BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------
ĐOÀN NGỌC PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
HÀ NỘI, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------
ĐOÀN NGỌC PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh (QTKD Bất động sản)
Mã số: 9340101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. HOÀNG VĂN CƯỜNG
2. PGS.TS. NGÔ THỊ PHƯƠNG THẢO
HÀ NỘI, NĂM 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
Nghiên cứu sinh
Đoàn Ngọc Phương
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn và biết ơn sâu sắc GS.TS Hoàng Văn
Cường, PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo đã tận tâm, nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm Nghiên cứu sinh và hoàn thành Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Ban Lãnh đạo Khoa Bất động sản và Kinh tế tài nguyên, Bộ môn kinh doanh Bất động
sản, các Thầy, Cô Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tâm truyền đạt, trang bị
kiến thức để tôi hoàn thành tốt Luận án.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo, các Cán bộ của Viện Đào tạo sau
đại học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện về các thủ tục và hướng dẫn các quy trình thực hiện trong thời gian tôi làm nghiên cứu sinh tại Trường.
Tôi xin gửi tấm lòng biết ơn sâu sắc đến Ban lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất
đai, cơ quan, gia đình đã chia sẻ, động viên và tạo điều kiện hỗ trợ tôi trong suốt quá
trình học tập và làm nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn tất cả các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
và đóng góp nhiều ý kiến để tôi hoàn thành luận án này.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. vi
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... vii
DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... ix
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ
THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT ................................................................................................. 7
1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn ...................................................... 7 1.1.1. Sự thỏa mãn ................................................................................................................. 7
1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 11
1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn ................................................................................... 16
1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................... 22 1.2.1. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ ................................................................. 22
1.2.2. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường ............................................................... 24
1.2.3. Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất và sự tham gia của người dân .......................................................................... 26 1.2.4. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo đặc điểm
của người dân ....................................................................................................................... 27
1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam ................................................... 32
1.4. Đề xuất khung nghiên cứu................................................................................ 33 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 39 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 40 2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể ............................................................................ 40 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 40
2.1.2. Địa bàn khảo sát ........................................................................................................ 41
2.2. Nghiên cứu định tính ........................................................................................ 44 2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính .......................................................................... 44
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................................. 44
2.2.3. Phát triển thang đo .................................................................................................... 48
iv
2.3. Nghiên cứu định lượng ..................................................................................... 56 2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng ............................................................................. 56
2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng ............................................................................... 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 74
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ....................................... 76
3.1. Sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................ 76 3.1.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ... 76
3.1.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất ............................................................................................................................. 80
3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................ 91 3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất . 91
3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất ............................................................................................................................. 92
3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất ............................................................................................... 98 3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất ............................................................................................................................. 98
3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................................... 100
3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất ............................................................................................. 109
3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất ...................................................................................................................... 115
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 124 CHƯƠNG 4: ............................................................................................................... 126 MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................. 126 4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ....................................................................................... 126 4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ......................................... 126
4.1.2. Về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ....................................... 129
4.1.3. Về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................... 130
4.1.4. Về giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có đất bị thu hồi .... 131
4.1.5. Về giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai ......................... 132
v
4.1.6. Về giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn thu từ đất, bảo đảm tiến độ thực hiện dự án đầu tư và kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ................ 132
4.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................... 133 4.2.1. Hạn chế của luận án ................................................................................................ 133
4.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................................................... 134
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 .......................................................................................... 135
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................. 136
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 137 PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................ 149
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................ 153
PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................ 157
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................ 162
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANOVA Phân tích phương sai
BT, HT Bồi thường, hỗ trợ
CMKT Trình độ chuyên môn kỹ thuật
CFA Phân tích nhân tố khẳng định
CT-XH Chính trị - xã hội
TĐC Tái định cư
GPMB Giải phóng mặt bằng
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
UBND Ủy ban nhân dân
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Mô tả mẫu khảo sát định tính ............................................................................ 46
Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi .......................................... 51
Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng ........................... 58
Bảng 2.4. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho mức BT, HT .............................................. 61
Bảng 2.5. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phương thức bồi thường ........................... 62
Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện ..................................... 62
Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện ..................................... 63
Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống .............................. 63
Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett .............................................................................. 64
Bảng 2.9. Bảng ma trận hệ số các thành phần................................................................... 65
Bảng 2.10. Tiêu chuẩn kiểm định sự phù hợp của mô hình ............................................... 67
Bảng 2.11. Kết quả kiểm định giá trị phân biệt giữa các thang đo .................................... 70
Bảng 2.12. Bảng danh sách các biến tiềm ẩn ...................................................................... 71
Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT ............................................................................ 81
Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT ................ 87
Bảng 3.3. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo nghề nghiệp .............. 89
Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền ................ 90
Bảng 3.5 Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường ................................ 93
Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo trình độ CMKT . 95
Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo nghề nghiệp .. 96
Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo vùng miền ... 97
Bảng 3.9. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT ..................................................... 101
Bảng 3.10. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo trình độ CMKT ....................... 106
Bảng 3.11. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo nghề nghiệp ............................. 107
Bảng 3.12. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo vùng miền ................................ 108
Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân.......................... 110
Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo trình độ CMKT 112
Bảng 3.15. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo nghề
nghiệp của người dân ....................................................................................... 113
viii
Bảng 3.16. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo vùng miền .. 114
Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân ......................................................... 115
Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng .............. 117
Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ ...... 118
Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp ......... 118
Bảng 3.21. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo mục đích và giá đất .. 120
Bảng 3.22. Kết quả ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự thỏa mãn ................................ 122
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu
hồi đất ................................................................................................................. 34
Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................... 55
Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA ................................................................................... 69
Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với giá xấp
xỉ giá thị trường (%) ........................................................................................... 84
Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới ........ 104
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, việc thu hồi đất để
phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội như xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu đô thị... là một tất yếu khách quan.
Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội càng lớn dẫn đến nhu cầu về thu hồi đất càng cao và
trở thành thách thức lớn của mỗi quốc gia đối với các vấn đề bảo đảm an ninh lương
thực, an sinh, trật tự an toàn xã hội và sinh kế của người dân.
Bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi bởi nó liên quan trực tiếp đến mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư
và người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất, BT, HT ngày càng xuất hiện nhiều mâu
thuẫn, nguyên nhân chính là chưa giải quyết được hài hòa về sự hài lòng, thỏa mãn của
người dân khi được BT, HT. Theo các nghiên cứu của Kotilainen (2011), Xinliang
(2012), Oladapo and Ige (2012), mức tiền bồi thường hay sự chênh lệch giữa tiền bồi
thường với giá trị thị trường của đất là yếu tố lớn dẫn đến sự không thoả mãn của
những người dân; sự không thỏa mãn đã gây nên mâu thuẫn xã hội, tạo ra sự không
đồng thuận của người dân trong mỗi dự án phải thu hồi đất. Theo Kakulu (2008), cộng
đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường khi thu hồi đất nếu có liên quan đến cưỡng
chế hoặc tranh chấp.
Vấn đề thỏa mãn hay không thỏa mãn rất quan trọng trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ công và tư nhân; hậu quả của việc không thỏa mãn của người dân trong
cung cấp dịch vụ rất nghiêm trọng. Hoyer and Maclnns (2001) đã chỉ ra rằng nếu
người dân không được thỏa mãn với dịch vụ cung cấp thì họ có thể chấm dứt việc
“sử dụng” dịch vụ này, nhưng trong các dự án thu hồi đất, có thể tạo ra việc người
dân kháng cự, từ chối bàn giao mặt bằng, khiếu kiện kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc bồi thường đất là: mức bồi thường, thủ tục bồi thường và phương thức bồi thường (Wang, 2013). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra sự thỏa mãn trong BT, HT còn khác biệt bao gồm: đặc điểm cá nhân thu nhập; việc làm, tính gắn kết
xã hội; văn hóa xã hội; cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự
nhiên; sức khỏe; đất đai - nhà ở; chính quyền địa phương (Qin và cộng sự, 2016;
Ibem and Aduwo, 2013).
2
Theo Kotler và cộng sự (2002), sự thỏa mãn của người dân là một cảm giác vui lòng hoặc không thỏa mãn của một người khi so sánh một hiệu suất cảm nhận
được của các sản phẩm và dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Do đó, nếu kết
quả nhận được không đáp ứng được như kỳ vọng, người dân sẽ thấy không thỏa mãn
và nếu kết quả đáp ứng được như kỳ vọng, có nghĩa là người dân được thỏa mãn. Trong việc thu hồi đất, “sự không thỏa mãn” là trạng thái hay cảm giác khó chịu
hoặc không bằng lòng hoặc bất mãn với mức BT, HT hoặc các quy trình được áp dụng, điều này thể hiện trạng thái không thỏa mãn với các quá trình thu hồi đất bắt
buộc. Các bên có quyền lợi đối với khu đất thu hồi có thể sẽ không thỏa mãn với
nhiều vấn đề.
Việc người dân được hài lòng, được thỏa mãn với các dịch vụ công của Nhà
nước, với chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước là điều hết sức quan trọng. Làm cho người dân thỏa mãn sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của tổ
chức như gia tăng hiệu quả công việc do người dân thỏa mãn sẽ có thái độ tích cực
và hành vi tốt hơn. Sự thỏa mãn của người dân sẽ góp phần duy trì và ổn định trật tự
xã hội. Người dân sẽ ít bị kích động từ bên ngoài, người dân sẽ đề cao lợi ích tập thể
bởi khi họ muốn gắn bó là họ sẽ “chăm sóc”, “xây dựng” và “bảo vệ” ngôi nhà chung
của mình. Khi người dân thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, họ sẽ hợp
tác và ứng xử tốt hơn với Nhà nước và chủ đầu tư dự án, họ cũng là người sẽ truyền
thông chủ trương chính sách thu hồi đất, BT, HT ra bên ngoài, tác động tích cực đến
các hộ gia đình khác.
Ở Việt nam, với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu; Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng và thực hiện việc thu hồi đất trong các trường hợp cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh,
để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
hàng năm Việt Nam phải thu hồi diện tích lớn đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp để thực hiện các dự án phát triển công nghiệp, phát triển hạ tầng, xây dựng các khu đô thị, khu dân cư... Chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đã được quan tâm, xây dựng theo hướng ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân khi bị thu
hồi đất như giá đất tính bồi thường được quy định theo nguyên tắc phù hợp với giá đất chuyển nhượng phổ biến trên thị trường, ngoài việc bồi thường còn được hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ tái định cư (TĐC) tuỳ theo nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất (Từ
Điều 74 đến Điều 94 của Luật Đất đai năm 2013). Tuy nhiên, thực tế trong thời gian
3
vừa qua việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, kể cả các dự án lớn, dự án trọng điểm của Trung ương và địa phương vẫn chậm trễ, ách
tắc, có dự án triển khai thu hồi đất trên 5, 10 năm vẫn chưa hoàn thành giải phóng
mặt bằng (GPMB) do người có đất bị thu hồi còn chưa đạt được sự thoả mãn về mức
BT, HT, phương thức bồi thường; tổ chức thực hiện BT, HT và thoả mãn về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất, dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn giao mặt bằng, làm
đội vốn đầu tư, ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư; mức độ đồng thuận của người người dân cũng có sự khác nhau theo vùng miền, trình độ học
vấn, loại hình dự án khi thu hồi đất...
Việc xác định và hiểu rõ thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong việc thực
hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, sự thoả mãn theo các khía cạnh khác nhau,
dẫn đến sự đồng thuận sẽ thúc đẩy tích cực tiến độ bồi thường, GPMB để thực hiện các dự án đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội và giúp cho người có đất bị thu hồi có
quan điểm nhìn nhận tích cực hơn về các chính sách BT, HT cũng như cách thức tiến
hành trước và sau khi thu hồi đất, sẽ góp phần làm giảm thiểu những khiếu kiện, bức
xúc của người dân có đất bị thu hồi đất.
Tại Việt Nam, đã có khá nhiều các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân
trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, sản phẩm hàng hóa... trong đó đã
tập trung xây dựng các thang đo để đánh giá chất lượng dịch vụ hoặc sự hài lòng của
người dân trong sử dụng các dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu ứng dụng
các lý thuyết, các thang đo để phân tích các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người
dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, chưa phân tích đồng thời các mối quan
hệ giữa các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người dân với các nhóm đặc điểm của người dân; chưa xem xét sự thay đổi cuộc sống của người dân, sự thay đổi giá đất
sau khi thu hồi cũng như các yếu tố nội tại của người dân đến sự thỏa mãn khi Nhà
nước thu hồi đất.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, nhằm góp phần tổng quát hóa cơ sở lý thuyết về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, xác định các yếu tố và đo lường mức độ thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, để có cơ sở khuyến nghị sửa đổi chính sách, pháp luật về đất đai ở Việt Nam
hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” làm nội dung nghiên cứu cho luận án
của mình.
4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thoả mãn và đánh giá mức độ thỏa mãn của
người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khuyến nghị điều chỉnh chính
sách cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Một là, nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn và phát triển thang đo
đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp
với chính sách, pháp luật và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam.
Hai là, đánh giá được mức độ thỏa mãn chung và mức độ thỏa mãn theo các nhóm
yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.
Ba là, nghiên cứu đưa ra được một số những khuyến nghị điều chỉnh chính sách
BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự thỏa mãn và các yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn
của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu sự thỏa mãn của người
dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, công cộng của Việt Nam; không nghiên cứu trường hợp thu hồi đất do vi
phạm pháp luật về đất đai, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật và người dân
bị ảnh hưởng nhưng nằm ngoài phạm vi ranh giới thu hồi đất.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2016-2020.
4. Những đóng góp mới của luận án
4.1. Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Nghiên cứu đã dựa trên các lý thuyết về sự thỏa mãn (Lewin, 1975; Peyton và
cộng sự, 2003; Hovlvà và cộng sự, 1957; Kotler và cộng sự; 1996), lý thuyết về sự
công bằng (Adams, 1963, 1966; Colquitt và cộng sự, 2005) và từ kết quả nghiên cứu
5
định tính thông qua phỏng vấn sâu đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia,
chủ đầu tư và hộ gia đình có đất bị thu hồi, nghiên cứu đã bổ sung và thảo luận các yếu
tố cấu thành sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà
nước thu hồi đất, bao gồm: (1) Sự thỏa mãn về mức BT, HT; (2) Phương thức bồi
thường; (3) tổ chức thực hiện BT, HT và (4) Sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất.
4.2. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ nghiên cứu
1. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra:
i) Thông qua phân tích EFA và CFA cho thấy sự thoả mãn chung, thoả mãn về
mức BT, HT, phương thức bồi thường, tổ chức thực hiện BT, HT, sự thay đổi cuộc
sống sau khi bị thu hồi đất của người dân còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, vẫn có một số
hộ dân có sự thỏa mãn tích cực do được hưởng lợi từ việc thu hồi đất.
ii) Thông qua sử dụng phương pháp phân tích phương sai ANOVA và hàm hồi
quy đa biến cho thấy sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi
đất có sự khác biệt theo nhóm dân cư như trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp
và theo vùng miền.
2. Trên cơ sở những phát hiện chính từ kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra
các hàm ý chính sách cho các bên liên quan như sau:
i) Cần bảo đảm mức BT, HT đầy đủ cho người có đất bị thu hồi, theo đó: việc
định giá đất tính bồi thường phải phù hợp với giá đất thị trường, tính toán đầy đủ thiệt
hại về tài sản gắn liền với đất; các khoản hỗ trợ phải đáp ứng được mục tiêu ổn định
cuộc sống, sản xuất và phát triển bền vững.
ii) Đa dạng phương thức bồi thường, trong đó chú trọng việc chuẩn bị quỹ đất,
quỹ nhà để đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân.
iii) Việc tổ chức thực hiện BT, HT phải công khai, minh bạch, kịp thời, đúng
quy định của pháp luật và có sự tham gia của người dân; phải nâng cao năng lực, trách
nhiệm của tổ chức làm nhiệm vụ BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
iv) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn thu từ đất. Việc tăng sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
6
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được trình bày thành 4 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về sự thoả mãn của người
dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Đánh giá sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất
Chương 4: Một số khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu.
7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn
1.1.1. Sự thỏa mãn
Sự thỏa mãn là một khái niệm đã xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như đánh giá
sự thỏa mãn của nhân viên, đánh giá theo sự thỏa mãn của bệnh nhân trong bệnh viện
và đánh giá trang Website bởi sự thỏa mãn của khách truy cập giữa những người khác
nhau. Tuy nhiên, sự thỏa mãn là nền tảng cho khái niệm tiếp thị trong hơn ba thập kỷ;
như việc sử dụng rộng rãi nhất của sự thỏa mãn đã có trong tài liệu liên quan đến sự
thỏa mãn của khách hàng. Wilton and Nicosia (1986) cho rằng một số mô hình về sự
thỏa mãn đã xuất hiện theo thời gian trong các lĩnh vực khác nhau. Kim (1997) lập
luận rằng các mô hình được phát triển cho đến nay đều xem sự thỏa mãn của người
dùng liên quan đến niềm tin và đánh giá của người tiêu dùng về hàng hóa và hành vi
mua hàng. Tuy nhiên, khái niệm được thừa nhận rộng rãi nhất là lý thuyết xác nhận kỳ
vọng (McQuitty and Wiley, 2000). Lý thuyết xác nhận kỳ vọng được phát triển bởi Oliver (1980), người đã đề xuất rằng mức độ thỏa mãn của người dùng là kết quả của
sự khác biệt giữa sản phẩm được mong đợi và cảm nhận, kỳ vọng như dự đoán về kết
quả trong tương lai. Các kỳ vọng đề xuất rằng các sản phẩm đáp ứng kỳ vọng cao
được dự đoán sẽ tạo ra sự thỏa mãn của khách hàng lớn hơn các sản phẩm đáp ứng kỳ
vọng thấp. Còn theo Bachelet (1995) thì cho rằng “sự thỏa mãn của khách hàng là một
phản ứng mang tính cảm xúc của khách hàng đáp lại trải nghiệm của họ đối với một
sản phẩm hay dịch vụ”. Sự thỏa mãn của khách hàng là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với việc đáp ứng những mong muốn của họ (Oliver, 1997). Tương tự, Zeithaml and Bitner (2000) cho rằng, “sự thỏa mãn của khách hàng là sự đánh giá của khách hàng thông qua một sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được mong muốn và yêu cầu của họ”. Như vậy, những khái niệm này đã cho thấy sự thỏa mãn của khách hàng là sự đánh giá và được đo dựa trên sản phẩm hoặc dịch vụ.
Theo Kotler (2001), sự thỏa mãn của khách hàng là mức độ trạng thái cảm giác
của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản
phẩm/dịch vụ và những kỳ vọng của khách hàng. Những kỳ vọng của con người là
mong đợi của con người, bắt nguồn từ nhu cầu cá nhân, kinh nghiệm trước đó và
8
thông tin bên ngoài như quảng cáo, thông tin truyền miệng từ gia đình và bạn bè. Kotler đã xác định có 3 mức độ của sự thỏa mãn: (1) Nếu kết quả nhận được ít hơn
mong đợi, thì khách hàng sẽ cảm thấy không thỏa mãn; (2) Nếu kết quả nhận được
như mong đợi, thì khách hàng sẽ cảm thấy thỏa mãn; (3) Nếu kết quả nhận được vượt
quá sự mong đợi của khách hàng, thì họ sẽ cảm thất rất thỏa mãn đối với dịch vụ đó.
Theo Campbell và cộng sự (1976), Campbell (1981) cho rằng sự thỏa mãn có thể
được xem là một hành động phán xét, so sánh giữa khát vọng và thành tích, từ nhận thức về sự hoàn thành đến sự thiếu hụt. Họ cũng cảm thấy rằng sự thỏa mãn mang tính
cá nhân cao, bị ảnh hưởng nặng nề bởi những kinh nghiệm trong quá khứ và những kỳ
vọng hiện tại. Về mặt lý thuyết, nguyên nhân có thể xảy ra của không thỏa mãn là tồn tại
mức độ mà các nhu cầu không được đáp ứng (Morris and Winter, 1978). Liên quan đến
ý tưởng về sự thỏa mãn với môi trường, Rigby and Vreugdenhil (1987) đánh đồng các thuật ngữ sự thỏa mãn với hạnh phúc và khả năng sống. Rojek và cộng sự (1975) lại cho
rằng sự thỏa mãn với một môi trường cụ thể phụ thuộc vào hai đánh giá chính: (1) cách
thức mà các thuộc tính được cảm nhận và (2) tiêu chuẩn tham chiếu theo đó đo lường.
Sự thỏa mãn (xác nhận tích cực) được biết là xảy ra khi sản phẩm hoặc dịch vụ
tốt hơn mong đợi. Mặt khác, ngược lại nếu kém hơn kết quả mong đợi là không thỏa
mãn. Trong lý thuyết này, kỳ vọng bắt nguồn từ niềm tin về mức độ hiệu suất mà sản
phẩm/dịch vụ sẽ cung cấp, đó là ý nghĩa dự đoán của khái niệm kỳ vọng. Để so sánh,
Kotler (2000) định nghĩa sự thỏa mãn là một người cảm thấy vui thích hay thất vọng,
so sánh một sản phẩm mà cảm nhận về hiệu suất (hoặc kết quả) liên quan đến kỳ vọng
của người dân. Hoyer and MacInni (2001) khuyến khích rằng sự thỏa mãn có thể được
liên kết với cảm giác chấp nhận, hạnh phúc, nhẹ nhõm, phấn khích và vui thích.
Tương tự, Hansemark and Albinsson (2004), đã xác định rằng sự thỏa mãn là
thái độ chung của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ, hoặc phản ứng cảm xúc
về sự khác biệt giữa những gì khách hàng dự đoán và những gì họ nhận được, liên quan đến việc đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hoặc mong muốn. Phần lớn các nghiên cứu về sự thỏa mãn đã sử dụng một số biến thể của mô hình xác nhận. Người ta thường đồng ý rằng sự thỏa mãn có thể được định nghĩa là việc đánh giá sự khác biệt về nhận thức giữa kỳ vọng trước đó và hiệu suất thực tế của sản phẩm.
Sự thỏa mãn là một quá trình đánh giá giữa những gì đã nhận được và những gì
được mong đợi (Parker and Mathews, 2001). Sự thỏa mãn có thể được định nghĩa chính xác là sự khác biệt về nhận thức giữa khát vọng và thành tích (Campbell và cộng
sự, 1976). Sự thỏa mãn không chỉ bị chi phối bởi các khía cạnh vật lý mà còn bởi khả
9
năng hình thành các mạng lưới xã hội. Cuối cùng, sự thỏa mãn là một phản ứng chủ quan đối với một môi trường khách quan (Potter and Cantarero, 2006).
Satsangi and Kearns (1992), định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là khía cạnh
tâm lý, sự thỏa mãn của khách hàng là một thái độ phức tạp. Ngoài ra, Lu (1999) đã
định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là một cấu trúc nhận thức phức tạp. Bên cạnh đó, Ogu (2002) đã báo cáo rằng khái niệm về sự thỏa mãn của nhà ở hoặc nhà ở
thường được sử dụng để đánh giá cư dân ‘nhận thức và cảm xúc đối với các đơn vị nhà ở của họ và môi trường. Mặt khác, Galester (1985) đã định nghĩa sự thỏa mãn của
người dân là khía cạnh xã hội. Khái niệm về sự thỏa mãn của người dân đã trở thành
chỉ số xã hội ưu việt được sử dụng bởi các nhà phát triển nhà ở, nhà phân tích và nhà
hoạch định chính sách trong suốt thập kỷ qua. Ngoài ra, McCray and Day (1977) đề
cập đến sự thỏa mãn về nhà ở là mức độ thỏa mãn của một cá nhân hoặc một thành viên gia đình liên quan đến tình hình nhà ở hiện tại. Từ các khái niệm về sự thỏa mãn
thì có thể sử dụng 6 nhóm chỉ số giúp đánh giá sự thỏa mãn của khách hàng như: i) Kỳ
vọng và cảm nhận thực tế của khách hàng; ii) Khả năng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ
cho bạn bè, người thân; iii) Trải nghiệm thực tế và trải nghiệm lý tưởng của khách
hàng; iv) Sự hài lòng tổng thể; v) Sự hài lòng dựa trên cảm tình và nhận thức; vi) Khả
năng quay trở lại lần sau.
Trái ngược với những điều trên, nhiều chuyên gia đã nhận ra rằng, sự thỏa mãn
của người dân là khía cạnh đa chiều. Chẳng hạn, Bechtel (1997) đã quan sát thấy rằng
sự thỏa mãn của người dân được xác định bởi sự kết hợp của các yếu tố không chỉ bao
gồm hộ gia đình và đặc điểm của hộ gia đình mà còn cả khu vực lân cận và chất lượng
xã hội xung quanh. Hơn nữa, Francescato và cộng sự (1986) đã đề cập đến sự thỏa
mãn của người dân là phản ứng của mọi người đối với môi trường mà họ sống. Trong
định nghĩa này, thuật ngữ môi trường không chỉ liên quan đến các khía cạnh vật lý của
môi trường dân cư như nhà ở, phát triển nhà ở và khu vực lân cận, mà còn cả các khía
cạnh xã hội, kinh tế và tổ chức hoặc thể chế của các thiết lập đó.
Lòng trung thành, theo Neihoff và cộng sự (2001) thì lòng trung thành được
định nghĩa là “những biểu hiện mang tính chủ động về lòng tự hào và sự tận tậm với
tổ chức. Biểu hiện cụ thể của lòng trung thành là nó chống đối lại những chỉ trích về
tổ chức, hạn chế những phàn nàn về tổ chức và nhấn mạnh vào những khía cạnh tích
cực của một tổ chức”.
Sự hài lòng của khách hàng dẫn đến lòng trung thành của khách hàng như là
một quy luật tồn tại trong môi trường kinh doanh. Một khách hàng trung thành là một
10
tài sản rất lớn mà mọi thương hiệu, tổ chức đều muốn có càng nhiều càng tốt. Khách
hàng trung thành có nhiều khả năng tạo ra kinh doanh lặp lại. Họ sẽ chi nhiều tiền hơn
với công ty của bạn. Và họ thậm chí có thể trở thành người ủng hộ thương hiệu của
bạn. Vì vậy, khách hàng của bạn càng hài lòng, cơ hội để họ trở nên trung thành với
thương hiệu của bạn càng cao. Khách hàng hài lòng cũng có xu hướng trở thành khách
hàng trung thành, có nghĩa là giá trị trọn đời cao hơn cho những khách hàng đó. Một
khách hàng trung thành sẽ chi nhiều hơn cho một lần mua hơn là một khách hàng mới.
Hơn nữa, chi phí mua lại của khách hàng cao hơn khoảng 7 lần so với chi phí giữ chân
khách hàng, điều này giúp cải thiện hơn nữa lợi nhuận của bạn.
Hiện nay, đã có rất nhiều các nghiên cứu về sự thỏa mãn được thực hiện bởi các
tác giả trong và ngoài nước nhưng vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về sự
thỏa mãn. Sự thỏa mãn được xác định là một chỉ số quan trọng của khoa học quản lý,
đặc biệt là trong các nghiên cứu về tâm lý. F.W.Taylor - cha đẻ của khoa học quản lý
đã thiết lập một nguyên mẫu cho ý kiến về sự thỏa mãn. Ông cho rằng người ta sẽ so
sánh giữa tỉ lệ giữa đầu tư và mức thu lời. Nếu tỉ lệ trên là cân bằng, thì người ta sẽ
thấy là công bằng. Ngược lại, người ta sẽ thấy bất công và không thoả mãn. Đây có thể
coi là nghiên cứu đầu tiên đặt nền móng cho những nghiên cứu tiếp theo về sự thỏa
mãn đối với việc bồi thường. Mô hình của Lawler (1971) về sự chênh lệch chỉ ra rằng
người ta sẽ so sánh giữa những gì nhận được trong thực tế với những gì họ nghĩ họ nên
được nhận, và kết quả sẽ ảnh hưởng đến mức độ thỏa mãn.
Rojek và cộng sự (1975) đề xuất rằng sự thỏa mãn với một môi trường cụ thể
phụ thuộc vào hai đánh giá chính: (1) cách thức mà các thuộc tính được cảm nhận và
(2) tiêu chuẩn tham chiếu theo đó thuộc tính đo lường. Theo Knop and Sterward
(1973) sự thỏa mãn có thể được khái niệm hóa như là những nhận thức, đánh giá của
các cá nhân về những trải nghiệm của họ trong quá trình quan sát. Kể từ thập niên 40
đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhận diện các tác động đến sự thỏa mãn
của người dân dưới những góc độ khác nhau. Theo Oliver (1980), trong một quá trình
trưng thu đất đai điển hình, mức độ thỏa mãn với các dự án thu hồi có thể xuất phát từ
sự so sánh giữa các giá trị có trong ý nghĩ của họ đối với đất đai của mình và mức bồi
thường thực tế do người thu hồi chi trả. Dựa trên khuôn khổ của lý thuyết phúc lợi xã
hội, sự thỏa mãn của cuộc sống được đo lường dựa trên ba khía cạnh của chất lượng
cuộc sống: (1) điều kiện sống vật chất, (2) an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm và (3)
nhận thức về thái độ, các mối quan hệ xã hội và sự tham gia.
11
1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Nhiều tác giả ở nước ngoài đã nghiên cứu về mức độ thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, tiêu biểu là các tác giả Deutsch (1973), Kotilainen (2011,
2012), Oladapo and Ige (2012), Tyagi and Shinde (2016). Tại mỗi nghiên cứu thì tính
chất nghiên cứu và nhóm đối tượng nghiên cứu có thể khác nhau nhưng điểm chung là
thách thức trong việc đem lại mức đồng thuận hoặc mức độ thỏa mãn cao cho người chủ sở hữu đất/bất động sản bị thu hồi trong các dự án quy hoạch.
Kotler và cộng sự (2002) cho rằng sự thỏa mãn là một cảm giác vui lòng hoặc
không thỏa mãn của một người khi so sánh một hiệu suất cảm nhận được của các sản
phẩm và dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Đó chính là chức năng của hiệu
suất cảm nhận được và những kỳ vọng. Do đó, nếu hiệu suất này không đáp ứng được
như kỳ vọng, khách hàng sẽ thấy không thỏa mãn và nếu hiệu suất này đáp ứng được
như kỳ vọng, có nghĩa là khách hàng được thỏa mãn. Tuy nhiên, nếu hiệu suất đó vượt
qua các kỳ vọng, khách hàng sẽ rất thỏa mãn và ngược lại. “Sự không thỏa mãn” trái
ngược với “sự thỏa mãn”. Trong việc thu hồi đất, “sự không thỏa mãn” là trạng thái
hay cảm giác khó chịu hoặc không bằng lòng hoặc bất mãn với mức bồi thường, hỗ
trợ hoặc các quy trình được áp dụng, điều này thể hiện trạng thái không thỏa mãn với
các quá trình thu hồi đất bắt buộc. Các bên có quyền lợi tại khu đất bắt buộc bị thu hồi
có thể sẽ không thỏa mãn với nhiều vấn đề. Vấn đề thỏa mãn hay không thỏa mãn rất
quan trọng đối với việc cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực dịch vụ công và tư nhân;
hậu quả của việc không thỏa mãn được khách hàng trong cung cấp dịch vụ rất nghiêm trọng. Hoyer and Maclnns (2001) đã chỉ ra rằng nếu khách hàng không được thỏa mãn
với dịch vụ cung cấp thì họ có thể chấm dứt việc mua dịch vụ này, nhưng trong các dự
án thu hồi đất, có thể tạo ra việc người dân kháng cự, từ chối bàn giao mặt bằng, khiếu
kiện kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư.
Kotilainen (2012) với nghiên cứu tại Phần Lan cho thấy trong một thập niên vừa qua, Cơ quan Quản lý đường Phần Lan (Finnra) đã dành xấp xỉ 25 triệu Euro để giải quyết việc bồi thường dựa trên thoả thuận trong các dự án làm đường giao thông công cộng. Câu hỏi đầu tiên nhằm tìm ra liệu rằng mô hình được tạo ra với sự hỗ trợ
của lý thuyết về quá trình xã hội của Deutsch (1973) có thể giải thích được về sự thỏa
mãn của chủ sở hữu đối với quá trình thoả thuận hay không. Sau đó lợi ích của việc sử
dụng thoả thuận thay vì cưỡng chế cũng được nghiên cứu bằng một mô hình được xây
dựng trong quá trình nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, hai lợi ích của việc áp dụng
quá trình thoả thuận thay vì cưỡng chế đã được tìm ra. Thứ nhất, đó là về bản chất của
12
bồi thường. Trong trường hợp cưỡng chế, thì chủ sỡ hữu nhận được chỉ là tiền, nhưng trong trường hợp thoả thuận, thì thoả thuận có thể là bất cứ điều gì, chẳng hạn một
mảnh đất khác, sửa chữa lại nhà/đất hoặc thậm chí là căn hộ cho kì nghỉ. Trong những
trường hợp này, thoả thuận có thể đem lại những giá trị bên ngoài và là một thay thế
cho việc cưỡng chế. Thêm vào đó, các kết quả chỉ ra rằng việc thoả thuận để thu hồi đất không nên được gọi là “bồi thường và thu hồi đất tự nguyện” mà nên được gọi là
“bồi thường và thu hồi đất dựa trên thoả thuận”. Chủ sở hữu đất nên có cơ hội thực để thoả thuận và được bảo mật trong quá trình thảo luận. Hơn nữa việc thỏa thuận nên
được bắt đầu khi người chủ đất muốn bắt đầu thỏa thuận. Cơ quan quản lý nên đưa ra
những biện pháp cung cấp và thông tin chia sẻ giữa nhà thầu và người tham gia thỏa
thuận theo một cách có hiệu quả cao hơn. Mục đích là để đảm bảo phần cuối của quá
trình thoả thuận giải quyết được đầy đủ những vấn đề có trong văn bản thoả thuận.
Trong nghiên cứu của Wan và cộng sự (2020) thì cư dân nông thôn sống phụ
thuộc vào đất đai, do đó đất ở nông thôn đóng vai trò trung tâm trong mối quan hệ
giữa con người và đất đai. Trong những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã tiến
hành xây dựng nông thôn mạnh mẽ theo khuôn khổ xã hội chủ nghĩa và thực hiện
chiến lược phục hồi nông thôn. Nghiên cứu này đã thiết kế một cuộc khảo sát để đo
lường nhận thức của các hộ gia đình nông thôn về ba loại không gian nông thôn:
không gian sinh thái, sinh hoạt và không gian sản xuất. Cuộc khảo sát được thực hiện
cho 379 nông dân, nhận thức và sự thỏa mãn của họ đối với không gian Sinh thái -
Sống - Sản xuất được đánh giá bằng việc sử dụng mô hình phương trình cấu trúc
(SEM). Phân tích các biến quan sát và tiềm ẩn chỉ ra rằng: 1) Mức độ thỏa mãn chung
của nông dân đối với các không gian sinh thái – sống – sản xuất ở mức trung bình. Điểm thỏa mãn trung bình đối với không gian sản xuất là thấp nhất (2,881) trong khi
đó đối với không gian sống là cao nhất (3,468) và điểm cho không gian sinh thái là
giữa (3,351); 2) Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn
về không gian sống là tiện nghi trong nhà, cung cấp nước sinh hoạt, xử lý nước thải sinh hoạt. Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn về không gian sản xuất là nước tưới, số lượng đất canh tác, độ phì đất canh tác. Ba biến quan sát ngoại sinh quan trọng nhất liên quan đến sự thỏa mãn về không gian sinh thái
là xử lý rác thải, lớp phủ thực vật, lũ lụt và ngập úng. Nghiên cứu này, các tác giả đã thiết kế một loạt thang đo Likert để khảo sát mức độ thỏa mãn của nông dân đối với không gian sống tại địa phương của họ. Các câu trả lời câu hỏi được đánh giá trên thang điểm Likert 5 điểm là “rất không đồng ý” (1), “không đồng ý” (2), “chung chung
hoặc không chính xác” (3), “đồng ý” (4) và “rất đồng ý” (5 ). Các tác giả đưa ra một
13
giả thuyết cơ bản rằng tổng mức độ hài lòng về không gian nông thôn của các hộ gia đình nông thôn dựa trên sự hài lòng về ba khía cạnh: sinh hoạt, sản xuất và sinh thái.
Các hộ gia đình nông thôn phụ thuộc hoàn toàn vào không gian sống của họ. Một đánh
giá tài liệu cho rằng ngoài nhận thức của các hộ gia đình nông thôn về điều kiện nhà ở
của họ, các yếu tố khác trong không gian sống cũng cần được xem xét. Do đó, để đánh giá đầy đủ sự thỏa mãn trong không gian sống, nghiên cứu đã đo lường các nhận thức
liên quan đến giao thông đường bộ, tiện nghi trong nhà, mối quan hệ hàng xóm, điều kiện nước sinh hoạt, xử lý nước thải sinh hoạt, điều trị y tế tại địa phương và sự thuận
tiện khi mua sắm tại chợ địa phương. Về sự thỏa mãn của không gian sản xuất, các biến
quan sát bao gồm số lượng đất canh tác, độ phì nhiêu của đất canh tác, khả năng tiếp cận
đất canh tác, cơ sở nông nghiệp, cơ hội việc làm trong làng và đủ nước tưới. Sự thỏa
mãn trong không gian sinh thái bao gồm các đặc điểm của sa mạc hóa, chất lượng nước sông, lũ lụt và ngập úng, xử lý rác và độ che phủ của thảm thực vật.
Theo Cheng và cộng sự (2018), kể từ khi khởi động chính sách cải cách kinh tế
và mở cửa vào cuối những năm 1970, các thành phố của Trung Quốc đã chứng kiến sự
phát triển và mở rộng đáng kể, dẫn đến một lượng lớn đất nông nghiệp được chuyển
đổi để xây dựng đô thị. Do nhu cầu vừa bảo vệ đất canh tác vừa đưa ra các phương án
phát triển đô thị, chính quyền trung ương đã đề xuất Chính sách liên kết vào năm
2005. Theo kế hoạch này, nông dân được TĐC vào các cộng đồng tập trung bằng cách
hợp nhất trang trại ban đầu của họ thành đất nông nghiệp và cho phép chuyển hạn
ngạch đất đai cho xây dựng đô thị. Việc thực hiện chính sách liên kết đã tái cấu trúc lối
sống và nông nghiệp nông thôn. Thông qua nghiên cứu này các tác giả xem xét sự thoả
mãn của nông dân đối với chính sách liên kết và khám phá các yếu tố cơ bản. Báo cáo sử dụng nghiên cứu điển hình ở tỉnh Hồ Bắc, các cuộc phỏng vấn trực tiếp đã được
thực hiện với người nông dân trong các cộng đồng tập trung để hiểu sự thỏa mãn của
họ đối với Chính sách liên kết. Dữ liệu phỏng vấn được mã hóa và phân tích bằng cách
sử dụng Mô hình SEM để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của nông dân. Kết quả cho thấy mức độ sẵn sàng tham gia của nông dân, kiến thức về chính sách liên kết, điều kiện sống trước khi thu hồi đất và TĐC có ảnh hưởng đáng kể đến sự thỏa mãn đối với việc thực hiện chính sách. Nghiên cứu cũng đề nghị rằng cần tham
vấn có ý nghĩa và cải thiện thông tin liên lạc giữa nông dân và chính quyền địa phương để nâng cao khả năng chấp nhận của xã hội đối với các kết quả chính sách. Để giảm thiểu tác động xã hội của việc TĐC, các làng đô thị hóa sẽ được ưu tiên thực hiện dự án và chính quyền địa phương nên đưa ra một kế hoạch hỗ trợ dài hạn để hỗ trợ nông
dân trong quá trình chuyển đổi lối sống của họ.
14
Oladapo and Ige (2014) nghiên cứu khảo sát thông qua thiết kế bảng câu hỏi để lấy dữ liệu từ những người yêu cầu bồi thường đã thanh toán trong kỳ. Nhận thức của
người khiếu nại về tiền bồi thường khi thu hồi đất bắt buộc được đo lường trên thang
điểm Likert 5 điểm. Nghiên cứu cho thấy chỉ số thỏa mãn tương đối của những người
yêu cầu bồi thường đối với khoản bồi thường được trả là dưới mức hài lòng chấp nhận được. Sau đó, nghiên cứu đã khuyến nghị rằng để có một xã hội hòa bình không có
xung đột và hỗn loạn, các phương pháp định giá thích hợp và việc chi trả các khoản bồi thường thỏa đáng sẽ không làm cho những người yêu cầu thiệt hại nặng hơn là
điều cần thiết. Sự thỏa mãn của hộ gia đình trong nghiên cứu này được xác định bằng
các nội dung sau: i) Cách tiếp cận của các cơ quan có thẩm quyền đối với người yêu
cầu bồi thường; ii) Phản ứng của cán bộ địa chính khi cần làm rõ và khi có thắc mắc;
iii) Thời gian thực hiện thanh toán; iv) việc chỉ định đại diện của những người yêu cầu bồi thường để đảm bảo bồi thường đầy đủ; v) Bồi thường được trả so với giá trị tài
sản; vi) Việc chấp nhận dự án được đề xuất bởi các nguyên đơn. Kết quả cho thấy tiền
bồi thường được trả so với giá trị tài sản được xếp hạng cao nhất trong các yếu tố
chính được nhấn mạnh là yếu tố quyết định mức độ thỏa mãn của người yêu cầu đối
với khoản bồi thường khi thu hồi đất. Điều này thể hiện rõ qua chỉ số thỏa mãn tương
đối của nó là 0,47. Phản hồi của cán bộ địa chính khi đưa ra các giải thích và những
thắc mắc được giải đáp tiếp theo với chỉ số thỏa mãn tương đối là 0,44. Tất cả các yếu
tố được đánh dấu đều có chỉ số thỏa mãn tương đối thấp, có nghĩa người dân không
thỏa mãn. Do đó, điều này phù hợp với những phát hiện của Alias and Daud (2006),
Omar and Ismail (2009) cho rằng thách thức lớn phải đối mặt trong việc thu hồi đất là
số lượng bồi thường mà người được hỏi cho rằng không đủ để đáp ứng nhận thức về bồi thường thỏa đáng theo các luật liên quan.
