HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ NGỌC ANH
NH¢N SINH QUAN PHËT GI¸O TRONG "tRUYÖN KIÒu"
CñA NGUYÔN DU - GI¸ TRÞ Vµ H¹N CHÕ
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN HÙNG HẬU
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Luận án “Nhân sinh quan Phật
giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Giá trị và hạn
chế” là kết quả làm việc, nghiên cứu của riêng tôi. Luận án
đã được tiến hành một cách nghiêm túc. Kết quả của các nhà
nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân thực, cẩn
trọng, có trích nguồn cụ thể trong luận án.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2014
Tác giả luận án
Hồ Ngọc Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
7 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu 7
1.2. Một số vấn đề đặt ra qua các công trình nghiên cứu 25
28 Chương 2: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
2.1. Cơ sở hình thành nhân sinh quan Phật giáo 28
2.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo 39
Chương 3: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU”
59
CỦA NGUYỄN DU
3.1. Khái lược chung về cuộc đời của Nguyễn Du và “Truyện Kiều” 59
3.2. Nội dung Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du 71
Chương 4: MỘT SỐ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN
CỨU NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN
101
KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
4.1. Một số giá trị của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” 101
4.2. Một số hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du 116
4.3. Ý nghĩa việc nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du 126
145
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
150
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập vào
nước ta vào khoảng thế kỷ I. Mặc dù là một tôn giáo ngoại sinh nhưng Phật
giáo đã sớm khẳng định mình và tìm được chỗ đứng vững chắc trong đời
sống tinh thần cũng như trong nhiều hoạt động văn hoá xã hội khác của
người Việt Nam.
Để có thể nhanh chóng xác lập được vị thế của mình trong đời sống xã
hội Việt Nam, tất nhiên bên cạnh việc lựa chọn con đường, cách thức truyền
bá phù hợp với tâm lý, truyền thống của người Việt thì không thể không nhắc
đến nội dung giáo lý của nhà Phật. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả của mình, Phật
giáo đã tạo nên sự khác biệt với những hệ tư tưởng cùng thời được người Hán
truyền bá vào Việt Nam. Nếu như Nho giáo phải mất một thời gian khá dài
khi mà xã hội Việt Nam đã tương đối phát triển mới được trọng dụng thì Phật
giáo ngay từ khi du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng hoà mình vào nền
văn hoá của người bản địa bằng những câu chuyện thần thoại mang tính nhân
văn cao cả (ông Bụt tốt bụng, thương, giúp người lương thiện khi gặp hoàn
cảnh khó khăn…).
Chúng ta biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ
thống thần linh và nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học thuyết
triết học tương đối thâm sâu. Trong những tư tưởng triết học đó, ngoài sự lý
giải về quan niệm sống của con người thì Phật giáo đã dành rất nhiều nội
dung cho những vấn đề liên quan đến con người, đến cuộc đời của con người
(nhân sinh quan).
Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm
trong xã hội và con người Việt Nam đa phần và chủ yếu là những quan niệm
xoay quanh vấn đề về con người và cuộc đời con người (nhân sinh quan).
2
Những quan niệm này cùng với thời gian đã không ngừng thấm sâu vào hành
vi, lời nói, sinh hoạt hàng ngày của người Việt (những quan niệm về thiện ác,
về nhân quả và nghiệp báo, khuyên con người làm lành lánh dữ…). Không
những vậy, nó còn ảnh hưởng tới cả những chuẩn mực xã hội được cộng đồng
thừa nhận, ảnh hưởng đến pháp luật của nhà nước, ảnh hưởng tới văn học
nghệ thuật, tới không gian kiến trúc… của người Việt Nam. Nói cách khác,
Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hoá mang đậm
bản sắc của người Việt Nam.
Trong sự ảnh hưởng của Phật giáo tới văn học nghệ thuật Việt Nam,
chúng ta không thể không nhắc tới một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du, đó là
“Truyện Kiều”. Đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có thể thấy rõ sự khủng
hoảng của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
thấy được cuộc sống của con người (đặc biệt là những người phụ nữ) bị chà
đạp và xâm hại nặng nề.
Với Nguyễn Du, đằng sau câu chuyện về cuộc đời của Thuý Kiều là
những day dứt, những băn khoăn, những niềm mong ước về một cuộc sống
hạnh phúc bình yên của mỗi con người. Có thể cảm nhận được những ảnh
hưởng sâu sắc mà Nguyễn Du đã tiếp nhận từ Phật giáo mà cụ thể là nhân
sinh quan Phật giáo thông qua khái niệm nhân quả, nghiệp báo, tâm… thể
hiện trong cuộc đời của Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh….
Truyện Kiều không chỉ dừng lại là một tác phẩm văn học đơn thuần phản
ánh tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX mà những
vấn đề do nó đặt ra vẫn không hề lạc hậu đối với xã hội Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thị trường đã nảy sinh rất
nhiều các vấn đề liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là các vấn đề về
đạo đức. Đó là sự thống trị của đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết trong lối
sống thực dụng của một số cá nhân. Vì tiền họ sẵn sàng xâm hại các chuẩn
3
mực đạo đức của xã hội, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những hình ảnh Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Khuyển, Ưng…
xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội. Sự xuống cấp và băng hoại về đạo
đức không chỉ diễn ra trong dân chúng mà còn xuất hiện ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ quản lý của nhà nước (giống như hình ảnh những tên quan lại
phong kiến đã trực tiếp hoặc gián tiếp đẩy Thúy Kiều và gia đình của mình
vào khó khăn hoạn nạn) với tình trạng tham nhũng, cửa quyền và vô cảm
trước nhân dân.
Trong Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng
ta đã khẳng định:
Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng
tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức,
lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì
mọi người, mọi người vì mỗi người"; kết hợp hài hòa tính tích cực
cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với
bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt
đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân
văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu;
chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến
xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người [21].
Chính vì vậy, việc phân tích và vận dụng tư tưởng tích cực về đạo đức,
tôn giáo trong các tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, tác phẩm “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du nói riêng để khuyến khích con người làm việc thiện,
tránh xa việc ác, tự chịu trách nhiệm với những hành vi cá nhân của bản
thân… từ đó góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, lành mạnh hơn, hướng
con người đến giá trị chân - thiện - mỹ là việc làm hết sức cần thiết.
4
Với tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn như vậy, nghiên cứu sinh
đã chọn đề tài “Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du - Giá trị và hạn chế” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Phân tích nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
và những giá trị, hạn chế của nó..
2.2. Nhiệm vụ
- Trình bày cơ sở hình thành cũng như nội dung của nhân sinh quan Phật
giáo thể hiện trong quan niệm về nghiệp báo, nhân quả.
- Trình bày và chỉ ra nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nghệp
báo và nhân quả trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
- Chỉ ra những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: luận án giới hạn việc phân tích nhân sinh quan
Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chỉ trên khía cạnh thuyết nhân
quả, nghiệp báo trong “Truyện Kiều”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại
và những giá trị truyền thống của dân tộc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử - cụ thể, hệ thống hóa,
phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê, văn bản học ...
5
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra thì luận án có
sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng chương, mục của luận án, trong
đó, phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất trong luận án. Cụ thể:
- Ở mục 1.1 chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá về tình hình nghiên
cứu của luận án.
- Ở chương 2, tác giả dùng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê để chỉ ra cơ sở hình thành và phát triển của Phật giáo, quan
niệm về nghiệp, nhân quả và luân hồi trong nhân sinh quan Phật giáo.
- Ở chương 3, tác giả dùng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp văn bản học đối với “Truyện Kiều” và tiểu sử Nguyễn Du cùng các quan
niệm về nghiệp báo, nhân quả trong “Truyện Kiều”.
- Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp văn bản học để đưa ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của quan
niệm nhân quả, nghiệp báo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đã khái quát và hệ thống hóa những nội dung cơ bản của nhân
sinh quan Phật giáo gắn với “Truyện Kiều”, cụ thể là những quan niệm về
nghiệp báo, nhân quả và sự tiếp biến của chúng ở Phật giáo Việt Nam.
- Luận án đã chỉ ra được những giá trị và hạn chế của nhân sinh quan
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; ý nghĩa của việc nghiên cứu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần phát huy những giá trị nhân văn của Phật giáo Việt Nam
nói chung, tư tưởng Phật giáo trong văn học, trong “Truyện Kiều” nói riêng.
6
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
dạy những môn học có liên quan đến tư tưởng Triết học (Phật giáo) Việt Nam;
tôn giáo (Phật giáo) ở Việt Nam và văn học Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nhân sinh quan Phật giáo nói chung, quan niệm về nhân quả, nghiệp báo
của Phật giáo trong “Truyện Kiều” nói riêng là những vấn đề đã và đang được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những mức độ và góc độ khác nhau. Có
thể tổng quan thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận án theo những
nhóm sau:
- Những công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo qua quan
niệm về nghiệp báo, nhân quả;
- Những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và
nhân sinh quan (qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả) của Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nhân sinh quan Phật giáo qua
quan niệm về nghiệp báo, nhân quả
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới với một hệ thống các
tư tưởng triết học đồ sộ. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về nhân
sinh quan Phật giáo nói chung và quan niệm về nghiệp báo, luân hồi và nhân
quả nói riêng sau:
- Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch) (1999), Đức Phật và Phật pháp,
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh [78].
