2001), sự thỏa mãn của khách hàng là mức độ trạng thái cảm giác

của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản

phẩm/dịch vụ và những kỳ vọng của khách hàng. Những kỳ vọng của con người là

mong đợi của con người, bắt nguồn từ nhu cầu cá nhân, kinh nghiệm trước đó và

8

thông tin bên ngoài như quảng cáo, thông tin truyền miệng từ gia đình và bạn bè. Kotler đã xác định có 3 mức độ của sự thỏa mãn: (1) Nếu kết quả nhận được ít hơn

mong đợi, thì khách hàng sẽ cảm thấy không thỏa mãn; (2) Nếu kết quả nhận được

như mong đợi, thì khách hàng sẽ cảm thấy thỏa mãn; (3) Nếu kết quả nhận được vượt

quá sự mong đợi của khách hàng, thì họ sẽ cảm thất rất thỏa mãn đối với dịch vụ đó.

Theo Campbell và cộng sự (1976), Campbell (1981) cho rằng sự thỏa mãn có thể

được xem là một hành động phán xét, so sánh giữa khát vọng và thành tích, từ nhận thức về sự hoàn thành đến sự thiếu hụt. Họ cũng cảm thấy rằng sự thỏa mãn mang tính

cá nhân cao, bị ảnh hưởng nặng nề bởi những kinh nghiệm trong quá khứ và những kỳ

vọng hiện tại. Về mặt lý thuyết, nguyên nhân có thể xảy ra của không thỏa mãn là tồn tại

mức độ mà các nhu cầu không được đáp ứng (Morris and Winter, 1978). Liên quan đến

ý tưởng về sự thỏa mãn với môi trường, Rigby and Vreugdenhil (1987) đánh đồng các thuật ngữ sự thỏa mãn với hạnh phúc và khả năng sống. Rojek và cộng sự (1975) lại cho

rằng sự thỏa mãn với một môi trường cụ thể phụ thuộc vào hai đánh giá chính: (1) cách

thức mà các thuộc tính được cảm nhận và (2) tiêu chuẩn tham chiếu theo đó đo lường.

Sự thỏa mãn (xác nhận tích cực) được biết là xảy ra khi sản phẩm hoặc dịch vụ

tốt hơn mong đợi. Mặt khác, ngược lại nếu kém hơn kết quả mong đợi là không thỏa

mãn. Trong lý thuyết này, kỳ vọng bắt nguồn từ niềm tin về mức độ hiệu suất mà sản

phẩm/dịch vụ sẽ cung cấp, đó là ý nghĩa dự đoán của khái niệm kỳ vọng. Để so sánh,

Kotler (2000) định nghĩa sự thỏa mãn là một người cảm thấy vui thích hay thất vọng,

so sánh một sản phẩm mà cảm nhận về hiệu suất (hoặc kết quả) liên quan đến kỳ vọng

của người dân. Hoyer and MacInni (2001) khuyến khích rằng sự thỏa mãn có thể được

liên kết với cảm giác chấp nhận, hạnh phúc, nhẹ nhõm, phấn khích và vui thích.

Tương tự, Hansemark and Albinsson (2004), đã xác định rằng sự thỏa mãn là

thái độ chung của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ, hoặc phản ứng cảm xúc

về sự khác biệt giữa những gì khách hàng dự đoán và những gì họ nhận được, liên quan đến việc đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hoặc mong muốn. Phần lớn các nghiên cứu về sự thỏa mãn đã sử dụng một số biến thể của mô hình xác nhận. Người ta thường đồng ý rằng sự thỏa mãn có thể được định nghĩa là việc đánh giá sự khác biệt về nhận thức giữa kỳ vọng trước đó và hiệu suất thực tế của sản phẩm.

Sự thỏa mãn là một quá trình đánh giá giữa những gì đã nhận được và những gì

được mong đợi (Parker and Mathews, 2001). Sự thỏa mãn có thể được định nghĩa chính xác là sự khác biệt về nhận thức giữa khát vọng và thành tích (Campbell và cộng

sự, 1976). Sự thỏa mãn không chỉ bị chi phối bởi các khía cạnh vật lý mà còn bởi khả

9

năng hình thành các mạng lưới xã hội. Cuối cùng, sự thỏa mãn là một phản ứng chủ quan đối với một môi trường khách quan (Potter and Cantarero, 2006).

Satsangi and Kearns (1992), định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là khía cạnh

tâm lý, sự thỏa mãn của khách hàng là một thái độ phức tạp. Ngoài ra, Lu (1999) đã

định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là một cấu trúc nhận thức phức tạp. Bên cạnh đó, Ogu (2002) đã báo cáo rằng khái niệm về sự thỏa mãn của nhà ở hoặc nhà ở

thường được sử dụng để đánh giá cư dân ‘nhận thức và cảm xúc đối với các đơn vị nhà ở của họ và môi trường. Mặt khác, Galester (1985) đã định nghĩa sự thỏa mãn của

người dân là khía cạnh xã hội. Khái niệm về sự thỏa mãn của người dân đã trở thành

chỉ số xã hội ưu việt được sử dụng bởi các nhà phát triển nhà ở, nhà phân tích và nhà

hoạch định chính sách trong suốt thập kỷ qua. Ngoài ra, McCray and Day (1977) đề

cập đến sự thỏa mãn về nhà ở là mức độ thỏa mãn của một cá nhân hoặc một thành viên gia đình liên quan đến tình hình nhà ở hiện tại. Từ các khái niệm về sự thỏa mãn

thì có thể sử dụng 6 nhóm chỉ số giúp đánh giá sự thỏa mãn của khách hàng như: i) Kỳ

vọng và cảm nhận thực tế của khách hàng; ii) Khả năng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ

cho bạn bè, người thân; iii) Trải nghiệm thực tế và trải nghiệm lý tưởng của khách

hàng; iv) Sự hài lòng tổng thể; v) Sự hài lòng dựa trên cảm tình và nhận thức; vi) Khả

năng quay trở lại lần sau.

Trái ngược với những điều trên, nhiều chuyên gia đã nhận ra rằng, sự thỏa mãn

của người dân là khía cạnh đa chiều. Chẳng hạn, Bechtel (1997) đã quan sát thấy rằng

sự thỏa mãn của người dân được xác định bởi sự kết hợp của các yếu tố không chỉ bao

gồm hộ gia đình và đặc điểm của hộ gia đình mà còn cả khu vực lân cận và chất lượng

xã hội xung quanh. Hơn nữa, Francescato và cộng sự (1986) đã đề cập đến sự thỏa

mãn của người dân là phản ứng của mọi người đối với môi trường mà họ sống. Trong

định nghĩa này, thuật ngữ môi trường không chỉ liên quan đến các khía cạnh vật lý của

môi trường dân cư như nhà ở, phát triển nhà ở và khu vực lân cận, mà còn cả các khía

cạnh xã hội, kinh tế và tổ chức hoặc thể chế của các thiết lập đó.

Lòng trung thành, theo Neihoff và cộng sự (2001) thì lòng trung thành được

định nghĩa là “những biểu hiện mang tính chủ động về lòng tự hào và sự tận tậm với

tổ chức. Biểu hiện cụ thể của lòng trung thành là nó chống đối lại những chỉ trích về

tổ chức, hạn chế những phàn nàn về tổ chức và nhấn mạnh vào những khía cạnh tích

cực của một tổ chức”.

Sự hài lòng của khách hàng dẫn đến lòng trung thành của khách hàng như là

một quy luật tồn tại trong môi trường kinh doanh. Một khách hàng trung thành là một

10

tài sản rất lớn mà mọi thương hiệu, tổ chức đều muốn có càng nhiều càng tốt. Khách

hàng trung thành có nhiều khả năng tạo ra kinh doanh lặp lại. Họ sẽ chi nhiều tiền hơn

với công ty của bạn. Và họ thậm chí có thể trở thành người ủng hộ thương hiệu của

bạn. Vì vậy, khách hàng của bạn càng hài lòng, cơ hội để họ trở nên trung thành với

thương hiệu của bạn càng cao. Khách hàng hài lòng cũng có xu hướng trở thành khách

hàng trung thành, có nghĩa là giá trị trọn đời cao hơn cho những khách hàng đó. Một

khách hàng trung thành sẽ chi nhiều hơn cho một lần mua hơn là một khách hàng mới.

Hơn nữa, chi phí mua lại của khách hàng cao hơn khoảng 7 lần so với chi phí giữ chân

khách hàng, điều này giúp cải thiện hơn nữa lợi nhuận của bạn.

Hiện nay, đã có rất nhiều các nghiên cứu về sự thỏa mãn được thực hiện bởi các

tác giả trong và ngoài nước nhưng vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về sự

thỏa mãn. Sự thỏa mãn được xác định là một chỉ số quan trọng của khoa học quản lý,

đặc biệt là trong các nghiên cứu về tâm lý. F.W.Taylor - cha đẻ của khoa học quản lý

đã thiết lập một nguyên mẫu cho ý kiến về sự thỏa mãn. Ông cho rằng người ta sẽ so

sánh giữa tỉ lệ giữa đầu tư và mức thu lời. Nếu tỉ lệ trên là cân bằng, thì người ta sẽ

thấy là công bằng. Ngược lại, người ta sẽ thấy bất công và không thoả mãn. Đây có thể

coi là nghiên cứu đầu tiên đặt nền móng cho những nghiên cứu tiếp theo về sự thỏa

mãn đối với việc bồi thường. Mô hình của Lawler (1971) về sự chênh lệch chỉ ra rằng

người ta sẽ so sánh giữa những gì nhận được trong thực tế với những gì họ nghĩ họ nên

được nhận, và kết quả sẽ ảnh hưởng đến mức độ thỏa mãn.

Rojek và cộng sự (1975) đề xuất rằng sự thỏa mãn với một môi trường cụ thể

phụ thuộc vào hai đánh giá chính: (1) cách thức mà các thuộc tính được cảm nhận và

(2) tiêu chuẩn tham chiếu theo đó thuộc tính đo lường. Theo Knop and Sterward

(1973) sự thỏa mãn có thể được khái niệm hóa như là những nhận thức, đánh giá của

các cá nhân về những trải nghiệm của họ trong quá trình quan sát. Kể từ thập niên 40

đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhận diện các tác động đến sự thỏa mãn

của người dân dưới những góc độ khác nhau. Theo Oliver (1980), trong một quá trình

trưng thu đất đai điển hình, mức độ thỏa mãn với các dự án thu hồi có thể xuất phát từ

sự so sánh giữa các giá trị có trong ý nghĩ của họ đối với đất đai của mình và mức bồi

thường thực tế do người thu hồi chi trả. Dựa trên khuôn khổ của lý thuyết phúc lợi xã

hội, sự thỏa mãn của cuộc sống được đo lường dựa trên ba khía cạnh của chất lượng

cuộc sống: (1) điều kiện sống vật chất, (2) an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm và (3)

nhận thức về thái độ, các mối quan hệ xã hội và sự tham gia.

11

1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Nhiều tác giả ở nước ngoài đã nghiên cứu về mức độ thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, tiêu biểu là các tác giả Deutsch (1973), Kotilainen (2011,

2012), Oladapo and Ige (2012), Tyagi and Shinde (2016). Tại mỗi nghiên cứu thì tính

chất nghiên cứu và nhóm đối tượng nghiên cứu có thể khác nhau nhưng điểm chung là

thách thức trong việc đem lại mức đồng thuận hoặc mức độ thỏa mãn cao cho người chủ sở hữu đất/bất động sản bị thu hồi trong các dự án quy hoạch.

Kotler và cộng sự (2002) cho rằng sự thỏa mãn là một cảm giác vui lòng hoặc

không thỏa mãn của một người khi so sánh một hiệu suất cảm nhận được của các sản

phẩm và dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Đó chính là chức năng của hiệu

suất cảm nhận được và những kỳ vọng. Do đó, nếu hiệu suất này không đáp ứng được

như kỳ vọng, khách hàng sẽ thấy không thỏa mãn và nếu hiệu suất này đáp ứng được

như kỳ vọng, có nghĩa là khách hàng được thỏa mãn. Tuy nhiên, nếu hiệu suất đó vượt

qua các kỳ vọng, khách hàng sẽ rất thỏa mãn và ngược lại. “Sự không thỏa mãn” trái

ngược với “sự thỏa mãn”. Trong việc thu hồi đất, “sự không thỏa mãn” là trạng thái

hay cảm giác khó chịu hoặc không bằng lòng hoặc bất mãn với mức bồi thường, hỗ

trợ hoặc các quy trình được áp dụng, điều này thể hiện trạng thái không thỏa mãn với

các quá trình thu hồi đất bắt buộc. Các bên có quyền lợi tại khu đất bắt buộc bị thu hồi

có thể sẽ không thỏa mãn với nhiều vấn đề. Vấn đề thỏa mãn hay không thỏa mãn rất

quan trọng đối với việc cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực dịch vụ công và tư nhân;

hậu quả của việc không thỏa mãn được khách hàng trong cung cấp dịch vụ rất nghiêm trọng. Hoyer and Maclnns (2001) đã chỉ ra rằng nếu khách hàng không được thỏa mãn

với dịch vụ cung cấp thì họ có thể chấm dứt việc mua dịch vụ này, nhưng trong các dự

án thu hồi đất, có thể tạo ra việc người dân kháng cự, từ chối bàn giao mặt bằng, khiếu

kiện kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư.

Kotilainen (2012) với nghiên cứu tại Phần Lan cho thấy trong một thập niên vừa qua, Cơ quan Quản lý đường Phần Lan (Finnra) đã dành xấp xỉ 25 triệu Euro để giải quyết việc bồi thường dựa trên thoả thuận trong các dự án làm đường giao thông công cộng. Câu hỏi đầu tiên nhằm tìm ra liệu rằng mô hình được tạo ra với sự hỗ trợ

của lý thuyết về quá trình xã hội của Deutsch (1973) có thể giải thích được về sự thỏa

mãn của chủ sở hữu đối với quá trình thoả thuận hay không. Sau đó lợi ích của việc sử

dụng thoả thuận thay vì cưỡng chế cũng được nghiên cứu bằng một mô hình được xây

dựng trong quá trình nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, hai lợi ích của việc áp dụng

quá trình thoả thuận thay vì cưỡng chế đã được tìm ra. Thứ nhất, đó là về bản chất của

12

bồi thường. Trong trường hợp cưỡng chế, thì chủ sỡ hữu nhận được chỉ là tiền, nhưng trong trường hợp thoả thuận, thì thoả thuận có thể là bất cứ điều gì, chẳng hạn một

mảnh đất khác, sửa chữa lại nhà/đất hoặc thậm chí là căn hộ cho kì nghỉ. Trong những

trường hợp này, thoả thuận có thể đem lại những giá trị bên ngoài và là một thay thế

cho việc cưỡng chế. Thêm vào đó, các kết quả chỉ ra rằng việc thoả thuận để thu hồi đất không nên được gọi là “bồi thường và thu hồi đất tự nguyện” mà nên được gọi là

“bồi thường và thu hồi đất dựa trên thoả thuận”. Chủ sở hữu đất nên có cơ hội thực để thoả thuận và được bảo mật trong quá trình thảo luận. Hơn nữa việc thỏa thuận nên

được bắt đầu khi người chủ đất muốn bắt đầu thỏa thuận. Cơ quan quản lý nên đưa ra

những biện pháp cung cấp và thông tin chia sẻ giữa nhà thầu và người tham gia thỏa

thuận theo một cách có hiệu quả cao hơn. Mục đích là để đảm bảo phần cuối của quá

trình thoả thuận giải quyết được đầy đủ những vấn đề có trong văn bản thoả thuận.

Trong nghiên cứu của Wan và cộng sự (2020) thì cư dân nông thôn sống phụ

thuộc vào đất đai, do đó đất ở nông thôn đóng vai trò trung tâm trong mối quan hệ

giữa con người và đất đai. Trong những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã tiến

hành xây dựng nông thôn mạnh mẽ theo khuôn khổ xã hội chủ nghĩa và thực hiện

chiến lược phục hồi nông thôn. Nghiên cứu này đã thiết kế một cuộc khảo sát để đo

lường nhận thức của các hộ gia đình nông thôn về ba loại không gian nông thôn:

không gian sinh thái, sinh hoạt và không gian sản xuất. Cuộc khảo sát được thực hiện

cho 379 nông dân, nhận thức và sự thỏa mãn của họ đối với không gian Sinh thái -

Sống - Sản xuất được đánh giá bằng việc sử dụng mô hình phương trình cấu trúc

(SEM). Phân tích các biến quan sát và tiềm ẩn chỉ ra rằng: 1) Mức độ thỏa mãn chung

của nông dân đối với các không gian sinh thái – sống – sản xuất ở mức trung bình. Điểm thỏa mãn trung bình đối với không gian sản xuất là thấp nhất (2,881) trong khi

đó đối với không gian sống là cao nhất (3,468) và điểm cho không gian sinh thái là

giữa (3,351); 2) Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn

về không gian sống là tiện nghi trong nhà, cung cấp nước sinh hoạt, xử lý nước thải sinh hoạt. Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn về không gian sản xuất là nước tưới, số lượng đất canh tác, độ phì đất canh tác. Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn về không gian sinh thái

là xử lý rác thải, lớp phủ thực vật, lũ lụt và ngập úng. Nghiên cứu này, các tác giả đã thiết kế một loạt thang đo Likert để khảo sát mức độ thỏa mãn của nông dân đối với không gian sống tại địa phương của họ. Các câu trả lời câu hỏi được đánh giá trên thang điểm Likert 5 điểm là “rất không đồng ý” (1), “không đồng ý” (2), “chung chung

hoặc không chính xác” (3), “đồng ý” (4) và “rất đồng ý” (5 ). Các tác giả đưa ra một

13

giả thuyết cơ bản rằng tổng mức độ hài lòng về không gian nông thôn của các hộ gia đình nông thôn dựa trên sự hài lòng về ba khía cạnh: sinh hoạt, sản xuất và sinh thái.

Các hộ gia đình nông thôn phụ thuộc hoàn toàn vào không gian sống của họ. Một đánh

giá tài liệu cho rằng ngoài nhận thức của các hộ gia đình nông thôn về điều kiện nhà ở

của họ, các yếu tố khác trong không gian sống cũng cần được xem xét. Do đó, để đánh giá đầy đủ sự thỏa mãn trong không gian sống, nghiên cứu đã đo lường các nhận thức

liên quan đến giao thông đường bộ, tiện nghi trong nhà, mối quan hệ hàng xóm, điều kiện nước sinh hoạt, xử lý nước thải sinh hoạt, điều trị y tế tại địa phương và sự thuận

tiện khi mua sắm tại chợ địa phương. Về sự thỏa mãn của không gian sản xuất, các biến

quan sát bao gồm số lượng đất canh tác, độ phì nhiêu của đất canh tác, khả năng tiếp cận

đất canh tác, cơ sở nông nghiệp, cơ hội việc làm trong làng và đủ nước tưới. Sự thỏa

mãn trong không gian sinh thái bao gồm các đặc điểm của sa mạc hóa, chất lượng nước sông, lũ lụt và ngập úng, xử lý rác và độ che phủ của thảm thực vật.

Theo Cheng và cộng sự (2018), kể từ khi khởi động chính sách cải cách kinh tế

và mở cửa vào cuối những năm 1970, các thành phố của Trung Quốc đã chứng kiến sự

phát triển và mở rộng đáng kể, dẫn đến một lượng lớn đất nông nghiệp được chuyển

đổi để xây dựng đô thị. Do nhu cầu vừa bảo vệ đất canh tác vừa đưa ra các phương án

phát triển đô thị, chính quyền trung ương đã đề xuất Chính sách liên kết vào năm

2005. Theo kế hoạch này, nông dân được TĐC vào các cộng đồng tập trung bằng cách

hợp nhất trang trại ban đầu của họ thành đất nông nghiệp và cho phép chuyển hạn

ngạch đất đai cho xây dựng đô thị. Việc thực hiện chính sách liên kết đã tái cấu trúc lối

sống và nông nghiệp nông thôn. Thông qua nghiên cứu này các tác giả xem xét sự thoả

mãn của nông dân đối với chính sách liên kết và khám phá các yếu tố cơ bản. Báo cáo sử dụng nghiên cứu điển hình ở tỉnh Hồ Bắc, các cuộc phỏng vấn trực tiếp đã được

thực hiện với người nông dân trong các cộng đồng tập trung để hiểu sự thỏa mãn của

họ đối với Chính sách liên kết. Dữ liệu phỏng vấn được mã hóa và phân tích bằng cách

sử dụng Mô hình SEM để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của nông dân. Kết quả cho thấy mức độ sẵn sàng tham gia của nông dân, kiến thức về chính sách liên kết, điều kiện sống trước khi thu hồi đất và TĐC có ảnh hưởng đáng kể đến sự thỏa mãn đối với việc thực hiện chính sách. Nghiên cứu cũng đề nghị rằng cần tham

vấn có ý nghĩa và cải thiện thông tin liên lạc giữa nông dân và chính quyền địa phương để nâng cao khả năng chấp nhận của xã hội đối với các kết quả chính sách. Để giảm thiểu tác động xã hội của việc TĐC, các làng đô thị hóa sẽ được ưu tiên thực hiện dự án và chính quyền địa phương nên đưa ra một kế hoạch hỗ trợ dài hạn để hỗ trợ nông

dân trong quá trình chuyển đổi lối sống của họ.

14

Oladapo and Ige (2014) nghiên cứu khảo sát thông qua thiết kế bảng câu hỏi để lấy dữ liệu từ những người yêu cầu bồi thường đã thanh toán trong kỳ. Nhận thức của

người khiếu nại về tiền bồi thường khi thu hồi đất bắt buộc được đo lường trên thang

điểm Likert 5 điểm. Nghiên cứu cho thấy chỉ số thỏa mãn tương đối của những người

yêu cầu bồi thường đối với khoản bồi thường được trả là dưới mức hài lòng chấp nhận được. Sau đó, nghiên cứu đã khuyến nghị rằng để có một xã hội hòa bình không có

xung đột và hỗn loạn, các phương pháp định giá thích hợp và việc chi trả các khoản bồi thường thỏa đáng sẽ không làm cho những người yêu cầu thiệt hại nặng hơn là

điều cần thiết. Sự thỏa mãn của hộ gia đình trong nghiên cứu này được xác định bằng

các nội dung sau: i) Cách tiếp cận của các cơ quan có thẩm quyền đối với người yêu

cầu bồi thường; ii) Phản ứng của cán bộ địa chính khi cần làm rõ và khi có thắc mắc;

iii) Thời gian thực hiện thanh toán; iv) việc chỉ định đại diện của những người yêu cầu bồi thường để đảm bảo bồi thường đầy đủ; v) Bồi thường được trả so với giá trị tài

sản; vi) Việc chấp nhận dự án được đề xuất bởi các nguyên đơn. Kết quả cho thấy tiền

bồi thường được trả so với giá trị tài sản được xếp hạng cao nhất trong các yếu tố

chính được nhấn mạnh là yếu tố quyết định mức độ thỏa mãn của người yêu cầu đối

với khoản bồi thường khi thu hồi đất. Điều này thể hiện rõ qua chỉ số thỏa mãn tương

đối của nó là 0,47. Phản hồi của cán bộ địa chính khi đưa ra các giải thích và những

thắc mắc được giải đáp tiếp theo với chỉ số thỏa mãn tương đối là 0,44. Tất cả các yếu

tố được đánh dấu đều có chỉ số thỏa mãn tương đối thấp, có nghĩa người dân không

thỏa mãn. Do đó, điều này phù hợp với những phát hiện của Alias and Daud (2006),

Omar and Ismail (2009) cho rằng thách thức lớn phải đối mặt trong việc thu hồi đất là

số lượng bồi thường mà người được hỏi cho rằng không đủ để đáp ứng nhận thức về bồi thường thỏa đáng theo các luật liên quan.

Lisec và cộng sự (2014) cho thấy tích tụ ruộng đất đã là một công cụ quan trọng

của phát triển nông thôn trong hơn một thế kỷ qua trên khắp châu Âu. Ngày nay, dồn

điền đổi thửa có thể là một phần không thể thiếu trong các dự án phát triển nông thôn và thành thị. Ngoài những nỗ lực nhằm làm cho nông nghiệp và lâm nghiệp trở nên cạnh tranh hơn thông qua quá trình tái phân bổ toàn diện, việc cải thiện mạng lưới đường giao thông và thoát nước, cảnh quan, quản lý môi trường, các dự án bảo tồn và

các chức năng khác có thể được thực hiện trong quá trình dồn điền đổi thửa. Bên cạnh khung thể chế chính thức về dồn điền đổi thửa, các thể chế phi chính thức có thể có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện tích tụ tập trung ruộng đất. Sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần giúp họ hiểu rõ mục tiêu và thỏa mãn với kết quả của việc

dồn điền đổi thửa. Các tác giả đã chỉ ra rằng sự tham gia tích cực của các chủ đất trong

15

việc dồn điền đổi thửa ảnh hưởng đến nhận thức của chủ đất về công việc này. Nghiên cứu đánh giá mức độ thỏa mãn của người dân dựa trên các tiêu chí như: i) mức độ thỏa

mãn với việc định giá đất; ii) đánh giá mức độ thỏa mãn đối với thời gian dồn điền đổi

thửa; iii) Đánh giá mức độ thỏa mãn đối với kết quả dồn điền đổi thửa; iv) Mức độ

thỏa mãn với cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận các lô đất mới của mình; v) mức độ thỏa mãn của bạn với chất lượng của các lô đất mới. Với các vấn đề đánh giá mức độ

thỏa mãn trên, chủ hộ sẽ tự đưa ra đánh giá dựa trên thang 5 mức độ với số điểm từ 1 đến 5 (1-cực kỳ không thỏa mãn; 2-không thỏa mãn; 3-thỏa mãn trung bình; 4-thỏa

mãn; 5-rất thỏa mãn), đánh giá chất lượng đất và vị trí thửa đất mới và cơ sở hạ tầng

(trong cả ba dự án dồn điền đổi thửa, điều này liên quan đến khả năng tiếp cận của

thửa đất với đường mới).

Mặc dù người dân nhìn chung thỏa mãn với kết quả của việc dồn điền đổi thửa, nhưng điều thú vị là họ ít thỏa mãn hơn với chất lượng đất. Lợi ích của việc dồn điền

đổi thửa được nhận thấy là cao vì khả năng tiếp cận giao thông tốt hơn và vị trí thuận

lợi hơn. Có một số điểm khác biệt giữa ba khu vực được chọn về mức độ thỏa mãn

trung bình của chủ sở hữu đất đối với kết quả của việc dồn điền đổi thửa mà họ đã

tham gia. Ví dụ, những người tham gia từ Ptujsko polje I (PPI), nhìn chung ít thỏa mãn

với cơ sở hạ tầng mới và khả năng tiếp cận các thửa đất mới so với những người được

hỏi đến từ các khu vực dồn điền đổi thửa khác. Điều này được giải thích là do mức độ

điều chỉnh đất đai thấp hơn (trong PPI, số lượng thửa đất không giảm đến mức như

trong hai khu vực dồn điền đổi thửa kia) và do sự đóng góp của chủ đất cao hơn cơ sở

hạ tầng đường mới (tức là mất đất). Đối với trường hợp của PPI, nghiên cứu cho thấy

rằng đã có sự chậm trễ trong giai đoạn cuối cùng, nơi một số kiến nghị đã xuất hiện chống lại quy định chính thức về cơ cấu thửa đất mới. Một phát hiện rất quan trọng là

sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần giúp họ hiểu rõ mục tiêu và thỏa mãn

với kết quả của việc dồn điền đổi thửa. Một trong những giai đoạn quan trọng của quá

trình dồn điền đổi thửa là giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn này thường phụ thuộc vào các sáng kiến và lợi ích của chủ đất và các tác nhân khác trong việc dồn điền đổi thửa. Giai đoạn chuẩn bị nên được đơn giản hóa và làm nhanh.

Ngoài ra, việc tối ưu hóa quy trình được đề xuất bằng cách rút ngắn thời hạn

kiến nghị, bằng cách đẩy nhanh các quy trình thực hiện. Ngoài ra, việc xây dựng mạng lưới đường và bố trí các can thiệp không gian khác nên được thực hiện song song với việc giao lại đất. Tóm lại, kết quả của nghiên cứu này đã khẳng định sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần vào sự thỏa mãn chung của họ đối với kết quả dồn điền

đổi thửa. Họ đã chỉ ra rằng sự tham gia tích cực của chủ đất và các bên liên quan khác

16

trong việc dồn điền đổi thửa cũng ảnh hưởng tích cực đến nhận thức của chủ đất về việc dồn điền đổi thửa, đây thực sự là nền tảng cho việc xây dựng các thông lệ tốt

trong lĩnh vực này và hy vọng có thể là cách tiếp cận quan trọng để thúc đẩy các dự án

toàn diện trong tương lai.

Nhóm tác giả Zeithaml and Bitner (2000) đã cho thấy nếu người dân kỳ vọng được hưởng lợi từ một chương trình thu hồi đất thông qua việc được bồi thường nhiều

và phải làm ít thủ tục liên quan và nếu thực tế người dân nhận được trái ngược với kỳ vọng thì sẽ dẫn đến sự thỏa mãn thấp của người dân. Khi những cơ quan thu hồi đất gây

ra những vấn đề trong các chương trình thu hồi, điều này sẽ gây ra sự không thỏa mãn

đối với người dân.

1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn

Lý thuyết công bằng

Theo Adams (1963, 1966) cho rằng con người luôn muốn được đối xử công bằng, nhân viên có xu hướng đánh giá sự công bằng thông qua việc so sánh công

sức họ bỏ ra so với những thứ họ nhận được cũng như so sánh tỉ lệ đó của họ với tỉ

lệ của những đồng nghiệp trong công ty. Nếu kết quả của sự so sánh đó là sự ngang

bằng nhau tức công bằng thì họ sẽ tiếp tục duy trì nỗ lực và hiệu suất làm việc của

mình. Nếu thù lao nhận được vượt quá mong đợi của họ, họ sẽ có xu hướng gia

tăng công sức của họ trong công việc, ngược lại nếu thù lao họ nhận được thấp hơn

so với đóng góp của họ, họ sẽ có xu hướng giảm bớt nỗ lực làm việc hoặc tìm các

giải pháp khác như vắng mặt trong giờ làm việc, đòi tăng lương, hoặc thôi việc để

xác lập công bằng mới.

Một cá nhân nếu cảm nhận là họ được đối xử công bằng sẽ thúc đẩy động lực

lao động và làm tăng kết quả thực hiện công việc và ngược lại, nếu họ nhận ra rằng

mình bị đối xử không công bằng từ vấn đề lương bổng, cơ hội đào tạo thăng tiến, đến

sự hỗ trợ từ cấp trên thì sẽ không có động lực làm việc. Tuy nhiên, do các cá nhân thường có xu hướng nhìn nhận phóng đại thành tích bản thân nên rất khó xác lập được sự nhìn nhận công bằng trong tập thể lao động. Cái khó đối với các nhà quản trị là phải biết kiểm soát tình hình, loại bỏ hoặc hạn chế tối đa sự bất công khi phân chia quyền lợi trong nhóm, tổ.

Các nhà quản trị cũng cần tạo ra và duy trì sự công bằng trong tổ chức bằng các biện pháp như: i) nhận thức rằng người lao động sẽ so sánh sự công bằng bất cứ khi

nào những quyền lợi mà họ thấy rõ được phân chia, nên có thể áp dụng trả lương qua

tài khoản, bí mật mức lương trong nội bộ doanh nghiệp; tạo cơ hội thăng tiến ngang

17

nhau cho những người có năng lực thành tích ngang nhau; loại bỏ sự phân biệt đối xử về tuổi, giới tính, chủng tộc, tôn giáo.

Từ những năm 1960, 1970, lý thuyết công bằng được ứng dụng nhiều trong tổ

chức. Nó được hiểu là sự phân bố hợp lý, bình đẳng về mức lương và thưởng của người

lao động. Ngày nay, nhiều nghiên cứu cho thấy, không chỉ là mức lương mà người lao động còn quan tâm nhiều đến môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, chức vụ. Tất cả

những thứ đó được thể hiện qua những quyết định quản lý là hợp lý, rõ ràng, bình đẳng.

Lý thuyết công bằng của Adams (1966) được coi là lý thuyết nổi tiếng nhất liên

quan đến công bằng. Tuy nhiên, các học giả sau này đã chỉ trích lý thuyết, trong đó nó

chỉ tập trung vào phân phối kết quả mà bỏ qua các thủ tục để đưa ra quyết định phân

bổ kết quả (Colquitt và cộng sự , 2006; Konovsky, 2000; Tanya and Kristina, 2012).

Trong các trường hợp khác nhau, kết quả có thể được coi là công bằng, nhưng các thủ

tục mà người ra quyết định phân phối kết quả có thể không được coi là công bằng.

Dựa trên sự chỉ trích này, các lý thuyết sau này cũng tập trung vào việc điều tra

tính công bằng của các thủ tục. Ví dụ, trong lý thuyết công bằng của Folger and

Cropanzano (2001), các tình huống được coi là không công bằng khi các cá nhân cho

rằng các bên liên quan khác như người ra quyết định tham gia vào các thủ tục 'có thể',

'nên' hoặc 'sẽ' đã thực hiện chúng theo một cách khác mà họ cho là công bằng.

Colquitt và các cộng sự (2001), Cropanzano and Greenberg (1997) đã đưa ra lý

thuyết về sự công bằng trong tổ chức đã tạo ra một khung chuẩn hữu ích đó là công

bằng trong phân phối, quy trình, trao đổi, và thông tin. Colquitt và cộng sự (2005) cho

thấy: đối với cá nhân, sự công bằng thỏa mãn nhu cầu của cá nhân về việc kiểm soát,

tự tin, cảm giác hạnh phúc và có những ràng buộc về nghĩa vụ, đạo đức; đối với tổ chức, sự công bằng tạo ra một khung pháp lý để quản lý, do đó sẽ làm giảm nguy cơ

có hành vi gian lận, tăng cường sự tin tưởng vào quản lý, giảm nỗi sợ bị lạm dụng, khuyến khích sự hợp tác của người lao động.

Có thể thấy công bằng là một phạm trù khoa học được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau bao gồm cả triết học, chính trị, pháp lý… Công bằng được coi là một vấn đề xã hội có ý nghĩa khách quan mà con người cần hướng tới trong tư duy, nhận thức và hành động. Chính vì vậy, công bằng vừa là mục đích, vừa

là chuẩn mực để đánh giá sự tồn tại, phát triển của cộng đồng, của xã hội loài người. Sự thiết lập công bằng dựa vào ý chí chủ quan, do con người (nhóm, thậm chí là giai cấp) quyết định là duy tâm, là trái quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Có chăng, nó chỉ

18

được xác định ở phạm vi và quan niệm. Phạm vi và quan niệm lại phụ thuộc vào quá trình nhận thức do điều kiện kinh tế quyết định.

Tuy nhiên, lý thuyết công bằng vẫn còn một số hạn chế như làm thế nào các cá

nhân có thể chọn được người để đối chiếu, làm thế nào họ có thể kết hợp và so sánh

đầu vào và đầu ra của mình và của người khác để đi đến kết luận so sánh. Sự công bằng hay bất công chỉ có tính chất tương đối và phụ thuộc vào nhận thức của từng cá

nhân và mối quan hệ của cá nhân với nhóm và tổ chức. Mọi người có thể nhận thấy sự công bằng không chỉ về các yếu tố đầu vào và kết quả cụ thể của mối quan hệ, mà còn

về mặt hệ thống bao quát quyết định các đầu vào và đầu ra đó. Do đó, trong thu hồi

đất, bồi thường, người ta có thể cảm thấy rằng khoản bồi thường của mình là công

bằng với người khác, nhưng người ta có thể xem toàn bộ hệ thống bồi thường là không

công bằng (Carrell and Dittrich, 1978).

Trong thu hồi đất, kết quả của các hộ khi nhà nước thu hồi đất có thể được định

nghĩa là các giá trị hữu hình và vô hình mà việc thu hồi đất mang lại. Các kết quả cũng

có thể được các bên liên quan khác nhau nhìn nhận khác nhau (Hayibor, 2012). Các hộ

bị thu hồi đất có thể cho rằng giá đền bù của họ là thấp trong khi đó, các cơ quan thu

hồi đất có thể nhận thấy nó là cao.

Lý thuyết đồng hóa

Lewin (1975) ban đầu hình thành lý thuyết về sự bất hòa về nhận thức, sau này

được phát triển và hoàn thiện bởi Festinger (1957). Lý thuyết bất hòa tạo thành cơ sở

của lý thuyết đồng hóa. Lý thuyết bất hòa đặt ra rằng người dùng của một sản phẩm cụ

thể tạo ra một số so sánh nhận thức giữa các kỳ vọng về sản phẩm và hiệu suất sản

phẩm được cảm nhận. Nếu có sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm được cảm nhận thì sự bất đồng hoặc không xác nhận tiêu cực sẽ phát sinh. Quan điểm này

về đánh giá sau khi sử dụng của người tiêu dùng, đã được đưa vào tài liệu về sự thỏa mãn dưới dạng lý thuyết đồng hóa của Vàerson (1994) trong công trình nghiên cứu về sự không thỏa mãn của người tiêu dùng; ảnh hưởng của sự mong đợi không được xác nhận đối với hiệu suất sản phẩm được cảm nhận. Theo Vàerson (1994) người tiêu dùng tìm cách tránh sự không thỏa mãn bằng cách điều chỉnh nhận thức về một sản phẩm nhất định để mang lại cho nó phù hợp hơn với mong đợi.

Người tiêu dùng cũng có thể làm giảm sự không thỏa mãn do sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm bằng cách thay đổi kỳ vọng sao cho trùng với hiệu suất sản phẩm được nhận thức hoặc bằng cách tăng mức độ thỏa mãn bằng cách giảm thiểu

tầm quan trọng tương đối của sự không thỏa mãn đã trải qua (Olson and Dover, 1979).

19

Tuy nhiên, lý thuyết đồng hóa có một số điểm yếu. Thứ nhất, cách tiếp cận quy định rằng có một mối quan hệ giữa kỳ vọng và sự thỏa mãn nhưng không nêu rõ việc xác

nhận kỳ vọng dẫn đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn như thế nào. Thứ hai, lý

thuyết cũng cho rằng người tiêu dùng được truyền cảm hứng đủ để điều chỉnh kỳ vọng

hoặc nhận thức của họ về hiệu suất của sản phẩm (Forman, 1986). Theo Peyton và cộng sự (2003), nếu người tiêu dùng điều chỉnh kỳ vọng hoặc nhận thức về hiệu suất

sản phẩm thì sự không thỏa mãn sẽ không phải là kết quả của quá trình đánh giá sau khi sử dụng. Một số học giả như Olson and Dover (1979) và Vàerson (1994) đã phát

hiện ra rằng việc kiểm soát hiệu suất sản phẩm thực tế có thể dẫn đến một mối quan hệ

tích cực giữa kỳ vọng và sự thỏa mãn. Do đó, Bitner (1987) lập luận rằng dường như

sự không thỏa mãn không bao giờ có thể xảy ra ngoại trừ các quy trình đánh giá sẽ bắt

đầu với những kỳ vọng tiêu cực của người tiêu dùng.

Lý thuyết tương phản

Lý thuyết tương phản được giới thiệu lần đầu tiên bởi Hovl và cộng sự (1957).

Tuy nhiên, Cardozo (1986) cho rằng lý thuyết này đưa ra một quan điểm khác về quy

trình đánh giá hậu kỳ của người tiêu dùng, ngược lại với lý thuyết đồng hóa đã đưa ra

giả thuyết rằng đánh giá sau khi sử dụng dẫn đến kết quả trong các dự đoán ngược lại

về tác động của sự mong đợi đối với sự thỏa mãn. Lý thuyết tương phản đặt ra rằng

người tiêu dùng sẽ phóng đại bất kỳ sự tương phản nào giữa kỳ vọng và đánh giá sản

phẩm. Dawes và cộng sự (1972) định nghĩa lý thuyết tương phản là xu hướng để

phóng đại sự khác biệt giữa "thái độ của chính mình và thái độ được thể hiện bởi các

tuyên bố ý kiến" được xác nhận bởi những người có quan điểm đối lập.

Trong khi lý thuyết đồng hóa cho thấy rằng người dùng sẽ tìm cách giảm thiểu sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất; lý thuyết tương phản lập luận rằng một hiệu ứng bất

ngờ phát sinh dẫn đến sự khác biệt bị phóng đại (Peyton and Kamery, 2003). Lý thuyết

này được tiếp tục phát triển thành lý thuyết tương phản đồng hóa bởi Vàerson (1994).