Lisec và cộng sự (2014) cho thấy tích tụ ruộng đất đã là một công cụ quan trọng
của phát triển nông thôn trong hơn một thế kỷ qua trên khắp châu Âu. Ngày nay, dồn
điền đổi thửa có thể là một phần không thể thiếu trong các dự án phát triển nông thôn và thành thị. Ngoài những nỗ lực nhằm làm cho nông nghiệp và lâm nghiệp trở nên cạnh tranh hơn thông qua quá trình tái phân bổ toàn diện, việc cải thiện mạng lưới đường giao thông và thoát nước, cảnh quan, quản lý môi trường, các dự án bảo tồn và
các chức năng khác có thể được thực hiện trong quá trình dồn điền đổi thửa. Bên cạnh khung thể chế chính thức về dồn điền đổi thửa, các thể chế phi chính thức có thể có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện tích tụ tập trung ruộng đất. Sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần giúp họ hiểu rõ mục tiêu và thỏa mãn với kết quả của việc
dồn điền đổi thửa. Các tác giả đã chỉ ra rằng sự tham gia tích cực của các chủ đất trong
15
việc dồn điền đổi thửa ảnh hưởng đến nhận thức của chủ đất về công việc này. Nghiên cứu đánh giá mức độ thỏa mãn của người dân dựa trên các tiêu chí như: i) mức độ thỏa
mãn với việc định giá đất; ii) đánh giá mức độ thỏa mãn đối với thời gian dồn điền đổi
thửa; iii) Đánh giá mức độ thỏa mãn đối với kết quả dồn điền đổi thửa; iv) Mức độ
thỏa mãn với cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận các lô đất mới của mình; v) mức độ thỏa mãn của bạn với chất lượng của các lô đất mới. Với các vấn đề đánh giá mức độ
thỏa mãn trên, chủ hộ sẽ tự đưa ra đánh giá dựa trên thang 5 mức độ với số điểm từ 1 đến 5 (1-cực kỳ không thỏa mãn; 2-không thỏa mãn; 3-thỏa mãn trung bình; 4-thỏa
mãn; 5-rất thỏa mãn), đánh giá chất lượng đất và vị trí thửa đất mới và cơ sở hạ tầng
(trong cả ba dự án dồn điền đổi thửa, điều này liên quan đến khả năng tiếp cận của
thửa đất với đường mới).
Mặc dù người dân nhìn chung thỏa mãn với kết quả của việc dồn điền đổi thửa, nhưng điều thú vị là họ ít thỏa mãn hơn với chất lượng đất. Lợi ích của việc dồn điền
đổi thửa được nhận thấy là cao vì khả năng tiếp cận giao thông tốt hơn và vị trí thuận
lợi hơn. Có một số điểm khác biệt giữa ba khu vực được chọn về mức độ thỏa mãn
trung bình của chủ sở hữu đất đối với kết quả của việc dồn điền đổi thửa mà họ đã
tham gia. Ví dụ, những người tham gia từ Ptujsko polje I (PPI), nhìn chung ít thỏa mãn
với cơ sở hạ tầng mới và khả năng tiếp cận các thửa đất mới so với những người được
hỏi đến từ các khu vực dồn điền đổi thửa khác. Điều này được giải thích là do mức độ
điều chỉnh đất đai thấp hơn (trong PPI, số lượng thửa đất không giảm đến mức như
trong hai khu vực dồn điền đổi thửa kia) và do sự đóng góp của chủ đất cao hơn cơ sở
hạ tầng đường mới (tức là mất đất). Đối với trường hợp của PPI, nghiên cứu cho thấy
rằng đã có sự chậm trễ trong giai đoạn cuối cùng, nơi một số kiến nghị đã xuất hiện chống lại quy định chính thức về cơ cấu thửa đất mới. Một phát hiện rất quan trọng là
sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần giúp họ hiểu rõ mục tiêu và thỏa mãn
với kết quả của việc dồn điền đổi thửa. Một trong những giai đoạn quan trọng của quá
trình dồn điền đổi thửa là giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn này thường phụ thuộc vào các sáng kiến và lợi ích của chủ đất và các tác nhân khác trong việc dồn điền đổi thửa. Giai đoạn chuẩn bị nên được đơn giản hóa và làm nhanh.
Ngoài ra, việc tối ưu hóa quy trình được đề xuất bằng cách rút ngắn thời hạn
kiến nghị, bằng cách đẩy nhanh các quy trình thực hiện. Ngoài ra, việc xây dựng mạng lưới đường và bố trí các can thiệp không gian khác nên được thực hiện song song với việc giao lại đất. Tóm lại, kết quả của nghiên cứu này đã khẳng định sự tham gia tích cực của các chủ đất góp phần vào sự thỏa mãn chung của họ đối với kết quả dồn điền
đổi thửa. Họ đã chỉ ra rằng sự tham gia tích cực của chủ đất và các bên liên quan khác
16
trong việc dồn điền đổi thửa cũng ảnh hưởng tích cực đến nhận thức của chủ đất về việc dồn điền đổi thửa, đây thực sự là nền tảng cho việc xây dựng các thông lệ tốt
trong lĩnh vực này và hy vọng có thể là cách tiếp cận quan trọng để thúc đẩy các dự án
toàn diện trong tương lai.
Nhóm tác giả Zeithaml and Bitner (2000) đã cho thấy nếu người dân kỳ vọng được hưởng lợi từ một chương trình thu hồi đất thông qua việc được bồi thường nhiều
và phải làm ít thủ tục liên quan và nếu thực tế người dân nhận được trái ngược với kỳ vọng thì sẽ dẫn đến sự thỏa mãn thấp của người dân. Khi những cơ quan thu hồi đất gây
ra những vấn đề trong các chương trình thu hồi, điều này sẽ gây ra sự không thỏa mãn
đối với người dân.
1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn
Lý thuyết công bằng
Theo Adams (1963, 1966) cho rằng con người luôn muốn được đối xử công bằng, nhân viên có xu hướng đánh giá sự công bằng thông qua việc so sánh công
sức họ bỏ ra so với những thứ họ nhận được cũng như so sánh tỉ lệ đó của họ với tỉ
lệ của những đồng nghiệp trong công ty. Nếu kết quả của sự so sánh đó là sự ngang
bằng nhau tức công bằng thì họ sẽ tiếp tục duy trì nỗ lực và hiệu suất làm việc của
mình. Nếu thù lao nhận được vượt quá mong đợi của họ, họ sẽ có xu hướng gia
tăng công sức của họ trong công việc, ngược lại nếu thù lao họ nhận được thấp hơn
so với đóng góp của họ, họ sẽ có xu hướng giảm bớt nỗ lực làm việc hoặc tìm các
giải pháp khác như vắng mặt trong giờ làm việc, đòi tăng lương, hoặc thôi việc để
xác lập công bằng mới.
Một cá nhân nếu cảm nhận là họ được đối xử công bằng sẽ thúc đẩy động lực
lao động và làm tăng kết quả thực hiện công việc và ngược lại, nếu họ nhận ra rằng
mình bị đối xử không công bằng từ vấn đề lương bổng, cơ hội đào tạo thăng tiến, đến
sự hỗ trợ từ cấp trên thì sẽ không có động lực làm việc. Tuy nhiên, do các cá nhân thường có xu hướng nhìn nhận phóng đại thành tích bản thân nên rất khó xác lập được sự nhìn nhận công bằng trong tập thể lao động. Cái khó đối với các nhà quản trị là phải biết kiểm soát tình hình, loại bỏ hoặc hạn chế tối đa sự bất công khi phân chia quyền lợi trong nhóm, tổ.
Các nhà quản trị cũng cần tạo ra và duy trì sự công bằng trong tổ chức bằng các biện pháp như: i) nhận thức rằng người lao động sẽ so sánh sự công bằng bất cứ khi
nào những quyền lợi mà họ thấy rõ được phân chia, nên có thể áp dụng trả lương qua
tài khoản, bí mật mức lương trong nội bộ doanh nghiệp; tạo cơ hội thăng tiến ngang
17
nhau cho những người có năng lực thành tích ngang nhau; loại bỏ sự phân biệt đối xử về tuổi, giới tính, chủng tộc, tôn giáo.
Từ những năm 1960, 1970, lý thuyết công bằng được ứng dụng nhiều trong tổ
chức. Nó được hiểu là sự phân bố hợp lý, bình đẳng về mức lương và thưởng của người
lao động. Ngày nay, nhiều nghiên cứu cho thấy, không chỉ là mức lương mà người lao động còn quan tâm nhiều đến môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, chức vụ. Tất cả
những thứ đó được thể hiện qua những quyết định quản lý là hợp lý, rõ ràng, bình đẳng.
Lý thuyết công bằng của Adams (1966) được coi là lý thuyết nổi tiếng nhất liên
quan đến công bằng. Tuy nhiên, các học giả sau này đã chỉ trích lý thuyết, trong đó nó
chỉ tập trung vào phân phối kết quả mà bỏ qua các thủ tục để đưa ra quyết định phân
bổ kết quả (Colquitt và cộng sự , 2006; Konovsky, 2000; Tanya and Kristina, 2012).
Trong các trường hợp khác nhau, kết quả có thể được coi là công bằng, nhưng các thủ
tục mà người ra quyết định phân phối kết quả có thể không được coi là công bằng.
Dựa trên sự chỉ trích này, các lý thuyết sau này cũng tập trung vào việc điều tra
tính công bằng của các thủ tục. Ví dụ, trong lý thuyết công bằng của Folger and
Cropanzano (2001), các tình huống được coi là không công bằng khi các cá nhân cho
rằng các bên liên quan khác như người ra quyết định tham gia vào các thủ tục 'có thể',
'nên' hoặc 'sẽ' đã thực hiện chúng theo một cách khác mà họ cho là công bằng.
Colquitt và các cộng sự (2001), Cropanzano and Greenberg (1997) đã đưa ra lý
thuyết về sự công bằng trong tổ chức đã tạo ra một khung chuẩn hữu ích đó là công
bằng trong phân phối, quy trình, trao đổi, và thông tin. Colquitt và cộng sự (2005) cho
thấy: đối với cá nhân, sự công bằng thỏa mãn nhu cầu của cá nhân về việc kiểm soát,
tự tin, cảm giác hạnh phúc và có những ràng buộc về nghĩa vụ, đạo đức; đối với tổ chức, sự công bằng tạo ra một khung pháp lý để quản lý, do đó sẽ làm giảm nguy cơ
có hành vi gian lận, tăng cường sự tin tưởng vào quản lý, giảm nỗi sợ bị lạm dụng, khuyến khích sự hợp tác của người lao động.
Có thể thấy công bằng là một phạm trù khoa học được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau bao gồm cả triết học, chính trị, pháp lý… Công bằng được coi là một vấn đề xã hội có ý nghĩa khách quan mà con người cần hướng tới trong tư duy, nhận thức và hành động. Chính vì vậy, công bằng vừa là mục đích, vừa
là chuẩn mực để đánh giá sự tồn tại, phát triển của cộng đồng, của xã hội loài người. Sự thiết lập công bằng dựa vào ý chí chủ quan, do con người (nhóm, thậm chí là giai cấp) quyết định là duy tâm, là trái quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Có chăng, nó chỉ
18
được xác định ở phạm vi và quan niệm. Phạm vi và quan niệm lại phụ thuộc vào quá trình nhận thức do điều kiện kinh tế quyết định.
Tuy nhiên, lý thuyết công bằng vẫn còn một số hạn chế như làm thế nào các cá
nhân có thể chọn được người để đối chiếu, làm thế nào họ có thể kết hợp và so sánh
đầu vào và đầu ra của mình và của người khác để đi đến kết luận so sánh. Sự công bằng hay bất công chỉ có tính chất tương đối và phụ thuộc vào nhận thức của từng cá
nhân và mối quan hệ của cá nhân với nhóm và tổ chức. Mọi người có thể nhận thấy sự công bằng không chỉ về các yếu tố đầu vào và kết quả cụ thể của mối quan hệ, mà còn
về mặt hệ thống bao quát quyết định các đầu vào và đầu ra đó. Do đó, trong thu hồi
đất, bồi thường, người ta có thể cảm thấy rằng khoản bồi thường của mình là công
bằng với người khác, nhưng người ta có thể xem toàn bộ hệ thống bồi thường là không
công bằng (Carrell and Dittrich, 1978).
Trong thu hồi đất, kết quả của các hộ khi nhà nước thu hồi đất có thể được định
nghĩa là các giá trị hữu hình và vô hình mà việc thu hồi đất mang lại. Các kết quả cũng
có thể được các bên liên quan khác nhau nhìn nhận khác nhau (Hayibor, 2012). Các hộ
bị thu hồi đất có thể cho rằng giá đền bù của họ là thấp trong khi đó, các cơ quan thu
hồi đất có thể nhận thấy nó là cao.
Lý thuyết đồng hóa
Lewin (1975) ban đầu hình thành lý thuyết về sự bất hòa về nhận thức, sau này
được phát triển và hoàn thiện bởi Festinger (1957). Lý thuyết bất hòa tạo thành cơ sở
của lý thuyết đồng hóa. Lý thuyết bất hòa đặt ra rằng người dùng của một sản phẩm cụ
thể tạo ra một số so sánh nhận thức giữa các kỳ vọng về sản phẩm và hiệu suất sản
phẩm được cảm nhận. Nếu có sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm được cảm nhận thì sự bất đồng hoặc không xác nhận tiêu cực sẽ phát sinh. Quan điểm này
về đánh giá sau khi sử dụng của người tiêu dùng, đã được đưa vào tài liệu về sự thỏa mãn dưới dạng lý thuyết đồng hóa của Vàerson (1994) trong công trình nghiên cứu về sự không thỏa mãn của người tiêu dùng; ảnh hưởng của sự mong đợi không được xác nhận đối với hiệu suất sản phẩm được cảm nhận. Theo Vàerson (1994) người tiêu dùng tìm cách tránh sự không thỏa mãn bằng cách điều chỉnh nhận thức về một sản phẩm nhất định để mang lại cho nó phù hợp hơn với mong đợi.
Người tiêu dùng cũng có thể làm giảm sự không thỏa mãn do sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm bằng cách thay đổi kỳ vọng sao cho trùng với hiệu suất sản phẩm được nhận thức hoặc bằng cách tăng mức độ thỏa mãn bằng cách giảm thiểu
tầm quan trọng tương đối của sự không thỏa mãn đã trải qua (Olson and Dover, 1979).
19
Tuy nhiên, lý thuyết đồng hóa có một số điểm yếu. Thứ nhất, cách tiếp cận quy định rằng có một mối quan hệ giữa kỳ vọng và sự thỏa mãn nhưng không nêu rõ việc xác
nhận kỳ vọng dẫn đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn như thế nào. Thứ hai, lý
thuyết cũng cho rằng người tiêu dùng được truyền cảm hứng đủ để điều chỉnh kỳ vọng
hoặc nhận thức của họ về hiệu suất của sản phẩm (Forman, 1986). Theo Peyton và cộng sự (2003), nếu người tiêu dùng điều chỉnh kỳ vọng hoặc nhận thức về hiệu suất
sản phẩm thì sự không thỏa mãn sẽ không phải là kết quả của quá trình đánh giá sau khi sử dụng. Một số học giả như Olson and Dover (1979) và Vàerson (1994) đã phát
hiện ra rằng việc kiểm soát hiệu suất sản phẩm thực tế có thể dẫn đến một mối quan hệ
tích cực giữa kỳ vọng và sự thỏa mãn. Do đó, Bitner (1987) lập luận rằng dường như
sự không thỏa mãn không bao giờ có thể xảy ra ngoại trừ các quy trình đánh giá sẽ bắt
đầu với những kỳ vọng tiêu cực của người tiêu dùng.
Lý thuyết tương phản
Lý thuyết tương phản được giới thiệu lần đầu tiên bởi Hovl và cộng sự (1957).
Tuy nhiên, Cardozo (1986) cho rằng lý thuyết này đưa ra một quan điểm khác về quy
trình đánh giá hậu kỳ của người tiêu dùng, ngược lại với lý thuyết đồng hóa đã đưa ra
giả thuyết rằng đánh giá sau khi sử dụng dẫn đến kết quả trong các dự đoán ngược lại
về tác động của sự mong đợi đối với sự thỏa mãn. Lý thuyết tương phản đặt ra rằng
người tiêu dùng sẽ phóng đại bất kỳ sự tương phản nào giữa kỳ vọng và đánh giá sản
phẩm. Dawes và cộng sự (1972) định nghĩa lý thuyết tương phản là xu hướng để
phóng đại sự khác biệt giữa "thái độ của chính mình và thái độ được thể hiện bởi các
tuyên bố ý kiến" được xác nhận bởi những người có quan điểm đối lập.
Trong khi lý thuyết đồng hóa cho thấy rằng người dùng sẽ tìm cách giảm thiểu sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất; lý thuyết tương phản lập luận rằng một hiệu ứng bất
ngờ phát sinh dẫn đến sự khác biệt bị phóng đại (Peyton and Kamery, 2003). Lý thuyết
này được tiếp tục phát triển thành lý thuyết tương phản đồng hóa bởi Vàerson (1994).
Lý thuyết tương phản đồng hóa
Lý thuyết tương phản đồng hóa đã được đề xuất như một cách khác để giải thích mối quan hệ giữa các biến trong mô hình xác nhận (Hovlvà and Sherif, 1957). Lý thuyết này là sự kết hợp của cả lý thuyết đồng hóa và lý thuyết tương phản; mô hình cho rằng
sự thỏa mãn là một hàm của mức độ chênh lệch giữa hiệu suất mong đợi và hiệu suất được cảm nhận. Nói chung, người tiêu dùng của bất kỳ sản phẩm nào đều có khu vực chấp nhận hoặc từ chối đối với nhận thức của họ (Peyton and Kamery, 2003). Cũng
giống như lý thuyết đồng hóa, người tiêu dùng sẽ có xu hướng điều chỉnh sự khác biệt
20
trong nhận thức về hiệu suất sản phẩm để mang nó phù hợp với mong đợi trước đó, nhưng chỉ khi sự khác biệt là tương đối nhỏ. Peyton and Kamery (2003) chỉ ra rằng khi
có sự khác biệt lớn giữa các kỳ vọng và hiệu suất nhận thức, các hiệu ứng tương phản
xảy ra và người tiêu dùng có xu hướng phóng đại sự khác biệt về nhận thức.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hầu hết những khác biệt với một sản phẩm nhất định không chỉ là phóng đại mà đơn giản là sự đánh giá thực sự của sản phẩm, dựa trên
những gì người tiêu dùng đã trải nghiệm. Một số đánh giá có thể là một biểu hiện cảm xúc của đánh giá của người tiêu dùng liên quan đến chức năng của sản phẩm. Mặt
khác, Peyton and Kamery (2003) cho rằng việc đồng hóa hay tương phản xảy ra phụ
thuộc vào sự chênh lệch nhận thức giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm thực tế.
Lý thuyết tương phản đồng hóa cũng cho rằng nỗ lực của Forman (1986) về lý
thuyết đồng hóa trong việc dung hòa hai lý thuyết trước đó là yếu về phương pháp.
Vàerson and Fornell (1994) khẳng định rằng người tiêu dùng sở hữu "ngưỡng xác
nhận sự khác biệt”. Lý thuyết tương phản đồng hóa chứng minh rằng cả mô hình lý
thuyết đồng hóa và mô hình tương phản đều có khả năng áp dụng trong nghiên cứu về
sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Mức độ khác biệt cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu
ứng đồng hóa hay hiệu ứng tương phản sẽ được quan sát thấy khi hiệu suất sản phẩm
khó đánh giá, kỳ vọng có thể chi phối và hiệu ứng đồng hóa sẽ được quan sát hiệu ứng
tương phản sẽ dẫn đến tình huống có sự tham gia cao. Sức mạnh của những kỳ vọng
cũng có thể ảnh hưởng đến việc liệu các hiệu ứng đồng hóa hay tương phản có được
quan sát hay không" (Bitner, 1987).
Những nỗ lực của các nhà nghiên cứu để kiểm tra thực nghiệm mô hình đồng
hóa đã đạt được kết quả khác nhau. Chẳng hạn, Vàerson and Fornell (1994), Olson a Dover (1979) đã tìm thấy một số bằng chứng ủng hộ phương pháp lý thuyết đồng hóa.
Khi tranh luận cả hai nghiên cứu này, Oliver (1965) cho rằng kết quả của Vàerson và
Fornell (1994), Olson and Dover (1979) không thể được chấp nhận vì họ chỉ đo lường những kỳ vọng và cho rằng chỉ là sự khác biệt về nhận thức giữa sự không xác nhận hoặc sự thỏa mãn.
Mâu thuẫn với những phát hiện ủng hộ lý thuyết đồng hóa, Cadotte và cộng sự (1983) đã báo cáo mối tương quan tiêu cực giữa kỳ vọng và sự không xác nhận. Do
đó, họ đã giải quyết rằng sự thỏa mãn thực sự là một chức năng phụ gia của hai khái
niệm. Peyton and Kamery (2003) khẳng định rằng sự không chắc chắn được tạo ra bởi kết quả nghiên cứu từ các tác phẩm của Oliver (1980b, 1977a, 1977b), không tìm thấy
mối quan hệ nào giữa kỳ vọng và sự không xác nhận. Hơn nữa, Olshavsky and Miller
(1972) trong kỳ vọng của người tiêu dùng, hiệu suất sản phẩm và chất lượng sản phẩm
21
được nhận thức đã ủng hộ lý thuyết tương phản đồng hóa. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện ra rằng nếu sự khác biệt quá lớn để bị đồng hóa, thì hiệu ứng tương phản xảy ra.
Lý thuyết về sự khác biệt
Lý thuyết về sự khác biệt cho rằng nếu hiệu suất vượt quá mong đợi, người
dùng sẽ được xác nhận tích cực hoặc thỏa mãn. Mặt khác, nếu hiệu suất không đáp ứng mong đợi, người tiêu dùng sẽ không được xác nhận hoặc không thỏa mãn. Do đó,
sự xác nhận tích cực dẫn đến tăng sự thỏa mãn, với sự không xác nhận tiêu cực có tác dụng ngược lại, trong khi sự không xác nhận xảy ra khi hiệu suất phù hợp với mong
đợi (không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn). Kotler và cộng sự (1996) cho rằng điều này
là do những kỳ vọng của người dùng được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm trong
quá khứ. Oliver (1993), đề xuất rằng kỳ vọng có thể vượt quá theo hai cách khác nhau:
mức độ hiệu suất nằm trong phạm vi bình thường (sản phẩm tốt hơn mong đợi); mức độ
hiệu suất là đáng ngạc nhiên tích cực (người ta sẽ không mong đợi rằng sản phẩm sẽ hoạt
động tốt như vậy).
Mô hình xác nhận kỳ vọng không chỉ giải thích sự thỏa mãn với hiệu suất sản
phẩm, mà còn cả sự thỏa mãn về dịch vụ. Tuy nhiên, Churchill and Surprenant (1982)
đã nhận thấy sự không nhất quán trong đó mô hình không thỏa mãn cũng không ảnh
hưởng đến sự thỏa mãn của người dùng đối với các sản phẩm bền. Parker and Matthews
(2001) xem sự thỏa mãn là sự khác biệt giữa quan sát và mong muốn. Điều này đã được
chứng minh là phù hợp với lý thuyết chênh lệch giá trị nhận thức được phát triển để đáp
ứng với vấn đề mà người dùng có thể thỏa mãn bởi các khía cạnh mà kỳ vọng không
bao giờ tồn tại. Những gì người tiêu dùng muốn là không có sự chênh lệch giữa các giá
trị của họ: nhu cầu, mong muốn và đối tượng đánh giá của họ (Yi, 1990).
Bên cạnh lý thuyết khác biệt, lý thuyết vốn chủ sở hữu cũng đã được áp dụng
cho sự thỏa mãn của mô hình Parker and Matthews (2001). Lý thuyết công bằng cho rằng các cá nhân so sánh tỷ lệ đầu vào đầu ra của họ với tỷ lệ của những người khác Poisz and Grumbkow (1988) và người tiêu dùng sẽ thỏa mãn nếu lợi nhuận ròng được coi là công bằng. Gần đây hơn, theo Parker and Mathews (2001), sự chú ý đổi mới đã được tập trung vào bản chất của sự thỏa mãn. Do sự khác biệt lớn về bản chất và ý nghĩa của sự thỏa mãn, nhiều hiệp hội và công ty đang sử dụng các điểm tham chiếu
khác nhau làm tiêu chuẩn để so sánh số liệu về sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Để
giải quyết điều này, một số chỉ số thỏa mãn khách hàng quốc gia hài hòa đã được phát triển (Spreng and Olshavsky, 1996). Ví dụ: Chỉ số thỏa mãn của người tiêu dùng Mỹ
(ACSI) và Chỉ số thỏa mãn của khách hàng châu Âu (ECSI) tương ứng là hai chỉ số
22
thỏa mãn của khách hàng đối với Hoa Kỳ và các nước châu Âu. Chỉ số thỏa mãn của Nam Phi dựa trên (Chỉ số SAS) người Mỹ.
Chỉ số thỏa mãn của khách hàng (ACSI) trong Fornell (1996) định nghĩa sự
thỏa mãn là mức trung bình có trọng số của ba xếp hạng khảo sát; chất lượng cảm
nhận, giá trị cảm nhận và sự mong đợi của khách hàng. Chỉ số ACSI đã được sử dụng để đo lường mức độ thỏa mãn trong sản xuất, vận tải, thông tin liên lạc và tiện ích, bán
lẻ, tài chính và bảo hiểm, dịch vụ, hành chính công và thậm chí cả Chính phủ (Bin và Chi, 2006). Điều này là do kết quả đánh giá về sự thỏa mãn của khách hàng là cao nhất
đối với các sản phẩm cạnh tranh, thấp hơn đối với các dịch vụ và nhà bán lẻ cạnh tranh
và thấp nhất đối với các cơ quan chính phủ và nhà nước. Trong mô hình ACSI, kỳ
vọng của người tiêu dùng ảnh hưởng đến việc đánh giá chất lượng và dự đoán sản
phẩm hoặc dịch vụ sẽ hoạt động tốt như thế nào. Chất lượng cảm nhận trong mô hình là mức độ mà một sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng mong đợi của người tiêu dùng và
điều này thường có tác động lớn nhất đến sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Cuối cùng,
sự thỏa mãn có mối quan hệ nghịch đảo với các khiếu nại của khách hàng, được đo
bằng tỷ lệ phần trăm số người được hỏi về các vấn đề với sản phẩm hoặc dịch vụ được
đo trong một khung thời gian xác định.
Có thể thấy hiện tại có rất nhiều lý thuyết về sự thỏa mãn nhưng không có bằng
chứng nào chứng tỏ rằng các lý thuyết về sự thỏa mãn đã được sử dụng trong các
nghiên cứu về thu hồi, các lý thuyết trên phần nào có thể giải thích được cho sự thỏa
mãn và không thỏa mãn trong việc thu hồi đất một cách đầy đủ hơn.
1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Các nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới đã cố gắng tìm tòi khám phá ra những
đặc điểm cốt lõi, những yếu tố cấu thành, ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân có đất bị thu hồi để thực hiện các công trình, dự án phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
1.2.1. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ
Theo Kakulu (2008), cộng đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường nếu có liên quan đến cưỡng chế hoặc tranh chấp. Trong nghiên cứu của Robinson (1995) cũng chỉ ra rằng nếu mức bồi thường là đầy đủ và cao hơn, chủ sở hữu sẽ hoan nghênh việc thu
hồi đất. Kết quả nghiên cứu về chỉ số thỏa mãn cho thấy chỉ số thỏa mãn tương đối đạt
được dưới 4.0, có nghĩa rằng những người tham gia khảo sát không thỏa mãn với mức
bồi thường. Tác nhân chủ yếu đó chính là chênh lệch giữa mức tiền bồi thường với giá
23
thị trường (RSI=0,47). Kotilainen (2011) tại Phần Lan, và Xinliang (2012) tại Trung Quốc tìm ra rằng sự thoả mãn về mức tiền bồi thường rất quan trọng và sâu xa hơn là
sự chênh lệch giữa tiền bồi thường với giá trị thị trường thực tế của bất động sản là yếu
tố lớn dẫn đến sự không thỏa mãn của những người dân có đất bị thu hồi để thực hiện
các dự án. Mức bồi thường không đầy đủ chính là một mâu thuẫn lớn trong quá trình thực hiện thu hồi đất để thực hiện các dự án.
Nghiên cứu của Oladapo and Ige (2012) tại Nigeria trình bày quan điểm của người nhận bồi thường đối với việc thu hồi đất và các biến thể trong việc chi trả bồi
thường đối với hành động thu hồi đất mang tính cưỡng chế ở một vài thành phố thuộc
bang Ondo vào thời điểm năm 2012. Đây là một nghiên cứu khảo sát sử dụng thiết kế
bảng câu hỏi để tìm hiểu sâu về dữ liệu thu thập từ việc bồi thường cho người nhận bồi
thường trong quá trình thu hồi đất. Quan điểm của người nhận bồi thường đối với việc bồi thường do thu hồi đất cưỡng chế được đo trên thang Likert 5 điểm/mức. Dữ liệu
được phân tích sử dụng kiểm định T-test cặp và bảng chỉ số về mức thỏa mãn tương
đối. Nghiên cứu chỉ ra sự chênh lệch lớn giữa trung bình (mean) của mức trả bồi
thường và giá trị thị trường của tài sản bị thu hồi, trong khi chỉ số thỏa mãn tương đối
của bên người nhận bồi thường đối với mức bồi thường được trả là dưới cả mức thỏa
mãn chấp nhận được. Nghiên cứu đưa ra gợi ý rằng để tránh được mâu thuẫn và hỗn
loạn trong xã hội, quan trọng là phải có các phương pháp định giá đúng giá tài sản và
việc bồi thường phải chi trả đầy đủ để không khiến người bị thu hồi đất rơi vào tình
trạng bị thiệt thòi. Nghiên cứu được tiến hành với việc tham vấn bảng câu hỏi thu thập
dữ liệu từ những dự án thu hồi đất. Trong số 976 bảng câu hỏi được phát ra, có 703
(đạt 72,03%) phản hồi được thu về và việc phân tích dựa trên nền tảng mô tả và suy luận số liệu. Thang đo là thang 5 mức của Likert. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy
sự chênh lệch lớn giữa mức tiền bồi thường và giá trị thị trường của khu đất bị thu hồi.
Mức bồi thường không đầy đủ là nguyên nhân chính gây nên mâu thuẫn xã hội xuất
phát từ việc Nhà nước thu hồi đất, và đây cũng là thách thức chính trong mỗi dự án thu hồi đất. Các nghiên cứu cho thấy rằng mức sống của chủ sỡ hữu đất đi xuống rất nhiều sau khi bị thu hồi đất. Để đảm bảo việc thu hồi đất được tiến hành hợp pháp, việc bồi thường đúng và đầy đủ cho chủ đất phải được bảo đảm.
Odalapo and Ige (2012) còn chỉ ra rằng rõ ràng chênh lệch về mức tiền bồi thường với giá thị trường là một vấn đề nhạy cảm. Dữ liệu phân tích chỉ ra 1 khoảng lệch lớn giữa hai giá trị trên mà hệ lụy là sự bất mãn trên diện rộng của những chủ đất với số tiền bồi thường không đầy đủ. Do đó, các biện pháp định giá đúng, đủ và bồi
thường thích hợp sẽ giúp cho những người bị thu hồi đất không rơi vào tình cảnh khó
24
khăn, thiệt hại và đây là 1 phương diện quan trọng trong việc thực thi thu hồi đất, vốn dĩ rất cần những hướng dẫn toàn diện để cải thiện toàn bộ quá trình. Và cùng nhau họ
đưa ra 6 đề xuất cho vấn đề này: (1) Chênh lệch giữa mức tiền bồi thường và giá trị thị
trường của tài sản nên được giữ ở mức tối thiểu; (2) Các nhà định giá nên đưa ra
quyết định dựa trên điều kiện thị trường hiện hành. Điều này sẽ giúp đảm bảo cho quá trình thu hồi đất ít gặp khó khăn hơn, giúp người chủ đất bị thu hồi đạt được nhu cầu
và cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển quy hoạch; (3) Các nhà định giá và khảo sát bất động sản nên cải thiện kỹ năng của mình; (4) Các nhà định giá nên được
cho phép sử dụng những biện pháp phù hợp thay vì phải dùng những biện pháp định
giá theo như Điều Luật sử dụng đất; (5) Các cơ quan thu hồi nên làm đúng quy trình
để đảm bảo người bị thu hồi đất nhận được đủ số tiền bồi thường; (6) Những người có
đất bị thu hồi nên được tham gia vào việc thu hoạch và cần được giúp đỡ để hiểu mọi phương diện của quá trình này.
Song QU và cộng sự (2015), cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp ở Trung Quốc
bởi chính quyền địa phương và các khoản bồi thường trả cho nông dân là nguyên nhân
chính gây ra xung đột xã hội. Sử dụng số liệu điều tra 450 hộ gia đình ở 3 tỉnh vùng
nông thôn, bài viết này xem xét tác động của các khoản thanh toán bồi thường và các
phương thức bồi thường khác nhau đến sự thỏa mãn của người nông dân. Một số phát
hiện chính là: (1) sự thỏa mãn của nông dân với việc bồi thường không chỉ phụ thuộc
vào mức bồi thường mà còn phụ thuộc vào khoảng cách giữa giá đền bồi thường và giá
trị thị trường của đất bị thu hồi; (2) số tiền bồi thường ảnh hưởng tích cực đến sự thỏa
mãn của nông dân khi sử dụng hình thức bồi thường an sinh xã hội, nhưng không ảnh
hưởng đến sự thỏa mãn của nông dân khi sử dụng các hình thức bồi thường khác.
1.2.2. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường
Imrie and Thomas (1997) (trích dẫn trong Kotilainen, 2012) chỉ ra rằng việc
thông báo, thực thi và cơ sở pháp lý của việc mua bán cưỡng chế là yếu tố mạnh tạo ra sự không đồng tình tại Anh. Munch (1976) tiến hành nghiên cứu về việc thu hồi đất có và không có cưỡng chế. Kết quả cho thấy việc cưỡng chế không nhất thiết là một cơ sở pháp lý có hiệu quả hơn so với việc mua bán tại thị trường tự do. Tài sản có giá trị cao thường nhận được mức bồi thường cao hơn giá thị trường nhưng tài sản giá trị thấp thì nhận mức bồi thường thấp hơn so với giá thị trường. Lý do là do cấu trúc của giá quy định bởi toà án.
Ning Chai (2019), xem xét khía cạnh bồi thường của việc tịch thu đất và tài sản
ở nông thôn ở Hàng Châu và nghiên cứu đánh giá sự thỏa mãn của người nông dân
25
trong phương pháp bồi thường trong quá trình thu hồi đất bên cạnh đó xem xét về thái độ của những người nông dân bị mất đất. Thường có ba phương pháp bồi thường được
áp dụng - bao gồm bồi thường bằng tiền, bồi thường thay thế tài sản và bồi thường tái
định cư. Kết quả nghiên cứu này có thể giúp chính quyền địa phương trong tương lai
xây dựng các tiêu chuẩn, phương thức bồi thường hợp lý đối với đất đai và tài sản bị trưng thu. Những người nông dân bị trưng thu chọn bồi thường bằng tiền thỏa mãn
hơn so với bồi thường nhà ở.
Li, N.H (2018), dựa trên dữ liệu khảo sát của nông dân và thực tiễn cải cách ở
thành phố Lưu Dương, một trong những khu vực thử nghiệm đầu tiên trên toàn quốc
về cải cách hệ thống ruộng đất ở nông thôn, nghiên cứu này cho thấy sự thỏa mãn về
phương thức bồi thường thấp, tác giả cũng kiến nghị nên thiết lập và cải thiện cơ chế
cập nhật về phương thức bồi thường đất và cơ chế ra quyết định thu hồi đất, cũng như cải thiện cơ chế an ninh cho nông dân bị mất đất để đạt được sự phát triển hơn nữa của
cải cách.
Mức bồi thường và phương thức phân phối tiền bồi thường thu hồi đất có ảnh
hưởng quan trọng đến sự hài lòng của nông dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh đô thị hóa
nhanh chóng, giá trị thị trường của đất canh tác ngày càng tăng, trong khi thu nhập từ
tài sản của nông dân tương đối thấp. Đất đai có các chức năng an sinh xã hội nhất
định, trong khi chỉ đền bù bằng tiền có thể làm giảm mức độ thỏa mãn của nông dân.
Tiêu chuẩn hóa thủ tục trưng thu đất không chỉ là yêu cầu chỉ đạo của việc xây dựng
hệ thống trưng thu đất nông thôn của quốc gia, mà còn là nguồn gốc của việc cải thiện
sự thỏa mãn của nông dân.
Lin (2006) nghiên cứu về 1 dự án mở rộng đường tại Anh và Đài Loan. Chủ sở hữu đất không chấp nhận tiền mặt khi bị cưỡng chế mua bán một cách bị động thay vì
thế họ chọn biện pháp bồi thường định hướng thị trường. Các biện pháp có tính định
hướng thị trường như bán tài sản, hoặc rời đi hoặc người dân được phép thuê được sử dụng lại.
Với Kotilainen (2012), thoả thuận sẽ được chủ đất ưa chuộng trong trường hợp có nhiều hơn một biện pháp lựa chọn (không chỉ là tiền, có thể là bồi thường bằng đất). Cơ sở lý thuyết về bồi thường có thể có sự khác biệt giữa việc thoả thuận và tiến
hành cưỡng chế. Và xu hướng là cơ sở này chuộng thoả thuận hơn là cưỡng chế trên
các phương diện (giá chuyển nhượng, tính thanh toán nhanh). Các chủ đất rất mong muốn có cơ hội thoả thuận với bên thứ ba thay vì với đại diện của cơ quan quản lý
đường xá Finnra. Khả năng được sử dụng người trung gian dàn xếp cũng có thể rất
hữu ích.
26
Hu và cộng sự (2014) đã giới thiệu cách tiếp cận sự hài lòng của cuộc sống và đã thông qua một bộ chỉ số để kiểm tra tác động của các chính sách bồi thường khác
nhau đối với nông dân không có đất, hài lòng về cuộc sống, về cơ bản tập trung vào
kinh tế, xã hội cá nhân hoặc gia đình, thuộc tính, tình trạng sức khỏe và các mối quan
hệ xã hội. Một số trường hợp khác, những giải pháp khác có thể được áp dụng thay vì dùng tiền. Bồi thường bằng đất có thể hiệu quả với các dự án lớn tại nông thôn nhưng
không hiệu quả với vùng đô thị, nơi mà khó có nhiều những thửa đất tương tự để bồi thường bằng đất. Một dự án mở rộng đường có thể chỉ lấy một phần nhỏ của thửa đất,
và đó là lí do mà sẽ khó có biện pháp bồi thường khác ngoài bồi thường tiền.
1.2.3. Sự thỏa mãn về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và sự tham gia của người dân
Tyagi and Shinde (2016) đã tìm hiểu về những khó khăn trong việc thu hồi đất
tại Ấn Độ và chính sách của Chính phủ trong việc này. Phạm vi nghiên cứu của họ là
quá trình thu hồi đất cho phát triển các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và
những vấn đề liên quan đến đạo luật thu hồi đất, chính sách và quy định của Chính phủ
cũng như những khó khăn trong việc thu hồi đất. Nghiên cứu đã điều tra khảo sát và
phỏng vấn các đối tượng đại diện chính quyền sở tại và người sử dụng đất. Các câu hỏi
trong bảng khảo sát thiết kế ở dạng trả lời “Có” và “Không”. Kết quả đạt được là phần
trăm “Có” cho mỗi câu hỏi đều đạt dưới mức 50%, thể hiện mức độ chưa đạt đối với kì
vọng của người dân với việc BT, HT của chính quyền trong việc tổ chức thu hồi đất.
Những gợi ý và đề xuất được đưa ra từ nghiên cứu này: (1) Nên có những điều khoản
để giải quyết những ý kiến của những người chủ đất bị ảnh hưởng; (2) Nên có những điều khoản để giúp những người dân địa phương (đa phần là nông dân) hiểu rõ kế
hoạch về quá trình thu hồi đất; (3) Nên có sách hướng dẫn người dân (đặc biệt là nông
dân) hiểu biết về chính sách điều chỉnh, quy trình tái phân bổ đất và việc bồi thường
thu hồi đất, lịch trình trả tiền bồi thường, hiến đất, kế hoạch TĐC và các địa điểm xây dựng cũng như về khung thời gian của chương trình; (4) Bắt buộc phải giải thích, làm rõ những luật và quy tắc liên quan cho người bị ảnh hưởng trước khi tiến hành thu hồi đất; (5) Thất bại của kế hoạch là do có mâu thuẫn tranh chấp về lợi ích và cũng như do những chính sách của Chính phủ không rõ ràng; (6) Việc tham gia của công chúng là
rất quan trọng cũng như mức độ thỏa mãn của người dân. Chính quyền cũng phải đảm
bảo quyền được đưa ra ý kiến và thảo luận cho những người có đất bị thu hồi.
Theo Xianling (2012), chỉ ra rằng chính hệ thống tổ chức chưa hoàn hảo, sự độc
quyền của Chính phủ hoặc sự can thiệp của Chính phủ đã tạo ra sự không thỏa mãn
của người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Imrie and Thomas (1997) (trong nghiên cứu
27
của Kotilainen, 2012) chỉ ra rằng việc thông báo, thực thi trong việc bồi thường, hỗ trợ là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thỏa mãn của người dân.
Ngược lại, ở Ghana sự không thỏa mãn của người dân trong các dự án thu hồi
đất đã diễn ra khi việc thu hồi đất thường gắn liền với các khiếu nại như không tuân
thủ các quy tắc và thủ tục quản lý việc trưng thu tài sản tư nhân, trả tiền đền bù không đầy đủ và không có sự tham gia của chủ đất. Có ý kiến cho rằng chủ sở hữu đất không
tham gia ngay từ ngày đầu tiên tạo ra sự không thỏa mãn của người dân (Gyamfi, 2012; Odame, 2008).
Tác giả Wang, X. (2013), dựa trên những học thuyết và tổng quan nghiên cứu
đã đưa ra các biến thang đo về sự thỏa mãn của nông dân đối với việc bồi thường thu
hồi đất ở góc độ tổ chức thực hiện, đó là: sự tin cậy của người dân về kết quả định giá
và phương pháp định giá của nhà nước, việc thực hiện không xảy ra sai sót, bồi thường
đúng như đã thông báo; chủ đầu tư và chính quyền địa phương tạo niềm tin cho người
dân; việc đáp ứng của chủ đầu tư và Nhà nước về những yêu cầu của người dân, luôn
luôn sẵn sàng hỗ trợ người dân, chủ đầu tư và chính quyền địa phương luôn có cán bộ
giỏi và có kiến thức để phụ vụ người dân, giải đáp thắc mắc cho người dân.