Đại Đức Narada Thera là người Sri Lanka, lúc nhỏ ông theo học ở một
trường Thiên chúa giáo (St Benedicts College). Vào năm 18 tuổi, ngài xuất
gia và nhập chúng dưới sự dẫn dắt của vị cao tăng Pelene Vajiranyana. Sau
đó, ông vào học tại trường Đại học Sri Lanka và về sau được bổ làm giảng sư
môn Đạo đức học và Triết học tại trường Đại học này.
8
Đức Phật và Phật pháp là một trong những công trình nổi tiếng của
Narada Thera. Công trình này được chia làm hai phần: Phần một, Narada
Thera đề cập đến Đức phật - bao gồm cuộc đời của Ngài từ khi Ngài sinh ra
cho đến khi Ngài xuất gia tu hành; rồi ngài chiến đấu để thành đạo quả; công
cuộc truyền giáo của Đức Phật… trong phần này, Narada Thera cũng nói về
mối quan hệ giữa Đức Phật và người thân của mình, những người chống đối
Đức Phật và con đường hoằng pháp cũng như cuộc sống hàng ngày của Ngài.
Phần hai là Phật Pháp. Trong phần này, Narada Thera đã phân tích và chỉ
ra đặc điểm của Phật giáo, nội dung của Tứ diệu đế, quan niệm về nghiệp báo,
sự báo ứng, tính chất của nghiệp, thập nhị nhân duyên, những cảnh giới,
chuyển nghiệp lên và chuyển nghiệp xuống, Niết bàn và con đường để đạt
được Niết bàn…
Theo tác giả, những sự chênh lệch về tinh thần, đạo đức, trí tuệ và bẩm
tính, một phần lớn đều tùy thuộc nơi hành động và khuynh hướng của chúng
ta, trong quá khứ và trong hiện tại, tức là nghiệp vậy [78, tr.305].
Tuy nhiên, dù chủ trương rằng nguyên nhân chính tạo nên những sự
chênh lệch trong đời sống là sự khác biệt giữa cái Nghiệp của chúng sinh,
nhưng Phật giáo không quả quyết rằng tất cả đều do nơi Nghiệp. Nói một
cách khác, Nghiệp không phải là một nguyên do duy nhất tạo nên những sự
khác biệt, chênh lệch giữa chúng sinh. Luật nghiệp báo tuy quan trọng nhưng
chỉ là một trong thập nhị nhân duyên trong đời sống [78, tr.305-306].
Ông cũng thừa nhận rằng thuyết nghiệp báo khác với thuyết định mệnh,
thiên mệnh. Ông viết: “chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp số phận của ta.
Chính chúng ta tạo ra ta hay tự tiêu diệt lấy ta, tạo thiên đàng cho ta và cũng
chính ta tạo địa ngục cho ta.
Những gì mà ta nghĩ, nói, và làm là của ta. Chính tư tưởng, lời nói và
hành động là Nghiệp. Và chính nghiệp đưa ta lên hay xuống từ kiếp này sang
kiếp kia mãi mãi trong vòng luân hồi [78, tr.352].
9
- Thích Thiện Siêu, Chữ nghiệp trong đạo Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội,
2002 [69].
Theo tác giả, quan niệm về “định mệnh” và “định nghiệp” thường được
nêu ra cùng với nhau và có liên quan đến thuyết nhân quả của nhà Phật. “Định
mệnh” là một mệnh lệnh thiêng liêng, một sức mạnh vô hình từ đâu không rõ,
nó đặt định cho người này thế này, còn người kia thế kia, phải sao chịu vậy, tự
mình không thể thay đổi được. Còn “định nghiệp” nhìn bề ngoài cũng tương
tự như định mệnh, tức là đã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão.
Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không có quả, hay
có quả mà không bắt nguồn từ nhân sinh ra. Tuy nhiên, luật nhân quả nơi con
người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động.
Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy
quả, ấy là thọ nghiệp quả. Mặc dù vậy, nghiệp không phải là nguyên nhân duy
nhất, nhưng là nguyên nhân chủ yếu của mọi sự sai biệt trên cõi đời này. Nếu
đời sống hiện tại hoàn toàn do nghiệp quá khứ của chúng ta quy định chi phối,
chúng ta không có chút quyền gì can dự thay đổi thì nghiệp cũng sẽ giống như
định mệnh, thiên mệnh, và vấn đề tự do ý chí của con người chỉ còn là hư
danh. Đức Phật không bao giờ nói về một chữ nghiệp cố định như vậy.
Như vậy, theo tác giả, nếu hiểu chữ nghiệp trong đạo Phật một cách đúng
đắn thì “định lý nghiệp” đã không làm cho chúng ta nhụt chí, trái lại, làm cho
chúng ta tự tin hy vọng. Chúng ta thực sự chấp nhận trách nhiệm và can đảm
nhận lãnh khi bị những sự khó khăn gần như không thể vượt qua nổi, hay sự
thử thách không thể kham nổi với ý chí rằng đó là kết quả của những hành
động mình đã gây ra hoặc gần hoặc xa, chứ chúng ta không mù quáng để
buông xuôi hay chịu đựng. Khi đã biết rõ nó do mình gây ra thì cũng do mình
thay đổi chứ không thể cậy ai thay đổi giúp. Khi đó ta sẽ cố gắng lập chí sửa
đổi theo ý chí tự do của mình [69, tr.15].
10
Tất nhiên, chữ nghiệp trong đạo Phật rất sâu rộng và uyên thâm. Vì vậy,
để hiểu rõ hơn về chữ nghiệp, tác giả đã khảo qua chữ nghiệp trong một số
Kinh sách như: kinh Pháp cú; Trung bộ kinh, kinh Phân biệt tiểu nghiệp và
kinh Phân biệt đại nghiệp; kinh Tăng chi; … Thông qua đó, tác giả đã đi vào
làm sáng tỏ nội dung của Nghiệp gồm: thể tính của nghiệp; phân loại nghiệp,
nghiệp và luân hồi…
- Thích Chân Quang, Luận về nhân quả, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005 [60].
Trong cuốn sách này, tác giả Thích Chân Quang cho rằng đối với đạo
Phật, chúng sinh có ba mục đích cần nhắm đến: Một là sống trong luân hồi
bớt đau khổ, có phước bão cõi trời cõi người; Hai là thoát khỏi luân hồi, chấm
dứt sinh tử, có được niết bàn an vui; Ba là giáo hóa cho chúng sinh cùng được
thành tựu trí tuệ giải thoát, gọi là hạnh đạo Bồ tát [60, tr.12].
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được những mục đích đó, đòi hỏi chúng
sinh phải biết nhân quả, biết nhân nào sẽ gặt được quả nào. Lý thuyết nhân
quả là một trong những nền tảng của đạo Phật. Nếu chưa hiểu biết thâm sâu
về lý nhân quả tức là chưa hiểu đạo Phật và chưa thực hành đúng đạo Phật.
Cuốn sách được chia làm hai phần. Phần đầu tác giả đi vào lý giải cách
hiểu và môi trường của nhân quả. Phần hai là một số trường hợp điển hình về
nhân quả gồm: nhân quả thế gian, nhân quả xuất thế gian, nhân quả Bồ tát.
Theo tác giả, nếu chúng ta nhận thức được lý thuyết nhân quả thì sẽ giúp
chúng ta làm chủ được cuộc đời của bản thân mình, sẽ đưa cuộc đời chúng ta
theo ý muốn của chúng ta chứ không phải là một vị thần linh, thượng đế nào
đó quyết định [60, tr.366]. Điều này có giá trị không chỉ trong đạo Phật mà
còn cho cả ngoài đời thường.
- D. J. Kalupahana (Đồng Loại, Trần Nguyên Trung dịch) Nhân quả -
triết lý trung tâm Phật giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2007 [39].
Nội dung chủ yếu của tác phẩm là phân tích bản chất của thuyết nhân
quả Phật giáo được trình bày trong nền văn học cổ điển Pali và kinh điển A -
11
Hàm cũng như những trường phái triết học Phật giáo như Trung quán luận và
Duy thức tông.
Tác giả đã vận dụng phương pháp phân tích, so sánh những điểm tương
đồng và dị biệt giữa các học thuyết Phật giáo và các triết học Ấn Độ cổ đại
trong kinh Vê-đa và Upanisad, cũng như các học thuyết định mệnh của trường
phái phi Vê-đa mà điển hình là phái Kỳ na giáo (Jainism). Thông qua đó, làm
nổi bật điểm đặc sắc của nhân quả Phật giáo về phương diện trách nhiệm và
giá trị đạo đức trong bối cảnh đời sống xã hội hiện tại và tương lai.