Lý thuyết tương phản đồng hóa

Lý thuyết tương phản đồng hóa đã được đề xuất như một cách khác để giải thích mối quan hệ giữa các biến trong mô hình xác nhận (Hovlvà and Sherif, 1957). Lý thuyết này là sự kết hợp của cả lý thuyết đồng hóa và lý thuyết tương phản; mô hình cho rằng

sự thỏa mãn là một hàm của mức độ chênh lệch giữa hiệu suất mong đợi và hiệu suất được cảm nhận. Nói chung, người tiêu dùng của bất kỳ sản phẩm nào đều có khu vực chấp nhận hoặc từ chối đối với nhận thức của họ (Peyton and Kamery, 2003). Cũng

giống như lý thuyết đồng hóa, người tiêu dùng sẽ có xu hướng điều chỉnh sự khác biệt

20

trong nhận thức về hiệu suất sản phẩm để mang nó phù hợp với mong đợi trước đó, nhưng chỉ khi sự khác biệt là tương đối nhỏ. Peyton and Kamery (2003) chỉ ra rằng khi

có sự khác biệt lớn giữa các kỳ vọng và hiệu suất nhận thức, các hiệu ứng tương phản

xảy ra và người tiêu dùng có xu hướng phóng đại sự khác biệt về nhận thức.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hầu hết những khác biệt với một sản phẩm nhất định không chỉ là phóng đại mà đơn giản là sự đánh giá thực sự của sản phẩm, dựa trên

những gì người tiêu dùng đã trải nghiệm. Một số đánh giá có thể là một biểu hiện cảm xúc của đánh giá của người tiêu dùng liên quan đến chức năng của sản phẩm. Mặt

khác, Peyton and Kamery (2003) cho rằng việc đồng hóa hay tương phản xảy ra phụ

thuộc vào sự chênh lệch nhận thức giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm thực tế.

Lý thuyết tương phản đồng hóa cũng cho rằng nỗ lực của Forman (1986) về lý

thuyết đồng hóa trong việc dung hòa hai lý thuyết trước đó là yếu về phương pháp.

Vàerson and Fornell (1994) khẳng định rằng người tiêu dùng sở hữu "ngưỡng xác

nhận sự khác biệt”. Lý thuyết tương phản đồng hóa chứng minh rằng cả mô hình lý

thuyết đồng hóa và mô hình tương phản đều có khả năng áp dụng trong nghiên cứu về

sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Mức độ khác biệt cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu

ứng đồng hóa hay hiệu ứng tương phản sẽ được quan sát thấy khi hiệu suất sản phẩm

khó đánh giá, kỳ vọng có thể chi phối và hiệu ứng đồng hóa sẽ được quan sát hiệu ứng

tương phản sẽ dẫn đến tình huống có sự tham gia cao. Sức mạnh của những kỳ vọng

cũng có thể ảnh hưởng đến việc liệu các hiệu ứng đồng hóa hay tương phản có được

quan sát hay không" (Bitner, 1987).

Những nỗ lực của các nhà nghiên cứu để kiểm tra thực nghiệm mô hình đồng

hóa đã đạt được kết quả khác nhau. Chẳng hạn, Vàerson and Fornell (1994), Olson a Dover (1979) đã tìm thấy một số bằng chứng ủng hộ phương pháp lý thuyết đồng hóa.

Khi tranh luận cả hai nghiên cứu này, Oliver (1965) cho rằng kết quả của Vàerson và

Fornell (1994), Olson and Dover (1979) không thể được chấp nhận vì họ chỉ đo lường những kỳ vọng và cho rằng chỉ là sự khác biệt về nhận thức giữa sự không xác nhận hoặc sự thỏa mãn.

Mâu thuẫn với những phát hiện ủng hộ lý thuyết đồng hóa, Cadotte và cộng sự (1983) đã báo cáo mối tương quan tiêu cực giữa kỳ vọng và sự không xác nhận. Do

đó, họ đã giải quyết rằng sự thỏa mãn thực sự là một chức năng phụ gia của hai khái

niệm. Peyton and Kamery (2003) khẳng định rằng sự không chắc chắn được tạo ra bởi kết quả nghiên cứu từ các tác phẩm của Oliver (1980b, 1977a, 1977b), không tìm thấy

mối quan hệ nào giữa kỳ vọng và sự không xác nhận. Hơn nữa, Olshavsky and Miller

(1972) trong kỳ vọng của người tiêu dùng, hiệu suất sản phẩm và chất lượng sản phẩm

21

được nhận thức đã ủng hộ lý thuyết tương phản đồng hóa. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện ra rằng nếu sự khác biệt quá lớn để bị đồng hóa, thì hiệu ứng tương phản xảy ra.

Lý thuyết về sự khác biệt

Lý thuyết về sự khác biệt cho rằng nếu hiệu suất vượt quá mong đợi, người

dùng sẽ được xác nhận tích cực hoặc thỏa mãn. Mặt khác, nếu hiệu suất không đáp ứng mong đợi, người tiêu dùng sẽ không được xác nhận hoặc không thỏa mãn. Do đó,

sự xác nhận tích cực dẫn đến tăng sự thỏa mãn, với sự không xác nhận tiêu cực có tác dụng ngược lại, trong khi sự không xác nhận xảy ra khi hiệu suất phù hợp với mong

đợi (không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn). Kotler và cộng sự (1996) cho rằng điều này

là do những kỳ vọng của người dùng được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm trong

quá khứ. Oliver (1993), đề xuất rằng kỳ vọng có thể vượt quá theo hai cách khác nhau:

mức độ hiệu suất nằm trong phạm vi bình thường (sản phẩm tốt hơn mong đợi); mức độ

hiệu suất là đáng ngạc nhiên tích cực (người ta sẽ không mong đợi rằng sản phẩm sẽ hoạt

động tốt như vậy).

Mô hình xác nhận kỳ vọng không chỉ giải thích sự thỏa mãn với hiệu suất sản

phẩm, mà còn cả sự thỏa mãn về dịch vụ. Tuy nhiên, Churchill and Surprenant (1982)

đã nhận thấy sự không nhất quán trong đó mô hình không thỏa mãn cũng không ảnh

hưởng đến sự thỏa mãn của người dùng đối với các sản phẩm bền. Parker and Matthews

(2001) xem sự thỏa mãn là sự khác biệt giữa quan sát và mong muốn. Điều này đã được

chứng minh là phù hợp với lý thuyết chênh lệch giá trị nhận thức được phát triển để đáp

ứng với vấn đề mà người dùng có thể thỏa mãn bởi các khía cạnh mà kỳ vọng không

bao giờ tồn tại. Những gì người tiêu dùng muốn là không có sự chênh lệch giữa các giá

trị của họ: nhu cầu, mong muốn và đối tượng đánh giá của họ (Yi, 1990).

Bên cạnh lý thuyết khác biệt, lý thuyết vốn chủ sở hữu cũng đã được áp dụng

cho sự thỏa mãn của mô hình Parker and Matthews (2001). Lý thuyết công bằng cho rằng các cá nhân so sánh tỷ lệ đầu vào đầu ra của họ với tỷ lệ của những người khác Poisz and Grumbkow (1988) và người tiêu dùng sẽ thỏa mãn nếu lợi nhuận ròng được coi là công bằng. Gần đây hơn, theo Parker and Mathews (2001), sự chú ý đổi mới đã được tập trung vào bản chất của sự thỏa mãn. Do sự khác biệt lớn về bản chất và ý nghĩa của sự thỏa mãn, nhiều hiệp hội và công ty đang sử dụng các điểm tham chiếu

khác nhau làm tiêu chuẩn để so sánh số liệu về sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Để

giải quyết điều này, một số chỉ số thỏa mãn khách hàng quốc gia hài hòa đã được phát triển (Spreng and Olshavsky, 1996). Ví dụ: Chỉ số thỏa mãn của người tiêu dùng Mỹ

(ACSI) và Chỉ số thỏa mãn của khách hàng châu Âu (ECSI) tương ứng là hai chỉ số

22

thỏa mãn của khách hàng đối với Hoa Kỳ và các nước châu Âu. Chỉ số thỏa mãn của Nam Phi dựa trên (Chỉ số SAS) người Mỹ.

Chỉ số thỏa mãn của khách hàng (ACSI) trong Fornell (1996) định nghĩa sự

thỏa mãn là mức trung bình có trọng số của ba xếp hạng khảo sát; chất lượng cảm

nhận, giá trị cảm nhận và sự mong đợi của khách hàng. Chỉ số ACSI đã được sử dụng để đo lường mức độ thỏa mãn trong sản xuất, vận tải, thông tin liên lạc và tiện ích, bán

lẻ, tài chính và bảo hiểm, dịch vụ, hành chính công và thậm chí cả Chính phủ (Bin và Chi, 2006). Điều này là do kết quả đánh giá về sự thỏa mãn của khách hàng là cao nhất

đối với các sản phẩm cạnh tranh, thấp hơn đối với các dịch vụ và nhà bán lẻ cạnh tranh

và thấp nhất đối với các cơ quan chính phủ và nhà nước. Trong mô hình ACSI, kỳ

vọng của người tiêu dùng ảnh hưởng đến việc đánh giá chất lượng và dự đoán sản

phẩm hoặc dịch vụ sẽ hoạt động tốt như thế nào. Chất lượng cảm nhận trong mô hình là mức độ mà một sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng mong đợi của người tiêu dùng và

điều này thường có tác động lớn nhất đến sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Cuối cùng,

sự thỏa mãn có mối quan hệ nghịch đảo với các khiếu nại của khách hàng, được đo

bằng tỷ lệ phần trăm số người được hỏi về các vấn đề với sản phẩm hoặc dịch vụ được

đo trong một khung thời gian xác định.

Có thể thấy hiện tại có rất nhiều lý thuyết về sự thỏa mãn nhưng không có bằng

chứng nào chứng tỏ rằng các lý thuyết về sự thỏa mãn đã được sử dụng trong các

nghiên cứu về thu hồi, các lý thuyết trên phần nào có thể giải thích được cho sự thỏa

mãn và không thỏa mãn trong việc thu hồi đất một cách đầy đủ hơn.

1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Các nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới đã cố gắng tìm tòi khám phá ra những

đặc điểm cốt lõi, những yếu tố cấu thành, ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân có đất bị thu hồi để thực hiện các công trình, dự án phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

1.2.1. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Theo Kakulu (2008), cộng đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường nếu có liên quan đến cưỡng chế hoặc tranh chấp. Trong nghiên cứu của Robinson (1995) cũng chỉ ra rằng nếu mức bồi thường là đầy đủ và cao hơn, chủ sở hữu sẽ hoan nghênh việc thu

hồi đất. Kết quả nghiên cứu về chỉ số thỏa mãn cho thấy chỉ số thỏa mãn tương đối đạt

được dưới 4.0, có nghĩa rằng những người tham gia khảo sát không thỏa mãn với mức

bồi thường. Tác nhân chủ yếu đó chính là chênh lệch giữa mức tiền bồi thường với giá

23

thị trường (RSI=0,47). Kotilainen (2011) tại Phần Lan, và Xinliang (2012) tại Trung Quốc tìm ra rằng sự thoả mãn về mức tiền bồi thường rất quan trọng và sâu xa hơn là

sự chênh lệch giữa tiền bồi thường với giá trị thị trường thực tế của bất động sản là yếu

tố lớn dẫn đến sự không thỏa mãn của những người dân có đất bị thu hồi để thực hiện

các dự án. Mức bồi thường không đầy đủ chính là một mâu thuẫn lớn trong quá trình thực hiện thu hồi đất để thực hiện các dự án.

Nghiên cứu của Oladapo and Ige (2012) tại Nigeria trình bày quan điểm của người nhận bồi thường đối với việc thu hồi đất và các biến thể trong việc chi trả bồi

thường đối với hành động thu hồi đất mang tính cưỡng chế ở một vài thành phố thuộc

bang Ondo vào thời điểm năm 2012. Đây là một nghiên cứu khảo sát sử dụng thiết kế

bảng câu hỏi để tìm hiểu sâu về dữ liệu thu thập từ việc bồi thường cho người nhận bồi

thường trong quá trình thu hồi đất. Quan điểm của người nhận bồi thường đối với việc bồi thường do thu hồi đất cưỡng chế được đo trên thang Likert 5 điểm/mức. Dữ liệu

được phân tích sử dụng kiểm định T-test cặp và bảng chỉ số về mức thỏa mãn tương

đối. Nghiên cứu chỉ ra sự chênh lệch lớn giữa trung bình (mean) của mức trả bồi

thường và giá trị thị trường của tài sản bị thu hồi, trong khi chỉ số thỏa mãn tương đối

của bên người nhận bồi thường đối với mức bồi thường được trả là dưới cả mức thỏa

mãn chấp nhận được. Nghiên cứu đưa ra gợi ý rằng để tránh được mâu thuẫn và hỗn

loạn trong xã hội, quan trọng là phải có các phương pháp định giá đúng giá tài sản và

việc bồi thường phải chi trả đầy đủ để không khiến người bị thu hồi đất rơi vào tình

trạng bị thiệt thòi. Nghiên cứu được tiến hành với việc tham vấn bảng câu hỏi thu thập

dữ liệu từ những dự án thu hồi đất. Trong số 976 bảng câu hỏi được phát ra, có 703

(đạt 72,03%) phản hồi được thu về và việc phân tích dựa trên nền tảng mô tả và suy luận số liệu. Thang đo là thang 5 mức của Likert. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy

sự chênh lệch lớn giữa mức tiền bồi thường và giá trị thị trường của khu đất bị thu hồi.

Mức bồi thường không đầy đủ là nguyên nhân chính gây nên mâu thuẫn xã hội xuất

phát từ việc Nhà nước thu hồi đất, và đây cũng là thách thức chính trong mỗi dự án thu hồi đất. Các nghiên cứu cho thấy rằng mức sống của chủ sỡ hữu đất đi xuống rất nhiều sau khi bị thu hồi đất. Để đảm bảo việc thu hồi đất được tiến hành hợp pháp, việc bồi thường đúng và đầy đủ cho chủ đất phải được bảo đảm.

Odalapo and Ige (2012) còn chỉ ra rằng rõ ràng chênh lệch về mức tiền bồi thường với giá thị trường là một vấn đề nhạy cảm. Dữ liệu phân tích chỉ ra 1 khoảng lệch lớn giữa hai giá trị trên mà hệ lụy là sự bất mãn trên diện rộng của những chủ đất với số tiền bồi thường không đầy đủ. Do đó, các biện pháp định giá đúng, đủ và bồi

thường thích hợp sẽ giúp cho những người bị thu hồi đất không rơi vào tình cảnh khó

24

khăn, thiệt hại và đây là 1 phương diện quan trọng trong việc thực thi thu hồi đất, vốn dĩ rất cần những hướng dẫn toàn diện để cải thiện toàn bộ quá trình. Và cùng nhau họ

đưa ra 6 đề xuất cho vấn đề này: (1) Chênh lệch giữa mức tiền bồi thường và giá trị thị

trường của tài sản nên được giữ ở mức tối thiểu; (2) Các nhà định giá nên đưa ra

quyết định dựa trên điều kiện thị trường hiện hành. Điều này sẽ giúp đảm bảo cho quá trình thu hồi đất ít gặp khó khăn hơn, giúp người chủ đất bị thu hồi đạt được nhu cầu

và cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển quy hoạch; (3) Các nhà định giá và khảo sát bất động sản nên cải thiện kỹ năng của mình; (4) Các nhà định giá nên được

cho phép sử dụng những biện pháp phù hợp thay vì phải dùng những biện pháp định

giá theo như Điều Luật sử dụng đất; (5) Các cơ quan thu hồi nên làm đúng quy trình

để đảm bảo người bị thu hồi đất nhận được đủ số tiền bồi thường; (6) Những người có

đất bị thu hồi nên được tham gia vào việc thu hoạch và cần được giúp đỡ để hiểu mọi phương diện của quá trình này.

Song QU và cộng sự (2015), cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp ở Trung Quốc

bởi chính quyền địa phương và các khoản bồi thường trả cho nông dân là nguyên nhân

chính gây ra xung đột xã hội. Sử dụng số liệu điều tra 450 hộ gia đình ở 3 tỉnh vùng

nông thôn, bài viết này xem xét tác động của các khoản thanh toán bồi thường và các

phương thức bồi thường khác nhau đến sự thỏa mãn của người nông dân. Một số phát

hiện chính là: (1) sự thỏa mãn của nông dân với việc bồi thường không chỉ phụ thuộc

vào mức bồi thường mà còn phụ thuộc vào khoảng cách giữa giá đền bồi thường và giá

trị thị trường của đất bị thu hồi; (2) số tiền bồi thường ảnh hưởng tích cực đến sự thỏa

mãn của nông dân khi sử dụng hình thức bồi thường an sinh xã hội, nhưng không ảnh

hưởng đến sự thỏa mãn của nông dân khi sử dụng các hình thức bồi thường khác.

1.2.2. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường

Imrie and Thomas (1997) (trích dẫn trong Kotilainen, 2012) chỉ ra rằng việc

thông báo, thực thi và cơ sở pháp lý của việc mua bán cưỡng chế là yếu tố mạnh tạo ra sự không đồng tình tại Anh. Munch (1976) tiến hành nghiên cứu về việc thu hồi đất có và không có cưỡng chế. Kết quả cho thấy việc cưỡng chế không nhất thiết là một cơ sở pháp lý có hiệu quả hơn so với việc mua bán tại thị trường tự do. Tài sản có giá trị cao thường nhận được mức bồi thường cao hơn giá thị trường nhưng tài sản giá trị thấp thì nhận mức bồi thường thấp hơn so với giá thị trường. Lý do là do cấu trúc của giá quy định bởi toà án.

Ning Chai (2019), xem xét khía cạnh bồi thường của việc tịch thu đất và tài sản

ở nông thôn ở Hàng Châu và nghiên cứu đánh giá sự thỏa mãn của người nông dân

25

trong phương pháp bồi thường trong quá trình thu hồi đất bên cạnh đó xem xét về thái độ của những người nông dân bị mất đất. Thường có ba phương pháp bồi thường được

áp dụng - bao gồm bồi thường bằng tiền, bồi thường thay thế tài sản và bồi thường tái

định cư. Kết quả nghiên cứu này có thể giúp chính quyền địa phương trong tương lai

xây dựng các tiêu chuẩn, phương thức bồi thường hợp lý đối với đất đai và tài sản bị trưng thu. Những người nông dân bị trưng thu chọn bồi thường bằng tiền thỏa mãn

hơn so với bồi thường nhà ở.

Li, N.H (2018), dựa trên dữ liệu khảo sát của nông dân và thực tiễn cải cách ở

thành phố Lưu Dương, một trong những khu vực thử nghiệm đầu tiên trên toàn quốc

về cải cách hệ thống ruộng đất ở nông thôn, nghiên cứu này cho thấy sự thỏa mãn về

phương thức bồi thường thấp, tác giả cũng kiến nghị nên thiết lập và cải thiện cơ chế

cập nhật về phương thức bồi thường đất và cơ chế ra quyết định thu hồi đất, cũng như cải thiện cơ chế an ninh cho nông dân bị mất đất để đạt được sự phát triển hơn nữa của

cải cách.

Mức bồi thường và phương thức phân phối tiền bồi thường thu hồi đất có ảnh

hưởng quan trọng đến sự hài lòng của nông dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh đô thị hóa

nhanh chóng, giá trị thị trường của đất canh tác ngày càng tăng, trong khi thu nhập từ

tài sản của nông dân tương đối thấp. Đất đai có các chức năng an sinh xã hội nhất

định, trong khi chỉ đền bù bằng tiền có thể làm giảm mức độ thỏa mãn của nông dân.

Tiêu chuẩn hóa thủ tục trưng thu đất không chỉ là yêu cầu chỉ đạo của việc xây dựng

hệ thống trưng thu đất nông thôn của quốc gia, mà còn là nguồn gốc của việc cải thiện

sự thỏa mãn của nông dân.

Lin (2006) nghiên cứu về 1 dự án mở rộng đường tại Anh và Đài Loan. Chủ sở hữu đất không chấp nhận tiền mặt khi bị cưỡng chế mua bán một cách bị động thay vì

thế họ chọn biện pháp bồi thường định hướng thị trường. Các biện pháp có tính định

hướng thị trường như bán tài sản, hoặc rời đi hoặc người dân được phép thuê được sử dụng lại.

Với Kotilainen (2012), thoả thuận sẽ được chủ đất ưa chuộng trong trường hợp có nhiều hơn một biện pháp lựa chọn (không chỉ là tiền, có thể là bồi thường bằng đất). Cơ sở lý thuyết về bồi thường có thể có sự khác biệt giữa việc thoả thuận và tiến

hành cưỡng chế. Và xu hướng là cơ sở này chuộng thoả thuận hơn là cưỡng chế trên

các phương diện (giá chuyển nhượng, tính thanh toán nhanh). Các chủ đất rất mong muốn có cơ hội thoả thuận với bên thứ ba thay vì với đại diện của cơ quan quản lý

đường xá Finnra. Khả năng được sử dụng người trung gian dàn xếp cũng có thể rất

hữu ích.

26

Hu và cộng sự (2014) đã giới thiệu cách tiếp cận sự hài lòng của cuộc sống và đã thông qua một bộ chỉ số để kiểm tra tác động của các chính sách bồi thường khác

nhau đối với nông dân không có đất, hài lòng về cuộc sống, về cơ bản tập trung vào

kinh tế, xã hội cá nhân hoặc gia đình, thuộc tính, tình trạng sức khỏe và các mối quan

hệ xã hội. Một số trường hợp khác, những giải pháp khác có thể được áp dụng thay vì dùng tiền. Bồi thường bằng đất có thể hiệu quả với các dự án lớn tại nông thôn nhưng

không hiệu quả với vùng đô thị, nơi mà khó có nhiều những thửa đất tương tự để bồi thường bằng đất. Một dự án mở rộng đường có thể chỉ lấy một phần nhỏ của thửa đất,

và đó là lí do mà sẽ khó có biện pháp bồi thường khác ngoài bồi thường tiền.

1.2.3. Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và sự tham gia của người dân

Tyagi and Shinde (2016) đã tìm hiểu về những khó khăn trong việc thu hồi đất

tại Ấn Độ và chính sách của Chính phủ trong việc này. Phạm vi nghiên cứu của họ là

quá trình thu hồi đất cho phát triển các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và

những vấn đề liên quan đến đạo luật thu hồi đất, chính sách và quy định của Chính phủ

cũng như những khó khăn trong việc thu hồi đất. Nghiên cứu đã điều tra khảo sát và

phỏng vấn các đối tượng đại diện chính quyền sở tại và người sử dụng đất. Các câu hỏi

trong bảng khảo sát thiết kế ở dạng trả lời “Có” và “Không”. Kết quả đạt được là phần

trăm “Có” cho mỗi câu hỏi đều đạt dưới mức 50%, thể hiện mức độ chưa đạt đối với kì

vọng của người dân với việc BT, HT của chính quyền trong việc tổ chức thu hồi đất.

Những gợi ý và đề xuất được đưa ra từ nghiên cứu này: (1) Nên có những điều khoản

để giải quyết những ý kiến của những người chủ đất bị ảnh hưởng; (2) Nên có những điều khoản để giúp những người dân địa phương (đa phần là nông dân) hiểu rõ kế

hoạch về quá trình thu hồi đất; (3) Nên có sách hướng dẫn người dân (đặc biệt là nông

dân) hiểu biết về chính sách điều chỉnh, quy trình tái phân bổ đất và việc bồi thường

thu hồi đất, lịch trình trả tiền bồi thường, hiến đất, kế hoạch TĐC và các địa điểm xây dựng cũng như về khung thời gian của chương trình; (4) Bắt buộc phải giải thích, làm rõ những luật và quy tắc liên quan cho người bị ảnh hưởng trước khi tiến hành thu hồi đất; (5) Thất bại của kế hoạch là do có mâu thuẫn tranh chấp về lợi ích và cũng như do những chính sách của Chính phủ không rõ ràng; (6) Việc tham gia của công chúng là

rất quan trọng cũng như mức độ thỏa mãn của người dân. Chính quyền cũng phải đảm

bảo quyền được đưa ra ý kiến và thảo luận cho những người có đất bị thu hồi.

Theo Xianling (2012), chỉ ra rằng chính hệ thống tổ chức chưa hoàn hảo, sự độc

quyền của Chính phủ hoặc sự can thiệp của Chính phủ đã tạo ra sự không thỏa mãn

của người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Imrie and Thomas (1997) (trong nghiên cứu

27

của Kotilainen, 2012) chỉ ra rằng việc thông báo, thực thi trong việc bồi thường, hỗ trợ là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thỏa mãn của người dân.

Ngược lại, ở Ghana sự không thỏa mãn của người dân trong các dự án thu hồi

đất đã diễn ra khi việc thu hồi đất thường gắn liền với các khiếu nại như không tuân

thủ các quy tắc và thủ tục quản lý việc trưng thu tài sản tư nhân, trả tiền đền bù không đầy đủ và không có sự tham gia của chủ đất. Có ý kiến cho rằng chủ sở hữu đất không

tham gia ngay từ ngày đầu tiên tạo ra sự không thỏa mãn của người dân (Gyamfi, 2012; Odame, 2008).

Tác giả Wang, X. (2013), dựa trên những học thuyết và tổng quan nghiên cứu

đã đưa ra các biến thang đo về sự thỏa mãn của nông dân đối với việc bồi thường thu

hồi đất ở góc độ tổ chức thực hiện, đó là: sự tin cậy của người dân về kết quả định giá

và phương pháp định giá của nhà nước, việc thực hiện không xảy ra sai sót, bồi thường

đúng như đã thông báo; chủ đầu tư và chính quyền địa phương tạo niềm tin cho người

dân; việc đáp ứng của chủ đầu tư và Nhà nước về những yêu cầu của người dân, luôn

luôn sẵn sàng hỗ trợ người dân, chủ đầu tư và chính quyền địa phương luôn có cán bộ

giỏi và có kiến thức để phụ vụ người dân, giải đáp thắc mắc cho người dân.

1.2.4. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo đặc điểm của người dân

Yếu tố nội tại của người dân: Một số nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh

hưởng đến sự thỏa mãn, đồng thuận trong bồi thường như Jesser (1967), Marans and

Rodger (1975) đã đưa ra đặc điểm cá nhân (tuổi; giới tính chủ hộ; nhận thức và kinh

nghiệm cá nhân; quy mô gia đình; nghề nghiệp; số năm sống tại địa phương; số năm đi học/trình độ giáo dục; đối tượng kiếm thu nhập chính trong gia đình; người nhập

cư/người địa phương) là yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn trong quá trình thu hồi đất,

bồi thường; Nhóm về thu nhập; cơ hội tìm kiếm thu nhập cao hơn; khả năng sinh kế ở địa phương; đảm bảo tài chính nghỉ hưu/về già (Jesser, 1967; Ladewig and McCann, 1980; Brown, 1999); Việc làm (Cơ hội kiếm việc làm cho bản thân; sự đảm bảo/ổn định về việc làm; cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp; việc làm cho phụ nữ; việc làm cho người lớn tuổi; việc làm cho người nhỏ tuổi; việc làm cho người kém may mắn) (Brown, 1993; Filkins and Cordes, 1999); Tính gắn kết xã hội: Cơ hội phát triển các

mối quan hệ cá nhân; có sự tương trợ, giúp đỡ từ những người khác trong lúc khó khăn; có sự hợp tác của dân cư trong việc giải quyết các vấn đề địa phương; mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động của cộng đồng, xã hội; cộng đồng thân

thiện hay không thân thiện, đáng tin cậy hay không đáng tin cậy (Brown, 1993; Filkins

28

and Cordes, 1999); Văn hóa xã hội: Sự thoả mãn về tinh thần, tín ngưỡng; lao động dân cư và an ninh; hoạt động vui chơi giải trí; hoạt động cộng đồng mang bản sắc địa

phương (Filkins and Cordes, 1999; Smith, 2008); Cơ sở hạ tầng: Chất lượng đường sá

và hệ thống giao thông, điện nước (Marans and Rodger, 1975; Filkins and Cordes,

1999); Dịch vụ tiện ích công cộng: Giao thông và phương tiện di chuyển; truyền thông và liên lạc; hệ thống mua bán lẻ, mua sắm và ăn uống; hệ thống xử lý rác thải rắn; y tế,

chăm sóc sức khỏe; giáo dục; trường học; trợ giúp pháp luật; cung cấp nhà ở tốt cho người thu nhập thấp (Rojek và cộng sự, 1975; Filkins and Cordes, 1999); Môi trường

tự nhiên: Cảnh quan môi trường sạch đẹp, an toàn; khí hậu, không khí; nguồn nước;

đất đai; chất thải; rác thải; tiếng động, tiếng ồn (Marans and Rodger, 1975; Ladewig

and McCann, 1980; Loon and Stinner, 1992); Sức khỏe: Ô nhiễm không khí; tiếng ồn;

chất thải; các loại bệnh; Đất đai - nhà ở: Thu hồi đất đai; bồi thường giải tỏa; việc làm liên quan đến đất nông nghiệp và sử dụng đất (Ladewig and Cann, 1980); Chính quyền

địa phương: Hoạt động của chính quyền địa phương; vai trò của chính quyền địa

phương trong giải quyết ô nhiễm; thông tin đến người dân; có trách nhiệm quan tâm

đến nhu cầu của cộng đồng; ra quyết định có sự tham gia của người dân; đặc điểm

chính quyền địa phương (Ladewig and Cann, 1980, Loon and Stinner, 1992).

Nhiều học giả tập trung nghiên cứu đối tượng nông dân không có đất, đặc điểm

cá nhân và gia đình. Các thuộc tính kinh tế, xã hội cá nhân thường bao gồm một độ

tuổi, trình độ học vấn, tình trạng công việc, mức thu nhập hàng năm, v.v... Mức thu

nhập phản ánh khả năng của người nông dân không có đất, rủi ro xã hội và có một

mức sống nhất định (Qin và cộng sự, 2016). Ở cấp độ cá nhân, nghiên cứu cho thấy

những người có thu nhập cao hơn hoặc điều kiện sống vật chất tốt hơn nói chung là thỏa mãn hơn những người thấp hơn thu nhập và mối tương quan này thậm chí còn

mạnh hơn và phân bổ không đồng đều trong các quốc gia phát triển có bất bình đẳng

lớn về thu nhập (Bohnke, 2005). Trong khi đó, nhóm tuổi, mức độ giáo dục cũng như

tình trạng công việc có thể ảnh hưởng mạnh đến mức thu nhập cá nhân, tình trạng sức khỏe, và kiến thức về các chính sách liên quan.

Tuổi của người dân cũng là biến số trong phân tích sự thỏa mãn của nhà ở (Hu, 2013, Waziri và cộng sự, 2014, Grigolon và cộng sự, 2014). Tình trạng sở hữu nhà đã

được phát hiện có tác động tích cực mạnh mẽ đến sự thỏa mãn theo nghĩa là sở hữu ngôi nhà sẽ mang lại sự thỏa mãn cao hơn so với việc thuê bất động sản (Ibem and Aduwo, 2013; Hu, 2013). Ngoài ra, người già có xu hướng thỏa mãn hơn với nhà ở của họ (Waziri và cộng sự, 2014). Một mặt, nó có thể phản ánh rằng những người già

có tài sản tích lũy cao hơn có thời gian dài hơn và ngân sách lớn hơn, những người lớn

29

tuổi có xu hướng đưa ra xếp hạng thỏa mãn cao hơn, những người khác nhau có thể có mức độ khát vọng khác nhau, điều này có thể dẫn đến sự thỏa mãn khác nhau, ngay cả

đối với cùng các giá trị thuộc tính hoặc cấp độ. Sự thỏa mãn của người dân không chỉ

có thể được gây ra bởi các thuộc tính của hộ gia đình và môi trường, mà còn có thể

phản ánh sự thay đổi về mức độ nguyện vọng, mong muốn.

Yếu tố khác: Một số nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu

hồi đất ở Trung Quốc cho thấy sự thỏa mãn của người dân khác nhau theo khu vực đô thị ở các thành phố hay theo mục đích thu hồi đất (Li and Chen, 2011, Li and Wu,

2013). Theo Cletus Ndjovu (2016), những bất mãn trong việc thu hồi đất cũng đã được

báo cáo khá rộng rãi ở Ấn Độ, nơi tất cả những người có quyền lợi trên đất được thu

hồi vì lợi ích công cộng đều được phép phản đối ý định thu hồi đất của chính phủ theo

quy định của Đạo luật thu hồi đất năm 1894 của Ấn Độ. Những bất đồng trong bối cảnh của Ấn Độ được coi là hợp lệ nếu mục đích của mảnh đất được đề xuất thu hồi

không phải là mục đích công cộng, nếu mảnh đất đó không phù hợp hoặc kém hơn một

mảnh đất khác cho mục đích nói trên, nếu diện tích bị thu hồi quá mức và nếu việc

mua lại sẽ phá hủy hoặc làm suy giảm các di tích lịch sử hoặc nghệ thuật hoặc sẽ làm

xấu các tòa nhà tôn giáo, nghĩa địa. Ở Trung Quốc, nơi có nhiều đất đai bị thu hồi để

phát triển kinh tế, rất nhiều bất đồng cũng diễn ra.

Các nghiên cứu ở Việt Nam

Còn có rất ít các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi

Nhà nước thu hồi đất. Hầu hết các nghiên cứu liên quan đều tập trung xem xét dưới

góc độ về chính sách đất đai, cụ thể như sau:

Đứng ở góc nhìn của quản lý nhà nước về đất đai, tác giả Đào Trung Chính (2014) đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn triển khai thực hiện Luật Đất đai năm

2003, đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định về thu hồi đất, BT, HT, TĐC với mục tiêu rõ ràng, hướng tới việc bảo đảm tính bền vững xã hội trong quá trình chuyển đổi đất đai, trong việc giải quyết BT, HT, TĐC, trong đó: cần phải có những quy định chi tiết, cụ thể trong từng vấn đề về: (1) Làm rõ mục đích thu hồi đất: quy định của Luật Đất đai năm 2003 về thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế; có sự chưa rõ ràng trong

các trường hợp vì mục đích phát triển kinh tế dẫn tới sự không đồng thuận của người

dân vì cho rằng họ đã không được quan tâm đến quyền lợi chính đáng, Nhà nước đang đứng về phía các doanh nghiệp. Do đó, cần làm rõ các mục đích thu hồi đất và xét về

khía cạnh người có đất bị thu hồi thì dù có sử dụng đất thu hồi vào mục đích nào đi

chăng nữa thì mức thiệt hại của họ là như nhau, vì vậy, dù thu hồi đất cho mục đích

30

nào cũng cần có quy định thống nhất về mức BT, HT; (2) Làm rõ quan hệ lợi ích giữa người bị thu hồi đất - Nhà nước - nhà đầu tư: thực trạng khó khăn trong bồi thường

khi thu hồi đất chính là vấn đề có sự so sánh về lợi ích giữa ba chủ thể ở trên. Do đó,

cần xác định, phân định rõ về địa vị pháp lý giữa chủ sử dụng đất là người được Nhà

nước giao đất và nhà đầu tư là người được nhận quyền sử dụng đất (họ có quyền và nghĩa vụ khác nhau), còn Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đóng vai trò

quyết định trong sự phân chia lợi ích này; (3) Quy định về hỗ trợ, TĐC bao gồm: Hỗ trợ đầy đủ cho người bị thu hồi đất để ổn định đời sống, chuyển đổi việc làm, bù đắp

thiệt hại về thu nhập; khu TĐC phải được quy hoạch gắn với điều kiện thuận lợi về hạ

tầng phục vụ đời sống; thực hiện TĐC tại chỗ là chủ yếu và giải quyết linh hoạt nhu cầu

TĐC của người có đất ở bị thu hồi.

Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên cứu đứng về góc nhìn của người sử dụng đất và sử dụng phương pháp điều tra khảo sát để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến

sự hài lòng của người dân trong bồi thường, GPMB. Nghiên cứu của Châu Đạm Trinh

(2012) cho rằng có hai nhóm nhân tố có thể ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dân

trong bồi thường, GPMB đó là nhóm nhân tố FA-1 (bao gồm phương tiện hữu hình,

mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, mức độ đồng cảm) và nhóm

nhân tố FA-2 (mức giá bồi thường). Bên cạnh đó, họ còn thực hiện phân tích hồi quy

Binary Logistic cho các nhân tố được rút ra nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến

sự hài lòng của người dân và xác suất để người dân hài lòng về chất lượng dịch vụ bồi

thường, GPMB; tình huống lập phương án BT, HT, TĐC dự án khu công nghiệp sông

Hậu, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 1.

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Vũ An (2015), sử dụng phương pháp kiểm định thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân

tích hồi quy đã chỉ ra có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người dân đối

với khu công nghiệp là “đất đai, nhà ở” và “văn hóa - xã hội”. Trong đó, biến “đất đai,

nhà ở” có ảnh hưởng mạnh nhất đến mức độ hài lòng của hộ gia đình đối với Khu Công nghiệp Long Đức.

Một nghiên cứu với bối cảnh Việt Nam do Pham và cộng sự (2013) cho rằng chính các biện pháp bồi thường thiếu hiệu quả, thiếu đất sản xuất và thiếu những thay

thế cho sinh kế của người dân dẫn đến việc người dân bất hợp tác và chống đối lại việc

thu hồi đất trong dự án thuỷ điện. Ngoài ra, họ còn đề cập đến lợi ích nhóm giữa chính

quyền và các nhà đầu tư, hay có thể hiểu đơn giản hơn, là sự ám chỉ về thất thoát trong

tiền bồi thường, khá giống như những gì Xianling (2013) đề cập đến trong nghiên cứu

tại Trung Quốc.

31

Theo Đặng Thị Thùy Diễm (2013), mức độ hài lòng của người dân đối với thủ tục bố trí TĐC được đo lường trên 04 tiêu chí cụ thể sau: Mức độ thuận tiện; Khả năng

đáp ứng; Chi phí sử dụng dịch vụ; Cơ chế phản hồi góp ý khiếu nại. Kết quả nghiên

cứu chỉ ra nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng thủ tục bố trí TĐC, tăng mức độ hài

lòng của người dân thì các yếu tố sau là quan trọng: (1) khả năng tiếp cận thông tin qua các kênh thông tin chính thức mà người dân tiếp cận nhiều trong quá trình làm thủ

tục; (2) tính công khai, minh bạch trong quá trình đăng ký TĐC và giúp người dân nhận thức đầy đủ về vấn đề đó. Các tiêu chuẩn về phân đất, bố trí đất TĐC cần được

công bố rõ ràng nhằm tránh tiêu cực và tăng niềm tin trong người dân; (3) cán bộ,

công chức trong quá trình làm việc với người dân cần nhiệt tâm và cần hướng dẫn rõ

ràng, cụ thể; (4) thủ tục hành chính - đơn giản hóa thủ tục đăng ký TĐC và bàn giao

đất TĐC; (5) giải quyết đơn thư góp ý, khiếu nại và tố cáo của người dân cần ghi nhận và giải quyết triệt để nếu phù hợp với thực tế hiện tại; (6) giá bồi thường; (7) hạ tầng

cơ sở trước khi bố trí người dân đến sinh sống; (8) điều kiện sống, công việc của người

dân sau khi Nhà nước thu hồi đất.

Tóm lại

Kết quả từ tổng quan nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn theo các khía cạnh khác

nhau được nghiên cứu từ rất sớm và các tác giả sau đã kế thừa, hoàn thiện kết quả

nghiên cứu của tác giả trước. Theo các tác giả Lawler (1971), Bachelet (1995), Tse

and Wilton (1988), Kotler (2001) thì sự thoả mãn là phản ứng về chênh lệch giữa

những gì nhận được trong thực tế với những gì kỳ vọng được nhận, sự so sánh kết quả

thu được với những kỳ vọng mà họ mong có được.

Các tác giả đã sử dụng một số chỉ tiêu để đo lường, đánh giá mức độ thỏa mãn của hộ gia đình, người dân có đất bị thu hồi như: (1) Cách tiếp cận của các cơ quan có

thẩm quyền đối với người yêu cầu bồi thường; (2) Phản ứng của cán bộ địa chính khi

cần làm rõ và khi có thắc mắc; (3) Thời gian thực hiện thanh toán; (4) việc chỉ định đại diện của những người yêu cầu bồi thường để đảm bảo bồi thường đầy đủ; (5) Bồi thường được trả so với giá trị tài sản; (6) Việc chấp nhận dự án được đề xuất bởi các nguyên đơn.

Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân dựa trên các tiêu chí như: (1) mức độ

thỏa mãn với việc định giá đất; (2) mức độ thỏa mãn đối với thời gian dồn điền đổi

thửa; (3) mức độ thỏa mãn đối với kết quả dồn điền đổi thửa; (4) mức độ thỏa mãn với cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận các lô đất mới của mình; (5) mức độ thỏa mãn với

chất lượng của các lô đất mới (Lisec và cộng sự, 2014).

32

Một số tác giả như Kotilainen (2011), Xinliang (2012), Oladapo and Ige (2012) đã chỉ ra sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, GPMB ở một số khía cạnh như: Mức

bồi thường hợp lý; phương thức bồi thường; phân phối bồi thường; thủ tục bồi thường;

chất lượng dịch vụ và sự tham gia của người dân. Còn Wang (2013) chỉ ra sự hài lòng của

nông dân trong việc bồi thường đất là: mức bồi thường, thủ tục bồi thường, và phương thức bồi thường. Về mức bồi thường cũng được chỉ ra bởi Kakulu (2008), Robinson

(1995), Song QU và cộng sự (2015); Singer (1994), Munch (1976), Lin (2006), Water và cộng sự (2014) cũng đề cập đến sự thỏa mãn trong phương thức bồi thường.