1.2.4. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo đặc điểm của người dân
Yếu tố nội tại của người dân: Một số nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng đến sự thỏa mãn, đồng thuận trong bồi thường như Jesser (1967), Marans and
Rodger (1975) đã đưa ra đặc điểm cá nhân (tuổi; giới tính chủ hộ; nhận thức và kinh
nghiệm cá nhân; quy mô gia đình; nghề nghiệp; số năm sống tại địa phương; số năm đi học/trình độ giáo dục; đối tượng kiếm thu nhập chính trong gia đình; người nhập
cư/người địa phương) là yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn trong quá trình thu hồi đất,
bồi thường; Nhóm về thu nhập; cơ hội tìm kiếm thu nhập cao hơn; khả năng sinh kế ở địa phương; đảm bảo tài chính nghỉ hưu/về già (Jesser, 1967; Ladewig and McCann, 1980; Brown, 1999); Việc làm (Cơ hội kiếm việc làm cho bản thân; sự đảm bảo/ổn định về việc làm; cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp; việc làm cho phụ nữ; việc làm cho người lớn tuổi; việc làm cho người nhỏ tuổi; việc làm cho người kém may mắn) (Brown, 1993; Filkins and Cordes, 1999); Tính gắn kết xã hội: Cơ hội phát triển các
mối quan hệ cá nhân; có sự tương trợ, giúp đỡ từ những người khác trong lúc khó khăn; có sự hợp tác của dân cư trong việc giải quyết các vấn đề địa phương; mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động của cộng đồng, xã hội; cộng đồng thân
thiện hay không thân thiện, đáng tin cậy hay không đáng tin cậy (Brown, 1993; Filkins
28
and Cordes, 1999); Văn hóa xã hội: Sự thoả mãn về tinh thần, tín ngưỡng; lao động dân cư và an ninh; hoạt động vui chơi giải trí; hoạt động cộng đồng mang bản sắc địa
phương (Filkins and Cordes, 1999; Smith, 2008); Cơ sở hạ tầng: Chất lượng đường sá
và hệ thống giao thông, điện nước (Marans and Rodger, 1975; Filkins and Cordes,
1999); Dịch vụ tiện ích công cộng: Giao thông và phương tiện di chuyển; truyền thông và liên lạc; hệ thống mua bán lẻ, mua sắm và ăn uống; hệ thống xử lý rác thải rắn; y tế,
chăm sóc sức khỏe; giáo dục; trường học; trợ giúp pháp luật; cung cấp nhà ở tốt cho người thu nhập thấp (Rojek và cộng sự, 1975; Filkins and Cordes, 1999); Môi trường
tự nhiên: Cảnh quan môi trường sạch đẹp, an toàn; khí hậu, không khí; nguồn nước;
đất đai; chất thải; rác thải; tiếng động, tiếng ồn (Marans and Rodger, 1975; Ladewig
and McCann, 1980; Loon and Stinner, 1992); Sức khỏe: Ô nhiễm không khí; tiếng ồn;
chất thải; các loại bệnh; Đất đai - nhà ở: Thu hồi đất đai; bồi thường giải tỏa; việc làm liên quan đến đất nông nghiệp và sử dụng đất (Ladewig and Cann, 1980); Chính quyền
địa phương: Hoạt động của chính quyền địa phương; vai trò của chính quyền địa
phương trong giải quyết ô nhiễm; thông tin đến người dân; có trách nhiệm quan tâm
đến nhu cầu của cộng đồng; ra quyết định có sự tham gia của người dân; đặc điểm
chính quyền địa phương (Ladewig and Cann, 1980, Loon and Stinner, 1992).
Nhiều học giả tập trung nghiên cứu đối tượng nông dân không có đất, đặc điểm
cá nhân và gia đình. Các thuộc tính kinh tế, xã hội cá nhân thường bao gồm một độ
tuổi, trình độ học vấn, tình trạng công việc, mức thu nhập hàng năm, v.v... Mức thu
nhập phản ánh khả năng của người nông dân không có đất, rủi ro xã hội và có một
mức sống nhất định (Qin và cộng sự, 2016). Ở cấp độ cá nhân, nghiên cứu cho thấy
những người có thu nhập cao hơn hoặc điều kiện sống vật chất tốt hơn nói chung là thỏa mãn hơn những người thấp hơn thu nhập và mối tương quan này thậm chí còn
mạnh hơn và phân bổ không đồng đều trong các quốc gia phát triển có bất bình đẳng
lớn về thu nhập (Bohnke, 2005). Trong khi đó, nhóm tuổi, mức độ giáo dục cũng như
tình trạng công việc có thể ảnh hưởng mạnh đến mức thu nhập cá nhân, tình trạng sức khỏe, và kiến thức về các chính sách liên quan.
Tuổi của người dân cũng là biến số trong phân tích sự thỏa mãn của nhà ở (Hu, 2013, Waziri và cộng sự, 2014, Grigolon và cộng sự, 2014). Tình trạng sở hữu nhà đã
được phát hiện có tác động tích cực mạnh mẽ đến sự thỏa mãn theo nghĩa là sở hữu ngôi nhà sẽ mang lại sự thỏa mãn cao hơn so với việc thuê bất động sản (Ibem and Aduwo, 2013; Hu, 2013). Ngoài ra, người già có xu hướng thỏa mãn hơn với nhà ở của họ (Waziri và cộng sự, 2014). Một mặt, nó có thể phản ánh rằng những người già
có tài sản tích lũy cao hơn có thời gian dài hơn và ngân sách lớn hơn, những người lớn
29
tuổi có xu hướng đưa ra xếp hạng thỏa mãn cao hơn, những người khác nhau có thể có mức độ khát vọng khác nhau, điều này có thể dẫn đến sự thỏa mãn khác nhau, ngay cả
đối với cùng các giá trị thuộc tính hoặc cấp độ. Sự thỏa mãn của người dân không chỉ
có thể được gây ra bởi các thuộc tính của hộ gia đình và môi trường, mà còn có thể
phản ánh sự thay đổi về mức độ nguyện vọng, mong muốn.
Yếu tố khác: Một số nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu
hồi đất ở Trung Quốc cho thấy sự thỏa mãn của người dân khác nhau theo khu vực đô thị ở các thành phố hay theo mục đích thu hồi đất (Li and Chen, 2011, Li and Wu,
2013). Theo Cletus Ndjovu (2016), những bất mãn trong việc thu hồi đất cũng đã được
báo cáo khá rộng rãi ở Ấn Độ, nơi tất cả những người có quyền lợi trên đất được thu
hồi vì lợi ích công cộng đều được phép phản đối ý định thu hồi đất của chính phủ theo
quy định của Đạo luật thu hồi đất năm 1894 của Ấn Độ. Những bất đồng trong bối cảnh của Ấn Độ được coi là hợp lệ nếu mục đích của mảnh đất được đề xuất thu hồi
không phải là mục đích công cộng, nếu mảnh đất đó không phù hợp hoặc kém hơn một
mảnh đất khác cho mục đích nói trên, nếu diện tích bị thu hồi quá mức và nếu việc
mua lại sẽ phá hủy hoặc làm suy giảm các di tích lịch sử hoặc nghệ thuật hoặc sẽ làm
xấu các tòa nhà tôn giáo, nghĩa địa. Ở Trung Quốc, nơi có nhiều đất đai bị thu hồi để
phát triển kinh tế, rất nhiều bất đồng cũng diễn ra.
Các nghiên cứu ở Việt Nam
Còn có rất ít các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi
Nhà nước thu hồi đất. Hầu hết các nghiên cứu liên quan đều tập trung xem xét dưới
góc độ về chính sách đất đai, cụ thể như sau:
Đứng ở góc nhìn của quản lý nhà nước về đất đai, tác giả Đào Trung Chính (2014) đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn triển khai thực hiện Luật Đất đai năm
2003, đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định về thu hồi đất, BT, HT, TĐC với mục tiêu rõ ràng, hướng tới việc bảo đảm tính bền vững xã hội trong quá trình chuyển đổi đất đai, trong việc giải quyết BT, HT, TĐC, trong đó: cần phải có những quy định chi tiết, cụ thể trong từng vấn đề về: (1) Làm rõ mục đích thu hồi đất: quy định của Luật Đất đai năm 2003 về thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế; có sự chưa rõ ràng trong
các trường hợp vì mục đích phát triển kinh tế dẫn tới sự không đồng thuận của người
dân vì cho rằng họ đã không được quan tâm đến quyền lợi chính đáng, Nhà nước đang đứng về phía các doanh nghiệp. Do đó, cần làm rõ các mục đích thu hồi đất và xét về
khía cạnh người có đất bị thu hồi thì dù có sử dụng đất thu hồi vào mục đích nào đi
chăng nữa thì mức thiệt hại của họ là như nhau, vì vậy, dù thu hồi đất cho mục đích
30
nào cũng cần có quy định thống nhất về mức BT, HT; (2) Làm rõ quan hệ lợi ích giữa người bị thu hồi đất - Nhà nước - nhà đầu tư: thực trạng khó khăn trong bồi thường
khi thu hồi đất chính là vấn đề có sự so sánh về lợi ích giữa ba chủ thể ở trên. Do đó,
cần xác định, phân định rõ về địa vị pháp lý giữa chủ sử dụng đất là người được Nhà
nước giao đất và nhà đầu tư là người được nhận quyền sử dụng đất (họ có quyền và nghĩa vụ khác nhau), còn Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đóng vai trò
quyết định trong sự phân chia lợi ích này; (3) Quy định về hỗ trợ, TĐC bao gồm: Hỗ trợ đầy đủ cho người bị thu hồi đất để ổn định đời sống, chuyển đổi việc làm, bù đắp
thiệt hại về thu nhập; khu TĐC phải được quy hoạch gắn với điều kiện thuận lợi về hạ
tầng phục vụ đời sống; thực hiện TĐC tại chỗ là chủ yếu và giải quyết linh hoạt nhu cầu
TĐC của người có đất ở bị thu hồi.
Bên cạnh đó, cũng có một số nghiên cứu đứng về góc nhìn của người sử dụng đất và sử dụng phương pháp điều tra khảo sát để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến
sự hài lòng của người dân trong bồi thường, GPMB. Nghiên cứu của Châu Đạm Trinh
(2012) cho rằng có hai nhóm nhân tố có thể ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dân
trong bồi thường, GPMB đó là nhóm nhân tố FA-1 (bao gồm phương tiện hữu hình,
mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, mức độ đồng cảm) và nhóm
nhân tố FA-2 (mức giá bồi thường). Bên cạnh đó, họ còn thực hiện phân tích hồi quy
Binary Logistic cho các nhân tố được rút ra nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến
sự hài lòng của người dân và xác suất để người dân hài lòng về chất lượng dịch vụ bồi
thường, GPMB; tình huống lập phương án BT, HT, TĐC dự án khu công nghiệp sông
Hậu, tỉnh Hậu Giang, giai đoạn 1.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Vũ An (2015), sử dụng phương pháp kiểm định thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân
tích hồi quy đã chỉ ra có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người dân đối
với khu công nghiệp là “đất đai, nhà ở” và “văn hóa - xã hội”. Trong đó, biến “đất đai,
nhà ở” có ảnh hưởng mạnh nhất đến mức độ hài lòng của hộ gia đình đối với Khu Công nghiệp Long Đức.
Một nghiên cứu với bối cảnh Việt Nam do Pham và cộng sự (2013) cho rằng chính các biện pháp bồi thường thiếu hiệu quả, thiếu đất sản xuất và thiếu những thay
thế cho sinh kế của người dân dẫn đến việc người dân bất hợp tác và chống đối lại việc
thu hồi đất trong dự án thuỷ điện. Ngoài ra, họ còn đề cập đến lợi ích nhóm giữa chính
quyền và các nhà đầu tư, hay có thể hiểu đơn giản hơn, là sự ám chỉ về thất thoát trong
tiền bồi thường, khá giống như những gì Xianling (2013) đề cập đến trong nghiên cứu
tại Trung Quốc.
31
Theo Đặng Thị Thùy Diễm (2013), mức độ hài lòng của người dân đối với thủ tục bố trí TĐC được đo lường trên 04 tiêu chí cụ thể sau: Mức độ thuận tiện; Khả năng
đáp ứng; Chi phí sử dụng dịch vụ; Cơ chế phản hồi góp ý khiếu nại. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng thủ tục bố trí TĐC, tăng mức độ hài
lòng của người dân thì các yếu tố sau là quan trọng: (1) khả năng tiếp cận thông tin qua các kênh thông tin chính thức mà người dân tiếp cận nhiều trong quá trình làm thủ
tục; (2) tính công khai, minh bạch trong quá trình đăng ký TĐC và giúp người dân nhận thức đầy đủ về vấn đề đó. Các tiêu chuẩn về phân đất, bố trí đất TĐC cần được
công bố rõ ràng nhằm tránh tiêu cực và tăng niềm tin trong người dân; (3) cán bộ,
công chức trong quá trình làm việc với người dân cần nhiệt tâm và cần hướng dẫn rõ
ràng, cụ thể; (4) thủ tục hành chính - đơn giản hóa thủ tục đăng ký TĐC và bàn giao
đất TĐC; (5) giải quyết đơn thư góp ý, khiếu nại và tố cáo của người dân cần ghi nhận và giải quyết triệt để nếu phù hợp với thực tế hiện tại; (6) giá bồi thường; (7) hạ tầng
cơ sở trước khi bố trí người dân đến sinh sống; (8) điều kiện sống, công việc của người
dân sau khi Nhà nước thu hồi đất.
Tóm lại
Kết quả từ tổng quan nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn theo các khía cạnh khác
nhau được nghiên cứu từ rất sớm và các tác giả sau đã kế thừa, hoàn thiện kết quả
nghiên cứu của tác giả trước. Theo các tác giả Lawler (1971), Bachelet (1995), Tse
and Wilton (1988), Kotler (2001) thì sự thoả mãn là phản ứng về chênh lệch giữa
những gì nhận được trong thực tế với những gì kỳ vọng được nhận, sự so sánh kết quả
thu được với những kỳ vọng mà họ mong có được.
Các tác giả đã sử dụng một số chỉ tiêu để đo lường, đánh giá mức độ thỏa mãn của hộ gia đình, người dân có đất bị thu hồi như: (1) Cách tiếp cận của các cơ quan có
thẩm quyền đối với người yêu cầu bồi thường; (2) Phản ứng của cán bộ địa chính khi
cần làm rõ và khi có thắc mắc; (3) Thời gian thực hiện thanh toán; (4) việc chỉ định đại diện của những người yêu cầu bồi thường để đảm bảo bồi thường đầy đủ; (5) Bồi thường được trả so với giá trị tài sản; (6) Việc chấp nhận dự án được đề xuất bởi các nguyên đơn.
Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân dựa trên các tiêu chí như: (1) mức độ
thỏa mãn với việc định giá đất; (2) mức độ thỏa mãn đối với thời gian dồn điền đổi
thửa; (3) mức độ thỏa mãn đối với kết quả dồn điền đổi thửa; (4) mức độ thỏa mãn với cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận các lô đất mới của mình; (5) mức độ thỏa mãn với
chất lượng của các lô đất mới (Lisec và cộng sự, 2014).
32
Một số tác giả như Kotilainen (2011), Xinliang (2012), Oladapo and Ige (2012) đã chỉ ra sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, GPMB ở một số khía cạnh như: Mức
bồi thường hợp lý; phương thức bồi thường; phân phối bồi thường; thủ tục bồi thường;
chất lượng dịch vụ và sự tham gia của người dân. Còn Wang (2013) chỉ ra sự hài lòng của
nông dân trong việc bồi thường đất là: mức bồi thường, thủ tục bồi thường, và phương thức bồi thường. Về mức bồi thường cũng được chỉ ra bởi Kakulu (2008), Robinson
(1995), Song QU và cộng sự (2015); Singer (1994), Munch (1976), Lin (2006), Water và cộng sự (2014) cũng đề cập đến sự thỏa mãn trong phương thức bồi thường.
Sự thỏa mãn có thể có sự khác biệt theo các nhóm yếu tố: yếu tố nội tại của người
dân, mức về thu nhập; việc làm, khả năng sinh kế; đảm bảo tài chính nghỉ hưu; tính gắn
kết xã hội; chất lượng cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự nhiên; sức
khỏe; điều kiện về đất đai - nhà ở; vai trò của chính quyền địa phương; sự tham gia của người dân cũng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Qin và cộng sự (2016) kết luận rằng mức độ thỏa mãn của nông dân có
thể bị ảnh hưởng bởi thuộc tính kinh tế, xã hội cá nhân, trình độ nhận thức và kiến thức
của họ về chương trình và những lợi ích mà họ có thể có được từ chương trình.
Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam:
- Đứng trên quan điểm của quản lý nhà nước về đất đai, tác giả Đào Trung
Chính (2014) đã đề xuất giải pháp trong việc giải quyết, hỗ trợ, TĐC cho người dân
bằng cách cần phải làm rõ mục đích thu hồi đất, làm rõ mối quan hệ lợi ích giữa người
bị thu hồi đất - Nhà nước - nhà đầu tư, cuối cùng là cần có quy định rõ ràng về BT,
HT, TĐC cho người bị thu hồi đất.
- Về góc nhìn của người sử dụng đất, hiện nay tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, GPMB qua một số nhóm
nhân tố như: phương tiện hữu hình, mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, mức độ đồng cảm và nhóm nhân tố mức giá bồi thường. Biện pháp bồi thường thiếu hiệu quả, thiếu đất sản xuất và thiếu những thay thế cho sinh kế của người dân nên dẫn đến người dân không hợp tác và chống đối lại việc Nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra, vấn đề lợi ích nhóm giữa chính quyền và các nhà đầu tư cũng ảnh
hưởng đến sự thõa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.
1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam
Nhiều nghiên cứu đánh giá về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi
Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên các nghiên cứu này nghiên cứu ở các quốc gia có chế
độ quản lý đất đai khác với Việt Nam.
33
Một số nghiên cứu quốc tế đã đưa ra các khía cạnh để đánh giá sự thỏa mãn và ở các khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu xây dựng yếu tố cấu thành
lên sự thỏa mãn và cũng chưa có các tiêu chí (biến thang đo) cụ thể phù hợp với bối
cảnh của Việt Nam.
Các nghiên cứu ở Việt Nam chưa lượng hóa được sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Do vậy, luận án sẽ kế thừa các nghiên cứu
trước đây ở trong nước và quốc tế để tiếp tục nghiên cứu ở Việt Nam với chế độ sở hữu về đất đai, chính sách pháp luật, điều kiện cụ thể về kinh tế, văn hoá, xã hội của
Việt Nam, có những điểm khác biệt so với các nước khác.
Nghiên cứu này sẽ tập trung xây dựng yếu tố cấu thành và các chỉ tiêu đánh giá
sự thỏa mãn của người dân trong bối cảnh của Việt Nam. Nội dung xem xét sự thỏa
mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất tập trung vào cảm nhận của
người dân về: 1) Mức BT, HT; 2) Phương thức bồi thường; 3) Tổ chức thực hiện BT,
HT; 4) Sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất. Bốn khía cạnh này mang
tính khái quát của sự thỏa mãn trong thu hồi đất, BT, HT.
Bên cạnh đó, còn ít nghiên cứu ở Việt Nam xem xét sự thỏa mãn của người dân
trong BT, HT của Nhà nước khi thu hồi đất khác biệt theo đặc điểm của hộ gia đình có
đất bị thu hồi như nghề nghiệp, trình độ của chủ hộ hay nơi sinh sống của người có đất
thu hồi...
Như vậy, việc xác định yếu tố cấu thành và các tiêu chí đánh giá cũng như đánh
giá sự thỏa mãn của người dân và sự thỏa mãn của người dân khác biệt theo các nhóm
trong BT, HT là khoảng trống mà luận án sẽ tập trung vận dụng lý thuyết vào nghiên
cứu thực tiễn để xem xét, đánh giá. Trên cơ sở đó, có đánh giá và khuyến nghị chính sách bảo đảm lý luận và thực tiễn, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
1.4. Đề xuất khung nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, sự thỏa mãn của người dân được định nghĩa là cảm giác bằng lòng khi người dân có thể đạt được những gì người dân cần hoặc mong muốn so với thực tế mà người dân nhận được. Do yếu tố đặc thù về chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam, trong nghiên cứu này một số khái niệm được hiểu như sau:
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của
người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất theo một cơ chế bắt buộc thông qua biện pháp hành chính.
34
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người bị thu hồi
đất để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển.
Tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất là các hoạt động của cơ quan có chức năng dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những vấn để cụ
thể thuộc trách nhiệm của mình.
Như vậy, từ mục tiêu nghiên cứu của luận án, dựa trên kết quả tổng quan
nghiên cứu, các lý thuyết về sự thỏa mãn và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam
(xem Phụ lục 4), luận án xây dựng khung phân tích phù hợp với bối cảnh, tình hình
thực tế của Việt Nam, bao gồm 4 khía cạnh: mức BT, HT; phương thức bồi thường; tổ
chức thực hiện BT, HT và sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất. Luận án đề xuất sơ
đồ phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất như
dưới đây, trong đó sự thỏa mãn chung là biến tiềm ẩn:
THỎA MÃN VỀ MỨC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
THỎA MÃN VỀ PHƯƠNG THỨC BT, HT
SỰ THỎA MÃN CHUNG
THỎA MÃN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Các yếu tố khác
- Nghề nghiệp
- Trình độ
- Vùng miền
SỰ THỎA MÃN VỀ
- Mục đích của dự án
THAY ĐỔI CUỘC SỐNG
- Thay đổi về giá đất
Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT
khi Nhà nước thu hồi đất
35
Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ
Mức BT, HT là yếu tố quyết định về lợi ích kinh tế đối với người có đất bị thu
hồi, đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự thoả mãn của người dân. Mức BT, HT mà
người dân nhận được khi Nhà nước thu hồi đất là để khôi phục lại giá trị tài sản (đất
đai, nhà cửa, công trình kiến trúc…), nguồn sinh sống, lợi ích vật chất và tinh thần do
quá trình triển khai thực hiện dự án. Nhiều học giả Trung Quốc và quốc tế đã chỉ ra
rằng mức bồi thường tương đối thấp là một trong những nguyên nhân chính khiến
người dân không đạt được sự thoả mãn và gây ra xung đột giữa các bên về thu hồi đất
(Dinh, 2007; Hui và Bao, 2013; Ji và Qian, 2011; Lin, 2009). Ngoài ra, Robinson
(1995) cũng cho thấy rằng nếu mức bồi thường đầy đủ và cao hơn so với mong muốn
của người dân thì chủ sở hữu sẽ chào đón và hoan nghênh việc thu hồi đất, sự chênh
lệch giữa mức tiền bồi thường với giá thị trường là nguyên nhân dẫn đến sự thất vọng
của người dân. Để tránh được mâu thuẫn và hỗn loạn trong xã hội, quan trọng là phải
có các phương pháp định giá đúng giá trị tài sản và việc bồi thường phải chi trả đầy đủ
để không khiến người bị thu hồi đất bị thiệt thòi, đảm bảo tính đúng đắn và công bằng
(Oladapo và Ige, 2012).
Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường
Từ các nghiên cứu trên thế giới có thể thấy phương thức bồi thường có thể dưới
một số phương thức sau: bồi thường bằng tiền được trả dưới dạng một lần, bồi thường
bằng tiền theo các khoảng thời gian xác định, bồi thường bằng tiền kết hợp với bồi
thường một phần bằng đất và cuối cùng là thông qua phương thức chi trả như là các khoản
an sinh xã hội. Với mỗi loại hình bồi thường thì người dân nhận bồi thường từ thu hồi đất
cũng có sự thoả mãn khác nhau. Có thể ở cùng một mức bồi thường như nhau nhưng sự
thoả mãn của hộ gia đình lại có sự khác biệt theo phương thức bồi thường. Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng chế độ an sinh xã hội, cung cấp mức sinh kế dài hạn tối thiểu,
mang lại sự thoả mãn cho người nông dân hơn là bồi thường bằng tiền mặt (Hui và cộng
sự, 2013; Lin, 2006; Yang, 2012). Một số trường hợp khác, bồi thường bằng đất có thể
hiệu quả hơn so với bồi thường bằng tiền, điều này còn phụ thuộc vào đặc điểm hộ gia
đình, nơi ở của hộ, điều kiện sống của hộ.
Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ
Ngoài mức BT, HT thì quá trình tổ chức thực hiện BT, HT cũng là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc thu hồi
đất. Nếu tổ chức thực hiện bồi thường tạo được niềm tin, tạo được sự trung thành, sự
36
ủng hộ của người dân thì sẽ có tác động lan tỏa rất lớn trong hoạt động thu hồi đất, bồi
thường. Nếu cán bộ thực hiện hỗ trợ, nhiệt tình để giải quyết những ý kiến của những
người chủ đất bị, sẽ giúp người dân có thiện cảm hơn, tạo sự ủng hộ tốt hơn. Bên cạnh
đó, nếu tổ chức thực hiện hướng đến giúp những người dân hiểu rõ kế hoạch về quá
trình thu hồi đất, có tài liệu hướng dẫn để có thể hiểu biết về chính sách điều chỉnh,
quy trình tái phân bổ quỹ đất và việc bồi thường thu hồi đất, thì người dân cảm thấy có
hiểu biết thông tin hơn, được tôn trọng hơn và từ đó mức độ thỏa mãn của người dân
cũng tăng (Tyagi and Shinde, 2016).
Bên cạnh đó, thái độ nhiệt tình của cán bộ, công chức trong quá trình làm việc
với người dân cũng như cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, thông
tin được công khai, minh bạch sẽ tăng mức độ hài lòng của người dân (Đặng Thị Diễm
Thùy, 2013).
Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống
Nếu các dự án thu hồi đất đảm bảo một số khía cạnh về chất lượng cuộc sống
như điều kiện sống của gia đình, bảo đảm quyền lợi xã hội, cơ sở công cộng và môi
trường thì sẽ làm cho người dân cảm thấy thỏa mãn hơn, bên cạnh tiền đất họ được bồi
thường thì việc họ có điều kiện thay đổi cuộc sống vượt so với kỳ vọng cũng giúp họ
trở lên tốt đẹp hơn, thỏa mãn hơn (Hu và cộng sự, 2014).
Sự thoả mãn của người dân theo đặc điểm của hộ gia đình
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT có thể
có sự khác biệt theo một số đặc điểm của hộ như:
- Nghề nghiệp: nghề nghiệp của hộ gia đình phản ánh sinh kế hay nguồn thu
nhập chính của hộ, nếu một hộ gia đình có nghề nghiệp hay sinh kế tạo nguồn thu
nhập ổn định thì thường có sự thoả mãn cao hơn những người có công việc không ổn
định, không có nguồn sinh kế hoặc sinh kế bấp bênh. Tuy nhiên, cũng có có những xu
hướng ngược lại, những hộ gia đình có nguồn sinh kế tốt có thể có những kỳ vọng hơn
về mức bồi thường, phương thức bồi thường, do vậy mức thoả mãn có thể thấp hơn
(Bohnke, 2005; Brown, 1999; Jesser, 1967; Marans và Rodger, 1975). Vì vậy, nghiên
cứu này sẽ phân tích sự thoả mãn của người dân trong BT, HT có khác biệt thế nào
theo nhóm nghề nghiệp.
- Trình độ của chủ hộ: Đây là yếu tố quan trọng để làm biến số đo lường cho
nhận thức của chủ hộ, người dân có trình độ càng cao kỳ vọng có nhận thức tốt, khi đó
37
người dân có sự hiểu biết về những vấn đề xung quanh tốt hơn, mỗi người ở mức nhận
thức khác nhau có thể dễ chấp nhận hay khó chấp nhận đối với việc BT, HT đất (Qin
và cộng sự, 2016; Brown, 1999). Vì thế nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước
sẽ xem xét sự thoả mãn chung của người dân có khác biệt như thế nào theo nhóm trình
độ của chủ hộ.
- Vùng/miền nơi người dân đang sinh sống: Người dân sống ở các vùng miền
khác nhau thì có sự khác biệt về đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hoá. Theo Li và Chen
(2011) và Li và Wu (2013) thì sự thoả mãn của người dân trong BT, HT có sự khác
biệt giữa các vùng miền. Do vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét sự thoả mãn của người
dân trong BT, HT có sự khác biệt theo 3 miền chính của Việt Nam, đó là miền Bắc,
miền Trung và miền Nam.
Ngoài các yếu tố như trên, sự thoả mãn của người dân trong BT, HT của nghiên
cứu này cũng xem xét đến sự khác biệt theo mục đích của dự án, nếu một dự án phục vụ
lợi ích cộng đồng liệu người dân dễ chấp nhận hay có sự thoả mãn hơn so với dự án vì
lợi ích kinh tế; việc giá đất thay đổi theo hướng tăng lên sau khi Nhà nước thu hồi đất
cũng làm cho người dân cảm thấy mức BT, HT đã nhận được chưa đảm bảo quyền lợi,
ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ phân tích sự thoả
mãn của người dân trong BT, HT theo mục đích của dự án và sự thay đổi về giá đất.
Đối với giới tính của chủ hộ, các nghiên cứu cho thấy chủ hộ là nam có thể có
sự thoả mãn khác biệt so với chủ hộ là nữ. Tuy nhiên, do đặc thù ở Việt Nam việc xác
định chủ hộ chủ yếu dựa trên sổ hộ khẩu, nó không phản ánh ai là người có quyền ra
quyết định chính trong hộ. Mặt khác, phần lớn người đứng chủ hộ trong sổ hộ khẩu là
nam giới. Do vậy, giới tính của chủ hộ không phản ánh thực chất vai trò giới trong
quyết định các vấn đề của hộ nên nghiên cứu này không xem xét yếu tố giới trong mô
hình phân tích.
Như vậy, để thực hiện nghiên cứu khung phân tích trên, luận án cũng sẽ vận
dụng các lý thuyết về sự thỏa mãn để xây dựng và phát triển thang đo cho nghiên cứu,
trong đó:
Lý thuyết công bằng sẽ giúp nghiên cứu có luận giải hành vi về nhận thức của
người dân khi so sánh những gì họ nhận được với những người xung quanh, tuy nhiên
sự công bằng luôn là tương đối và nó phụ thuộc nhiều vào nhận thức của mỗi cá nhân.
38
Lý thuyết đồng hóa sẽ giúp nghiên cứu giải thích cho hiện tượng người dân có
thể được tuyên truyền, thông tin để điều chỉnh kỳ vọng của mình dẫn đến làm tăng sự
thỏa mãn khi kỳ vọng không quá cao so với thực tế nhận được.
Lý thuyết tương phản có thể được áp dụng để nghiên cứu, giải thích khi hộ gia
đình kỳ vọng lớn và họ không dễ chấp nhận những gì đang diễn ra, phóng đại kỳ vọng
và dẫn đến người dân không dễ chấp nhận, giảm sự thỏa mãn.
Lý thuyết tương phản đồng hóa sẽ giúp nghiên cứu giải thích việc hộ gia đình
có đất bị thu hồi có thể điều chỉnh sự khác biệt trong nhận thức về kết quả BT, HT hay
quá trình tổ chức thực hiện nhận được so với mong đợi, nhưng chỉ khi sự khác biệt là
tương đối nhỏ.
Lý thuyết về sự khác biệt được dùng để giải thích hành vi của hộ gia đình khi bị
thu hồi đất, nếu những gì họ nhận được lớn hơn so với kỳ vọng thì người dân sẽ có
được sự thỏa mãn cao và ngược lại, giúp giải thích tại sao trong cùng một địa bàn
nhưng giữa những hộ gia đình khác nhau thì sự thỏa mãn cũng khác nhau.
39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương này, luận án làm rõ cơ sở lý thuyết về sự thỏa mãn của người
dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể:
Các lý thuyết về sự thỏa mãn và vận dụng trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi
đất được sử dụng trong nghiên cứu này đó là: Lý thuyết công bằng; Lý thuyết đồng
hóa; Lý thuyết tương phản; Lý thuyết tương phản đồng hóa; Lý thuyết về sự khác biệt.
Các lý thuyết này là cơ sở quan trọng để giúp luận án xây dựng các biến thang đo và lý giải về hành vi của người dân khi có đất bị thu hồi đất.
Bên cạnh đó, luận án tổng quan các nghiên cứu trước đây có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu. Phần lớn các nghiên cứu cả trong và ngoài nước đều nói đến sự thỏa
mãn nói chung, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói
riêng, trong đó đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân. Tuy nhiên, chế độ sở hữu về đất đai, chính sách pháp luật, điều kiện cụ thể về kinh tế, văn
hóa, xã hội của Việt Nam có những điểm khác biệt so với các nước khác. Ngoài ra, có
rất ít nghiên cứu về thu hồi đất, BT, HT khi thu hồi đất, nếu có thì vẫn còn mang tính
đơn lẻ chưa bao quát cho cả nước. Thông qua các nghiên cứu trước đây ở trên thế giới
và ở Việt Nam, luận án đã xác định được khoảng trống nghiên cứu để bổ sung thêm về
mặt lý luận và thực tiễn về các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất.
Luận án đã đưa ra khung nghiên cứu về sự thoả mãn trong BT, HT ở Việt Nam
theo các khía cạnh như sau: i) Mức BT, HT; ii) Phương thức bồi thường; iii) Tổ chức
thực hiện BT, HT và iv) Sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, luận án
cũng xem xét sự khác biệt về thoả mãn của người dân theo nhóm nghề nghiệp, trình độ
của chủ hộ; vùng miền nơi người dân đang sinh sống và xem xét sự thoả mãn theo
mục đích của dự án và thay đổi giá đất sau khi thu hồi đất.
40
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này luận án sẽ trình bày về thiết kế nghiên cứu tổng thể của luận án,
bao gồm các phương pháp nghiên cứu, giới thiệu địa bàn khảo sát; trình bày nghiên
cứu định tính, phát triển thang đo, nghiên cứu định lượng và các kiểm định của nghiên
cứu định lượng.
2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể
2.1.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính được sử dụng giúp tác giả tìm hiểu sâu về chính sách liên
quan, nghiên cứu về các yếu tố hình thành lên sự thoả mãn của người dân, yếu tố ảnh
hưởng đến sự thoả mãn của người dân từ góc nhìn của nhà hoạch định chính sách, nhà
đầu tư và người dân bị thu hồi đất. Luận án tiến hành thực hiện nghiên cứu định tính
thông qua phỏng vấn sâu chuyên gia làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước, nhà
nghiên cứu, nhà đầu tư, người dân nhằm đánh giá sơ bộ về sự thỏa mãn của họ trong
BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, luận án cũng đánh giá sơ bộ sự phù
hợp của các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu, đảm bảo sự phù hợp của giả
thuyết đưa ra mà dựa vào từ các tài liệu tổng quan nghiên cứu trước đó. Trên cơ sở các
kết quả bước đầu từ nghiên cứu định tính, luận án sử dụng nghiên cứu định lượng đối
với nhóm người dân nhằm xác định mức độ thỏa mãn của họ trong BT, HT khi Nhà
nước thu hồi đất.
Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua khảo sát, thu thập thông tin
của người dân thuộc khu vực bị thu hồi đất theo các nội dung nghiên cứu. Luận án
thực hiện nghiên cứu bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu, sau đó tiến hành
tổng quan nghiên cứu về lý thuyết và thực tế các hộ gia đình bị thu hồi đất ở Việt Nam
để xác định các giả thuyết nghiên cứu. Tiếp theo, tác giả thực hiện nghiên cứu khám
phá tại một dự án thu hồi đất để xác định rõ sự thoả mãn của người dân và hoàn thiện
các biến số đo lường các khái niệm nghiên cứu.
Các dữ liệu thu thập được làm cơ sở để đánh giá chất lượng thang đo, kiểm định
mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Các kỹ thuật phân tích dữ liệu như phân tích
nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình SEM sẽ
được tác giả sử dụng để kiểm định mô hình. Trên cơ sở số liệu thu thập được, nghiên
41
cứu sẽ sử dụng phần mềm CSPro để nhập số liệu và sử dụng phần mềm SPSS phiên
bản 22 và phần mềm AMOS 20 để giúp nghiên cứu phân tích số liệu cũng như kiểm
định các giả thuyết nghiên cứu.
2.1.2. Địa bàn khảo sát
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 đến
ngày 01 tháng 7 năm 2017, tổng diện tích đất đã thu hồi để phục vụ cho các dự án đầu
tư phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn cả nước là 2.188.577,22 ha, trong đó có:
1.594.485,38 ha đất nông nghiệp, 591.787,73 ha đất phi nông nghiệp và 2.304,11 ha
đất chưa sử dụng. Nhìn chung, việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất đã đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người có đất bị thu hồi, một số nơi
đã tổ chức thực hiện bảo đảm công khai, dân chủ, đúng trình tự, thủ tục và có sự tham
gia trực tiếp của người dân.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân
vẫn ở mức cao. Theo Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), từ năm 2012
đến nay trung bình mỗi năm là 4.000 lượt đơn khiếu nai liên quan đến lĩnh vực đất đai,
trong đó tập trung chủ yếu là khiếu nại về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (chiếm từ
30 - 40% số vụ việc). Nội dung khiếu nại tập trung vào việc thực hiện dự án không
phù hợp quy hoạch sử dụng đất; định giá đất tính bồi thường thấp hơn nhiều so với giá
thị trường; phương án BT, HT, TĐC phê duyệt không đúng quy định của pháp luật và
việc tổ chức thực hiện chưa bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ, không đúng trình
tự, thủ tục. Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân trong BT,
HT khi Nhà nước thu hồi đất.
Để đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất,
luận án lựa chọn nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí
Minh. Đây là các địa bàn triển khai nhiều dự án thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã
hội và là địa bàn có nhiều khiếu kiện của người dân trong quá trình Nhà nước thực
hiện thu hồi đất.
- Thành phố Hà Nội:
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công
nghệ của cả nước. Đối với phát triển đô thị: Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở giãn dân
phố cổ tại khu đô thị Việt Hưng được tập trung chỉ đạo quyết liệt; UBND quận Hoàn
42
Kiếm đã phối hợp với Sở, ngành Thành phố hoàn thành thẩm định điều chỉnh dự án
xây dựng nhà ở giãn dân phố cổ theo hướng tăng tầng cao, tăng diện tích tầng hầm,
hiện đang trình UBND Thành phố phê duyệt. Các dự án phát triển đô thị khác cũng
đang được Thành phố tổ chức thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đối với phát triển khu dân cư nông thôn: Đến nay, nhiều vùng nông thôn đã
được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khá tốt, nhiều khu dân cư có quy mô và mật độ
dân số lớn, có các công trình xây dựng và nhà ở kiên cố, hoạt động kinh tế xã hội đang
dần mang tính đô thị hoá; đến nay đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia, đường ô tô
vào tới trung tâm và phần lớn các thôn, 100% số xã có điện thoại; cơ sở trường học,
trạm y tế, trụ sở làm việc của UBND các xã đã được đầu tư nâng cấp. Dân số nông
thôn được dùng nước sạch hợp vệ sinh đạt cao; vệ sinh môi trường ngày càng được
quan tâm. Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được tập trung chỉ đạo triển khai
một cách quyết liệt.
Trong giai đoạn từ năm 2010-2019, hàng năm thành phố Hà Nội phải thu hồi
diện tích đất lớn (mỗi năm bình quân Thành phố thu hồi khoảng 1.500 ha đất để thực
hiện khoảng 500 dự án, liên quan đến khoảng 15.000 hộ dân) để phục vụ cho các mục
đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bồi thường, GPMB
gặp nhiều khó khăn và thường làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, nhất là
các dự án thu hồi đất để mở rộng, xây dựng mới các tuyến đường giao thông.
Tại thành phố Hà Nội, luận án lựa chọn nghiên cứu điểm tại dự án mở rộng
đường Vành đai 3 (đoạn Mai Dịch- cầu Thăng Long), quận Bắc Từ Liêm; dự án xây
dựng khu đô thị GoldMark City 136 Hồ Tùng Mậu, quận Bắc Từ Liêm.
- Thành phố Đà Nẵng:
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế và là một trong những trung tâm văn
hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Trong những năm qua, Đà Nẵng đã giải tỏa hàng vạn ngôi nhà để mở những tuyến
đường huyết mạch như đường Nguyễn Tất Thành, Bạch Đằng Đông, Sơn Trà - Điện
Ngọc, Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trường Sa, thu hồi chuyển đổi
hàng nghìn héc-ta đất để mở rộng các khu đô thị Tây Bắc; Nguyễn Tri Phương -
Trường Sa, Thuận Phước, Bắc Mỹ An, Hòa Hải..., kè sông, kè biển, bảo tồn cảnh quan
để khai thác các giá trị còn tiềm ẩn.
43
Đối với phát triển khu dân cư nông thôn: Trong các năm qua nhờ các chính
sách vĩ mô và định hướng phát triển không gian đô thị của thành phố, khu vực nông
thôn đã có những bước tiến dài trên con đường đô thị hóa, các cơ sở hạ tầng mới được
xây dựng. Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, các khu
dân cư nông thôn ngày càng được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật,
các tuyến đường liên thôn, liên xã được mở rộng và bê tông hóa, nhiều nhà cao tầng
mọc lên. Hiện nay trên địa bàn huyện không có nhà tạm, nhà dột nát, 98,7% nhà ở kiên
cố và bán kiên cố, vấn đề về môi trường trong khu dân cư cũng được quan tâm đem lại
cho huyện dáng dấp của một đô thị mới.
Công tác bồi thường, GPMB được chú trọng để bảo đảm quỹ đất cho phát triển
cơ sở hạ tầng, đô thị, công nghiệp, dịch vụ và các công trình cần thiết khác. Tính đến
năm 2018, Thành phố đã triển khai 536 dự án, gần 120 nghìn hộ giải tỏa, đã giải quyết
bố trí TĐC hơn 30 nghìn lô đất và chung cư.
Tại thành phố Đà Nẵng, luận án nghiên cứu tại dự án mở rộng đường Hoàng Sa,
quận Sơn Trà; dự án xây dựng khu đô thị tại phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.
- Thành phố Hồ Chí Minh:
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai thành phố lớn nhất tại Việt Nam,
đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo
dục quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện nay, Thành phố đang tiến hành quy hoạch,
đầu tư xây dựng các điểm dân cư nông thôn theo mô hình nông thôn mới; cải tạo chỉnh
trang các phường, thị trấn trung tâm huyện, đầu tư xây dựng một số khu đô thị vệ tinh
hiện đại tạo động lực phát triển các huyện ngoại thành như: khu đô thị Tây-Bắc (Củ
Chi, Hóc Môn), khu Hiệp Phước (Nhà Bè); xác định quy mô diện tích và bảo vệ các
khu vực đất sản xuất nông nghiệp.
Với áp lực dân số cơ học tăng nhanh, Thành phố phải thực hiện thu hồi đất để
đáp ứng yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp
với quy mô diện tích lớn, vấn đề BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cũng hết sức khó
khăn, tồn tại khiếu kiện phức tạp trong quá trình tổ chức thực hiện bồi thường, GPMB.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, luận án nghiên cứu tại dự án mở rộng Quốc lộ 1A
đoạn qua quận Bình Thạnh và dự án xây dựng khu đô thị City Garden 59 Ngô Tất Tố,
quận Bình Thạnh.