Vì vậy, tác giả đã chia công trình của mình thành 9 chương gồm:
Chương 1: Những thuyết nhân quả trước Phật giáo (theo truyền thống của
kinh Vê-đa - phái chính thống); Chương 2: Những thuyết nhân quả trước Phật
giáo (theo truyền thống không Vê-đa - phái phi chính thống); Chương 3: Làm
sáng tỏ một số thuật ngữ liên quan đến thuyết nhân quả; Chương 4: Quan
niệm về pháp; Chương 5: Nguyên lý và hiệu lực nhân quả; Chương 6: Giải
thích hiện hữu bằng nhân quả; Chương 7: Các phát triển về sau; Chương 8:
Duyên: một mặt khác của phát triển; và Chương 9: Kết luận.
Nhìn chung, công trình đã cho thấy các học thuyết nhân quả tiền Phật
giáo dù rất đa dạng nhưng có thể được chia làm ba nhóm chính. Nhóm thứ
nhất chủ trương “tự nhân quả”, cho rằng Phạm Thiên (Brahman) là nguyên
nhân đầu tiên của mọi nguyên nhân, nguyên nhân do ta tự tạo, vượt khỏi tính
tương thuộc của mọi sự vật hiện tượng.
Như một kết quả kéo theo tất yếu, ai chủ trương có một thượng đế tự
nhân quả sẽ chấp nhận học thuyết “tha nhân quả”. Tha nhân quả là khái niệm
chỉ cho tất cả mọi tạo thành vốn là tất cả mọi sự vật hiện tượng, bao gồm cả
thời gian và không gian, đều là vật thu tạo của thượng đế dưới hình thái tự
nhân quả. Hậu quả tiêu cực của học thuyết tha nhân quả là người chủ trương
sẽ dễ dàng chấp nhận học thuyết định mệnh, bản tính không dời, hành động
12
cũng như mọi diễn tiến của con người trong thực tại đã được sắp xếp từ trước
và không thể thay đổi được.
Trái ngược với Tự và tha nhân quả là nhóm thứ hai với quan niệm về
Không tự và không tha nhân quả, là học thuyết phủ nhận các hình thức nhân
quả, chủ trương thuyết bất định hoặc ngẫu nhiên luận.
Tác giả khẳng định, thuyết nhân quả của Phật giáo (thứ ba) không giống
với hai thuyết trên. Bản chất của mọi sự vật theo Phật giáo không thể tự có
mặt vô nhân, càng không thể là thụ tạo của một cái khác. Tất cả là tập hợp của
nhân và duyên, tồn tại, phát triển và hoại diệt để tạo thành cái khác bằng một
chuỗi tương thuộc của các nguyên nhân [39, tr.VIII].
Ngoài ra còn một số các công trình khác (sách tham khảo, bài đăng trên
các tạp chí khoa học…) cũng ít nhiều đề cập đến nhân sinh quan Phật giáo nói
chung, quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và luân hồi nói riêng như: Diệu
Thanh Đỗ Thị Bình, Đôi điều luận về nhân quả - nghiệp báo, 2009, Tạp chí
Nghiên cứu Phật học, Số 4, tr.40-41. Lưu Thị Quyết Thắng, Thử bàn về nhân
sinh quan Phật giáo qua giáo lý duyên khởi, Tạp chí nghiên cứu Phật học,
2004, Số 5, Tr. 6-10. Mộng Đắc, Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả, Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, 2009, số 4 (70), tr 71 - 74. Văn Xương Đế Quân
(Quảng Tráng lược dịch), Nhân quả báo ứng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2011.
Thích Đạt Ma Phổ Giác, Nhân quả & số phận con người, Nxb Hồng Đức,
2013, Hà Nội. Thích Thiện Hoa, Xây dựng đời sống trên nền nhân quả, nghiệp
và luân hồi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007. Thích Giác Nghiên (s.t) Nhân quả
luân hồi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2009. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không)
(2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
Thông qua những công trình này, tác giả luận án đã bước đầu nhận diện
được khái niệm, nội dung, phân loại và tính chất của các quan niệm về nhân
quả, nghiệp báo, luân hồi của Phật giáo. Đó chính là cơ sở để tác giả luận án
13
khai thác và triển khai vào luận án triết học của mình trong chương 2: Nhân
sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nhân quả, nghiệp báo.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du và nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học được Nguyễn Du viết vào khoảng
những năm đầu của thế kỷ XIX. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu về Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” của ông. Có thể kể đến
những công trình tiêu biểu sau:
- Hoài Thanh, Quyền sống của con người trong truyện Kiều của Nguyễn
Du, Hội văn hoá Việt Nam, 1949 [73].
Theo Hoài Thanh, lý do để ông phải viết cuốn sách này bởi vì trong một
xã hội mới, chúng ta cần phải kiểm điểm lại những giá trị cũ xem cái nào cần
giữ lại, cái nào cần vứt bỏ và cái nào thì để xem xét tiếp… Và một trong
những giá trị cũ cần phải kiểm điểm lại đó là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Với hơn một trăm năm kể từ khi ra đời cho đến nay, “Truyện Kiều” vẫn tiếp
tục được khẳng định và biết đến trong lòng người dân Việt Nam không chỉ là
học Kiều, thuộc Kiều, ngâm Kiều mà cả bói Kiều. Nhưng “Truyện Kiều”
được hoan nghênh nhiều mà cũng bị bài xích nhiều. Số phận “Truyện Kiều”
cũng long đong như số phận nàng Kiều. Kể từ khi nó ra đời, nó chưa bao giờ
được ngồi một chỗ yên ổn. Người khen khen rất mực, người chê chê cũng hết
lời. Vì vậy, cần phải có một sự nhìn nhận cho đúng, cho đủ để trả “Truyện
Kiều” về đúng chân giá trị của nó [73, tr.2].
Tuy nhiên, tác giả cũng tự nhận thấy rằng mình không có tham vọng
xem xét tác phẩm này về tất cả mọi phương diện mà chỉ xét riêng về một vấn
đề căn bản - đó là quyền sống của con người mà thôi.
Để có thể biết thái độ của Nguyễn Du về vấn đề quyền sống của con
người trong “Truyện Kiều”, Hoài Thanh đã đi sâu phân tích hai nhân vật là
14
Thúy Kiều và Từ Hải. Với Thúy Kiều, tác giả nhận xét: “Khi tạo ra nhân vật
Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp và có lẽ cũng là vô tình đòi quyền sống
cho con người trong xã hội phong kiến. Nhưng Nguyễn Du thiếu một ý thức
rõ rệt, một ý chí cương quyết. Nguyễn Du đã không dám theo cho đến cùng
cái khuynh hướng phản phong. Nguyễn Du đã nửa đường lùi bước [73, tr.22].
Với Từ Hải, Nguyễn Du cũng thể hiện giống như Thúy Kiều, có khác chăng
là ở nhân vật Từ Hải, lòng khao khát của Nguyễn Du muốn sống mạnh mẽ, sống
say mê ở ngoài khuôn khổ của xã hội bấy giờ, ta thấy tha thiết hơn sự hoang
mang, luẩn quẩn và thậm chí là bế tắc trong tâm trí của Nguyễn Du [73, tr.34].
Ngoài việc phân tích hai nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải, tác giả Hoài
Thanh cũng đi vào phân tích xã hội phong kiến trong “Truyện Kiều” để có thể
thấy được thái độ, cách nhìn nhận của Nguyễn Du đối với xã hội phong kiến
thời đại ông đang sống. Theo đó, đứng trước xã hội phong kiến, Nguyễn Du
đã thể hiện một thái độ không minh bạch, không dứt khoát vì đầy những mâu
thuẫn. Nguyễn Du đã dựng lên hình ảnh của một xã hội mục nát đến tận
xương. Nguyễn Du thông cảm với nỗi khổ vô cùng của con người bị chà đạp
trong cái cái xã hội mục nát ấy. Nguyễn Du mơ ước được sống mạnh mẽ,
sống phóng túng, được đập phá tan tành như Từ Hải, nhưng Nguyễn Du
không biết đập phá như thế để rồi đi đến đâu. Cái trạng thái nhất thời, Nguyễn
Du tin là vĩnh viễn. Nguyễn Du quy tội cho số mệnh, cho trời. Trong ý
Nguyễn Du, có đập phá cho lắm thì rồi đâu cũng hoàn đó. Trời đã định thế, số
mệnh đã định thế. Cho nên Nguyễn Du cố tiêu diệt cái mộng Từ Hải ở trong
mình để sống cuộc sống tầm thường của những người Nguyễn Du cho là
lương thiện. Nguyễn Du cố cắt xén con người mình cho vừa kích tấc của lối
sống tầm thường nhưng cắt xén mãi mà vẫn không vừa. Lối sống mà Nguyễn
Du cố khép mình vào, trong tâm trí Nguyễn Du, dười ngòi bút Nguyễn Du,
vẫn hiện ra với một khuôn khổ nhỏ nhen với những màu buồn tẻ [73, tr.51].