Sự thỏa mãn có thể có sự khác biệt theo các nhóm yếu tố: yếu tố nội tại của người

dân, mức về thu nhập; việc làm, khả năng sinh kế; đảm bảo tài chính nghỉ hưu; tính gắn

kết xã hội; chất lượng cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự nhiên; sức

khỏe; điều kiện về đất đai - nhà ở; vai trò của chính quyền địa phương; sự tham gia của người dân cũng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất. Qin và cộng sự (2016) kết luận rằng mức độ thỏa mãn của nông dân có

thể bị ảnh hưởng bởi thuộc tính kinh tế, xã hội cá nhân, trình độ nhận thức và kiến thức

của họ về chương trình và những lợi ích mà họ có thể có được từ chương trình.

Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam:

- Đứng trên quan điểm của quản lý nhà nước về đất đai, tác giả Đào Trung

Chính (2014) đã đề xuất giải pháp trong việc giải quyết, hỗ trợ, TĐC cho người dân

bằng cách cần phải làm rõ mục đích thu hồi đất, làm rõ mối quan hệ lợi ích giữa người

bị thu hồi đất - Nhà nước - nhà đầu tư, cuối cùng là cần có quy định rõ ràng về BT,

HT, TĐC cho người bị thu hồi đất.

- Về góc nhìn của người sử dụng đất, hiện nay tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, GPMB qua một số nhóm

nhân tố như: phương tiện hữu hình, mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, mức độ đồng cảm và nhóm nhân tố mức giá bồi thường. Biện pháp bồi thường thiếu hiệu quả, thiếu đất sản xuất và thiếu những thay thế cho sinh kế của người dân nên dẫn đến người dân không hợp tác và chống đối lại việc Nhà nước thu hồi đất.

Ngoài ra, vấn đề lợi ích nhóm giữa chính quyền và các nhà đầu tư cũng ảnh

hưởng đến sự thõa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.

1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam

Nhiều nghiên cứu đánh giá về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi

Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên các nghiên cứu này nghiên cứu ở các quốc gia có chế

độ quản lý đất đai khác với Việt Nam.

33

Một số nghiên cứu quốc tế đã đưa ra các khía cạnh để đánh giá sự thỏa mãn và ở các khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu xây dựng yếu tố cấu thành

lên sự thỏa mãn và cũng chưa có các tiêu chí (biến thang đo) cụ thể phù hợp với bối

cảnh của Việt Nam.

Các nghiên cứu ở Việt Nam chưa lượng hóa được sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Do vậy, luận án sẽ kế thừa các nghiên cứu

trước đây ở trong nước và quốc tế để tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam với chế độ sở hữu về đất đai, chính sách pháp luật, điều kiện cụ thể về kinh tế, văn hoá, xã hội của

Việt Nam, có những điểm khác biệt so với các nước khác.

Nghiên cứu này sẽ tập trung xây dựng yếu tố cấu thành và các chỉ tiêu đánh giá

sự thỏa mãn của người dân trong bối cảnh của Việt Nam. Nội dung xem xét sự thỏa

mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất tập trung vào cảm nhận của

người dân về: 1) Mức BT, HT; 2) Phương thức bồi thường; 3) Tổ chức thực hiện BT,

HT; 4) Sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất. Bốn khía cạnh này mang

tính khái quát của sự thỏa mãn trong thu hồi đất, BT, HT.

Bên cạnh đó, còn ít nghiên cứu ở Việt Nam xem xét sự thỏa mãn của người dân

trong BT, HT của Nhà nước khi thu hồi đất khác biệt theo đặc điểm của hộ gia đình có

đất bị thu hồi như nghề nghiệp, trình độ của chủ hộ hay nơi sinh sống của người có đất

thu hồi...

Như vậy, việc xác định yếu tố cấu thành và các tiêu chí đánh giá cũng như đánh

giá sự thỏa mãn của người dân và sự thỏa mãn của người dân khác biệt theo các nhóm

trong BT, HT là khoảng trống mà luận án sẽ tập trung vận dụng lý thuyết vào nghiên

cứu thực tiễn để xem xét, đánh giá. Trên cơ sở đó, có đánh giá và khuyến nghị chính sách bảo đảm lý luận và thực tiễn, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.

1.4. Đề xuất khung nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, sự thỏa mãn của người dân được định nghĩa là cảm giác bằng lòng khi người dân có thể đạt được những gì người dân cần hoặc mong muốn so với thực tế mà người dân nhận được. Do yếu tố đặc thù về chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam, trong nghiên cứu này một số khái niệm được hiểu như sau:

Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của

người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất theo một cơ chế bắt buộc thông qua biện pháp hành chính.

34

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử

dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất.

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người bị thu hồi

đất để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển.

Tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất là các hoạt động của cơ quan có chức năng dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những vấn để cụ

thể thuộc trách nhiệm của mình.

Như vậy, từ mục tiêu nghiên cứu của luận án, dựa trên kết quả tổng quan

nghiên cứu, các lý thuyết về sự thỏa mãn và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam

(xem Phụ lục 4), luận án xây dựng khung phân tích phù hợp với bối cảnh, tình hình

thực tế của Việt Nam, bao gồm 4 khía cạnh: mức BT, HT; phương thức bồi thường; tổ

chức thực hiện BT, HT và sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất. Luận án đề xuất sơ

đồ phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất như

dưới đây, trong đó sự thỏa mãn chung là biến tiềm ẩn:

THỎA MÃN VỀ MỨC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ

THỎA MÃN VỀ PHƯƠNG THỨC BT, HT

SỰ THỎA MÃN CHUNG

THỎA MÃN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Các yếu tố khác

- Nghề nghiệp

- Trình độ

- Vùng miền

SỰ THỎA MÃN VỀ

- Mục đích của dự án

THAY ĐỔI CUỘC SỐNG

- Thay đổi về giá đất

Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT

khi Nhà nước thu hồi đất

35

Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Mức BT, HT là yếu tố quyết định về lợi ích kinh tế đối với người có đất bị thu

hồi, đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự thoả mãn của người dân. Mức BT, HT mà

người dân nhận được khi Nhà nước thu hồi đất là để khôi phục lại giá trị tài sản (đất

đai, nhà cửa, công trình kiến trúc…), nguồn sinh sống, lợi ích vật chất và tinh thần do

quá trình triển khai thực hiện dự án. Nhiều học giả Trung Quốc và quốc tế đã chỉ ra

rằng mức bồi thường tương đối thấp là một trong những nguyên nhân chính khiến

người dân không đạt được sự thoả mãn và gây ra xung đột giữa các bên về thu hồi đất

(Dinh, 2007; Hui và Bao, 2013; Ji và Qian, 2011; Lin, 2009). Ngoài ra, Robinson

(1995) cũng cho thấy rằng nếu mức bồi thường đầy đủ và cao hơn so với mong muốn

của người dân thì chủ sở hữu sẽ chào đón và hoan nghênh việc thu hồi đất, sự chênh

lệch giữa mức tiền bồi thường với giá thị trường là nguyên nhân dẫn đến sự thất vọng

của người dân. Để tránh được mâu thuẫn và hỗn loạn trong xã hội, quan trọng là phải

có các phương pháp định giá đúng giá trị tài sản và việc bồi thường phải chi trả đầy đủ

để không khiến người bị thu hồi đất bị thiệt thòi, đảm bảo tính đúng đắn và công bằng

(Oladapo và Ige, 2012).

Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường

Từ các nghiên cứu trên thế giới có thể thấy phương thức bồi thường có thể dưới

một số phương thức sau: bồi thường bằng tiền được trả dưới dạng một lần, bồi thường

bằng tiền theo các khoảng thời gian xác định, bồi thường bằng tiền kết hợp với bồi

thường một phần bằng đất và cuối cùng là thông qua phương thức chi trả như là các khoản

an sinh xã hội. Với mỗi loại hình bồi thường thì người dân nhận bồi thường từ thu hồi đất

cũng có sự thoả mãn khác nhau. Có thể ở cùng một mức bồi thường như nhau nhưng sự

thoả mãn của hộ gia đình lại có sự khác biệt theo phương thức bồi thường. Một số

nghiên cứu chỉ ra rằng chế độ an sinh xã hội, cung cấp mức sinh kế dài hạn tối thiểu,

mang lại sự thoả mãn cho người nông dân hơn là bồi thường bằng tiền mặt (Hui và cộng

sự, 2013; Lin, 2006; Yang, 2012). Một số trường hợp khác, bồi thường bằng đất có thể

hiệu quả hơn so với bồi thường bằng tiền, điều này còn phụ thuộc vào đặc điểm hộ gia

đình, nơi ở của hộ, điều kiện sống của hộ.

Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ

Ngoài mức BT, HT thì quá trình tổ chức thực hiện BT, HT cũng là một trong

những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc thu hồi

đất. Nếu tổ chức thực hiện bồi thường tạo được niềm tin, tạo được sự trung thành, sự

36

ủng hộ của người dân thì sẽ có tác động lan tỏa rất lớn trong hoạt động thu hồi đất, bồi

thường. Nếu cán bộ thực hiện hỗ trợ, nhiệt tình để giải quyết những ý kiến của những

người chủ đất bị, sẽ giúp người dân có thiện cảm hơn, tạo sự ủng hộ tốt hơn. Bên cạnh

đó, nếu tổ chức thực hiện hướng đến giúp những người dân hiểu rõ kế hoạch về quá

trình thu hồi đất, có tài liệu hướng dẫn để có thể hiểu biết về chính sách điều chỉnh,

quy trình tái phân bổ quỹ đất và việc bồi thường thu hồi đất, thì người dân cảm thấy có

hiểu biết thông tin hơn, được tôn trọng hơn và từ đó mức độ thỏa mãn của người dân

cũng tăng (Tyagi and Shinde, 2016).

Bên cạnh đó, thái độ nhiệt tình của cán bộ, công chức trong quá trình làm việc

với người dân cũng như cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, thông

tin được công khai, minh bạch sẽ tăng mức độ hài lòng của người dân (Đặng Thị Diễm

Thùy, 2013).

Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống

Nếu các dự án thu hồi đất đảm bảo một số khía cạnh về chất lượng cuộc sống

như điều kiện sống của gia đình, bảo đảm quyền lợi xã hội, cơ sở công cộng và môi

trường thì sẽ làm cho người dân cảm thấy thỏa mãn hơn, bên cạnh tiền đất họ được bồi

thường thì việc họ có điều kiện thay đổi cuộc sống vượt so với kỳ vọng cũng giúp họ

trở lên tốt đẹp hơn, thỏa mãn hơn (Hu và cộng sự, 2014).

Sự thoả mãn của người dân theo đặc điểm của hộ gia đình

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT có thể

có sự khác biệt theo một số đặc điểm của hộ như:

- Nghề nghiệp: nghề nghiệp của hộ gia đình phản ánh sinh kế hay nguồn thu

nhập chính của hộ, nếu một hộ gia đình có nghề nghiệp hay sinh kế tạo nguồn thu

nhập ổn định thì thường có sự thoả mãn cao hơn những người có công việc không ổn

định, không có nguồn sinh kế hoặc sinh kế bấp bênh. Tuy nhiên, cũng có có những xu

hướng ngược lại, những hộ gia đình có nguồn sinh kế tốt có thể có những kỳ vọng hơn

về mức bồi thường, phương thức bồi thường, do vậy mức thoả mãn có thể thấp hơn

(Bohnke, 2005; Brown, 1999; Jesser, 1967; Marans và Rodger, 1975). Vì vậy, nghiên

cứu này sẽ phân tích sự thoả mãn của người dân trong BT, HT có khác biệt thế nào

theo nhóm nghề nghiệp.

- Trình độ của chủ hộ: Đây là yếu tố quan trọng để làm biến số đo lường cho

nhận thức của chủ hộ, người dân có trình độ càng cao kỳ vọng có nhận thức tốt, khi đó

37

người dân có sự hiểu biết về những vấn đề xung quanh tốt hơn, mỗi người ở mức nhận

thức khác nhau có thể dễ chấp nhận hay khó chấp nhận đối với việc BT, HT đất (Qin

và cộng sự, 2016; Brown, 1999). Vì thế nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước

sẽ xem xét sự thoả mãn chung của người dân có khác biệt như thế nào theo nhóm trình

độ của chủ hộ.

- Vùng/miền nơi người dân đang sinh sống: Người dân sống ở các vùng miền

khác nhau thì có sự khác biệt về đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hoá. Theo Li và Chen

(2011) và Li và Wu (2013) thì sự thoả mãn của người dân trong BT, HT có sự khác

biệt giữa các vùng miền. Do vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét sự thoả mãn của người

dân trong BT, HT có sự khác biệt theo 3 miền chính của Việt Nam, đó là miền Bắc,

miền Trung và miền Nam.

Ngoài các yếu tố như trên, sự thoả mãn của người dân trong BT, HT của nghiên

cứu này cũng xem xét đến sự khác biệt theo mục đích của dự án, nếu một dự án phục vụ

lợi ích cộng đồng liệu người dân dễ chấp nhận hay có sự thoả mãn hơn so với dự án vì

lợi ích kinh tế; việc giá đất thay đổi theo hướng tăng lên sau khi Nhà nước thu hồi đất

cũng làm cho người dân cảm thấy mức BT, HT đã nhận được chưa đảm bảo quyền lợi,

ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ phân tích sự thoả

mãn của người dân trong BT, HT theo mục đích của dự án và sự thay đổi về giá đất.

Đối với giới tính của chủ hộ, các nghiên cứu cho thấy chủ hộ là nam có thể có

sự thoả mãn khác biệt so với chủ hộ là nữ. Tuy nhiên, do đặc thù ở Việt Nam việc xác

định chủ hộ chủ yếu dựa trên sổ hộ khẩu, nó không phản ánh ai là người có quyền ra

quyết định chính trong hộ. Mặt khác, phần lớn người đứng chủ hộ trong sổ hộ khẩu là

nam giới. Do vậy, giới tính của chủ hộ không phản ánh thực chất vai trò giới trong

quyết định các vấn đề của hộ nên nghiên cứu này không xem xét yếu tố giới trong mô

hình phân tích.

Như vậy, để thực hiện nghiên cứu khung phân tích trên, luận án cũng sẽ vận

dụng các lý thuyết về sự thỏa mãn để xây dựng và phát triển thang đo cho nghiên cứu,

trong đó:

Lý thuyết công bằng sẽ giúp nghiên cứu có luận giải hành vi về nhận thức của

người dân khi so sánh những gì họ nhận được với những người xung quanh, tuy nhiên

sự công bằng luôn là tương đối và nó phụ thuộc nhiều vào nhận thức của mỗi cá nhân.

38

Lý thuyết đồng hóa sẽ giúp nghiên cứu giải thích cho hiện tượng người dân có

thể được tuyên truyền, thông tin để điều chỉnh kỳ vọng của mình dẫn đến làm tăng sự

thỏa mãn khi kỳ vọng không quá cao so với thực tế nhận được.

Lý thuyết tương phản có thể được áp dụng để nghiên cứu, giải thích khi hộ gia

đình kỳ vọng lớn và họ không dễ chấp nhận những gì đang diễn ra, phóng đại kỳ vọng

và dẫn đến người dân không dễ chấp nhận, giảm sự thỏa mãn.

Lý thuyết tương phản đồng hóa sẽ giúp nghiên cứu giải thích việc hộ gia đình

có đất bị thu hồi có thể điều chỉnh sự khác biệt trong nhận thức về kết quả BT, HT hay

quá trình tổ chức thực hiện nhận được so với mong đợi, nhưng chỉ khi sự khác biệt là

tương đối nhỏ.

Lý thuyết về sự khác biệt được dùng để giải thích hành vi của hộ gia đình khi bị

thu hồi đất, nếu những gì họ nhận được lớn hơn so với kỳ vọng thì người dân sẽ có

được sự thỏa mãn cao và ngược lại, giúp giải thích tại sao trong cùng một địa bàn

nhưng giữa những hộ gia đình khác nhau thì sự thỏa mãn cũng khác nhau.

39

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong Chương này, luận án làm rõ cơ sở lý thuyết về sự thỏa mãn của người

dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:

Các lý thuyết về sự thỏa mãn và vận dụng trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất được sử dụng trong nghiên cứu này đó là: Lý thuyết công bằng; Lý thuyết đồng

hóa; Lý thuyết tương phản; Lý thuyết tương phản đồng hóa; Lý thuyết về sự khác biệt.

Các lý thuyết này là cơ sở quan trọng để giúp luận án xây dựng các biến thang đo và lý giải về hành vi của người dân khi có đất bị thu hồi đất.

Bên cạnh đó, luận án tổng quan các nghiên cứu trước đây có liên quan đến vấn

đề nghiên cứu. Phần lớn các nghiên cứu cả trong và ngoài nước đều nói đến sự thỏa

mãn nói chung, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói

riêng, trong đó đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân. Tuy nhiên, chế độ sở hữu về đất đai, chính sách pháp luật, điều kiện cụ thể về kinh tế, văn

hóa, xã hội của Việt Nam có những điểm khác biệt so với các nước khác. Ngoài ra, có

rất ít nghiên cứu về thu hồi đất, BT, HT khi thu hồi đất, nếu có thì vẫn còn mang tính

đơn lẻ chưa bao quát cho cả nước. Thông qua các nghiên cứu trước đây ở trên thế giới

và ở Việt Nam, luận án đã xác định được khoảng trống nghiên cứu để bổ sung thêm về

mặt lý luận và thực tiễn về các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.

Luận án đã đưa ra khung nghiên cứu về sự thoả mãn trong BT, HT ở Việt Nam

theo các khía cạnh như sau: i) Mức BT, HT; ii) Phương thức bồi thường; iii) Tổ chức

thực hiện BT, HT và iv) Sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, luận án

cũng xem xét sự khác biệt về thoả mãn của người dân theo nhóm nghề nghiệp, trình độ

của chủ hộ; vùng miền nơi người dân đang sinh sống và xem xét sự thoả mãn theo

mục đích của dự án và thay đổi giá đất sau khi thu hồi đất.

40

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương này luận án sẽ trình bày về thiết kế nghiên cứu tổng thể của luận án,

bao gồm các phương pháp nghiên cứu, giới thiệu địa bàn khảo sát; trình bày nghiên

cứu định tính, phát triển thang đo, nghiên cứu định lượng và các kiểm định của nghiên

cứu định lượng.

2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể

2.1.1. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu định tính được sử dụng giúp tác giả tìm hiểu sâu về chính sách liên

quan, nghiên cứu về các yếu tố hình thành lên sự thoả mãn của người dân, yếu tố ảnh

hưởng đến sự thoả mãn của người dân từ góc nhìn của nhà hoạch định chính sách, nhà

đầu tư và người dân bị thu hồi đất. Luận án tiến hành thực hiện nghiên cứu định tính

thông qua phỏng vấn sâu chuyên gia làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước, nhà

nghiên cứu, nhà đầu tư, người dân nhằm đánh giá sơ bộ về sự thỏa mãn của họ trong

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, luận án cũng đánh giá sơ bộ sự phù

hợp của các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu, đảm bảo sự phù hợp của giả

thuyết đưa ra mà dựa vào từ các tài liệu tổng quan nghiên cứu trước đó. Trên cơ sở các

kết quả bước đầu từ nghiên cứu định tính, luận án sử dụng nghiên cứu định lượng đối

với nhóm người dân nhằm xác định mức độ thỏa mãn của họ trong BT, HT khi Nhà

nước thu hồi đất.

Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua khảo sát, thu thập thông tin

của người dân thuộc khu vực bị thu hồi đất theo các nội dung nghiên cứu. Luận án

thực hiện nghiên cứu bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu, sau đó tiến hành

tổng quan nghiên cứu về lý thuyết và thực tế các hộ gia đình bị thu hồi đất ở Việt Nam

để xác định các giả thuyết nghiên cứu. Tiếp theo, tác giả thực hiện nghiên cứu khám

phá tại một dự án thu hồi đất để xác định rõ sự thoả mãn của người dân và hoàn thiện

các biến số đo lường các khái niệm nghiên cứu.

Các dữ liệu thu thập được làm cơ sở để đánh giá chất lượng thang đo, kiểm định

mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Các kỹ thuật phân tích dữ liệu như phân tích

nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình SEM sẽ

được tác giả sử dụng để kiểm định mô hình. Trên cơ sở số liệu thu thập được, nghiên

41

cứu sẽ sử dụng phần mềm CSPro để nhập số liệu và sử dụng phần mềm SPSS phiên

bản 22 và phần mềm AMOS 20 để giúp nghiên cứu phân tích số liệu cũng như kiểm

định các giả thuyết nghiên cứu.

2.1.2. Địa bàn khảo sát

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 đến

ngày 01 tháng 7 năm 2017, tổng diện tích đất đã thu hồi để phục vụ cho các dự án đầu

tư phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn cả nước là 2.188.577,22 ha, trong đó có:

1.594.485,38 ha đất nông nghiệp, 591.787,73 ha đất phi nông nghiệp và 2.304,11 ha

đất chưa sử dụng. Nhìn chung, việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất đã đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người có đất bị thu hồi, một số nơi

đã tổ chức thực hiện bảo đảm công khai, dân chủ, đúng trình tự, thủ tục và có sự tham

gia trực tiếp của người dân.

Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất vẫn

còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân

vẫn ở mức cao. Theo Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), từ năm 2012

đến nay trung bình mỗi năm là 4.000 lượt đơn khiếu nai liên quan đến lĩnh vực đất đai,

trong đó tập trung chủ yếu là khiếu nại về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (chiếm từ

30 - 40% số vụ việc). Nội dung khiếu nại tập trung vào việc thực hiện dự án không

phù hợp quy hoạch sử dụng đất; định giá đất tính bồi thường thấp hơn nhiều so với giá

thị trường; phương án BT, HT, TĐC phê duyệt không đúng quy định của pháp luật và

việc tổ chức thực hiện chưa bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ, không đúng trình

tự, thủ tục. Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân trong BT,

HT khi Nhà nước thu hồi đất.

Để đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất,

luận án lựa chọn nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí

Minh. Đây là các địa bàn triển khai nhiều dự án thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã

hội và là địa bàn có nhiều khiếu kiện của người dân trong quá trình Nhà nước thực

hiện thu hồi đất.

- Thành phố Hà Nội:

Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công

nghệ của cả nước. Đối với phát triển đô thị: Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở giãn dân

phố cổ tại khu đô thị Việt Hưng được tập trung chỉ đạo quyết liệt; UBND quận Hoàn

42

Kiếm đã phối hợp với Sở, ngành Thành phố hoàn thành thẩm định điều chỉnh dự án

xây dựng nhà ở giãn dân phố cổ theo hướng tăng tầng cao, tăng diện tích tầng hầm,

hiện đang trình UBND Thành phố phê duyệt. Các dự án phát triển đô thị khác cũng

đang được Thành phố tổ chức thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Đối với phát triển khu dân cư nông thôn: Đến nay, nhiều vùng nông thôn đã

được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khá tốt, nhiều khu dân cư có quy mô và mật độ

dân số lớn, có các công trình xây dựng và nhà ở kiên cố, hoạt động kinh tế xã hội đang

dần mang tính đô thị hoá; đến nay đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia, đường ô tô

vào tới trung tâm và phần lớn các thôn, 100% số xã có điện thoại; cơ sở trường học,

trạm y tế, trụ sở làm việc của UBND các xã đã được đầu tư nâng cấp. Dân số nông

thôn được dùng nước sạch hợp vệ sinh đạt cao; vệ sinh môi trường ngày càng được

quan tâm. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được tập trung chỉ đạo triển khai

một cách quyết liệt.

Trong giai đoạn từ năm 2010-2019, hàng năm thành phố Hà Nội phải thu hồi

diện tích đất lớn (mỗi năm bình quân Thành phố thu hồi khoảng 1.500 ha đất để thực

hiện khoảng 500 dự án, liên quan đến khoảng 15.000 hộ dân) để phục vụ cho các mục

đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bồi thường, GPMB

gặp nhiều khó khăn và thường làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, nhất là

các dự án thu hồi đất để mở rộng, xây dựng mới các tuyến đường giao thông.

Tại thành phố Hà Nội, luận án lựa chọn nghiên cứu điểm tại dự án mở rộng

đường Vành đai 3 (đoạn Mai Dịch- cầu Thăng Long), quận Bắc Từ Liêm; dự án xây

dựng khu đô thị GoldMark City 136 Hồ Tùng Mậu, quận Bắc Từ Liêm.

- Thành phố Đà Nẵng:

Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế và là một trong những trung tâm văn

hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.

Trong những năm qua, Đà Nẵng đã giải tỏa hàng vạn ngôi nhà để mở những tuyến

đường huyết mạch như đường Nguyễn Tất Thành, Bạch Đằng Đông, Sơn Trà - Điện

Ngọc, Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trường Sa, thu hồi chuyển đổi

hàng nghìn héc-ta đất để mở rộng các khu đô thị Tây Bắc; Nguyễn Tri Phương -

Trường Sa, Thuận Phước, Bắc Mỹ An, Hòa Hải..., kè sông, kè biển, bảo tồn cảnh quan

để khai thác các giá trị còn tiềm ẩn.

43

Đối với phát triển khu dân cư nông thôn: Trong các năm qua nhờ các chính

sách vĩ mô và định hướng phát triển không gian đô thị của thành phố, khu vực nông

thôn đã có những bước tiến dài trên con đường đô thị hóa, các cơ sở hạ tầng mới được

xây dựng. Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, các khu

dân cư nông thôn ngày càng được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật,

các tuyến đường liên thôn, liên xã được mở rộng và bê tông hóa, nhiều nhà cao tầng

mọc lên. Hiện nay trên địa bàn huyện không có nhà tạm, nhà dột nát, 98,7% nhà ở kiên

cố và bán kiên cố, vấn đề về môi trường trong khu dân cư cũng được quan tâm đem lại

cho huyện dáng dấp của một đô thị mới.

Công tác bồi thường, GPMB được chú trọng để bảo đảm quỹ đất cho phát triển

cơ sở hạ tầng, đô thị, công nghiệp, dịch vụ và các công trình cần thiết khác. Tính đến

năm 2018, Thành phố đã triển khai 536 dự án, gần 120 nghìn hộ giải tỏa, đã giải quyết

bố trí TĐC hơn 30 nghìn lô đất và chung cư.

Tại thành phố Đà Nẵng, luận án nghiên cứu tại dự án mở rộng đường Hoàng Sa,

quận Sơn Trà; dự án xây dựng khu đô thị tại phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.

- Thành phố Hồ Chí Minh:

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai thành phố lớn nhất tại Việt Nam,

đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo

dục quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện nay, Thành phố đang tiến hành quy hoạch,

đầu tư xây dựng các điểm dân cư nông thôn theo mô hình nông thôn mới; cải tạo chỉnh

trang các phường, thị trấn trung tâm huyện, đầu tư xây dựng một số khu đô thị vệ tinh

hiện đại tạo động lực phát triển các huyện ngoại thành như: khu đô thị Tây-Bắc (Củ

Chi, Hóc Môn), khu Hiệp Phước (Nhà Bè); xác định quy mô diện tích và bảo vệ các

khu vực đất sản xuất nông nghiệp.

Với áp lực dân số cơ học tăng nhanh, Thành phố phải thực hiện thu hồi đất để

đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp

với quy mô diện tích lớn, vấn đề BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cũng hết sức khó

khăn, tồn tại khiếu kiện phức tạp trong quá trình tổ chức thực hiện bồi thường, GPMB.

Tại thành phố Hồ Chí Minh, luận án nghiên cứu tại dự án mở rộng Quốc lộ 1A

đoạn qua quận Bình Thạnh và dự án xây dựng khu đô thị City Garden 59 Ngô Tất Tố,

quận Bình Thạnh.

44

2.2. Nghiên cứu định tính

2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính

Mục tiêu của nghiên cứu định tính là để kiểm tra và sàng lọc các biến nghiên cứu

phù hợp. Do luận án được thực hiện trong bối cảnh chưa có những nghiên cứu cụ thể về

nội dung tương tự ở Việt Nam. Hơn nữa, do có sự khác biệt về chế độ sở hữu đất đai,

chính sách pháp luật về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, văn hoá và trình độ phát triển

kinh tế - xã hội với các nước nên các thang đo đã được xây dựng ở các nghiên cứu quốc

tế chưa thật sự phù hợp sự thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt

Nam. Vì vậy, các thang đo của tác giả trước cần được điều chỉnh và bổ sung thông qua

áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể là phỏng vấn sâu nhằm đánh giá và

kiểm tra mức độ phù hợp về mặt từ ngữ, cú pháp được sử dụng trong các câu hỏi nhằm

đảm bảo tính thống nhất, rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho người trả lời; xác định, bổ

sung các tiêu chí đo lường các biến cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Đồng thời

giải thích rõ hơn cho các kết quả nghiên cứu định lượng.

Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu định tính trong nghiên cứu này bao gồm:

Một là, thăm dò tìm hiểu về thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong BT,

HT khi Nhà nước thu hồi đất.

Hai là, điều chỉnh, bổ sung các biến thang đo cho phù hợp với bối cảnh nghiên

cứu ở Việt Nam.

Ba là, bổ sung, làm rõ, giải thích cho các kết quả nghiên cứu định lượng.

2.2.2. Thiết kế nghiên cứu

2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phỏng vấn sâu đối với đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước, nhà đầu tư nhằm xem xét đánh giá về quá trình BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Bên

cạnh đó là thăm dò, đánh giá sự thỏa mãn của người dân, cũng như tìm hiểu các khía

cạnh thỏa mãn của người dân thuộc diện có đất bị thu hồi và được bồi thường. Phỏng

vấn sâu các trường hợp, các tình huống được Creswell (2007) xác định là phương pháp

nghiên cứu định tính để khám phá một hoặc nhiều trường hợp theo thời gian có liên

quan đến dữ liệu chi tiết thu thập được từ các nguồn thông tin khác nhau. Theo

Schramm (1971) thì cho rằng nghiên cứu tình huống, phỏng vấn sâu sẽ làm sáng tỏ

một quyết định hoặc thiết lập các quyết định để làm rõ lý do tại sao quyết định được

thực hiện, được thực hiện như thế nào và mang lại kết quả gì.

45

Phương pháp nghiên cứu này sẽ giúp đi sâu phân tích một hoặc một số tình

huống, đối tượng cụ thể, từ đó có thể rút ra các bài học hoặc giải pháp thực tiễn cho

2.2.2.2. Đối tượng nghiên cứu và nội dung

chủ thể hay đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu định tính sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tượng sau: i)

cơ quan quản lý nhà nước và chủ đầu tư; ii) đại diện hộ gia đình có đất bị thu hồi, mỗi

hộ gia đình sẽ phỏng vấn 01 người đủ năng lực hành vi dân sự có thể đại diện cho

quan điểm của hộ gia đình, kết quả thu được sẽ giả định là đại diện cho dân cư trên địa

bàn nghiên cứu.

Nhóm 1: gồm các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu về chính sách đất đai,

quản lý nhà nước về lĩnh vực BT, HT, TĐC. Đối tượng tham gia phỏng vấn có kinh

nghiệm nghiên cứu, làm việc trong đất đai nói chung, lĩnh vực BT, HT, TĐC nói riêng

thấp nhất là 10 năm, cao nhất là 30 năm, có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 02

tiến sĩ. Nhóm này gồm 10 người được phỏng vấn, gồm: 02 giảng viên, nhà nghiên cứu

giảng dạy trong lĩnh vực đất đai; 02 người đang công tác tại Tổng cục Quản lý đất đai,

Bộ Tài nguyên và Môi trường; 03 người công tác tại Sở Tài nguyên và Môi trường

thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh; 03 người đại diện chủ đầu tư

tại mỗi tỉnh khảo sát.

Nội dung phỏng vấn nhóm này tập trung vào tìm hiểu một số vấn đề sau: chính

sách, pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, kinh nghiệm thực hiện BT,

HT; những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật,

thực hiện BT, HT tại các địa phương.

Nhóm 2: gồm 12 đại diện hộ gia đình có đất bị thu hồi tại thành phố Hà Nội, Đà

Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đã được BT, HT trong khoảng thời gian từ năm 2016

đến năm 2019. Mục đích phỏng vấn nhóm này là để đánh giá về quan điểm của họ về

các biến thang đo của sự thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Đánh giá

về mức độ phù hợp của chính sách, những ưu, nhược điểm của chính sách hiện hành

và nguyên nhân dẫn đến sự không hài lòng của người dân. Mẫu nghiên cứu định tính

cho nhóm này được xác định dựa trên tình huống cụ thể trong quá trình khảo sát và tập

trung vào nhóm người dân rất không thỏa mãn và nhóm người dân thỏa mãn để tìm

hiểu các nội dung sau: Đánh giá cảm nhận chủ quan của đại diện hộ gia đình trong BT,

HT khi Nhà nước thu hồi đất so với mong đợi về các khía cạnh: i) mức BT, HT nhận

được và tính công bằng; ii) về phương thức bồi thường ; iii) về việc tổ chức thực hiện

BT, HT khi nhà nước thu hồi đất; iv) sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi

46

đất. Việc đánh giá nhận thức chủ quan của người dân nhằm trả lời cho câu hỏi Sự thỏa

mãn của người dân trong thu hồi đất, BT, HT như thế nào? Sự thỏa mãn có khác biệt

theo các nhóm yếu tố khác hay không, như là liệu có sự khác biệt về sự thoả mãn giữa

trình độ CMKT; giữa nghề nghiệp; vùng miền. Bên cạnh đó, luận án cũng tìm hiểu sự

thoả mãn có khác biệt theo mục đích sử dụng đất của dự án và thay đổi giá đất sau khi

thu hồi đất.

Kết quả của phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng có đất bị thu hồi sẽ giúp luận án

2.2.2.3. Số lượng đối tượng tham gia

có thêm bằng chứng để giải thích thêm cho các kết quả nghiên cứu định lượng.

Số lượng đối tượng tham gia phỏng vấn định tính được thể hiện ở bảng dưới

đây. Thời gian trung bình cho một cuộc phỏng vấn kéo dài từ 60 phút đến 120 phút.

Bảng 2.1. Mô tả mẫu khảo sát định tính

Tổng số TT Mô tả mẫu

Nhóm 1: Chuyên gia, quản lý Nhà nước, chủ đầu tư 10

1 Giảng viên, nhà nghiên cứu 2

2 Cán bộ quản lý Nhà nước tại Tổng cục Quản lý đất đai 2

3 Cán bộ quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố 3

Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng

4 Đại diện chủ đầu tư (1 người/tỉnh) 3

Nhóm 2: Đại diện hộ gia đình 12

1 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hà Nội 4

2 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hồ Chí Minh 4

3 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Đà Nẵng 4

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Để tiến hành thực hiện phỏng vấn, tác giả xin lịch hẹn làm việc trao đổi với các đối tượng theo mẫu khảo sát định tính. Thời gian thực hiện phỏng vấn trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Thông tin thu thập được ghi

chép theo các vấn đề, nội dung của buổi trao đổi, thảo luận.

2.2.2.4. Thu thập thông tin

47

Thu thập thông tin thứ cấp: liên quan đến các đề tài nghiên cứu, các báo cáo,

bài báo liên quan đến sự thoả mãn nói chung và sự thoả mãn trong BT, HT khi thu hồi

đất nói riêng.

Thu thập thông tin sơ cấp: được thu thập từ các phương pháp thu thập thông tin

như phỏng vấn sâu hoặc điều tra khảo sát qua bảng hỏi nhằm thu thập thông tin trực

tiếp và nhiều chiều, dưới nhiều góc độ và quan điểm của mỗi cá nhân về sự thoả mãn

của hộ gia đình được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Để đảm bảo chất lượng phỏng vấn và thu thập đầy đủ các nội dung liên quan,

bản hướng dẫn câu hỏi phỏng vấn được xây dựng trên cơ sở đảm bảo mục tiêu kiểm

tra và sàng lọc các biến được xác định trong mô hình lý thuyết ban đầu. Các câu hỏi

được đặt ra nhằm xác định các yếu tố mức BT, HT và phương thức bồi thường; việc tổ

chức thực hiện BT, HT; đặc điểm sử dụng đất... ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Dựa vào kết quả trả lời của từng người tác giả tiếp tục

đưa ra những câu hỏi nhằm khai thác thêm những vấn đề liên quan đến sự thỏa mãn

khi giá đất tăng lên sau bồi thường, mức BT, HT kỳ vọng trên cơ sở hài hòa lợi ích

giữa người dân, Nhà nước và nhà đầu tư. Ghi chép từ các cuộc phỏng vấn và được so

sánh với nhau để tìm ra liệu có ai không hiểu các câu hỏi không, có những quan điểm

khác với quan điểm của tác giả đề xuất hay không.

Đối với nhóm 1, tác giả thực hiện phỏng vấn sâu đối với chuyên gia là giảng

viên và là nhà nghiên cứu có am hiểu trong lĩnh vực này; phỏng vấn sâu cán bộ quản

lý nhà nước tại Tổng cục Quản lý đất đai; thảo luận nhóm tại mỗi tỉnh đối với cán bộ

quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường và đại diện chủ đầu tư.

Đối với nhóm 2, tác giả phỏng vấn đại diện hộ tại nhà riêng; mỗi cuộc phỏng

vấn trung bình kéo dài khoảng 60 phút về các nội dung đã nêu. Toàn bộ nội dung các

cuộc phỏng vấn được ghi chép cẩn thận và đầy đủ, được lưu giữ và mã hóa trong máy tính.

Kết quả rút ra được tập hợp thành quan điểm chung đối với những vấn đề mà

các đối tượng phỏng vấn có cách nhìn tương tự như nhau.

Như vậy, nghiên cứu định tính là cần thiết để kiểm tra ban đầu tính phù hợp của

mô hình nghiên cứu, kiểm tra các thang đo trong bối cảnh Việt Nam và định hướng trong thiết kế bảng hỏi cũng như có thêm bằng chứng để giải thích thêm cho các kết

quả nghiên cứu định lượng. Những gợi ý có được từ các cuộc phỏng vấn sâu với các

chuyên gia, nhà nghiên cứu chính sách thuộc lĩnh vực nghiên cứu, đại diện các hộ gia

48

đình có đất bị thu hồi sẽ rất hữu ích, giúp tác giả xác định được chính xác, đầy đủ, toàn diện về các hiện tượng và quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

2.2.3. Phát triển thang đo

Từ kết quả nghiên cứu của các tác giả gần đây và trên cơ sở trao đổi, thảo luận với các chuyên gia từ Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các

chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực đất đai để thảo luận về việc sử dụng các biến

thang đo trên vào trường hợp nghiên cứu của Việt Nam. Kết quả cho thấy có những biến

thang đo trong các nghiên cứu trước đây chưa thực sự phù hợp hoặc chưa rõ nghĩa hoặc

cần bổ sung hoàn thiện trên cơ sở kết hợp với kết quả phỏng vấn sâu đối với đại diện hộ

gia đình và các phát hiện từ nghiên cứu định tính.

Thang đo sự thỏa mãn về mức BT, HT

Theo Wang, X. (2013), Li, N.H (2018) thì sự thỏa mãn về mức bồi thường được

đo lường bằng các biến thang đo như: i) Tiền bồi thường bị ăn chặn, thất thoát và không đúng theo quy định; ii) Mức bồi thường thấp hơn giá trị sản xuất nông nghiệp

trước khi bị thu hồi đất; iii) trong khu vực có các mức bồi thường khác nhau; iv) chưa

đáp ứng mức bồi thường bằng tiền; v) mức bồi thường đối với cây trồng, hoa màu trên

đất;…Ở Việt Nam, pháp luật về đất đai quy định khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo

nguồn gốc, loại đất có thể được bồi thường về đất, bồi thường về tài sản gắn liền với

đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về

đất và được hưởng các khoản hỗ trợ.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan và nghiên cứu định tính, trong nghiên

cứu này thì mức BT, HT được đo lường thông qua 4 biến: (1) Giá bồi thường về đất;

(2) Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất; (3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường

hợp không được bồi thường về đất; (4) Mức hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và

chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm.

Thang đo sự thỏa mãn về phương thức bồi thường

Li, N.H. (2018), Hui và cộng sự (2013), Yang, (2012), Ning Chai (2019), đưa ra các biến thang đo đánh giá gồm: i) bồi thường bằng tiền được trả dưới dạng một lần, trả theo các khoảng thời gian xác định; ii) bồi thường thay thế tài sản; iii) bồi thường tái định cư; iv) bồi thường bằng tiền kết hợp với bồi thường một phần bằng đất; v) và cuối

cùng là thông qua phương thức chi trả như là các khoản an sinh xã hội.

Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật về đất đai có các phương thức: bồi

thường bằng tiền, bồi thường bằng đất hoặc bồi thường bằng nhà.

49

Do vậy, luận án xem xét sự thoả mãn của người dân theo nhóm phương thức

bồi thường gồm 3 biến: (1) bồi thường bằng tiền; (2) bồi thường bằng đất; (3) bồi

thường bằng nhà. Một hộ dân có thể chỉ có một phương thức bồi thường hoặc cũng có

thể có hơn một phương thức bồi thường, do vậy luận án thiết kế thu thập thông tin về

nội dung này theo hướng hỏi cảm nhận đánh giá đủ cả 3 phương thức bồi thường.