44
2.2. Nghiên cứu định tính
2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính
Mục tiêu của nghiên cứu định tính là để kiểm tra và sàng lọc các biến nghiên cứu
phù hợp. Do luận án được thực hiện trong bối cảnh chưa có những nghiên cứu cụ thể về
nội dung tương tự ở Việt Nam. Hơn nữa, do có sự khác biệt về chế độ sở hữu đất đai,
chính sách pháp luật về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, văn hoá và trình độ phát triển
kinh tế - xã hội với các nước nên các thang đo đã được xây dựng ở các nghiên cứu quốc
tế chưa thật sự phù hợp sự thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt
Nam. Vì vậy, các thang đo của tác giả trước cần được điều chỉnh và bổ sung thông qua
áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể là phỏng vấn sâu nhằm đánh giá và
kiểm tra mức độ phù hợp về mặt từ ngữ, cú pháp được sử dụng trong các câu hỏi nhằm
đảm bảo tính thống nhất, rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho người trả lời; xác định, bổ
sung các tiêu chí đo lường các biến cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Đồng thời
giải thích rõ hơn cho các kết quả nghiên cứu định lượng.
Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu định tính trong nghiên cứu này bao gồm:
Một là, thăm dò tìm hiểu về thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong BT,
HT khi Nhà nước thu hồi đất.
Hai là, điều chỉnh, bổ sung các biến thang đo cho phù hợp với bối cảnh nghiên
cứu ở Việt Nam.
Ba là, bổ sung, làm rõ, giải thích cho các kết quả nghiên cứu định lượng.
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu
2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phỏng vấn sâu đối với đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước, nhà đầu tư nhằm xem xét đánh giá về quá trình BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Bên
cạnh đó là thăm dò, đánh giá sự thỏa mãn của người dân, cũng như tìm hiểu các khía
cạnh thỏa mãn của người dân thuộc diện có đất bị thu hồi và được bồi thường. Phỏng
vấn sâu các trường hợp, các tình huống được Creswell (2007) xác định là phương pháp
nghiên cứu định tính để khám phá một hoặc nhiều trường hợp theo thời gian có liên
quan đến dữ liệu chi tiết thu thập được từ các nguồn thông tin khác nhau. Theo
Schramm (1971) thì cho rằng nghiên cứu tình huống, phỏng vấn sâu sẽ làm sáng tỏ
một quyết định hoặc thiết lập các quyết định để làm rõ lý do tại sao quyết định được
thực hiện, được thực hiện như thế nào và mang lại kết quả gì.
45
Phương pháp nghiên cứu này sẽ giúp đi sâu phân tích một hoặc một số tình
huống, đối tượng cụ thể, từ đó có thể rút ra các bài học hoặc giải pháp thực tiễn cho
2.2.2.2. Đối tượng nghiên cứu và nội dung
chủ thể hay đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tượng sau: i)
cơ quan quản lý nhà nước và chủ đầu tư; ii) đại diện hộ gia đình có đất bị thu hồi, mỗi
hộ gia đình sẽ phỏng vấn 01 người đủ năng lực hành vi dân sự có thể đại diện cho
quan điểm của hộ gia đình, kết quả thu được sẽ giả định là đại diện cho dân cư trên địa
bàn nghiên cứu.
Nhóm 1: gồm các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu về chính sách đất đai,
quản lý nhà nước về lĩnh vực BT, HT, TĐC. Đối tượng tham gia phỏng vấn có kinh
nghiệm nghiên cứu, làm việc trong đất đai nói chung, lĩnh vực BT, HT, TĐC nói riêng
thấp nhất là 10 năm, cao nhất là 30 năm, có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 02
tiến sĩ. Nhóm này gồm 10 người được phỏng vấn, gồm: 02 giảng viên, nhà nghiên cứu
giảng dạy trong lĩnh vực đất đai; 02 người đang công tác tại Tổng cục Quản lý đất đai,
Bộ Tài nguyên và Môi trường; 03 người công tác tại Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh; 03 người đại diện chủ đầu tư
tại mỗi tỉnh khảo sát.
Nội dung phỏng vấn nhóm này tập trung vào tìm hiểu một số vấn đề sau: chính
sách, pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, kinh nghiệm thực hiện BT,
HT; những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật,
thực hiện BT, HT tại các địa phương.
Nhóm 2: gồm 12 đại diện hộ gia đình có đất bị thu hồi tại thành phố Hà Nội, Đà
Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đã được BT, HT trong khoảng thời gian từ năm 2016
đến năm 2019. Mục đích phỏng vấn nhóm này là để đánh giá về quan điểm của họ về
các biến thang đo của sự thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Đánh giá
về mức độ phù hợp của chính sách, những ưu, nhược điểm của chính sách hiện hành
và nguyên nhân dẫn đến sự không hài lòng của người dân. Mẫu nghiên cứu định tính
cho nhóm này được xác định dựa trên tình huống cụ thể trong quá trình khảo sát và tập
trung vào nhóm người dân rất không thỏa mãn và nhóm người dân thỏa mãn để tìm
hiểu các nội dung sau: Đánh giá cảm nhận chủ quan của đại diện hộ gia đình trong BT,
HT khi Nhà nước thu hồi đất so với mong đợi về các khía cạnh: i) mức BT, HT nhận
được và tính công bằng; ii) về phương thức bồi thường ; iii) về việc tổ chức thực hiện
BT, HT khi nhà nước thu hồi đất; iv) sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi
46
đất. Việc đánh giá nhận thức chủ quan của người dân nhằm trả lời cho câu hỏi Sự thỏa
mãn của người dân trong thu hồi đất, BT, HT như thế nào? Sự thỏa mãn có khác biệt
theo các nhóm yếu tố khác hay không, như là liệu có sự khác biệt về sự thoả mãn giữa
trình độ CMKT; giữa nghề nghiệp; vùng miền. Bên cạnh đó, luận án cũng tìm hiểu sự
thoả mãn có khác biệt theo mục đích sử dụng đất của dự án và thay đổi giá đất sau khi
thu hồi đất.
Kết quả của phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng có đất bị thu hồi sẽ giúp luận án
2.2.2.3. Số lượng đối tượng tham gia
có thêm bằng chứng để giải thích thêm cho các kết quả nghiên cứu định lượng.
Số lượng đối tượng tham gia phỏng vấn định tính được thể hiện ở bảng dưới
đây. Thời gian trung bình cho một cuộc phỏng vấn kéo dài từ 60 phút đến 120 phút.
Bảng 2.1. Mô tả mẫu khảo sát định tính
Tổng số TT Mô tả mẫu
Nhóm 1: Chuyên gia, quản lý Nhà nước, chủ đầu tư 10
1 Giảng viên, nhà nghiên cứu 2
2 Cán bộ quản lý Nhà nước tại Tổng cục Quản lý đất đai 2
3 Cán bộ quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố 3
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng
4 Đại diện chủ đầu tư (1 người/tỉnh) 3
Nhóm 2: Đại diện hộ gia đình 12
1 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hà Nội 4
2 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hồ Chí Minh 4
3 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Đà Nẵng 4
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Để tiến hành thực hiện phỏng vấn, tác giả xin lịch hẹn làm việc trao đổi với các đối tượng theo mẫu khảo sát định tính. Thời gian thực hiện phỏng vấn trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Thông tin thu thập được ghi
chép theo các vấn đề, nội dung của buổi trao đổi, thảo luận.
2.2.2.4. Thu thập thông tin
47
Thu thập thông tin thứ cấp: liên quan đến các đề tài nghiên cứu, các báo cáo,
bài báo liên quan đến sự thoả mãn nói chung và sự thoả mãn trong BT, HT khi thu hồi
đất nói riêng.
Thu thập thông tin sơ cấp: được thu thập từ các phương pháp thu thập thông tin
như phỏng vấn sâu hoặc điều tra khảo sát qua bảng hỏi nhằm thu thập thông tin trực
tiếp và nhiều chiều, dưới nhiều góc độ và quan điểm của mỗi cá nhân về sự thoả mãn
của hộ gia đình được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Để đảm bảo chất lượng phỏng vấn và thu thập đầy đủ các nội dung liên quan,
bản hướng dẫn câu hỏi phỏng vấn được xây dựng trên cơ sở đảm bảo mục tiêu kiểm
tra và sàng lọc các biến được xác định trong mô hình lý thuyết ban đầu. Các câu hỏi
được đặt ra nhằm xác định các yếu tố mức BT, HT và phương thức bồi thường; việc tổ
chức thực hiện BT, HT; đặc điểm sử dụng đất... ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Dựa vào kết quả trả lời của từng người tác giả tiếp tục
đưa ra những câu hỏi nhằm khai thác thêm những vấn đề liên quan đến sự thỏa mãn
khi giá đất tăng lên sau bồi thường, mức BT, HT kỳ vọng trên cơ sở hài hòa lợi ích
giữa người dân, Nhà nước và nhà đầu tư. Ghi chép từ các cuộc phỏng vấn và được so
sánh với nhau để tìm ra liệu có ai không hiểu các câu hỏi không, có những quan điểm
khác với quan điểm của tác giả đề xuất hay không.
Đối với nhóm 1, tác giả thực hiện phỏng vấn sâu đối với chuyên gia là giảng
viên và là nhà nghiên cứu có am hiểu trong lĩnh vực này; phỏng vấn sâu cán bộ quản
lý nhà nước tại Tổng cục Quản lý đất đai; thảo luận nhóm tại mỗi tỉnh đối với cán bộ
quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường và đại diện chủ đầu tư.
Đối với nhóm 2, tác giả phỏng vấn đại diện hộ tại nhà riêng; mỗi cuộc phỏng
vấn trung bình kéo dài khoảng 60 phút về các nội dung đã nêu. Toàn bộ nội dung các
cuộc phỏng vấn được ghi chép cẩn thận và đầy đủ, được lưu giữ và mã hóa trong máy tính.
Kết quả rút ra được tập hợp thành quan điểm chung đối với những vấn đề mà
các đối tượng phỏng vấn có cách nhìn tương tự như nhau.
Như vậy, nghiên cứu định tính là cần thiết để kiểm tra ban đầu tính phù hợp của
mô hình nghiên cứu, kiểm tra các thang đo trong bối cảnh Việt Nam và định hướng trong thiết kế bảng hỏi cũng như có thêm bằng chứng để giải thích thêm cho các kết
quả nghiên cứu định lượng. Những gợi ý có được từ các cuộc phỏng vấn sâu với các
chuyên gia, nhà nghiên cứu chính sách thuộc lĩnh vực nghiên cứu, đại diện các hộ gia
48
đình có đất bị thu hồi sẽ rất hữu ích, giúp tác giả xác định được chính xác, đầy đủ, toàn diện về các hiện tượng và quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
2.2.3. Phát triển thang đo
Từ kết quả nghiên cứu của các tác giả gần đây và trên cơ sở trao đổi, thảo luận với các chuyên gia từ Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các
chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực đất đai để thảo luận về việc sử dụng các biến
thang đo trên vào trường hợp nghiên cứu của Việt Nam. Kết quả cho thấy có những biến
thang đo trong các nghiên cứu trước đây chưa thực sự phù hợp hoặc chưa rõ nghĩa hoặc
cần bổ sung hoàn thiện trên cơ sở kết hợp với kết quả phỏng vấn sâu đối với đại diện hộ
gia đình và các phát hiện từ nghiên cứu định tính.
Thang đo sự thỏa mãn về mức BT, HT
Theo Wang, X. (2013), Li, N.H (2018) thì sự thỏa mãn về mức bồi thường được
đo lường bằng các biến thang đo như: i) Tiền bồi thường bị ăn chặn, thất thoát và không đúng theo quy định; ii) Mức bồi thường thấp hơn giá trị sản xuất nông nghiệp
trước khi bị thu hồi đất; iii) trong khu vực có các mức bồi thường khác nhau; iv) chưa
đáp ứng mức bồi thường bằng tiền; v) mức bồi thường đối với cây trồng, hoa màu trên
đất;…Ở Việt Nam, pháp luật về đất đai quy định khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo
nguồn gốc, loại đất có thể được bồi thường về đất, bồi thường về tài sản gắn liền với
đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về
đất và được hưởng các khoản hỗ trợ.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan và nghiên cứu định tính, trong nghiên
cứu này thì mức BT, HT được đo lường thông qua 4 biến: (1) Giá bồi thường về đất;
(2) Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất; (3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường
hợp không được bồi thường về đất; (4) Mức hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và
chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm.
Thang đo sự thỏa mãn về phương thức bồi thường
Li, N.H. (2018), Hui và cộng sự (2013), Yang, (2012), Ning Chai (2019), đưa ra các biến thang đo đánh giá gồm: i) bồi thường bằng tiền được trả dưới dạng một lần, trả theo các khoảng thời gian xác định; ii) bồi thường thay thế tài sản; iii) bồi thường tái định cư; iv) bồi thường bằng tiền kết hợp với bồi thường một phần bằng đất; v) và cuối
cùng là thông qua phương thức chi trả như là các khoản an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật về đất đai có các phương thức: bồi
thường bằng tiền, bồi thường bằng đất hoặc bồi thường bằng nhà.
49
Do vậy, luận án xem xét sự thoả mãn của người dân theo nhóm phương thức
bồi thường gồm 3 biến: (1) bồi thường bằng tiền; (2) bồi thường bằng đất; (3) bồi
thường bằng nhà. Một hộ dân có thể chỉ có một phương thức bồi thường hoặc cũng có
thể có hơn một phương thức bồi thường, do vậy luận án thiết kế thu thập thông tin về
nội dung này theo hướng hỏi cảm nhận đánh giá đủ cả 3 phương thức bồi thường.
Thang đo sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT
Ning Chai (2019), Li, N.H. (2018), Tyagi và Shinde (2016), sử dụng các biến
thang đo sau để đo lường sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT như sau: i) mức độ
kì vọng của người dân với việc BT, HT của chính quyền trong việc thu hồi đất; ii) hình
thức tổ chức công khai thông tin; iii) việc lấy ý kiến người dân; iv) công tác công tác
điều phối/điều tra/giải quyết khiếu kiện; v) Hoạt động đền bù được thực hiện một cách
chính xác; vi) Chủ đầu tư và chính quyền địa phương luôn sẵn sàng hỗ trợ người dân;
vii) Cách cư xử của chủ đầu tư và chính quyền địa phương tạo niềm tin cho người dân.
Như vậy, luận án kế thừa thang đo của các tác giả trước đây đã nghiên cứu, căn
cứ quy định của pháp luật về đất đai và kết quả nghiên cứu định tính, nhóm tổ chức
BT, HT dùng trong nghiên cứu này gồm 7 biến: (1) Lấy ý kiến người dân về phương
án BT, HT, TĐC; (2) Tiếp thu ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (3) Thực
hiện phương án BT, HT, TĐC công khai, minh bạch; (4) Giải quyết kịp thời khiếu nại
của người dân; (5) Năng lực của cán bộ làm nhiệm vụ BT, HT; (6) Sự tham gia của
chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) trong việc thu hồi đất, BT, HT (7)
Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, thân thiện.
Thang đo sự thay đổi cuộc sống
Biến thang đo này ít được các tác giả đề cập đến, trong nghiên cứu của Li, N.H.
(2018), Lisec và cộng sự (2014) và Wang, X. (2013), cũng đề cập một cách chung
chung như: i) cuộc sống của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi; ii) mức sống của
người dân khi bị thu hồi; iii) người dân có thể trở lên nghèo hơn; iv) người dân không
nhận được sự bảo đảm dài hạn và sẽ mất việc; v) cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc
nơi tái định cư.
Kết quả từ nghiên cứu định tính tại các địa bàn nghiên cứu cho thấy người dân
quan tâm đến việc cuộc sống của họ sẽ thay đổi thế nào sau thu hồi đất cũng góp phần
tạo lên sự thỏa mãn của người dân. Bên cạnh đó, từ kết quả trao đổi, thảo luận với các
chuyên gia, thực hiện khảo sát thực tiễn ở dân cư, tác giả nhận thấy đây cũng là chỉ
tiêu quan trọng khi xem xét sự thỏa mãn của người dân. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề
50
xuất 04 biến thang đo cho “Thay đổi cuộc sống” như sau: (1) Tiền BT, HT tạo thuận
lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống; (2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát
triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước; (3) Điều kiện tiếp cận về giao thông,
các công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước; (4) Điều kiện về môi
trường, dân trí thuận lợi hơn trước.
Sự thỏa mãn của người dân có sự khác biệt theo một số yếu tố
Vị trí đất bị thu hồi, cho biết khoảng cách từ địa điểm đất bị thu hồi đến các thị
trấn, đến thành phố gần nhất. Đất gần thị trấn hoặc thành phố dự kiến sẽ có giá trị
tương đối cao. Vì vậy, người dân có đất nằm ở gần khu vực có tiềm năng phát triển
kinh tế có xu hướng yêu cầu bồi thường đất cao hơn và có nhiều khả năng không thoả
mãn khi đất của họ bị thu hồi theo các quy định bồi thường hiện hành (Zhong và cộng
sự, 2011). Như vậy, nghiên cứu này cũng xem xét sự khác biệt theo 3 miền Bắc, Trung
và Nam, ba miền này cũng có những khác biệt về đặc điểm kinh tế và đặc điểm văn
hóa xã hội.
Giá đất thay đổi cũng ảnh hưởng đến mức độ thoả mãn của người dân, nếu giá
đất sau thu hồi tăng thì người dân sẽ yêu cầu đòi bồi thường ở mức cao hơn, do vậy
khi Nhà nước bồi thường theo mức giá hiện hành có thể làm cho người dân không
thoả mãn.
Mục đích thu hồi đất cũng ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Theo Li,
N.H. (2018), Hui và Bao (2013), người dân có xu hướng nhượng bộ để thu hồi đất vì
lợi ích công cộng, cơ sở hạ tầng nhưng từ chối thu hồi đất vì lợi ích khác.
Bên cạnh đó, các đặc điểm trình độ học vấn của chủ hộ là chỉ số về kinh
nghiệm và nhận thức của mình về thoả mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất;
nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đến sự thoả mãn vì các hộ có thu nhập từ phi nông
nghiệp cao hơn mức bình quân có nhiều khả năng hài lòng với khoản bồi thường hơn
(Kong, 2008), hộ phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp có nhiều khả năng cảm thấy không
hài lòng khi bị thu hồi đất nông nghiệp (Li, N.H., 2018, Wang, 2010).
Nghiên cứu này sử dụng thang đo Likert 5 mức độ từ điểm 1 - “Hoàn toàn
không đồng ý” đến điểm 5 - “Hoàn toàn đồng ý” tương tự như của Li, N.H. (2018)
Rasidat và Ige (2014) hay của Lisec và cộng sự (2014) cho các biến quan sát để hình
thành lên các biến tiềm ẩn. Bên cạnh đó, các biến giả cho các biến số có phân tổ. Bảng
dưới đây thể hiện danh sách các biến được sử dụng trong mô hình và được thu thập từ
phiếu hỏi phỏng vấn hộ gia đình.
51
Bảng 2.2. Bảng mô tả biến quan sát sử dụng trong phiếu hỏi
Nguồn tham khảo
Giải thích biến Mức độ thỏa mãn theo các thành phần Tên biến
MUCBT Mức BT, HT Ghi chú
MUCBT1
Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi
MUCBT3 Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý MUCBT2 Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế
Wang, X. (2013), Li, N.H (2018); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài MUCBT4 Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất
PTBT
PTBT1
PTBT2
Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý PTBT3
TCTH
TCTH1
TCTH2
Li, N.H. (2018), Hui và cộng sự (2013), Yang, (2012), Ning Chai (2019); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài Phương thức bồi thường Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống Tổ chức thực hiện BT, HT Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn
52
Tên biến
TCTH3 Ghi chú toàn đồng ý
TCTH4
TCTH5 Nguồn tham khảo Ning Chai (2019), Li, N.H. (2018), Tyagi và Shinde (2016); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài
TCTH6
Giải thích biến Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện
Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất
TCTH7 Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, thân thiện. TĐCS TĐCS1 Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống
TĐCS2
TĐCS3 Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước Thang đo Likert 5 mức độ: 1: Hoàn toàn không đồng ý…5: Hoàn toàn đồng ý Li, N.H. (2018), Lisec và cộng sự (2014) và Wang, X. (2013); Kết quả nghiên cứu định tính của đề tài TĐCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước
CMKT1 Biến giả
CMKT2 Zhong và cộng sự (2011) Kong, 2008 Nhóm các biến khác Không có bằng cấp chứng chỉ, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Có bằng cấp chứng chỉ từ Trung cấp trở xuống, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Biến giả
53
Giải thích biến Nguồn tham khảo Ghi chú Tên biến
CMKT3 Biến giả
Nghe1 Biến giả
Li, N.H., 2018, Wang, 2010
Nghe2
Biến giả
Nghe3
Biến giả
Vung1 Biến giả
Zhong và cộng sự, 2011 Vung2 Biến giả
Vung3 Biến giả
mucdich Biến giả
Li, N.H. (2018), Hui và Bao (2013),
thaydoigia dat Có trình độ từ Cao đẳng trở lên, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ nghề nông, lâm ngư nghiệp, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Người dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động công việc hưởng lương, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Trung, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Nam, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Nếu người dân ở miền Bắc, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Mục đích thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng vì lợi ích công cộng, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Giá đất của hộ gia đình về mảnh đất bị thu hồi tăng lên, biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu thuộc nhóm này và bằng 0 là nhóm khác Biến giả
Nguồn: Tổng hợp của Tác giả
54
Khung nghiên cứu
Như vậy, luận án xây dựng khung phân tích phù hợp với bối cảnh, tình hình
thực tế của Việt Nam như dưới đây.
Từ khung phân tích này, nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập thông tin về các biến
quan sát ở cột đầu tiên, trên cơ sở có thông tin từ cột này sẽ dựa trên công cụ định lượng
để tổng hợp tạo thành biến tổng hợp ở cột thứ hai, khi đó sẽ giúp luận án có thông tin
đánh giá về sự thỏa mãn của người dân đối với 4 khía cạnh: Sự thỏa mãn về mức bồi
thường; sự thỏa mãn về phương thức bồi thường; sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT,
HT và cuối cùng là sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống của người dân. Sự thỏa mãn
chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được tổ hợp từ 4 khía
cạnh: (1) Sự thỏa mãn về mức bồi thường; (2) sự thỏa mãn về phương thức bồi thường;
(3) sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT và sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống
của người dân. Từ tổng quan cũng như từ phân tích định tính cho thấy sự thỏa mãn của
người dân có sự khác biệt theo một số yếu tố khác (Nghề nghiệp; Trình độ CMKT;
Vùng miền; Mục đích của dự án; Thay đổi về giá đất), do vậy nghiên cứu sẽ phân tích
sự thỏa mãn chung theo nhóm đặc điểm này.
55
Giá bồi thường về đất
Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất
Chi phí đầu tư vào đất Thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ
Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi
Bồi thường bằng tiền
Bồi thường bằng đất
Thỏa mãn về phương thức bồi thường Bồi thường bằng nhà ở
Sự thỏa mãn Lấy ý kiến người dân
Tiếp thu ý kiến người dân
Thực hiện công khai, minh bạch
Thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ Giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân Các yếu tố khác
Năng lực của cán bộ - Nghề nghiệp
- Trình độ
Sự tham gia của chính quyền, tổ chức CT - XH - Vùng miền
- Mục đích của dự án
- Thay đổi về giá đất
Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, Ư thân thiện.
Thỏa mãn về sự thay đổi điều kiện sống của hộ Chỗ ở mới
Việc làm mới, phát triển sản xuất
Tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng
Thay đổi môi trường, trình độ dân trí Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu Nguồn: Tác giả tổng hợp
56
2.3. Nghiên cứu định lượng
2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng
Mục tiêu của việc áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng là xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện các dự án đầu tư. Đồng thời, nghiên cứu định lượng cũng nhằm kiểm
định giả thuyết để xác định mức độ ảnh hưởng khác nhau của các yếu tố đến người có
đất bị thu hồi, cũng như kiểm định giả thuyết để xem xét có sự khác biệt về các yếu tố
đến sự thỏa mãn khi Nhà nước thu hồi đất, gồm: Nghề nghiệp; Trình độ CMKT; Vùng
miền; Mục đích của dự án; Thay đổi về giá đất. Do đó, việc sử dụng phiếu điều tra đại
diện các hộ gia đình có đất bị thu hồi trên diện rộng sẽ giúp luận án thu thập được
những nhận định và đánh giá về những nội dung cần thiết để hoàn thành mục tiêu
nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện thông qua việc điều tra, khảo sát đại diện hộ gia
đình bị thu hồi đất. Mục đích của nghiên cứu này chủ yếu nhằm thu thập thông tin theo
phiếu khảo sát để có căn cứ đánh giá các biến quan sát dựa trên thang đo Likert (cho
điểm từ 1 đến 5). Phiếu hỏi sẽ được nhập vào biểu mẫu trên phần mềm CSPro. Sau khi
thu thập số liệu, nghiên cứu sẽ làm sạch, kiểm tra logic.
Luận án sử dụng Cronbach’s Alpha để kiểm định sự phù hợp cho các thang đo,
loại bỏ những quan sát không phù hợp. Các thang đo trong mô hình nghiên cứu đo lường
bằng thang đo Likert 5 điểm (1- hoàn toàn không đồng ý, 2- không đồng ý, 3- trung lập,
4- đồng ý, 5- hoàn toàn đồng ý).
Dựa trên phân tích nhân tố khám phá (EFA) sẽ phân tích các biến thang đo, tổ hợp
thành các biến tiềm ẩn, xác định được số biến thang đo cần thiết (số biến độc lập) cho mỗi
yếu tố ảnh hưởng. Do mỗi yếu tố sẽ được thiết kế dựa trên nhiều tiêu thức, nhiều thành
phần để cấu thành lên yếu tố, như vậy cần thiết phải đo độ tin cậy của thang đo (sử dụng
Cronbach’s Alpha) và cần phải phân tích để tổ hợp các thang đo thành các thành phần ít
hơn (đưa từ nhiều thành phần nhỏ sang số thành phần hay số biến ít hơn) nhưng vẫn đảm
bảo chứa đựng thông tin của các biến số.
Phân tích nhân tố khám phá khẳng định (CFA) được sử dụng để xác định sự
phù hợp của các biến trước khi đưa vào sử dụng trong mô hình phân tích. Cuối cùng,
để kiểm định giả thuyết của luận án, kỹ thuật ước lượng mô hình hồi quy và mô hình
SEM được sử dụng.
57
2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng
Thiết kế nghiên cứu định lượng hướng vào việc thiết kế những biến quan sát,
phương pháp đo lường, phương pháp đánh giá, phân tích và giải thích mối quan hệ
2.3.2.1. Mẫu nghiên cứu
giữa các biến bằng các quan hệ định lượng.
Theo Hair và cộng sự (1998), Black (1998), Green (1991) trong phân tích nhân
tố khám phá, kích thước mẫu tối thiểu được xác định dựa vào (i) mức tối thiểu và (ii)
số lượng biến đưa vào phân tích của mô hình. Ngoài ra trong phân tích hồi quy, Black
(1998), Green (1991), cho rằng cỡ mẫu tối thiểu cần xác định theo công thức 50 +
5*số biến độc lập trong mô hình nghiên cứu. Như vậy, dựa trên nghiên cứu cụ thể về
các biến quan sát, luận án sẽ xác định được cỡ mẫu cần nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu được lấy từ danh sách các hộ gia đình có đất bị thu hồi và được
BT, HT trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019 thuộc 06 dự án tại thành
phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh từ Sở Tài nguyên và Môi trường của
3 Tỉnh/thành phố. Nghiên cứu lựa chọn ngẫu nhiên các hộ gia đình có đất bị thu hồi,
tác giả sử dụng thông tin của hộ như địa chỉ, số điện thoại và họ tên của chủ hộ để liên
hệ, xin phép được phỏng vấn trực tiếp.
Số hộ dự kiến khảo sát cho nghiên cứu này là 800 hộ có đất bị thu hồi từ danh
sách nói trên. Tuy nhiên, thực tế số hộ đồng ý trả lời phiếu điều tra là 550 hộ. Sau khi
thu thập thông tin thì có 10 phiếu bị loại bỏ do một số nội dung trong các phiếu này
không được trả lời đầy đủ, thiếu nhiều thông tin. Như vậy mẫu điều tra đưa vào sử
dụng của luận án là 540 đại diện hộ gia đình, trong đó thành phố Hà Nội là 188 đại
diện hộ, thành phố Hồ Chí Minh là 177 đại diện hộ và thành phố Đà Nẵng là 175 đại
diện hộ.
Kích thước mẫu trong nghiên cứu định lượng chính thức, theo Hair và cộng sự
(1998) đối với phân tích nhân tố khám phá EFA thì cỡ mẫu phải tối thiểu gấp 5 lần
tổng số chỉ báo trong các thang đo, trong nghiên cứu này sử dụng 34 biến quan sát để
dùng trong phân tích nhân tố khám phá, do vậy số mẫu tối thiểu là 34*5=170. Như vậy
với mẫu nghiên cứu là 540 đại diện hộ đã đáp ứng được yêu cầu để phân tích định
lượng vì việc xác định quy mô mẫu dựa trên những yêu cầu về mẫu được dùng trong
phân tích định lượng và sự cân đối về các nguồn lực phục vụ việc điều tra.
58
Phân bố mẫu được thể hiện dưới đây:
Bảng 2.3. Bảng mô tả mẫu nghiên cứu theo phương pháp định lượng
Tiêu chí Số lượng %
Tổng 540 100
Theo giới
Nữ 287 53,1
Nam 253 46,9
Nhóm tuổi
Từ 35-49 tuổi 214 39,6
Từ 50-60 tuổi 178 33,0
Trên 60 tuổi 148 27,4
Trình độ CMKT
Không có bằng cấp chứng chỉ 182 33,7
Có chứng chỉ đến trung cấp 187 34,6
Từ cao đẳng trở lên 171 31,7
Vùng
Miền Trung 175 32,4
Miền Nam 177 32,8
Miền Bắc 188 34,8
Nghề tạo thu nhập chính
Từ nông, lâm ngư nghiệp 170 31,5
185 34,3 Từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
185 34,3 Từ hoạt động công việc hưởng lương
2.3.2.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Nghiên cứu định lượng với phương pháp thu thập dữ liệu chủ yếu là điều tra khảo sát thông qua phiếu điều tra với bảng câu hỏi. Phiếu điều tra được phát triển dựa trên các thang đo đã được nghiên cứu. Thời gian thực hiện khảo sát phiếu điều tra từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Thông tin từ phiếu khảo sát sẽ được nhập
59
vào máy tính thông qua thiết kế phần mềm nhập tin CSPro, và được làm sạch, kiểm tra logic bằng SPSS trước khi đưa vào phân tích. Sử dụng phương pháp định lượng sẽ giúp kiểm định các mối quan hệ và từ đó đưa ra các kết luận dựa trên bằng chứng.
Phân tích thống kê mô tả
Thống kê mô tả là bước đầu tiên trong việc phân tích dữ liệu định lượng để xác định độ phân phối của bộ dữ liệu đang nghiên cứu. Nghiên cứu tiến hành phân tích mô tả thống kê các biến quan sát trong mô hình qua các tiêu chí gồm: giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
Luận án phân tích mô hình SEM với phần mềm AMOS với các kiểm định về sự phù hợp của mô hình và kiểm định Bootstrap cho mô hình phân tích để đánh giá sự ổn định của mô hình nghiên cứu.
Kiểm định thang đo
Để đảm bảo chất lượng thang đo sẵn sàng cho các phân tích và kiểm định về giá trị
trung bình giữa các nhóm đối với biến sự thoả mãn chung, tác giả sử dụng kết hợp 2
phương pháp phân tích: nhân tố khám phá (EFA) và nhân tố khám phá khẳng định (CFA).
Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 - 1 là có thể chấp nhận được, các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,7 - 0,8 là sử dụng được và các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,8 - gần 1 là thang đo lường tốt. Trong nghiên cứu này, để đảm bảo độ tin cậy tốt, các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên được giữ lại để sử dụng cho các bước phân tích tiếp theo.
Tuy nhiên, hệ số Cronbach’s Alpha chỉ cho biết các thang đo có liên kết với nhau hay không mà không giúp cho việc quyết định giữ lại hay bỏ đi biến quan sát nào. Do vậy, nghiên cứu sử dụng thêm hệ số tương quan biến tổng (item - Chung correclation) để có thêm cơ sở cho việc đưa ra quyết định giữ lại hay bỏ đi biến quan sát.
Hệ số tương quan biến tổng là hệ số tương quan của 1 biến với điểm trung bình của các biến khác trong cùng một thang đo, do vậy hệ số này càng cao thì sự tương quan của biến này với các biến khác trong thang đo càng cao. Theo Nunnally và Burnstein (1994), các biến có hệ số tương quan biến tổng < 0,3 được coi là biến rác và loại biến này khỏi thang đo.
Vì vậy, theo tiêu chuẩn chọn biến đã trình bày ở trên, để đảm bảo độ tin cậy của thang đo, nghiên cứu sẽ lựa chọn các thang đo đảm bảo hệ số Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 và có hệ số tương quan biến tổng > 0,3.
60
- Kiểm định giá trị của thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám
phá - EFA
Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ
thuộc lẫn nhau, nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối
tương quan giữa các biến với nhau. EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành
một tập F (F hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến quan sát (Nguyễn Đình Thọ, 2012). Phân tích nhân tố sẽ được sử dụng để kiểm định sự hội tụ của các biến thành phần. Để khẳng định dữ liệu phân tích là phù hợp và có độ tin cậy cao, phải thỏa mãn các tiêu chí sau: Hệ số KMO (Kaiser - Meyer - Olkin) phải đạt giá trị từ 0,5 trở lên (0,5≤KMO≤1) thể hiện phân tích nhân tố là phù hợp. Kiểm định Bartlett có ý nghĩ thống kê (giá trị Sig. < 0,05), điều đó chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể. Hệ số tải nhân tố (Factor loading) là chỉ tiêu đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA ≥ 0,5. Dựa vào những tiêu chí trên, nghiên cứu lựa chọn các biến phù hợp với điều kiện: Hệ số kiểm định KMO: 0,5≤ KMO ≤ 1. Kiểm định Bartlett (Bartlett’s Test có ý nghĩa thống kê (sig ≤ 0,05), chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể. Phương sai trích > 50%: Với các mô hình nghiên cứu thông thường trên mẫu điều tra nhỏ (<100) mới cần áp dụng tiêu chuẩn này ở mức 0,5; tuy nhiên, để kết quả điều tra mang tính thực tiễn, nghiên cứu vẫn sử dụng mức kiểm định chặt chẽ này. Phân tích nhân tố khám phá Phần này sẽ kiểm định giá trị của biến để đánh giá sự hội tụ các thang đo của từng nhân tố bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Trong quá trình này, các biến quan sát không đạt yêu cầu về hệ số tải (> 0,5) sẽ bị loại bỏ. Sau khi sàng lọc các biến quan sát bằng EFA như trên thì sẽ tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang đo dựa trên hệ số Cronbach’s Alpha yêu cầu > 0,6 theo Hair và cộng sự (2006) cũng như thang đo sẽ đạt yêu cầu khi tổng phương sai trích > 50%. Kết quả phân tích EFA cho từng nhân tố sẽ được thể hiện thông qua kết quả xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 22. 2.3.2.3. Kết quả kiểm định thống kê 61 Sử dụng số liệu khảo sát của đề tài, các kết quả kiểm định được mô tả ở dưới đây: - Mức bồi thường, hỗ trợ: Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.3. Mặc dù kết quả cũng cho thấy, nếu loại bỏ biến MUCBT3 thì làm cho hệ số Cronbach’s Alpha tăng từ 0.874 lên 0.881. Tuy nhiên, từ phân tích EFA thì biến MUCBT3 là biến có ý nghĩa để cấu thành nên biến MUCBT, do vậy 4 biến thành phần của MUCBT được giữ lại vì đảm bảo điều kiện hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.6. Bảng 2.4. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho mức BT, HT Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items 0.874 4 Item-Chung Statistics Tương quan
biến tổng Trung bình
thang đo nếu
loại biến Phương sai
thang đo nếu
loại biến Cronbach's
Alpha nếu loại
biến MUCBT1 8.85 7.032 0.728 0.839 MUCBT2 8.21 7.021 0.731 0.838 MUCBT3 8.34 7.592 0.617 0.881 MUCBT4 8.35 6.328 0.850 0.788 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát - Phương thức bồi thường: Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0.731 Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn
hơn 0.3. Mặc dù kết quả cũng cho thấy, nếu loại bỏ biến PTBT2 thì làm cho hệ số
Cronbach’s Alpha tăng từ 0.731 lên 0.798. Tuy nhiên, từ phân tích EFA thì biến
PTBT2 là biến có ý nghĩa để cấu thành nên biến PTBT, do vậy 3 biến thành phần của
PTBT được giữ lại vì đảm bảo điều kiện hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.4. 62 Bảng 2.5. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho phương thức bồi thường Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items 0.731 3 Item-Chung Statistics Trung bình thang
đo nếu loại biến Phương sai thang
đo nếu loại biến Tương quan
biến tổng Cronbach's Alpha
nếu loại biến PTBT1 4.89 2.803 0.623 0.560 PTBT2 4.56 3.126 0.426 0.798 PTBT3 5.03 2.834 0.627 0.557 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát - Tổ chức thực hiện Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0.590, phần lớn các hệ số
tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn hơn 0.3, tuy nhiên
biến TCTH7 có hệ số nhỏ hơn 0,3 nếu loại bỏ biến quan sát này thì hệ số Cronbach’s
Alpha của thang đo này lớn hơn 0.590. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 7 biến nghiên
cứu yếu tố “Tổ chức thực hiện” sẽ được sử dụng sau khi loại bỏ biến TCTH7. Bảng 2.6a. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics
Cronbach's Alpha N of Items
.590 7 Tương quan
biến tổng Trung bình
thang đo nếu
loại biến Phương sai
thang đo nếu
loại biến Cronbach's
Alpha nếu
loại biến TCTH1
TCTH2
TCTH3
TCTH4
TCTH5
TCTH6
TCTH7 13.46
13.77
13.08
12.84
13.19
13.78
12.78 9.243
9.613
8.810
9.183
8.576
9.505
9.315 .333
.318
.402
.352
.424
.328
.208 .497
.501
.469
.489
.459
.548
.630 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha sau khi loại bỏ biến TCTH7 là
0.630. Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn
hơn 0.3 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát nào có thể làm cho Cronbach’s 63 Alpha của thang đo này lớn hơn 0.63. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 6 biến nghiên cứu
yếu tố “Tổ chức thực hiện” còn lại là hợp lý, tất cả các biến quan sát đều được chấp
nhận và sẽ được sử dụng trong các phân tích tiếp theo. Bảng 2.6b. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Tổ chức thực hiện Reliability Statistics N of Items Cronbach's Alpha
.630 6 Tương quan
biến tổng Trung bình
thang đo nếu
loại biến Phương sai
thang đo nếu
loại biến Cronbach's
Alpha nếu
loại biến 13.46
13.77
13.08
12.84
13.19
13.78 9.243
9.613
8.810
9.183
8.576
9.505 .333
.318
.402
.352
.424
.328 .597
.601
.569
.589
.559
.598 TCTH1
TCTH2
TCTH3
TCTH4
TCTH5
TCTH6 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát - Sự thay đổi cuộc sống Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha là 0,721 Các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong thang đo đều lớn
hơn 0.4 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát nào có thể làm cho Cronbach’s
Alpha của thang đo này lớn hơn 0.721. Vì vậy, thang đo sử dụng cho 4 biến nghiên
cứu yếu tố “Sự thay đổi cuộc sống” còn lại là hợp lý, tất cả các biến quan sát đều được
chấp nhận và sẽ được sử dụng trong các phân tích tiếp theo. Bảng 2.7. Kiểm định Cronbach’s Alpha cho Sự thay đổi cuộc sống Reliability Statistics Cronbach's Alpha
.721 Tương quan
biến tổng N of Items
4
Trung bình
thang đo nếu
loại biến Phương sai
thang đo nếu
loại biến Cronbach's
Alpha nếu
loại biến 8.22
8.21
8.65
8.05 5.730
4.952
5.468
5.392 .447
.617
.513
.467 .695
.593
.658
.687 TDCS1
TDCS2
TDCS3
TDCS4 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 64 Phân tích nhân tố khám phá EFA Theo kết quả phân tích nhân tố cho thấy, hệ số KMO=0,715>0,5. Như vậy,
phân tích nhân tố thích hợp với dữ liệu nghiên cứu. Kết quả kiểm định Barlett’s là:
2471.242 với mức ý nghĩa sig=0,000 <0,05. Điều này, khẳng định bác bỏ giả thuyết
H0: Các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể và như vậy giả
thuyết về mô hình nhân tố không phù hợp sẽ bị bác bỏ, điều này chứng tỏ dữ liệu dùng
để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp. Bảng 2.8. Kiểm định KMO và Bartlett KMO và Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.