15
- Trương Tửu, Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (Phê bình văn học),
Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1956 [105].
Cuốn sách được chia làm ba phần gồm: Phần thứ nhất đề cập đến lịch sử
nghiên cứu vấn đề “Truyện Kiều” (chương 1); Phần thứ hai đề cập đến tính
chất chống phong kiến của “Truyện Kiều” (chương 2) và phần thứ ba đề cập
đến thời đại Nguyễn Du và nội dung tư tưởng “Truyện Kiều” (chương 3,
chương 4). Thông qua những nội dung được trình bày, tác giả Trương Tửu
muốn nhấn mạnh rằng toàn bộ đời sống ý thức của Nguyễn Du hình thành
song song với toàn bộ quá trình thành bại của phong trào Tây Sơn. Nguyễn
Du là một nghệ sĩ vĩ đại, vì vậy, không có lý gì mà Nguyễn Du lại không phản
ánh được trong tác phẩm một vài cục diện cốt yếu của phong trào Tây Sơn,
mặc dầu thi sĩ đã quay lưng lại với nó [105, tr.8].
Tác giả Trương Tửu cho rằng “Truyện Kiều” là một tác phẩm văn học cổ
điển tiêu biểu của văn hóa Việt Nam vì bốn lý do:
Thứ nhất, vì “Truyện Kiều” là một tác phẩm dân tộc. Thông qua “Truyện
Kiều”, Nguyễn Du đã nói lên được tinh thần nhân đạo chủ nghĩa bất diệt của nhân
dân Việt Nam. Ông đã đứng về phía các tầng lớp xã hội bị áp bức đang vươn đến
sự giải phóng; đề cao những tinh thần quý giá nhất của con người như tự do, công
bằng, nhân đạo. Ông cũng lên án kịch liệt một chế độ bóc lột đè nén con người và
tiêu diệt tài tình, nhân đạo, công bằng và tự do. Nói cách khác, Nguyễn Du đã đập
vỡ cái mặt nạ mỹ miều, siêu hình che giấu một chân tướng hung ác, tội lỗi của bọn
“phụ mẫu chi dân”, của lũ con buôn, bịp bợm, của trời, Phật, của số mệnh, của
ông Tơ bà Nguyệt - của toàn bộ bè lũ thống trị bóc lột và áp bức trong xã hội
phong kiến. Tiếng nói của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là tiếng nói của chính
nghĩa, của dân tộc Việt Nam nhân đạo và dũng cảm [105, tr.206].
Thứ hai vì “Truyện Kiều” có tính đại chúng. “Truyện Kiều” đã được sáng
tạo theo lập trường và nhãn quan của quảng đại nhân dân đang tiến lên con
16
đường giải phóng. Tác giả cho rằng, với nhãn quan thiên tài, Nguyễn Du đã
nhìn thực tại xã hội theo con mắt của quần chúng, đánh giá mọi người, mọi
quan điểm theo con mắt của quần chúng - đó chính là hành động chống phong
kiến để giải phóng những lực lượng sản xuất của dân tộc đang bị kìm hãm,
đem lại tự do, hạnh phúc và bình đẳng cho những con người đang quằn quại
trong sự áp bức của xã hội phong kiến đương thời [105, tr.206].
Thứ ba vì “Truyện Kiều” đạt tới một nghệ thuật tính cao độ. Trong
“Truyện Kiều”, cách sáng tạo và kết cấu những nhân vật, cách xây dựng
những hình ảnh, cách miêu tả những cảnh vật vừa có tính cách tạo hình vừa
súc tích tình cảm, cách vận dụng âm thanh của ngôn ngữ và nhịp điệu của lời
nói, cách phô diễn trong sáng, gọn gàng, điều độ và chính xác, cách Việt hóa
những điển tích mượn của nước ngoài… đều đã chứng tỏ rằng Nguyễn Du am
hiểu đến ngọn ngành lối cảm nghĩ, phô diễn của nhân dân còn lưu lại trong
kho tàng văn thơ truyền khẩu [105, tr.210].
Thứ tư vì “Truyện Kiều” còn có tác dụng tốt trong hiện tại. Ngày nay,
“Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” bổ ích của đại chúng. Đọc “Truyện
Kiều”, chúng ta vẫn học tập được lòng căm thù của Nguyễn Du đối với những
chế độ xã hội bóc lột và đè nén con người. Nhà thơ vẫn truyền được cho
chúng ta lòng khao khát, thiết tha tự do, công bằng và nhân đạo [105, tr.212].
Tóm lại, theo tác giả, với bốn yếu tố trên, “Truyện Kiều” thật xứng đáng
được mệnh danh là một tác phẩm cổ điển tiêu biểu của văn học Việt Nam. Nó
kết tinh được truyền thống văn học tiến bộ của dân tộc đã được biểu hiện
trong văn chương truyền khẩu của nhân dân. Nó tập hợp một cách có sáng tạo
tất cả những nét tinh hoa của các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam xuất
hiện trước đó [105, tr.213].
- Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
Thanh niên, Hà Nội, 2003 [58].
17
Đây là công trình tiêu biểu của GS. Phan Ngọc nghiên cứu về “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du. Với những giá trị khoa học mà nó đem lại, công trình
của ông đã được tặng giải thưởng nhà nước về văn hóa Việt Nam năm 2000.
Trong công trình này, Phan Ngọc đã cố gắng làm rõ và chỉ ra phong cách
riêng có hoàn toàn của Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều”. Ông viết: “Trong
việc nghiên cứu Nguyễn Du chúng ta đã đạt được nhiều thành tích. Đặc biệt
trong các công trình nghiên cứu “Truyện Kiều”, có một số thuộc loại xuất sắc
đã nghiên cứu công phu về các mặt tư tưởng, ngôn ngữ, nghệ thuật của tác
giả, và đã đóng góp phần tích cực vào lý luận phê bình của chúng ta. Song riêng
mặt phong cách của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”, tuy đã có những bài viết
đáng chú ý đề cập đến một vài đặc điểm của phong cách nhà thơ, nhưng nhìn
chung chưa có một công trình ngôn ngữ học về toàn bộ phong cách Nguyễn Du
trong “Truyện Kiều” [58, tr.5]. Và vì vậy, theo ông, muốn nghiên cứu phong cách
Nguyễn Du phải làm nhiều việc. Thứ nhất, phải xây dựng lại các khái niệm của
môn phong cách học. Thứ hai, phải tìm ra được những đặc điểm tiêu biểu của
thiên tài Nguyễn Du về mặt nội dung không lặp lại ở người khác. Thứ ba, tiếp
cận tác phẩm một cách hình thức và chứng minh chính hình thức tác giả lựa
chọn là thích hợp nhất để diễn đạt nội dung này [58, tr.7].
Trên cơ sở đó, tác giả Phan Ngọc đã chia công trình của mình thành chín
nội dung chính gồm: Chung quanh vấn đề tư tưởng của “Truyện Kiều”; Phương
pháp tự sự của Nguyễn Du; “Truyện Kiều”, tiểu thuyết phân tích tâm lý; Một
vài vấn đề nhận thức luận chung quanh “Truyện Kiều”; Cách bố cục “Truyện
Kiều” theo yêu cầu của kịch; Câu thơ “Truyện Kiều”; Ngôn ngữ “Truyện Kiều”;
Ngữ pháp “Truyện Kiều”; Phong cách học và phân tích văn học.
Để có thể thực hiện được những nội dung đó, Phan Ngọc đã không xem
xét “Truyện Kiều” một cách cô lập (như tự nhận xét của tác giả) mà cố gắng
áp dụng nhất quán những thao tác sau:
18
Thứ nhất, xét tần số lặp đi lặp lại của một hiện tượng. Một hiện tượng
phải lặp đi lặp lại đến một tần số nhất định mới được chú ý đến. Đó là vì
phong cách là sự lặp đi lặp lại của một chùm những nét khu biệt.
Thứ hai, sau khi rút ra những nét khu biệt, Phan Ngọc xem xét chúng
qua hai trục lịch sử và thời đại. Xem qua trục lịch sử để xem những nét khu
biệt đó có phải là mới hay không. Nếu những nét này đã có, đã quen thuộc
trong lịch sử, thì tức là nó không tiêu biểu cho Nguyễn Du. Chỉ những yếu
tố mới, sáng tạo đối với lịch sử thì mới được bóc tách và thừa nhận. Khi cái
nét được tách ra là mới đối với lịch sử, tác giả sẽ khảo sát nó theo trục thứ
hai, trục thời đại tác giả - tức là xem xét nó trong mối quan hệ với thời đại.
Qua sự xem xét “Truyện Kiều” với thời đại Nguyễn Du, chúng ta sẽ thấy
những cách nhìn chung giữa Ông và thời đại của mình. Và theo Phan Ngọc,
ông cũng gạt bỏ luôn cả những gì chung cho thời đại với Nguyễn Du. Đó là
vì cống hiến nghệ thuật ở đây dẫu sao cũng chưa thực sự là của tác giả.