Thang đo sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT

Ning Chai (2019), Li, N.H. (2018), Tyagi và Shinde (2016), sử dụng các biến

thang đo sau để đo lường sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT như sau: i) mức độ

kì vọng của người dân với việc BT, HT của chính quyền trong việc thu hồi đất; ii) hình

thức tổ chức công khai thông tin; iii) việc lấy ý kiến người dân; iv) công tác công tác

điều phối/điều tra/giải quyết khiếu kiện; v) Hoạt động đền bù được thực hiện một cách

chính xác; vi) Chủ đầu tư và chính quyền địa phương luôn sẵn sàng hỗ trợ người dân;

vii) Cách cư xử của chủ đầu tư và chính quyền địa phương tạo niềm tin cho người dân.

Như vậy, luận án kế thừa thang đo của các tác giả trước đây đã nghiên cứu, căn

cứ quy định của pháp luật về đất đai và kết quả nghiên cứu định tính, nhóm tổ chức

BT, HT dùng trong nghiên cứu này gồm 7 biến: (1) Lấy ý kiến người dân về phương

án BT, HT, TĐC; (2) Tiếp thu ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (3) Thực

hiện phương án BT, HT, TĐC công khai, minh bạch; (4) Giải quyết kịp thời khiếu nại

của người dân; (5) Năng lực của cán bộ làm nhiệm vụ BT, HT; (6) Sự tham gia của

chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) trong việc thu hồi đất, BT, HT (7)

Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, thân thiện.

Thang đo sự thay đổi cuộc sống

Biến thang đo này ít được các tác giả đề cập đến, trong nghiên cứu của Li, N.H.

(2018), Lisec và cộng sự (2014) và Wang, X. (2013), cũng đề cập một cách chung

chung như: i) cuộc sống của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi; ii) mức sống của

người dân khi bị thu hồi; iii) người dân có thể trở lên nghèo hơn; iv) người dân không

nhận được sự bảo đảm dài hạn và sẽ mất việc; v) cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc

nơi tái định cư.

Kết quả từ nghiên cứu định tính tại các địa bàn nghiên cứu cho thấy người dân

quan tâm đến việc cuộc sống của họ sẽ thay đổi thế nào sau thu hồi đất cũng góp phần

tạo lên sự thỏa mãn của người dân. Bên cạnh đó, từ kết quả trao đổi, thảo luận với các

chuyên gia, thực hiện khảo sát thực tiễn ở dân cư, tác giả nhận thấy đây cũng là chỉ

tiêu quan trọng khi xem xét sự thỏa mãn của người dân. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề

50

xuất 04 biến thang đo cho “Thay đổi cuộc sống” như sau: (1) Tiền BT, HT tạo thuận

lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống; (2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát

triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước; (3) Điều kiện tiếp cận về giao thông,

các công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước; (4) Điều kiện về môi

trường, dân trí thuận lợi hơn trước.

Sự thỏa mãn của người dân có sự khác biệt theo một số yếu tố

Vị trí đất bị thu hồi, cho biết khoảng cách từ địa điểm đất bị thu hồi đến các thị

trấn, đến thành phố gần nhất. Đất gần thị trấn hoặc thành phố dự kiến sẽ có giá trị

tương đối cao. Vì vậy, người dân có đất nằm ở gần khu vực có tiềm năng phát triển

kinh tế có xu hướng yêu cầu bồi thường đất cao hơn và có nhiều khả năng không thoả

mãn khi đất của họ bị thu hồi theo các quy định bồi thường hiện hành (Zhong và cộng

sự, 2011). Như vậy, nghiên cứu này cũng xem xét sự khác biệt theo 3 miền Bắc, Trung

và Nam, ba miền này cũng có những khác biệt về đặc điểm kinh tế và đặc điểm văn

hóa xã hội.

Giá đất thay đổi cũng ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn của người dân, nếu giá

đất sau thu hồi tăng thì người dân sẽ yêu cầu đòi bồi thường ở mức cao hơn, do vậy

khi Nhà nước bồi thường theo mức giá hiện hành có thể làm cho người dân không

thoả mãn.

Mục đích thu hồi đất cũng ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Theo Li,

N.H. (2018), Hui và Bao (2013), người dân có xu hướng nhượng bộ để thu hồi đất vì

lợi ích công cộng, cơ sở hạ tầng nhưng từ chối thu hồi đất vì lợi ích khác.

Bên cạnh đó, các đặc điểm trình độ học vấn của chủ hộ là chỉ số về kinh

nghiệm và nhận thức của mình về thoả mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất;

nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đến sự thoả mãn vì các hộ có thu nhập từ phi nông

nghiệp cao hơn mức bình quân có nhiều khả năng hài lòng với khoản bồi thường hơn

(Kong, 2008), hộ phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp có nhiều khả năng cảm thấy không

hài lòng khi bị thu hồi đất nông nghiệp (Li, N.H., 2018, Wang, 2010).

Nghiên cứu này sử dụng thang đo Likert 5 mức độ từ điểm 1 - “Hoàn toàn

không đồng ý” đến điểm 5 - “Hoàn toàn đồng ý” tương tự như của Li, N.H. (2018)

Rasidat và Ige (2014) hay của Lisec và cộng sự (2014) cho các biến quan sát để hình

thành lên các biến tiềm ẩn. Bên cạnh đó, các biến giả cho các biến số có phân tổ. Bảng

dưới đây thể hiện danh sách các biến được sử dụng trong mô hình và được thu thập từ

phiếu hỏi phỏng vấn hộ gia đình.

51

Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi

Nguồn tham khảo

Giải thích biến Mức độ thỏa mãn theo các thành phần Tên biến

MUCBT Mức BT, HT Ghi chú

MUCBT1

Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi

MUCBT3 Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý MUCBT2 Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế

Wang, X. (2013), Li, N.H (2018); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài MUCBT4 Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất

PTBT

PTBT1

PTBT2

Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý PTBT3

TCTH

TCTH1

TCTH2

Li, N.H. (2018), Hui và cộng sự (2013), Yang, (2012), Ning Chai (2019); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài Phương thức bồi thường Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống Tổ chức thực hiện BT, HT Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn

52

Tên biến

TCTH3 Ghi chú toàn đồng ý

TCTH4

TCTH5 Nguồn tham khảo Ning Chai (2019), Li, N.H. (2018), Tyagi và Shinde (2016); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài

TCTH6

Giải thích biến Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện

Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất

TCTH7 Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, thân thiện. TĐCS TĐCS1 Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống

TĐCS2

TĐCS3 Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý Li, N.H. (2018), Lisec và cộng sự (2014) và Wang, X. (2013); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài TĐCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước

CMKT1 Biến giả

CMKT2 Zhong và cộng sự (2011) Kong, 2008 Nhóm các biến khác Không có bằng cấp chứng chỉ, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Có bằng cấp chứng chỉ từ Trung cấp trở xuống, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Biến giả

53

Giải thích biến Nguồn tham khảo Ghi chú Tên biến

CMKT3 Biến giả

Nghe1 Biến giả

Li, N.H., 2018, Wang, 2010

Nghe2

Biến giả

Nghe3

Biến giả

Vung1 Biến giả

Zhong và cộng sự, 2011 Vung2 Biến giả

Vung3 Biến giả

mucdich Biến giả

Li, N.H. (2018), Hui và Bao (2013),

thaydoigia dat Có trình độ từ Cao đẳng trở lên, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ nghề nông, lâm ngư nghiệp, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động công việc hưởng lương, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Trung, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Nam, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Bắc, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Mục đích thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng vì lợi ích công cộng, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Giá đất của hộ gia đình về mảnh đất bị thu hồi tăng lên, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Biến giả

Nguồn: Tổng hợp của Tác giả

54

Khung nghiên cứu

Như vậy, luận án xây dựng khung phân tích phù hợp với bối cảnh, tình hình

thực tế của Việt Nam như dưới đây.

Từ khung phân tích này, nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập thông tin về các biến

quan sát ở cột đầu tiên, trên cơ sở có thông tin từ cột này sẽ dựa trên công cụ định lượng

để tổng hợp tạo thành biến tổng hợp ở cột thứ hai, khi đó sẽ giúp luận án có thông tin

đánh giá về sự thỏa mãn của người dân đối với 4 khía cạnh: Sự thỏa mãn về mức bồi

thường; sự thỏa mãn về phương thức bồi thường; sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT,

HT và cuối cùng là sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống của người dân. Sự thỏa mãn

chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được tổ hợp từ 4 khía

cạnh: (1) Sự thỏa mãn về mức bồi thường; (2) sự thỏa mãn về phương thức bồi thường;

(3) sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT và sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống

của người dân. Từ tổng quan cũng như từ phân tích định tính cho thấy sự thỏa mãn của

người dân có sự khác biệt theo một số yếu tố khác (Nghề nghiệp; Trình độ CMKT;

Vùng miền; Mục đích của dự án; Thay đổi về giá đất), do vậy nghiên cứu sẽ phân tích

sự thỏa mãn chung theo nhóm đặc điểm này.

55

Giá bồi thường về đất

Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất

Chi phí đầu tư vào đất Thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi

Bồi thường bằng tiền

Bồi thường bằng đất

Thỏa mãn về phương thức bồi thường Bồi thường bằng nhà ở

Sự thỏa mãn Lấy ý kiến người dân

Tiếp thu ý kiến người dân

Thực hiện công khai, minh bạch

Thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ Giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân Các yếu tố khác

Năng lực của cán bộ - Nghề nghiệp

- Trình độ

Sự tham gia của chính quyền, tổ chức CT - XH - Vùng miền

- Mục đích của dự án

- Thay đổi về giá đất

Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, Ư thân thiện.

Thỏa mãn về sự thay đổi điều kiện sống của hộ Chỗ ở mới

Việc làm mới, phát triển sản xuất

Tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng

Thay đổi môi trường, trình độ dân trí Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu Nguồn: Tác giả tổng hợp

56

2.3. Nghiên cứu định lượng

2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng

Mục tiêu của việc áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng là xác định các

yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất để thực hiện các dự án đầu tư. Đồng thời, nghiên cứu định lượng cũng nhằm kiểm

định giả thuyết để xác định mức độ ảnh hưởng khác nhau của các yếu tố đến người có

đất bị thu hồi, cũng như kiểm định giả thuyết để xem xét có sự khác biệt về các yếu tố

đến sự thỏa mãn khi Nhà nước thu hồi đất, gồm: Nghề nghiệp; Trình độ CMKT; Vùng

miền; Mục đích của dự án; Thay đổi về giá đất. Do đó, việc sử dụng phiếu điều tra đại

diện các hộ gia đình có đất bị thu hồi trên diện rộng sẽ giúp luận án thu thập được

những nhận định và đánh giá về những nội dung cần thiết để hoàn thành mục tiêu

nghiên cứu.

Nghiên cứu được thực hiện thông qua việc điều tra, khảo sát đại diện hộ gia

đình bị thu hồi đất. Mục đích của nghiên cứu này chủ yếu nhằm thu thập thông tin theo

phiếu khảo sát để có căn cứ đánh giá các biến quan sát dựa trên thang đo Likert (cho

điểm từ 1 đến 5). Phiếu hỏi sẽ được nhập vào biểu mẫu trên phần mềm CSPro. Sau khi

thu thập số liệu, nghiên cứu sẽ làm sạch, kiểm tra logic.

Luận án sử dụng Cronbach’s Alpha để kiểm định sự phù hợp cho các thang đo,

loại bỏ những quan sát không phù hợp. Các thang đo trong mô hình nghiên cứu đo lường

bằng thang đo Likert 5 điểm (1- hoàn toàn không đồng ý, 2- không đồng ý, 3- trung lập,

4- đồng ý, 5- hoàn toàn đồng ý).

Dựa trên phân tích nhân tố khám phá (EFA) sẽ phân tích các biến thang đo, tổ hợp

thành các biến tiềm ẩn, xác định được số biến thang đo cần thiết (số biến độc lập) cho mỗi

yếu tố ảnh hưởng. Do mỗi yếu tố sẽ được thiết kế dựa trên nhiều tiêu thức, nhiều thành

phần để cấu thành lên yếu tố, như vậy cần thiết phải đo độ tin cậy của thang đo (sử dụng

Cronbach’s Alpha) và cần phải phân tích để tổ hợp các thang đo thành các thành phần ít

hơn (đưa từ nhiều thành phần nhỏ sang số thành phần hay số biến ít hơn) nhưng vẫn đảm

bảo chứa đựng thông tin của các biến số.

Phân tích nhân tố khám phá khẳng định (CFA) được sử dụng để xác định sự

phù hợp của các biến trước khi đưa vào sử dụng trong mô hình phân tích. Cuối cùng,

để kiểm định giả thuyết của luận án, kỹ thuật ước lượng mô hình hồi quy và mô hình

SEM được sử dụng.

57

2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng

Thiết kế nghiên cứu định lượng hướng vào việc thiết kế những biến quan sát,

phương pháp đo lường, phương pháp đánh giá, phân tích và giải thích mối quan hệ

2.3.2.1. Mẫu nghiên cứu

giữa các biến bằng các quan hệ định lượng.

Theo Hair và cộng sự (1998), Black (1998), Green (1991) trong phân tích nhân

tố khám phá, kích thước mẫu tối thiểu được xác định dựa vào (i) mức tối thiểu và (ii)

số lượng biến đưa vào phân tích của mô hình. Ngoài ra trong phân tích hồi quy, Black

(1998), Green (1991), cho rằng cỡ mẫu tối thiểu cần xác định theo công thức 50 +

5*số biến độc lập trong mô hình nghiên cứu. Như vậy, dựa trên nghiên cứu cụ thể về

các biến quan sát, luận án sẽ xác định được cỡ mẫu cần nghiên cứu.

Mẫu nghiên cứu được lấy từ danh sách các hộ gia đình có đất bị thu hồi và được

BT, HT trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019 thuộc 06 dự án tại thành

phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh từ Sở Tài nguyên và Môi trường của

3 Tỉnh/thành phố. Nghiên cứu lựa chọn ngẫu nhiên các hộ gia đình có đất bị thu hồi,

tác giả sử dụng thông tin của hộ như địa chỉ, số điện thoại và họ tên của chủ hộ để liên

hệ, xin phép được phỏng vấn trực tiếp.

Số hộ dự kiến khảo sát cho nghiên cứu này là 800 hộ có đất bị thu hồi từ danh

sách nói trên. Tuy nhiên, thực tế số hộ đồng ý trả lời phiếu điều tra là 550 hộ. Sau khi

thu thập thông tin thì có 10 phiếu bị loại bỏ do một số nội dung trong các phiếu này

không được trả lời đầy đủ, thiếu nhiều thông tin. Như vậy mẫu điều tra đưa vào sử

dụng của luận án là 540 đại diện hộ gia đình, trong đó thành phố Hà Nội là 188 đại

diện hộ, thành phố Hồ Chí Minh là 177 đại diện hộ và thành phố Đà Nẵng là 175 đại

diện hộ.

Kích thước mẫu trong nghiên cứu định lượng chính thức, theo Hair và cộng sự

(1998) đối với phân tích nhân tố khám phá EFA thì cỡ mẫu phải tối thiểu gấp 5 lần

tổng số chỉ báo trong các thang đo, trong nghiên cứu này sử dụng 34 biến quan sát để

dùng trong phân tích nhân tố khám phá, do vậy số mẫu tối thiểu là 34*5=170. Như vậy

với mẫu nghiên cứu là 540 đại diện hộ đã đáp ứng được yêu cầu để phân tích định

lượng vì việc xác định quy mô mẫu dựa trên những yêu cầu về mẫu được dùng trong

phân tích định lượng và sự cân đối về các nguồn lực phục vụ việc điều tra.

58

Phân bố mẫu được thể hiện dưới đây:

Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng

Tiêu chí Số lượng %

Tổng 540 100

Theo giới

Nữ 287 53,1

Nam 253 46,9

Nhóm tuổi

Từ 35-49 tuổi 214 39,6

Từ 50-60 tuổi 178 33,0

Trên 60 tuổi 148 27,4

Trình độ CMKT

Không có bằng cấp chứng chỉ 182 33,7

Có chứng chỉ đến trung cấp 187 34,6

Từ cao đẳng trở lên 171 31,7

Vùng

Miền Trung 175 32,4

Miền Nam 177 32,8

Miền Bắc 188 34,8

Nghề tạo thu nhập chính

Từ nông, lâm ngư nghiệp 170 31,5

185 34,3 Từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

185 34,3 Từ hoạt động công việc hưởng lương

2.3.2.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Nghiên cứu định lượng với phương pháp thu thập dữ liệu chủ yếu là điều tra khảo sát thông qua phiếu điều tra với bảng câu hỏi. Phiếu điều tra được phát triển dựa trên các thang đo đã được nghiên cứu. Thời gian thực hiện khảo sát phiếu điều tra từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Thông tin từ phiếu khảo sát sẽ được nhập

59

vào máy tính thông qua thiết kế phần mềm nhập tin CSPro, và được làm sạch, kiểm tra logic bằng SPSS trước khi đưa vào phân tích. Sử dụng phương pháp định lượng sẽ giúp kiểm định các mối quan hệ và từ đó đưa ra các kết luận dựa trên bằng chứng.

Phân tích thống kê mô tả

Thống kê mô tả là bước đầu tiên trong việc phân tích dữ liệu định lượng để xác định độ phân phối của bộ dữ liệu đang nghiên cứu. Nghiên cứu tiến hành phân tích mô tả thống kê các biến quan sát trong mô hình qua các tiêu chí gồm: giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.

Luận án phân tích mô hình SEM với phần mềm AMOS với các kiểm định về sự phù hợp của mô hình và kiểm định Bootstrap cho mô hình phân tích để đánh giá sự ổn định của mô hình nghiên cứu.

Kiểm định thang đo

Để đảm bảo chất lượng thang đo sẵn sàng cho các phân tích và kiểm định về giá trị

trung bình giữa các nhóm đối với biến sự thoả mãn chung, tác giả sử dụng kết hợp 2

phương pháp phân tích: nhân tố khám phá (EFA) và nhân tố khám phá khẳng định (CFA).

Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 - 1 là có thể chấp nhận được, các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,7 - 0,8 là sử dụng được và các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,8 - gần 1 là thang đo lường tốt. Trong nghiên cứu này, để đảm bảo độ tin cậy tốt, các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên được giữ lại để sử dụng cho các bước phân tích tiếp theo.

Tuy nhiên, hệ số Cronbach’s Alpha chỉ cho biết các thang đo có liên kết với nhau hay không mà không giúp cho việc quyết định giữ lại hay bỏ đi biến quan sát nào. Do vậy, nghiên cứu sử dụng thêm hệ số tương quan biến tổng (item - Chung correclation) để có thêm cơ sở cho việc đưa ra quyết định giữ lại hay bỏ đi biến quan sát.

Hệ số tương quan biến tổng là hệ số tương quan của 1 biến với điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do vậy hệ số này càng cao thì sự tương quan của biến này với các biến khác trong thang đo càng cao. Theo Nunnally và Burnstein (1994), các biến có hệ số tương quan biến tổng < 0,3 được coi là biến rác và loại biến này khỏi thang đo.

Vì vậy, theo tiêu chuẩn chọn biến đã trình bày ở trên, để đảm bảo độ tin cậy của thang đo, nghiên cứu sẽ lựa chọn các thang đo đảm bảo hệ số Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 và có hệ số tương quan biến tổng > 0,3.

60

- Kiểm định giá trị của thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám

phá - EFA

Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ

thuộc lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối

tương quan giữa các biến với nhau. EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành

một tập F (F

hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến quan sát (Nguyễn Đình Thọ, 2012).

Phân tích nhân tố sẽ được sử dụng để kiểm định sự hội tụ của các biến thành

phần. Để khẳng định dữ liệu phân tích là phù hợp và có độ tin cậy cao, phải thỏa mãn

các tiêu chí sau:

Hệ số KMO (Kaiser - Meyer - Olkin) phải đạt giá trị từ 0,5 trở lên

(0,5≤KMO≤1) thể hiện phân tích nhân tố là phù hợp. Kiểm định Bartlett có ý nghĩ

thống kê (giá trị Sig. < 0,05), điều đó chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với

nhau trong tổng thể. Hệ số tải nhân tố (Factor loading) là chỉ tiêu đảm bảo mức ý

nghĩa thiết thực của EFA ≥ 0,5.

Dựa vào những tiêu chí trên, nghiên cứu lựa chọn các biến phù hợp với điều

kiện: Hệ số kiểm định KMO: 0,5≤ KMO ≤ 1.

Kiểm định Bartlett (Bartlett’s Test có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05), chứng tỏ

các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể.

Phương sai trích > 50%: Với các mô hình nghiên cứu thông thường trên mẫu

điều tra nhỏ (<100) mới cần áp dụng tiêu chuẩn này ở mức 0,5; tuy nhiên, để kết quả

điều tra mang tính thực tiễn, nghiên cứu vẫn sử dụng mức kiểm định chặt chẽ này.

Phân tích nhân tố khám phá

Phần này sẽ kiểm định giá trị của biến để đánh giá sự hội tụ các thang đo của

từng nhân tố bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Trong quá trình

này, các biến quan sát không đạt yêu cầu về hệ số tải (> 0,5) sẽ bị loại bỏ. Sau khi

sàng lọc các biến quan sát bằng EFA như trên thì sẽ tiến hành đánh giá độ tin cậy của

thang đo dựa trên hệ số Cronbach’s Alpha yêu cầu > 0,6 theo Hair và cộng sự (2006)

cũng như thang đo sẽ đạt yêu cầu khi tổng phương sai trích > 50%. Kết quả phân tích

EFA cho từng nhân tố sẽ được thể hiện thông qua kết quả xử lý bằng phần mềm

SPSS phiên bản 22.

2.3.2.3. Kết quả kiểm định thống kê

61

Sử dụng số liệu khảo sát của đề tài, các kết quả kiểm định được mô tả ở dưới đây:

- Mức bồi thường, hỗ trợ:

Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn

0.3. Mặc dù kết quả cũng cho thấy, nếu loại bỏ biến MUCBT3 thì làm cho hệ số

Cronbach’s Alpha tăng từ 0.874 lên 0.881. Tuy nhiên, từ phân tích EFA thì biến

MUCBT3 là biến có ý nghĩa để cấu thành nên biến MUCBT, do vậy 4 biến thành phần

của MUCBT được giữ lại vì đảm bảo điều kiện hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.6.

Bảng 2.4. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho mức BT, HT

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

0.874 4

Item-Chung Statistics

Tương quan biến tổng Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Cronbach's Alpha nếu loại biến

MUCBT1 8.85 7.032 0.728 0.839

MUCBT2 8.21 7.021 0.731 0.838

MUCBT3 8.34 7.592 0.617 0.881

MUCBT4 8.35 6.328 0.850 0.788

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

- Phương thức bồi thường:

Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0.731

Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.3. Mặc dù kết quả cũng cho thấy, nếu loại bỏ biến PTBT2 thì làm cho hệ số Cronbach’s Alpha tăng từ 0.731 lên 0.798. Tuy nhiên, từ phân tích EFA thì biến PTBT2 là biến có ý nghĩa để cấu thành nên biến PTBT, do vậy 3 biến thành phần của PTBT được giữ lại vì đảm bảo điều kiện hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.4.

62

Bảng 2.5. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phương thức bồi thường

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha N of Items

0.731 3

Item-Chung Statistics

Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach's Alpha nếu loại biến

PTBT1 4.89 2.803 0.623 0.560

PTBT2 4.56 3.126 0.426 0.798

PTBT3 5.03 2.834 0.627 0.557

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

- Tổ chức thực hiện

Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0.590, phần lớn các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.3, tuy nhiên biến TCTH7 có hệ số nhỏ hơn 0,3 nếu loại bỏ biến quan sát này thì hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn 0.590. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 7 biến nghiên cứu yếu tố “Tổ chức thực hiện” sẽ được sử dụng sau khi loại bỏ biến TCTH7.

Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện

Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items .590 7

Tương quan biến tổng Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Cronbach's Alpha nếu loại biến

TCTH1 TCTH2 TCTH3 TCTH4 TCTH5 TCTH6 TCTH7 13.46 13.77 13.08 12.84 13.19 13.78 12.78 9.243 9.613 8.810 9.183 8.576 9.505 9.315 .333 .318 .402 .352 .424 .328 .208 .497 .501 .469 .489 .459 .548 .630

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha sau khi loại bỏ biến TCTH7 là 0.630. Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.3 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát nào có thể làm cho Cronbach’s

63

Alpha của thang đo này lớn hơn 0.63. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 6 biến nghiên cứu yếu tố “Tổ chức thực hiện” còn lại là hợp lý, tất cả các biến quan sát đều được chấp nhận và sẽ được sử dụng trong các phân tích tiếp theo.

Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện

Reliability Statistics

N of Items

Cronbach's Alpha .630 6

Tương quan biến tổng Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Cronbach's Alpha nếu loại biến

13.46 13.77 13.08 12.84 13.19 13.78 9.243 9.613 8.810 9.183 8.576 9.505 .333 .318 .402 .352 .424 .328 .597 .601 .569 .589 .559 .598 TCTH1 TCTH2 TCTH3 TCTH4 TCTH5 TCTH6

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

- Sự thay đổi cuộc sống

Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0,721

Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.4 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát nào có thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn 0.721. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 4 biến nghiên cứu yếu tố “Sự thay đổi cuộc sống” còn lại là hợp lý, tất cả các biến quan sát đều được chấp nhận và sẽ được sử dụng trong các phân tích tiếp theo.

Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống

Reliability Statistics

Cronbach's Alpha .721

Tương quan biến tổng N of Items 4 Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Cronbach's Alpha nếu loại biến

8.22 8.21 8.65 8.05 5.730 4.952 5.468 5.392 .447 .617 .513 .467 .695 .593 .658 .687 TDCS1 TDCS2 TDCS3 TDCS4

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

64

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Theo kết quả phân tích nhân tố cho thấy, hệ số KMO=0,715>0,5. Như vậy, phân tích nhân tố thích hợp với dữ liệu nghiên cứu. Kết quả kiểm định Barlett’s là: 2471.242 với mức ý nghĩa sig=0,000 <0,05. Điều này, khẳng định bác bỏ giả thuyết H0: Các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể và như vậy giả thuyết về mô hình nhân tố không phù hợp sẽ bị bác bỏ, điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp.

Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett

KMO và Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

.715 2471.242 136 0.000 Approx. Chi-Square df Sig.

Total Variance Explained

Rotation Sums of Squared Loadingsa

Initial Eigenvalues

Total

Total

2.938 2.219 2.133 1.996

Extraction Sums of Squared Loadings % of Variance 17.471 13.056 12.667 11.153

Cumulative % 17.471 30.526 43.194 54.346

Cumulative % 17.471 30.526 43.194 54.346 60.079 65.325 70.133 74.468 78.651 82.446 86.099 89.444 92.710 95.342 97.187 98.911 100.000

% of Variance 17.471 13.056 12.667 11.153 5.733 5.246 4.808 4.335 4.183 3.795 3.653 3.345 3.266 2.633 1.844 1.724 1.089

2.970 2.219 2.153 1.896 .975 .892 .817 .737 .711 .645 .621 .569 .555 .448 .314 .293 .185

Total Component 2.970 1 2.219 2 2.153 3 1.896 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 Extraction Method: Principal Component Analysis. a. When components are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

65

Theo kết quả phân tích trên cho thấy:

Tổng phương sai trích =54,346% >50%: Đạt yêu cầu, có thể nói rằng các nhân

tố này giải thích 54,34% độ biến thiên của dữ liệu thu thập.

Hệ số Eigenvalues > 1 có tất cả 4 nhân tố, do đó có 4 nhân tố đại diện. Bảng ma trận xoay nhân tố thể hiện ở dưới đây cho thấy các quan sát hội tụ về 4 nhân tố đại diện.

Bảng 2.9. Bảng ma trận hệ số các thành phần

Pattern Matrixa

Component

2 3 4

1 .853 .851 .770 .927

.866 .695 .859

.684 .821 .740 .698

.556 .539 .634 .583 .672 .556

MUCBT1 MUCBT2 MUCBT3 MUCBT4 PTBT1 PTBT2 PTBT3 TDCS1 TDCS2 TDCS3 TDCS4 TCTH1 TCTH2 TCTH3 TCTH4 TCTH5 TCTH6 Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 4 iterations.

Cụ thể các nhóm được tổng hợp như dưới đây:

Nhóm 1: Mức BT, HT là tổ hợp của các biến thành phần sau

Biến thành phần

MUCBT1 Diễn giải Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi

MUCBT2 Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế

MUCBT3

MUCBT4 Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất

66

Nhóm 2: Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất

Biến thành phần Diễn giải

TĐCS1 Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống

Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và TĐCS2 tăng hơn trước

Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công TĐCS3 cộng thuận lợi hơn trước

TĐCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước

Nhóm 3: Tổ chức thực hiện

Biến thành phần Diễn giải

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ TCTH1 chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC

Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về

TCTH2 phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp

còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC

Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo TCTH3 đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật

Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp

TCTH4 thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT,

HT, TĐC

TCTH5

Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

TCTH6

Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện

67

Nhóm 4: Phương thức bồi thường

Biến thành phần Diễn giải

PTBT1 Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường

PTBT2 Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi

PTBT3 Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống

Mức độ phù hợp mô hình và các chỉ số đo độ phù hợp mô hình

Nhân tố khẳng định CFA

Sự phù hợp của mô hình được xác định bởi sự tương ứng giữa ma trận hiệp

phương sai quan sát được và một ma trận hiệp phương sai ước lượng lấy kết quả từ mô

hình được đề xuất (proposed model).

Mô hình SEM sử dụng các đo lường để miêu tả giả thiết nghiên cứu giải thích

dữ liệu đầu vào (input) như thế nào. Dữ liệu input tạo thành ma trận hiệp phương sai

giữa các biến đo lường.

Bảng 2.10. Tiêu chuẩn kiểm định sự phù hợp của mô hình

Chỉ số Ngưỡng chấp nhận

Chi-square/df (cmin/df) <3 thì tốt, <5 đôi khi chấp nhận được

CFI >0.9

GFI >0.9

TLI >0.9

RMSEA <0.05

PCLOSE >0.05

Nguồn: Hair và cộng sự (2010)

Nếu giải thích được đến tất cả các mối tương quan chính vốn có trong tập dữ

liệu (liên quan đến các biến trong mô hình) thì sẽ có mô hình phù hợp (good fit). Nếu

có sự khác biệt giữa những mối tương quan đề xuất và những mối tương quan quan sát

được thì sẽ có một mô hình có độ phù hợp thấp (poor fit). Mô hình đề xuất không "phù

hợp" với mô hình quan sát, mô hình ước lượng.

68

- Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình

Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình (goodness of fit) được liệt kê dưới đây, kèm theo với ngưỡng giá trị chấp nhận. Độ phù hợp mô hình nghịch đảo với kích cỡ mẫu và số biến quan sát trong mô hình. Các ngưỡng đánh giá được thể hiện ở bảng dưới đây (Hair và cộng sự, 2010).

Các mô hình được xây dựng có thể đảm bảo hoặc không đảm bảo các điều kiện trên, trường hợp các chỉ số đo sự phù hợp mô hình chưa tốt, nghiên cứu sử dụng chỉ số MI để cải thiện độ phù hợp của mô hình.

- Cách cải thiện độ phù hợp của mô hình

Chỉ số MI (Modification indices): đưa ra các biện pháp khắc phục cho các sai lệch giữa mô hình được đề xuất và mô hình ước lượng (estimated model). Trong phân tích nhân tố khẳng định CFA không thể thêm các đường hồi qui để sửa mô hình phù hợp, do tất cả các đường hồi qui giữa các biến tiềm ẩn và biến quan sát được đã có sẵn. Vì vậy, trong CFA, người ta xem xét các chỉ số sửa đổi cho hiệp phương sai. Nguyên tắc là: không được sử dụng các mũi tên hiệp phương sai covariances giữa phần dư (error terms) với biến quan sát hoặc biến tiềm ẩn; không được sử dụng giữa những error terms mà không thuộc cùng một nhân tố. Do đó, cách phù hợp nhất để sử dụng chỉ số MI là nối các mũi tên hai chiều hiệp phương sai giữa các phần dư trong cùng một nhân tố.

Mô hình có Chi-square càng nhỏ càng tốt. Cột MI gợi ý xem nên móc mũi tên hai đầu vào cặp sai số nào để có thể cải thiện Chi-square. Khi đó GFI, TLI, CFI… cũng sẽ được cải thiện. Nghiên cứu sẽ chọn những trường hợp mà có MI lớn để ưu tiên móc trước. Sau đó, chạy lại mô hình, và xem nên móc tiếp giữa hai sai số nào để tiếp tục cải thiện.

Phần này sẽ kiểm định giá trị của biến để đánh giá sự hội tụ các thang đo của từng nhân tố bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Trong quá trình này, các biến quan sát không đạt yêu cầu về hệ số tải (> 0,5) sẽ bị loại bỏ. Sau khi sàng lọc các biến quan sát bằng EFA như trên thì sẽ tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang đo dựa trên hệ số Cronbach’s Alpha yêu cầu > 0,6 theo Hair và cộng sự (2006) cũng như thang đo sẽ đạt yêu cầu khi tổng phương sai trích > 50%.

Như vậy, luận án sử dụng Cronbach’s Alpha để kiểm định thang đo. Các biến tiềm ẩn trong mô hình nghiên cứu đo lường bằng thang đo Likert 5 điểm (1- hoàn toàn không đồng ý đến 5 hoàn toàn đồng ý).

Dựa trên phân tích nhân tố khám phá (EFA) sẽ xác định được số thang đo cần thiết (số biến độc lập) cho mỗi yếu tố ảnh hưởng. Do mỗi yếu tố sẽ được thiết kế dựa

trên nhiều tiêu thức, nhiều thành phần để cấu thành lên yếu tố, như vậy cần thiết phải đo

69

độ tin cậy của thang đo (sử dụng Cronbach’s Alpha) và cần phải phân tích để tổ hợp các thang đo thành các thành phần ít hơn (đưa từ nhiều thành phần nhỏ sang số thành phần

hay số biến ít hơn) nhưng vẫn đảm bảo chứa đựng thông tin của các biến số.

Dựa trên phân tích về nhân tố khẳng định CFA sẽ xác định được các biến tiềm

ẩn được tạo bởi từ các biến quan sát.

Phân tích nhân tố khẳng định CFA

Kết quả CFA ở trên cho thấy: Chi-square=217,280 (p=0,000); Chi-square/df = 1,923<5; GFI=0,955, TLI=0,947, CFI=0,956 đều lớn hơn 0,9 và RMSEA=0,041<0,08.

Như vậy, kết quả mô hình phù hợp với dữ liệu thu thập.

Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA

Từ Hình 2.2 có thể thấy kết quả sơ bộ các yếu tố thành phần đều đóng góp tích

cực đến chỉ số thỏa mãn theo các khía cạnh như mức BT, HT; phương thức bồi

70

thường; tổ chức thực hiện BT, HT và thay đổi cuộc sống. Các hệ số trên đã được

chuẩn hóa để đảm bảo tính so sánh giữa các biến thành phần, hệ số của một biến càng

lớn thì thể hiện vai trò đóng góp càng lớn đến sự thỏa mãn.

Như vậy, nhìn vào Hình 2.2 có thể thấy đối với sự thỏa mãn về mức bồi thường thì đóng góp chủ yếu từ biến quan sát MUCBT4 (Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu

hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất) đóng vai trò mạnh vào sự thỏa mãn về mức bồi

thường. Tương tự đối với phương thức bồi thường thì PTBT1 (Mức bồi thường bằng tiền

trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường) và PTBT3 (Bồi thường

bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống) đóng góp mạnh hơn so với PTBT2 (Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và

các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi).

Kết quả Hình 2.2 sẽ được sử dụng cho phân tích sự thỏa mãn của người dân

trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất ở Chương 3.

Kiểm định giá trị phân biệt

Hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0,9 hoặc có thể xem kết quả kiểm định giá trị

phân biệt bằng cách dựa vào hệ số tương quan ước lượng được từ mô hình, tính toán thêm các chỉ số như: SE = SQRT(1-r2)/(n-2); CR= (1-r)/SE; với r = hệ số tương quan;

p-value = TDIST(CR, n-2, 2), n = số bậc tự do trong mô hình, với nghiên cứu này

n=377 (Degrees of freedom: 465 - 88).

Kết quả cho thấy hệ số tương quan của tất cả các cặp có giá trị p<0,05 nên hệ số

tương quan của các cặp khái niệm này khác biệt so với 1 ở mức ý nghĩa 5% hay độ tin

cậy 95%. Như vậy, những cặp khái niệm này đạt giá trị phân biệt.

Bảng 2.11. Kết quả kiểm định giá trị phân biệt giữa các thang đo

Estimate S.E. C.R. P

MUCBT <--> TDCS 0.011 0.0076 129.57 0.0000

MUCBT <--> TCTH 0.079 0.0076 121.03 0.0000

MUCBT <--> PTBT -0.049 0.0076 137.58 0.0000

TDCS <--> TCTH 0.012 0.0076 129.44 0.0000

TDCS <--> PTBT 0.015 0.0076 129.05 0.0000

TCTH <--> PTBT 0.071 0.0076 122.01 0.0000

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

71

Như vậy, từ phân tích CFA, luận án tạo ra được các biến tiềm ẩn như bảng

dưới đây:

Bảng 2.12. Bảng danh sách các biến tiềm ẩn

Tên biến Giải thích biến

MUCBT Mức BT, HT

PTBT Phương thức bồi thường

TCTH Tổ chức thực hiện

TDCS Thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả định lượng trên sẽ được sử dụng kết hợp với phương pháp nghiên cứu

định tính để phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất nói chung và sự thỏa mãn này ở các khía cạnh và giữa các nhóm cư dân ở Chương

tiếp theo.

Như vậy, kết quả phân tích EFA, CFA và một số kiểm định từ mô hình SEM đã

giúp luận án xác định được các biến: Mức BT, HT (MUCBT); phương thức bồi

thường (PTBT); tổ chức thực hiện BT, HT (TCTH); sự thay đổi các điều kiện sống của

người dân sau khi thu hồi đất (TDCS) và biến SUTM được xác định dựa trên tổ hợp

của 4 biến này.

Để có thể phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn (SUTM) của người dân trong

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất theo các nhóm như trình độ CMKT, ngành nghề,

vùng miền, Mục đích của dự án, sự thay đổi về giá đất (theo khung phân tích ở trên)

nghiên cứu sẽ sử dụng 2 phương pháp dưới đây để phân tích.

Phương pháp phân tích phương sai - ANOVA

Nghiên cứu này sẽ sử dụng ANOVA để kiểm định giả thuyết trung bình bằng

nhau của các nhóm hay phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn của người dân giữa các

nhóm dân cư (nhóm dân cư phân theo trình độ CMKT, ngành nghề, vùng miền, mục

đích của dự án, sự thay đổi về giá đất).

72

Nghiên cứu này sẽ sử dụng kiểm định ANOVA test

Ho: “Trung bình bằng nhau”

Nếu giá trị Sig <5%: bác bỏ Ho, khi đó sẽ kết luận có sự khác biệt giữa các

nhóm đối với biến phụ thuộc (Sự thoả mãn)

Nếu giá trị Sig >5%: chấp nhận Ho, hay có thể kết luận chưa đủ điều kiện để

khẳng định có sự khác biệt giữa các nhóm đối với biến phụ thuộc.

Khi có sự khác biệt giữa các nhóm, luận án sử dụng kiểm định Tukey để kiểm

định sự khác biệt về biến phụ thuộc của các nhóm như thế nào.

Như vậy, áp dụng trong nghiên cứu này, biến phụ thuộc là sự thoả mãn

(SUTM), các nhóm bao gồm trình độ CMKT, ngành nghề, vùng miền, mục đích của dự

án, sự thay đổi về giá đất.

Phương pháp mô hình hồi quy

Kết quả phân tích phương sai ANOVA cho phép luận án phân tích sự khác biệt

về sự thoả mãn theo từng nhóm, tuy nhiên phương pháp này kiểm định giá trị bằng

nhau của biến sự thoả mãn theo từng nhân tố. Do vậy để có thêm góc nhìn khi phân

tích sự khác biệt về sự thoả mãn (SUTM) theo các nhóm đồng thời, nghiên cứu này sử

dụng mô hình hồi quy đa biến để kiểm định.

Mô hình hồi quy đa biến đơn giản sẽ được ước lượng bằng phương pháp bình

phương nhỏ nhất (OLS), đây là phương pháp được sử dụng phổ biến để ước lượng các

tham số trong mô hình hồi quy. Mục đích của phương pháp đó là xác định các hệ số

ước lượng sao cho tổng bình phương các sai lệch giữa giá trị thực tế quan sát được và

giá trị ước lượng từ mô hình là nhỏ nhất.

Như vậy, mô hình ước lượng sử dụng trong nghiên cứu này được thể hiện dưới đây:

SUTMi = a0 + a1vung1i + a2vung2i + a3cmkt1i +a4cmkt2i + a5nghe1i +a6nghe2i

+ a7mucdichi + a8thaydoigiadati +ei

Trong đó:

- SUTM là sự thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu

hồi đất.

- Chỉ số i là chỉ số thứ tự của người thứ i trong mẫu khảo sát; ei phản ánh phần

dư hay yếu tố không quan sát được.

73

- Các biến vung1, vung2 là các biến giả thể hiện cho 2 vùng (so với một vùng

làm cơ sở không xuất hiện trong mô hình).