Bartlett's Test of
Sphericity .715
2471.242
136
0.000 Approx. Chi-Square
df
Sig. Rotation
Sums of
Squared
Loadingsa Initial Eigenvalues Total Total 2.938
2.219
2.133
1.996 Extraction Sums of Squared
Loadings
% of
Variance
17.471
13.056
12.667
11.153 Cumulative
%
17.471
30.526
43.194
54.346 Cumulative
%
17.471
30.526
43.194
54.346
60.079
65.325
70.133
74.468
78.651
82.446
86.099
89.444
92.710
95.342
97.187
98.911
100.000 % of
Variance
17.471
13.056
12.667
11.153
5.733
5.246
4.808
4.335
4.183
3.795
3.653
3.345
3.266
2.633
1.844
1.724
1.089 2.970
2.219
2.153
1.896
.975
.892
.817
.737
.711
.645
.621
.569
.555
.448
.314
.293
.185 Total
Component
2.970
1
2.219
2
2.153
3
1.896
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Extraction Method: Principal Component Analysis.
a. When components are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance. Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 65 Theo kết quả phân tích trên cho thấy: Tổng phương sai trích =54,346% >50%: Đạt yêu cầu, có thể nói rằng các nhân tố này giải thích 54,34% độ biến thiên của dữ liệu thu thập. Hệ số Eigenvalues > 1 có tất cả 4 nhân tố, do đó có 4 nhân tố đại diện. Bảng ma
trận xoay nhân tố thể hiện ở dưới đây cho thấy các quan sát hội tụ về 4 nhân tố đại diện. Bảng 2.9. Bảng ma trận hệ số các thành phần Pattern Matrixa Component 2 3 4 1
.853
.851
.770
.927 .866
.695
.859 .684
.821
.740
.698 .556
.539
.634
.583
.672
.556 MUCBT1
MUCBT2
MUCBT3
MUCBT4
PTBT1
PTBT2
PTBT3
TDCS1
TDCS2
TDCS3
TDCS4
TCTH1
TCTH2
TCTH3
TCTH4
TCTH5
TCTH6
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 4 iterations. Cụ thể các nhóm được tổng hợp như dưới đây: Nhóm 1: Mức BT, HT là tổ hợp của các biến thành phần sau Biến thành phần MUCBT1 Diễn giải
Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng
trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một
mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi MUCBT2 Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế MUCBT3 MUCBT4 Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về
đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế
Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất 66 Nhóm 2: Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất Biến thành phần Diễn giải TĐCS1 Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và TĐCS2 tăng hơn trước Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công TĐCS3 cộng thuận lợi hơn trước TĐCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước Nhóm 3: Tổ chức thực hiện Biến thành phần Diễn giải Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ TCTH1 chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về TCTH2 phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo TCTH3 đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp TCTH4 thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC TCTH5 Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực
và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT
khi Nhà nước thu hồi đất TCTH6 Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền,
phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người
dân thực hiện 67 Nhóm 4: Phương thức bồi thường Biến thành phần Diễn giải PTBT1 Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất
theo giá đất thị trường PTBT2 Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều
kiện tương đương với thửa đất thu hồi PTBT3 Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở
để bảo đảm ổn định đời sống Mức độ phù hợp mô hình và các chỉ số đo độ phù hợp mô hình Nhân tố khẳng định CFA Sự phù hợp của mô hình được xác định bởi sự tương ứng giữa ma trận hiệp phương sai quan sát được và một ma trận hiệp phương sai ước lượng lấy kết quả từ mô hình được đề xuất (proposed model). Mô hình SEM sử dụng các đo lường để miêu tả giả thiết nghiên cứu giải thích dữ liệu đầu vào (input) như thế nào. Dữ liệu input tạo thành ma trận hiệp phương sai giữa các biến đo lường. Bảng 2.10. Tiêu chuẩn kiểm định sự phù hợp của mô hình Chỉ số Ngưỡng chấp nhận Chi-square/df (cmin/df) <3 thì tốt, <5 đôi khi chấp nhận được CFI >0.9 GFI >0.9 TLI >0.9 RMSEA <0.05 PCLOSE >0.05 Nguồn: Hair và cộng sự (2010) Nếu giải thích được đến tất cả các mối tương quan chính vốn có trong tập dữ liệu (liên quan đến các biến trong mô hình) thì sẽ có mô hình phù hợp (good fit). Nếu có sự khác biệt giữa những mối tương quan đề xuất và những mối tương quan quan sát được thì sẽ có một mô hình có độ phù hợp thấp (poor fit). Mô hình đề xuất không "phù hợp" với mô hình quan sát, mô hình ước lượng. 68 - Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình (goodness of fit) được liệt kê dưới đây,
kèm theo với ngưỡng giá trị chấp nhận. Độ phù hợp mô hình nghịch đảo với kích cỡ
mẫu và số biến quan sát trong mô hình. Các ngưỡng đánh giá được thể hiện ở bảng
dưới đây (Hair và cộng sự, 2010). Các mô hình được xây dựng có thể đảm bảo hoặc không đảm bảo các điều kiện
trên, trường hợp các chỉ số đo sự phù hợp mô hình chưa tốt, nghiên cứu sử dụng chỉ số
MI để cải thiện độ phù hợp của mô hình. - Cách cải thiện độ phù hợp của mô hình Chỉ số MI (Modification indices): đưa ra các biện pháp khắc phục cho các sai
lệch giữa mô hình được đề xuất và mô hình ước lượng (estimated model). Trong phân
tích nhân tố khẳng định CFA không thể thêm các đường hồi qui để sửa mô hình phù
hợp, do tất cả các đường hồi qui giữa các biến tiềm ẩn và biến quan sát được đã có sẵn.
Vì vậy, trong CFA, người ta xem xét các chỉ số sửa đổi cho hiệp phương sai. Nguyên tắc
là: không được sử dụng các mũi tên hiệp phương sai covariances giữa phần dư (error
terms) với biến quan sát hoặc biến tiềm ẩn; không được sử dụng giữa những error terms
mà không thuộc cùng một nhân tố. Do đó, cách phù hợp nhất để sử dụng chỉ số MI là
nối các mũi tên hai chiều hiệp phương sai giữa các phần dư trong cùng một nhân tố. Mô hình có Chi-square càng nhỏ càng tốt. Cột MI gợi ý xem nên móc mũi tên
hai đầu vào cặp sai số nào để có thể cải thiện Chi-square. Khi đó GFI, TLI, CFI…
cũng sẽ được cải thiện. Nghiên cứu sẽ chọn những trường hợp mà có MI lớn để
ưu tiên móc trước. Sau đó, chạy lại mô hình, và xem nên móc tiếp giữa hai sai số nào
để tiếp tục cải thiện. Phần này sẽ kiểm định giá trị của biến để đánh giá sự hội tụ các thang đo của
từng nhân tố bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA). Trong quá trình
này, các biến quan sát không đạt yêu cầu về hệ số tải (> 0,5) sẽ bị loại bỏ. Sau khi sàng
lọc các biến quan sát bằng EFA như trên thì sẽ tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang
đo dựa trên hệ số Cronbach’s Alpha yêu cầu > 0,6 theo Hair và cộng sự (2006) cũng
như thang đo sẽ đạt yêu cầu khi tổng phương sai trích > 50%. Như vậy, luận án sử dụng Cronbach’s Alpha để kiểm định thang đo. Các biến
tiềm ẩn trong mô hình nghiên cứu đo lường bằng thang đo Likert 5 điểm (1- hoàn toàn
không đồng ý đến 5 hoàn toàn đồng ý). Dựa trên phân tích nhân tố khám phá (EFA) sẽ xác định được số thang đo cần
thiết (số biến độc lập) cho mỗi yếu tố ảnh hưởng. Do mỗi yếu tố sẽ được thiết kế dựa trên nhiều tiêu thức, nhiều thành phần để cấu thành lên yếu tố, như vậy cần thiết phải đo 69 độ tin cậy của thang đo (sử dụng Cronbach’s Alpha) và cần phải phân tích để tổ hợp các
thang đo thành các thành phần ít hơn (đưa từ nhiều thành phần nhỏ sang số thành phần hay số biến ít hơn) nhưng vẫn đảm bảo chứa đựng thông tin của các biến số. Dựa trên phân tích về nhân tố khẳng định CFA sẽ xác định được các biến tiềm ẩn được tạo bởi từ các biến quan sát. Phân tích nhân tố khẳng định CFA Kết quả CFA ở trên cho thấy: Chi-square=217,280 (p=0,000); Chi-square/df =
1,923<5; GFI=0,955, TLI=0,947, CFI=0,956 đều lớn hơn 0,9 và RMSEA=0,041<0,08. Như vậy, kết quả mô hình phù hợp với dữ liệu thu thập. Hình 2.2. Kết quả khẳng định CFA Từ Hình 2.2 có thể thấy kết quả sơ bộ các yếu tố thành phần đều đóng góp tích cực đến chỉ số thỏa mãn theo các khía cạnh như mức BT, HT; phương thức bồi 70 thường; tổ chức thực hiện BT, HT và thay đổi cuộc sống. Các hệ số trên đã được chuẩn hóa để đảm bảo tính so sánh giữa các biến thành phần, hệ số của một biến càng lớn thì thể hiện vai trò đóng góp càng lớn đến sự thỏa mãn. Như vậy, nhìn vào Hình 2.2 có thể thấy đối với sự thỏa mãn về mức bồi thường
thì đóng góp chủ yếu từ biến quan sát MUCBT4 (Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất) đóng vai trò mạnh vào sự thỏa mãn về mức bồi thường. Tương tự đối với phương thức bồi thường thì PTBT1 (Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường) và PTBT3 (Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống) đóng
góp mạnh hơn so với PTBT2 (Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi). Kết quả Hình 2.2 sẽ được sử dụng cho phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất ở Chương 3. Kiểm định giá trị phân biệt Hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0,9 hoặc có thể xem kết quả kiểm định giá trị phân biệt bằng cách dựa vào hệ số tương quan ước lượng được từ mô hình, tính toán
thêm các chỉ số như: SE = SQRT(1-r2)/(n-2); CR= (1-r)/SE; với r = hệ số tương quan; p-value = TDIST(CR, n-2, 2), n = số bậc tự do trong mô hình, với nghiên cứu này n=377 (Degrees of freedom: 465 - 88). Kết quả cho thấy hệ số tương quan của tất cả các cặp có giá trị p<0,05 nên hệ số tương quan của các cặp khái niệm này khác biệt so với 1 ở mức ý nghĩa 5% hay độ tin cậy 95%. Như vậy, những cặp khái niệm này đạt giá trị phân biệt. Bảng 2.11. Kết quả kiểm định giá trị phân biệt giữa các thang đo Estimate S.E. C.R. P MUCBT <--> TDCS 0.011 0.0076 129.57 0.0000 MUCBT <--> TCTH 0.079 0.0076 121.03 0.0000 MUCBT <--> PTBT -0.049 0.0076 137.58 0.0000 TDCS <--> TCTH 0.012 0.0076 129.44 0.0000 TDCS <--> PTBT 0.015 0.0076 129.05 0.0000 TCTH <--> PTBT 0.071 0.0076 122.01 0.0000 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 71 Như vậy, từ phân tích CFA, luận án tạo ra được các biến tiềm ẩn như bảng dưới đây: Bảng 2.12. Bảng danh sách các biến tiềm ẩn Tên biến Giải thích biến MUCBT Mức BT, HT PTBT Phương thức bồi thường TCTH Tổ chức thực hiện TDCS Thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả định lượng trên sẽ được sử dụng kết hợp với phương pháp nghiên cứu định tính để phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và sự thỏa mãn này ở các khía cạnh và giữa các nhóm cư dân ở Chương tiếp theo. Như vậy, kết quả phân tích EFA, CFA và một số kiểm định từ mô hình SEM đã giúp luận án xác định được các biến: Mức BT, HT (MUCBT); phương thức bồi thường (PTBT); tổ chức thực hiện BT, HT (TCTH); sự thay đổi các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất (TDCS) và biến SUTM được xác định dựa trên tổ hợp của 4 biến này. Để có thể phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn (SUTM) của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất theo các nhóm như trình độ CMKT, ngành nghề, vùng miền, Mục đích của dự án, sự thay đổi về giá đất (theo khung phân tích ở trên) nghiên cứu sẽ sử dụng 2 phương pháp dưới đây để phân tích. Phương pháp phân tích phương sai - ANOVA Nghiên cứu này sẽ sử dụng ANOVA để kiểm định giả thuyết trung bình bằng nhau của các nhóm hay phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn của người dân giữa các nhóm dân cư (nhóm dân cư phân theo trình độ CMKT, ngành nghề, vùng miền, mục đích của dự án, sự thay đổi về giá đất). 72 Nghiên cứu này sẽ sử dụng kiểm định ANOVA test Ho: “Trung bình bằng nhau” Nếu giá trị Sig <5%: bác bỏ Ho, khi đó sẽ kết luận có sự khác biệt giữa các nhóm đối với biến phụ thuộc (Sự thoả mãn) Nếu giá trị Sig >5%: chấp nhận Ho, hay có thể kết luận chưa đủ điều kiện để khẳng định có sự khác biệt giữa các nhóm đối với biến phụ thuộc. Khi có sự khác biệt giữa các nhóm, luận án sử dụng kiểm định Tukey để kiểm định sự khác biệt về biến phụ thuộc của các nhóm như thế nào. Như vậy, áp dụng trong nghiên cứu này, biến phụ thuộc là sự thoả mãn (SUTM), các nhóm bao gồm trình độ CMKT, ngành nghề, vùng miền, mục đích của dự án, sự thay đổi về giá đất. Phương pháp mô hình hồi quy Kết quả phân tích phương sai ANOVA cho phép luận án phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn theo từng nhóm, tuy nhiên phương pháp này kiểm định giá trị bằng nhau của biến sự thoả mãn theo từng nhân tố. Do vậy để có thêm góc nhìn khi phân tích sự khác biệt về sự thoả mãn (SUTM) theo các nhóm đồng thời, nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy đa biến để kiểm định. Mô hình hồi quy đa biến đơn giản sẽ được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), đây là phương pháp được sử dụng phổ biến để ước lượng các tham số trong mô hình hồi quy. Mục đích của phương pháp đó là xác định các hệ số ước lượng sao cho tổng bình phương các sai lệch giữa giá trị thực tế quan sát được và giá trị ước lượng từ mô hình là nhỏ nhất. Như vậy, mô hình ước lượng sử dụng trong nghiên cứu này được thể hiện dưới đây: SUTMi = a0 + a1vung1i + a2vung2i + a3cmkt1i +a4cmkt2i + a5nghe1i +a6nghe2i + a7mucdichi + a8thaydoigiadati +ei Trong đó: - SUTM là sự thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. - Chỉ số i là chỉ số thứ tự của người thứ i trong mẫu khảo sát; ei phản ánh phần dư hay yếu tố không quan sát được. 73 - Các biến vung1, vung2 là các biến giả thể hiện cho 2 vùng (so với một vùng làm cơ sở không xuất hiện trong mô hình). - Các biến cmkt1 và cmkt2 là các biến giả về trình độ CMKT (so với biến CMKT không xuất hiện trong mô hình). - Các biến nghe1, nghe2 là các biến giả cho nghề nghiệp của người dân (so với biến nghe3 không xuất hiện trong mô hình). - Biến mucdich và thaydoigiadat lần lượt là biến mục đích sử dụng đất và sự thay đổi giá đất. Hệ số ước lượng của các biến từ mô hình trên cho biết sự thỏa mãn của người dân ảnh hưởng thế nào theo các biến độc lập. Vì các biến độc lập có hình thức biến giả, do vậy hệ số ước lượng của mỗi biến cũng phản ánh khác biệt về sự thỏa mãn của người dân theo các phân loại của mỗi biến này. Như vậy, nếu một hệ số ước lượng khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 90%, 95% hay 99% thì có thể kết luận biến phụ thuộc SUTM có sự khác biệt theo biến số đó. Do vậy, luận án dựa vào kết quả ước lượng mô hình và kiểm định hệ số để kết luận sự thoả mãn (SUTM) có khác biệt theo các nhóm hay không. 74 Chương 2 tác giả đã trình bày về phương pháp nghiên cứu của luận án với các điểm chính sau: Luận án sử dụng nghiên cứu định tính để tìm hiểu sâu về chính sách liên quan,
nghiên cứu về các yếu tố hình thành lên sự thoả mãn của người dân từ góc nhìn của nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất. Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy sự thỏa mãn thể hiện ở 4 khía cạnh: Một là, mức BT, HT, gồm: (1) Giá bồi thường về đất; (2) Giá bồi thường về tài
sản gắn liền với đất; (3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất; (4) Mức hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm. Hai là, phương thức bồi thường gồm: (1) bồi thường bằng tiền; (2) bồi thường bằng đất; (3) bồi thường bằng nhà. Ba là, tổ chức thực hiện BT, HT gồm 6: (1) Lấy ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (2) Tiếp thu ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (3) Thực hiện phương án BT, HT, TĐC công khai, minh bạch; (4) Giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân; (5) Năng lực của cán bộ làm nhiệm vụ BT, HT; (6) Sự tham gia của chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) trong việc thu hồi đất, BT, HT. Bốn là, thay đổi cuộc sống, gồm: (1) Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống; (2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu
nhập ổn định và tăng hơn trước; (3) Điều kiện tiếp cận về giao thông, các công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước; (4) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước. Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân có sự khác biệt theo một số đặc điểm của hộ như trình độ CMKT, nghề nghiệp và vùng miền. Khung nghiên cứu của luận án về sự thỏa mãn chung của người dân trong BT,
HT khi Nhà nước thu hồi đất được tổ hợp từ 4 khía cạnh: (1) Sự thỏa mãn về mức bồi
thường; (2) sự thỏa mãn về phương thức bồi thường; (3) sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT và sự thỏa mãn trong thay đổi cuộc sống của người dân. Nghiên cứu định lượng thông qua phương pháp khảo sát người dân thuộc khu vực bị thu hồi đất để đánh giá sự thoả mãn của người dân và hoàn thiện các biến số đo 75 lường các khái niệm nghiên cứu như mức bồi thường, phương thức bồi thường, tổ
chức thực hiện, thay đổi cuộc sống. Luận án sử dụng phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xác định được 4 nhóm biến thành phần cho sự thỏa mãn, gồm thỏa mãn về mức bồi thường, thỏa mãn về phương thức bồi thường, thỏa mãn về thay đổi cuộc sống và thỏa mãn về tổ chức thực
hiện. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để có kiểm định thống kê cho các hệ số ước lượng và khẳng định vai trò của mỗi biến quan sát đối với biến tổng hợp về sự thỏa mãn. Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua phương pháp khảo sát ý kiến 540 hộ dân bị thu hồi đất nhằm xác định các yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời kiểm định mức độ khác nhau của các yếu tố đến người có đất bị thu hồi, cũng như xem xét có sự khác biệt về đặc điểm sử dụng đất, các yếu tố nội tại của hộ gia đình, yếu tố vùng miền đến sự thỏa mãn khi Nhà nước thu hồi đất. Kết quả kiểm định Cronbach’ Alpha đối với mức BT, HT, phương thức bồi thường, tổ chức thực hiện BT, HT, sự thay đổi cuộc sống đều đảm bảo yêu cầu, hệ số lớn hơn 0,6. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett đều cho thấy dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp. Luận án sử dụng các kỹ thuật phân tích và xử lý số liệu như phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) cho thấy 17 biến thành phần được tổ hợp về 4 nhóm biến theo kỳ vọng và 4 nhóm biến này đều đảm bảo giá trị
phân biệt. 76 Chương này luận án sử dụng số liệu khảo sát 540 người dân để đánh giá sự thỏa mãn của người dân, trong đó nghiên cứu sử dụng phân tích giá trị trung bình khi đánh giá hiện trạng về sự thỏa mãn theo các khía cạnh và sử dụng phân tích ANOVA trên mẫu để phân tích sự thỏa mãn chung của người dân theo các nhóm. Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và quy định cụ thể của địa phương. Mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm bồi thường về đất đối với từng loại đất cụ thể, bồi thường tài sản gắn liền với đất, bồi thường chi phí di chuyển và các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi, cụ thể: a) Bồi thường về đất: - Nguyên tắc bồi thường về đất: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường; việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất (Quốc hội, 2013). - Điều kiện được bồi thường về đất: Người sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận (trừ trường hợp người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp quy định tại Khoản 2 Điều 77 của Luật Đất đai năm 2013) thì đủ điều kiện được bồi thường về đất (Quốc hội, 2013). - Về giá đất tính bồi thường: Giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm 77 quyết định thu hồi đất. Việc định giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện theo nguyên tắc phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường và cơ quan quản lý đất đai được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để thực hiện. Căn cứ các phương pháp định giá đất và kết quả tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể (Quốc hội, 2013). Chính phủ đã quy định 5 phương pháp định giá đất để áp dụng trong việc định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất (Chính phủ, 2014c, 2017). Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hướng dẫn chi tiết nội dung, trình tự thực hiện các phương pháp định giá đất (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014b, 2017). Việc định giá đất cụ thể nói chung và định giá đất tính bồi thường nói riêng phải thực hiện thông qua các bước: (1) Xác định mục đính định giá đất cụ thể; (2) Điều tra, tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, áp dụng phương pháp định giá đất; (3) Xây dựng phương án định giá đất trình UBND cấp tỉnh; (4) Thẩm định phương án giá đất; (5) Hoàn thiện dự thảo phương án giá đất: (6) UBND cấp tỉnh quyết định giá đất. Việc thẩm định giá đất do Hội đồng thẩm định giá đất thực hiện với thành phần bao gồm: Chủ tịch UBND cấp tỉnh là chủ tịch Hội đồng, đại diện Lãnh đạo Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng, đại diện Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp huyện nơi có đất; tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất hoặc chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do UBND cấp tỉnh quyết định (Chính phủ, 2014b; Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014b). Nội dung thẩm định phương án giá đất bao gồm: thẩm định việc áp dụng nguyên tắc định giá đất, việc áp dụng các phương pháp định giá đất, thẩm định sự phù hợp của các thông tin thu thập được về thửa đất khảo sát; của phương án giá đất đề xuất so với giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai (Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016). b) Bồi thường về tài sản gắn liền với đất: - Nguyên tắc bồi thường tài sản: khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại (Quốc hội, 2013). 78 - Về bồi thường thiệt hại tài sản: Nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn
liền với đất phải tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Trường hợp phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế. Đối với nhà, công
trình xây dựng khác gắn liền với đất, khi Nhà nước thu hồi đất mà bị tháo dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được bồi thường thiệt hại với mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình (Quốc hội, 2013). Mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình đó. Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định bằng (=) tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân (x) với giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên ngành ban hành. Khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường không quá 100% giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương với nhà, công trình bị thiệt hại (Chính phủ, 2014b). c) Bồi thường chi phí di chuyển: Khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì người có đất bị thu hồi được
bồi thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt; trường hợp phải di chuyển hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất còn được bồi thường đối với thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển,
lắp đặt. Luật Đất đai năm 2013 giao cho UBND cấp tỉnh quy định mức bồi thường chi phí
di chuyển cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương (Quốc hội, 2013). d) Các khoản hỗ trợ: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua các khoản hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ TĐC đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khác. Các khoản hỗ trợ này được hiểu là phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã bồi thường sòng phẳng để ổn định đời sống, 79 sản xuất và phát triển, là khoản điều tiết từ phần giá trị gia tăng từ đất đai mà không
phải là do đầu tư của người sử dụng đất mang lại (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014b). - Nguyên tắc hỗ trợ: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ, gồm các khoản: hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc; hỗ trợ TĐC và hỗ trợ khác (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014b). - Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất: Khi Nhà nước thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất trong thời gian 6 tháng (không phải di chuyển chỗ ở) và trong thời gian 12 tháng (phải di chuyển chỗ ở); trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng. Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng (không phải di chuyển chỗ ở) và trong thời gian 24 tháng (phải di chuyển chỗ ở); trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quyết định mức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ, định kỳ chi trả tiền hỗ trợ cho phù hợp với thực tế tại địa phương (Chính phủ, 2014b). Diện tích đất nông nghiệp thu hồi để tính hỗ trợ ổn định đời sống được xác định theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, không cộng dồn diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi của các quyết định thu hồi đất trước đó (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014a). - Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm: Đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. Việc hỗ trợ bằng tiền không quá 5 lần giá đất nông nghiệp trong bảng giá đất đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện thực tế của địa phương. Đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà di 80 chuyển chỗ ở: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chổ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất kinh doanh; nhân khẩu trong độ tuổi lao động được hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Chính phủ, 2014b). - Hỗ trợ tái định cư: Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận đất ở, nhà ở TĐC mà số tiền được bồi thường về đất nhỏ hơn giá trị một suất TĐC tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch giữa giá trị suất TĐC tối thiểu và số tiền được bồi thường về đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tự lo chỗ ở thì ngoài việc được bồi thường về đất còn được nhận khoản tiền hỗ trợ TĐC. UBND cấp tỉnh căn cứ diện tích đất ở thu hồi, số nhân khẩu của hộ gia đình và điều kiện cụ thể tại địa phương quy định mức hỗ trợ cho phù hợp (Chính phủ, 2014b). - Hỗ trợ khác: Ngoài các khoản hỗ trợ nêu trên, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và công bằng đối với người có đất bị thu hồi; trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 thì UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ phù hợp với thực tế của địa phương; trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng Chính phủ quyết định (Chính phủ, 2014b). Kết quả đánh giá sự thoả mãn của người dân về mức BT, HT (MUCBT) khi Nhà nước thu hồi đất từ CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 4 biến thang đo trong sự thoả mãn của người dân như sau: 1) Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1), có trọng số là 0,78; 2) Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT2), có trọng số là 0,76; 3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3), có trọng số là 0,71; 81 4) Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất (MUCBT4), có trọng số là 0,94, đây cũng là biến thang đo đóng góp nhiều vào mức thỏa mãn chung của mức BT, HT. Theo Bảng 3.1, trong 4 biến thang đo để đánh giá, người dân đánh giá biến thang đo 1 (mức giá đất tính bồi thường) ở mức thấp, chỉ 2,1 điểm (dưới mức trung bình), tỷ lệ người dân rất đồng tình và đồng tình chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm 15,2%, điều này chứng
tỏ rằng người dân chưa thoả mãn, đồng tình với mức giá bồi thường. Biến thang đo về “Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế” (MUCBT2) được đánh giá cao hơn không đáng kể, điểm trung bình là 2,2 và chỉ có 19,9% số người trả lời là rất đồng ý và đồng ý với nội dung này. Chi tiết thống kê về sự thỏa mãn của người dân đối với mức BT, HT được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3.1. Sự thỏa mãn về mức BT, HT Rất Không Bình Rất không Đồng ý Mức BT, HT đồng ý thường đồng ý đồng ý Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1) Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với 18,9 39,4 26,5 13,0 2,2 2,1 thực tế (MUCBT2) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường 5,7 40,7 33,7 16,3 3,6 2,2 về đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3) Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản 7,4 36,7 34,3 19,5 2,2 2,6 xuất (MUCBT4) 9,4 35,5 32,6 18,5 3,9 2,7 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 82 Như vậy, có thể thấy mức độ thỏa mãn thông qua cảm nhận của người dân về mức BT, HT nhận được so với mong đợi ở mức thấp. Để tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân của sự không thoả mãn, luận án phỏng vấn sâu đại diện một số chủ hộ có đất bị thu hồi, kết quả cho thấy người dân đánh giá mức giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp hơn nhiều so với giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường và người dân cảm thấy không công bằng trong thực hiện BT, HT nên dẫn đến người dân không đồng tình. “Luật Đất đai quy định bồi thường theo giá thị trường. Hiện nay giá đất trên thị trường như ở khu nhà tôi là 140-150 triệu đồng/m2 nhưng lại chỉ được bồi thường 70 triệu đồng/m2, thấp hơn nhiều so với giá thị trường thì làm sao tôi có thể mua được mảnh đất tương tự? Chúng tôi không thoả mãn với mức bồi thường này, trong khi có mấy hộ tự nhiên hưởng lợi lớn, nhà đang trong ngõ lại được ra mặt đường”. Người dân ở thành phố Hà Nội. “Gia đình tôi bị thu hồi trên 90% diện tích đất nông nghiệp để làm khu đô thị. Đất nông nghiệp gia đình tôi trồng hoa, cây cảnh, cho thu nhập 30 đến 50 triệu đồng/sào. Nhưng khi Nhà nước lấy đất lại chỉ bồi thường cây trồng với giá rẻ không bằng một nửa. Giá đền bù đất nông nghiệp quá thấp, nên gia đình tôi không đồng ý…”. Người dân ở thành phố Đà Nẵng. “Tôi chỉ được bồi thường với mức giá 1,3 triệu đồng/m2 mà nhà đầu tư thực hiện dự án bán ra với giá 80 -100 triệu đồng/m2 thì quá lời, không biết Nhà nước có thu thêm được gì không. Nếu Nhà nước thu hồi đất làm hạ tầng, công trình công cộng để phục vụ lợi ích chung thì tôi đồng tình ủng hộ, nhưng thu hồi đất để giao cho doanh nghiệp làm dự án đô thị như thế này thì tôi không đồng tình, nhà đầu tư phải thoả thuận bồi thường mới hợp lý…”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, có một số ít người dân có đất bị thu hồi hài lòng với mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất do những hộ này được hưởng lợi từ việc thu hồi đất, kết quả đầu tư hạ tầng hoặc số tiền bồi thường giúp người dân phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống. 83 “Tôi rất đồng tình với việc thu hồi đất, bồi thường của Nhà nước, con đường này mở rộng sẽ đẹp và khang trang, thuận lợi cho giao thông của thành phố, gia đình tôi sẽ dùng tiền được BT, HT để sửa nhà để vừa ở, vừa kết hợp kinh doanh”. Người dân ở thành phố Đà Nẵng. “Là người dân nên tôi chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi tiến hành thu hồi đất để đầu tư dự án làm đường giao thông. Giá cả mà Nhà nước BT, HT cho tôi khi thu hồi đất nông nghiệp là hợp lý, tôi có vốn để làm ăn, mở rộng kinh doanh nên bản thân tôi rất hài lòng…”. Người dân ở thành phố Hà Nội. “…Ban đầu chúng tôi không đồng tình với mức giá đất tính bồi thường mà chính quyền đưa ra, chúng tôi thắc mắc, khiếu nại nhưng sau khi được các tổ chức đoàn thể, tổ dân phố, UBND phường tuyên truyền, vận động, thuyết phục chia sẻ với thành phố với ngân sách hạn chế, việc mở rộng đường giao thông vì lợi chung cho cộng đồng cũng như gia đình tôi nên tôi đã chấp hành bàn giao mặt bằng”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy việc người dân thỏa mãn về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất còn ở mức thấp do nguyên nhân chính là giá đất tính bồi thường thấp hơn nhiều so với giá đất thị trường, người dân không đồng thuận với giá đất tính BT, HT. Giá đất tính bồi thường chênh lệch lớn với giá đất thị trường ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân trong nghiên cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trước đây như Kakulu (2008), Olapado và Ige (2012), Song QU và cộng sự (2015). Việc thu hồi đất phục vụ lợi ích chung như đầu tư hạ tầng được người dân ủng hộ hơn so với thực hiện dự án phát triển kinh tế; sự không công bằng trong lợi ích nhận được từ việc Nhà nước thu hồi đất cũng là nguyên nhân làm cho người dân không thỏa mãn như Lý thuyết công bằng đã chỉ ra. Ngược lại, với cùng một mức BT, HT nhưng có một số chủ hộ rất thoả mãn do họ bị thu hồi một phần thửa đất, phần diện tích còn lại đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng, họ được hưởng lợi trực tiếp từ việc thu hồi đất, đầu tư hạ tầng của Nhà nước hoặc hộ có khả năng sử dụng tiền bồi thường nhưng một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế gia đình. Bên cạnh đó, có một số hộ ban đầu không đồng thuận, họ khiếu nại nhưng không được giải quyết, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan có chức năng vận động, thuyết phục, họ đã đồng thuận với việc thu hồi đất. Điều này có thể lý giải dựa 84 vào Lý thuyết về sự thỏa mãn, người có đất bị thu hồi đã điều chỉnh kỳ vọng, mong đợi về mức giá bồi thường có thể nhận được so với thực tế và dẫn đến sự thỏa mãn, đồng thuận. Xét trên bình diện cả nước, theo chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh - PAPI (2019), khảo sát người dân về thu hồi đất, bồi thường cho thấy tỷ lệ người dân được bồi thường với giá gần với giá thị trường mặc dù được cải thiện trong giai đoạn 2011-2019 nhưng còn rất thấp, năm 2011 tỷ lệ này là 12,86% tăng lên 31,89% vào năm 2019 (Hình 3.1). Hình 3.1. Tỉ lệ người trả lời cho biết hộ gia đình bị thu hồi đất được đền bù với Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ số liệu PAPI hàng năm giá xấp xỉ giá thị trường (%) Tổng hợp ý kiến thảo luận của các chuyên gia công tác tại Tổng cục Quản lý đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh cho rằng quy định của pháp luật về thu hồi đất, BT, HT, TĐC đã từng bước được hoàn thiện, quy định ngày càng rõ ràng, cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, đơn giá thực hiện bồi thường về đất, bồi thường về công trình, tài sản khác gắn liền với đất và các khoản hỗ trợ cho người bị thu hồi đất nhằm ổn định đời sống, sản xuất và phát triển; việc xây dựng các khu TĐC cũng được quan tâm tổ chức thực hiện. 85 Tuy nhiên, bồi thường, GPMB luôn là công việc khó khăn và thường nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp vì liên quan đến quyền lợi của người có đất bị thu hồi và nhiều bên liên quan. Các dự án thu hồi đất, GPMB từ trước đến nay bị vướng mắc, không thể triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ phần lớn do sự không đồng thuận về giá đất tính bồi thường, giá đất TĐC giữa người dân có đất bị thu hồi và cơ quan, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB. Cơ chế xác định giá đất cụ thể để tính bồi thường theo giá thị trường, thẩm định giá đất trước khi quyết định là một bước tiến bộ lớn nhằm bảo đảm chất lượng của công tác định giá đất nhưng áp dụng vào thực tế chưa thực sự đảm bảo nguyên tắc giá đất phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường. Nguyên nhân là do thị trường quyền sử dụng đất của nước ta kém minh bạch, giá chuyển nhượng thực tế cao, còn ghi trong hợp đồng chuyển nhượng lại ở mức thấp để giảm thuế thu nhập cá nhân (thường bằng hoặc thấp hơn bảng giá đất) nên sử dụng thông tin này là đầu vào khi áp dụng phương pháp định giá đất, đặc biệt là phương pháp so sánh trực tiếp để định giá đất cho kết quả không chính xác, thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Mặt khác, có những khu vực, loại đất không có chuyển nhượng thực tế trên thị trường nên rất khó khăn trong việc xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, cơ chế thẩm định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với thành phần Hội đồng thẩm định do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập chủ yếu thành phần là các cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước (đại diện các Sở, ban, ngành của tỉnh) nên chưa đảm bảo được quyền lợi của người dân. Đối với dự án đầu tư khu đô thị hay các dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách nhà nước thì nên thực hiện theo cơ chế nhà đầu tư thoả thuận với người sử dụng đất (chuyển dịch đất đai tự nguyện theo các hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê và góp vốn bằng quyền sử dụng đất), Nhà nước chỉ đóng vai trò là người trung gian để hai bên thuận lợi trong việc thực hiện thoả thuận dân sự. Trường hợp người sử dụng đất không đồng ý với mức giá bồi thường có thể yêu cầu cơ quan định giá đất độc lập để xác định giá đất làm căn cứ thoả thuận bồi thường. Quan điểm này tương đồng với khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới về cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện tại Việt Nam (World Bank, 2011). Mặt khác, hiện nay việc điều tiết giá trị tăng thêm từ đất không do người sử dụng đất đầu tư (do Nhà nước đầu tư) đã quy định trong Luật Đất đai năm 2003, 2013, 86 nhưng chưa có quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật việc điều tiết trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, đầu tư kết cấu hạ tầng và chưa thực hiện được trong thực tế. Do đó, pháp luật cần phải sớm có quy định cụ thể để bảo đảm công bằng giữa người bị thu hồi toàn bộ thửa đất, người bị thu hồi một phần thửa đất và người không bị thu hồi đất mà được hưởng lợi trực tiếp từ việc thu hồi đất, đầu tư hạ tầng của Nhà nước nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm tính công bằng giữa những người sử dụng đất. Việc có sự chênh lệch lớn giữa giá đất nông nghiệp tính bồi thường khi thu hồi đất và giá đất ở sau khi chuyển mục đích sử dụng đất để giao cho nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển đô thị, khu dân cư cũng làm người dân không thoả mãn, do người dân cho rằng chủ đầu tư được hưởng lợi quá lớn, trong khi Nhà nước cũng bị thất thu ngân sách và chính họ - người bị thu hồi đất thì bị thiệt thòi. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mức thoả mãn của người có đất bị thu hồi theo mức BT, HT có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng miền, cụ thể: Theo trình độ CMKT: Kết quả Bảng 3.2 đánh giá mức độ thỏa mãn về mức BT, HT theo trình độ CMKT cho thấy: người dân có trình độ từ cao đẳng trở lên đánh giá thấp nhất (2,24 điểm), sau đó đến những người không có bằng cấp chứng chỉ (2,3 điểm), còn lại người có chứng chỉ đến trung cấp đánh giá ở mức BT, HT của Nhà nước với mức điểm 2,36 điểm. So sánh mức độ thỏa mãn của người dân chia theo trình độ CMKT có thể nhận thấy rằng những người bị thu hồi đất có chứng chỉ đến trung cấp dễ thỏa mãn hơn với những chính sách bồi thường của Nhà nước, trong đó họ đánh giá cao mức bồi thường giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế (mức điểm 2,26), còn những người có trình độ từ cao đẳng trở lên, là những người được đánh giá có trình độ cao trong xã hội lại khó chấp nhận mức BT, HT chưa thỏa đáng khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, những người có trình độ đến trung cấp lại không đồng tình về mức giá đất tính bồi thường khi so với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (đánh giá với mức điểm 2,20). Qua đây có thể thấy rằng, người có trình độ đến 87 trung cấp họ không chỉ quan tâm tới giá trị của mảnh đất bị thu hồi mà họ còn quan tâm tới tính phù hợp với thực tế về mức giá trị tài sản gắn liền với đất. Ngoài ra, cùng với nhóm những người không có bằng cấp chứng chỉ, họ cũng rất quan tâm tới việc phát triển sinh kế, đảm bảo cho họ có một cuộc sống ổn định lâu dài. Bởi thực tế, đây là những người có trình độ CMKT thấp, kỹ năng làm việc chuyên nghiệp còn hạn chế, nếu Nhà nước không quan tâm tới việc tạo công ăn việc làm cho họ sau khi thu hồi đất họ sẽ trở thành những người nông dân mất đất - mất tư liệu sản xuất đặc biệt, cuộc sống sẽ rơi vào khó khăn do không có thu nhập ổn định hoặc thu nhập hạn chế, bấp bênh. Bảng 3.2. Sự thỏa mãn về BT, HT của người dân chia theo trình độ CMKT Đơn vị: điểm Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một 2,07 2,20 2,04 mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1) Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác 2,20 2,26 2,14 định đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT2) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định 2,56 2,59 2,49 đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3) Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo 2,72 2,75 2,63 đảm ổn định đời sống, sản xuất (MUCBT4) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 88 Như vậy, từ kết quả nghiên cứu có thể thấy không có sự khác biệt lớn về sự thoả mãn đối với mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất giữa người dân không có bằng cấp chứng chỉ và người dân có chứng chỉ đến trung cấp. Theo nghề nghiệp; Kết quả Bảng 3.3 cho thấy những người hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp có mức thỏa mãn thấp với mức BT, HT của Nhà nước, với 2,28 điểm, trong khi đó những người lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và hoạt động từ công việc hưởng lương, là những người có thu nhập ổn định, đánh giá hoạt động này cao hơn (điểm tương ứng là 2,30 và 2,32 điểm). Đánh giá về mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi, thì người dân ở các nhóm đều đánh giá ở mức thấp (xem Bảng 3.3), thấp nhất ở nhóm người dân làm công hưởng lương, tiếp đến là nhóm làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Đánh giá về mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy đủ, phù hợp với thực tế khi Nhà nước thu hồi đất thì những người hoạt động từ nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn là 2,26 điểm, cao hơn so với nhóm người dân có nghề nghiệp chính từ hoạt động làm công hưởng lương (2,13 điểm) và hoạt động tự sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (2,20 điểm). Những người có thu nhập từ những hoạt động công việc hưởng lương và từ hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thường đánh giá cao mức BT, HT của Nhà nước ở tất cả các khía cạnh. Điều này được lý giải do cuộc sống của những người có thu nhập từ hoạt động hưởng lương sẽ ít bị xáo trộn hơn những đối tượng còn lại khi Nhà nước thu hồi đất, dù bị thu hồi đất, mất tư liệu sản xuất thì họ vẫn có thu nhập ổn định hàng tháng. Trong khi đó, những người hoạt động từ nông, lâm, ngư nghiệp nếu Nhà nước thu hồi đất là lấy đi nguồn sống của chính họ. Vì thế, khi bị Nhà nước thu hồi đất, họ là người bị ảnh hưởng đầu tiên nên mức độ thỏa mãn về mức BT, HT thường thấp. Do đó, khi thực hiện việc thu hồi đất để thực hiện các dự án, Nhà nước cần có chính sách BT, HT không chỉ bằng tiền mặt mà cần quan tâm hơn nữa tới việc ổn định 89 đời sống, tạo việc làm của người dân sau khi bị mất đất, nhất là đối tượng làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Bảng 3.3. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo nghề nghiệp Đơn vị: điểm 2,13 2,19 1,97 thực 2,26 2,20 2,13 Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức
giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị
bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một
mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi
(MUCBT1)
Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác
định đầy đủ, phù hợp với
tế
(MUCBT2) 2,55 2,56 2,54 Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp
không được bồi thường về đất được xác định
đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT3) 2,79 2,73 2,58 Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo
đảm ổn định đời sống, sản xuất (MUCBT4) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Như vậy, sự thỏa mãn về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi có sự khác biệt
theo nghề nghiệp của người dân. Người dân có nghề nghiệp từ nông lâm, ngư nghiệp
thì có mức độ thỏa mãn thấp hơn so với người dân làm công việc hưởng lương hoặc tự
hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Theo vùng miền: Bảng 3.4 dưới đây cho thấy sự thỏa mãn về BT, HT đối với người dân ở miền
Bắc đánh giá cao nhất trong cả nước là 2,32 điểm, sau đó là đến người dân miền Nam,
miền Trung là nơi mà người dân có mức hài lòng về mức BT, HT thấp hơn. Tuy nhiên,
sự chênh lệch về mức BT, HT này giữa các vùng miền trong cả nước không có sự
chênh lệch lớn. 90 Người dân ở cả 3 miền đều có sự thỏa mãn cao nhất về mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất. Kết quả cũng cho thấy không có sự khác biệt nhiều của người dân ở 3 miền khi
đánh giá về mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên
thị trường, giá trị bồi thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để
thay thế thửa đất thu hồi, người dân đều đánh giá ở mức thấp, chỉ khoảng 2,1 điểm. Bảng 3.4. Sự thỏa mãn về mức BT, HT của người dân chia theo vùng miền Đơn vị: điểm Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi 2,11 2,09 2,10 thường có thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất
tương tự để thay thế thửa đất thu hồi (MUCBT1) 2,20 2,15 2,25 Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định
đầy đủ, phù hợp với thực tế (MUCBT2) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù 2,58 2,55 2,52 hợp với thực tế (MUCBT3) Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn 2,73 2,70 2,67 định đời sống, sản xuất (MUCBT4) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Như vậy, có thể thấy sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT không có sự khác biệt nhiều giữa 3 miền, tuy nhiên người dân ở miền Trung có mức thỏa mãn thấp hơn so với các miền khác. Từ các kết quả phân tích sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi cho thấy mức giá bồi thường hiện nay đang thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường nên việc nhận tiền bồi thường khó nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích đất tương tự như thửa đất thu hồi, đồng thời việc thay đổi chỗ ở và ngành nghề đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống và thu nhập của người dân sau khi bị thu hồi đất. Vì vậy, chính quyền địa phương cần phải thực hiện tốt chính sách thu hồi đất, phải 91 đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt hơn hoặc ngang bằng trước khi thu hồi. Giá trị đất tính bồi thường phải đáp ứng được điều kiện mua lại đất hoặc khả năng tái sản xuất cho người dân. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng miền. - Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường; việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất (Quốc hội, 2013). - Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc bồi thường về đất được thực hiện như sau: + Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở TĐC. + Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. + Trường hợp trong hộ gia đình đủ điều kiện được bồi thường mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở thu hồi thì 92 UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở TĐC và tình thực tế tại địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở TĐC cho từng hộ gia đình. + Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đủ điều kiện được bồi thường mà không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở TĐC thì được Nhà nước bồi thường bằng tiền. + Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do UBND cấp tỉnh quy định (Chính phủ, 2014b). Như vậy, tùy theo từng trường hợp cụ thể, pháp luật về đất đai quy định có 3 phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng đất, bồi thường bằng nhà. Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 3 yếu tố trong sự thoả mãn của người dân về phương thức bồi thường như sau: 1) Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường (PTBT1), có trọng số là 0,81; 2) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi (PTBT2), có trọng số chỉ bằng một nửa so với các yếu tố còn lại, là 0,48; 3) Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống (PTBT3), có trọng số là 0,82. Người dân đánh giá cao hơn ở phương thức được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi nhất với mức đánh giá trung bình là 2,68 điểm, cao hơn so với 2 phương thức còn lại là bồi thường bằng tiền và bồi thường bằng nhà. Có đến 57,6% số người không hài lòng về phương thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường; 64,4% người dân không hài lòng với phương thức bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống (Bảng 3.5). 93 Bảng 3.5. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường Rất
không Đồng ý Không
đồng ý Bình
thường Rất
đồng ý đồng ý Mức bồi thường bằng tiền trên 21,1 36,5 29,3 12,2 0,9 cơ sở xác định giá trị của thửa
đất theo giá đất thị trường (PTBT1) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và 12,8 33,3 31,7 18,0 4,3 các điều kiện tương đương
thu hồi
với thửa đất (PTBT2) Bồi thường bằng nhà đối 25,9 38,5 25,0 9,8 0,7 với trường hợp bị thu hồi
đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống (PTBT3) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy phần lớn người dân có đất bị thu hồi không muốn được bồi thường bằng tiền vì giá bồi thường thấp hơn nhiều so với thị trường, người dân có nguyện vọng được bồi thường bằng đất. Việc người dân có đất bị thu hồi mong muốn nhận bồi thường theo phương thức nào không chỉ phụ thuộc vào lợi ích kinh tế trước mắt mà quan trọng là sinh kế lâu dài của họ. Trường hợp người dân nhận BT, HT theo phương thức bằng tiền thì nguồn vốn vật chất của họ được cải