Qua sự đối lập này Phan Ngọc đã rút ra những đóng góp riêng của tác giả
“Truyện Kiều” mà thời đại không đạt được, cái đã tạo nên sự thiên tài trong
tác phẩm của Nguyễn Du [58, tr.12-13].
- Lê Nguyên Cẩn, Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, Nxb Thông
tin và Truyền thông, 2011 [6].
Trong công trình này, tác giả cho rằng “Truyện Kiều” không chỉ đơn
thuần là một câu chuyện về một con người , một cuộc đời, một số phận mà nó
trải rộng ra với một tấm lòng, một cốt cách, một tinh thần Việt Nam. “Truyện
Kiều” tạo ra cách nhìn dân tộc, làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người
Việt Nam, làm say đắm lòng người độc giả mỗi thời đại [6, tr.3].
Để có thể hiểu sâu hơn nữa, làm sáng tỏ hơn nữa những giá trị tinh thần
mà tác phẩm này đem lại, tác giả Lê Nguyên Cẩn đã tiếp cận và nghiên cứu
“Truyện Kiều” dưới góc độ văn hóa. Theo tác giả, dưới góc độ văn hóa thì tác
19
phẩm văn học là một trong những kết tinh cao nhất văn hóa của một dân tộc.
Vì vậy, tác giả đã “xác lập các mô hình thế giới được tạo ra trong tác phẩm để
từ đó làm nổi bật thân phận và diện mạo của nhân vật Thúy Kiều. Từ đó điểm
lại những thăng trầm chìm nổi của nhân vật trong bể trầm luân suốt mười lăm
năm. Rồi từ đó đưa ra nhận xét về một tấm lòng nhân hậu mang vẻ trẻ đẹp vị
tha, thuần Việt xuyên suốt chiều dài tác phẩm” [6, tr.4].
Với sự khu biệt ấy, tác giả cho rằng “Truyện Kiều” là một sự tổng hợp
của bốn mạch truyện gồm: Mạch thứ nhất là câu chuyện tình yêu đầy éo le,
trắc trở (tình là dây oan) giữa Thúy Kiều và Kim Trọng; Mạch thứ hai là cuộc
chiến giữa tài sắc và xã hội, giữa thế giới các mỹ nhân và thế giới các tiện nhân.
Kiều nổi lên trước hết là sắc đành đòi một tài đành họa hai mà hại thay mang
lấy sắc tài làm chi. Mạch kể này cũng cho thấy cuộc đụng độ giữa những thành
kiến xã hội và những con người tài hoa trong xã hội đó. Mạch thứ ba là xung đột
giữa tài và mệnh (tài mệnh tương đố). Mạch thứ tư liên quan đến thân mệnh
tương đố đi liền với chữ thân (Đã mang lấy nghiệp vào thân; làm cho cho hại
cho tàn cho cân). Các mạch truyện này được đan lồng vào nhau, tạo ra tính chất
tầng tầng lớp lớp, tạo ra tính chất phức hợp cho tác phẩm này [6, tr.258].
Tuy nhiên, như tác giả đã tự nhận xét, tiếp cận “Truyện Kiều” từ góc
nhìn văn hóa là một vấn đề lớn, hàm chứa nhiều khó khăn, không dễ giải
quyết trọn vẹn ngay một lúc, một thời. Công trình của chúng tôi cũng chỉ
dừng ở mức độ khởi đầu với những thu hoạch qua sự cảm nhận bước đầu về
tác phẩm nổi tiếng này. Bảo vệ văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập là
một việc làm không đơn giản. Muốn vậy trước hết, phải không ngừng nâng
cao dân trí, mở mang trí tuệ và hiểu biết cho con người về di sản văn hóa của
cha ông và của nhân loại. Từ đó dẫn đến việc tăng cường dân khí, tạo ra bản
lĩnh và niềm tin dân tộc. Tìm hiểu nghệ thuật “Truyện Kiều” từ góc nhìn văn
hóa cũng không ngoài những nhiệm vụ trên [6, tr.4-5].
20
Ngoài ra còn một số các công trình khác (sách tham khảo, bài đăng
trên các tạp chí khoa học…) cũng đề cập đến “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du như: Trịnh Bá Đĩnh (2002), Nguyễn Du - Về tác giả và tác phẩm, Nxb
Giáo dục [24]; Mai Phương Chi (tuyển soạn), Truyện Kiều và lời bình /
Nguyễn Khắc Viện, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh..., Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội, 2005 [10]; Ngô Quốc Quýnh, Thử tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua
truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010 [68]; Nguyễn Quảng Tuân, Tìm
hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000 [98];
Trần Nho Thìn, Cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong Truyện Kiều,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (tr 25-40) [84], số 6 (tr 17-40), 2004
[85]; Lịch sử đánh giá nhân vật truyện Kiều, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,
số 11 2006, tr 33 - 37 [86]; Đỗ Lai Thúy (2005), Nhìn lại nguyễn Du và
Truyện Kiều: Kỷ niệm 240 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du. Tạp chí
Xưa và Nay, Số 249, tr.9-10 [89]; Nguyễn Du và Truyện Kiều dưới cái nhìn
của phê bình văn hoá lịch sử, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 11, 2006, tr
38 - 43 [90].
Thông qua những công trình này, tác giả luận án đã phần nào nắm được
thân thế, sự nghiệp và thời đại mà Nguyễn Du sống. Đồng thời tác giả cũng
phần nào hiểu thêm về nội dung của “Truyện Kiều”, cũng như những đánh
giá, nhận định khác nhau về “Truyện Kiều” và xã hội phong kiến đương thời
(dù ở nhiều các khía cạnh và góc độ tiếp cận khác nhau). Trên cơ sở những
nhận định và đánh giá ấy, tác giả triển khai tìm hiểu và đánh giá “Truyện
Kiều” dưới góc độ triết học của mình.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du thì cũng đã có những công trình (dù chưa nhiều) nghiên cứu về nhân sinh
quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Nếu có thì chủ yếu dưới
những nội dung riêng lẻ, rời rạc). Có thể kể đến:
21
- Huyễn Ý, Truyện Kiều qua cách nhìn của người học Phật, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2006 [111].
Theo tác giả, lý do để nhìn nhận và viết cuốn sách này dưới góc độ của
người tu hành là vì Nguyễn Du đã mượn những vần thơ để nói về những vấn
đề của con người trong cuộc sống, cùng cách thoát khỏi vòng luẩn quẩn khổ
đau để cõi lòng được trong lặng, thong dong [111, tr.6]. Tác giả cũng cho rằng
Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” để nói lên sự chuyển biến tâm linh theo tư
tưởng Phật giáo chứ không phải như nhiều người nghĩ rằng ông viết “Truyện
Kiều” để giãi bày sự thăng trầm trong chính cuộc sống của ông.
Với kinh nghiệm sống, tình thương, sự thấu đạt Phật lý, Nguyễn Du đã
chuyển Kim Vân Kiều truyện - Một tập truyện tình bình thường của Thanh
Tâm Tài Nhân - thành một Đoạn Trường Tân Thanh mang đậm tính dân tộc
Việt Nam. Ngoài tính dân tộc ra, theo tác giả, “Truyện Kiều” còn có diệu
nghĩa thâm sâu của Phật pháp.
Tác giả cho rằng, Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng với hình ảnh
một con người tài sắc tuyệt vời (hiện thân những tinh hoa của con người) - đó
chính là cách mà Nguyễn Du muốn ám chỉ đến cái tâm chân thật (chân tâm)
[111, tr.32]. Theo tác giả, cái tâm chân thật từ xưa đến nay vốn thanh tịnh,
sáng suốt như nhiên, ngay nơi cảnh động ồn náo mà vẫn thanh tịnh, chứ
không phải đợi cảnh tịnh thì nó mới tịnh. Cảnh thì có động, có tịnh, còn cái
tâm tánh ấy xưa nay chưa từng động thì cũng chẳng nói là tịnh, vì động và
tịnh là hai tướng đối đãi thay nhau. Chân tâm xưa nay chưa lúc nào rời chúng
ta, do vì lầm nhận thức tình hư vọng mà quên lửng, nay chỉ cần nhận lại là hết
khổ [111, tr.39-40].
Theo đó, tác giả muốn nhấn mạnh rằng những người học Phật cần có
lòng tin để rồi từ đó nhận ra cái tâm chân thật có sẵn trong mỗi người (như
Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”) và họ sẽ
22
có đủ sự tự tin không mê lầm vọng chấp thân và tâm thức mà phải gây tạo ra
vô vàn trói buộc khổ đau.