- Các biến cmkt1 và cmkt2 là các biến giả về trình độ CMKT (so với biến

CMKT không xuất hiện trong mô hình).

- Các biến nghe1, nghe2 là các biến giả cho nghề nghiệp của người dân (so với

biến nghe3 không xuất hiện trong mô hình).

- Biến mucdich và thaydoigiadat lần lượt là biến mục đích sử dụng đất và sự

thay đổi giá đất.

Hệ số ước lượng của các biến từ mô hình trên cho biết sự thỏa mãn của người

dân ảnh hưởng thế nào theo các biến độc lập. Vì các biến độc lập có hình thức biến

giả, do vậy hệ số ước lượng của mỗi biến cũng phản ánh khác biệt về sự thỏa mãn của

người dân theo các phân loại của mỗi biến này.

Như vậy, nếu một hệ số ước lượng khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy

90%, 95% hay 99% thì có thể kết luận biến phụ thuộc SUTM có sự khác biệt theo biến

số đó. Do vậy, luận án dựa vào kết quả ước lượng mô hình và kiểm định hệ số để kết

luận sự thoả mãn (SUTM) có khác biệt theo các nhóm hay không.

74

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 tác giả đã trình bày về phương pháp nghiên cứu của luận án với các

điểm chính sau:

Luận án sử dụng nghiên cứu định tính để tìm hiểu sâu về chính sách liên quan, nghiên cứu về các yếu tố hình thành lên sự thoả mãn của người dân từ góc nhìn của

nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất.

Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy sự thỏa mãn thể hiện ở 4 khía cạnh:

Một là, mức BT, HT, gồm: (1) Giá bồi thường về đất; (2) Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất; (3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi

thường về đất; (4) Mức hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và chuyển đổi nghề nghiệp

tạo việc làm.

Hai là, phương thức bồi thường gồm: (1) bồi thường bằng tiền; (2) bồi thường

bằng đất; (3) bồi thường bằng nhà.

Ba là, tổ chức thực hiện BT, HT gồm 6: (1) Lấy ý kiến người dân về phương án

BT, HT, TĐC; (2) Tiếp thu ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (3) Thực

hiện phương án BT, HT, TĐC công khai, minh bạch; (4) Giải quyết kịp thời khiếu nại

của người dân; (5) Năng lực của cán bộ làm nhiệm vụ BT, HT; (6) Sự tham gia của

chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) trong việc thu hồi đất, BT, HT.

Bốn là, thay đổi cuộc sống, gồm: (1) Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải

thiện chỗ ở, ổn định đời sống; (2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước; (3) Điều kiện tiếp cận về giao thông, các công trình văn

hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước; (4) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận

lợi hơn trước.

Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân có sự khác biệt theo một số đặc điểm

của hộ như trình độ CMKT, nghề nghiệp và vùng miền.

Khung nghiên cứu của luận án về sự thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được tổ hợp từ 4 khía cạnh: (1) Sự thỏa mãn về mức bồi thường; (2) sự thỏa mãn về phương thức bồi thường; (3) sự thỏa mãn về tổ chức thực

hiện BT, HT và sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống của người dân.

Nghiên cứu định lượng thông qua phương pháp khảo sát người dân thuộc khu

vực bị thu hồi đất để đánh giá sự thoả mãn của người dân và hoàn thiện các biến số đo

75

lường các khái niệm nghiên cứu như mức bồi thường, phương thức bồi thường, tổ chức thực hiện, thay đổi cuộc sống.

Luận án sử dụng phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xác định được 4 nhóm

biến thành phần cho sự thỏa mãn, gồm thỏa mãn về mức bồi thường, thỏa mãn về

phương thức bồi thường, thỏa mãn về thay đổi cuộc sống và thỏa mãn về tổ chức thực hiện. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để có kiểm định thống kê cho các hệ số ước

lượng và khẳng định vai trò của mỗi biến quan sát đối với biến tổng hợp về sự thỏa mãn.

Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua phương pháp khảo sát ý kiến

540 hộ dân bị thu hồi đất nhằm xác định các yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của

người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời kiểm định mức độ khác

nhau của các yếu tố đến người có đất bị thu hồi, cũng như xem xét có sự khác biệt về

đặc điểm sử dụng đất, các yếu tố nội tại của hộ gia đình, yếu tố vùng miền đến sự thỏa

mãn khi Nhà nước thu hồi đất.

Kết quả kiểm định Cronbach’ Alpha đối với mức BT, HT, phương thức bồi

thường, tổ chức thực hiện BT, HT, sự thay đổi cuộc sống đều đảm bảo yêu cầu, hệ số

lớn hơn 0,6.

Kết quả kiểm định KMO và Bartlett đều cho thấy dữ liệu dùng để phân tích

nhân tố là hoàn toàn thích hợp.

Luận án sử dụng các kỹ thuật phân tích và xử lý số liệu như phân tích nhân tố

khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) cho thấy 17 biến thành phần

được tổ hợp về 4 nhóm biến theo kỳ vọng và 4 nhóm biến này đều đảm bảo giá trị phân biệt.

76

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

Chương này luận án sử dụng số liệu khảo sát 540 người dân để đánh giá sự thỏa

mãn của người dân, trong đó nghiên cứu sử dụng phân tích giá trị trung bình khi đánh

giá hiện trạng về sự thỏa mãn theo các khía cạnh và sử dụng phân tích ANOVA trên

mẫu để phân tích sự thỏa mãn chung của người dân theo các nhóm.

3.1. Sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

3.1.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện theo quy định của Luật

Đất đai năm 2013, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi

trường quy định về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và quy định cụ thể của địa

phương. Mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm bồi thường về đất đối với

từng loại đất cụ thể, bồi thường tài sản gắn liền với đất, bồi thường chi phí di chuyển

và các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi, cụ thể:

a) Bồi thường về đất:

- Nguyên tắc bồi thường về đất: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu

có đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường; việc bồi thường được thực hiện

bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân

(UBND) cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất (Quốc hội, 2013).

- Điều kiện được bồi thường về đất: Người sử dụng đất không phải là đất thuê

trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy

chứng nhận (trừ trường hợp người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất nông

nghiệp quy định tại Khoản 2 Điều 77 của Luật Đất đai năm 2013) thì đủ điều kiện

được bồi thường về đất (Quốc hội, 2013).

- Về giá đất tính bồi thường: Giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất là giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm

77

quyết định thu hồi đất. Việc định giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất được thực hiện theo nguyên tắc phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường và

cơ quan quản lý đất đai được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để

thực hiện. Căn cứ các phương pháp định giá đất và kết quả tổng hợp, phân tích thông

tin về thửa đất, giá đất thị trường, UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể (Quốc hội,

2013). Chính phủ đã quy định 5 phương pháp định giá đất để áp dụng trong việc định

giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: phương pháp so sánh trực

tiếp, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư và phương

pháp hệ số điều chỉnh giá đất (Chính phủ, 2014c, 2017). Bộ Tài nguyên và Môi trường

đã hướng dẫn chi tiết nội dung, trình tự thực hiện các phương pháp định giá đất (Bộ

Tài nguyên và Môi trường, 2014b, 2017).

Việc định giá đất cụ thể nói chung và định giá đất tính bồi thường nói riêng phải

thực hiện thông qua các bước: (1) Xác định mục đính định giá đất cụ thể; (2) Điều tra,

tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, áp dụng phương pháp định

giá đất; (3) Xây dựng phương án định giá đất trình UBND cấp tỉnh; (4) Thẩm định

phương án giá đất; (5) Hoàn thiện dự thảo phương án giá đất: (6) UBND cấp tỉnh quyết

định giá đất. Việc thẩm định giá đất do Hội đồng thẩm định giá đất thực hiện với thành

phần bao gồm: Chủ tịch UBND cấp tỉnh là chủ tịch Hội đồng, đại diện Lãnh đạo Sở Tài

chính làm thường trực Hội đồng, đại diện Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường và

UBND cấp huyện nơi có đất; tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất hoặc chuyên

gia về giá đất và các thành viên khác do UBND cấp tỉnh quyết định (Chính phủ, 2014b;

Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014b). Nội dung thẩm định phương án giá đất bao gồm:

thẩm định việc áp dụng nguyên tắc định giá đất, việc áp dụng các phương pháp định giá

đất, thẩm định sự phù hợp của các thông tin thu thập được về thửa đất khảo sát; của

phương án giá đất đề xuất so với giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ

liệu đất đai (Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).

b) Bồi thường về tài sản gắn liền với đất:

- Nguyên tắc bồi thường tài sản: khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài

sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường; tổ chức, hộ

gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt

hại (Quốc hội, 2013).

78

- Về bồi thường thiệt hại tài sản: Nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất phải tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm

tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó

được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ

thuật tương đương.

Trường hợp phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật

theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế. Đối với nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị tháo dỡ toàn bộ

hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của

pháp luật thì được bồi thường thiệt hại với mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng

giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm

theo giá trị hiện có của nhà, công trình (Quốc hội, 2013).

Mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị

thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình

đó. Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định bằng (=) tỷ lệ phần trăm

chất lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân (x) với giá trị xây dựng mới của nhà,

công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên ngành ban hành.

Khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình do Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường không quá 100% giá trị xây dựng

mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương với nhà, công trình bị thiệt

hại (Chính phủ, 2014b).

c) Bồi thường chi phí di chuyển:

Khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì người có đất bị thu hồi được bồi thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt; trường hợp phải di chuyển hệ thống máy

móc, dây chuyền sản xuất còn được bồi thường đối với thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt. Luật Đất đai năm 2013 giao cho UBND cấp tỉnh quy định mức bồi thường chi phí di chuyển cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương (Quốc hội, 2013).

d) Các khoản hỗ trợ:

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua các khoản hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ TĐC đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ

trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối

với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khác. Các khoản hỗ trợ này được hiểu

là phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã bồi thường sòng phẳng để ổn định đời sống,

79

sản xuất và phát triển, là khoản điều tiết từ phần giá trị gia tăng từ đất đai mà không phải là do đầu tư của người sử dụng đất mang lại (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014b).

- Nguyên tắc hỗ trợ: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc

được bồi thường theo quy định còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ, gồm các khoản: hỗ

trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc; hỗ

trợ TĐC và hỗ trợ khác (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014b).

- Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất: Khi Nhà nước thu hồi từ 30% đến 70%

diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì

được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất trong thời gian 6 tháng (không phải di

chuyển chỗ ở) và trong thời gian 12 tháng (phải di chuyển chỗ ở); trường hợp phải di

chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh

tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.

Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong

thời gian 12 tháng (không phải di chuyển chỗ ở) và trong thời gian 24 tháng (phải di

chuyển chỗ ở); trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa

là 36 tháng. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg

gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.

UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quyết định mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, định kỳ chi trả

tiền hỗ trợ cho phù hợp với thực tế tại địa phương (Chính phủ, 2014b).

Diện tích đất nông nghiệp thu hồi để tính hỗ trợ ổn định đời sống được xác định

theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, không cộng

dồn diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi của các quyết định thu hồi đất trước đó (Bộ

Tài nguyên và Môi trường, 2014a).

- Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm: Đối với trường hợp Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi

Nhà nước thu hồi đất mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được

bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

Việc hỗ trợ bằng tiền không quá 5 lần giá đất nông nghiệp trong bảng giá đất đối với

toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi nhưng không vượt quá hạn mức giao đất

nông nghiệp tại địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định căn cứ

điều kiện thực tế của địa phương.

Đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà di

80

chuyển chỗ ở: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà

nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà

phải di chuyển chổ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất kinh

doanh; nhân khẩu trong độ tuổi lao động được hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo

nghề theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Chính phủ, 2014b).

- Hỗ trợ tái định cư: Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài nhận đất ở, nhà ở TĐC mà số tiền được bồi thường về đất nhỏ hơn giá trị một

suất TĐC tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch giữa giá trị suất TĐC tối thiểu và

số tiền được bồi thường về đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định

cư ở nước ngoài tự lo chỗ ở thì ngoài việc được bồi thường về đất còn được nhận

khoản tiền hỗ trợ TĐC. UBND cấp tỉnh căn cứ diện tích đất ở thu hồi, số nhân khẩu

của hộ gia đình và điều kiện cụ thể tại địa phương quy định mức hỗ trợ cho phù hợp

(Chính phủ, 2014b).

- Hỗ trợ khác: Ngoài các khoản hỗ trợ nêu trên, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết

định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và công

bằng đối với người có đất bị thu hồi; trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất

nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi

thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì UBND cấp tỉnh xem

xét hỗ trợ phù hợp với thực tế của địa phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng

Chính phủ quyết định (Chính phủ, 2014b).

3.1.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất

Kết quả đánh giá sự thoả mãn của người dân về mức BT, HT (MUCBT) khi

Nhà nước thu hồi đất từ CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 4 biến thang đo trong sự

thoả mãn của người dân như sau:

1) Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị

trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay

thế thửa đất thu hồi (MUCBT1), có trọng số là 0,78;

2) Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế

(MUCBT2), có trọng số là 0,76;

3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất

được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3), có trọng số là 0,71;

81

4) Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất

(MUCBT4), có trọng số là 0,94, đây cũng là biến thang đo đóng góp nhiều vào mức

thỏa mãn chung của mức BT, HT.

Theo Bảng 3.1, trong 4 biến thang đo để đánh giá, người dân đánh giá biến thang

đo 1 (mức giá đất tính bồi thường) ở mức thấp, chỉ 2,1 điểm (dưới mức trung bình), tỷ lệ

người dân rất đồng tình và đồng tình chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm 15,2%, điều này chứng tỏ rằng người dân chưa thoả mãn, đồng tình với mức giá bồi thường. Biến thang đo về

“Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế”

(MUCBT2) được đánh giá cao hơn không đáng kể, điểm trung bình là 2,2 và chỉ có

19,9% số người trả lời là rất đồng ý và đồng ý với nội dung này.

Chi tiết thống kê về sự thỏa mãn của người dân đối với mức BT, HT được thể

hiện qua bảng sau:

Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT

Cơ cấu %

Điểm

Rất

Không

Bình

Rất

không

Đồng ý

Mức BT, HT

TB

đồng ý

thường

đồng ý

đồng ý

Mức giá đất tính bồi thường phù

hợp với mức giá đất chuyển

nhượng trên thị trường, giá trị bồi

thường có thể nhận chuyển nhượng

một mảnh đất tương tự để thay thế

thửa đất thu hồi (MUCBT1)

Mức giá trị tài sản gắn liền với đất

được xác định đầy đủ, phù hợp với

18,9 39,4 26,5 13,0 2,2 2,1

thực tế (MUCBT2)

Chi phí đầu tư vào đất đối với

trường hợp không được bồi thường

5,7 40,7 33,7 16,3 3,6 2,2

về đất được xác định đầy đủ, phù

hợp với thực tế (MUCBT3)

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu

hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản

7,4 36,7 34,3 19,5 2,2 2,6

xuất (MUCBT4)

9,4 35,5 32,6 18,5 3,9 2,7

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

82

Như vậy, có thể thấy mức độ thỏa mãn thông qua cảm nhận của người dân về

mức BT, HT nhận được so với mong đợi ở mức thấp.

Để tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân của sự không thoả mãn, luận án phỏng vấn

sâu đại diện một số chủ hộ có đất bị thu hồi, kết quả cho thấy người dân đánh giá mức

giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp hơn nhiều so với giá đất

chuyển nhượng thực tế trên thị trường và người dân cảm thấy không công bằng trong

thực hiện BT, HT nên dẫn đến người dân không đồng tình.

“Luật Đất đai quy định bồi thường theo giá thị trường. Hiện nay giá đất trên

thị trường như ở khu nhà tôi là 140-150 triệu đồng/m2 nhưng lại chỉ được bồi thường

70 triệu đồng/m2, thấp hơn nhiều so với giá thị trường thì làm sao tôi có thể mua được

mảnh đất tương tự? Chúng tôi không thoả mãn với mức bồi thường này, trong khi có

mấy hộ tự nhiên hưởng lợi lớn, nhà đang trong ngõ lại được ra mặt đường”. Người

dân ở thành phố Hà Nội.

“Gia đình tôi bị thu hồi trên 90% diện tích đất nông nghiệp để làm khu đô thị. Đất

nông nghiệp gia đình tôi trồng hoa, cây cảnh, cho thu nhập 30 đến 50 triệu đồng/sào.

Nhưng khi Nhà nước lấy đất lại chỉ bồi thường cây trồng với giá rẻ không bằng một nửa.

Giá đền bù đất nông nghiệp quá thấp, nên gia đình tôi không đồng ý…”. Người dân ở

thành phố Đà Nẵng.

“Tôi chỉ được bồi thường với mức giá 1,3 triệu đồng/m2 mà nhà đầu tư thực

hiện dự án bán ra với giá 80 -100 triệu đồng/m2 thì quá lời, không biết Nhà nước có

thu thêm được gì không. Nếu Nhà nước thu hồi đất làm hạ tầng, công trình công cộng

để phục vụ lợi ích chung thì tôi đồng tình ủng hộ, nhưng thu hồi đất để giao cho doanh

nghiệp làm dự án đô thị như thế này thì tôi không đồng tình, nhà đầu tư phải thoả

thuận bồi thường mới hợp lý…”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, có một số ít người dân có đất bị thu hồi hài lòng với mức BT, HT

khi Nhà nước thu hồi đất do những hộ này được hưởng lợi từ việc thu hồi đất, kết quả

đầu tư hạ tầng hoặc số tiền bồi thường giúp người dân phát triển sản xuất kinh doanh,

ổn định cuộc sống.

83

“Tôi rất đồng tình với việc thu hồi đất, bồi thường của Nhà nước, con đường

này mở rộng sẽ đẹp và khang trang, thuận lợi cho giao thông của thành phố, gia đình

tôi sẽ dùng tiền được BT, HT để sửa nhà để vừa ở, vừa kết hợp kinh doanh”. Người

dân ở thành phố Đà Nẵng.

“Là người dân nên tôi chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước khi tiến hành thu hồi đất để đầu tư dự án làm đường giao

thông. Giá cả mà Nhà nước BT, HT cho tôi khi thu hồi đất nông nghiệp là hợp lý, tôi

có vốn để làm ăn, mở rộng kinh doanh nên bản thân tôi rất hài lòng…”. Người dân ở

thành phố Hà Nội.

“…Ban đầu chúng tôi không đồng tình với mức giá đất tính bồi thường mà

chính quyền đưa ra, chúng tôi thắc mắc, khiếu nại nhưng sau khi được các tổ chức

đoàn thể, tổ dân phố, UBND phường tuyên truyền, vận động, thuyết phục chia sẻ với

thành phố với ngân sách hạn chế, việc mở rộng đường giao thông vì lợi chung cho

cộng đồng cũng như gia đình tôi nên tôi đã chấp hành bàn giao mặt bằng”. Người dân

ở thành phố Hồ Chí Minh.

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy việc người dân thỏa mãn về mức BT, HT

khi Nhà nước thu hồi đất còn ở mức thấp do nguyên nhân chính là giá đất tính bồi

thường thấp hơn nhiều so với giá đất thị trường, người dân không đồng thuận với giá

đất tính BT, HT. Giá đất tính bồi thường chênh lệch lớn với giá đất thị trường ảnh

hưởng đến sự thoả mãn của người dân trong nghiên cứu này cũng tương đồng với kết

quả nghiên cứu của nhiều tác giả trước đây như Kakulu (2008), Olapado và Ige

(2012), Song QU và cộng sự (2015). Việc thu hồi đất phục vụ lợi ích chung như đầu tư

hạ tầng được người dân ủng hộ hơn so với thực hiện dự án phát triển kinh tế; sự không

công bằng trong lợi ích nhận được từ việc Nhà nước thu hồi đất cũng là nguyên nhân

làm cho người dân không thỏa mãn như Lý thuyết công bằng đã chỉ ra.

Ngược lại, với cùng một mức BT, HT nhưng có một số chủ hộ rất thoả mãn do

họ bị thu hồi một phần thửa đất, phần diện tích còn lại đủ điều kiện để tiếp tục sử

dụng, họ được hưởng lợi trực tiếp từ việc thu hồi đất, đầu tư hạ tầng của Nhà nước

hoặc hộ có khả năng sử dụng tiền bồi thường nhưng một nguồn vốn quan trọng để phát

triển kinh tế gia đình. Bên cạnh đó, có một số hộ ban đầu không đồng thuận, họ khiếu

nại nhưng không được giải quyết, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan có chức năng vận

động, thuyết phục, họ đã đồng thuận với việc thu hồi đất. Điều này có thể lý giải dựa

84

vào Lý thuyết về sự thỏa mãn, người có đất bị thu hồi đã điều chỉnh kỳ vọng, mong

đợi về mức giá bồi thường có thể nhận được so với thực tế và dẫn đến sự thỏa mãn,

đồng thuận.

Xét trên bình diện cả nước, theo chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công

cấp tỉnh - PAPI (2019), khảo sát người dân về thu hồi đất, bồi thường cho thấy tỷ lệ

người dân được bồi thường với giá gần với giá thị trường mặc dù được cải thiện trong

giai đoạn 2011-2019 nhưng còn rất thấp, năm 2011 tỷ lệ này là 12,86% tăng lên

31,89% vào năm 2019 (Hình 3.1).

Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ số liệu PAPI hàng năm

giá xấp xỉ giá thị trường (%)

Tổng hợp ý kiến thảo luận của các chuyên gia công tác tại Tổng cục Quản lý

đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Sở Tài

nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh cho

rằng quy định của pháp luật về thu hồi đất, BT, HT, TĐC đã từng bước được hoàn

thiện, quy định ngày càng rõ ràng, cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, đơn giá thực hiện

bồi thường về đất, bồi thường về công trình, tài sản khác gắn liền với đất và các khoản

hỗ trợ cho người bị thu hồi đất nhằm ổn định đời sống, sản xuất và phát triển; việc xây

dựng các khu TĐC cũng được quan tâm tổ chức thực hiện.

85

Tuy nhiên, bồi thường, GPMB luôn là công việc khó khăn và thường nảy sinh

những vấn đề xã hội phức tạp vì liên quan đến quyền lợi của người có đất bị thu hồi và

nhiều bên liên quan. Các dự án thu hồi đất, GPMB từ trước đến nay bị vướng mắc,

không thể triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ phần lớn do sự không đồng thuận về

giá đất tính bồi thường, giá đất TĐC giữa người dân có đất bị thu hồi và cơ quan, tổ

chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB. Cơ chế xác định giá đất cụ thể để tính bồi

thường theo giá thị trường, thẩm định giá đất trước khi quyết định là một bước tiến bộ

lớn nhằm bảo đảm chất lượng của công tác định giá đất nhưng áp dụng vào thực tế

chưa thực sự đảm bảo nguyên tắc giá đất phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường.

Nguyên nhân là do thị trường quyền sử dụng đất của nước ta kém minh bạch, giá

chuyển nhượng thực tế cao, còn ghi trong hợp đồng chuyển nhượng lại ở mức thấp để

giảm thuế thu nhập cá nhân (thường bằng hoặc thấp hơn bảng giá đất) nên sử dụng

thông tin này là đầu vào khi áp dụng phương pháp định giá đất, đặc biệt là phương

pháp so sánh trực tiếp để định giá đất cho kết quả không chính xác, thường thấp hơn

nhiều so với giá thị trường. Mặt khác, có những khu vực, loại đất không có chuyển

nhượng thực tế trên thị trường nên rất khó khăn trong việc xác định đúng giá trị quyền

sử dụng đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Đồng thời, cơ chế thẩm định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

với thành phần Hội đồng thẩm định do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập chủ yếu

thành phần là các cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước (đại diện các Sở, ban, ngành

của tỉnh) nên chưa đảm bảo được quyền lợi của người dân. Đối với dự án đầu tư khu

đô thị hay các dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách nhà nước thì nên thực hiện theo cơ

chế nhà đầu tư thoả thuận với người sử dụng đất (chuyển dịch đất đai tự nguyện theo

các hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê và góp vốn bằng quyền sử

dụng đất), Nhà nước chỉ đóng vai trò là người trung gian để hai bên thuận lợi trong

việc thực hiện thoả thuận dân sự. Trường hợp người sử dụng đất không đồng ý với

mức giá bồi thường có thể yêu cầu cơ quan định giá đất độc lập để xác định giá đất

làm căn cứ thoả thuận bồi thường. Quan điểm này tương đồng với khuyến nghị của

Ngân hàng Thế giới về cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện

tại Việt Nam (World Bank, 2011).

Mặt khác, hiện nay việc điều tiết giá trị tăng thêm từ đất không do người sử

dụng đất đầu tư (do Nhà nước đầu tư) đã quy định trong Luật Đất đai năm 2003, 2013,

86

nhưng chưa có quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật việc điều

tiết trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, đầu tư kết cấu hạ tầng và chưa thực

hiện được trong thực tế. Do đó, pháp luật cần phải sớm có quy định cụ thể để bảo đảm

công bằng giữa người bị thu hồi toàn bộ thửa đất, người bị thu hồi một phần thửa đất

và người không bị thu hồi đất mà được hưởng lợi trực tiếp từ việc thu hồi đất, đầu tư

hạ tầng của Nhà nước nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm tính

công bằng giữa những người sử dụng đất. Việc có sự chênh lệch lớn giữa giá đất nông

nghiệp tính bồi thường khi thu hồi đất và giá đất ở sau khi chuyển mục đích sử dụng

đất để giao cho nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển đô thị, khu dân cư cũng làm

người dân không thoả mãn, do người dân cho rằng chủ đầu tư được hưởng lợi quá lớn,

trong khi Nhà nước cũng bị thất thu ngân sách và chính họ - người bị thu hồi đất thì bị

thiệt thòi.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mức thoả mãn của người có đất bị thu hồi

theo mức BT, HT có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng

miền, cụ thể:

Theo trình độ CMKT:

Kết quả Bảng 3.2 đánh giá mức độ thỏa mãn về mức BT, HT theo trình độ

CMKT cho thấy: người dân có trình độ từ cao đẳng trở lên đánh giá thấp nhất (2,24

điểm), sau đó đến những người không có bằng cấp chứng chỉ (2,3 điểm), còn lại người

có chứng chỉ đến trung cấp đánh giá ở mức BT, HT của Nhà nước với mức điểm 2,36

điểm. So sánh mức độ thỏa mãn của người dân chia theo trình độ CMKT có thể nhận

thấy rằng những người bị thu hồi đất có chứng chỉ đến trung cấp dễ thỏa mãn hơn với

những chính sách bồi thường của Nhà nước, trong đó họ đánh giá cao mức bồi thường

giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (mức điểm

2,26), còn những người có trình độ từ cao đẳng trở lên, là những người được đánh giá

có trình độ cao trong xã hội lại khó chấp nhận mức BT, HT chưa thỏa đáng khi Nhà

nước thu hồi đất.

Tuy nhiên, những người có trình độ đến trung cấp lại không đồng tình về mức

giá đất tính bồi thường khi so với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị

bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu

hồi (đánh giá với mức điểm 2,20). Qua đây có thể thấy rằng, người có trình độ đến

87

trung cấp họ không chỉ quan tâm tới giá trị của mảnh đất bị thu hồi mà họ còn quan

tâm tới tính phù hợp với thực tế về mức giá trị tài sản gắn liền với đất. Ngoài ra, cùng

với nhóm những người không có bằng cấp chứng chỉ, họ cũng rất quan tâm tới việc

phát triển sinh kế, đảm bảo cho họ có một cuộc sống ổn định lâu dài. Bởi thực tế, đây

là những người có trình độ CMKT thấp, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp còn hạn

chế, nếu Nhà nước không quan tâm tới việc tạo công ăn việc làm cho họ sau khi thu

hồi đất họ sẽ trở thành những người nông dân mất đất - mất tư liệu sản xuất đặc biệt,

cuộc sống sẽ rơi vào khó khăn do không có thu nhập ổn định hoặc thu nhập hạn chế,

bấp bênh.

Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT

Đơn vị: điểm

Không có

Có chứng

Từ cao

Mức BT, HT

bằng cấp

chỉ đến

đẳng trở

chứng chỉ

trung cấp

lên

Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức

giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị

bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một

2,07

2,20

2,04

mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi

(MUCBT1)

Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác

2,20

2,26

2,14

định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT2)

Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp

không được bồi thường về đất được xác định

2,56

2,59

2,49

đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3)

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo

2,72

2,75

2,63

đảm ổn định đời sống, sản xuất (MUCBT4)

Trung bình

2,30

2,36

2,24

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

88

Như vậy, từ kết quả nghiên cứu có thể thấy không có sự khác biệt lớn về sự

thoả mãn đối với mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất giữa người dân không có bằng

cấp chứng chỉ và người dân có chứng chỉ đến trung cấp.

Theo nghề nghiệp;

Kết quả Bảng 3.3 cho thấy những người hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm,

ngư nghiệp có mức thỏa mãn thấp với mức BT, HT của Nhà nước, với 2,28 điểm,

trong khi đó những người lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phi

nông nghiệp và hoạt động từ công việc hưởng lương, là những người có thu nhập ổn

định, đánh giá hoạt động này cao hơn (điểm tương ứng là 2,30 và 2,32 điểm).

Đánh giá về mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển

nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất

tương tự để thay thế thửa đất thu hồi, thì người dân ở các nhóm đều đánh giá ở mức

thấp (xem Bảng 3.3), thấp nhất ở nhóm người dân làm công hưởng lương, tiếp đến là

nhóm làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Đánh giá về mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp

với thực tế khi Nhà nước thu hồi đất thì những người hoạt động từ nông, lâm, ngư

nghiệp có sự thỏa mãn là 2,26 điểm, cao hơn so với nhóm người dân có nghề nghiệp

chính từ hoạt động làm công hưởng lương (2,13 điểm) và hoạt động tự sản xuất, kinh

doanh phi nông nghiệp (2,20 điểm).

Những người có thu nhập từ những hoạt động công việc hưởng lương và từ

hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thường đánh giá cao mức BT, HT của

Nhà nước ở tất cả các khía cạnh. Điều này được lý giải do cuộc sống của những người

có thu nhập từ hoạt động hưởng lương sẽ ít bị xáo trộn hơn những đối tượng còn lại khi

Nhà nước thu hồi đất, dù bị thu hồi đất, mất tư liệu sản xuất thì họ vẫn có thu nhập ổn

định hàng tháng. Trong khi đó, những người hoạt động từ nông, lâm, ngư nghiệp nếu

Nhà nước thu hồi đất là lấy đi nguồn sống của chính họ. Vì thế, khi bị Nhà nước thu hồi

đất, họ là người bị ảnh hưởng đầu tiên nên mức độ thỏa mãn về mức BT, HT thường

thấp. Do đó, khi thực hiện việc thu hồi đất để thực hiện các dự án, Nhà nước cần có

chính sách BT, HT không chỉ bằng tiền mặt mà cần quan tâm hơn nữa tới việc ổn định

89

đời sống, tạo việc làm của người dân sau khi bị mất đất, nhất là đối tượng làm việc trong

lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Bảng 3.3. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo nghề nghiệp

Đơn vị: điểm

Mức BT, HT

Từ nông, lâm, ngư nghiệp

Từ hoạt động công việc hưởng lương

Từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

2,13

2,19

1,97

thực

2,26

2,20

2,13

Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1) Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với tế (MUCBT2)

2,55

2,56

2,54

Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3)

2,79

2,73

2,58

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất (MUCBT4)

Trung bình

2,28

2,30

2,32

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Như vậy, sự thỏa mãn về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi có sự khác biệt theo nghề nghiệp của người dân. Người dân có nghề nghiệp từ nông lâm, ngư nghiệp thì có mức độ thỏa mãn thấp hơn so với người dân làm công việc hưởng lương hoặc tự hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.

Theo vùng miền:

Bảng 3.4 dưới đây cho thấy sự thỏa mãn về BT, HT đối với người dân ở miền Bắc đánh giá cao nhất trong cả nước là 2,32 điểm, sau đó là đến người dân miền Nam, miền Trung là nơi mà người dân có mức hài lòng về mức BT, HT thấp hơn. Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức BT, HT này giữa các vùng miền trong cả nước không có sự chênh lệch lớn.

90

Người dân ở cả 3 miền đều có sự thỏa mãn cao nhất về mức hỗ trợ cho người

có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất.

Kết quả cũng cho thấy không có sự khác biệt nhiều của người dân ở 3 miền khi đánh giá về mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi, người dân đều đánh giá ở mức thấp, chỉ khoảng 2,1 điểm.

Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền

Đơn vị: điểm

Miền

Miền

Mức BT, HT

Miền Bắc

Trung

Nam

Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá

đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi

2,11

2,09

2,10

thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1)

2,20

2,15

2,25

Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT2)

Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không

được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù

2,58

2,55

2,52

hợp với thực tế (MUCBT3)

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn

2,73

2,70

2,67

định đời sống, sản xuất (MUCBT4)

Trung bình

2,32

2,28

2,30

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Như vậy, có thể thấy sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT không có sự

khác biệt nhiều giữa 3 miền, tuy nhiên người dân ở miền Trung có mức thỏa mãn thấp

hơn so với các miền khác.

Từ các kết quả phân tích sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà

nước thu hồi cho thấy mức giá bồi thường hiện nay đang thấp hơn rất nhiều so với giá

thị trường nên việc nhận tiền bồi thường khó nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất

với diện tích đất tương tự như thửa đất thu hồi, đồng thời việc thay đổi chỗ ở và ngành

nghề đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống và thu nhập của người dân sau khi bị thu hồi

đất. Vì vậy, chính quyền địa phương cần phải thực hiện tốt chính sách thu hồi đất, phải

91

đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt hơn hoặc ngang bằng trước khi thu hồi. Giá

trị đất tính bồi thường phải đáp ứng được điều kiện mua lại đất hoặc khả năng tái sản

xuất cho người dân.

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thỏa mãn của người dân về

mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề

nghiệp và theo vùng miền.

3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất

3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất

- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi

thường thì được bồi thường; việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có

cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được

bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm

thu hồi đất (Quốc hội, 2013).

- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài

đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi

đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo

quy định của pháp luật về đất đai thì việc bồi thường về đất được thực hiện như sau:

+ Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi

không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân

không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi

thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở TĐC.

+ Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi

không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân

còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được

bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét

để bồi thường bằng đất ở.

+ Trường hợp trong hộ gia đình đủ điều kiện được bồi thường mà trong hộ có

nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ

điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú

hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở thu hồi thì

92

UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở TĐC và tình thực tế tại địa phương quyết

định mức đất ở, nhà ở TĐC cho từng hộ gia đình.

+ Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đủ điều kiện

được bồi thường mà không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở TĐC thì

được Nhà nước bồi thường bằng tiền.

+ Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn

liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được

bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi

có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có

thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng

đất khi Nhà nước giao đất do UBND cấp tỉnh quy định (Chính phủ, 2014b).

Như vậy, tùy theo từng trường hợp cụ thể, pháp luật về đất đai quy định có 3

phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: bồi thường bằng tiền, bồi thường

bằng đất, bồi thường bằng nhà.

3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 3 yếu tố trong sự thoả

mãn của người dân về phương thức bồi thường như sau:

1) Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất

thị trường (PTBT1), có trọng số là 0,81;

2) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương

đương với thửa đất thu hồi (PTBT2), có trọng số chỉ bằng một nửa so với các yếu tố

còn lại, là 0,48;

3) Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm

ổn định đời sống (PTBT3), có trọng số là 0,82.

Người dân đánh giá cao hơn ở phương thức được bồi thường bằng đất có cùng

mục đích sử dụng với các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi nhất với mức

đánh giá trung bình là 2,68 điểm, cao hơn so với 2 phương thức còn lại là bồi thường

bằng tiền và bồi thường bằng nhà. Có đến 57,6% số người không hài lòng về phương

thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị

trường; 64,4% người dân không hài lòng với phương thức bồi thường bằng nhà đối với

trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống (Bảng 3.5).

93

Bảng 3.5. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường

Cơ cấu %

Điểm TB

Phương thức bồi thường

Rất không

Đồng ý

Không đồng ý

Bình thường

Rất đồng ý

đồng ý

Mức bồi thường bằng tiền trên

21,1

36,5

29,3

12,2

0,9

2,35

cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường

(PTBT1)

Bồi thường bằng thửa đất có

cùng mục đích sử dụng và

12,8

33,3

31,7

18,0

4,3

2,68

các điều kiện tương đương thu hồi với

thửa đất

(PTBT2)

Bồi thường bằng nhà đối

25,9

38,5

25,0

9,8

0,7

2,21

với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn

định đời sống (PTBT3)

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy phần lớn người dân có đất bị thu hồi

không muốn được bồi thường bằng tiền vì giá bồi thường thấp hơn nhiều so với thị

trường, người dân có nguyện vọng được bồi thường bằng đất. Việc người dân có đất bị

thu hồi mong muốn nhận bồi thường theo phương thức nào không chỉ phụ thuộc vào

lợi ích kinh tế trước mắt mà quan trọng là sinh kế lâu dài của họ. Trường hợp người

dân nhận BT, HT theo phương thức bằng tiền thì nguồn vốn vật chất của họ được cải thiện đáng kể, nhưng nếu số tiền nhận được từ việc BT, HT không được sử dụng vào mục đích đầu tư sản xuất, kinh doanh và học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp thì có thể dẫn đến khó khăn trong tìm kiếm việc làm, thu nhập và ổn định cuộc sống lâu dài; một số hộ sử dụng tiền không hiệu quả, trở nên nghèo đói.

“Gia đình tôi bị thu hồi 300 m2 đất ở, nhưng chỉ được bồi thường 1 suất đất ở TĐC với diện tích 80 m2, diện tích còn lại được bồi thường bằng với giá quá thấp. Tôi có nhu cầu được bồi thường bằng toàn bộ đất ở có điều kiện tương đương…”. Người

dân ở thành phố Hồ Chí Minh.

94

“Tôi muốn được Nhà nước bồi thường bằng đất, chứ không muốn bồi thường bằng tiền mặt vì gia đình tôi đông con, cần cho con ở riêng sau này và có đất để sản

xuất. Bồi thường bằng nhà TĐC tôi cũng không đồng ý vì chất lượng nhà TĐC quá

kém…”. Người dân ở thành phố Hà Nội.

"…Giá đất tính tiền bồi thường quá thấp so với giá thực tế trên thị trường, bồi thường bằng tiền rất thiệt thòi cho chúng tôi, chúng tôi chỉ có nguyện vọng được bồi

thường bằng đất để tiếp tục có mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh; việc nhận tiền bồi thường không giúp chúng tôi trong tìm kiếm việc làm, có thu nhập ổn định". Người

dân ở thành phố Đà Nẵng.

Kết quả thảo luận với các chuyên gia cũng cho thấy người dân mong muốn

được bồi thường bằng đất là do mức giá bồi thường hiện nay còn thấp hơn so với giá

đất thị trường, chưa đảm bảo quyền lợi của người dân. Nếu giá điều chỉnh giá đất bồi

thường phù hợp với thị trường thì người dân sẽ sẵn sàng nhận bồi thường bằng tiền để

chủ động nhận chuyển nhượng thửa đất có điều kiện tương đương. Bên cạnh đó, việc

sử dụng phương thức bồi thường bằng đất trên thực tế sẽ rất khó khăn do quỹ đất hạn

chế, muốn có quỹ đất để bồi thường thì phải thu hồi một diện tích đất khác. Vì vậy, đối

với địa phương không có đất để bồi thường thì trong quá trình thực hiện phương thức

bồi thường bằng tiền, cần chú trọng các giải pháp đảm bảo sinh kế của hộ gia đình sau

thu hồi đất một cách thức chất và hiệu quả. Các quan điểm này hoàn toàn phù hợp với

một số nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chế độ an sinh xã hội, cung cấp mức sinh

kế dài hạn tối thiểu, mang lại sự thoả mãn cho người dân hơn là bồi thường bằng tiền

mặt (Hui và cộng sự, 2013; Yang, 2012; Kotilainen, 2012).

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thoả mãn của người dân theo phương thức bồi thường có sự khác biệt theo trình độ CMKT, nghề nghiệp và vùng miền.

- Theo trình độ CMKT:

Kết quả từ Bảng 3.6 đánh giá về mức thỏa mãn trong phương thức bồi thường

cho thấy người dân không có bằng cấp chứng chỉ đánh giá ở mức 2,46 điểm, trong khi

đó những người có trình độ cao đẳng trở lên đánh giá phương thức bồi thường là 2,40

điểm, còn người có chứng chỉ đến trung cấp thấp hơn nhóm người có trình độ cao

đẳng chỉ 0,02 điểm.

Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác

định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường luôn ở mức thấp nhất, trong đó người

dân có trình độ càng cao thì mức thỏa mãn càng thấp (không có bằng cấp chứng chỉ là

2,41 điểm; từ cao đẳng trở lên là 2,3 điểm).

95

Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử

dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi được đánh giá trên mức

trung bình, trong đó người dân không có bằng cấp chứng chỉ đánh giá ở mức cao

nhất (2,75 điểm) và người dân có chứng chỉ dưới trình độ trung cấp đánh giá ở mức

thấp nhất (2,59).

Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia

theo trình độ CMKT

Đơn vị: điểm

Không có

Có chứng

Từ cao

Phương thức bồi thường

bằng cấp

chỉ đến

đẳng trở

chứng chỉ

trung cấp

lên

Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định

giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường

2,41

2,35

2,3

(PTBT1)

Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích

sử dụng và các điều kiện tương đương với

2,75

2,59

2,69

thửa đất thu hồi (PTBT2)

Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu

hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống

2,23

2,21

2,19

(PTBT3)

Trung bình

2,46

2,38

2,4

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Như vậy, sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường có sự khác biệt theo trình độ CMKT của người dân. Những người không có bằng cấp chứng chỉ dễ dàng hài lòng với phương thức bồi thường của Nhà nước hơn.

- Theo nghề nghiệp:

Đối với sự thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường, không có sự khác biệt nhiều giữa người dân có nghề từ nông lâm, ngư nghiệp và người dân có nghề từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (điểm trung bình tương ứng là 2,33 và 2,32), tuy nhiên những người có nghề chính từ hoạt động hưởng lương có mức đánh giá cao hơn (2,41 điểm).

96

điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi thì người dân có nghề từ hoạt động sản xuất,

Đối với phương thức bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các

kinh doanh phi nông nghiệp đánh giá ở mức cao nhất (2,7 điểm), đây là nhóm dân cư

có nguồn thu nhập chính từ hoạt động tự làm phi nông nghiệp, khi bị thu hồi đất họ

mong muốn được bồi thường bằng mảnh đất tương đương để có thể tiếp tục sử dụng

cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia

theo nghề nghiệp

Đơn vị: điểm

Từ hoạt động

Từ hoạt

Từ nông,

Phương thức bồi thường

sản xuất, kinh

động công

lâm, ngư

doanh phi

việc hưởng

nghiệp

nông nghiệp

lương

Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định

giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường

2,33

2,32

2,41

(PTBT1)

Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích

sử dụng và các điều kiện tương đương với

2,65

2,7

2,68

thửa đất thu hồi (PTBT2)

Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu

hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống

2,18

2,24

2,21

(PTBT3)

Trung bình

2,38

2,42

2,43

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả nghiên cứu cho thấy về sự thỏa mãn của người dân đối với phương

thức bồi thường không có sự khác nhau quá nhiều giữa người dân có nghề nghiệp khác

nhau. Nhìn chung người có hoạt động từ công việc hưởng lương là những người đã có

công việc ổn định, không bị ảnh hưởng nhiều từ quá trình thu hồi đất của Nhà nước,

do vậy đối với các phương thức bồi thường họ luôn có đánh giá cao hơn so với 2 nhóm

còn lại.

97

- Theo vùng miền:

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn về phương thức bồi thường của người

dân ở miền Bắc cao hơn so với người dân ở miền Trung và miền nam (2,46 điểm),

người dân ở miền Trung ít thỏa mãn nhất (2,34 điểm).

Việc đánh giá phương thức bồi thường theo vùng miền phụ thuộc rất nhiều vào

phong tục tập quán, lối sống, cách tư duy của người dân thuộc vùng miền đó. Đối với

người dân miền Bắc, họ thích được bồi thường bằng một thửa đất tương đương cùng

mục đích sử dụng (2,79 điểm). Điều này có thể được lý giải là do người dân miền Bắc

trong tư duy từ xa xưa là “an cư mới lạc nghiệp” do đó họ luôn hướng tới mong muốn

có một môi trường ổn định, cơ sở hạ tầng tốt đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong cuộc

sống hàng ngày.

Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia

theo vùng miền

Đơn vị: điểm

Miền

Miền

Phương thức bồi thường

Miền Nam

Trung

Bắc

Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định

giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường

2,31

2,38

2,37

(PTBT1)

Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử

dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất

2,54

2,69

2,79

thu hồi (PTBT2)

Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu

hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống

2,18

2,22

2,22

(PTBT3)

Trung bình

2,34

2,43

2,46

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả trên cho thấy về sự thỏa mãn đối với phương thức bồi thường có sự

khác biệt theo vùng miền. Người dân ở miền Trung có mức thỏa mãn thấp nhất và

người ở miền Bắc có mức thỏa mãn cao nhất.

98

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, việc thực hiện bồi thường cần được tiến

hành theo nhiều phương thức khác nhau như bằng tiền, bằng đất và bằng nhà, nếu chỉ

thực hiện bồi thường bằng tiền sẽ được coi là phiến diện và không tạo sinh kế lâu dài

cho người dân bị mất đất. Người dân thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng đất

hơn là so với các phương thức khác do giá đất bồi thường hiện tại thấp hơn nhiều so

với giá đất thị trường. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất có sự khác biệt theo trình độ CMKT, vùng miền và theo nghề nghiệp.

3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất

3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất

- Về nguyên tắc thực hiện: Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm

dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật

(Quốc hội, 2013).

- Lập, thẩm định và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:

+ Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm lập phương án BT,

HT, TĐC và phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ chức lấy ý kiến về

phương án BT, HT, TĐC theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu

vực có đất bị thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC tại trụ sở

UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất bị thu hồi.

Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện

UBND cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những

người có đất bị thu hồi.

Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng

góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số

lượng ý kiến khác đối với phương án BT, HT, TĐC; phối hợp với UBND cấp xã nơi có

đất bị thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về

phương án BT, HT, TĐC; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền.

+ Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án BT, HT, TĐC trước khi trình

UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.

+ Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm phối hợp với

99

UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án BT,

HT, TĐC tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có

đất bị thu hồi; gửi quyết định BT, HT, TĐC đến từng người có đất bị thu hồi, trong đó

ghi rõ về mức BT, HT, bố trí nhà hoặc đất TĐC (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả

tiền BT, HT; thời gian bố trí nhà hoặc đất TĐC (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã

thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB.

+ Tổ chức thực hiện việc BT, HT, bố trí TĐC theo phương án BT, HT, TĐC đã

được phê duyệt. Trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức

làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam cấp xã nơi có đất bị thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB tổ chức

vận động, thuyết phục để người có đất bị thu hồi thực hiện.

Trường hợp người có đất bị thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng

không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB thì

Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực

hiện việc cưỡng chế thu hồi đất (Quốc hội, 2013).

- Về chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải

chi trả tiền BT, HT cho người có đất bị thu hồi.

Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì ngoài

tiền BT, HT theo phương án BT, HT, TĐC được cấp có thẩm quyền phê duyệt, người

có đất bị thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp

theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.

Trường hợp người có đất bị thu hồi không nhận tiền BT, HT theo phương án BT, HT,

TĐC được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tiền BT, HT được gửi vào tài khoản tạm

giữ của Kho bạc nhà nước (Quốc hội, 2013).

- Về cơ quan tổ chức thực hiện:

+ Tổng cục Quản lý đất đai là cơ quan thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ

trưởng Bộ quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về đất đai trong phạm vi cả

nước, trong đó có nhiệm vụ về thu hồi đất, BT, HT, TĐC. Tổng cục Quản lý đất đai đã

thành lập các đơn vị (Cục Quy hoạch đất đai, Cục Kinh tế và Phát triển quỹ đất) chịu trách

nhiệm về tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện thu hồi đất, BT, HT, TĐC.

100

+ Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường có chức năng

tham mưu về công tác thu hồi đất, BT, HT, TĐC tại địa phương.

+ Tổ chức dịch vụ công về đất đai hoặc Hội đồng BT, HT và TĐC làm nhiệm

vụ bồi thường, GPMB. Trong đó, Tổ chức dịch vụ công về đất đai là đơn vị sự

nghiệp công được thành lập theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại,

giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Hội đồng BT, HT và TĐC được thành lập theo

từng dự án với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau (Quốc hội, 2013; Chính phủ,

2014a, 2014b).

3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 6 yếu tố trong sự thoả

mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

1) Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy

đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1), có trọng số là 0,43;

2) Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương

án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý

về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2), có trọng số là 0,48;

3) Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm

công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật, có trọng số là 0,53;

4) Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời

khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC, có trọng

số là 0,48;

5) Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có

tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất), có trọng số là 0,57;

6) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ

biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện, có

trọng số là 0,41.

Đánh giá sự thoả mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT theo 6 yếu tố

được thể hiện ở Bảng 3.9 như dưới đây.

101

Cơ cấu %

Bảng 3.9. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT

Tổ chức thực hiện BT, HT

Điểm

Không đồng ý

Bình thường

Đồng ý

Rất đồng ý

TB

Rất không đồng ý

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai

phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy

14,8

34,5

31,3

17,4

2,0

2,56

đầy đủ ý kiến của người dân về phương

án BT, HT, TĐC (TCTH1)

Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy

đủ ý kiến của người dân về phương án

BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối

14,6

35,0

31,3

15,9

3,2

2,25

với trường hợp còn có ý kiến không đồng

ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2)

Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC

đã được phê duyệt luôn bảo đảm công

14,8

33,0

31,3

16,9

2,0

2,94

khai, minh bạch, đúng quy định của pháp

luật (TCTH3)

Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành

thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu

3,9

20,4

38,3

28,1

9,3

3,19

nại của người dân trong quá trình thực

hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4)

Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình

độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần

9,6

29,4

35,0

19,8

6,1

2,83

phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5)

Chính quyền địa phương, các tổ chức CT

- XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về

23,1

40,0

26,7

9,6

0,6

2,24

lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ,

vận động người dân thực hiện (TCTH6)

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

- Về việc cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ

chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1): mức

102

đánh giá chung là 2,56 điểm, tương đương với mức điểm trung bình; có 49,3% trong

tổng số người được hỏi không đồng ý và rất không đồng ý về cách thức cơ quan nhà

nước thực hiện nội dung này.

- Về việc cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về

phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không

đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2): mức đánh giá chung là 2,25 điểm; với

49,6% số người không đồng ý và rất không đồng ý về vấn đề này.

- Về việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm

công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3): có điểm trung bình là

2,94 điểm; với 47,8% số người không đồng ý và rất không đồng ý đối với nội dung này.

- Về việc cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp

thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC

(TCTH4): có mức đánh giá chung là 3,19 điểm; chỉ có 24,2% số người không đồng ý

và rất không đồng ý.

- Về việc cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và

có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất (TCTH5): có điểm trung bình là 2,83 điểm; có 39,07% số người không đồng ý và

rất không đồng ý về vấn đề này.

- Về việc chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền,

phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện

(TCTH6): có điểm trung bình là 2,24 điểm; với 63,1% số người không đồng ý và rất

không đồng ý.

Như vậy, có thể thấy trong 6 yếu tố về sự thoả mãn trong tổ chức thực hiện bồi

thường, có 4 yếu tố được đánh giá tích cực, điểm trung bình từ 2.56 đến 3,19, cao hơn

mức trung bình nhưng vẫn ở mức thấp; còn 2 yếu tố được đánh giá chưa tích cực

(TCTH 2 và TCTH6).

Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy sự tham gia của người dân trong quá

trình thực hiện còn mang tính hình thức, chưa thực chất; vẫn còn sự không minh

bạch trong xử lý vấn đề giữa các hộ; năng lực của cán bộ làm công tác bồi thường,

giải phóng mặt bằng vẫn còn hạn chế dẫn đến sự thỏa mãn của người dân còn ở

mức thấp.

103

“Đất của nhà tôi bị thu hồi để thực hiện dự án đô thị nhưng tôi không biết cụ thể về các phương án BT, HT của Nhà nước, việc tham gia ý kiến của tôi về mức bồi

thường cũng không thấy được tiếp thu. Cơ quan nhà nước vẫn thu hồi đất để thực hiện

dự án mà không có sự tham gia của chúng tôi, vì thế nhiều người dân ở đây cảm thấy

bức xúc…”. Người dân ở thành phố Hà Nội.

Trong quá trình thực hiện tổ chức BT, HT, cán bộ thực hiện còn để xảy ra nhiều

sai sót như xác định không đúng diện tích, kiểm đếm không đầy đủ tài sản gắn liền với đất và giải thích chưa đầy đủ cho người dân. Một số hạng mục vật kiến trúc và cây

cối hoa màu không được xác định đầy đủ.

“…Dự án thu hồi trên đất của chúng tôi có nhiều sai sót. Cán bộ kiểm đếm

không xác định đúng diện tích thu hồi, không kiểm kê đầy đủ hạng mục kiến trúc, cây

trồng nhưng không có giái thích thoả đáng cho chúng tôi biết, vì vậy chúng tôi đã phải

khiếu kiện nhiều lần để giải quyết vấn đề này”. Người dân ở thành phố Đà Nẵng.

Thực tế người dân tiếp cận thông tin không đầy đủ, thiếu tính công khai, minh

bạch và công tác giải quyết khiếu nại chưa triệt để dẫn đến không đồng thuận trong

dân cư khi Nhà nước thực hiện BT, HT.

“Thực ra mức giá BT, HT có thể chấp nhận được, nhưng việc tổ chức thực hiện

thu hồi đất, bồi thường của thành phố là không minh bạch, rõ ràng, không công khai

và tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân chúng tôi về phương án BT, HT cũng như bố

trí TĐC; không kịp thời giải quyết thắc mắc, khiếu nại về nguồn gốc sử dụng đất của

gia đình tôi, nên tôi chưa đồng ý bàn giao mặt bằng cho thành phố...”. Người dân ở

thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả từ nghiên cứu định tính cho thấy việc tổ chức thực hiện BT, HT có vai

trò rất quan trọng trong việc đạt được sự đồng thuận của người dân.

“Trong các dự án thu hồi đất, người dân có thể chưa thực sự hài lòng về mức BT, HT nhưng nếu công tác tổ chức thực hiện tốt như có sự tham gia ý kiến góp ý của người dân về phương án BT, HT, TĐC, kịp thời giải thích các vấn đề mà người dân đưa ra, thực hiện công khai, công bằng, minh bạch thì người dân cũng sẽ đạt được sự đồng thuận, ủng hộ”. Ý kiến của chuyên gia.

Theo các chuyên gia cho thấy việc công khai, minh bạch trong tổ chức thực

hiện BT, HT chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật.

“…nhiều trường hợp người dân phản ánh chưa biết hoặc không biết về các kế

hoạch thu hồi đất, mục đích thu hồi đất, dự thảo phương án BT, HT, TĐC. Điều này

104

dẫn đến người dân không có thông tin, không rõ về quyền lợi mà mình sẽ nhận được nên cảm thấy không hài lòng”. Ý kiến của chuyên gia.

Kết quả thống kê từ PAPI cũng cho thấy tỷ lệ người dân biết khi bị thu hồi đất,

gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới có xu hướng giảm dần

theo thời gian, tỷ lệ này từ mức 93,12% năm 2011 và giảm xuống còn 77,89% vào năm 2019.

Đơn vị: (%)

Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới

Nguồn. Tổng hợp tính toán từ chỉ số PAPI hàng năm

Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải

phóng mặt bằng còn hạn chế là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thoả

mãn của người dân.

“Nguyên tắc BT, HT phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ vì vậy

đặt ra yêu cầu cán bộ thực hiện phải có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và

tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này vẫn chưa

được thực hiện tốt, còn nhiều sai sót, tồn tại hạn chế trong tổ chức thực hiện BT, HT

cũng như giải quyết khiếu nại, kiến nghị của người dân, dẫn đến người dân bức xúc”.

Ý kiến của chuyên gia.

105

Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

hướng đến bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên,

kết quả nghiên cứu cho thấy người dân có sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện mới chỉ

đạt ở mức trên trung bình. Trong đó người dân đánh giá tốt hơn về việc cơ quan nhà

nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân

trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC mặc dù vẫn còn một số vấn đề gây

bức xúc với người dân; người dân đánh giá thấp các về việc cơ quan nhà nước khi tiếp

thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; và về việc tổ chức đối thoại đối

với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC; hoạt động

tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất chưa thực sự tốt.

Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện có thể có sự khác biệt theo trình độ CMKT

của người dân, khác biệt theo nghề nghiệp và khác biệt theo vùng miền.

- Xét về trình độ CMKT:

Những người có trình độ từ chứng chỉ nghề đến cao đẳng trở lên chưa cảm thấy

thực sự tin cậy với cách thức thực hiện trong quá trình BT, HT thu hồi đất của Nhà

nước (đánh giá là 2,6 điểm), trong khi đó những người không có trình độ CMKT lại dễ

dàng hài lòng và cảm thấy tin tưởng vào việc thực hiện các chính sách về đất đai của

Nhà nước khi đánh giá sự tin cậy ở mức điểm 2.8. Những người không có trình độ

chuyên môn bày tỏ quan điểm tin cậy cao với cách thức tổ chức thực hiện của Nhà

nước, ngược lại đối với những người có trình độ CMKT từ chứng chỉ nghề đến cao

đẳng trở lên - đây là những người có thể có nhiều kiến thức về luật pháp, chế độ, chính

sách thì lại chưa thực sự tin tưởng vào quá trình bồi thường, định giá đất cũng như các

phương án BT, HT, TĐC của Nhà nước đưa ra (điều này thể hiện ở hầu hết các mức

điểm đánh giá nhóm đối tượng này thường đánh giá không cao).

Hầu hết ở người đánh giá ở các cấp trình độ đều đánh giá thấp các vấn đề về

việc tiếp thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC của cơ quan nhà nước

và việc tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án

BT, HT, TĐC; việc tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ,

vận động người dân thực hiện của các chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH

tích cực.

106

Bảng 3.10. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo trình độ CMKT

Đơn vị: điểm

2,69

2,42

2,58

2,38

2,2

2,18

3,15

2,88

2,79

3,38

3,1

3,07

2,93

2,76

2,81

2,24

2,32

2,17

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1) Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2) Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3) Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4) Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6)

Tổ chức thực hiện BT, HT Từ cao đẳng trở lên Không có bằng cấp chứng chỉ Có chứng chỉ đến trung cấp

Trung bình

2,8

2,61

2,6

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân có trình độ càng cao thì mức độ thỏa

mãn về tổ chức thực hiện BT, HT càng giảm.

- Theo nghề nghiệp:

Kết quả từ Bảng 3.11 cho thấy sự thoả mãn của người dân có hoạt động từ hoạt động SXKD phi nông nghiệp được đánh giá ở mức điểm trung bình là 2.72 điểm, cao hơn so với nhóm người dân làm nghề từ nông, lâm, ngư nghiệp (2,64 điểm) và từ hoạt động công việc hưởng lương (2.65 điểm). Có thể thấy, đối với nhóm cư dân làm công việc từ nông, lâm, ngư nghiệp thường chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quá trình thu hồi đất, họ luôn mong muốn và kỳ vọng vào sự tiếp thu, đáp ứng của cơ quan chức năng đối với ý kiến của họ về phương án BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất; đối với nhóm cư dân làm công việc hưởng lương, họ thường là những người có nhận thức tốt hơn nên luôn đặt ra yêu cầu cao hơn về tính công khai, minh bạch trong tổ chức thực hiện cũng như tinh thần phục vụ của cán bộ làm công tác BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.

107

Nhóm cư dân có nghề từ nông lâm, ngư nghiệp và từ hoạt động công việc hưởng lương có sự thoả mãn thấp ở một số yếu tố: i) Cơ quan nhà nước chưa tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; việc tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC chưa tốt (điểm tương ứng là 2,19 và 2,21); ii) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH chưa tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (điểm tương ứng là 2,21 và 2,3).

Bảng 3.11. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo nghề nghiệp

Đơn vị: điểm

Tổ chức thực hiện BT, HT

Từ nông, lâm ngư nghiệp

Từ hoạt động công việc hưởng lương

Tự hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

2,54

2,57

2,58

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1)

2,19

2,36

2,21

Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2)

2,96

3,01

2,87

Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3)

3,12

3,23

3,2

Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4)

2,82

2,94

2,74

Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5)

2,21

2,22

2,3

Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6)

Trung bình

2,64

2,72

2,65

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Như vậy, có thể thấy sự thoả mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT

khi Nhà nước thu hồi ở nhóm nông lâm, ngư nghiệp và từ công việc hưởng lương thấp

hơn so với nhóm cư dân tự hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.

108

- Xét về vùng miền:

Kết quả Bảng 3.12 cho thấy sự thoả mãn về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đối với người dân miền Bắc được đánh giá cao hơn (2,71 điểm) so với người dân miền Trung (2,64 điểm) và miền Nam (2,66 điểm).

Điều này có thể do cách thức định giá đất cũng như công tác bồi thường ở miền Bắc được công khai, minh bạch, có sự giám sát chặt chẽ của người dân, người dân được tham gia trong quá trình lập phương án BT, HT, TĐC và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tôn trọng ý kiến, tiếp thu, giải trình ý kiến của họ một cách thực chất, từ đó sẽ làm cho họ thỏa mãn hơn khi mình bị thu hồi đất, tránh những xung đột, mâu thuẫn.

Không có sự khác biệt nhiều về thoả mãn của người dân trong tổ chức thực hiện tại miền Trung và miền Nam, người dân ở 2 miền này cũng đánh giá chưa cao việc tiếp thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC từ cơ quan Nhà nước (điểm trung bình lần lượt là 2,18 và 2,16). Bên cạnh đó là chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH chưa tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (điểm trung bình lần lượt là 2,20 và 2,33).

Bảng 3.12. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo vùng miền

Đơn vị: điểm

Tổ chức thực hiện BT, HT

Miền Bắc Miền Trung Miền Nam

2,58

2,59

2,51

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1)

2,4

2,18

2,16

Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2)

2,97

2,92

2,94

Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3)

3,23

3,09

3,23

Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4)

2,85

2,87

2,79

Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5)

2,2

2,2

2,33

Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6)

Trung bình

2,71

2,64

2,66

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

109

Có thể thấy sự thoả mãn của người dân về tổ chức BT, HT khi Nhà nước thu

hồi đất ở miền Bắc cao hơn so với miền Trung và miền Nam.

Như vậy, từ các phân tích trên về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu

hồi đất cho thấy chính quyền địa phương, cơ quan quản lý Nhà nước càng quan tâm,

sát sao trong việc giải quyết vướng mắc cho người dân thì càng làm tăng sự thoả mãn

của người dân. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi chính quyền càng gần dân, sẽ càng thấu

hiểu tâm tư nguyện vọng của dân hơn, từ đó có phương án giải quyết nhanh chóng và

kịp thời. Kết quả này cũng tìm thấy sự tương đồng trong nghiên cứu của Pham,

Westen và Zoomers (2013).

Quá trình thực hiện thu hồi đất, BT, HT luôn bao hàm tính chất phức tạp và

luôn tiềm ẩn những bức xúc khiến cho có nhiều cuộc khiếu kiện kéo dài. Việc người

dân đánh giá về công tác tổ chức thực hiện thu hồi bồi thường còn chưa tốt phần nào

phản ánh người dân cũng chưa thỏa mãn đối với hoạt động thu hồi đất, BT, HT cũng

như năng lực của tổ chức thực hiện nhiệm vụ này, nếu như Nhà nước không có chính

sách điều chỉnh kịp thời thì điều này sẽ có những ảnh hưởng lan tỏa đến các hoạt động

thu hồi đất, bồi thường cho các dự án khác.

3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi

Nhà nước thu hồi đất

Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 4 yếu tố trong sự thoả

mãn của người dân về thay đổi điều kiện sống như sau:

1) Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống

(TDCS1), yếu tố này có trọng số là 0,53;

2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng

hơn trước (TDCS2), có trọng số 0,80;

3) Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng

thuận lợi hơn trước (TDCS3), có trọng số 0,60; 4) Điều kiện về môi trường, dân trí

thuận lợi hơn trước (TDCS4), có trọng số 0,59.

110

Kết quả đánh giá sự thoả mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện

sống sau khi Nhà nước thu hồi đất được thể hiện ở bảng dưới đây.

Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân

Đơn vị: điểm

Cơ cấu %

Thay đổi cuộc sống Điểm TB

Không đồng ý Bình thường Đồng ý Rất không đồng ý Rất đồng ý

Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia

đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời 9,1 26,7 40,7 19,8 3,7 2,82

sống (TDCS1)

Tìm kiếm được việc làm mới,

phát triển sản xuất, thu nhập ổn

định và tăng hơn trước (TDCS2) 20,2 34,1 33,3 10,9 1,5 2,39

Điều kiện tiếp cận về giao thông,

công trình văn hóa, phúc lợi công

cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3) 8,3 23,3 36,1 25,4 6,9 2,99

Điều kiện về môi trường, dân trí

thuận lợi hơn trước (TDCS4) 9,4 28,0 37,0 20,9 4,6 2,83

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

- Về tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống

(TDCS1) có điểm trung bình là 2,82 điểm, cao hơn mức trung bình và chỉ có 35,74%

không đồng tình với quan điểm này.

- Về tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước (TDCS2): được đánh giá ở mức thấp, điểm trung bình là 2,39 và chỉ có 12,4% người dân đánh giá đồng tình về yếu tố này.

- Về điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3): người dân đánh giá cao nhất, đạt điểm trung bình là 2,99 điểm; chỉ có 31,7% người dân không đồng ý với nhận định này.

- Về điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước (TDCS4), người dân

được hỏi đánh giá ở mức điểm tương đối tốt, 2,83 điểm, tỷ lệ người dân không đồng

tình chỉ chiếm 37,4%.

111

Việc thu hồi đất của Nhà nước đã làm thay đổi cuộc sống của đại đa số người dân có đất bị thu hồi. Sau khi bị thu hồi đất người dân phải tổ chức, sắp xếp ổn định lại chỗ ở và phát triển sản xuất. Một số người dân đã có tiền BT, HT, được đào tạo chuyển đổi nghề do vậy đã tìm kiếm hoặc duy trì được việc làm có mức thu nhập tốt hơn trước. Tuy nhiên, nhiều trường hợp sau khi nhận tiền BT, HT người dân không biết phải chuyển đổi nghề gì, chuyển đổi như thế nào, dẫn đến không có việc làm hoặc công việc không ổn định, kinh tế giảm sút so với trước khi bị thu hồi đất.

“Sau khi Nhà nước thu hồi đất, con trai tôi được chính quyền hỗ trợ đào tào nghề, bên cạnh đó với số tiền được BT, HT tôi đã mở cơ sở sửa chữa xe máy để cháu có việc làm, nhờ vậy gia đình tôi có cuộc sống ổn định hơn trước…”. Người dân ở thành phố Đà Nẵng.

“Khi bắt đầu bị thu hồi đất, tôi chưa thực sự thoả mãn với mức BT, HT nhận

được được. Tuy nhiên, sau khi dự án hoàn thành thì dân cư chúng tôi ở đây cũng được

hưởng lợi về hạ tầng giao thông, đường đi lại bây giờ sạch sẽ, rộng rãi hơn trước rất

nhiều…”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc thực hiện dự án đã ảnh hưởng xấu đến

thu nhập, đời sống của họ.

“…Trước kia nhà tôi ở mặt đường và vừa ở, vừa kinh doanh buôn bán nhưng khi Nhà nước thu hồi để mở đường giao thông thì tôi được BT bằng một căn hộ TĐC, tôi và các thành viên trong gia đình không có mặt bằng để tiếp tục kinh doanh buôn bán, cuộc sống ngày một khó khăn”. Người dân ở thành phố Hà Nội.

Kết quả thảo luận với các chuyên gia cho thấy nhiều dự án thu hồi đất nông nghiệp có thực hiện chính sách đào tạo nghề để chuyển đổi việc làm cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, song chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu làm việc ở các nhà máy, xí nghiệp và doanh nghiệp; số người được đào tạo và phát huy được nghề đã đào tạo không nhiều. Bên cạnh đó, khi thu hồi đất phải giải quyết chỗ ở mới cho người dân từ bằng đến tốt hơn nơi ở cũ. Nhưng thực tế đại đa số các dự án không làm được điều này. Nhất là đối với những hộ mà đất bị thu hồi vừa là nhà vừa là nơi làm ăn sinh sống, như nhà ở mặt tiền đường, khu vực gần chợ, trường học, trung tâm thương mại.

Theo các chuyên gia, khi thu hồi đất điều quan trọng nhất là phải tạo nơi ở tốt

và ổn định cuộc sống và đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân.

“Không thể chỉ tập trung lo cho dự án đầu tư để rồi đẩy người dân ra khỏi cuộc sống ổn định. Khi thực hiện việc bồi thường, GPMB phải đưa ra nhiều phương án, rồi chọn ra phương án tối ưu nhất để đảm bảo đời sống lâu dài cho người dân bị thu hồi đất”. Ý kiến chuyên gia.

112

“Trong quá trình GPMB, bên cạnh sự đồng thuận của nhiều hộ bị giải tỏa, cũng còn những hộ không đồng tình do thay đổi không gian sống, phải thay đổi nghề nghiệp; bị mất vị trí có khả năng sinh lợi cao trong kinh doanh hoặc không có nơi ở mới do chưa đủ điều kiện để hưởng chính sách TĐC. Vì vậy, muốn GPMB được thuận lợi thì vấn đề cần quan tâm là tạo quỹ nhà TĐC, chính sách an sinh xã hội, dạy nghề cho người bị thu hồi đất để họ an tâm bàn giao đất”. Ý kiến chuyên gia.

Quá trình đô thị hóa dẫn đến việc Nhà nước thu hồi đất, BT, HT cho người dân, khi đó người dân quan tâm nhiều nhất sau khi bị thu hồi đất là đảm bảo sinh kế bền vững và lâu dài. Kết quả phân tích trên đã cho thấy sự thoả mãn của người dân về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất xảy ra ở cả 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trong đó, người dân có điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng tốt hơn trước, nhưng cũng có nhiều người dân đánh giá còn gặp nhiều khó khăn trong tìm việc và chuyển đổi việc làm mới hoặc không có điều kiện để phát triển sản xuất.

Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống có sự khác biệt theo nhóm trình độ CMKT,

nghề nghiệp, vùng miền.

- Xét về trình độ CMKT:

Xét theo trình độ CMKT thì người không có bằng cấp chứng chỉ thể hiện sự hài lòng về sự thay đổi các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi ở mức điểm 2,67 điểm, trong khi đó nhóm cư dân có chứng chỉ đến trung cấp và từ cao đẳng trở lên đều đánh giá tiêu chí này ở mức 2,77 và 2,84 điểm.

Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân

chia theo trình độ CMKT

Đơn vị: điểm

Thay đổi cuộc sống

Từ cao đẳng trở lên

Không có bằng cấp chứng chỉ

Có chứng chỉ đến trung cấp

2,79

2,77

2,91

Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1)

2,75

2,91

2,84

Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước (TDCS2)

2,26

2,37

2,56

Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3)

2,88

3,03

3,06

Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước (TDCS4)

Trung bình

2,67

2,77

2,84

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

113

Như vậy, sự thỏa mãn về thay đổi điều kiện sống có sự khác biệt theo nhóm

trình độ CMKT, người dân có trình độ CMKT càng cao thì có sự thoả mãn về thay đổi

cuộc sống cao hơn.

- Xét về nhóm nghề nghiệp

Ở tất cả nhóm đối tượng, sự chênh lệch về đánh giá giữa các tiêu chí là không

nhiều, cao nhất là nhóm đối tượng có hoạt động từ hoạt động công việc hưởng lương

với mức điểm đánh giá là 2,80 điểm, nhóm đối tượng từ nông, lâm, ngư nghiệp được

đánh giá ở mức thấp nhất 2,71 điểm. Nhóm người có hoạt động từ sản xuất, kinh

doanh phi nông nghiệp thường đồng tình cao hơn và họ thực sự quan tâm tới các chính

sách tạo công ăn việc làm mới, phát triển giao thông, được tiếp cận với nhiều công

trình phúc lợi công cộng và đặc biệt là con cái được tạo điều kiện thuận lợi trong quá

trình học hành. Ngoài ra, nhóm đối tượng có hoạt động công việc hưởng lương còn

quan tâm tới việc cải thiện môi trường theo hướng thuận lợi hơn trước.

Bảng 3.15. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo

nghề nghiệp của người dân

Đơn vị: điểm

Thay đổi cuộc sống Từ nông, lâm, ngư nghiệp Từ hoạt động công việc hưởng lương Từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải 2,85 2,74 2,88 thiện chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1)

Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển

sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn 2,72 2,84 2,92

trước (TDCS2)

Điều kiện tiếp cận về giao thông, công

trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi 2,35 2,41 2,42

hơn trước (TDCS3)

Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi 2,92 3,08 2,97 hơn trước (TDCS4)

Trung bình 2,71 2,77 2,8

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

114

Như vậy, người dân làm trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp thì có mức thoả

mãn về thay đổi điều kiện sống thấp hơn so với người dân làm trong lĩnh vực tự sản

xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và làm công việc hưởng lương.

- Xét về vùng miền:

Sự thay đổi các điều kiện sống của người dân miền Nam sau khi thu hồi đất

được đánh giá cao hơn cả với mức điểm 2,87 điểm, trong khi đó người dân miền

Trung đánh giá tiêu chí này chỉ ở mức 2,74 điểm, thấp nhất vẫn là người dân miền Bắc

(thấp hơn so với miền Nam 0,2 điểm). Đối với người dân miền Trung họ quan tâm tới

quá tiền bồi thường để ổn định chỗ ở cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho con cái học

hành hơn trước. Còn với người dân miền Nam họ lại mong muốn được tiếp cận với

nhiều công trình văn hóa phúc lợi công cộng để thỏa mãn những thú vui giải trí của họ

hơn. Trong khi đó người dân miền Bắc lại thích được Nhà nước tạo công ăn việc làm

nhằm phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước.

Bảng 3.16. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo

vùng miền

Đơn vị: điểm

Miền Miền Miền Thay đổi cuộc sống Bắc Trung Nam

Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện 2,76 2,84 2,88 chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1)

Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản

xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước 2,64 2,84 3,03

(TDCS2)

Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn

hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước 2,33 2,35 2,51

(TDCS3)

Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn 3,0 2,93 3,04 trước (TDCS4)

Trung bình 2,68 2,74 2,87

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

115

Từ phân tích trên cho thấy, người dân ở miền Bắc có sự thoả mãn về thay đổi

điều kiện sống thấp hơn so với người dân ở miền Trung và miền Nam.

Như vậy, sự thoả mãn của người dân về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất

được đánh giá ở trên mức trung bình. Người dân mong muốn được thay đổi cuộc sống

sau khi bị thu hồi đất theo hướng tốt hơn, họ mong muốn ổn định chỗ ở, có việc làm mới

để ổn định thu nhập, phát triển sản xuất. Ngoài ra, họ cũng mong muốn được tiếp cận

với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học

tập, phát triển dân trí. Do vậy khi xây dựng chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

cần quan tâm hơn nữa đến cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất.

3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất

Sự thoả mãn chung của người dân về việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được

xác định dựa trên tổ hợp CFA của 4 yếu tố: 1) Sự thỏa mãn về mức bồi thường; 2) Sự

thỏa mãn về phương thức bồi thường; 3) Sự thỏa mãn của người dân về việc tổ chức

thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất; 4) Sự thỏa mãn của người dân về sự thay

đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất. Kết quả cho thấy mức độ thỏa mãn chung

của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói chung còn thấp, điểm trung

bình là 2,56 điểm (xem Bảng 3.17).

Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân

Đơn vị: điểm

Mức độ thỏa mãn của cư dân trong việc BT, HT khi Nhà nước Trung bình thu hồi đất

Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ (MUCBT) 2,3

Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường (PTBT) 2,4

Sự thỏa mãn của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi

Nhà nước thu hồi đất (TCTH) 2,7

Sự thỏa mãn của người dân về sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà

nước thu hồi đất (TDCS) 2,6

Mức độ thỏa mãn chung (SUTM) 2,56

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

116

Sự thoả mãn chung mặc dù cao hơn mức trung bình nhưng vẫn ở mức thấp,

người dân đánh giá sự thoả mãn thấp nhất về mức bồi thường (2,3 điểm) và phương

thức bồi thường (2,4 điểm).

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn của người dân trong việc BT,

HT khi Nhà nước thu hồi đất còn ở mức thấp. Nguyên nhân là do: giá đất tính bồi thường

thấp hơn so với giá đất thị trường, giá trị tài sản gắn liền với đất chưa được tính đầy đủ;

chính sách hỗ trợ vẫn chưa bảo đảm ổn định cuộc sống, sản xuất; việc tổ chức thực hiện

còn nhiều bất cập, hạn chế như chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch, sự tham gia của

người dân còn mang tính hình thức, việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người dân

chưa kịp thời; điều kiện sống của người dân chưa được cải thiện như mong đợi.

Sự thoả mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất có

thể có sự khác biệt theo các nhóm dân cư khác nhau. Để kiểm định được sự khác biệt

này, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích ANOVA và phân tích mô hình hồi

quy. Kết quả cụ thể như sau:

- Phân tích ANOVA:

Kết quả dưới đây cung cấp kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm dân cư về

mức độ thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, kiểm định này

chỉ xem xét sự khác biệt về mức độ thỏa mãn giữa các nhóm mà không xem xét đến

các yếu tố khác.

Về vùng miền: Theo 3 miền, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà

nước thu hồi đất có khác biệt giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Trong luận án này

yếu tố vùng miền (vung) được tác giả chia thành 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Theo đó, mức

thỏa mãn của người dân ở khu vực miền Nam cao hơn so với miền Trung; ở miền Trung

cao hơn so với miền Bắc ở độ tin cậy 90% (các giá trị của Sig. đều nhỏ hơn 10%), tuy nhiên

nếu ở độ tin cậy 95% thì không có sự khác biệt về sự thỏa mãn giữa các vùng. Điều này có

thể do chính sách BT, HT cụ thể tại địa phương ở miền Nam phù hợp hơn với người dân

như họ có thể nhận được một mảnh đất tương tự với thửa đất thu hồi để có tiếp tục sinh kế

cũ của mình; hoặc với những người dân có diện tích còn lại ít, chính quyền sẽ thu lại toàn

bộ và bồi thường với giá hợp lý để tránh tình trạng xuất hiện những ngôi nhà siêu mỏng,

siêu méo làm mất mỹ quan đô thị. Hơn nữa, sự thỏa mãn này có thể xuất phát từ bản chất

của người dân miền Nam là những người dễ đồng cảm với những chính sách của Nhà nước

hơn là đưa ra những yêu cầu gây khó dễ trong việc thu hồi đất, GPMB.

117

Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng

Khác biệt giữa

Std.

(I)

(J)

Sig.

(I) và (J)

Error

Miền Nam

-0.055

0.032

0.091

Miền Trung

Miền Bắc

0.000

0.032

0.989

Miền Trung

0.055

0.032

0.091

Miền Nam

Miền Bắc

0.055

0.032

0.082

Miền Trung

0.000

0.032

0.989

Miền Bắc

Miền Nam

-0.055

0.032

0.082

Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp

Về trình độ CMKT:

Kết quả cho thấy theo trình độ chuyên môn, sự thỏa mãn của người dân trong

BT, HT khi thu hồi đất có khác biệt theo nhận thức hay theo trình độ CMKT. Nhận

thức của cư dân bị thu hồi đất có ảnh hưởng đến quá trình thu hồi bởi với người dân bị

thu hồi đất họ luôn có tư tưởng cho rằng giá đất bồi thường mà mình nhận được thấp

hơn so với giá thị trường, và điều này nó phụ thuộc vào trình độ CMKT của cư dân có

đất bị thu hồi. Nghiên cứu này cho rằng những người không có bằng cấp chứng chỉ dễ

dàng thỏa mãn với chính sách của Nhà nước hơn (giá trị Sig. tương ứng nhỏ hơn 5%).

Thực tiễn chỉ ra rằng những người có trình độ từ cao đẳng trở lên là những người có

trình độ văn hóa cao, có tay nghề, có kiến thức, do đó đây là nhóm người có thu nhập

cao hơn trong xã hội, và rõ ràng họ có nhu cầu trong cuộc sống cao hơn so với nhóm

người còn lại, chính vì thế họ không dễ dàng thỏa mãn những chính sách BT, HT mà

Nhà nước ban hành. Bởi vì, bản thân họ mong muốn được bồi thường nhiều hơn nữa,

không chỉ tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, họ còn quan tâm đến môi trường sống,

phúc lợi xã hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng và cải thiện dân trí cho người dân tại nơi

ở mới. Đây cũng là điều mong muốn của đại bộ phận người dân khi bị Nhà nước thu

hồi đất.

118

Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ

Khác biệt Std. (I) (J) Sig. giữa (I) và (J) Error

Không có bằng cấp chứng chỉ Có chứng chỉ đến trung cấp .05180 .03147 0.010

Từ cao đẳng trở lên .04644 .03219 0.015

Có chứng chỉ đến trung cấp Không có bằng cấp chứng chỉ -.05180 .03147 0.010

Từ cao đẳng trở lên -.00536 .03198 0.867

Từ cao đẳng trở lên Không có bằng cấp chứng chỉ -.04644 .03219 0.015

Có chứng chỉ đến trung cấp .00536 .03198 0.867

Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp

Về nghề nghiệp:

Kết quả cho thấy cư dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động hoạt động công

việc hưởng lương thì có mức độ thỏa mãn tương đương so nguồn thu nhập chính từ

sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và cả hai nhóm này đều cao hơn so với nguồn

thu nhập chính từ nghề nông, lâm ngư nghiệp.

Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp

Khác biệt

Std.