thiện đáng kể, nhưng nếu số tiền nhận được từ việc BT, HT không được sử dụng vào
mục đích đầu tư sản xuất, kinh doanh và học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp thì có
thể dẫn đến khó khăn trong tìm kiếm việc làm, thu nhập và ổn định cuộc sống lâu dài;
một số hộ sử dụng tiền không hiệu quả, trở nên nghèo đói. “Gia đình tôi bị thu hồi 300 m2 đất ở, nhưng chỉ được bồi thường 1 suất đất ở
TĐC với diện tích 80 m2, diện tích còn lại được bồi thường bằng với giá quá thấp. Tôi
có nhu cầu được bồi thường bằng toàn bộ đất ở có điều kiện tương đương…”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. 94 “Tôi muốn được Nhà nước bồi thường bằng đất, chứ không muốn bồi thường
bằng tiền mặt vì gia đình tôi đông con, cần cho con ở riêng sau này và có đất để sản xuất. Bồi thường bằng nhà TĐC tôi cũng không đồng ý vì chất lượng nhà TĐC quá kém…”. Người dân ở thành phố Hà Nội. "…Giá đất tính tiền bồi thường quá thấp so với giá thực tế trên thị trường, bồi
thường bằng tiền rất thiệt thòi cho chúng tôi, chúng tôi chỉ có nguyện vọng được bồi thường bằng đất để tiếp tục có mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh; việc nhận tiền bồi
thường không giúp chúng tôi trong tìm kiếm việc làm, có thu nhập ổn định". Người dân ở thành phố Đà Nẵng. Kết quả thảo luận với các chuyên gia cũng cho thấy người dân mong muốn được bồi thường bằng đất là do mức giá bồi thường hiện nay còn thấp hơn so với giá đất thị trường, chưa đảm bảo quyền lợi của người dân. Nếu giá điều chỉnh giá đất bồi thường phù hợp với thị trường thì người dân sẽ sẵn sàng nhận bồi thường bằng tiền để chủ động nhận chuyển nhượng thửa đất có điều kiện tương đương. Bên cạnh đó, việc sử dụng phương thức bồi thường bằng đất trên thực tế sẽ rất khó khăn do quỹ đất hạn chế, muốn có quỹ đất để bồi thường thì phải thu hồi một diện tích đất khác. Vì vậy, đối với địa phương không có đất để bồi thường thì trong quá trình thực hiện phương thức bồi thường bằng tiền, cần chú trọng các giải pháp đảm bảo sinh kế của hộ gia đình sau thu hồi đất một cách thức chất và hiệu quả. Các quan điểm này hoàn toàn phù hợp với một số nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chế độ an sinh xã hội, cung cấp mức sinh kế dài hạn tối thiểu, mang lại sự thoả mãn cho người dân hơn là bồi thường bằng tiền mặt (Hui và cộng sự, 2013; Yang, 2012; Kotilainen, 2012). Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thoả mãn của người dân theo
phương thức bồi thường có sự khác biệt theo trình độ CMKT, nghề nghiệp và vùng miền. - Theo trình độ CMKT: Kết quả từ Bảng 3.6 đánh giá về mức thỏa mãn trong phương thức bồi thường cho thấy người dân không có bằng cấp chứng chỉ đánh giá ở mức 2,46 điểm, trong khi đó những người có trình độ cao đẳng trở lên đánh giá phương thức bồi thường là 2,40 điểm, còn người có chứng chỉ đến trung cấp thấp hơn nhóm người có trình độ cao đẳng chỉ 0,02 điểm. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường luôn ở mức thấp nhất, trong đó người dân có trình độ càng cao thì mức thỏa mãn càng thấp (không có bằng cấp chứng chỉ là 2,41 điểm; từ cao đẳng trở lên là 2,3 điểm). 95 Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi được đánh giá trên mức trung bình, trong đó người dân không có bằng cấp chứng chỉ đánh giá ở mức cao nhất (2,75 điểm) và người dân có chứng chỉ dưới trình độ trung cấp đánh giá ở mức thấp nhất (2,59). Bảng 3.6. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo trình độ CMKT Đơn vị: điểm Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường 2,41 2,35 2,3 (PTBT1) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với 2,75 2,59 2,69 thửa đất thu hồi (PTBT2) Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống 2,23 2,21 2,19 (PTBT3) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Như vậy, sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường có sự khác
biệt theo trình độ CMKT của người dân. Những người không có bằng cấp chứng chỉ
dễ dàng hài lòng với phương thức bồi thường của Nhà nước hơn. - Theo nghề nghiệp: Đối với sự thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá
trị của thửa đất theo giá đất thị trường, không có sự khác biệt nhiều giữa người dân có
nghề từ nông lâm, ngư nghiệp và người dân có nghề từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
phi nông nghiệp (điểm trung bình tương ứng là 2,33 và 2,32), tuy nhiên những người có
nghề chính từ hoạt động hưởng lương có mức đánh giá cao hơn (2,41 điểm). 96 điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi thì người dân có nghề từ hoạt động sản xuất, Đối với phương thức bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các kinh doanh phi nông nghiệp đánh giá ở mức cao nhất (2,7 điểm), đây là nhóm dân cư có nguồn thu nhập chính từ hoạt động tự làm phi nông nghiệp, khi bị thu hồi đất họ mong muốn được bồi thường bằng mảnh đất tương đương để có thể tiếp tục sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bảng 3.7. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo nghề nghiệp Đơn vị: điểm Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường 2,33 2,32 2,41 (PTBT1) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với 2,65 2,7 2,68 thửa đất thu hồi (PTBT2) Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống 2,18 2,24 2,21 (PTBT3) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả nghiên cứu cho thấy về sự thỏa mãn của người dân đối với phương thức bồi thường không có sự khác nhau quá nhiều giữa người dân có nghề nghiệp khác nhau. Nhìn chung người có hoạt động từ công việc hưởng lương là những người đã có công việc ổn định, không bị ảnh hưởng nhiều từ quá trình thu hồi đất của Nhà nước, do vậy đối với các phương thức bồi thường họ luôn có đánh giá cao hơn so với 2 nhóm còn lại. 97 - Theo vùng miền: Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn về phương thức bồi thường của người dân ở miền Bắc cao hơn so với người dân ở miền Trung và miền nam (2,46 điểm), người dân ở miền Trung ít thỏa mãn nhất (2,34 điểm). Việc đánh giá phương thức bồi thường theo vùng miền phụ thuộc rất nhiều vào phong tục tập quán, lối sống, cách tư duy của người dân thuộc vùng miền đó. Đối với người dân miền Bắc, họ thích được bồi thường bằng một thửa đất tương đương cùng mục đích sử dụng (2,79 điểm). Điều này có thể được lý giải là do người dân miền Bắc trong tư duy từ xa xưa là “an cư mới lạc nghiệp” do đó họ luôn hướng tới mong muốn có một môi trường ổn định, cơ sở hạ tầng tốt đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày. Bảng 3.8. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường chia theo vùng miền Đơn vị: điểm Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị của thửa đất theo giá đất thị trường 2,31 2,38 2,37 (PTBT1) Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng và các điều kiện tương đương với thửa đất 2,54 2,69 2,79 thu hồi (PTBT2) Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống 2,18 2,22 2,22 (PTBT3) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả trên cho thấy về sự thỏa mãn đối với phương thức bồi thường có sự khác biệt theo vùng miền. Người dân ở miền Trung có mức thỏa mãn thấp nhất và người ở miền Bắc có mức thỏa mãn cao nhất. 98 Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, việc thực hiện bồi thường cần được tiến hành theo nhiều phương thức khác nhau như bằng tiền, bằng đất và bằng nhà, nếu chỉ thực hiện bồi thường bằng tiền sẽ được coi là phiến diện và không tạo sinh kế lâu dài cho người dân bị mất đất. Người dân thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng đất hơn là so với các phương thức khác do giá đất bồi thường hiện tại thấp hơn nhiều so với giá đất thị trường. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có sự khác biệt theo trình độ CMKT, vùng miền và theo nghề nghiệp. - Về nguyên tắc thực hiện: Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật (Quốc hội, 2013). - Lập, thẩm định và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: + Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm lập phương án BT, HT, TĐC và phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án BT, HT, TĐC theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất bị thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất bị thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất bị thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án BT, HT, TĐC; phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền. + Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án BT, HT, TĐC trước khi trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. + Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB có trách nhiệm phối hợp với 99 UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án BT, HT, TĐC tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định BT, HT, TĐC đến từng người có đất bị thu hồi, trong đó ghi rõ về mức BT, HT, bố trí nhà hoặc đất TĐC (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền BT, HT; thời gian bố trí nhà hoặc đất TĐC (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB. + Tổ chức thực hiện việc BT, HT, bố trí TĐC theo phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt. Trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất bị thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất bị thu hồi thực hiện. Trường hợp người có đất bị thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất (Quốc hội, 2013). - Về chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền BT, HT cho người có đất bị thu hồi. Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì ngoài tiền BT, HT theo phương án BT, HT, TĐC được cấp có thẩm quyền phê duyệt, người có đất bị thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Trường hợp người có đất bị thu hồi không nhận tiền BT, HT theo phương án BT, HT, TĐC được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tiền BT, HT được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước (Quốc hội, 2013). - Về cơ quan tổ chức thực hiện: + Tổng cục Quản lý đất đai là cơ quan thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về đất đai trong phạm vi cả nước, trong đó có nhiệm vụ về thu hồi đất, BT, HT, TĐC. Tổng cục Quản lý đất đai đã thành lập các đơn vị (Cục Quy hoạch đất đai, Cục Kinh tế và Phát triển quỹ đất) chịu trách nhiệm về tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện thu hồi đất, BT, HT, TĐC. 100 + Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường có chức năng tham mưu về công tác thu hồi đất, BT, HT, TĐC tại địa phương. + Tổ chức dịch vụ công về đất đai hoặc Hội đồng BT, HT và TĐC làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB. Trong đó, Tổ chức dịch vụ công về đất đai là đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Hội đồng BT, HT và TĐC được thành lập theo từng dự án với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014a, 2014b). Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 6 yếu tố trong sự thoả mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất như sau: 1) Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1), có trọng số là 0,43; 2) Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2), có trọng số là 0,48; 3) Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật, có trọng số là 0,53; 4) Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC, có trọng số là 0,48; 5) Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất), có trọng số là 0,57; 6) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện, có trọng số là 0,41. Đánh giá sự thoả mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT theo 6 yếu tố được thể hiện ở Bảng 3.9 như dưới đây. 101 Cơ cấu % Bảng 3.9. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT Tổ chức thực hiện BT, HT Không
đồng ý Bình
thường Đồng
ý Rất
đồng
ý Rất
không
đồng
ý Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy 14,8 34,5 31,3 17,4 2,0 đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1) Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối 14,6 35,0 31,3 15,9 3,2 với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2) Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công 14,8 33,0 31,3 16,9 2,0 khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3) Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu 3,9 20,4 38,3 28,1 9,3 nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4) Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần 9,6 29,4 35,0 19,8 6,1 phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về 23,1 40,0 26,7 9,6 0,6 lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát - Về việc cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1): mức 102 đánh giá chung là 2,56 điểm, tương đương với mức điểm trung bình; có 49,3% trong tổng số người được hỏi không đồng ý và rất không đồng ý về cách thức cơ quan nhà nước thực hiện nội dung này. - Về việc cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2): mức đánh giá chung là 2,25 điểm; với 49,6% số người không đồng ý và rất không đồng ý về vấn đề này. - Về việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật (TCTH3): có điểm trung bình là 2,94 điểm; với 47,8% số người không đồng ý và rất không đồng ý đối với nội dung này. - Về việc cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4): có mức đánh giá chung là 3,19 điểm; chỉ có 24,2% số người không đồng ý và rất không đồng ý. - Về việc cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5): có điểm trung bình là 2,83 điểm; có 39,07% số người không đồng ý và rất không đồng ý về vấn đề này. - Về việc chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6): có điểm trung bình là 2,24 điểm; với 63,1% số người không đồng ý và rất không đồng ý. Như vậy, có thể thấy trong 6 yếu tố về sự thoả mãn trong tổ chức thực hiện bồi thường, có 4 yếu tố được đánh giá tích cực, điểm trung bình từ 2.56 đến 3,19, cao hơn mức trung bình nhưng vẫn ở mức thấp; còn 2 yếu tố được đánh giá chưa tích cực (TCTH 2 và TCTH6). Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy sự tham gia của người dân trong quá trình thực hiện còn mang tính hình thức, chưa thực chất; vẫn còn sự không minh bạch trong xử lý vấn đề giữa các hộ; năng lực của cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn còn hạn chế dẫn đến sự thỏa mãn của người dân còn ở mức thấp. 103 “Đất của nhà tôi bị thu hồi để thực hiện dự án đô thị nhưng tôi không biết cụ
thể về các phương án BT, HT của Nhà nước, việc tham gia ý kiến của tôi về mức bồi thường cũng không thấy được tiếp thu. Cơ quan nhà nước vẫn thu hồi đất để thực hiện dự án mà không có sự tham gia của chúng tôi, vì thế nhiều người dân ở đây cảm thấy bức xúc…”. Người dân ở thành phố Hà Nội. Trong quá trình thực hiện tổ chức BT, HT, cán bộ thực hiện còn để xảy ra nhiều sai sót như xác định không đúng diện tích, kiểm đếm không đầy đủ tài sản gắn liền với
đất và giải thích chưa đầy đủ cho người dân. Một số hạng mục vật kiến trúc và cây cối hoa màu không được xác định đầy đủ. “…Dự án thu hồi trên đất của chúng tôi có nhiều sai sót. Cán bộ kiểm đếm không xác định đúng diện tích thu hồi, không kiểm kê đầy đủ hạng mục kiến trúc, cây trồng nhưng không có giái thích thoả đáng cho chúng tôi biết, vì vậy chúng tôi đã phải khiếu kiện nhiều lần để giải quyết vấn đề này”. Người dân ở thành phố Đà Nẵng. Thực tế người dân tiếp cận thông tin không đầy đủ, thiếu tính công khai, minh bạch và công tác giải quyết khiếu nại chưa triệt để dẫn đến không đồng thuận trong dân cư khi Nhà nước thực hiện BT, HT. “Thực ra mức giá BT, HT có thể chấp nhận được, nhưng việc tổ chức thực hiện thu hồi đất, bồi thường của thành phố là không minh bạch, rõ ràng, không công khai và tiếp thu đầy đủ ý kiến của người dân chúng tôi về phương án BT, HT cũng như bố trí TĐC; không kịp thời giải quyết thắc mắc, khiếu nại về nguồn gốc sử dụng đất của gia đình tôi, nên tôi chưa đồng ý bàn giao mặt bằng cho thành phố...”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả từ nghiên cứu định tính cho thấy việc tổ chức thực hiện BT, HT có vai trò rất quan trọng trong việc đạt được sự đồng thuận của người dân. “Trong các dự án thu hồi đất, người dân có thể chưa thực sự hài lòng về mức
BT, HT nhưng nếu công tác tổ chức thực hiện tốt như có sự tham gia ý kiến góp ý của
người dân về phương án BT, HT, TĐC, kịp thời giải thích các vấn đề mà người dân
đưa ra, thực hiện công khai, công bằng, minh bạch thì người dân cũng sẽ đạt được sự
đồng thuận, ủng hộ”. Ý kiến của chuyên gia. Theo các chuyên gia cho thấy việc công khai, minh bạch trong tổ chức thực hiện BT, HT chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật. “…nhiều trường hợp người dân phản ánh chưa biết hoặc không biết về các kế hoạch thu hồi đất, mục đích thu hồi đất, dự thảo phương án BT, HT, TĐC. Điều này 104 dẫn đến người dân không có thông tin, không rõ về quyền lợi mà mình sẽ nhận được
nên cảm thấy không hài lòng”. Ý kiến của chuyên gia. Kết quả thống kê từ PAPI cũng cho thấy tỷ lệ người dân biết khi bị thu hồi đất, gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới có xu hướng giảm dần theo thời gian, tỷ lệ này từ mức 93,12% năm 2011 và giảm xuống còn 77,89% vào
năm 2019. Đơn vị: (%) Hình 3.2. Tỉ lệ hộ gia đình được thông báo cụ thể về mục đích sử dụng đất mới Nguồn. Tổng hợp tính toán từ chỉ số PAPI hàng năm Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng còn hạn chế là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. “Nguyên tắc BT, HT phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ vì vậy đặt ra yêu cầu cán bộ thực hiện phải có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này vẫn chưa được thực hiện tốt, còn nhiều sai sót, tồn tại hạn chế trong tổ chức thực hiện BT, HT cũng như giải quyết khiếu nại, kiến nghị của người dân, dẫn đến người dân bức xúc”. Ý kiến của chuyên gia. 105 Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất hướng đến bảo đảm quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy người dân có sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện mới chỉ đạt ở mức trên trung bình. Trong đó người dân đánh giá tốt hơn về việc cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC mặc dù vẫn còn một số vấn đề gây bức xúc với người dân; người dân đánh giá thấp các về việc cơ quan nhà nước khi tiếp thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; và về việc tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC; hoạt động tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất chưa thực sự tốt. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện có thể có sự khác biệt theo trình độ CMKT của người dân, khác biệt theo nghề nghiệp và khác biệt theo vùng miền. - Xét về trình độ CMKT: Những người có trình độ từ chứng chỉ nghề đến cao đẳng trở lên chưa cảm thấy thực sự tin cậy với cách thức thực hiện trong quá trình BT, HT thu hồi đất của Nhà nước (đánh giá là 2,6 điểm), trong khi đó những người không có trình độ CMKT lại dễ dàng hài lòng và cảm thấy tin tưởng vào việc thực hiện các chính sách về đất đai của Nhà nước khi đánh giá sự tin cậy ở mức điểm 2.8. Những người không có trình độ chuyên môn bày tỏ quan điểm tin cậy cao với cách thức tổ chức thực hiện của Nhà nước, ngược lại đối với những người có trình độ CMKT từ chứng chỉ nghề đến cao đẳng trở lên - đây là những người có thể có nhiều kiến thức về luật pháp, chế độ, chính sách thì lại chưa thực sự tin tưởng vào quá trình bồi thường, định giá đất cũng như các phương án BT, HT, TĐC của Nhà nước đưa ra (điều này thể hiện ở hầu hết các mức điểm đánh giá nhóm đối tượng này thường đánh giá không cao). Hầu hết ở người đánh giá ở các cấp trình độ đều đánh giá thấp các vấn đề về việc tiếp thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC của cơ quan nhà nước và việc tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC; việc tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện của các chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực. 106 Bảng 3.10. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo trình độ CMKT Đơn vị: điểm 2,69 2,42 2,58 2,38 2,2 2,18 3,15 2,88 2,79 3,38 3,1 3,07 2,93 2,76 2,81 2,24 2,32 2,17 Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án
BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của
người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1)
Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến
của người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức
đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng
ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2)
Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được
phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch,
đúng quy định của pháp luật (TCTH3)
Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để
tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong
quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4)
Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ
chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân
dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước
thu hồi đất (TCTH5)
Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực
tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi
đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6) Tổ chức thực hiện BT, HT Từ cao
đẳng trở lên Không có
bằng cấp
chứng chỉ Có chứng
chỉ đến
trung cấp Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân có trình độ càng cao thì mức độ thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT càng giảm. - Theo nghề nghiệp: Kết quả từ Bảng 3.11 cho thấy sự thoả mãn của người dân có hoạt động từ hoạt
động SXKD phi nông nghiệp được đánh giá ở mức điểm trung bình là 2.72 điểm, cao
hơn so với nhóm người dân làm nghề từ nông, lâm, ngư nghiệp (2,64 điểm) và từ hoạt
động công việc hưởng lương (2.65 điểm). Có thể thấy, đối với nhóm cư dân làm công
việc từ nông, lâm, ngư nghiệp thường chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quá trình thu hồi đất,
họ luôn mong muốn và kỳ vọng vào sự tiếp thu, đáp ứng của cơ quan chức năng đối
với ý kiến của họ về phương án BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất; đối với nhóm cư
dân làm công việc hưởng lương, họ thường là những người có nhận thức tốt hơn nên
luôn đặt ra yêu cầu cao hơn về tính công khai, minh bạch trong tổ chức thực hiện cũng
như tinh thần phục vụ của cán bộ làm công tác BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. 107 Nhóm cư dân có nghề từ nông lâm, ngư nghiệp và từ hoạt động công việc
hưởng lương có sự thoả mãn thấp ở một số yếu tố: i) Cơ quan nhà nước chưa tiếp thu
đầy đủ ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC; việc tổ chức đối thoại đối
với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án BT, HT, TĐC chưa tốt
(điểm tương ứng là 2,19 và 2,21); ii) Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH
chưa tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất, chia sẻ, vận
động người dân thực hiện (điểm tương ứng là 2,21 và 2,3). Bảng 3.11. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo nghề nghiệp Đơn vị: điểm 2,54 2,57 2,58 Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án
BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của
người dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1) 2,19 2,36 2,21 Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của
người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức
đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không
đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2) 2,96 3,01 2,87 Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được
phê duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch,
đúng quy định của pháp luật (TCTH3) 3,12 3,23 3,2 Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp,
giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá
trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4) 2,82 2,94 2,74 Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ
chuyên môn, năng lực và có tinh thần phục vụ
nhân dân trong quá trình thực hiện BT, HT khi
Nhà nước thu hồi đất (TCTH5) 2,21 2,22 2,3 Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH
tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà
nước thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực
hiện (TCTH6) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Như vậy, có thể thấy sự thoả mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi ở nhóm nông lâm, ngư nghiệp và từ công việc hưởng lương thấp hơn so với nhóm cư dân tự hoạt động sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. 108 - Xét về vùng miền: Kết quả Bảng 3.12 cho thấy sự thoả mãn về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà
nước thu hồi đất đối với người dân miền Bắc được đánh giá cao hơn (2,71 điểm) so
với người dân miền Trung (2,64 điểm) và miền Nam (2,66 điểm). Điều này có thể do cách thức định giá đất cũng như công tác bồi thường ở miền
Bắc được công khai, minh bạch, có sự giám sát chặt chẽ của người dân, người dân được
tham gia trong quá trình lập phương án BT, HT, TĐC và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tôn trọng ý kiến, tiếp thu, giải trình ý kiến của họ một cách thực chất, từ đó
sẽ làm cho họ thỏa mãn hơn khi mình bị thu hồi đất, tránh những xung đột, mâu thuẫn. Không có sự khác biệt nhiều về thoả mãn của người dân trong tổ chức thực hiện
tại miền Trung và miền Nam, người dân ở 2 miền này cũng đánh giá chưa cao việc
tiếp thu ý kiến của người dân về phương án BT, HT, TĐC từ cơ quan Nhà nước (điểm
trung bình lần lượt là 2,18 và 2,16). Bên cạnh đó là chính quyền địa phương, các tổ
chức CT - XH chưa tích cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi
đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (điểm trung bình lần lượt là 2,20 và 2,33). Bảng 3.12. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện chia theo vùng miền Đơn vị: điểm 2,58 2,59 2,51 Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án
BT, HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người
dân về phương án BT, HT, TĐC (TCTH1) 2,4 2,18 2,16 Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của
người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức
đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không
đồng ý về phương án BT, HT, TĐC (TCTH2) 2,97 2,92 2,94 Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê
duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy
định của pháp luật (TCTH3) 3,23 3,09 3,23 Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để tiếp,
giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân trong quá
trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC (TCTH4) 2,85 2,87 2,79 Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên môn,
năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân trong quá trình
thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH5) 2,2 2,2 2,33 Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích cực
tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước thu hồi
đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện (TCTH6) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 109 Có thể thấy sự thoả mãn của người dân về tổ chức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất ở miền Bắc cao hơn so với miền Trung và miền Nam. Như vậy, từ các phân tích trên về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy chính quyền địa phương, cơ quan quản lý Nhà nước càng quan tâm, sát sao trong việc giải quyết vướng mắc cho người dân thì càng làm tăng sự thoả mãn của người dân. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi chính quyền càng gần dân, sẽ càng thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của dân hơn, từ đó có phương án giải quyết nhanh chóng và kịp thời. Kết quả này cũng tìm thấy sự tương đồng trong nghiên cứu của Pham, Westen và Zoomers (2013). Quá trình thực hiện thu hồi đất, BT, HT luôn bao hàm tính chất phức tạp và luôn tiềm ẩn những bức xúc khiến cho có nhiều cuộc khiếu kiện kéo dài. Việc người dân đánh giá về công tác tổ chức thực hiện thu hồi bồi thường còn chưa tốt phần nào phản ánh người dân cũng chưa thỏa mãn đối với hoạt động thu hồi đất, BT, HT cũng như năng lực của tổ chức thực hiện nhiệm vụ này, nếu như Nhà nước không có chính sách điều chỉnh kịp thời thì điều này sẽ có những ảnh hưởng lan tỏa đến các hoạt động thu hồi đất, bồi thường cho các dự án khác. Kết quả từ mô hình CFA (Hình 2.2) cho thấy vai trò của 4 yếu tố trong sự thoả mãn của người dân về thay đổi điều kiện sống như sau: 1) Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1), yếu tố này có trọng số là 0,53; 2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước (TDCS2), có trọng số 0,80; 3) Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3), có trọng số 0,60; 4) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước (TDCS4), có trọng số 0,59. 110 Kết quả đánh giá sự thoả mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất được thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 3.13. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân Đơn vị: điểm Cơ cấu % Thay đổi cuộc sống Điểm
TB Không
đồng ý Bình
thường Đồng
ý Rất
không
đồng ý Rất
đồng
ý Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời 9,1 26,7 40,7 19,8 3,7 2,82 sống (TDCS1) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước (TDCS2) 20,2 34,1 33,3 10,9 1,5 2,39 Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3) 8,3 23,3 36,1 25,4 6,9 2,99 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước (TDCS4) 9,4 28,0 37,0 20,9 4,6 2,83 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát - Về tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1) có điểm trung bình là 2,82 điểm, cao hơn mức trung bình và chỉ có 35,74% không đồng tình với quan điểm này. - Về tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng
hơn trước (TDCS2): được đánh giá ở mức thấp, điểm trung bình là 2,39 và chỉ có
12,4% người dân đánh giá đồng tình về yếu tố này. - Về điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng
thuận lợi hơn trước (TDCS3): người dân đánh giá cao nhất, đạt điểm trung bình là 2,99
điểm; chỉ có 31,7% người dân không đồng ý với nhận định này. - Về điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước (TDCS4), người dân được hỏi đánh giá ở mức điểm tương đối tốt, 2,83 điểm, tỷ lệ người dân không đồng tình chỉ chiếm 37,4%. 111 Việc thu hồi đất của Nhà nước đã làm thay đổi cuộc sống của đại đa số người
dân có đất bị thu hồi. Sau khi bị thu hồi đất người dân phải tổ chức, sắp xếp ổn định lại
chỗ ở và phát triển sản xuất. Một số người dân đã có tiền BT, HT, được đào tạo
chuyển đổi nghề do vậy đã tìm kiếm hoặc duy trì được việc làm có mức thu nhập tốt
hơn trước. Tuy nhiên, nhiều trường hợp sau khi nhận tiền BT, HT người dân không
biết phải chuyển đổi nghề gì, chuyển đổi như thế nào, dẫn đến không có việc làm hoặc
công việc không ổn định, kinh tế giảm sút so với trước khi bị thu hồi đất. “Sau khi Nhà nước thu hồi đất, con trai tôi được chính quyền hỗ trợ đào tào
nghề, bên cạnh đó với số tiền được BT, HT tôi đã mở cơ sở sửa chữa xe máy để cháu
có việc làm, nhờ vậy gia đình tôi có cuộc sống ổn định hơn trước…”. Người dân ở
thành phố Đà Nẵng. “Khi bắt đầu bị thu hồi đất, tôi chưa thực sự thoả mãn với mức BT, HT nhận được được. Tuy nhiên, sau khi dự án hoàn thành thì dân cư chúng tôi ở đây cũng được hưởng lợi về hạ tầng giao thông, đường đi lại bây giờ sạch sẽ, rộng rãi hơn trước rất nhiều…”. Người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc thực hiện dự án đã ảnh hưởng xấu đến thu nhập, đời sống của họ. “…Trước kia nhà tôi ở mặt đường và vừa ở, vừa kinh doanh buôn bán nhưng
khi Nhà nước thu hồi để mở đường giao thông thì tôi được BT bằng một căn hộ TĐC,
tôi và các thành viên trong gia đình không có mặt bằng để tiếp tục kinh doanh buôn
bán, cuộc sống ngày một khó khăn”. Người dân ở thành phố Hà Nội. Kết quả thảo luận với các chuyên gia cho thấy nhiều dự án thu hồi đất nông nghiệp
có thực hiện chính sách đào tạo nghề để chuyển đổi việc làm cho người lao động bị thu
hồi đất nông nghiệp, song chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu làm việc ở các
nhà máy, xí nghiệp và doanh nghiệp; số người được đào tạo và phát huy được nghề đã
đào tạo không nhiều. Bên cạnh đó, khi thu hồi đất phải giải quyết chỗ ở mới cho người
dân từ bằng đến tốt hơn nơi ở cũ. Nhưng thực tế đại đa số các dự án không làm được điều
này. Nhất là đối với những hộ mà đất bị thu hồi vừa là nhà vừa là nơi làm ăn sinh sống,
như nhà ở mặt tiền đường, khu vực gần chợ, trường học, trung tâm thương mại. Theo các chuyên gia, khi thu hồi đất điều quan trọng nhất là phải tạo nơi ở tốt và ổn định cuộc sống và đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân. “Không thể chỉ tập trung lo cho dự án đầu tư để rồi đẩy người dân ra khỏi cuộc
sống ổn định. Khi thực hiện việc bồi thường, GPMB phải đưa ra nhiều phương án, rồi
chọn ra phương án tối ưu nhất để đảm bảo đời sống lâu dài cho người dân bị thu hồi
đất”. Ý kiến chuyên gia. 112 “Trong quá trình GPMB, bên cạnh sự đồng thuận của nhiều hộ bị giải tỏa,
cũng còn những hộ không đồng tình do thay đổi không gian sống, phải thay đổi nghề
nghiệp; bị mất vị trí có khả năng sinh lợi cao trong kinh doanh hoặc không có nơi ở
mới do chưa đủ điều kiện để hưởng chính sách TĐC. Vì vậy, muốn GPMB được thuận
lợi thì vấn đề cần quan tâm là tạo quỹ nhà TĐC, chính sách an sinh xã hội, dạy nghề
cho người bị thu hồi đất để họ an tâm bàn giao đất”. Ý kiến chuyên gia. Quá trình đô thị hóa dẫn đến việc Nhà nước thu hồi đất, BT, HT cho người dân,
khi đó người dân quan tâm nhiều nhất sau khi bị thu hồi đất là đảm bảo sinh kế bền vững
và lâu dài. Kết quả phân tích trên đã cho thấy sự thoả mãn của người dân về thay đổi cuộc
sống sau khi bị thu hồi đất xảy ra ở cả 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trong đó, người
dân có điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng tốt hơn
trước, nhưng cũng có nhiều người dân đánh giá còn gặp nhiều khó khăn trong tìm việc và
chuyển đổi việc làm mới hoặc không có điều kiện để phát triển sản xuất. Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống có sự khác biệt theo nhóm trình độ CMKT, nghề nghiệp, vùng miền. - Xét về trình độ CMKT: Xét theo trình độ CMKT thì người không có bằng cấp chứng chỉ thể hiện sự hài
lòng về sự thay đổi các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi ở mức điểm 2,67
điểm, trong khi đó nhóm cư dân có chứng chỉ đến trung cấp và từ cao đẳng trở lên đều
đánh giá tiêu chí này ở mức 2,77 và 2,84 điểm. Bảng 3.14. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo trình độ CMKT Đơn vị: điểm 2,79 2,77 2,91 Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện
chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1) 2,75 2,91 2,84 Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu
nhập ổn định và tăng hơn trước (TDCS2) 2,26 2,37 2,56 Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa,
phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước (TDCS3) 2,88 3,03 3,06 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn
trước (TDCS4) Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 113 Như vậy, sự thỏa mãn về thay đổi điều kiện sống có sự khác biệt theo nhóm trình độ CMKT, người dân có trình độ CMKT càng cao thì có sự thoả mãn về thay đổi cuộc sống cao hơn. - Xét về nhóm nghề nghiệp Ở tất cả nhóm đối tượng, sự chênh lệch về đánh giá giữa các tiêu chí là không nhiều, cao nhất là nhóm đối tượng có hoạt động từ hoạt động công việc hưởng lương với mức điểm đánh giá là 2,80 điểm, nhóm đối tượng từ nông, lâm, ngư nghiệp được đánh giá ở mức thấp nhất 2,71 điểm. Nhóm người có hoạt động từ sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thường đồng tình cao hơn và họ thực sự quan tâm tới các chính sách tạo công ăn việc làm mới, phát triển giao thông, được tiếp cận với nhiều công trình phúc lợi công cộng và đặc biệt là con cái được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình học hành. Ngoài ra, nhóm đối tượng có hoạt động công việc hưởng lương còn quan tâm tới việc cải thiện môi trường theo hướng thuận lợi hơn trước. Bảng 3.15. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo nghề nghiệp của người dân Đơn vị: điểm Thay đổi cuộc sống Từ nông,
lâm, ngư
nghiệp Từ hoạt
động công
việc hưởng
lương Từ hoạt động
sản xuất,
kinh doanh
phi nông
nghiệp Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải 2,85 2,74 2,88 thiện chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn 2,72 2,84 2,92 trước (TDCS2) Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi 2,35 2,41 2,42 hơn trước (TDCS3) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi 2,92 3,08 2,97 hơn trước (TDCS4) Trung bình 2,71 2,77 2,8 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 114 Như vậy, người dân làm trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp thì có mức thoả mãn về thay đổi điều kiện sống thấp hơn so với người dân làm trong lĩnh vực tự sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và làm công việc hưởng lương. - Xét về vùng miền: Sự thay đổi các điều kiện sống của người dân miền Nam sau khi thu hồi đất được đánh giá cao hơn cả với mức điểm 2,87 điểm, trong khi đó người dân miền Trung đánh giá tiêu chí này chỉ ở mức 2,74 điểm, thấp nhất vẫn là người dân miền Bắc (thấp hơn so với miền Nam 0,2 điểm). Đối với người dân miền Trung họ quan tâm tới quá tiền bồi thường để ổn định chỗ ở cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho con cái học hành hơn trước. Còn với người dân miền Nam họ lại mong muốn được tiếp cận với nhiều công trình văn hóa phúc lợi công cộng để thỏa mãn những thú vui giải trí của họ hơn. Trong khi đó người dân miền Bắc lại thích được Nhà nước tạo công ăn việc làm nhằm phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước. Bảng 3.16. Sự thỏa mãn về thay đổi các điều kiện sống của người dân chia theo vùng miền Đơn vị: điểm Miền Miền Miền Thay đổi cuộc sống Bắc Trung Nam Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện 2,76 2,84 2,88 chỗ ở, ổn định đời sống (TDCS1) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước 2,64 2,84 3,03 (TDCS2) Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước 2,33 2,35 2,51 (TDCS3) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn 3,0 2,93 3,04 trước (TDCS4) Trung bình 2,68 2,74 2,87 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 115 Từ phân tích trên cho thấy, người dân ở miền Bắc có sự thoả mãn về thay đổi điều kiện sống thấp hơn so với người dân ở miền Trung và miền Nam. Như vậy, sự thoả mãn của người dân về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất được đánh giá ở trên mức trung bình. Người dân mong muốn được thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất theo hướng tốt hơn, họ mong muốn ổn định chỗ ở, có việc làm mới để ổn định thu nhập, phát triển sản xuất. Ngoài ra, họ cũng mong muốn được tiếp cận với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập, phát triển dân trí. Do vậy khi xây dựng chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cần quan tâm hơn nữa đến cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất. Sự thoả mãn chung của người dân về việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất được xác định dựa trên tổ hợp CFA của 4 yếu tố: 1) Sự thỏa mãn về mức bồi thường; 2) Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường; 3) Sự thỏa mãn của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất; 4) Sự thỏa mãn của người dân về sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất. Kết quả cho thấy mức độ thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói chung còn thấp, điểm trung bình là 2,56 điểm (xem Bảng 3.17). Bảng 3.17. Mức độ thỏa mãn chung của người dân Đơn vị: điểm Mức độ thỏa mãn của cư dân trong việc BT, HT khi Nhà nước Trung bình thu hồi đất Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ (MUCBT) 2,3 Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường (PTBT) 2,4 Sự thỏa mãn của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất (TCTH) 2,7 Sự thỏa mãn của người dân về sự thay đổi cuộc sống sau khi Nhà nước thu hồi đất (TDCS) 2,6 Mức độ thỏa mãn chung (SUTM) 2,56 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 116 Sự thoả mãn chung mặc dù cao hơn mức trung bình nhưng vẫn ở mức thấp, người dân đánh giá sự thoả mãn thấp nhất về mức bồi thường (2,3 điểm) và phương thức bồi thường (2,4 điểm). Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn của người dân trong việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất còn ở mức thấp. Nguyên nhân là do: giá đất tính bồi thường thấp hơn so với giá đất thị trường, giá trị tài sản gắn liền với đất chưa được tính đầy đủ; chính sách hỗ trợ vẫn chưa bảo đảm ổn định cuộc sống, sản xuất; việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, hạn chế như chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch, sự tham gia của người dân còn mang tính hình thức, việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người dân chưa kịp thời; điều kiện sống của người dân chưa được cải thiện như mong đợi. Sự thoả mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất có thể có sự khác biệt theo các nhóm dân cư khác nhau. Để kiểm định được sự khác biệt này, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích ANOVA và phân tích mô hình hồi quy. Kết quả cụ thể như sau: - Phân tích ANOVA: Kết quả dưới đây cung cấp kiểm định sự khác biệt giữa các nhóm dân cư về mức độ thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, kiểm định này chỉ xem xét sự khác biệt về mức độ thỏa mãn giữa các nhóm mà không xem xét đến các yếu tố khác. Về vùng miền: Theo 3 miền, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất có khác biệt giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Trong luận án này yếu tố vùng miền (vung) được tác giả chia thành 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Theo đó, mức thỏa mãn của người dân ở khu vực miền Nam cao hơn so với miền Trung; ở miền Trung cao hơn so với miền Bắc ở độ tin cậy 90% (các giá trị của Sig. đều nhỏ hơn 10%), tuy nhiên nếu ở độ tin cậy 95% thì không có sự khác biệt về sự thỏa mãn giữa các vùng. Điều này có thể do chính sách BT, HT cụ thể tại địa phương ở miền Nam phù hợp hơn với người dân như họ có thể nhận được một mảnh đất tương tự với thửa đất thu hồi để có tiếp tục sinh kế cũ của mình; hoặc với những người dân có diện tích còn lại ít, chính quyền sẽ thu lại toàn bộ và bồi thường với giá hợp lý để tránh tình trạng xuất hiện những ngôi nhà siêu mỏng, siêu méo làm mất mỹ quan đô thị. Hơn nữa, sự thỏa mãn này có thể xuất phát từ bản chất của người dân miền Nam là những người dễ đồng cảm với những chính sách của Nhà nước hơn là đưa ra những yêu cầu gây khó dễ trong việc thu hồi đất, GPMB. 117 Bảng 3.18. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình giữa các vùng Miền Nam -0.055 0.032 0.091 Miền Trung Miền Bắc 0.000 0.032 0.989 Miền Trung 0.055 0.032 0.091 Miền Nam Miền Bắc 0.055 0.032 0.082 Miền Trung 0.000 0.032 0.989 Miền Bắc Miền Nam -0.055 0.032 0.082 Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp Về trình độ CMKT: Kết quả cho thấy theo trình độ chuyên môn, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi thu hồi đất có khác biệt theo nhận thức hay theo trình độ CMKT. Nhận thức của cư dân bị thu hồi đất có ảnh hưởng đến quá trình thu hồi bởi với người dân bị thu hồi đất họ luôn có tư tưởng cho rằng giá đất bồi thường mà mình nhận được thấp hơn so với giá thị trường, và điều này nó phụ thuộc vào trình độ CMKT của cư dân có đất bị thu hồi. Nghiên cứu này cho rằng những người không có bằng cấp chứng chỉ dễ dàng thỏa mãn với chính sách của Nhà nước hơn (giá trị Sig. tương ứng nhỏ hơn 5%). Thực tiễn chỉ ra rằng những người có trình độ từ cao đẳng trở lên là những người có trình độ văn hóa cao, có tay nghề, có kiến thức, do đó đây là nhóm người có thu nhập cao hơn trong xã hội, và rõ ràng họ có nhu cầu trong cuộc sống cao hơn so với nhóm người còn lại, chính vì thế họ không dễ dàng thỏa mãn những chính sách BT, HT mà Nhà nước ban hành. Bởi vì, bản thân họ mong muốn được bồi thường nhiều hơn nữa, không chỉ tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, họ còn quan tâm đến môi trường sống, phúc lợi xã hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng và cải thiện dân trí cho người dân tại nơi ở mới. Đây cũng là điều mong muốn của đại bộ phận người dân khi bị Nhà nước thu hồi đất. 118 Bảng 3.19. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nhóm trình độ Khác biệt Std. (I) (J) Sig. giữa (I) và (J) Error Không có bằng cấp chứng chỉ Có chứng chỉ đến trung cấp .05180 .03147 0.010 Từ cao đẳng trở lên .04644 .03219 0.015 Có chứng chỉ đến trung cấp Không có bằng cấp chứng chỉ -.05180 .03147 0.010 Từ cao đẳng trở lên -.00536 .03198 0.867 Từ cao đẳng trở lên Không có bằng cấp chứng chỉ -.04644 .03219 0.015 Có chứng chỉ đến trung cấp .00536 .03198 0.867 Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp Về nghề nghiệp: Kết quả cho thấy cư dân có nguồn thu nhập chính từ hoạt động hoạt động công việc hưởng lương thì có mức độ thỏa mãn tương đương so nguồn thu nhập chính từ sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và cả hai nhóm này đều cao hơn so với nguồn thu nhập chính từ nghề nông, lâm ngư nghiệp. Bảng 3.20 Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo nghề nghiệp Từ hoạt động sản xuất, kinh -.04686 .03209 0.145 doanh phi nông nghiệp Từ nông, lâm, ngư nghiệp Từ hoạt động công việc -.05904 .03209 0.066 hưởng lương Từ nông, lâm, ngư nghiệp .04686 .03209 0.145 Từ hoạt động sản xuất kinh doanh phi Từ hoạt động công việc -.01218 .03141 0.698 nông nghiệp hưởng lương Từ nông, lâm, ngư nghiệp .05904 .03209 0.066 Từ hoạt động công việc Từ hoạt động sản xuất, kinh hưởng lương .01218 .03141 0.698 doanh phi nông nghiệp Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp 119 Nhận định này đồng quan điểm với Kong (2008) và phù hợp với thực tế nhưng lại không nhận được sự ủng hộ của Bohnke (2005). Bởi những người có thu nhập từ hoạt động công việc hưởng lương ít bị ảnh hưởng nhất khi Nhà nước thu hồi đất, dù Nhà nước có thu hồi đất thì hàng tháng họ vẫn có thu nhập chính từ hoạt động hưởng lương của mình. Trong khi đó đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất đó là những người có nguồn thu nhập chính từ nông, lâm, ngư nghiệp. Khi Nhà nước lấy đất, họ buộc lòng phải chuyển đổi sinh kế, thay đổi nghề nghiệp, chỉ còn một số ít vẫn bám trụ lại với nghề nông, tuy vậy quá trình chuyển đổi này không dễ dàng với tất cả mọi người. Sự chuyển đổi việc làm từ khu vực nông, lâm, ngư nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố chính là tuổi tác, trình độ CMKT, chuyên môn tay nghề và nguồn vốn. Một bộ phận lao động nông nghiệp đã chuyển sang làm việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán - dịch vụ, và bổ sung vào đội ngũ lao động thuê mướn không cần kỹ năng, hoặc chỉ ở nhà làm nội trợ, chăm sóc gia đình nếu điều kiện kinh tế hoặc không đủ sức khỏe để lao động. Đối với những người trẻ, có trình độ CMKT và tay nghề, có nhiều khả năng hơn để được nhận vào các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Trong khi đó, những người có mặt bằng (thường là kết hợp với nhà ở), có vốn và kinh nghiệm làm ăn thường mở các cửa hàng buôn bán - dịch vụ với các mặt hàng phù hợp với bối cảnh mới do mình tự quản lý, nhưng cũng có một bộ phận lao động lớn tuổi, không có trình độ CMKT, tay nghề, tiền vốn... phải cố gắng kiếm sống từ các hoạt động buôn bán nhỏ hay là những công việc đơn giản mà việc làm khá bấp bênh và thu nhập thấp, không ổn định. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho chính quyền địa phương nơi có đất thu hồi là cần phải có kế hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi làm sao cho phù hợp với mục tiêu là dạy đúng nghề, đúng đối tượng, đúng nhu cầu và sau khi học xong người dân có thể sử dụng được và chuyển đổi được nghề để tạo sinh kế bền vững. Về mục đích thu hồi: Việc thu hồi đất làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân, do đó ngoài các quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện của tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB, chính quyền địa phương thì sự đồng thuận và hợp tác của người bị thu 120 hồi đất có ảnh hưởng rất lớn đến công tác BT, HT, TĐC. Trong thực tiễn, các dự án thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, xây dựng kết cấu hạ tầng vì lợi ích quốc gia, công cộng đem lại sự thỏa mãn cao hơn cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất so với mục đích khác. Đối với các dự án thu hồi đất để xây dựng khu đô thị mới, xây nhà ở để bán và cho thuê do các doanh nghiệp làm chủ đầu tư thì ít nhận được sự đồng thuận và hợp tác của người dân, bởi lẽ người dân nhận thấy sự không công bằng là đất bị thu hồi được bồi thường với giá rất thấp, sau thu hồi cũng chính mảnh đất đấy có giá chênh lệch rất cao, lợi ích này là của nhà đầu tư chứ không phải là lợi ích của Nhà nước nên họ chống đối, khiếu nại kéo dài, phức tạp, ảnh hưởng đến tiến độ bồi thường, GPMB cũng như triển khai dự án đầu tư. Bảng 3.21. Kiểm định ANOVA về khác biệt giá trị trung bình theo mục đích và giá đất (I) (J) Sig. Khác biệt
giữa (I) và (J) Std.