“Truyện Kiều” không chỉ nói về cái tâm chân thật, mà còn đề cập đến
những nguyên nhân của sự đau khổ của con người. Những nguyên nhân này
không chỉ hiện hữu ở hiện thực mà còn tồn tại ở nhiều thế hệ khác nhau. Tác
giả đã lấy ví dụ ở ba nhân vật làm tượng trưng cho tâm ba thời (quá khứ, hiện
tại và vị lai) hư vọng nơi con người chúng ta và cũng vạch ra cội nguồn phát
sinh những nỗi khổ của con người bởi từ tâm ba thời này là Đạm Tiên, Kim
Trọng và Mã Giám Sinh [111, tr.75].
Theo đó, đau khổ ở đây là do mê lầm, không sáng suốt, ở trong đau khổ
mà chẳng biết cách thoát ra chứ không phải khổ vì hoàn cảnh hay thân đau
bệnh… Cái khổ này không phải chỉ ở nơi Kiều, mà nó có ở tất cả mọi người.
Kinh Phật có viết: “cái khổ không phải do đói rét, con trâu con ngựa kéo cày,
kéo xe chưa gọi là khổ, mà cái khổ là do con người bị vô minh che đậy không
biết lối ra mới thật là khổ”. Vì nỗi khổ do đói rét, con trâu, con ngựa kéo cày,
kéo xa hay bị đọa Ngạ quỷ, địa ngục chịu cảnh uống nước đồng sôi… vẫn có
ngày hết nghiệp để ra khỏi cảnh khổ ấy. Còn trong vô minh (mê lầm không
biết lẽ Phật pháp) mà chẳng hề hay biết thì không hiểu chừng nào mới thoát
khỏi cảnh khổ? [111, tr.74-75].
Cuốn sách cũng đề cập nhiều về những hình thức biểu hiện của sự khổ
đau (bát khổ) cũng như những phương tiện để giải thoát những nỗi khổ ấy
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Cuối cùng, tác giả kết luận: “Truyện
Kiều” quả là một kiệt tác, từ hình thức thi văn đến nội dung ý nghĩa, từ việc tả
cảnh và người cùng ý tứ rất tuyệt vời mà tác giả khéo mượn nhân vật Thúy
Kiều trong từng tình tiết để diễn đạt về sự chuyển hóa tâm linh. Theo đó, mọi
sự hình thành đời sống đều nằm trong luật nhân quả, nghiệp báo và luân hồi.
Con người tự cột trói (nghiệp) thì phải tự tháo cởi chứ không ai có thể làm
23
thay mình được. Tất cả hình thức, phương tiện và thiện tri thức chỉ trợ duyên
đánh thức để nội tâm ta bừng tỉnh, là điều kiện thiết yếu gợi cho ta tỉnh giấc.
Có thức tỉnh rồi mới cảm thương những ai đang mê muội đắm chìm trong
đêm tối - đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Do đó Nguyễn Du không ngại
gian lao soạn ra những vần thơ nói lên khúc đoạn trường của đời người qua sự
thấy biết của mình để gửi gắm lại cho hậu thế. Chính vì vậy, đọc “Truyện
Kiều” phải biết nhìn lại tận thân tâm mình thì mới thấy cái hay thâm thúy mà
tác giả đã phô diễn trong ấy [111, tr.283-284]
- Thích Nhất Hạnh, Thả một bè lau, Nxb Văn hóa Sài gòn, Tp Hồ Chí
Minh, 2009 [31].
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ với rất
nhiều sách và bài viết về Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng
đã được xuất bản ở Việt Nam và trên thế giới. Trong số các tác phẩm đó,
không thể không kể đến cuốn sách “Thả một bè lau”. Đây là một cuốn sách
tác giả nghiên cứu và phân tích nội dung “Truyện Kiều” với tư cách là một
thiền sư dưới góc nhìn của Phật giáo.
Trong cuốn sách này, Thích Nhất Hạnh không phân tích “Truyện Kiều”
theo trình tự nội dung của nó (như thông thường) mà chia nội dung của
“Truyện Kiều” thành những phần có liên quan đến thiền học trong Phật giáo
như: Phần 1: Hành trang; Phần 2: Bèo dạt mây trôi; Phần 3: Hạnh phúc chân
thật; Phần 4: Tan sương đầu ngõ, Phần 5: Chánh niệm và nẻo thoát.
Với cách tiếp cận như vậy, Thích Nhất Hạnh đã cho thấy rằng “Truyện
Kiều” không chỉ là câu chuyện mà Nguyễn Du kể về thân phận chìm nổi và
truân chuyên của Thúy Kiều, mà hơn thế nữa, nó chính là thân phận và cuộc
đời đầy biến cố của chính Nguyến Du. Ông viết: “Khi viết “Truyện Kiều”, cụ
Nguyễn Du đã sống trong da thịt của nhân vật Kiều, đã trở thành một với
Kiều, cụ đã nói được tâm sự của chính mình” [31, tr.5].
24
Và thậm chí, Theo Thích Nhất Hạnh, nếu chúng ta (người đọc “Truyện
Kiều”) có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc và gian truân của mình ra
để đọc “Truyện Kiều” thì chúng ta sẽ thấy được bản chất của cuộc đời, thấy
được hình bóng của chính chúng ta trong đó [31, tr.5].
Trong quá khứ, đã có rất nhiều sự đánh giá khác nhau, thậm chí đối
nghịch nhau về nội dung của “Truyện Kiều”. Có nhà Nho đã liệt “Truyện
Kiều” vào loại dâm thư, vì trong truyện có tả đời sống của một cô gái bán
dâm. Những nhà Nho ấy có thể đúng về phương diện đạo đức của Nho giáo
nhưng nếu dùng con mắt quán chiếu của một thiền sư mà nhìn vào cuộc đời
của Thúy Kiều, chúng ta có thể học được bài học của khổ đau và kinh
nghiệm. Nếu biết cách đọc, chúng ta có thể học được rất nhiều từ “Truyện
Kiều” như học từ một cuốn kinh. Và “Truyện Kiều” sẽ không phải là dâm thư
mà là kinh điển, đọc “Truyện Kiều” với con mắt quán chiếu tức là chúng ta
đang tu tập. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình
bằng con mắt quán chiếu [31, tr.5-6].
Để nói nên những tư tưởng Phật giáo trong “Truyện Kiều”, Thích Nhất
Hạnh viết: “Ngày xưa tôi cũng đã từng dạy văn chương Việt Nam và đã dạy
“Truyện Kiều”. Nhưng tâm của tôi lúc đó không được như bây giờ. Tôi đã dạy
với tư cách một giáo sư văn chương mà chưa bao giờ dạy với tư cách một
thiền sư. Nhìn với tư cách một thiền sư là nhìn sâu, nhìn kỹ, nhìn bằng sự
khám phá của thiền quán mọi sự kiện qua nhận thức, đau khổ, hạnh phúc,
thành công, thất bại và qua sự tu học của mình. Nhìn như vậy trong khi đọc
lại Truyện Kiều ta có thể thấy được những điều rất mới” [31, tr.7].
Ngoài ra còn một số các công trình khác được xuất bản dưới dạng các
bài báo khoa học cũng ít nhiều đề cập đến nhân sinh quan Phật giáo (quan
niệm về nghiệp báo, nhân quả, luân hồi) trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
như: Lê Văn Quán, “Góp phần tìm hiểu triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều”,
Tạp chí Hán Nôm, Số 5(102) 2010 (tr.56-66) [64].
25
Nhìn chung, những công trình này chưa đi sâu vào tìm hiểu sự ảnh
hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du, mà chỉ tiếp cận ở những góc độ chung như: quan niệm về sự
đau khổ, nguồn gốc của sự đau khổ, thiền, sự giải thoát…. Đôi chỗ các tác
phẩm có nói đến nghiệp báo và nhân quả, nhưng còn thực sự chưa rõ nét và
chưa được tiếp cận dưới góc độ triết học.
Trên cơ sở đó, tác giả đã kế thừa và phát triển nội dung của luận án dưới
góc độ triết học để tìm hiểu sâu về quan niệm nhân quả, nghiệp báo của Phật
giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Nhìn chung trong thời gian gần đây, đã có nhiều công trình tiến hành
nghiên cứu tư tưởng nhân sinh quan, thế giới quan của Phật giáo nói chung,
những quan niệm về nghiệp, nhân quả và luân hồi nói riêng. Tuy nhiên, chủ
yếu những công trình này đề cập đến những nội dung trên dưới góc độ văn
hóa, tôn giáo học, lại gắn với những câu chuyện mang tính huyễn hoặc như:
- Những kinh sách nhà Phật viết về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi.
- Những câu chuyện về nhân quả, nghiệp báo và luân hồi trong cuộc sống
- Sự đúng đắn (trong cuộc sống thực tại) của thuyết nhân quả, nghiệp báo…
Bên cạnh đó, số lượng các công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du cũng rất nhiều, nhưng chủ yếu dưới góc độ ngôn ngữ, văn học và
nghệ thuật hay những công trình viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn
Du cùng với “Truyện Kiều”.