(I)

(J)

Sig.

giữa (I) và (J)

Error

Từ hoạt động sản xuất, kinh

-.04686

.03209

0.145

doanh phi nông nghiệp

Từ nông, lâm,

ngư nghiệp

Từ hoạt động công việc

-.05904

.03209

0.066

hưởng lương

Từ nông, lâm, ngư nghiệp

.04686

.03209

0.145

Từ hoạt động sản xuất

kinh doanh phi

Từ hoạt động công việc

-.01218

.03141

0.698

nông nghiệp

hưởng lương

Từ nông, lâm, ngư nghiệp

.05904

.03209

0.066

Từ hoạt động công việc

Từ hoạt động sản xuất, kinh

hưởng lương

.01218

.03141

0.698

doanh phi nông nghiệp

Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp

119

Nhận định này đồng quan điểm với Kong (2008) và phù hợp với thực tế nhưng

lại không nhận được sự ủng hộ của Bohnke (2005). Bởi những người có thu nhập từ

hoạt động công việc hưởng lương ít bị ảnh hưởng nhất khi Nhà nước thu hồi đất, dù

Nhà nước có thu hồi đất thì hàng tháng họ vẫn có thu nhập chính từ hoạt động hưởng

lương của mình. Trong khi đó đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất đó là những người

có nguồn thu nhập chính từ nông, lâm, ngư nghiệp. Khi Nhà nước lấy đất, họ buộc

lòng phải chuyển đổi sinh kế, thay đổi nghề nghiệp, chỉ còn một số ít vẫn bám trụ lại

với nghề nông, tuy vậy quá trình chuyển đổi này không dễ dàng với tất cả mọi người.

Sự chuyển đổi việc làm từ khu vực nông, lâm, ngư nghiệp sang lĩnh vực phi

nông nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố chính là tuổi tác, trình độ CMKT, chuyên môn

tay nghề và nguồn vốn. Một bộ phận lao động nông nghiệp đã chuyển sang làm việc trong

các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán - dịch vụ, và bổ sung vào

đội ngũ lao động thuê mướn không cần kỹ năng, hoặc chỉ ở nhà làm nội trợ, chăm sóc gia

đình nếu điều kiện kinh tế hoặc không đủ sức khỏe để lao động.

Đối với những người trẻ, có trình độ CMKT và tay nghề, có nhiều khả năng hơn

để được nhận vào các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Trong

khi đó, những người có mặt bằng (thường là kết hợp với nhà ở), có vốn và kinh nghiệm

làm ăn thường mở các cửa hàng buôn bán - dịch vụ với các mặt hàng phù hợp với bối

cảnh mới do mình tự quản lý, nhưng cũng có một bộ phận lao động lớn tuổi, không có

trình độ CMKT, tay nghề, tiền vốn... phải cố gắng kiếm sống từ các hoạt động buôn bán

nhỏ hay là những công việc đơn giản mà việc làm khá bấp bênh và thu nhập thấp, không

ổn định.

Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho chính quyền địa phương nơi có đất thu hồi là cần

phải có kế hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi làm sao cho phù

hợp với mục tiêu là dạy đúng nghề, đúng đối tượng, đúng nhu cầu và sau khi học xong

người dân có thể sử dụng được và chuyển đổi được nghề để tạo sinh kế bền vững.

Về mục đích thu hồi:

Việc thu hồi đất làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân, do đó

ngoài các quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện của tổ chức làm nhiệm vụ bồi

thường, GPMB, chính quyền địa phương thì sự đồng thuận và hợp tác của người bị thu

120

hồi đất có ảnh hưởng rất lớn đến công tác BT, HT, TĐC. Trong thực tiễn, các dự án

thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng vì lợi

ích quốc gia, công cộng đem lại sự thỏa mãn cao hơn cho người dân khi Nhà nước thu

hồi đất so với mục đích khác. Đối với các dự án thu hồi đất để xây dựng khu đô thị

mới, xây nhà ở để bán và cho thuê do các doanh nghiệp làm chủ đầu tư thì ít nhận

được sự đồng thuận và hợp tác của người dân, bởi lẽ người dân nhận thấy sự không

công bằng là đất bị thu hồi được bồi thường với giá rất thấp, sau thu hồi cũng chính

mảnh đất đấy có giá chênh lệch rất cao, lợi ích này là của nhà đầu tư chứ không phải là

lợi ích của Nhà nước nên họ chống đối, khiếu nại kéo dài, phức tạp, ảnh hưởng đến

tiến độ bồi thường, GPMB cũng như triển khai dự án đầu tư.

Bảng 3.21. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo mục đích

và giá đất

(I) (J) Sig. Khác biệt giữa (I) và (J) Std. Error

Mục đích dự án

Sử dụng cho mục đích xây Sử dụng cho mục

.02140 .02605 0.041 dựng hạ tầng, công cộng đích thương mại

Thay đổi giá đất

Giá đất tăng Giá đất không tăng,

hoặc tăng châm -0.03501 0.02606 0.018

Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp

Giá đất thị trường:

Giá đất thị trường về mảnh đất của người dân tăng lên sau khi bị thu hồi thì làm

cho người dân có mức độ thỏa mãn thấp hơn so với người dân có giá đất thị trường về

mảnh đất bị thu hồi không tăng (giá trị Sig. nhỏ hơn 5%). Như đã phân tích ở trên,

người bị thu hồi đất luôn cho rằng giá đất bồi thường mà họ nhận được thấp hơn nhiều

so với giá thị trường, mà nay mảnh đất đó còn tăng giá lên thì người dân càng cảm

thấy bị thiệt thòi, cảm thấy không thỏa mãn với việc Nhà nước thu hồi đất, điều này

dẫn đến luôn xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn giữa chính quyền địa phương với người bị

121

thu hồi đất, kéo theo việc thu hồi đất lần sau (nếu có) đối với họ sẽ rất khó khăn, tạo

tâm lý không hợp tác của các hộ dân khác trong khu vực.

Hơn nữa, quỹ đất ngày càng khan hiếm mà dân số lại tăng lên không ngừng,

cùng với tâm lý giữ đất của người Việt Nam nên điều này cũng là nguyên nhân để giá

đất ngày một lên cao so với giá trị sử dụng rất nhiều. Do vậy, để người dân thoả mãn

với mức giá đất bồi thường, cần phải thực hiện cơ chế định giá đất độc lập, có sự tham

gia giám sát của người dân trong quá trình định giá đất, đồng thời cũng cần có cơ chế

giá thỏa thuận giữa Nhà nước và người dân để người dân đồng thuận tự nguyện giao

đất để thực hiện các dự án đầu tư.

Trường hợp người dân có đất bị thu hồi không đồng thuận với giá đất bồi

thường do UBND cấp có thẩm quyền quyết định thì được quyền yêu cầu cơ quan có

thẩm quyền quyết định giá đất hoặc toà án giải quyết, bảo đảm tính công bằng, chính

xác, phù hợp với giá đất thị trường. Trong một số trường hợp phải dự tính thêm yếu tố

trượt giá do chậm bồi thường.

- Phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT bằng mô hình hồi quy

Để đảm bảo tính vững của kết quả phân tích ANOVA trên, phần này luận

án ước lượng mô hình hồi quy sau để xem xét sự thỏa mãn chung khác biệt giữa

các nhóm:

SUTMi = a0 + a1vung1i + a2vung2i + a3cmkt1i +a4cmkt2i + a5nghe1i +a6nghe2i

+ a7mucdichi + a8thaydoigiadati +ei

Các biến độc lập trong mô hình được giải thích trong bảng kết quả ước lượng

dưới đây. Các hệ số nếu có * nghĩa là hệ số khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy

90%, nếu có ** và *** nghĩa là hệ số ước lượng khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin

cậy 95% và 99%. Trường hợp hệ số ước lương không có dấu *, nghĩa là hệ số ước

lượng coi như bằng 0 hay nói cách khác không có tác động của biến độc lập đó lên

biến sự thỏa mãn (SUTM).

Kết quả ước lượng cho thấy hệ số R2 = 0,642 cho biết các biến độc lập trong mô

hình giải thích được 64,2% sự thay đổi của biến độc lập.

122

Bảng 3.22. Kết quả ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự thỏa mãn

Tên biến Giải thích SUTM

vung1 -0.005 Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân ở miền Bắc,

ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032

vung2 0.056* Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân ở miền Nam,

ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032

cmkt1 0.046** Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân không có bằng

cấp chứng chỉ, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032

cmkt2 0.00

Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân có chứng chỉ đến trung cấp, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032

nghe1 -0.059* Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân làm trong nông,

lâm, ngư nghiệp, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032

nghe2 Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân hoạt động -0.018

sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, ngược lại -0.032 nhận giá trị bằng 0

mucdich Nhận giá trị bằng 1 nếu dự án sử dụng cho mục -0.022**

đích thương mại, bằng 0 nếu dùng cho mục đích -0.026 công cộng

thaydoigiadat 0.032** Nhận giá trị bằng 1 nếu giá đất không tăng, hoặc

tăng châm, nhận giá trị bằng 0 nếu giá đất tăng -0.026

Constant 1.874*** Hệ số a0

-0.037

Số quan sát

Observations 540

R-squared 0.624

Standard errors in parentheses

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

Kết quả bảng trên cho thấy khi xem xét đồng thời các yếu tố về vùng miền,

trình độ CMKT, ngành nghề, múc đích sử dụng đất, sự thay đổi của giá đất thì sự thỏa

mãn của người dân được chỉ ra như sau:

123

Xét theo vùng miền: Sự thỏa mãn của người dân ở miền Bắc không có sự khác

biệt so với người dân ở miền Trung (hệ số ước lượng của biến vung1 không có ý nghĩa

thống kê ở độ tin cậy 90%, 95%); Sự thỏa mãn của người dân ở miền Nam cao hơn so

với người dân ở 2 miền còn lại (hệ số ước lượng bằng 0,056, có ý nghĩa thống kê)

Xét theo trình độ CMKT: Kết quả ước lượng cho thấy hệ số của biến cmkt1 có ý

nghĩa thống kê, trong khi đó hệ số của cmkt2 không có ý nghĩa thống kê, điều này

phản ánh người dân không có bằng cấp chứng chỉ có sự thỏa mãn cao hơn so với

người dân ở trình độ khác, và dường như không có sự khác biệt nhiều giữa người dân

có trình độ dưới trung cấp và người dân có trình độ từ cao đẳng trở lên.

Xét theo nghề nghiệp: Kết quả ước lượng của biến nghe1 có ý nghĩa thống kê,

trong khi đó biến nghe2 không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy người dân làm

trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp hơn so với những người dân làm việc

trong lĩnh vực tự sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và người làm công hưởng lương.

Xét theo mục đích sử dụng đất: Hệ số ước lượng biến mucdich có ý nghĩa thống

kê, như vậy đất thu hồi dành cho cho mục đích thương mại thì người dân ít thỏa mãn

hơn so với đất được dùng vào mục đích công cộng.

Xét theo thay đổi giá đất: Nếu mảnh đất sau khi thu hồi có giá tăng cao hơn so

với thời điểm trước đây thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn so với trường hợp giá

đất không tăng.

Như vậy, mức thoả mãn chung của người trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

đất còn ở mức thấp, trong đó thấp nhất là thoả mãn về mức BT, HT.

Sự thoả mãn chung có sự khác biệt theo các nhóm người dân, cụ thể là sự thỏa

mãn của người dân ở miền Nam cao hơn so với người dân ở miền Bắc và miền Trung;

người dân không có trình độ CMKT có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình

độ CMKT; người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp nhất;

người dân cảm thấy thoả mãn hơn đối với trường hợp thu hồi đất danh cho mục đích

công cộng; giá đất sau khi thu hồi tăng cao thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn.

124

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương này luận án phân tích và đánh giá chính sách liên quan đến BT, HT khi

Nhà nước thu hồi đất từ nguồn thông tin định tính và đánh giá định lượng đối với

nguồn thông tin khảo sát từ bảng hỏi có cấu trúc. Một số kết quả chính rút ra từ nghiên cứu như sau:

Một là, về sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất:

Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đã được thực hiện theo quy định của

Luật Đất đai năm 2013, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và quy định cụ thể

của địa phương. Mức độ thỏa mãn thông qua cảm nhận của người dân về mức BT, HT

còn ở mức thấp, mức giá đất tính bồi thường ở mức thấp so với giá thị trường.

Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi

theo kết quả khảo sát của PAPI cho thấy cảm nhận của người dân về mức giá bồi thường thấp, không minh bạch cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn

giao mặt bằng, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư.

Mức độ thỏa mãn của người dân theo mức BT, HT có sự khác biệt theo trình độ

CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng miền, người dân ở miền Trung có mức thỏa

mãn thấp hơn so với các miền khác.

Hai là, về sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất:

Đánh giá của người dân về phương thức bồi thường cũng ở mức thấp. Người

dân yêu thích phương thức được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với

các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi. Sự thỏa mãn về phương thức bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất có sự khác biệt theo trình độ CMKT, vùng miền và theo nghề nghiệp.

Ba là, sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước

thu hồi đất:

Đánh giá của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất so với mong đợi thấp hơn mức trung bình. Sự không minh bạch trong xử lý vấn đề

giữa các hộ, sai sót thông tin dẫn đến sự thỏa mãn của người dân còn ở mức thấp. Việc tổ chức kiểm đếm thiếu khoa học đã tạo ra những phản ứng tiêu cực của người dân trong công tác bàn giao mặt bằng, chấp nhận theo phương án BT, HT, TĐC đã được

125

phê duyệt. Bên cạnh đó, quy trình định giá đất thiếu sự tham gia của người dân, do đó dẫn đến thiếu sự thống nhất đối với các bên liên quan.

Bốn là, sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi

Nhà nước thu hồi đất:

Sự thỏa mãn cao hơn mức trung bình, nhưng còn thấp, những người dân sau khi bị thu hồi đất phải đương đầu với sự thay đổi nguồn lực để tạo ra việc làm và thu nhập

và ổn định cuộc sống. Người dân mong muốn được thay đổi cuộc sống theo hướng tốt hơn, họ mong muốn có tiền bồi thường, có việc làm mới để ổn định thu nhập, phát

triển sản xuất. Người dân mong muốn được tiếp cận với các công trình phúc lợi văn

hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập, phát triển dân trí.

Các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết vấn đề TĐC đã khá đầy đủ

nhưng các địa phương thực hiện chưa tốt, chưa quan tâm giải quyết vấn đề này, dẫn

đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, mức độ thỏa mãn của người dân thấp.

Năm là, về mức độ thỏa mãn chung trong việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất:

Mức độ thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

nói chung còn thấp, tuy nhiên vẫn có một nhóm ít những cư dân có sự thỏa mãn tích

cực, đó là những hộ bị thu hồi một phần diện tích đất để làm đường giao thông, phần

diện tích còn lại tiếp tục được sử dụng để ở và sản xuất, kinh doanh. Phần lớn các cư

dân cảm thấy không thỏa mãn với mức giá đất tính bồi thường.

Sự thoả mãn chung có sự khác biệt theo các nhóm người dân, người dân ở miền

Nam cao hơn so với người dân ở miền Bắc và miền Trung; người dân không có trình

độ CMKT có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình độ CMKT; người dân làm

trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp nhất; người dân cảm thấy thoả mãn hơn đối với trường hợp thu hồi đất danh cho mục đích công cộng; giá đất sau khi thu

hồi tăng cao thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn.

126

CHƯƠNG 4:

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất

4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ thỏa mãn của người dân về mức BT,

HT nhận được so với mong đợi còn ở mức thấp và dưới mức trung bình, chưa đầy đủ,

chưa thoả đáng với lý do chính là giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

thấp hơn nhiều so với giá đất thực tế trên thị trường, giá bồi thường tài sản gắn liền với

đất chưa được tính toán đầy đủ thiệt hại, các khoản hỗ trợ chưa bảo đảm ổn định đời

sống và phát triển sản xuất, sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện BT,

HT khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan chức năng còn có nhiều hạn chế, chưa

bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện,

chậm bàn giao mặt bằng, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư cho phát

triển kinh tế - xã hội. Để bảo đảm người dân thỏa mãn, đồng thuận trong BT, HT khi

4.1.1.1. Bảo đảm giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp với

giá đất thị trường

Nhà nước thu hồi đất, luận án khuyến nghị một số nội dung sau đây:

Giá đất tính bồi thường là yếu tố hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền lợi kinh tế của người có đất bị thu hồi và đang là vấn đề ảnh hưởng lớn nhất đến

sự thỏa mãn của người dân. Để bảo đảm nguyên tắc định giá đất tính bồi thường phù

hợp với giá đất phổ biến trên thị trường tại thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất,

người dân khi nhận tiền bồi thường có thể nhận chuyển nhượng quyền sử dụng một

thửa đất có điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi, Nhà nước cần tiếp tục hoàn

thiện chính sách, pháp luật về giá đất:

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nội dung, điều kiện, trình tự, thủ tục áp

dụng các phương pháp định giá đất để định giá đất cụ thể tính bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất như: phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ, phương

pháp thu nhập, phương pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất.

Từng bước xây dựng bảng giá đất theo mô hình định giá đất đến từng thửa đất theo

127

thửa đất chuẩn, vùng giá trị đất gắn với áp dụng công nghệ thông tin như các nước

Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Thuỵ Điển... đã thực hiện. Quy định giá đất cụ thể để tính

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không được thấp hơn giá đất trong bảng giá đất

do UBND cấp tỉnh quy định.

- Quy định bắt buộc UBND cấp tỉnh phải thuê các tổ chức có chức năng tư vấn

giá đất độc lập thực hiện việc tư vấn xác định giá đất để tính bồi thường trong tất cả

các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để bảo đảm định giá đất một các độc lập, khách

quan, phù hợp với giá đất thị trường; quy định Hội đồng thẩm định giá đất phải có

thành viên là người dân đại diện khu vực thu hồi đất và các chuyên gia am hiểu về giá

đất để thực hiện tốt việc thẩm định giá đất.

Trường hợp người dân có đất bị thu hồi không thoả mãn với mức giá đất tính

bồi thường thì được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định giá đất hoặc toà

án xem xét, giải quyết. Trong quá trình giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện tại tòa án,

người bị thu hồi đất được quyền thuê một tổ chức có chức năng tư vấn giá đất độc lập

khác thực hiện việc tư vấn xác định giá đất, cùng với việc được thuê luật sư để bảo vệ

quyền lợi của mình.

- Tập trung thực hiện các giải pháp để đảm bảo tính công khai, minh bạch và

phát triển thị trường quyền sử dụng đất một cách ổn định, lành mạnh, hạn chế đầu cơ

đất đai. Thực hiện các giải pháp này nhằm bảo đảm thông tin giá chuyển nhượng

quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường có tính pháp lý, chính xác, làm dữ liệu đầu

vào tin cậy cho các phương pháp định giá đất, giúp việc định giá đất để tính bồi

thường có độ chính xác cao. Đồng thời, quy định xử phạt nghiêm những hành vi khai

báo sai thông tin giá đất chuyển nhượng thực tế để giảm thuế thu nhập cá nhân khi

chuyển nhượng quyền sử dụng đất; quy định bắt buộc người sử dụng đất phải đăng ký

giá đất khi thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quy định hệ thống Văn

phòng đăng ký đất đai tổ chức thực hiện việc này khi thực hiện thủ tục hành chính về

chuyển quyền sử dụng đất. Quy định việc theo dõi, cập nhật thông tin giá đất thị

trường, xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất thị trường phục vụ việc định giá đất và thẩm

định giá đất.

- Quy định cụ thể việc điều tiết trực tiếp giá trị tăng thêm từ đất mà không do

người sử dụng đất đầu tư như đối với các trường hợp Nhà nước thu hồi một phần diện

tích đất của người dân, phần diện tích còn lại người dân đủ điều kiện để được tiếp tục sử

128

dụng cho mục đích nhà ở, kinh doanh thương mại dịch vụ với giá trị đất tăng lên; điều

chỉnh mức giá đất phù hợp với thị trường để tăng mức thuế sử dụng đất đối với các hộ

gia đình không bị thu hồi đất nhưng được hưởng lợi rất lớn khi nhà của họ được ra mặt

đường khi Nhà nước thu hồi để làm công trình giao thông. Việc quy định điều tiết giá trị

tăng thêm từ đất sẽ tạo nên sự công bằng hơn giữa những người sử dụng đất, hài hoà lợi

ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất sẽ làm tăng thỏa mãn của người có

đất bị thu hồi.

- Cải cách thủ tục hành chính trong việc lập và thực hiện phương án BT, HT,

TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, rút ngắn thời gian chi trả tiền BT, HT, bố trí TĐC,

đặc biệt đối với các dự án đầu có nhiều người sử dụng đất đồng thuận với phương

án BT, HT, TĐC đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhằm hạn chế

sự chênh lệch về giá đất tính bồi thường với giá đất trên thị trường. Việc này sẽ giúp

tăng sự thỏa mãn của người dân, việc bàn giao mặt bằng diễn ra một cách nhanh

chóng, thuận lợi, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy

4.1.1.2. Bảo đảm bồi thường đầy đủ thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà

nước thu hồi đất

phát triển KT - XH của đất nước.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức giá nhà ở, công trình kiến trúc, cây trồng gắn

liền với đất tính bồi thường vẫn thấp hơn số tiền mà người bị thu hồi đất phải bỏ ra để

xây dựng nhà ở, công trình mới, làm ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Do

vậy, việc bồi thường thiệt hại thực tế đối với tài sản gắn liền với đất mà người sử dụng

đất phải chịu khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt đối với tài sản là nhà ở, công trình, vật

kiến trúc, cây trồng phải tính đúng, tính đủ và sửa đổi, bổ sung chính sách theo hướng

phải tính thêm hệ số trượt giá vật tư, vật liệu, nhân công trong một thời gian nhất định

cho theo kịp với giá cả thị trường nhằm bảo đảm chi phí cho người dân có thể tái tạo

4.1.1.3. Các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi phải đáp ứng được mục

tiêu ổn định cuộc sống, sản xuất và phát triển

lại tài sản tương đương hoặc tốt hơn tại nơi ở mới.

Các chính sách hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo nghề và

chuyển đổi việc làm đã được quan tâm thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp - tư liệu sản xuất đặc biệt người nông dân. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu

129

cho thấy các chính sách hỗ trợ này trong nhiều trường hợp vẫn chưa bảo đảm được

đời sống, sản xuất của người dân sau khi bị thu hồi đất.

Do đó, luận án khuyến nghị cần sửa đổi pháp luật về đất đai theo hướng tăng

mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người có đất nông

nghiệp bị thu hồi để bảo đảm có việc làm mới ổn định, bảo đảm sinh kế lâu dài;

giao cho UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định cụ thể về

mức hỗ trợ bảo đảm phù hợp với người dân theo đặc tính vùng miền và nghề

nghiệp của người có đất bị thu hồi. Đồng thời, cần giao trách nhiệm cho doanh

nghiệp trong việc giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện dự án

của doanh nghiệp đó.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết

việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, nhất là những hộ bị thu hồi

trên 70% diện tích. Kinh phí để thành lập quỹ này do các doanh nghiệp được hưởng lợi

từ việc thu hồi đất nông nghiệp của người nông dân mà doanh nghiệp đó không giải

quyết được việc làm cho người dân và các nguồn vốn khác.

4.1.2. Về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Kết quả nghiên cứu cho thấy, người dân ưu thích được bồi thường bằng đất có

cùng mục đích sử dụng với các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi và không

muốn được bồi thường bằng tiền vì giá bồi thường thấp hơn nhiều so với thị trường.

Như vậy, việc bồi thường bằng tiền hay bằng đất thì điều quan trọng nhất là bảo đảm

sinh kế lâu dài của họ; sự thoả mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất cũng có sự khác biệt theo vùng miền, theo nghề nghiệp sinh kế. Do vậy, luận án

khuyến nghị cần sửa đổi, bổ sung pháp luật đất đai theo hướng giao trách nhiệm của

UBND cấp tỉnh tổ chức tạo quỹ đất, quỹ nhà ở nhằm đa dạng hoá các hình thức bồi

thường, đáp ứng tốt nhu cầu bồi thường cho người có đất bị thu hồi; chuẩn bị kịp thời

quỹ đất, quỹ nhà để thực hiện bồi thường (quỹ đất, quỹ nhà TĐC) kịp thời cho người

có đất bị thu hồi.

Đối với các địa phương không thể tạo được quỹ đất, quỹ nhà để bồi thường cho

người có đất bị thu hồi thì cần phải thực hiện việc định giá đất tính bồi thường bằng

tiền theo giá đất thị trường như khuyến nghị ở trên để người dân có thể mua được một

thửa đất có điều kiện tương đương.

130

4.1.3. Về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đánh giá của người dân về việc tổ chức thực hiện

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất so với mong đợi thấp hơn mức trung bình. Quá trình

tổ chức thực hiện BT, HT còn thiếu minh bạch, công bằng, còn có các sai sót trong

việc xác định nguồn gốc, loại đất, diện tích, tài sản gắn liền với đất… dẫn đến sự thỏa

mãn của người dân có đất thu hồi còn ở mức thấp. Quá trình định giá đất, xác định giá

tài sản gắn liền với đất, xây dựng phương án BT, HT, TĐC thiếu sự tham gia của

người dân hoặc tham gia còn mang tính hình thức dẫn đến thiếu sự đồng thuận, hợp

tác của người dân.

Để đảm bảo sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện trong BT, HT khi

Nhà nước thu hồi đất, luận án có một số khuyến nghị như sau:

- Thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến người dân trong xây dựng phương án

BT, HT, TĐC, từ kết quả khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, dự thảo giá đất tính bồi

thường, phương thức bồi thường, phương án hỗ trợ, kế hoạch chi trả tiền bồi thường.

Việc tiếp thu ý kiến của người dân phải tổ chức thực hiện một cách cầu thị, trách

nhiệm, đối với các ý kiến không thể tiếp thu thì phải giải trình đầy đủ, có căn cứ

pháp lý và thực tiễn. Việc tham gia của người dân trong việc xây dựng phương án

BT, HT, TĐC luôn là khâu quan trọng để các bên tham gia và có liên quan thể hiện

quan điểm, đóng góp ý kiến cho hoạt động chung của xã hội và của người có đất bị

thu hồi. Khi đó việc triển khai hoạt động thu hồi đất và BT, HT dễ nhận được sự

đồng thuận của người dân hơn.

- Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như Uỷ ban mặt

trận tổ quốc, Hội nông dân, Tổ dân phố... và sự tham gia của cộng đồng dân cư sẽ có

tác động tích cực đến người dân trong việc hợp tác, phối hợp sớm bàn giao mặt bằng

cho Nhà nước để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, thực hiện

nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở trong quá trình thu hồi đất, BT, HT, bảo đảm công

khai, minh bạch, công bằng.

- Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội cần có phương pháp tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục thích hợp để người dân biết, nắm bắt đầy đủ về chính sách

thu hồi đất, BT, HT, TĐC của Nhà nước. Đặc điểm về trình độ dân trí của người dân là

yếu tố quan trọng để giúp xây dựng kế hoạch, cách thức tuyên truyền, phổ biến hiệu

quả. Tuỳ từng đối tượng người dân với trình độ dân trí khác nhau phải có các biện

pháp, phương pháp thực hiện tuyên truyền, vận động khác nhau.

131

- Hiện nay, năng lực hoạt động của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB

(là các Trung tâm phát triển quỹ đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, trực

thuộc UBND cấp huyện), năng lực của các cán bộ làm công tác này còn hạn chế. Do

vậy, việc tổ chức thực hiện BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất chưa bảo đảm tính

dân chủ, kịp thời, công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật nên ảnh hưởng

lớn đến sự thoả mãn, đồng thuận của người dân trong quá trình thực hiện việc thu hồi

đất. Vì vậy, ở Trung ương và địa phương cần thường xuyên tổ chức đào tạo, tập huấn

nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bồi

thường, GPMB để đáp ứng yêu cầu về năng lực, phẩm chất, tinh thần phục vụ nhân

dân, ngày càng tăng sự tin cậy, thoả mãn của người có đất bị thu hồi. Đồng thời, thực

hiện kiện toàn tổ chức, bộ máy của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB, nâng

cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ làm công tác BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi

đất nhằm nâng cao năng lực phục vụ, khả năng đáp ứng cũng như hiệu quả giải quyết

các kiến nghị, khiếu nại của người có đất bị thu hồi.

4.1.4. Về giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có

đất bị thu hồi

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi

điều kiện sống cao hơn mức trung bình nhưng còn thấp. Phần lớn các hộ dân sau khi bị

thu hồi đất đã thích ứng với sự thay đổi về công ăn việc làm và thu nhập. Bên cạnh

việc BT, HT bằng tiền mặt hay bằng đất thì người dân luôn mong muốn cuộc sống sau

thu hồi phải theo hướng tốt hơn, được tiếp cận với các công trình phúc lợi công cộng,

thương mại dịch vụ, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập. Tình trạng

không có việc làm và nguồn thu nhập thiếu ổn định vẫn diễn ra ở dự án sử dụng đất

nông nghiệp.

Việc thu hồi đất làm xáo trộn đến đời sống, việc làm và sinh kế của người có

đất thu hồi do vậy, cần có giải pháp tổng thể từ việc bồi thường, hỗ trợ một cách thoả

đáng, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cũng như tạo điều kiện để người dân được tiếp

cận với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái

được học tập, phát triển dân trí. Bên cạnh đó, cần phải đẩy nhanh việc xúc tiến và cải

thiện hệ thống an sinh xã hội đảm bảo điều kiện sống của người dân sau thu hồi đất,

gây quỹ an sinh thông qua nhiều kênh, nâng cao mức độ bảo vệ, đảm bảo đầy đủ việc

làm phi nông nghiệp của người dân bị mất đất và mất sinh kế.

132

4.1.5. Về giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai

Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập, thiếu

chặt chẽ là nguyên nhân dẫn đến việc phải đo đạc lại diện tích đất khi tính bồi thường,

việc xác định nguồn gốc đất, loại đất, căn cứ pháp lý… gặp nhiều khó khăn, dễ phát

sinh sai sót trong quá trình lập phương án BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất cho

đến khâu tổ chức thực hiện, gây khiếu kiện của người có đất bị thu hồi, làm cho tiến

độ thu hồi đất, GPMB chậm, kéo dài. Luận án kiến nghị cơ quan có chức năng cần

quan tâm thực hiện một số nội dung sau:

- Tổ chức thực hiện việc đăng ký, lập hồ sơ địa chính, hoàn thành việc cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; sớm hoàn

thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai và thường xuyên cập nhật, vận hành để

bảo đảm cơ sở dữ liệu đất đai phù hợp với thực tế và đáp ứng được nhu cầu của

các tổ chức, cá nhân.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định và quản lý quy hoạch

sử dụng đất, quy hoạch đô thị, điểm dân cư nông thôn. Thực hiện đầy đủ việc công bố

công khai quy hoạch, các mốc giới và hành lang bảo vệ công trình để chính quyền cơ

sở thực hiện việc quản lý, để nhân dân giám sát, thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ lợi ích

hợp pháp của mình.

- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về đất đai theo hướng mở rộng cơ chế

người dân được thỏa thuận thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê, góp

vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để cùng thực hiện các dự án đầu tư phục

vụ mục đích phát triển kinh tế - xã hội; hạn chế việc Nhà nước thu hồi đất. Đây là việc

chuyển quyền sử dụng đất theo cơ chế tự nguyện với các thỏa thuận dân sự giữa người

sử dụng đất và nhà đầu tư, hạn chế việc thu hồi đất bắt buộc nhằm giảm bức xúc, khiếu

nại của người dân, đồng thời giảm áp lực cho các cơ quan nhà nước trong việc thực

hiện thu hồi đất.

4.1.6. Về giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn thu từ đất, bảo đảm tiến

độ thực hiện dự án đầu tư và kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất

Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số dự án chậm chi trả tiền BT, HT cho người

dân khi Nhà nước thu hồi đất, xây dựng khu TĐC không kịp thời và chất lượng kém

133

do thiếu kinh phí; sau khi bàn giao đất cho chủ đầu tư thì việc triển khai dự án chậm

tiến độ đã được phê duyệt, gây lãnh phí nguồn lực cũng như ảnh hưởng đến cảnh quan,

môi trường. Để tránh đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, sử dụng kém hiệu quả nguồn

lực đất đai và triển khai thực hiện tốt các dự án đầu tư, bảo đảm kinh phí BT, HT cho

người có đất bị thu hồi, luận án kiến nghị các cơ quan chức năng cần phải thực hiện

các nội dung sau:

- Thực hiện việc công khai, minh bạch về nguồn thu từ đất, bao gồm: tiền thu

tiền sử dụng đất khi Nhà giao đất, tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất, tiền thuế

sử dụng đất phi nông nghiệp và các khoản nghĩa vụ tài chính khác của người sử dụng

đất; quy định việc sử dụng tiền thu từ đất để tái đầu tư phát triển quỹ đất để đấu giá

quyền sử dụng đất, cung cấp mặt bằng cho việc thực hiện các dự án đầu tư và thực

hiện công khai, minh bạch việc sử dụng nguồn thu từ đất.

- Phân bổ vốn đầu tư theo hướng đầu tư tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, tập

trung vào các công trình, dự án có tính lan tỏa cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

đủ nguồn vốn và giải ngân theo đúng tiến độ bồi thường, GPMB, tiến độ thực hiện các

công trình, dự án được phê duyệt.

- Thực hiện việc tách dự án thu hồi đất, BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất

thành dự án riêng, trong đó bao gồm thu hồi đất các vùng phụ cận để thẩm định, phê

duyệt và tổ chức thực hiện, bảo đảm phát huy nguồn lực đất đai và tiến độ thực hiện

dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư hạ tầng giao thông.

- Thực hiện nghiêm việc giám sát, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn lực từ

đất đai, việc sử dụng đất đai và việc tổ chức thực hiện các dự án đầu tư; xử lý kịp thời

các sai phạm, bảo đảm việc thực dự án đầu tư và việc sử dụng vốn đầu tư theo đúng

quy định của pháp luật.

4.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo

4.2.1. Hạn chế của luận án

Nghiên cứu này cũng như giống nhiều nghiên cứu hàn lâm khác vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục để nội dung nghiên cứu được hoàn thiện hơn, cụ thể đó là:

1) Luận án nghiên cứu khảo sát, đánh giá các dự án thu hồi đất tại thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, đây là những địa bàn có mức độ đô thị hoá

134

nhanh, thu hồi đất với diện tích lớn và trình độ dân trí cơ bản ở mức cao hơn so với mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên, 03 địa bàn này có thể chưa đủ tính đại diện

cho tình hình thu hồi đất trong phạm vi cả nước.

2) Có những hộ gia đình chỉ nhận 01 loại phương thức bồi thường (bằng tiền, bằng đất hoặc bằng nhà) khi Nhà nước thu hồi đất nhưng luận án vẫn hỏi thông tin đánh giá cho cả 3 phương thức, điều này có thể dẫn đến sai lệch thông tin đánh giá khi

người đó chưa được trải nghiệm đối với phương thức bồi thường đó.

3) Một số yếu tố khác có thể có ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân như

địa bàn thu hồi đất tại khu vực đô thị, nông thôn, sự thỏa mãn có sự khác biệt theo đặc

điểm về tuổi, giới tính... chưa được nghiên cứu trong luận án này.

4.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng sự thỏa mãn chung của người dân trong

BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất và xem xét sự thỏa mãn theo các khía cạnh, đặc

điểm nội tại của hộ có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa xem xét đến

mối quan hệ hài hoà lợi ích giữa người dân có đất bị thu hồi, Nhà nước và chủ đầu

tư. Vì vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo sẽ giải quyết mối quan hệ và vai trò giữa ba

bên, đó là: Nhà nước, người dân và chủ đầu tư nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của

các bên trong quá trình thực hiện theo chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước.

135

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Chương này luận án đã đi đến một số khuyến nghị cụ thể nội dung cần điều

chỉnh chính sách, pháp luật về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, về phương thức bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất, về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất

và đề xuất các giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có đất bị

thu hồi theo mục tiêu Luận án đã đặt ra, bảo đảm cơ sở khoa học và thực tiễn. Bên cạnh

đó, luận án cũng đưa ra một số hạn chế và định hướng nghiên cứu tiếp theo./.

136

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Ngô Thị Phương Thảo, Lê Thị Thu Hương, Đào Như Quỳnh, Nguyễn Thị Hạnh, Đoàn Ngọc Phương (2018), “Assessing the satisfaction of the people on

compensation and support when the State recovers land for public construction in

Ha Noi”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế CIEMB, Đại học Kinh tế quốc dân,

tháng 11/2018, tr.226-235.

2. Ngô Thị Phương Thảo, Đoàn Ngọc Phương, Nguyễn Hữu Khánh (2020), “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ

trợ khi nhà nước thu hồi đất và hàm ý chính sách”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển,

số 281 (II) tháng 11/2020, tr.156-164.

3. Ngô Thị Phương Thảo, Đoàn Ngọc Phương, Nguyễn Thị Minh Phương (2020), “Thí điểm áp dụng mô hình định giá đất đến từng thửa theo thửa đất chuẩn”, Tạp

chí Tài chính, tháng 11/2020, tr.115-119.

4. Đoàn Ngọc Phương (2021), “Sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 12, tháng 4/2021,

tr.105-109.

137

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Adams, J. (1963), “Towards an understvàing of inequity”. The Journal of

Abnormal and Social Psychology, 67(5), pp.422-436.

2. Alias, A. and Nasir Daud, M. D. (2006), “Payment of adequate compensation for lvà acquisition in Malaysia”. Pacific Rim Property Research Journal,

12(3), 326-349.

3. Allardt, E. (1993), Having, loving, being. An alternative to the Swedish model of welfare research. Nussbaum M., Sen A., The quality of life, Oxford, Clarendon

press, Oxford.

4. Anka Lisec, Tomaz Primo, Miran Ferlana, Rados Sumrada and Samo Drobnea (2014), “Lvà owners’ perception of lvà consolidation and their satisfaction with

the results – Slovenian experiences”, Lvà Use Policy, 38 (2014) 550–563,

Elsevier Ltd. All rights reserved.

5. Aziam, M. (2009), “A Conceptual Framework on House Buyers”, Satisfaction of Housing Projects, Maznah Ghazali Universiti Teknologi, MARA, Malaysia. 6. Bachelet, D. (1995) “Measuring Satisfaction, or the Chain, the Tree and the Nest in Brooks, Richard Ed”. Customer Satisfaction Research, Amsterdam, European

Society for Opinion and Marketing Research.

7. Bachelet, D. (1995), “Measuring Satisfaction; or the Chain, the Tree, and the

Nest”, Customer Satisfaction Research, Brooker, R.(ed), Emosar.

8. Bayram, Nuran and Aytaç, Serpil and Aytac, Mustafa and Sam, Neslihan and Bilgel, Nazan. (2012). “Poverty, Social Exclusion, and Life Satisfaction: A Study

From Turkey”. Journal of Poverty. 16. 375-391.

10.1080/10875549.2012.720656.

9. Bechtel, R.B. (1997). Environment & behavior: An Introduction. Thous and

Oaks, London: Sage Publication, (Chapter 2, 14).

10. Bellani, Luna, D'Ambrosio, Conchita. (2011). “Deprivation, Social Exclusion Indicators Research. 104. 67-86.

and Subjective Well-Being”. Social 10.1007/s11205-010-9718-0.

11. Bitner, M. (1987), “Contextual cues and consumer satisfaction: The role of physical surroundings and employee behaviors in service settings”, Unpublished

Doctoral Dissertation, University of Washington.

12. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Thông tư liên tịch số 87/2016/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn việc thẩm định dự thảo bảng giá đất của

138

Hội đồng thẩm định bảng giá đất, thẩm định phương án giá đất của Hội đồng thẩm định giá đất, ban hành ngày 22 tháng 6 năm 2016.

13. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014a), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành

ngày 30 tháng 6 năm 2014.

14. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014b), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014. 15. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017), Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa

đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai, ban hành ngày 29 tháng 9 năm 2017.

16. Bohnke, P. (2005). First European quality of life survey: Life satisfaction, happiness and sense of belonging. Luxembourg: European Foundation for the

Improvement of Living and Working Conditions, Office for Official Publications

of the European Communities.

17. Brown, B, (1993), “Rural community satisfaction and attachment in mass

consumer society”, Rural Sociology, 58, 387-403.

18. Cadotte, E., Woodruff.R. and Jenkins, R. (1983), “Expectations and norms in models of consumer satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 8 (3), pp.

305-314.

19. Campbell, A. (1976), The quality of American life. perceptions, evaluation and

satisfaction. Russell Sage foundation. U.S.A.

20. Campbell, A. (1981). The sense of well-being in America: Recent patterns and

trends. New York: Mcgraw-Hill.

21. Cardozo, R. (1965), “An experimental study of customer effort, expectation, and

satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 2(8), pp. 244-249.

22. Carlsmith, J. and Aronson, E. (1963), “Some hedonic consequences of the confirmation and disconfirmation of expectations”, Journal of Abnormal and

Social Psychology, Vol. 66(2), pp. 151 -156

23. Carrell, M. R., Dittrich, J. E. (1978). “Equity theory: The recent literature, methodological considerations, and new directions”. Academy of Management

Review, 11, 202–210.