Error Mục đích dự án Sử dụng cho mục đích xây Sử dụng cho mục .02140 .02605 0.041 dựng hạ tầng, công cộng đích thương mại Thay đổi giá đất Giá đất tăng Giá đất không tăng, hoặc tăng châm -0.03501 0.02606 0.018 Nguồn: Tổng hợp tính toán từ phân tích ANOVA và so sánh cặp Giá đất thị trường: Giá đất thị trường về mảnh đất của người dân tăng lên sau khi bị thu hồi thì làm cho người dân có mức độ thỏa mãn thấp hơn so với người dân có giá đất thị trường về mảnh đất bị thu hồi không tăng (giá trị Sig. nhỏ hơn 5%). Như đã phân tích ở trên, người bị thu hồi đất luôn cho rằng giá đất bồi thường mà họ nhận được thấp hơn nhiều so với giá thị trường, mà nay mảnh đất đó còn tăng giá lên thì người dân càng cảm thấy bị thiệt thòi, cảm thấy không thỏa mãn với việc Nhà nước thu hồi đất, điều này dẫn đến luôn xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn giữa chính quyền địa phương với người bị 121 thu hồi đất, kéo theo việc thu hồi đất lần sau (nếu có) đối với họ sẽ rất khó khăn, tạo tâm lý không hợp tác của các hộ dân khác trong khu vực. Hơn nữa, quỹ đất ngày càng khan hiếm mà dân số lại tăng lên không ngừng, cùng với tâm lý giữ đất của người Việt Nam nên điều này cũng là nguyên nhân để giá đất ngày một lên cao so với giá trị sử dụng rất nhiều. Do vậy, để người dân thoả mãn với mức giá đất bồi thường, cần phải thực hiện cơ chế định giá đất độc lập, có sự tham gia giám sát của người dân trong quá trình định giá đất, đồng thời cũng cần có cơ chế giá thỏa thuận giữa Nhà nước và người dân để người dân đồng thuận tự nguyện giao đất để thực hiện các dự án đầu tư. Trường hợp người dân có đất bị thu hồi không đồng thuận với giá đất bồi thường do UBND cấp có thẩm quyền quyết định thì được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định giá đất hoặc toà án giải quyết, bảo đảm tính công bằng, chính xác, phù hợp với giá đất thị trường. Trong một số trường hợp phải dự tính thêm yếu tố trượt giá do chậm bồi thường. - Phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT bằng mô hình hồi quy Để đảm bảo tính vững của kết quả phân tích ANOVA trên, phần này luận án ước lượng mô hình hồi quy sau để xem xét sự thỏa mãn chung khác biệt giữa các nhóm: SUTMi = a0 + a1vung1i + a2vung2i + a3cmkt1i +a4cmkt2i + a5nghe1i +a6nghe2i + a7mucdichi + a8thaydoigiadati +ei Các biến độc lập trong mô hình được giải thích trong bảng kết quả ước lượng dưới đây. Các hệ số nếu có * nghĩa là hệ số khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 90%, nếu có ** và *** nghĩa là hệ số ước lượng khác 0 có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% và 99%. Trường hợp hệ số ước lương không có dấu *, nghĩa là hệ số ước lượng coi như bằng 0 hay nói cách khác không có tác động của biến độc lập đó lên biến sự thỏa mãn (SUTM). Kết quả ước lượng cho thấy hệ số R2 = 0,642 cho biết các biến độc lập trong mô hình giải thích được 64,2% sự thay đổi của biến độc lập. 122 Bảng 3.22. Kết quả ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự thỏa mãn Tên biến Giải thích SUTM vung1 -0.005 Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân ở miền Bắc, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032 vung2 0.056* Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân ở miền Nam, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032 cmkt1 0.046** Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân không có bằng cấp chứng chỉ, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032 cmkt2 0.00 Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân có chứng chỉ
đến trung cấp, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032 nghe1 -0.059* Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp, ngược lại nhận giá trị bằng 0 -0.032 nghe2 Nhận giá trị bằng 1 nếu người dân hoạt động -0.018 sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, ngược lại -0.032 nhận giá trị bằng 0 mucdich Nhận giá trị bằng 1 nếu dự án sử dụng cho mục -0.022** đích thương mại, bằng 0 nếu dùng cho mục đích -0.026 công cộng thaydoigiadat 0.032** Nhận giá trị bằng 1 nếu giá đất không tăng, hoặc tăng châm, nhận giá trị bằng 0 nếu giá đất tăng -0.026 Constant 1.874*** Hệ số a0 -0.037 Số quan sát Observations 540 R-squared 0.624 Standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát Kết quả bảng trên cho thấy khi xem xét đồng thời các yếu tố về vùng miền, trình độ CMKT, ngành nghề, múc đích sử dụng đất, sự thay đổi của giá đất thì sự thỏa mãn của người dân được chỉ ra như sau: 123 Xét theo vùng miền: Sự thỏa mãn của người dân ở miền Bắc không có sự khác biệt so với người dân ở miền Trung (hệ số ước lượng của biến vung1 không có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 90%, 95%); Sự thỏa mãn của người dân ở miền Nam cao hơn so với người dân ở 2 miền còn lại (hệ số ước lượng bằng 0,056, có ý nghĩa thống kê) Xét theo trình độ CMKT: Kết quả ước lượng cho thấy hệ số của biến cmkt1 có ý nghĩa thống kê, trong khi đó hệ số của cmkt2 không có ý nghĩa thống kê, điều này phản ánh người dân không có bằng cấp chứng chỉ có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình độ khác, và dường như không có sự khác biệt nhiều giữa người dân có trình độ dưới trung cấp và người dân có trình độ từ cao đẳng trở lên. Xét theo nghề nghiệp: Kết quả ước lượng của biến nghe1 có ý nghĩa thống kê, trong khi đó biến nghe2 không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp hơn so với những người dân làm việc trong lĩnh vực tự sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp và người làm công hưởng lương. Xét theo mục đích sử dụng đất: Hệ số ước lượng biến mucdich có ý nghĩa thống kê, như vậy đất thu hồi dành cho cho mục đích thương mại thì người dân ít thỏa mãn hơn so với đất được dùng vào mục đích công cộng. Xét theo thay đổi giá đất: Nếu mảnh đất sau khi thu hồi có giá tăng cao hơn so với thời điểm trước đây thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn so với trường hợp giá đất không tăng. Như vậy, mức thoả mãn chung của người trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất còn ở mức thấp, trong đó thấp nhất là thoả mãn về mức BT, HT. Sự thoả mãn chung có sự khác biệt theo các nhóm người dân, cụ thể là sự thỏa mãn của người dân ở miền Nam cao hơn so với người dân ở miền Bắc và miền Trung; người dân không có trình độ CMKT có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình độ CMKT; người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp nhất; người dân cảm thấy thoả mãn hơn đối với trường hợp thu hồi đất danh cho mục đích công cộng; giá đất sau khi thu hồi tăng cao thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn. 124 Chương này luận án phân tích và đánh giá chính sách liên quan đến BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất từ nguồn thông tin định tính và đánh giá định lượng đối với nguồn thông tin khảo sát từ bảng hỏi có cấu trúc. Một số kết quả chính rút ra từ nghiên
cứu như sau: Một là, về sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất: Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đã được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và quy định cụ thể của địa phương. Mức độ thỏa mãn thông qua cảm nhận của người dân về mức BT, HT còn ở mức thấp, mức giá đất tính bồi thường ở mức thấp so với giá thị trường. Bên cạnh đó, sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi theo kết quả khảo sát của PAPI cho thấy cảm nhận của người dân về mức giá bồi
thường thấp, không minh bạch cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn giao mặt bằng, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Mức độ thỏa mãn của người dân theo mức BT, HT có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng miền, người dân ở miền Trung có mức thỏa mãn thấp hơn so với các miền khác. Hai là, về sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: Đánh giá của người dân về phương thức bồi thường cũng ở mức thấp. Người dân yêu thích phương thức được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có sự khác biệt theo trình độ CMKT, vùng miền và
theo nghề nghiệp. Ba là, sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất: Đánh giá của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi
đất so với mong đợi thấp hơn mức trung bình. Sự không minh bạch trong xử lý vấn đề giữa các hộ, sai sót thông tin dẫn đến sự thỏa mãn của người dân còn ở mức thấp. Việc
tổ chức kiểm đếm thiếu khoa học đã tạo ra những phản ứng tiêu cực của người dân
trong công tác bàn giao mặt bằng, chấp nhận theo phương án BT, HT, TĐC đã được 125 phê duyệt. Bên cạnh đó, quy trình định giá đất thiếu sự tham gia của người dân, do đó
dẫn đến thiếu sự thống nhất đối với các bên liên quan. Bốn là, sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất: Sự thỏa mãn cao hơn mức trung bình, nhưng còn thấp, những người dân sau khi
bị thu hồi đất phải đương đầu với sự thay đổi nguồn lực để tạo ra việc làm và thu nhập và ổn định cuộc sống. Người dân mong muốn được thay đổi cuộc sống theo hướng tốt
hơn, họ mong muốn có tiền bồi thường, có việc làm mới để ổn định thu nhập, phát triển sản xuất. Người dân mong muốn được tiếp cận với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập, phát triển dân trí. Các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết vấn đề TĐC đã khá đầy đủ nhưng các địa phương thực hiện chưa tốt, chưa quan tâm giải quyết vấn đề này, dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, mức độ thỏa mãn của người dân thấp. Năm là, về mức độ thỏa mãn chung trong việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất: Mức độ thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói chung còn thấp, tuy nhiên vẫn có một nhóm ít những cư dân có sự thỏa mãn tích cực, đó là những hộ bị thu hồi một phần diện tích đất để làm đường giao thông, phần diện tích còn lại tiếp tục được sử dụng để ở và sản xuất, kinh doanh. Phần lớn các cư dân cảm thấy không thỏa mãn với mức giá đất tính bồi thường. Sự thoả mãn chung có sự khác biệt theo các nhóm người dân, người dân ở miền Nam cao hơn so với người dân ở miền Bắc và miền Trung; người dân không có trình độ CMKT có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình độ CMKT; người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp nhất; người dân cảm thấy thoả mãn
hơn đối với trường hợp thu hồi đất danh cho mục đích công cộng; giá đất sau khi thu hồi tăng cao thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn. 126 Từ kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ thỏa mãn của người dân về mức BT, HT nhận được so với mong đợi còn ở mức thấp và dưới mức trung bình, chưa đầy đủ, chưa thoả đáng với lý do chính là giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thấp hơn nhiều so với giá đất thực tế trên thị trường, giá bồi thường tài sản gắn liền với đất chưa được tính toán đầy đủ thiệt hại, các khoản hỗ trợ chưa bảo đảm ổn định đời sống và phát triển sản xuất, sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan chức năng còn có nhiều hạn chế, chưa bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn giao mặt bằng, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Để bảo đảm người dân thỏa mãn, đồng thuận trong BT, HT khi 4.1.1.1. Bảo đảm giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp với giá đất thị trường Nhà nước thu hồi đất, luận án khuyến nghị một số nội dung sau đây: Giá đất tính bồi thường là yếu tố hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của người có đất bị thu hồi và đang là vấn đề ảnh hưởng lớn nhất đến sự thỏa mãn của người dân. Để bảo đảm nguyên tắc định giá đất tính bồi thường phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường tại thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất, người dân khi nhận tiền bồi thường có thể nhận chuyển nhượng quyền sử dụng một thửa đất có điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về giá đất: - Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nội dung, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng các phương pháp định giá đất để định giá đất cụ thể tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như: phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất. Từng bước xây dựng bảng giá đất theo mô hình định giá đất đến từng thửa đất theo 127 thửa đất chuẩn, vùng giá trị đất gắn với áp dụng công nghệ thông tin như các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Thuỵ Điển... đã thực hiện. Quy định giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không được thấp hơn giá đất trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh quy định. - Quy định bắt buộc UBND cấp tỉnh phải thuê các tổ chức có chức năng tư vấn giá đất độc lập thực hiện việc tư vấn xác định giá đất để tính bồi thường trong tất cả các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để bảo đảm định giá đất một các độc lập, khách quan, phù hợp với giá đất thị trường; quy định Hội đồng thẩm định giá đất phải có thành viên là người dân đại diện khu vực thu hồi đất và các chuyên gia am hiểu về giá đất để thực hiện tốt việc thẩm định giá đất. Trường hợp người dân có đất bị thu hồi không thoả mãn với mức giá đất tính bồi thường thì được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quyết định giá đất hoặc toà án xem xét, giải quyết. Trong quá trình giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện tại tòa án, người bị thu hồi đất được quyền thuê một tổ chức có chức năng tư vấn giá đất độc lập khác thực hiện việc tư vấn xác định giá đất, cùng với việc được thuê luật sư để bảo vệ quyền lợi của mình. - Tập trung thực hiện các giải pháp để đảm bảo tính công khai, minh bạch và phát triển thị trường quyền sử dụng đất một cách ổn định, lành mạnh, hạn chế đầu cơ đất đai. Thực hiện các giải pháp này nhằm bảo đảm thông tin giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường có tính pháp lý, chính xác, làm dữ liệu đầu vào tin cậy cho các phương pháp định giá đất, giúp việc định giá đất để tính bồi thường có độ chính xác cao. Đồng thời, quy định xử phạt nghiêm những hành vi khai báo sai thông tin giá đất chuyển nhượng thực tế để giảm thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất; quy định bắt buộc người sử dụng đất phải đăng ký giá đất khi thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quy định hệ thống Văn phòng đăng ký đất đai tổ chức thực hiện việc này khi thực hiện thủ tục hành chính về chuyển quyền sử dụng đất. Quy định việc theo dõi, cập nhật thông tin giá đất thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất thị trường phục vụ việc định giá đất và thẩm định giá đất. - Quy định cụ thể việc điều tiết trực tiếp giá trị tăng thêm từ đất mà không do người sử dụng đất đầu tư như đối với các trường hợp Nhà nước thu hồi một phần diện tích đất của người dân, phần diện tích còn lại người dân đủ điều kiện để được tiếp tục sử 128 dụng cho mục đích nhà ở, kinh doanh thương mại dịch vụ với giá trị đất tăng lên; điều chỉnh mức giá đất phù hợp với thị trường để tăng mức thuế sử dụng đất đối với các hộ gia đình không bị thu hồi đất nhưng được hưởng lợi rất lớn khi nhà của họ được ra mặt đường khi Nhà nước thu hồi để làm công trình giao thông. Việc quy định điều tiết giá trị tăng thêm từ đất sẽ tạo nên sự công bằng hơn giữa những người sử dụng đất, hài hoà lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất sẽ làm tăng thỏa mãn của người có đất bị thu hồi. - Cải cách thủ tục hành chính trong việc lập và thực hiện phương án BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, rút ngắn thời gian chi trả tiền BT, HT, bố trí TĐC, đặc biệt đối với các dự án đầu có nhiều người sử dụng đất đồng thuận với phương án BT, HT, TĐC đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt nhằm hạn chế sự chênh lệch về giá đất tính bồi thường với giá đất trên thị trường. Việc này sẽ giúp tăng sự thỏa mãn của người dân, việc bàn giao mặt bằng diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy 4.1.1.2. Bảo đảm bồi thường đầy đủ thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất phát triển KT - XH của đất nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức giá nhà ở, công trình kiến trúc, cây trồng gắn liền với đất tính bồi thường vẫn thấp hơn số tiền mà người bị thu hồi đất phải bỏ ra để xây dựng nhà ở, công trình mới, làm ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân. Do vậy, việc bồi thường thiệt hại thực tế đối với tài sản gắn liền với đất mà người sử dụng đất phải chịu khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt đối với tài sản là nhà ở, công trình, vật kiến trúc, cây trồng phải tính đúng, tính đủ và sửa đổi, bổ sung chính sách theo hướng phải tính thêm hệ số trượt giá vật tư, vật liệu, nhân công trong một thời gian nhất định cho theo kịp với giá cả thị trường nhằm bảo đảm chi phí cho người dân có thể tái tạo 4.1.1.3. Các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi phải đáp ứng được mục tiêu ổn định cuộc sống, sản xuất và phát triển lại tài sản tương đương hoặc tốt hơn tại nơi ở mới. Các chính sách hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi việc làm đã được quan tâm thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - tư liệu sản xuất đặc biệt người nông dân. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu 129 cho thấy các chính sách hỗ trợ này trong nhiều trường hợp vẫn chưa bảo đảm được đời sống, sản xuất của người dân sau khi bị thu hồi đất. Do đó, luận án khuyến nghị cần sửa đổi pháp luật về đất đai theo hướng tăng mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi để bảo đảm có việc làm mới ổn định, bảo đảm sinh kế lâu dài; giao cho UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định cụ thể về mức hỗ trợ bảo đảm phù hợp với người dân theo đặc tính vùng miền và nghề nghiệp của người có đất bị thu hồi. Đồng thời, cần giao trách nhiệm cho doanh nghiệp trong việc giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện dự án của doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó, Nhà nước cần thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, nhất là những hộ bị thu hồi trên 70% diện tích. Kinh phí để thành lập quỹ này do các doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc thu hồi đất nông nghiệp của người nông dân mà doanh nghiệp đó không giải quyết được việc làm cho người dân và các nguồn vốn khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy, người dân ưu thích được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với các điều kiện tương đương với thửa đất bị thu hồi và không muốn được bồi thường bằng tiền vì giá bồi thường thấp hơn nhiều so với thị trường. Như vậy, việc bồi thường bằng tiền hay bằng đất thì điều quan trọng nhất là bảo đảm sinh kế lâu dài của họ; sự thoả mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng có sự khác biệt theo vùng miền, theo nghề nghiệp sinh kế. Do vậy, luận án khuyến nghị cần sửa đổi, bổ sung pháp luật đất đai theo hướng giao trách nhiệm của UBND cấp tỉnh tổ chức tạo quỹ đất, quỹ nhà ở nhằm đa dạng hoá các hình thức bồi thường, đáp ứng tốt nhu cầu bồi thường cho người có đất bị thu hồi; chuẩn bị kịp thời quỹ đất, quỹ nhà để thực hiện bồi thường (quỹ đất, quỹ nhà TĐC) kịp thời cho người có đất bị thu hồi. Đối với các địa phương không thể tạo được quỹ đất, quỹ nhà để bồi thường cho người có đất bị thu hồi thì cần phải thực hiện việc định giá đất tính bồi thường bằng tiền theo giá đất thị trường như khuyến nghị ở trên để người dân có thể mua được một thửa đất có điều kiện tương đương. 130 Kết quả nghiên cứu cho thấy, đánh giá của người dân về việc tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất so với mong đợi thấp hơn mức trung bình. Quá trình tổ chức thực hiện BT, HT còn thiếu minh bạch, công bằng, còn có các sai sót trong việc xác định nguồn gốc, loại đất, diện tích, tài sản gắn liền với đất… dẫn đến sự thỏa mãn của người dân có đất thu hồi còn ở mức thấp. Quá trình định giá đất, xác định giá tài sản gắn liền với đất, xây dựng phương án BT, HT, TĐC thiếu sự tham gia của người dân hoặc tham gia còn mang tính hình thức dẫn đến thiếu sự đồng thuận, hợp tác của người dân. Để đảm bảo sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, luận án có một số khuyến nghị như sau: - Thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến người dân trong xây dựng phương án BT, HT, TĐC, từ kết quả khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, dự thảo giá đất tính bồi thường, phương thức bồi thường, phương án hỗ trợ, kế hoạch chi trả tiền bồi thường. Việc tiếp thu ý kiến của người dân phải tổ chức thực hiện một cách cầu thị, trách nhiệm, đối với các ý kiến không thể tiếp thu thì phải giải trình đầy đủ, có căn cứ pháp lý và thực tiễn. Việc tham gia của người dân trong việc xây dựng phương án BT, HT, TĐC luôn là khâu quan trọng để các bên tham gia và có liên quan thể hiện quan điểm, đóng góp ý kiến cho hoạt động chung của xã hội và của người có đất bị thu hồi. Khi đó việc triển khai hoạt động thu hồi đất và BT, HT dễ nhận được sự đồng thuận của người dân hơn. - Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như Uỷ ban mặt trận tổ quốc, Hội nông dân, Tổ dân phố... và sự tham gia của cộng đồng dân cư sẽ có tác động tích cực đến người dân trong việc hợp tác, phối hợp sớm bàn giao mặt bằng cho Nhà nước để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở trong quá trình thu hồi đất, BT, HT, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. - Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội cần có phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục thích hợp để người dân biết, nắm bắt đầy đủ về chính sách thu hồi đất, BT, HT, TĐC của Nhà nước. Đặc điểm về trình độ dân trí của người dân là yếu tố quan trọng để giúp xây dựng kế hoạch, cách thức tuyên truyền, phổ biến hiệu quả. Tuỳ từng đối tượng người dân với trình độ dân trí khác nhau phải có các biện pháp, phương pháp thực hiện tuyên truyền, vận động khác nhau. 131 - Hiện nay, năng lực hoạt động của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB (là các Trung tâm phát triển quỹ đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, trực thuộc UBND cấp huyện), năng lực của các cán bộ làm công tác này còn hạn chế. Do vậy, việc tổ chức thực hiện BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất chưa bảo đảm tính dân chủ, kịp thời, công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật nên ảnh hưởng lớn đến sự thoả mãn, đồng thuận của người dân trong quá trình thực hiện việc thu hồi đất. Vì vậy, ở Trung ương và địa phương cần thường xuyên tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB để đáp ứng yêu cầu về năng lực, phẩm chất, tinh thần phục vụ nhân dân, ngày càng tăng sự tin cậy, thoả mãn của người có đất bị thu hồi. Đồng thời, thực hiện kiện toàn tổ chức, bộ máy của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, GPMB, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ làm công tác BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất nhằm nâng cao năng lực phục vụ, khả năng đáp ứng cũng như hiệu quả giải quyết các kiến nghị, khiếu nại của người có đất bị thu hồi. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống cao hơn mức trung bình nhưng còn thấp. Phần lớn các hộ dân sau khi bị thu hồi đất đã thích ứng với sự thay đổi về công ăn việc làm và thu nhập. Bên cạnh việc BT, HT bằng tiền mặt hay bằng đất thì người dân luôn mong muốn cuộc sống sau thu hồi phải theo hướng tốt hơn, được tiếp cận với các công trình phúc lợi công cộng, thương mại dịch vụ, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập. Tình trạng không có việc làm và nguồn thu nhập thiếu ổn định vẫn diễn ra ở dự án sử dụng đất nông nghiệp. Việc thu hồi đất làm xáo trộn đến đời sống, việc làm và sinh kế của người có đất thu hồi do vậy, cần có giải pháp tổng thể từ việc bồi thường, hỗ trợ một cách thoả đáng, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cũng như tạo điều kiện để người dân được tiếp cận với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập, phát triển dân trí. Bên cạnh đó, cần phải đẩy nhanh việc xúc tiến và cải thiện hệ thống an sinh xã hội đảm bảo điều kiện sống của người dân sau thu hồi đất, gây quỹ an sinh thông qua nhiều kênh, nâng cao mức độ bảo vệ, đảm bảo đầy đủ việc làm phi nông nghiệp của người dân bị mất đất và mất sinh kế. 132 Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ là nguyên nhân dẫn đến việc phải đo đạc lại diện tích đất khi tính bồi thường, việc xác định nguồn gốc đất, loại đất, căn cứ pháp lý… gặp nhiều khó khăn, dễ phát sinh sai sót trong quá trình lập phương án BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất cho đến khâu tổ chức thực hiện, gây khiếu kiện của người có đất bị thu hồi, làm cho tiến độ thu hồi đất, GPMB chậm, kéo dài. Luận án kiến nghị cơ quan có chức năng cần quan tâm thực hiện một số nội dung sau: - Tổ chức thực hiện việc đăng ký, lập hồ sơ địa chính, hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; sớm hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai và thường xuyên cập nhật, vận hành để bảo đảm cơ sở dữ liệu đất đai phù hợp với thực tế và đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, cá nhân. - Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định và quản lý quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị, điểm dân cư nông thôn. Thực hiện đầy đủ việc công bố công khai quy hoạch, các mốc giới và hành lang bảo vệ công trình để chính quyền cơ sở thực hiện việc quản lý, để nhân dân giám sát, thực hiện nghĩa vụ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. - Hoàn thiện các quy định của pháp luật về đất đai theo hướng mở rộng cơ chế người dân được thỏa thuận thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để cùng thực hiện các dự án đầu tư phục vụ mục đích phát triển kinh tế - xã hội; hạn chế việc Nhà nước thu hồi đất. Đây là việc chuyển quyền sử dụng đất theo cơ chế tự nguyện với các thỏa thuận dân sự giữa người sử dụng đất và nhà đầu tư, hạn chế việc thu hồi đất bắt buộc nhằm giảm bức xúc, khiếu nại của người dân, đồng thời giảm áp lực cho các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện thu hồi đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số dự án chậm chi trả tiền BT, HT cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất, xây dựng khu TĐC không kịp thời và chất lượng kém 133 do thiếu kinh phí; sau khi bàn giao đất cho chủ đầu tư thì việc triển khai dự án chậm tiến độ đã được phê duyệt, gây lãnh phí nguồn lực cũng như ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường. Để tránh đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, sử dụng kém hiệu quả nguồn lực đất đai và triển khai thực hiện tốt các dự án đầu tư, bảo đảm kinh phí BT, HT cho người có đất bị thu hồi, luận án kiến nghị các cơ quan chức năng cần phải thực hiện các nội dung sau: - Thực hiện việc công khai, minh bạch về nguồn thu từ đất, bao gồm: tiền thu tiền sử dụng đất khi Nhà giao đất, tiền thuê đất khi Nhà nước cho thuê đất, tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và các khoản nghĩa vụ tài chính khác của người sử dụng đất; quy định việc sử dụng tiền thu từ đất để tái đầu tư phát triển quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất, cung cấp mặt bằng cho việc thực hiện các dự án đầu tư và thực hiện công khai, minh bạch việc sử dụng nguồn thu từ đất. - Phân bổ vốn đầu tư theo hướng đầu tư tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các công trình, dự án có tính lan tỏa cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đủ nguồn vốn và giải ngân theo đúng tiến độ bồi thường, GPMB, tiến độ thực hiện các công trình, dự án được phê duyệt. - Thực hiện việc tách dự án thu hồi đất, BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất thành dự án riêng, trong đó bao gồm thu hồi đất các vùng phụ cận để thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện, bảo đảm phát huy nguồn lực đất đai và tiến độ thực hiện dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư hạ tầng giao thông. - Thực hiện nghiêm việc giám sát, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn lực từ đất đai, việc sử dụng đất đai và việc tổ chức thực hiện các dự án đầu tư; xử lý kịp thời các sai phạm, bảo đảm việc thực dự án đầu tư và việc sử dụng vốn đầu tư theo đúng quy định của pháp luật. Nghiên cứu này cũng như giống nhiều nghiên cứu hàn lâm khác vẫn còn tồn
tại một số hạn chế cần khắc phục để nội dung nghiên cứu được hoàn thiện hơn, cụ
thể đó là: 1) Luận án nghiên cứu khảo sát, đánh giá các dự án thu hồi đất tại thành phố Hà
Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, đây là những địa bàn có mức độ đô thị hoá 134 nhanh, thu hồi đất với diện tích lớn và trình độ dân trí cơ bản ở mức cao hơn so với
mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên, 03 địa bàn này có thể chưa đủ tính đại diện cho tình hình thu hồi đất trong phạm vi cả nước. 2) Có những hộ gia đình chỉ nhận 01 loại phương thức bồi thường (bằng tiền,
bằng đất hoặc bằng nhà) khi Nhà nước thu hồi đất nhưng luận án vẫn hỏi thông tin
đánh giá cho cả 3 phương thức, điều này có thể dẫn đến sai lệch thông tin đánh giá khi người đó chưa được trải nghiệm đối với phương thức bồi thường đó. 3) Một số yếu tố khác có thể có ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân như địa bàn thu hồi đất tại khu vực đô thị, nông thôn, sự thỏa mãn có sự khác biệt theo đặc điểm về tuổi, giới tính... chưa được nghiên cứu trong luận án này. Nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng sự thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất và xem xét sự thỏa mãn theo các khía cạnh, đặc điểm nội tại của hộ có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa xem xét đến mối quan hệ hài hoà lợi ích giữa người dân có đất bị thu hồi, Nhà nước và chủ đầu tư. Vì vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo sẽ giải quyết mối quan hệ và vai trò giữa ba bên, đó là: Nhà nước, người dân và chủ đầu tư nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình thực hiện theo chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 135 Chương này luận án đã đi đến một số khuyến nghị cụ thể nội dung cần điều chỉnh chính sách, pháp luật về BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất và đề xuất các giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có đất bị thu hồi theo mục tiêu Luận án đã đặt ra, bảo đảm cơ sở khoa học và thực tiễn. Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra một số hạn chế và định hướng nghiên cứu tiếp theo./. 136 1. Ngô Thị Phương Thảo, Lê Thị Thu Hương, Đào Như Quỳnh, Nguyễn Thị Hạnh,
Đoàn Ngọc Phương (2018), “Assessing the satisfaction of the people on compensation and support when the State recovers land for public construction in Ha Noi”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế CIEMB, Đại học Kinh tế quốc dân, tháng 11/2018, tr.226-235. 2. Ngô Thị Phương Thảo, Đoàn Ngọc Phương, Nguyễn Hữu Khánh (2020), “Phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất và hàm ý chính sách”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 281 (II) tháng 11/2020, tr.156-164. 3. Ngô Thị Phương Thảo, Đoàn Ngọc Phương, Nguyễn Thị Minh Phương (2020),
“Thí điểm áp dụng mô hình định giá đất đến từng thửa theo thửa đất chuẩn”, Tạp chí Tài chính, tháng 11/2020, tr.115-119. 4. Đoàn Ngọc Phương (2021), “Sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 12, tháng 4/2021, tr.105-109. 137 1. Adams, J. (1963), “Towards an understvàing of inequity”. The Journal of Abnormal and Social Psychology, 67(5), pp.422-436. 2. Alias, A. and Nasir Daud, M. D. (2006), “Payment of adequate compensation
for lvà acquisition in Malaysia”. Pacific Rim Property Research Journal, 12(3), 326-349. 3. Allardt, E. (1993), Having, loving, being. An alternative to the Swedish model of
welfare research. Nussbaum M., Sen A., The quality of life, Oxford, Clarendon press, Oxford. 4. Anka Lisec, Tomaz Primo, Miran Ferlana, Rados Sumrada and Samo Drobnea
(2014), “Lvà owners’ perception of lvà consolidation and their satisfaction with the results – Slovenian experiences”, Lvà Use Policy, 38 (2014) 550–563, Elsevier Ltd. All rights reserved. 5. Aziam, M. (2009), “A Conceptual Framework on House Buyers”, Satisfaction of
Housing Projects, Maznah Ghazali Universiti Teknologi, MARA, Malaysia.
6. Bachelet, D. (1995) “Measuring Satisfaction, or the Chain, the Tree and the Nest
in Brooks, Richard Ed”. Customer Satisfaction Research, Amsterdam, European Society for Opinion and Marketing Research. 7. Bachelet, D. (1995), “Measuring Satisfaction; or the Chain, the Tree, and the Nest”, Customer Satisfaction Research, Brooker, R.(ed), Emosar. 8. Bayram, Nuran and Aytaç, Serpil and Aytac, Mustafa and Sam, Neslihan and
Bilgel, Nazan. (2012). “Poverty, Social Exclusion, and Life Satisfaction: A Study From Turkey”. Journal of Poverty. 16. 375-391. 10.1080/10875549.2012.720656. 9. Bechtel, R.B. (1997). Environment & behavior: An Introduction. Thous and Oaks, London: Sage Publication, (Chapter 2, 14). 10. Bellani, Luna, D'Ambrosio, Conchita. (2011). “Deprivation, Social Exclusion
Indicators Research. 104. 67-86. and Subjective Well-Being”. Social
10.1007/s11205-010-9718-0. 11. Bitner, M. (1987), “Contextual cues and consumer satisfaction: The role of
physical surroundings and employee behaviors in service settings”, Unpublished Doctoral Dissertation, University of Washington. 12. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Thông tư liên tịch số
87/2016/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn việc thẩm định dự thảo bảng giá đất của 138 Hội đồng thẩm định bảng giá đất, thẩm định phương án giá đất của Hội đồng
thẩm định giá đất, ban hành ngày 22 tháng 6 năm 2016. 13. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014a), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014. 14. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014b), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT quy
định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định
giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014.
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017), Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT quy định
chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai, ban
hành ngày 29 tháng 9 năm 2017. 16. Bohnke, P. (2005). First European quality of life survey: Life satisfaction,
happiness and sense of belonging. Luxembourg: European Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions, Office for Official Publications of the European Communities. 17. Brown, B, (1993), “Rural community satisfaction and attachment in mass consumer society”, Rural Sociology, 58, 387-403. 18. Cadotte, E., Woodruff.R. and Jenkins, R. (1983), “Expectations and norms in
models of consumer satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 8 (3), pp. 305-314. 19. Campbell, A. (1976), The quality of American life. perceptions, evaluation and satisfaction. Russell Sage foundation. U.S.A. 20. Campbell, A. (1981). The sense of well-being in America: Recent patterns and trends. New York: Mcgraw-Hill. 21. Cardozo, R. (1965), “An experimental study of customer effort, expectation, and satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 2(8), pp. 244-249. 22. Carlsmith, J. and Aronson, E. (1963), “Some hedonic consequences of the
confirmation and disconfirmation of expectations”, Journal of Abnormal and Social Psychology, Vol. 66(2), pp. 151 -156 23. Carrell, M. R., Dittrich, J. E. (1978). “Equity theory: The recent literature,
methodological considerations, and new directions”. Academy of Management Review, 11, 202–210. 24. Châu Đạm Trinh (2012), Đánh giá sự hài lòng của người dân về dịch vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng: nghiên cứu tình huống lập phương án bồi thường, 139 hỗ trợ tái định cư dự án khu công nghiệp sông Hậu tỉnh Hậu Giang, Luận văn
Thạc sỹ kinh doanh, Trường Đại học Nha Trang. 25. Cheng, Long and Liu, Yan and Brown, Gregory and Searle, Glen. (2018).
Factors affecting farmers' satisfaction with contemporary China's lvà allocation policy – The Link Policy: Based on the empirical research of Ezhou. Habitat
International. 75. 38-49. 10.1016/j.habitatint.2018.04.004. 26. Chính phủ (2014a), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014. 27. Chính phủ (2014b), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014. 28. Chính phủ (2014c), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014. 29. Chính phủ (2017), Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị
định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, ban hành ngày 06 tháng 01 năm 2017. 30. Churchill, G.A.J. and Surprenant, C. (1982), “An investifation into the
determinants of customer satisfaction”, Journal of Marketing Research, Vol. 19(4), pp. 491-504 31. Cletus Ndjovu, 2016, Understanding Causes Of Dissatisfactions Among
Compensated Landowners’ In Expropriation Programs In Tanzania, International Journal of Scientific & Technology research volume 5, Issue 01, January 2016, ISSN 2277-8616 32. Colquitt, J. A., Conlon, D. E., Wesson, M. J., Porter, C. O. L. H., and Ng, K. Y.
(2001). “Justice at the millennium: A meta-analytic review of 25 years of organizational justice research”. Journal of Applied Psychology, 86, 425-445.
33. Colquitt, J. A., Scott, B. A., Judge, T. A., & Shaw, J. C. (2006). Justice and
personality: Using integrative theories to derive moderators of justice effects.