24. Châu Đạm Trinh (2012), Đánh giá sự hài lòng của người dân về dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng: nghiên cứu tình huống lập phương án bồi thường,

139

hỗ trợ tái định cư dự án khu công nghiệp sông Hậu tỉnh Hậu Giang, Luận văn Thạc sỹ kinh doanh, Trường Đại học Nha Trang.

25. Cheng, Long and Liu, Yan and Brown, Gregory and Searle, Glen. (2018). Factors affecting farmers' satisfaction with contemporary China's lvà allocation

policy – The Link Policy: Based on the empirical research of Ezhou. Habitat International. 75. 38-49. 10.1016/j.habitatint.2018.04.004.

26. Chính phủ (2014a), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật Đất đai, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014.

27. Chính phủ (2014b), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014.

28. Chính phủ (2014c), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất, ban hành

ngày 15 tháng 5 năm 2014.

29. Chính phủ (2017), Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, ban hành ngày 06 tháng 01 năm

2017.

30. Churchill, G.A.J. and Surprenant, C. (1982), “An investifation into the determinants of customer satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol.

19(4), pp. 491-504

31. Cletus Ndjovu, 2016, Understanding Causes Of Dissatisfactions Among Compensated Landowners’ In Expropriation Programs In Tanzania, International

Journal of Scientific & Technology research volume 5, Issue 01, January 2016,

ISSN 2277-8616

32. Colquitt, J. A., Conlon, D. E., Wesson, M. J., Porter, C. O. L. H., and Ng, K. Y. (2001). “Justice at the millennium: A meta-analytic review of 25 years of

organizational justice research”. Journal of Applied Psychology, 86, 425-445. 33. Colquitt, J. A., Scott, B. A., Judge, T. A., & Shaw, J. C. (2006). Justice and personality: Using integrative theories to derive moderators of justice effects. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 100(1), 110-127. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.obhdp.2005.09.001

34. Colquitt, J., Greenberg, J. and Zapata-Phelan, C.P. (2005), “What Is Organizational Justice? A Historical Overview. In: Greenberg, J. and Colquitt, J., Eds.”, Hvàbook of Organizational Justice, Lawrence Erlbaum Associates,

Mahwah, 3-56.

35. Cornin, and Taylor, (1992), “Measuring service quality: A re-examination and

extention”, Journal of Marketing, 56, 55-68.

140

36. Cropanzano, R. and Greenberg, J. (1997), “Progress in Organizational Justice: Tunneling through the Maze. In: Cooper, C.L. and Robertson, I.T., Eds.”,

International Review of Industrial and Organizational Psychology, Vol. 12, John

Wiley and Sons, New York, 317-372.

37. Đặng Thị Thùy Diễm (2013), “Một số kết quả khảo sát mức độ hài lòng của công dân đối với thủ tục bố trí tái định cư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí

Phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, số 58-5.

38. Đào Trung Chính (2014), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Luận án tiến sĩ, Học viện Nông

nghiệp Hà Nội.

39. Davies, (1945), “Development of a scale to rare attitude of community

satisfaction”, Rural Sociology, 10, 246-255.

40. Dawes, R., D. Singer, Lemons, P. (1972), “An experimental Analysis of the Contrast Effect and its Implications for Intergroup Communication and Indirect

Assessment of Attitude”, Journal of Personality and Social Psychology, 21(3), p.

281-295

41. Dawes, R., D. Singer, Lemons, P. (1972), “An experimental Analysis of the Contrast Effect and its Implications for Intergroup Communication and Indirect

Assessment of Attitude”, Journal of Personality and Social Psychology, 21(3), p.

281-295

42. Delhey, J. (2004). “Life satisfaction in an enlarged Europe”, Quality of life in

Europe.

43. Deutsch, M. (1973), The Resolution of Conflict. Constructive and Destructive

processes, Yale University Press, New Haven and London.

44. Dolan, Paul and Peasgood, T. and White, Mathew. (2008). “Do We Really Know What Makes Us Happy? A Review of the Economic Literature on the Factors

Associated With Subjective Well-Being”. Journal of Economic Psychology. 29. 94-122. 10.1016/j.joep.2007.09.001.

45. Festinger, L. (1957), A theory of cognitive dissonance, Stanford: Stanford Press. 46. Filkins, R., and Allen, J. (1999), “Predicting community satisfaction among rural

resident: An integrative model”, Journal Series, 12451, 1-17.

47. Filkins, R., and Allen, J. (1999), “Predicting community satisfaction among rural

resident: An integrative model”, Journal Series, 12451, 1-1

48. Folger, R., & Cropanzano, R. (2001). Fairness theory: Justice as accountability.

Advances in organizational justice, 1, 1-55.

141

49. Forman, A. (1986), The impact of purchase decision confidence on the process of Ph.D. Dissertation, satisfaction/dissatisfaction, Unpublished consumer

Knoxville: The University of Tennessee.

50. Fornell, C., et. al. (1996), “The American customer satisfaction index: nature,

purpose, and findings”, Journal of Marketing, Vol. 60(4), pp. 7-18

51. Francescato, Weidemann, S., & Vàerson,J. R. (1986). “Residentialsatisfaction and residential quality: an overview of recent applications”. Paper presented at the 21st International Congress of Applied Psychology, Jerusalem, Israel.

52. Galester, G. (1985), “Evaluating indicators for housing policy: Residential satisfaction vs marginal improvement priorities”, Social Indicator Research,

Vol.16. pp.415- 448.

53. Gyamfi, A.A., (2012), An Overview of Compulsory Land Acquisition in Ghana: Examining its Applicability and Effects, [online]: Available at [Accessed

September 2014]

54. Hackman, J. and Lawler, Edward. (1971), “Employee Reactions to Job 259-286. Characteristics”. Psychology. Journal Applied 55. of

10.1037/h0031152.

55. Hansemark, O.C. and Albinson, M. (2004), “Customer Satisfaction and Retention: The Experiences of Individual Employees”, Managing Service

Quality, Vol. 14(1), pp. 40- 57

56. Hayibor, S. (2012). Equity and Expectancy Considerations in Stakeholder Action. Business & Society, 51(2), 220-262. doi:10.1177/0007650308323396 57. Helliwell, John and Putnam, Robert. (2004), “The Social Context of Well-Being. Philosophical transactions of the Royal Society of London”. Series B, Biological

sciences. 359. 1435-46. 10.1098/rstb.2004.1522.

58. Heneman, H.G. III, and Schwab, D.P. (1985), “Pay satisfaction: Its International Journal of

multidimensional nature and measurement”, Psychology, 20, 129-142.

59. Hoàng Thị Nga (2011), Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Trường

Đại học Luật Hà Nội.

60. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu

với SPSS, NXB Hồng Đức.

61. Hovlvà, C., Harvey.O. and Sherif, M. (1957), “Assimilation and contrast effects in reaction to communication and attitude change”, Journal of Abnormal and

Social Psychology, Vol. 55(7), pp. 244-252

142

62. Hoyer, W. D. and MacInnis, D. J., (2001), Consumer Behaviour. 2nd ed.,

Boston, Houghton Mifflin Company.

63. Ibem, E. O., and Aduwo, E. B. (2013), “Assessment of residential satisfaction in public housing in Ogun State, Nigeria”. Habitat International, 40, 163–175. 64. Imrie, R. and Thomas, H. (1997), “Law, Legal Struggles and Urban Regeneration: Rethinking the Relationships”, Urban Studies, 34 (9), pp. 1401-

1418.

65. Jesser, J, (1967), “Community satisfaction pattern of professionals in rural

areas”, Rural Sociology, 32, 56-69.

66. Jiangjun Wan, Yi Su, Huanglin Zan, Yutong Zhao, Lingqing Zhang, Shaoyao Zhang, Xiangyu Dong and Wei Deng (2020), “Lvà Functions, Rural Space

Governance, and Farmers’ Environmental Perceptions: A Case Study from the 134; Huanjiang Karst Mountain Area, China”, 2020, Lvà 9,

doi:10.3390/lvà9050134

67. Johnson and Knop, (1970), “Rural urban differentials in community

satisfaction”, Rural Sociology, 34, 544-548.

68. Kakulu, I. (2008), An analysis of Processes and Methods in Compulsory lvà Acquisition and Compensation, Unpublished Doctoral Thesis - University of

Reading.

69. Kakulu, I. (2008). “The assessment of compensation in compulsory acquisition of oil and gas bearing lvàs: The Niger Delta experience”. Lvà Reform, lvà

Settlement and Cooperatives Journal. 1. 56-65.

70. Kim, S.H. (1997), “Modeling Residents satisfaction: Comparison of the Francescato Kotilainen and Fishbein-Ajzen Model Department of Urban and

Regional Planning, University of Illinois at Urbana-Champaign”. An unpublished

doctoral dissertation.

71. Knop, Edward C., and Steward R. (1973), “Community Satisfaction: Conceptual and Methodological Problems”, Paper presented at Rocky Mountain Social Science Association annual meeting, Laramie, Wyoming.

72. Konovsky, M. A. (2000). Understanding procedural justice and its impact on 489-511. of Management, organizations. Journal 26(3),

business doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0149-2063(00)00042-8

73. Kotilainen, S. (2011), The agreement process as a lvà acquisition và

compensation method in public road projects in Finlvà

143

74. Kotilainen, S. (2012), “Agreements as lvà acquisition and compensation methods in public road projects in Finlvà”. Nordic Journal of Surveying and Real Estate

Research, 8(1). Retrieved from https://journal.fi/njs/article/view/3984

75. Kotler, P. (2000), Marketing Management 10th ed., New Jersey, Prentice-Hall. 76. Kotler, P., Roberto, N. and Lee, N. (2002), Social marketing: Improving the

Quality of Life 2nd Edition, Thousvà Oaks, CA: Sage.

77. Kotler, P., Siew M., Swee H., and Chin, T. (1996), Marketing Management: An

Asian Perspective Singapore, Prentice Hall.

78. Kurt Lewin (1975), Field Theory in Social Science: Selected Theoretical Papers for Group Dynamics Series, Greenwood Press, ISBN Research Center

0837172365, 9780837172361

79. Kurt, L. (2010), Groups, experiential

learning and action research The Encyclopedia of Informal Education, từ http://www.infed.org/thinkers/etlewin.htm.

(Accessed 23 December 2010).

80. Ladewig, H., and McCann, C. (1980), “Community satisfaction: Theory and

measurement”, Rural Sociology, 45, 110-131.

81. Lawler, E. L. (1971), “Pay và organization effectiveness: A psychological view”,

NY: McGraw Hill.

82. Li B and Chen S (2011), “A study of residential condition and satisfaction of the

elderly in China”, Journal of Housing for the Elderly 25(1): 72–88.

83. Li, N.H (2018), “Analysis on the Farmers’ Satisfaction with Reform

Experimentation of Rural Land Expropriation System - An Empirical Analysis

Journal of Social Sciences, 6, 152-164.

for Liuyang”. Open https://doi.org/10.4236/jss.2018.61011

84. Liang and Zhu (2015), “Subjective Well-Being of Chinese Lvàless Peasants in Relatively Developed Regions: Measurement Using PANAS and SWLS.”, Social

Indicator Research, Vol. 123, 817 – 835.

85. Lin, T-C. and Lin, S-T. (2006), “Decision-making of property owners and tenants in the face of compulsory purchase”, Habitat International, 30 (2006), pp. 434-447. Elsevier Ldt.

86. Lu, M. (1999), “Determinants of residential satisfaction: ordered logit vs regression models”, Journal of growth and change, Vol. 30, pp. 264- 287. 87. Marans, R. W., and Rodgers, W. (1975), “Toward an Understvàing of Community Satisfaction. In: A. Hawley, and V. Rock (Eds.)”, Metropolitan

America in Contemporary Perspective (pp. 299-352). New York: Halsted Press.

144

88. McCray, J. W., and Day, S. S. (1977), “Housing Values, Aspirations, and Satisfactions as Indicators of Housing Needs”, Family and Consumer Sciences

Research Journal, 5, 244-254.

89. McQuitty, S., F.A. and Wiley, J.B. (2000), “Systematically Varying Customer Satisfaction and its Implications for Product Choice”, Academy of Marketing Science Review.

90. Mollie Van Loon and Stinner, F. (1992) “Community size preference status, community satisfaction and migration intentions”, Population and Environment,

14, 177-195.

91. Morris, E. and Winter, M. (1975), “A Theory of Family Housing Adjustment”,

Journal of Marriage and the Family, Vol. 37, pp. 79-88

92. Munch, P. (1976), “An Economic Analysis of Eminent Domain”, The Journal of Political Economy, 84 (3) (Jun., 1976), pp. 473-498, The University of Chicago

Press.

93. Neihoff, B. P., Moorman, R. H., and Fuller, G. B (2001), “The Influence of Empowerment and Job Enrichment on Employee Loyalty in a Downsizing

Environment”, Group and Organization Manament, 26 (1), 93-113. (2001) 94. Nguyễn Đình Thọ (2012), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh:

thiết kế và thực hiện, NXB Lao Động xã hội.

95. Nguyễn Văn Vũ An (2015), “Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người dân đối với khu công nghiệp Long Đức, thành phố Trà Vinh”, Tạp chí

Khoa học Trường Đại học An Giang, Vol 6(2), 16-24.

96. Ning Chai, Rob Stevens, Xiaozhen Fang, Chun Mao and Ding Wang (2019), “The impact of compensation upon urban village residents satisfaction with the

land expropriation process Empirical evidence from Hangzhou, China”, Journal

of Property, Planning and Environmental Law, Vol. 11 No. 3, 2019 pp. 186-216

Strategies, Available Verona, Italy. and

© Emerald Publishing Limited 2514-9407 DOI 10.1108/JPPEL-03-2019-0011 97. Odame, L., (2008), Compulsory Land Acquisition in Ghana: Searching for < Alternative https://www.fig.net/commission7/verona_fao_2008/papers/09_sept/4_1_larbi.pdf 98. Ogu VI (2002), “Urban residential Satisfaction and the Planning Implication in a developing World Context: the Example of Benin City Nigeria”. Int. Plann.

Study. 7(1):37-53.

99. Oladapo, R. A. and Ige, V. (2012), Assessment of Claimants’ Satisfaction to Variation in Compensation Paid for Compulsory Lvà Acquisition in Ondo State,

NIGERIA

145

100. Oladapo, R. A. and Ige, V. (2014), Assessment of Claimants’ Satisfaction to Variation in Compensation Paid for Compulsory Lvà Acquisition in Ondo State,

Nigeria, FIG Congress.

101. Oliver, R. (1980), “A Cognitive Model of the Antecedents and Consequences of Satisfaction Decisions”, Journal of Marketing Research, 17(4), 460-469. doi:10.2307/3150499.

102. Oliver, R.L. (1977a), “Effect of expectation and disconfirmation on postexposure interpretation”, Journal of Applied product evaluations: An alternative

Psychology, Vol. 62(8), pp. 480-486.

103. Oliver, R.L. (1977b), “A theoretical reinterpretation of expectation and disconfirmation effects on post-exposure product evaluations: Experience in the

field. In R. Day (Ed.)”, Consumer Satisfaction/Dissatisfaction and Complaining Behavior (pp. 2-9), Proceedings of the 2nd Annual Consumer Satisfaction/

Dissatisfaction and Complaining Behavior Conference, April 20-22, 1977.

104. Oliver, R.L. (1980a), “A Cognitive Model of the Antecedents and

Consequences of Satisfaction Decisions”, Journal of Marketing Research,

Vol. 17(11), pp. 460-469

105. Oliver, R.L. (1980b), “Theoretical bases of consumer satisfaction research: Review, critique, and future direction”, In C.Lamb and P. Dunne (Eds.), T. D. i.

M. (p. 206.-210). (ed.) Chicago: American Marketing Association.

106. Oliver, R.L. (1993), “A conceptual model of service quality and service satisfaction: compactible goals, different concepts”, In Swartz, T. A., B. D. E.,

Brown, S. W. (Eds), A. i. s. m. and management (Vol. 2, p. 65.-85). (ed.) Greenwich. CT: JAI

107. Oliver, R.L. (1997), Satisfaction A Behavioral Perspective on the Consumer. The

McGraw-Hill Companies, Inc., New York.

108. Olshavsky, R.W. and Miller, J.A. (1972), “Consumer expectation, product performance and perceived product quality”, Journal of Marketing Research, Vol. 9, February, pp. 19-21

109. Olson, J.C. and Dover, P. (1979), “Disconfirmation of consumer expectation through product trial”, Journal of Applied Psychology, Vol. 64, pp. 179-89 110. Omar, I. and Ismail, M. (2009), “Kotaka's Model in lvà acquisition for infrastructure provision in Malaysia”, Annals of the University of Petroşani,

Economics, 9(4), 121- 134.

146

111. Parker, C. and Matthews, B.P. (2001), “Customer satisfaction: contrasting academic and consumers' interpretations”, Marketing Intelligence and Planning,

Vol. 19(1), pp. 38-44.

112. Peyton, R.M., P.S. and Kamery, R.H. (2003), “Consumer

atisfaction/Dissatisfaction (CS/D): A review of the literature prior to the 1990s”, Proceedings of the Academy of Organizational Culture, Communications and

Conflicts”, 7(2). Allied Academies Inernational Conference. Las Vegas. (pp. 41- 46).

113. Pham Huu Ty and A. C. M. Van Westen and Annelies Zoomers (2013), "Compensation and Resettlement Policies after Compulsory Lvà Acquisition for

Hydropower Development in Vietnam: Policy and Practice," Lvà, MDPI, Open

Access Journal, vol. 2(4), pages 1-27, November.

114. Philip Kotler (2001), “Marketing Management,, Prentice Hall International Series in Marketing Series”, Pearson Education Canada, ISBN 0130739537,

9780130739537

115. Poisz, T.B.C. and Van Grumbkow, J. (1988), “Economic wellbeing, job satisfaction, income evaluation and consumer satisfaction: an integrative attempt,

in Raaij, W. F., V. G. M. and Eds)”, Hvàbook of Economics Psychology, Kluwer

Academic Publishers, The Netherlvàs.

116. Potter, J. and Cantarro,B. (2006), “How does increasing population and diversity affect resident satisfaction?”, Journal of Environment and Behaviour, Vol. 9. No

(7). pp 514 - 545.

117. Qin, T., Gu, X., Tian, Z., Pan, H., Deng, J., and Wan, L. (2016), “An empirical analysis of the factors influencing farmer dem and for forest insurance: Based on

surveys from Lin’an County in Zhejiang Province of China”, Journal of Forest

Economics, 24, 37-51.

118. Quốc hội (1987), Luật Đất đai năm 1987, ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987. 119. Quốc hội (1993), Luật Đất đai năm 1993, ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993. 120. Quốc hội (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai, ban hành

ngày 29 tháng 6 năm 2001.

121. Quốc hội (2003), Luật đất đai năm 2003, ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003. 122. Quốc hội (2013), Luật đất đai năm 2013, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013. 123. Rojek, D., Clemente, F., and Summer, F. (1975), “Community satisfaction: A

study of contentment with local service”, Rural Sociology, 40, 177-192.

147

124. Rowan-Robinson, J. (1995), “Compensation for the Compulsory Acquisition of Business Interest: Satisfaction or Sacrifice”, Journal of Property Valuation and

Investment, 13(1), 44-65.

125. Satsangi, M. and Kearns, A. (1992), “The use and interpretation of tenant satisfaction surveys in British social housing”, Environment and Planning C: Government and Policy, 10(3), pp. 317-331. (doi: 10.1068/c100317)

126. Silver, H. (1994), “Social exclusion and social solidarity: three paradigms”.

International Labour Review. 133:531-78

127. Singer, L. R. (1994), Settling Disputes. Conflict Resolution in Business, Families, and the Legal System, Second Edition, Westview Press, The United States of

America.

128. Song QU, Nico HEERINK, Ying XIA (2015), “Farmers’ satisfaction with compensations for farmlvà expropriation in China – Evidence from micro-level

data”, International Conference of Agricultural Economist.

129. Spreng, R.A., M.S.B. and Olshavsky, R.W. (1996), “A reexamination of the determinants of consumer satisfaction”, Journal of Marketing, Vol. 60, July, pp.

15-32

130. Tanya, J. K., & Kristina, M. (2012). Procedural Justice as a component of the Not In My Backyard (NIMBY) syndrome: Understanding opposition to the

building of a desalination plant in Victoria, Australia

131. Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Tình hình khiếu nại, tố cáo trong

lĩnh vực đất đai, Hà Nội.

132. Tse, D.K. and Wilton, P.C. (1988), “Models of consumer satisfaction formation:

An extension”, Journal of Marketing Research, Vol. 25(2), pp. 204-212

133. Tyagi, V., and Shinde, R. (2016), “Government Policies and Difficulties in Lvà Acquisition: A Questionnaire Survey”, International Journal of Innovative

Research and Development, 2278-0211, 5(8).

134. Vàerson, E.W. (1994a), "Cross-Category Variation in Customer Satisfaction and

Repurchase Likelihood" Marketing Letters, forthcoming

135. Vàerson, E.W. and Fornell, C. (1994), “A customer satisfaction research prospectus in Rust, R. T.”, Oliver, R. L (eds), S. q. N. d. i. t. and practice (ed.) CA. Sage. pp. 241-68

136. Vàerson, R. (1973), “Consumer dissatisfaction: The effect of diperformance”,

Journal of Marketing Research, Vol. 10(2), pp. 38-44.

148

137. Vreugdenhil, A., and Rigby, K. (1987), “Assessing generalized community 367– satisfaction”, The Psychology, Journal 127(4), Social of

374. https://doi.org/10.1080/00224545.1987.9713716

138. Wang, X. (2013), “Measurement of Peasants’ Satisfaction with the

Compensation for Lvà Acquisition in the Chinese Mainlvà in the Last Thirty Years”. Chinese Studies, 2, 68-76. doi: 10.4236/chnstd.2013.21010.

139. Weiyan Hu, Xuelong Zhang, Yan Song, Long Shen, Jin Liu and Anlu Zhang (2014), “Life satisfaction approach to farmers compensation for Lvà acquisition:

empirical study from the suburbs of Wuhan City”, Chinese Journal of Population

Resources and Environment, 12:4, 316-323, DOI:

10.1080/10042857.2014.953744

140. Wilton, P. and Nicosia, I. (1986), “Emerging paradigms for the Study of

consumer satisfaction”, European Research. Vol. 14(1), pp. 4-11

141. World Bank (2011), Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự

nguyện tại Việt Nam, Hà Nội.

142. Yi, Y. (1990), A critical review of consumer satisfaction, Zeithaml, V.A. (E. R.

o. M. 1990. ed.) American Marketing Association, Chicago, IL.

143. Zeithaml, V.A. and Bitner, M.J. (2000), Services Marketing: Integrating

Customer Focus across the Firm. 2nd Edition, McGraw-Hill, Boston.

144. Zhigang Li and Fulong Wu (2013), “Residential Satisfaction in China's Informal Settlements: A Case Study of Beijing, Shanghai, and Guangzhou”, Urban

Geography, 34:7, 923-949, DOI: 10.1080/02723638.2013.778694

149

PHỤ LỤC 1

Phân tích nhân tố khám phá

Communalities

Initial Extraction

1.000 .730 MUCBT1

1.000 .737 MUCBT2

1.000 .597 MUCBT3

1.000 .856 MUCBT4

1.000 .748 PTBT1

1.000 .483 PTBT2

1.000 .744 PTBT3

1.000 .472 TDCS1

1.000 .677 TDCS2

1.000 .553 TDCS3

1.000 .491 TDCS4

1.000 .323 TCTH1

1.000 .307 TCTH2

1.000 .410 TCTH3

1.000 .345 TCTH4

1.000 .452 TCTH5

1.000 .314 TCTH6

Extraction Method: Principal Component Analysis.

150

Component Matrixa

Component

1 2 3 4

MUCBT1 .842

MUCBT2 .845

MUCBT3 .752

MUCBT4 .907

.478 .709 PTBT1

.347 .580 PTBT2

.482 .691 PTBT3

.672 TDCS1

.811 TDCS2

.731 TDCS3

.699 TDCS4

.488 TCTH1

.484 TCTH2

.559 TCTH3

.479 TCTH4

.586 -.314 TCTH5

.430 -.335 TCTH6

Extraction Method: Principal Component Analysis.

a. 4 components extracted.

151

Pattern Matrixa

Component

1 2 3 4

.853 MUCBT1

.851 MUCBT2

.770 MUCBT3

.927 MUCBT4

.866 PTBT1

.695 PTBT2

.859 PTBT3

.684 TDCS1

.821 TDCS2

.740 TDCS3

.698 TDCS4

.556 TCTH1

.539 TCTH2

.634 TCTH3

.583 TCTH4

.672 TCTH5

.556 TCTH6

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 4 iterations.

152

Structure Matrix

Component

1 2 3 4

.854 MUCBT1

.854 MUCBT2

.768 MUCBT3

.925 MUCBT4

.864 PTBT1

.693 PTBT2

.861 PTBT3

.685 TDCS1

.820 TDCS2

.741 TDCS3

.698 TDCS4

.560 TCTH1

.538 TCTH2

.639 TCTH3

.584 TCTH4

.669 TCTH5

.552 TCTH6

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.

Component Correlation Matrix

Component 1 2 3 4

1.000 .029 .064 -.053 1

.029 1.000 -.007 .007 2

.064 -.007 1.000 .049 3

-.053 .007 .049 1.000 4

Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát

153

PHỤ LỤC 2

Estimates (Group number 1 - Default model) Scalar Estimates (Group number 1 - Default model) Maximum Likelihood Estimates Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

Estimate S.E. C.R. P Label

.051 19.028 *** .051 17.336 *** .055 22.967 ***

.159 .121 .130 9.863 *** 9.303 *** 9.245 ***

.148 .191 .174 .205 .152 5.674 *** 6.543 *** 6.259 *** 6.670 *** 5.762 ***

MUCBT1 <--- MUCBT_est MUCBT2 <--- MUCBT_est MUCBT3 <--- MUCBT_est MUCBT4 <--- MUCBT_est TDCS1 TDCS2 TDCS3 TDCS4 TCTH1 TCTH2 TCTH3 TCTH4 TCTH5 TCTH6 PTBT1 PTBT2 PTBT3 <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- PTBT_est <--- PTBT_est <--- PTBT_est 1.000 .974 .887 1.258 1.000 1.567 1.130 1.199 1.000 .837 1.247 1.087 1.364 .875 1.000 .633 1.006 .066 9.654 *** .091 11.087 ***

Stvàardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)

MUCBT1 <--- MUCBT_est MUCBT2 <--- MUCBT_est MUCBT3 <--- MUCBT_est MUCBT4 <--- MUCBT_est TDCS1 TDCS2 TDCS3 TDCS4 TCTH1 TCTH2 TCTH3 TCTH4 TCTH5 TCTH6 PTBT1 PTBT2 PTBT3 <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TDCS_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- TCTH_est <--- PTBT_est <--- PTBT_est <--- PTBT_est Estimate .784 .764 .708 .943 .531 .799 .598 .591 .434 .396 .533 .478 .566 .406 .806 .477 .823

154

Covariances: (Group number 1 - Default model)

P Label

MUCBT_est <--> TDCS_est MUCBT_est <--> TCTH_est MUCBT_est <--> PTBT_est <--> TCTH_est TDCS_est <--> PTBT_est TDCS_est <--> PTBT_est TCTH_est

Estimate S.E. C.R. .206 .021 .004 .019 1.390 .027 -.984 .031 -.030 .192 .014 .003 .022 .006 .282 .021 1.169 .024

.837 .164 .325 .848 .778 .242

Correlations: (Group number 1 - Default model)

MUCBT_est <--> TDCS_est MUCBT_est <--> TCTH_est MUCBT_est <--> PTBT_est <--> TCTH_est TDCS_est <--> PTBT_est TDCS_est <--> PTBT_est TCTH_est

Estimate .011 .079 -.049 .012 .015 .071

Variances: (Group number 1 - Default model)

C.R.

P Label

MUCBT_est TDCS_est TCTH_est PTBT_est e1 e2 e3 e4 e5 e6 e7 e8 e9 e10 e11 e12 e13 e14 e15 e16 e17

Estimate S.E. .622 .266 .189 .618 .389 .422 .487 .122 .679 .370 .610 .712 .813 .712 .741 .754 .743 .729 .332 .841 .299

.059 10.512 *** 5.717 *** .047 4.144 *** .046 8.325 *** .074 .029 13.510 *** .030 13.958 *** .033 14.773 *** .025 4.894 *** .048 14.242 *** .053 6.984 *** .046 13.188 *** .053 13.318 *** .057 14.252 *** .048 14.691 *** .058 12.683 *** .055 13.643 *** .062 11.968 *** .050 14.574 *** .055 6.087 *** .055 15.239 *** 5.479 *** .054

155

Sự phù hợp của mô hình

Model Fit Summary

CMIN

P CMIN/DF 1.923

.000

.000

Model Default model Saturated model Independence model

NPAR CMIN DF 40 217.280 113 0 153 17 2501.407 136

.000

18.393

RMR, GFI

Model Default model Saturated model Independence model

GFI AGFI PGFI RMR .036 .705 .939 .955 .000 1.000 .623 .185

.554

.576

Baseline Comparisons

Model

CFI

RFI rho1 .895

TLI rho2 .947

Default model Saturated model Independence model

NFI Delta1 .913 1.000 .000

.000

IFI Delta2 .956 1.000 .000

.000

.956 1.000 .000

Parsimony-Adjusted Measures

Model Default model Saturated model Independence model

PRATIO PNFI PCFI .794 .000 .000

.831 .000 1.000

.759 .000 .000

NCP

NCP 104.280 .000

LO 90 66.417 .000

HI 90 Model 149.948 Default model Saturated model .000 Independence model 2365.407 2206.749 2531.419

FMIN

Model Default model Saturated model Independence model

FMIN .193 .403 .000 .000 4.641 4.389

F0 LO 90 HI 90 .278 .123 .000 .000 4.094 4.697

RMSEA

Model Default model Independence model

RMSEA LO 90 HI 90 PCLOSE .958 .000

.050 .186

.033 .174

.041 .180

156

AIC

BCC 300.044 316.572

AIC 297.280 306.000

BIC CAIC Model 508.943 468.943 Default model Saturated model 962.610 1115.610 Independence model 2535.407 2536.582 2608.364 2625.364

ECVI

Model Default model Saturated model Independence model

ECVI LO 90 HI 90 MECVI .557 .587 4.706

.636 .481 .568 .568 4.410 5.012

.552 .568 4.704

HOELTER

Model

Default model Independence model

HOELTER .05 345 36

HOELTER .01 375 39

157

PHỤ LỤC 3

PHIẾU KHẢO SÁT HỘ GIA ĐÌNH CÓ ĐẤT THU HỒI

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Họ tên người trả lời phỏng vấn

………………………………………………

(Người trả lời phỏng vấn là người đại diện cho hộ, đủ năng lực hành vi dân sự)

2 Giới tính: ……….………………………….(1- Nam; 2- Nữ)…………….

3 Năm sinh:.………………………………………………………………….

4. Địa chỉ nơi cư trú: .........................................................…………………..…

5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)………………………………………

1.Không có trình độ CMKT 5. Trung cấp

2. CMKT không bằng 6. Cao đẳng

3. Chứng chỉ nghề <3 tháng 7. Đại học trở lên

4. Sơ cấp

6. Nghề nghiệp chính là gì? ..............................................................

7. Tình trạng việc làm hiện nay:……………………………………………….

8. Ông/bà đánh giá thế nào về tình hình kinh tế gia đình

(đánh x vào ô tương ứng với 1. Kém 2. Rất kém 3. Bình thường 4. Tốt 5. Rất tốt)

Tình hình kinh tế gia đình 1 2 3 4 5

Tình hình kinh tế của gia đình hiện tại

Tình hình kinh tế của gia đình so với thời điểm trước khi thu hồi đất 1 2 3 4 5

Tình hình kinh tế của gia đình trong 5 năm tới 1 2 3 4 5

158

II. THÔNG TIN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1. Xin ông/bà cho biết thông tin về bồi thường, hỗ trợ sau:

TT

Diện tích bị thu hồi (m2)

Giá bồi thường là bao nhiêu? (1000đ/m2)

Loại đất bồi thường, hỗ trợ

Hộ gia đình ông/bà có bị thanh toán chậm tiền bồi thường, hỗ trợ không?

Số tiền hỗ trợ Triệu đồng

Trong đó: Số tiền bồi thường (Triệu đồng)

1

Đất ở

Tổng số tiền hộ gia đình nhận được là bao nhiêu? (Triệu đồng)

(1-Có; 2- Không)

2

Đất nông nghiệp

2. Gia đình ông/bà được bồi thường theo hình thức nào?

2.1. Khi ông/bà bị thu hồi đất ở thì được bồi thường theo hình thức nào?

a- Bồi thường bằng giao đất ở mới (bố trí tái định cư)

b- Bồi thường bằng nhà ở mới (bố trí tái định cư)

c- Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới

2.2. Khi ông/bà bị thu hồi đất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ như thế nào?

a- Bồi thường bằng giao đất nông nghiệp ở vị trí khác để tiếp tục sản xuất

b- Bồi thường bằng đất khác (đất ở, đất dịch vụ….)

c- Bồi thường bằng tiền

d- Được nhận các khoản hỗ trợ (Hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất; Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; Hỗ trợ đào tạo nghề; Hỗ trợ khác)

2.3. Hình thức bồi thường, hỗ trợ khác: ……………………………….

3. Gia đình ông/bà được bồi thường với giá trị như thế nào?

3.1- Giá đất được bồi thường: ……………………………..

1. Xấp xỉ (sát) giá thị trường; 2. Thấp hơn chút ít; 3. Thấp hơn nhiều

3.2- Giá tài sản gắn liền với đất được bồi thường: …………………

1. Xấp xỉ (sát) giá thị trường; 2. Thấp hơn chút ít; 3. Thấp hơn nhiều

159

4. Gia đình ông/bà được bồi thường, hỗ trợ như trên có bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất không?

1. Bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất;

2. Tương đối bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất;

3. Không bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất

5. Mục đích thu hồi đất để làm gì?

1. Xây dựng cơ sở hạ tầng vì lợi ích công cộng

2. Đầu tư thương mại

3. Khác

Rất không thỏa mãn Rất thỏa mãn

6. Xin ông bà vui lòng đánh giá cho những vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu (x) vào ô lựa chọn tương ứng (1. Rất không thỏa mãn; 2. Không thỏa mãn; 3. Bình thường; 4. Thỏa mãn; 5. Rất thỏa mãn)

Các yếu tố

Mức độ thỏa mãn

MUCBT Thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ

Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất

1

2

3

4

5

MUCBT 1

chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để

thay thế thửa đất thu hồi

Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy

1

2

3

4

5

đủ, phù hợp với thực tế

MUCBT 2

Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không

1

2

3

4

5

MUCBT 3

được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế

Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn

1

2

3

4

5

định đời sống, sản xuất

MUCBT 4

PTBT Thỏa mãn về phương thức bồi thường

Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị

1

2

3

4

5

PTBT1

của thửa đất theo giá đất thị trường

1

2

3

4

5

PTBT2

Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi

160

Các yếu tố

Mức độ thỏa mãn

Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi

1

2

3

4

5

PTBT3

đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống

Thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ

Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT,

1

2

3

4

5

TCTH1

HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC

Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của

1

2

3

4

5

TCTH2

người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC

1

2

3

4

5

TCTH3

Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật

1

2

3

4

5

TCTH4

Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC

1

2

3

4

5

TCTH5

Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu

hồi đất

1

2

3

4

5

Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước

TCTH6

thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện

Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau

TĐCS

khi thu hồi đất

Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở,

1

2

3

4

5

TDCS1

ổn định đời sống

Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu

1

2

3

4

5

TDCS2

nhập ổn định và tăng hơn trước

Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa,

1

2

3

4

5

TDCS3

phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước

TDCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước

1

2

3

4

5

161

6. Ông (Bà) cảm nhận như thế nào đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực

hiện dự án phục vụ mục đích công cộng và phục vụ mục đích kinh tế?

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………...................

7. Ông (Bà) cảm nhận như thế nào khi giá đất trên thị trường tăng sau khi Nhà nước

thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án?

………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………...................

8. Ý kiến khác……………………………………………………………….........

………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………...................

Chân thành cảm ơn!

162

PHỤ LỤC 4

Một số vấn đề chung về chế dộ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam

Sở hữu đất đai

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của

pháp luật thông qua việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng

đất (Quốc hội, 2013).

Thu hồi đất

Đối với đất đai, do quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân, do Nhà nước là đại

diện, vì vậy, khái niệm thu hồi đất gắn liền với sự tồn tại của quyền sở hữu toàn dân về

đất đai. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước giao đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi

phạm pháp luật về đất đai (Quốc hội, 2013).

Về bản chất, thu hồi đất chính là việc chuyển quyền sử dụng đất theo một cơ chế

bắt buộc thông qua biện pháp hành chính. Việc thu hồi đất có những đặc điểm sau đây:

- Xảy ra theo một yêu cầu cụ thể (thu hồi đất do nhu cầu vì lợi ích chung) hoặc

trong một hoàn cảnh cụ thể (do vi phạm pháp luật về đất đai; do không còn nhu cầu sử

dụng đất).

- Việc thu hồi đất phải bằng một quyết định hành chính cụ thể, trong đó phải thể

hiện rõ vị trí, diện tích, loại đất bị thu hồi; tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân có đất bị

thu hồi. Quyết định thu hồi đất được ban hành bởi một cơ quan hành chính có thẩm

quyền theo luật định (UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện).

- Được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và được quy định riêng đối

với từng trường hợp.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Bồi thường là trả lại cho người khác cái có giá trị (thường bằng tiền) tương xứng với những thiệt hại mà mình đã gây ra. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất (Quốc hội, 2013). Trong các điều khoản quy định cụ thể, Luật Đất đai năm 2013 có

quy định những thiệt hại về nhà ở, công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi trên đất do việc thu hồi đất gây ra cũng được xem xét bồi thường (Quốc hội, 2013). Tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào nguồn gốc sử dụng đất mà người bị thu hồi đất được

163

bồi thường hoặc không được bồi thường thiệt hại về đất, về tài sản gắn liền với đất: Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích

công cộng và thu hồi đất đối với trường hợp không còn nhu cầu sử dụng đất và đất có

nguồn gốc được giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có

nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thu hồi đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường; Thu hồi đất do vi phạm pháp

luật đất đai thì không được bồi thường về đất.

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp người bị thu hồi đất

thông qua các khoản hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ TĐC đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ

trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với

trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khác. Các khoản hỗ trợ này được hiểu là

phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã bồi thường sòng phẳng để ổn định đời sống, sản

xuất và phát triển, là khoản điều tiết từ phần giá trị gia tăng từ đất đai mà không phải là

do đầu tư của người sử dụng đất mang lại (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014, 2017).

Khác với bồi thường là việc trả lại một cách tương xứng những giá trị bị thiệt

hại, thì hỗ trợ mang tính chính sách, trợ giúp thêm của Nhà nước, thể hiện trách nhiệm

của Nhà nước đối với sự hy sinh, mất mát của người bị thu hồi đất cho những lợi ích

chung của đất nước, của cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, do việc bồi

thường chưa thực sự sòng phẳng nên các khoản hỗ trợ chưa đúng với ý nghĩa mà nó đã

được định nghĩa trong Luật Đất đai năm 2013 và trong đa số trường hợp thì nó chỉ là

sự bù đắp vào khoảng thiếu hụt do việc bồi thường thiếu sòng phẳng gây ra. Bên cạnh

đó, một số khoản hỗ trợ thực chất là bồi thường như là hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, vì đây chính là những thiệt hại do việc thu

hồi đất gây ra.

Tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là các hoạt động của cơ quan có chức năng dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những vấn để cụ thể thuộc trách nhiệm của mình. Việc thực hiện thu hồi đất, BT, HT phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và đúng quy định của pháp

luật (Quốc hội, 2013).

Theo quy định tại Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp

xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; Người sử

164

dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài

sản khác gắn liền với đất để lập phương án BT, HT, TĐC. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi

thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án BT, HT, TĐC và phối hợp

với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lấy ý kiến về phương án BT, HT, TĐC. Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án BT, HT, TĐC trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp có

thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công

khai quyết định phê duyệt phương án BT, HT, TĐC và triển khai thực hiện phương án

đã được phê duyệt (Quốc hội, 2013).

Tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất là hoạt động khó khăn, phức

tạp và dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện, vì hoạt động này liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều bên khác nhau: người bị thu hồi đất, Nhà nước và nhà đầu tư. Việc nhà

nước thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử

dụng đất, vì vậy nếu trong quá trình thực hiện BT, HT bảo đảm nguyên tắc công khai,

minh bạch, dân chủ, đúng quy định của pháp luật thì sẽ đem lại cơ hội cho người dân

được trực tiếp tham gia ý kiến về phương án BT, HT, TĐC cũng như những vấn đề khác

liên quan đến quyền và lợi ích của mình sẽ được người có đất bị thu hồi đồng tình, ủng

hộ. Ngược lại, nếu tổ chức thực hiện BT, HT không đảm bảo nguyên tắc công khai,

minh bạch, dân chủ và tuân thủ đúng quy định pháp luật sẽ dẫn đến người dân không

đồng thuận, thậm chí có thể khiếu kiện phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn

xã hội, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư./.