Organizational Behavior and Human Decision Processes, 100(1), 110-127.
doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.obhdp.2005.09.001 34. Colquitt, J., Greenberg, J. and Zapata-Phelan, C.P. (2005), “What Is
Organizational Justice? A Historical Overview. In: Greenberg, J. and Colquitt, J.,
Eds.”, Hvàbook of Organizational Justice, Lawrence Erlbaum Associates, Mahwah, 3-56. 35. Cornin, and Taylor, (1992), “Measuring service quality: A re-examination and extention”, Journal of Marketing, 56, 55-68. 140 36. Cropanzano, R. and Greenberg, J. (1997), “Progress in Organizational Justice:
Tunneling through the Maze. In: Cooper, C.L. and Robertson, I.T., Eds.”, International Review of Industrial and Organizational Psychology, Vol. 12, John Wiley and Sons, New York, 317-372. 37. Đặng Thị Thùy Diễm (2013), “Một số kết quả khảo sát mức độ hài lòng của công
dân đối với thủ tục bố trí tái định cư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, số 58-5. 38. Đào Trung Chính (2014), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Luận án tiến sĩ, Học viện Nông nghiệp Hà Nội. 39. Davies, (1945), “Development of a scale to rare attitude of community satisfaction”, Rural Sociology, 10, 246-255. 40. Dawes, R., D. Singer, Lemons, P. (1972), “An experimental Analysis of the
Contrast Effect and its Implications for Intergroup Communication and Indirect Assessment of Attitude”, Journal of Personality and Social Psychology, 21(3), p. 281-295 41. Dawes, R., D. Singer, Lemons, P. (1972), “An experimental Analysis of the
Contrast Effect and its Implications for Intergroup Communication and Indirect Assessment of Attitude”, Journal of Personality and Social Psychology, 21(3), p. 281-295 42. Delhey, J. (2004). “Life satisfaction in an enlarged Europe”, Quality of life in Europe. 43. Deutsch, M. (1973), The Resolution of Conflict. Constructive and Destructive processes, Yale University Press, New Haven and London. 44. Dolan, Paul and Peasgood, T. and White, Mathew. (2008). “Do We Really Know
What Makes Us Happy? A Review of the Economic Literature on the Factors Associated With Subjective Well-Being”. Journal of Economic Psychology. 29.
94-122. 10.1016/j.joep.2007.09.001. 45. Festinger, L. (1957), A theory of cognitive dissonance, Stanford: Stanford Press.
46. Filkins, R., and Allen, J. (1999), “Predicting community satisfaction among rural resident: An integrative model”, Journal Series, 12451, 1-17. 47. Filkins, R., and Allen, J. (1999), “Predicting community satisfaction among rural resident: An integrative model”, Journal Series, 12451, 1-1 48. Folger, R., & Cropanzano, R. (2001). Fairness theory: Justice as accountability. Advances in organizational justice, 1, 1-55. 141 49. Forman, A. (1986), The impact of purchase decision confidence on the process of
Ph.D. Dissertation, satisfaction/dissatisfaction, Unpublished consumer Knoxville: The University of Tennessee. 50. Fornell, C., et. al. (1996), “The American customer satisfaction index: nature, purpose, and findings”, Journal of Marketing, Vol. 60(4), pp. 7-18 51. Francescato, Weidemann, S., & Vàerson,J. R. (1986). “Residentialsatisfaction
and residential quality: an overview of recent applications”. Paper presented at
the 21st International Congress of Applied Psychology, Jerusalem, Israel. 52. Galester, G. (1985), “Evaluating indicators for housing policy: Residential
satisfaction vs marginal improvement priorities”, Social Indicator Research, Vol.16. pp.415- 448. 53. Gyamfi, A.A., (2012), An Overview of Compulsory Land Acquisition in Ghana:
Examining its Applicability and Effects, [online]: Available at [Accessed September 2014] 54. Hackman, J. and Lawler, Edward. (1971), “Employee Reactions to Job
259-286. Characteristics”. Psychology. Journal Applied 55. of 10.1037/h0031152. 55. Hansemark, O.C. and Albinson, M. (2004), “Customer Satisfaction and
Retention: The Experiences of Individual Employees”, Managing Service Quality, Vol. 14(1), pp. 40- 57 56. Hayibor, S. (2012). Equity and Expectancy Considerations in Stakeholder
Action. Business & Society, 51(2), 220-262. doi:10.1177/0007650308323396
57. Helliwell, John and Putnam, Robert. (2004), “The Social Context of Well-Being.
Philosophical transactions of the Royal Society of London”. Series B, Biological sciences. 359. 1435-46. 10.1098/rstb.2004.1522. 58. Heneman, H.G. III, and Schwab, D.P. (1985), “Pay satisfaction: Its
International Journal of multidimensional nature and measurement”,
Psychology, 20, 129-142. 59. Hoàng Thị Nga (2011), Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội. 60. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Hồng Đức. 61. Hovlvà, C., Harvey.O. and Sherif, M. (1957), “Assimilation and contrast effects
in reaction to communication and attitude change”, Journal of Abnormal and Social Psychology, Vol. 55(7), pp. 244-252 142 62. Hoyer, W. D. and MacInnis, D. J., (2001), Consumer Behaviour. 2nd ed., Boston, Houghton Mifflin Company. 63. Ibem, E. O., and Aduwo, E. B. (2013), “Assessment of residential satisfaction in
public housing in Ogun State, Nigeria”. Habitat International, 40, 163–175.
64. Imrie, R. and Thomas, H. (1997), “Law, Legal Struggles and Urban
Regeneration: Rethinking the Relationships”, Urban Studies, 34 (9), pp. 1401- 1418. 65. Jesser, J, (1967), “Community satisfaction pattern of professionals in rural areas”, Rural Sociology, 32, 56-69. 66. Jiangjun Wan, Yi Su, Huanglin Zan, Yutong Zhao, Lingqing Zhang, Shaoyao
Zhang, Xiangyu Dong and Wei Deng (2020), “Lvà Functions, Rural Space Governance, and Farmers’ Environmental Perceptions: A Case Study from the
134;
Huanjiang Karst Mountain Area, China”, 2020, Lvà 9, doi:10.3390/lvà9050134 67. Johnson and Knop, (1970), “Rural urban differentials in community satisfaction”, Rural Sociology, 34, 544-548. 68. Kakulu, I. (2008), An analysis of Processes and Methods in Compulsory lvà
Acquisition and Compensation, Unpublished Doctoral Thesis - University of Reading. 69. Kakulu, I. (2008). “The assessment of compensation in compulsory acquisition
of oil and gas bearing lvàs: The Niger Delta experience”. Lvà Reform, lvà Settlement and Cooperatives Journal. 1. 56-65. 70. Kim, S.H. (1997), “Modeling Residents satisfaction: Comparison of the
Francescato Kotilainen and Fishbein-Ajzen Model Department of Urban and Regional Planning, University of Illinois at Urbana-Champaign”. An unpublished doctoral dissertation. 71. Knop, Edward C., and Steward R. (1973), “Community Satisfaction: Conceptual
and Methodological Problems”, Paper presented at Rocky Mountain Social
Science Association annual meeting, Laramie, Wyoming. 72. Konovsky, M. A. (2000). Understanding procedural justice and its impact on
489-511. of Management, organizations. Journal 26(3), business
doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0149-2063(00)00042-8 73. Kotilainen, S. (2011), The agreement process as a lvà acquisition và compensation method in public road projects in Finlvà 143 74. Kotilainen, S. (2012), “Agreements as lvà acquisition and compensation methods
in public road projects in Finlvà”. Nordic Journal of Surveying and Real Estate Research, 8(1). Retrieved from https://journal.fi/njs/article/view/3984 75. Kotler, P. (2000), Marketing Management 10th ed., New Jersey, Prentice-Hall.
76. Kotler, P., Roberto, N. and Lee, N. (2002), Social marketing: Improving the Quality of Life 2nd Edition, Thousvà Oaks, CA: Sage. 77. Kotler, P., Siew M., Swee H., and Chin, T. (1996), Marketing Management: An Asian Perspective Singapore, Prentice Hall. 78. Kurt Lewin (1975), Field Theory in Social Science: Selected Theoretical Papers
for Group Dynamics Series, Greenwood Press, ISBN Research Center 0837172365, 9780837172361 79. Kurt, L. (2010), Groups, experiential learning and action research The
Encyclopedia of Informal Education, từ http://www.infed.org/thinkers/etlewin.htm. (Accessed 23 December 2010). 80. Ladewig, H., and McCann, C. (1980), “Community satisfaction: Theory and measurement”, Rural Sociology, 45, 110-131. 81. Lawler, E. L. (1971), “Pay và organization effectiveness: A psychological view”, NY: McGraw Hill. 82. Li B and Chen S (2011), “A study of residential condition and satisfaction of the elderly in China”, Journal of Housing for the Elderly 25(1): 72–88. 83. Li, N.H (2018), “Analysis on the Farmers’ Satisfaction with Reform Experimentation of Rural Land Expropriation System - An Empirical Analysis Journal of Social Sciences, 6, 152-164. for Liuyang”. Open
https://doi.org/10.4236/jss.2018.61011 84. Liang and Zhu (2015), “Subjective Well-Being of Chinese Lvàless Peasants in
Relatively Developed Regions: Measurement Using PANAS and SWLS.”, Social Indicator Research, Vol. 123, 817 – 835. 85. Lin, T-C. and Lin, S-T. (2006), “Decision-making of property owners and
tenants in the face of compulsory purchase”, Habitat International, 30 (2006),
pp. 434-447. Elsevier Ldt. 86. Lu, M. (1999), “Determinants of residential satisfaction: ordered logit vs
regression models”, Journal of growth and change, Vol. 30, pp. 264- 287.
87. Marans, R. W., and Rodgers, W. (1975), “Toward an Understvàing of
Community Satisfaction. In: A. Hawley, and V. Rock (Eds.)”, Metropolitan America in Contemporary Perspective (pp. 299-352). New York: Halsted Press. 144 88. McCray, J. W., and Day, S. S. (1977), “Housing Values, Aspirations, and
Satisfactions as Indicators of Housing Needs”, Family and Consumer Sciences Research Journal, 5, 244-254. 89. McQuitty, S., F.A. and Wiley, J.B. (2000), “Systematically Varying Customer
Satisfaction and its Implications for Product Choice”, Academy of Marketing
Science Review. 90. Mollie Van Loon and Stinner, F. (1992) “Community size preference status,
community satisfaction and migration intentions”, Population and Environment, 14, 177-195. 91. Morris, E. and Winter, M. (1975), “A Theory of Family Housing Adjustment”, Journal of Marriage and the Family, Vol. 37, pp. 79-88 92. Munch, P. (1976), “An Economic Analysis of Eminent Domain”, The Journal of
Political Economy, 84 (3) (Jun., 1976), pp. 473-498, The University of Chicago Press. 93. Neihoff, B. P., Moorman, R. H., and Fuller, G. B (2001), “The Influence of
Empowerment and Job Enrichment on Employee Loyalty in a Downsizing Environment”, Group and Organization Manament, 26 (1), 93-113. (2001)
94. Nguyễn Đình Thọ (2012), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh: thiết kế và thực hiện, NXB Lao Động xã hội. 95. Nguyễn Văn Vũ An (2015), “Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của
người dân đối với khu công nghiệp Long Đức, thành phố Trà Vinh”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học An Giang, Vol 6(2), 16-24. 96. Ning Chai, Rob Stevens, Xiaozhen Fang, Chun Mao and Ding Wang (2019),
“The impact of compensation upon urban village residents satisfaction with the land expropriation process Empirical evidence from Hangzhou, China”, Journal of Property, Planning and Environmental Law, Vol. 11 No. 3, 2019 pp. 186-216 Strategies, Available Verona, Italy. and © Emerald Publishing Limited 2514-9407 DOI 10.1108/JPPEL-03-2019-0011
97. Odame, L., (2008), Compulsory Land Acquisition in Ghana: Searching for
<
Alternative
https://www.fig.net/commission7/verona_fao_2008/papers/09_sept/4_1_larbi.pdf
98. Ogu VI (2002), “Urban residential Satisfaction and the Planning Implication in a
developing World Context: the Example of Benin City Nigeria”. Int. Plann. Study. 7(1):37-53. 99. Oladapo, R. A. and Ige, V. (2012), Assessment of Claimants’ Satisfaction to
Variation in Compensation Paid for Compulsory Lvà Acquisition in Ondo State, NIGERIA 145 100. Oladapo, R. A. and Ige, V. (2014), Assessment of Claimants’ Satisfaction to
Variation in Compensation Paid for Compulsory Lvà Acquisition in Ondo State, Nigeria, FIG Congress. 101. Oliver, R. (1980), “A Cognitive Model of the Antecedents and Consequences of
Satisfaction Decisions”, Journal of Marketing Research, 17(4), 460-469.
doi:10.2307/3150499. 102. Oliver, R.L. (1977a), “Effect of expectation and disconfirmation on postexposure
interpretation”, Journal of Applied product evaluations: An alternative Psychology, Vol. 62(8), pp. 480-486. 103. Oliver, R.L. (1977b), “A theoretical reinterpretation of expectation and
disconfirmation effects on post-exposure product evaluations: Experience in the field. In R. Day (Ed.)”, Consumer Satisfaction/Dissatisfaction and Complaining
Behavior (pp. 2-9), Proceedings of the 2nd Annual Consumer Satisfaction/ Dissatisfaction and Complaining Behavior Conference, April 20-22, 1977. 104. Oliver, R.L. (1980a), “A Cognitive Model of the Antecedents and Consequences of Satisfaction Decisions”, Journal of Marketing Research, Vol. 17(11), pp. 460-469 105. Oliver, R.L. (1980b), “Theoretical bases of consumer satisfaction research:
Review, critique, and future direction”, In C.Lamb and P. Dunne (Eds.), T. D. i. M. (p. 206.-210). (ed.) Chicago: American Marketing Association. 106. Oliver, R.L. (1993), “A conceptual model of service quality and service
satisfaction: compactible goals, different concepts”, In Swartz, T. A., B. D. E., Brown, S. W. (Eds), A. i. s. m. and management (Vol. 2, p. 65.-85). (ed.)
Greenwich. CT: JAI 107. Oliver, R.L. (1997), Satisfaction A Behavioral Perspective on the Consumer. The McGraw-Hill Companies, Inc., New York. 108. Olshavsky, R.W. and Miller, J.A. (1972), “Consumer expectation, product
performance and perceived product quality”, Journal of Marketing Research,
Vol. 9, February, pp. 19-21 109. Olson, J.C. and Dover, P. (1979), “Disconfirmation of consumer expectation
through product trial”, Journal of Applied Psychology, Vol. 64, pp. 179-89
110. Omar, I. and Ismail, M. (2009), “Kotaka's Model in lvà acquisition for
infrastructure provision in Malaysia”, Annals of the University of Petroşani, Economics, 9(4), 121- 134. 146 111. Parker, C. and Matthews, B.P. (2001), “Customer satisfaction: contrasting
academic and consumers' interpretations”, Marketing Intelligence and Planning, Vol. 19(1), pp. 38-44. 112. Peyton, R.M., P.S. and Kamery, R.H. (2003), “Consumer atisfaction/Dissatisfaction (CS/D): A review of the literature prior to the 1990s”,
Proceedings of the Academy of Organizational Culture, Communications and Conflicts”, 7(2). Allied Academies Inernational Conference. Las Vegas. (pp. 41-
46). 113. Pham Huu Ty and A. C. M. Van Westen and Annelies Zoomers (2013),
"Compensation and Resettlement Policies after Compulsory Lvà Acquisition for Hydropower Development in Vietnam: Policy and Practice," Lvà, MDPI, Open Access Journal, vol. 2(4), pages 1-27, November. 114. Philip Kotler (2001), “Marketing Management,, Prentice Hall International
Series in Marketing Series”, Pearson Education Canada, ISBN 0130739537, 9780130739537 115. Poisz, T.B.C. and Van Grumbkow, J. (1988), “Economic wellbeing, job
satisfaction, income evaluation and consumer satisfaction: an integrative attempt, in Raaij, W. F., V. G. M. and Eds)”, Hvàbook of Economics Psychology, Kluwer Academic Publishers, The Netherlvàs. 116. Potter, J. and Cantarro,B. (2006), “How does increasing population and diversity
affect resident satisfaction?”, Journal of Environment and Behaviour, Vol. 9. No (7). pp 514 - 545. 117. Qin, T., Gu, X., Tian, Z., Pan, H., Deng, J., and Wan, L. (2016), “An empirical
analysis of the factors influencing farmer dem and for forest insurance: Based on surveys from Lin’an County in Zhejiang Province of China”, Journal of Forest Economics, 24, 37-51. 118. Quốc hội (1987), Luật Đất đai năm 1987, ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987.
119. Quốc hội (1993), Luật Đất đai năm 1993, ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993.
120. Quốc hội (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai, ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2001. 121. Quốc hội (2003), Luật đất đai năm 2003, ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003.
122. Quốc hội (2013), Luật đất đai năm 2013, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013.
123. Rojek, D., Clemente, F., and Summer, F. (1975), “Community satisfaction: A study of contentment with local service”, Rural Sociology, 40, 177-192. 147 124. Rowan-Robinson, J. (1995), “Compensation for the Compulsory Acquisition of
Business Interest: Satisfaction or Sacrifice”, Journal of Property Valuation and Investment, 13(1), 44-65. 125. Satsangi, M. and Kearns, A. (1992), “The use and interpretation of tenant
satisfaction surveys in British social housing”, Environment and Planning C:
Government and Policy, 10(3), pp. 317-331. (doi: 10.1068/c100317) 126. Silver, H. (1994), “Social exclusion and social solidarity: three paradigms”. International Labour Review. 133:531-78 127. Singer, L. R. (1994), Settling Disputes. Conflict Resolution in Business, Families,
and the Legal System, Second Edition, Westview Press, The United States of America. 128. Song QU, Nico HEERINK, Ying XIA (2015), “Farmers’ satisfaction with
compensations for farmlvà expropriation in China – Evidence from micro-level data”, International Conference of Agricultural Economist. 129. Spreng, R.A., M.S.B. and Olshavsky, R.W. (1996), “A reexamination of the
determinants of consumer satisfaction”, Journal of Marketing, Vol. 60, July, pp. 15-32 130. Tanya, J. K., & Kristina, M. (2012). Procedural Justice as a component of the
Not In My Backyard (NIMBY) syndrome: Understanding opposition to the building of a desalination plant in Victoria, Australia 131. Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018), Tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội. 132. Tse, D.K. and Wilton, P.C. (1988), “Models of consumer satisfaction formation: An extension”, Journal of Marketing Research, Vol. 25(2), pp. 204-212 133. Tyagi, V., and Shinde, R. (2016), “Government Policies and Difficulties in Lvà
Acquisition: A Questionnaire Survey”, International Journal of Innovative Research and Development, 2278-0211, 5(8). 134. Vàerson, E.W. (1994a), "Cross-Category Variation in Customer Satisfaction and Repurchase Likelihood" Marketing Letters, forthcoming 135. Vàerson, E.W. and Fornell, C. (1994), “A customer satisfaction research
prospectus in Rust, R. T.”, Oliver, R. L (eds), S. q. N. d. i. t. and practice (ed.)
CA. Sage. pp. 241-68 136. Vàerson, R. (1973), “Consumer dissatisfaction: The effect of diperformance”, Journal of Marketing Research, Vol. 10(2), pp. 38-44. 148 137. Vreugdenhil, A., and Rigby, K. (1987), “Assessing generalized community
367– satisfaction”, The Psychology, Journal 127(4), Social of 374. https://doi.org/10.1080/00224545.1987.9713716 138. Wang, X. (2013), “Measurement of Peasants’ Satisfaction with the Compensation for Lvà Acquisition in the Chinese Mainlvà in the Last Thirty
Years”. Chinese Studies, 2, 68-76. doi: 10.4236/chnstd.2013.21010. 139. Weiyan Hu, Xuelong Zhang, Yan Song, Long Shen, Jin Liu and Anlu Zhang
(2014), “Life satisfaction approach to farmers compensation for Lvà acquisition: empirical study from the suburbs of Wuhan City”, Chinese Journal of Population Resources and Environment, 12:4, 316-323, DOI: 10.1080/10042857.2014.953744 140. Wilton, P. and Nicosia, I. (1986), “Emerging paradigms for the Study of consumer satisfaction”, European Research. Vol. 14(1), pp. 4-11 141. World Bank (2011), Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện tại Việt Nam, Hà Nội. 142. Yi, Y. (1990), A critical review of consumer satisfaction, Zeithaml, V.A. (E. R. o. M. 1990. ed.) American Marketing Association, Chicago, IL. 143. Zeithaml, V.A. and Bitner, M.J. (2000), Services Marketing: Integrating Customer Focus across the Firm. 2nd Edition, McGraw-Hill, Boston. 144. Zhigang Li and Fulong Wu (2013), “Residential Satisfaction in China's Informal
Settlements: A Case Study of Beijing, Shanghai, and Guangzhou”, Urban Geography, 34:7, 923-949, DOI: 10.1080/02723638.2013.778694 149 Phân tích nhân tố khám phá Communalities Initial Extraction 1.000 .730 MUCBT1 1.000 .737 MUCBT2 1.000 .597 MUCBT3 1.000 .856 MUCBT4 1.000 .748 PTBT1 1.000 .483 PTBT2 1.000 .744 PTBT3 1.000 .472 TDCS1 1.000 .677 TDCS2 1.000 .553 TDCS3 1.000 .491 TDCS4 1.000 .323 TCTH1 1.000 .307 TCTH2 1.000 .410 TCTH3 1.000 .345 TCTH4 1.000 .452 TCTH5 1.000 .314 TCTH6 Extraction Method: Principal Component Analysis. 150 Component Matrixa Component 1 2 3 4 MUCBT1 .842 MUCBT2 .845 MUCBT3 .752 MUCBT4 .907 .478 .709 PTBT1 .347 .580 PTBT2 .482 .691 PTBT3 .672 TDCS1 .811 TDCS2 .731 TDCS3 .699 TDCS4 .488 TCTH1 .484 TCTH2 .559 TCTH3 .479 TCTH4 .586 -.314 TCTH5 .430 -.335 TCTH6 Extraction Method: Principal Component Analysis. a. 4 components extracted. 151 Pattern Matrixa Component 1 2 3 4 .853 MUCBT1 .851 MUCBT2 .770 MUCBT3 .927 MUCBT4 .866 PTBT1 .695 PTBT2 .859 PTBT3 .684 TDCS1 .821 TDCS2 .740 TDCS3 .698 TDCS4 .556 TCTH1 .539 TCTH2 .634 TCTH3 .583 TCTH4 .672 TCTH5 .556 TCTH6 Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 4 iterations. 152 Structure Matrix Component 1 2 3 4 .854 MUCBT1 .854 MUCBT2 .768 MUCBT3 .925 MUCBT4 .864 PTBT1 .693 PTBT2 .861 PTBT3 .685 TDCS1 .820 TDCS2 .741 TDCS3 .698 TDCS4 .560 TCTH1 .538 TCTH2 .639 TCTH3 .584 TCTH4 .669 TCTH5 .552 TCTH6 Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. Component Correlation Matrix Component 1 2 3 4 1.000 .029 .064 -.053 1 .029 1.000 -.007 .007 2 .064 -.007 1.000 .049 3 -.053 .007 .049 1.000 4 Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu khảo sát 153 Estimate S.E. C.R. P Label .051 19.028 ***
.051 17.336 ***
.055 22.967 *** .159
.121
.130 9.863 ***
9.303 ***
9.245 *** .148
.191
.174
.205
.152 5.674 ***
6.543 ***
6.259 ***
6.670 ***
5.762 *** MUCBT1 <--- MUCBT_est
MUCBT2 <--- MUCBT_est
MUCBT3 <--- MUCBT_est
MUCBT4 <--- MUCBT_est
TDCS1
TDCS2
TDCS3
TDCS4
TCTH1
TCTH2
TCTH3
TCTH4
TCTH5
TCTH6
PTBT1
PTBT2
PTBT3 <--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- PTBT_est
<--- PTBT_est
<--- PTBT_est 1.000
.974
.887
1.258
1.000
1.567
1.130
1.199
1.000
.837
1.247
1.087
1.364
.875
1.000
.633
1.006 .066
9.654 ***
.091 11.087 *** MUCBT1 <--- MUCBT_est
MUCBT2 <--- MUCBT_est
MUCBT3 <--- MUCBT_est
MUCBT4 <--- MUCBT_est
TDCS1
TDCS2
TDCS3
TDCS4
TCTH1
TCTH2
TCTH3
TCTH4
TCTH5
TCTH6
PTBT1
PTBT2
PTBT3 <--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TDCS_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- TCTH_est
<--- PTBT_est
<--- PTBT_est
<--- PTBT_est Estimate
.784
.764
.708
.943
.531
.799
.598
.591
.434
.396
.533
.478
.566
.406
.806
.477
.823 154 P Label MUCBT_est <--> TDCS_est
MUCBT_est <--> TCTH_est
MUCBT_est <--> PTBT_est
<--> TCTH_est
TDCS_est
<--> PTBT_est
TDCS_est
<--> PTBT_est
TCTH_est Estimate S.E.
C.R.
.206
.021
.004
.019 1.390
.027
-.984
.031
-.030
.192
.014
.003
.022
.006
.282
.021 1.169
.024 .837
.164
.325
.848
.778
.242 MUCBT_est <--> TDCS_est
MUCBT_est <--> TCTH_est
MUCBT_est <--> PTBT_est
<--> TCTH_est
TDCS_est
<--> PTBT_est
TDCS_est
<--> PTBT_est
TCTH_est Estimate
.011
.079
-.049
.012
.015
.071 C.R. P Label MUCBT_est
TDCS_est
TCTH_est
PTBT_est
e1
e2
e3
e4
e5
e6
e7
e8
e9
e10
e11
e12
e13
e14
e15
e16
e17 Estimate S.E.
.622
.266
.189
.618
.389
.422
.487
.122
.679
.370
.610
.712
.813
.712
.741
.754
.743
.729
.332
.841
.299 .059 10.512 ***
5.717 ***
.047
4.144 ***
.046
8.325 ***
.074
.029 13.510 ***
.030 13.958 ***
.033 14.773 ***
.025
4.894 ***
.048 14.242 ***
.053
6.984 ***
.046 13.188 ***
.053 13.318 ***
.057 14.252 ***
.048 14.691 ***
.058 12.683 ***
.055 13.643 ***
.062 11.968 ***
.050 14.574 ***
.055
6.087 ***
.055 15.239 ***
5.479 ***
.054 155 Sự phù hợp của mô hình P CMIN/DF
1.923 .000 .000 Model
Default model
Saturated model
Independence model NPAR
CMIN DF
40
217.280 113
0
153
17 2501.407 136 .000 18.393 Model
Default model
Saturated model
Independence model GFI AGFI PGFI
RMR
.036
.705
.939
.955
.000 1.000
.623
.185 .554 .576 Model CFI RFI
rho1
.895 TLI
rho2
.947 Default model
Saturated model
Independence model NFI
Delta1
.913
1.000
.000 .000 IFI
Delta2
.956
1.000
.000 .000 .956
1.000
.000 Model
Default model
Saturated model
Independence model PRATIO PNFI PCFI
.794
.000
.000 .831
.000
1.000 .759
.000
.000 NCP
104.280
.000 LO 90
66.417
.000 HI 90
Model
149.948
Default model
Saturated model
.000
Independence model 2365.407 2206.749 2531.419 Model
Default model
Saturated model
Independence model FMIN
.193
.403
.000
.000
4.641 4.389 F0 LO 90 HI 90
.278
.123
.000
.000
4.094 4.697 Model
Default model
Independence model RMSEA LO 90 HI 90 PCLOSE
.958
.000 .050
.186 .033
.174 .041
.180 156 BCC
300.044
316.572 AIC
297.280
306.000 BIC
CAIC
Model
508.943
468.943
Default model
Saturated model
962.610 1115.610
Independence model 2535.407 2536.582 2608.364 2625.364 Model
Default model
Saturated model
Independence model ECVI LO 90 HI 90 MECVI
.557
.587
4.706 .636
.481
.568
.568
4.410 5.012 .552
.568
4.704 Model Default model
Independence model HOELTER
.05
345
36 HOELTER
.01
375
39 157 PHIẾU KHẢO SÁT HỘ GIA ĐÌNH CÓ ĐẤT THU HỒI I. THÔNG TIN CHUNG 1. Họ tên người trả lời phỏng vấn ……………………………………………… (Người trả lời phỏng vấn là người đại diện cho hộ, đủ năng lực hành vi dân sự) 2 Giới tính: ……….………………………….(1- Nam; 2- Nữ)……………. 3 Năm sinh:.…………………………………………………………………. 4. Địa chỉ nơi cư trú: .........................................................…………………..… 5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)……………………………………… 1.Không có trình độ CMKT 5. Trung cấp 2. CMKT không bằng 6. Cao đẳng 3. Chứng chỉ nghề <3 tháng 7. Đại học trở lên 4. Sơ cấp 6. Nghề nghiệp chính là gì? .............................................................. 7. Tình trạng việc làm hiện nay:………………………………………………. 8. Ông/bà đánh giá thế nào về tình hình kinh tế gia đình (đánh x vào ô tương ứng với 1. Kém 2. Rất kém 3. Bình thường 4. Tốt 5. Rất tốt) Tình hình kinh tế gia đình 1 2 3 4 5 Tình hình kinh tế của gia đình hiện tại Tình hình kinh tế của gia đình so với thời điểm trước khi thu hồi đất 1 2 3 4 5 Tình hình kinh tế của gia đình trong 5 năm tới 1 2 3 4 5 158 1. Xin ông/bà cho biết thông tin về bồi thường, hỗ trợ sau: 1 Đất ở (1-Có; 2-
Không) 2 Đất nông
nghiệp 2. Gia đình ông/bà được bồi thường theo hình thức nào? 2.1. Khi ông/bà bị thu hồi đất ở thì được bồi thường theo hình thức nào? a- Bồi thường bằng giao đất ở mới (bố trí tái định cư) b- Bồi thường bằng nhà ở mới (bố trí tái định cư) c- Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới 2.2. Khi ông/bà bị thu hồi đất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ như thế nào? a- Bồi thường bằng giao đất nông nghiệp ở vị trí khác để tiếp tục sản xuất b- Bồi thường bằng đất khác (đất ở, đất dịch vụ….) c- Bồi thường bằng tiền d- Được nhận các khoản hỗ trợ (Hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất; Hỗ trợ
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; Hỗ trợ đào tạo nghề; Hỗ trợ khác) 2.3. Hình thức bồi thường, hỗ trợ khác: ………………………………. 3. Gia đình ông/bà được bồi thường với giá trị như thế nào? 3.1- Giá đất được bồi thường: …………………………….. 1. Xấp xỉ (sát) giá thị trường; 2. Thấp hơn chút ít; 3. Thấp hơn nhiều 3.2- Giá tài sản gắn liền với đất được bồi thường: ………………… 1. Xấp xỉ (sát) giá thị trường; 2. Thấp hơn chút ít; 3. Thấp hơn nhiều 159 4. Gia đình ông/bà được bồi thường, hỗ trợ như trên có bảo đảm ổn định đời
sống, sản xuất không? 1. Bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất; 2. Tương đối bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất; 3. Không bảo đảm ổn định đời sống, sản xuất 5. Mục đích thu hồi đất để làm gì? 1. Xây dựng cơ sở hạ tầng vì lợi ích công cộng 2. Đầu tư thương mại 3. Khác Rất không thỏa mãn Rất thỏa mãn 6. Xin ông bà vui lòng đánh giá cho những vấn đề dưới đây bằng cách đánh dấu
(x) vào ô lựa chọn tương ứng (1. Rất không thỏa mãn; 2. Không thỏa mãn; 3. Bình
thường; 4. Thỏa mãn; 5. Rất thỏa mãn) Mức giá đất tính bồi thường phù hợp với mức giá đất 1 2 3 4 5 MUCBT
1 chuyển nhượng trên thị trường, giá trị bồi thường có
thể nhận chuyển nhượng một mảnh đất tương tự để thay thế thửa đất thu hồi Mức giá trị tài sản gắn liền với đất được xác định đầy 1 2 3 4 5 đủ, phù hợp với thực tế MUCBT
2 Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không 1 2 3 4 5 MUCBT
3 được bồi thường về đất được xác định đầy đủ, phù
hợp với thực tế Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi bảo đảm ổn 1 2 3 4 5 định đời sống, sản xuất MUCBT
4 Mức bồi thường bằng tiền trên cơ sở xác định giá trị 1 2 3 4 5 PTBT1 của thửa đất theo giá đất thị trường 1 2 3 4 5 PTBT2 Bồi thường bằng thửa đất có cùng mục đích sử dụng
và các điều kiện tương đương với thửa đất thu hồi 160 Bồi thường bằng nhà đối với trường hợp bị thu hồi 1 2 3 4 5 PTBT3 đất ở/nhà ở để bảo đảm ổn định đời sống Cơ quan nhà nước niêm yết công khai phương án BT, 1 2 3 4 5 TCTH1 HT, TĐC và tổ chức lấy đầy đủ ý kiến của người
dân về phương án BT, HT, TĐC Cơ quan nhà nước cố gắng tiếp thu đầy đủ ý kiến của 1 2 3 4 5 TCTH2 người dân về phương án BT, HT, TĐC; có tổ chức
đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không
đồng ý về phương án BT, HT, TĐC 1 2 3 4 5 TCTH3 Việc thực hiện phương án BT, HT, TĐC đã được phê
duyệt luôn bảo đảm công khai, minh bạch, đúng quy
định của pháp luật 1 2 3 4 5 TCTH4 Cơ quan nhà nước luôn sẵn sàng dành thời gian để
tiếp, giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân
trong quá trình thực hiện phương án BT, HT, TĐC 1 2 3 4 5 TCTH5 Cán bộ làm nhiệm vụ BT, GPMB có trình độ chuyên
môn, năng lực và có tinh thần phục vụ nhân dân
trong quá trình thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất 1 2 3 4 5 Chính quyền địa phương, các tổ chức CT - XH tích
cực tuyên truyền, phổ biến về lợi ích khi Nhà nước TCTH6 thu hồi đất, chia sẻ, vận động người dân thực hiện Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau TĐCS khi thu hồi đất Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, 1 2 3 4 5 TDCS1 ổn định đời sống Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu 1 2 3 4 5 TDCS2 nhập ổn định và tăng hơn trước Điều kiện tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, 1 2 3 4 5 TDCS3 phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước TDCS4 Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước 1 2 3 4 5 161 6. Ông (Bà) cảm nhận như thế nào đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án phục vụ mục đích công cộng và phục vụ mục đích kinh tế? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………................... 7. Ông (Bà) cảm nhận như thế nào khi giá đất trên thị trường tăng sau khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án? …………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………................... 8. Ý kiến khác………………………………………………………………......... …………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………................... Chân thành cảm ơn! 162 Một số vấn đề chung về chế dộ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam Sở hữu đất đai Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật thông qua việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (Quốc hội, 2013). Thu hồi đất Đối với đất đai, do quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân, do Nhà nước là đại diện, vì vậy, khái niệm thu hồi đất gắn liền với sự tồn tại của quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước giao đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai (Quốc hội, 2013). Về bản chất, thu hồi đất chính là việc chuyển quyền sử dụng đất theo một cơ chế bắt buộc thông qua biện pháp hành chính. Việc thu hồi đất có những đặc điểm sau đây: - Xảy ra theo một yêu cầu cụ thể (thu hồi đất do nhu cầu vì lợi ích chung) hoặc trong một hoàn cảnh cụ thể (do vi phạm pháp luật về đất đai; do không còn nhu cầu sử dụng đất). - Việc thu hồi đất phải bằng một quyết định hành chính cụ thể, trong đó phải thể hiện rõ vị trí, diện tích, loại đất bị thu hồi; tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi. Quyết định thu hồi đất được ban hành bởi một cơ quan hành chính có thẩm quyền theo luật định (UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện). - Được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ và được quy định riêng đối với từng trường hợp. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Bồi thường là trả lại cho người khác cái có giá trị (thường bằng tiền) tương xứng với
những thiệt hại mà mình đã gây ra. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng
đất (Quốc hội, 2013). Trong các điều khoản quy định cụ thể, Luật Đất đai năm 2013 có quy định những thiệt hại về nhà ở, công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi trên đất do
việc thu hồi đất gây ra cũng được xem xét bồi thường (Quốc hội, 2013). Tùy từng
trường hợp cụ thể và căn cứ vào nguồn gốc sử dụng đất mà người bị thu hồi đất được 163 bồi thường hoặc không được bồi thường thiệt hại về đất, về tài sản gắn liền với đất:
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và thu hồi đất đối với trường hợp không còn nhu cầu sử dụng đất và đất có nguồn gốc được giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thu hồi đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường; Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai thì không được bồi thường về đất. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp người bị thu hồi đất thông qua các khoản hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ TĐC đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khác. Các khoản hỗ trợ này được hiểu là phần cho thêm của Nhà nước sau khi đã bồi thường sòng phẳng để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển, là khoản điều tiết từ phần giá trị gia tăng từ đất đai mà không phải là do đầu tư của người sử dụng đất mang lại (Quốc hội, 2013; Chính phủ, 2014, 2017). Khác với bồi thường là việc trả lại một cách tương xứng những giá trị bị thiệt hại, thì hỗ trợ mang tính chính sách, trợ giúp thêm của Nhà nước, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với sự hy sinh, mất mát của người bị thu hồi đất cho những lợi ích chung của đất nước, của cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, do việc bồi thường chưa thực sự sòng phẳng nên các khoản hỗ trợ chưa đúng với ý nghĩa mà nó đã được định nghĩa trong Luật Đất đai năm 2013 và trong đa số trường hợp thì nó chỉ là sự bù đắp vào khoảng thiếu hụt do việc bồi thường thiếu sòng phẳng gây ra. Bên cạnh đó, một số khoản hỗ trợ thực chất là bồi thường như là hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ
trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm, vì đây chính là những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra. Tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là các hoạt động
của cơ quan có chức năng dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý
những vấn để cụ thể thuộc trách nhiệm của mình. Việc thực hiện thu hồi đất, BT, HT
phải bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và đúng quy định của pháp luật (Quốc hội, 2013). Theo quy định tại Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; Người sử 164 dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án BT, HT, TĐC. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án BT, HT, TĐC và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức lấy ý kiến về phương án BT, HT, TĐC. Cơ quan có
thẩm quyền thẩm định phương án BT, HT, TĐC trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án BT, HT, TĐC và triển khai thực hiện phương án đã được phê duyệt (Quốc hội, 2013). Tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất là hoạt động khó khăn, phức tạp và dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện, vì hoạt động này liên quan trực tiếp đến lợi
ích của nhiều bên khác nhau: người bị thu hồi đất, Nhà nước và nhà đầu tư. Việc nhà nước thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất, vì vậy nếu trong quá trình thực hiện BT, HT bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ, đúng quy định của pháp luật thì sẽ đem lại cơ hội cho người dân được trực tiếp tham gia ý kiến về phương án BT, HT, TĐC cũng như những vấn đề khác liên quan đến quyền và lợi ích của mình sẽ được người có đất bị thu hồi đồng tình, ủng hộ. Ngược lại, nếu tổ chức thực hiện BT, HT không đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và tuân thủ đúng quy định pháp luật sẽ dẫn đến người dân không đồng thuận, thậm chí có thể khiếu kiện phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư./.Total Variance Explained
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3:
ĐÁNH GIÁ SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
3.1. Sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
3.1.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất
3.1.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất
Cơ cấu %
Điểm
TB
Không có
Có chứng
Từ cao
Mức BT, HT
bằng cấp
chỉ đến
đẳng trở
chứng chỉ
trung cấp
lên
Trung bình
2,30
2,36
2,24
Mức BT, HT
Từ nông,
lâm, ngư
nghiệp
Từ hoạt
động công
việc hưởng
lương
Từ hoạt
động sản
xuất, kinh
doanh phi
nông nghiệp
Trung bình
2,28
2,30
2,32
Miền
Miền
Mức BT, HT
Miền Bắc
Trung
Nam
Trung bình
2,32
2,28
2,30
3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất
3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
Cơ cấu %
Điểm
TB
Phương thức bồi thường
2,35
2,68
2,21
Không có
Có chứng
Từ cao
Phương thức bồi thường
bằng cấp
chỉ đến
đẳng trở
chứng chỉ
trung cấp
lên
Trung bình
2,46
2,38
2,4
Từ hoạt động
Từ hoạt
Từ nông,
Phương thức bồi thường
sản xuất, kinh
động công
lâm, ngư
doanh phi
việc hưởng
nghiệp
nông nghiệp
lương
Trung bình
2,38
2,42
2,43
Miền
Miền
Phương thức bồi thường
Miền Nam
Trung
Bắc
Trung bình
2,34
2,43
2,46
3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất
3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất
3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Điểm
TB
2,56
2,25
2,94
3,19
2,83
2,24
Trung bình
2,8
2,61
2,6
Tổ chức thực hiện BT, HT
Từ nông,
lâm ngư
nghiệp
Từ hoạt động
công việc
hưởng lương
Tự hoạt động
sản xuất, kinh
doanh phi
nông nghiệp
Trung bình
2,64
2,72
2,65
Tổ chức thực hiện BT, HT
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Trung bình
2,71
2,64
2,66
3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi
Nhà nước thu hồi đất
Thay đổi cuộc sống
Từ cao đẳng
trở lên
Không có
bằng cấp
chứng chỉ
Có chứng
chỉ đến
trung cấp
Trung bình
2,67
2,77
2,84
3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
Khác biệt giữa
Std.
(I)
(J)
Sig.
(I) và (J)
Error
Khác biệt
Std.
(I)
(J)
Sig.
giữa (I) và (J)
Error
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4:
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất
4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
4.1.2. Về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
4.1.3. Về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
4.1.4. Về giải pháp ổn định đời sống, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người có
đất bị thu hồi
4.1.5. Về giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai
4.1.6. Về giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn thu từ đất, bảo đảm tiến
độ thực hiện dự án đầu tư và kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất
4.2. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo
4.2.1. Hạn chế của luận án
4.2.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
Estimates (Group number 1 - Default model)
Scalar Estimates (Group number 1 - Default model)
Maximum Likelihood Estimates
Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Stvàardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Covariances: (Group number 1 - Default model)
Correlations: (Group number 1 - Default model)
Variances: (Group number 1 - Default model)
Model Fit Summary
CMIN
RMR, GFI
Baseline Comparisons
Parsimony-Adjusted Measures
NCP
FMIN
RMSEA
AIC
ECVI
HOELTER
PHỤ LỤC 3
II. THÔNG TIN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TT
Diện tích
bị thu
hồi
(m2)
Giá bồi
thường là
bao nhiêu?
(1000đ/m2)
Loại đất
bồi
thường,
hỗ trợ
Hộ gia đình
ông/bà có bị
thanh toán
chậm tiền
bồi thường,
hỗ trợ
không?
Số tiền hỗ
trợ
Triệu
đồng
Trong đó:
Số tiền
bồi
thường
(Triệu
đồng)
Tổng số
tiền hộ
gia đình
nhận
được là
bao
nhiêu?
(Triệu
đồng)
Các yếu tố
Mức độ thỏa mãn
MUCBT Thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ
PTBT Thỏa mãn về phương thức bồi thường
Các yếu tố
Mức độ thỏa mãn
Thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ
PHỤ LỤC 4