Với tình hình như vậy, tác giả nhận thấy rằng cần có sự tiếp cận và
nghiên cứu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du dưới góc độ triết học theo lát cắt
Phật học để chỉ ra được những ảnh hưởng của quan niệm nghiệp báo, nhân
quả Phật giáo đối với nội dung của “Truyện Kiều”. Muốn làm được điều đó,
luận án cần phải đặt ra và giải quyết được những vấn đề sau:
26
- Một là: cần phải khái lược lại những quan niệm về nhân quả, nghiệp
báo, luân hồi của Phật giáo, để từ đó làm công cụ tiếp cận và giải quyết vấn
đề thứ hai.
- Hai là: cần phải chỉ ra được tư tưởng về nhân quả, nghiệp báo của Phật
giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thông qua cuộc đời của Thúy Kiều
cũng như sự xuất hiện của các nhân vật khác trong “Truyện Kiều” như Kim
Trọng, Đạm Tiên, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Giác Duyên,
Bạc Bà, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến…
- Ba là: Dưới góc độ triết học, tác giả luận án cần phải có những đánh giá
về giá trị và hạn chế của những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Tiểu kết chương 1
Nội dung tư tưởng nhân sinh quan của Phật giáo cũng như những giá
trị tư tưởng của tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cùng với vấn đề
nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã và đang
được khá nhiều các tác giả nghiên cứu dưới những góc độ tiếp cận khác
nhau. Thông qua việc khảo cứu và phân loại những công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài thành hai nhóm: Những công trình nghiên cứu về
nhân sinh quan Phật giáo qua quan niệm về nhân quả, nghiệp báo; những
công trình nghiên cứu về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và nhân sinh
quan (qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả) của Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du, nghiên cứu sinh có thể khẳng định rằng
cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về nhân sinh quan
Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du một cách có hệ thống dưới
góc độ triết học khi chỉ ra những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả của
Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng như những giá trị,
27
hạn chế và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Với thực trạng tình hình nghiên cứu đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài
“Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du” làm đề tài
nghiên cứu là không trùng lặp và có tính mới so với các công trình khoa học
trước đây đã công bố.
28
Chương 2
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
2.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành nhân sinh quan Phật Giáo
Phật giáo là một trong số các học thuyết triết học - tôn giáo lớn trên thế
giới, được hình thành vào khoảng thế kỷ VI (TCN) ở Ấn Độ cổ đại. Giáo lý
và tư tưởng của Phật giáo khá đa dạng và phong phú, nhưng về cơ bản thì nội
dung của tư tưởng Phật giáo chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề con người
và đời sống của con người, chỉ ra những đau khổ và cách thức hóa giải những
đau khổ đó. Câu hỏi được nhiều nhà nghiên cứu đặt ra là tại sao Phật giáo lại
nói về sự đau khổ của con người trong cuộc sống và cách thức để tiêu diệt sự
đau khổ ấy, hay nói cách khác, tại sao Phật giáo lấy cái khổ của con người
làm vấn đề trọng tâm trong hệ tư tưởng của mình?
Trong tác phẩm Về vấn đề nhà ở, Ăngghen viết: “Quan điểm duy vật về
lịch sử dùng những điều kiện sinh hoạt vật chất, những điều kiện kinh tế của
một thời kỳ lịch sử nhất định để giải thích tất cả những sự biến đổi và những
khái niệm lịch sử, chính trị, triết học, tôn giáo” [52, tr.379]. “Bản thân tôn
giáo tự nó không có nội dung, các cội nguồn của nó không phải ở trên trời,
mà là trên mặt đất” [54, tr.603]. Theo cách lý giải duy vật lịch sử đó của các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác thì khi muốn tìm hiểu và giải thích về nội
dung hay lý giải về sự hình thành, biến đổi hay phát triển của tôn giáo, triết
học, chính trị cần phải tìm ở trong những điều kiện sinh hoạt vật chất mà
trong đó chúng đang tồn tại và phát triển, chứ không phải là ở trong những
khái niệm trừu tượng hay những yếu tố mang tính tinh thần.
Vì vậy, để có thể hiểu được lý do mà hệ tư tưởng Phật giáo đặt ra và
hướng đến chủ yếu là vấn đề đau khổ của con người và sự giải thoát khỏi
29
những đau khổ ấy thì trước hết phải tìm lời giải trong đời sống kinh tế - xã hội
của Ấn Độ thời kỳ cổ đại.
Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V (TCN), trong thời kỳ này, mặc
dù nền kinh tế tự nhiên của công xã nguyên thủy chiếm ưu thế nhưng do sự
phát triển của sản xuất, của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự
phân hoá và mâu thuẫn giai cấp, đẳng cấp hết sức sâu sắc. Do đặc điểm về kết
cấu xã hội mà sự phân hoá này gắn chặt chẽ với sự phân hoá đẳng cấp, làm
cho sự phân hoá đẳng cấp, giai cấp thêm sâu sắc và khắc nghiệt. Về cơ bản,
thời kỳ này có các đẳng cấp sau:
+ Đẳng cấp Brahmana: là những tăng lữ, tu sĩ Bàlamôn - là những người
hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp. Đẳng cấp Brahmana được coi là có vị trí
thần thánh cao nhất trong xã hội.
+ Đẳng cấp Kshatriya: gồm vua quan cai trị và tầng lớp chiến binh: đây
là đẳng cấp làm nhiệm vụ quản lý và duy trì trật tự xã hội, mặc dù vậy vẫn
chịu sự chi phối của tầng lớp tăng lữ.
+ Đẳng cấp Vaishyas: gồm dân tự do - những người làm nông nghiệp,
buôn bán, thợ thủ công. Dân tự do ở Ấn Độ cũng như ở các nước trong khu
vực châu Á khác với dân tự do ở các nước phương Tây vì ở các nước này, dân
tự do là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội chứ không phải là tầng lớp nô
lệ. Đẳng cấp dân tự do có nhiệm vụ lao động sản xuất ra của cải vật chất để
cung cấp vật phẩm cho xã hội; Ngoài ra, họ còn có nghĩa vụ nộp sưu thuế và
đi lính cho nhà nước.
+ Đẳng cấp Shudra: gồm những chiến binh bại trận trong các cuộc chiến
tranh, những người ở tầng lớp trên bị phá sản…. không còn tư liệu sản xuất,
đứng ngoài tổ chức công xã. Đây là đẳng cấp thấp nhất, nô lệ ở phương Đông
nói chung, Ấn Độ nói riêng không phải là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã
hội mà chỉ đóng vai trò giúp việc trong gia đình, làm các công việc hầu hạ,
30
phục dịch cho các đẳng cấp trên. Họ bị coi là loại “tài sản hai chân” thuộc
quyền sở hữu của chủ nô như những thứ tài sản khác. Do vậy chủ nô có thể
đem bán hoặc trao đổi như một loại gia súc ở trong nhà. Họ phải phục vụ cho
đẳng cấp trên một cách vô điều kiện, không được kêu ca, oán thán, họ cũng
không được tham gia vào các nghi lễ tôn giáo ngoài những khu vực thờ riêng
cho đẳng cấp của họ.
Ngoài ra, còn đẳng cấp Paria là con cháu của những người có đẳng
cấp khác nhau mà vẫn lấy nhau. Người thuộc đẳng cấp Paria bị coi là hạng
người cùng đinh, hạ đẳng, đáng nguyền rủa nhất của xã hội. Họ là những
người làm những nghề bị coi là thấp hèn, không trong sạch và ô uế như: đồ
tể, thợ thuộc da, phu đòn đám ma… Luật Manu nói rằng họ phải sống ở rìa
làng và ở cuối hướng gió để các đẳng cấp khác khỏi nhiễm sự xú uế do họ
mang lại. Họ phải ăn bằng những bát mẻ và dùng những thứ giống như chó
và lừa… [11, tr.45].
Để bảo vệ cho sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt trong xã hội, Kinh
Veda cho rằng: loài người được chia làm hai loại: Arya: cao quý, thiện;
Dasya: thấp hèn, ác. Hay lý giải rằng: “Thần sáng tạo Brahman đã tự phân
thân thành 4 đẳng cấp: miệng thần là đẳng cấp tăng lữ, hai vai thần là đẳng
cấp quý tộc; hai bắp đùi thần là đẳng cấp dân tự do; hai bàn chân thần là đẳng
cấp nô lệ” [11, tr.40]. Còn bộ luật Manu thì viết: “Ưu tú nhất trong mọi sinh
vật là loài động vật, ưu tú nhất trong loài động vật là giống vật có lý tính, ưu
tú nhất trong giống vật có lý tính là loài người, ưu tú nhất trong loài người là
người Bàlamôn” [11, tr.41]. Luật Manu cũng quy định rằng tất cả mọi thứ tồn
tại trong vũ trụ này đều là sở hữu của người Bàlamôn, dân chúng phải nuôi họ
hoặc riêng từng người hoặc chung sức nhau cùng nuôi họ.
Sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt ở Ấn Độ còn thể hiện ở những quy
định về quan hệ hôn nhân hết sức khắt khe. Pháp luật nghiêm cấm người ở
31
các đẳng cấp khác nhau kết hôn với nhau, nếu cố tình vi phạm thì con cái do
họ sinh ra sẽ bị đẩy xuống đẳng cấp Paria.
Trong sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày, các đẳng cấp thấp thường bị phân
biệt đối xử rất nặng nề. Chẳng hạn: nếu người Bàlamôn không may bị một
người thuộc tầng lớp thấp hèn giẫm lên cái bóng của mình thì người Bàlamôn
phải thanh tẩy mình bằng cách nhịn ăn và tắm nước thánh suốt cả ngày hôm
đó. Còn đẳng cấp nô lệ thì không được tham gia các cuộc hội họp, không
được tham gia và hưởng lễ vật của các buổi tế lễ, thậm chí họ không được
khiêng, không được sờ vào người Bàlamôn đã chết. Họ cũng không được mặc
quần áo kiểu dáng đẹp mà phải mặc kiểu dáng tối và màu sắc xỉn tối. Họ cũng
không được đặt những tên biểu hiện sự cao quý, hùng tráng hay thanh lịch,
mà phải đặt những tên thể hiện sự thấp hèn, ngu dốt.
Sự bất bình đẳng này còn được thể hiện trong pháp luật. Chẳng hạn, bộ
luật Manu quy định: kẻ nào có ý định đánh người Bàlamôn thì sẽ bị đẩy
xuống địa ngục 100 năm; nếu thực sự đánh người Bàlamôn thì sẽ bị đẩy
xuống địa ngục 1000 năm. Một người thuộc đẳng cấp nô lệ giết một người
cũng thuộc đẳng cấp của anh ta thì có thể được tha tội nếu nộp 10 con bò cái;
nếu giết người thuộc đẳng cấp dân tự do thì phải nội 100 con bò cái mới được
tha tội, còn nếu giết người thuộc tầng lớp quý tộc thì phải nộp phạt 1000 con
bò cái mới được tha tội. Nhưng nếu họ giết một người Bàlamôn thì không có
cách gì chuộc tội được, nhất định phải bị xử tội chết. Còn tăng lữ Bàlamôn
nếu có phạm tội dù có nặng đến đâu đi nữa thì vua cũng không có quyền xử
tội chết mà chỉ có quyền đầy đi một nơi khác mà vẫn được giữ nguyên tài sản
vì họ coi tầng lớp Bàlamôn là người thần [11, tr.46].
Như vậy, có thể thấy rằng, chế độ phân biệt đẳng cấp ở xã hội Ấn Độ là
hết sức đặc biệt, nó không chỉ được giáo lý đạo Bàlamôn biện hộ mà còn
được pháp luật của nhà nước bảo vệ. Nó không chỉ là sự phân biệt về địa vị,
32
sang hèn hay giàu nghèo, mà còn là sự phân biệt về màu da, chủng tính, nghề
nghiệp, tôn giáo, chế độ hôn nhân, quan hệ giao tiếp và cả quan niệm về sự
trong sạch… thể hiện trong đời sống hàng ngày. Chính vì sự khắc nghiệt này
đã thúc đẩy các đẳng cấp thấp chống lại đẳng cấp cao, nhất là chống lại đẳng
cấp Bàlamôn với mong muốn xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa các giai tầng trong
xã hội.
Với những đặc thù về kinh tế - xã hội như vậy nên nội dung chủ yếu
Phật giáo là những vấn đề thuộc về nhân sinh quan (những quan niệm về cuộc
sống của con người, về hạnh phúc và đau khổ mà con người đang phải trải
qua, về đẳng cấp và sự bất bình đẳng đang ràng buộc con người, xã hội Ấn
Độ cổ đại lúc đó) chứ không phải là những vấn đề thuộc thế giới quan. Như
Đức Thích-Ca-Mầu-Ni đã nói: "Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như
nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra
không phải đã mang sẵn trong bào thai vòng dây ở cổ tay hay dấu ti-ca trên
trán” [107, tr.115].
2.1.2. Cơ sở tư tưởng cho sự hình thành nhân sinh quan Phật giáo
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại luôn
gắn liền với những thành quả của khoa học, tư tưởng và tôn giáo đã và đang tồn
tại trong xã hội lúc bấy giờ. Các hệ tư tưởng ra đời sau luôn chịu sự ảnh hưởng
và có tính kế thừa các tư tưởng của các học thuyết và trào lưu tư tưởng trước đó.
Phật giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng ra đời trên cơ
sở kế thừa những tư tưởng triết học đương thời như: Samkhuya; Yoga; Nyaya;
Mimansa; Vedanta. Đây còn gọi là những trường phái triết học chính thống
(tức là thừa nhận tính đúng đắn tuyệt đối của Vêda).
Thứ nhất, trường phái triết học Samkhuya, đây là trường phái triết học
xuất hiện vào khoảng trước thời kỳ Phật tổ ra đời, nó thường được nhắc đến
trong các bộ kinh Phật và trong bản anh hùng ca cổ Ấn Độ. Tư tưởng triết học
33
căn bản của Samkhuya là dung hòa tư tưởng của phái mình với thuyết nhất
nguyên, và thừa nhận “tinh thần vũ trụ tối cao”, hay đấng sáng tạo tối cao là
nguyên lý duy nhất sang tạo vũ trụ trong Veda, Upanishad.
Trả lời câu hỏi làm sao để con người thoát khỏi cảnh khổ đau, nghiệp
báo, luân hồi, Samkhuya cho rằng: muốn giải thoát, con người cần nhận thức
rằng chỉ có cơ thể, ý thức và “cái ngã” của ta là tan hợp, hợp tan, còn cái bản
thể của ta khác với “cái ngã”, với cơ thể và ý thức của ta, nó là “tinh thần
thuần túy” và phổ quát, tuyệt đối, bất diệt, thanh khiết, không thiện, không ác,
không buồn, không vui. Muốn vậy, phải hiểu được thực chất nguyên lý cấu
tạo của vũ trụ vạn vật [11, tr.147].
Triết học Samkhuya cũng quan niệm rằng việc con người tự ý thức về
mình, về “cái tôi” ấy là nghiệp thân. Nghiệp thân có hai loại: loại thứ nhất ở
trong 11 cơ quan của thân thể gồm: năm cơ quan cảm giác (mắt, mũi, tai, lưỡi,
thân) và năm cơ quan hành động (cuống họng, tay, chân, cơ quan bài tiết, cơ
quan sinh dục), cùng cơ quan thứ 11 là ý thức.
Loại nghiệp thân thứ hai là do các yếu tố tinh tế, tế vi trong cơ quan hành
động của con người mà thành, gồm: thanh duy (thanh năng) cùng tính chất
với không khí của ngoại giới; xúc duy (xúc năng) đồng tính chất với gió của
ngoại giới; sắc duy (thị năng) đồng tính chất với lửa của ngoại giới, vị duy (vị
năng) đồng tính chất với nước của ngoại giới và hướng duy (khứu năng) đồng
tính chất với đất của ngoại giới [11, tr.146].
Thứ hai, trường phái triết học Yoga. Đây là một trong sáu trường phái
triết học chính thống ở thời kỳ cổ điển. Phái Yoga chủ trương phổ biến đường
lối giải thoát theo phương pháp riêng của mình, gọi là Yoga (Du già). Người
theo Yoga gọi là Yogi và người đắc quả, giải thoát là Muni.
Yoga theo tiếng Phạn có nghĩa là “liên kết” hay “hợp nhất tâm thể về
một mối”. Theo nguồn gốc, nó là cái ách, cột vào sự tu luyện khổ hạnh theo
34
giới luật mà người tu hành tự chấp nhận để tinh thần trút hết được mọi ràng
buộc với nhục thể, để linh hồn tinh thần trở nên trong sạch, thanh tịnh và đạt
được một sự hiểu biết trực giác sáng suốt và năng lực siêu nhiên, thể nhập vào
đấng tối cao. Vật chất, nhục thể là nguồn gốc của vô minh và đau khổ. Do
vậy, phải giải thoát linh hồn khỏi mọi ảnh hưởng của giác quan, mọi ràng
buộc với nhục thể, đạt được sự đại giác tối cao bằng cách trong kiếp này gột
rửa hết mọi tội lỗi của linh hồn trong các kiếp trước [11, tr.153].
Thứ ba, trường phái triết học Nyaya. Nyaya là một trong những trường
phái triết học thuộc hệ thống của Ấn Độ cổ đại với quan điểm về bản thể luận
và nhận thức luận là những nội dung chủ yếu và đóng vai trò quan trọng của
trường phái triết học này.
Theo Nyaya, thế giới vật chất và tất cả các sự vật, hiện tượng của nó đều
được cấu thành từ bốn yếu tố là đất, nước, lửa, gió. Nhưng những bộ phận cấu
thành đầu tiên của các thực thể đất, nước, lửa, gió tồn tại trong không khí
(ete) và thời gian là những hạt nhỏ khác chất mà người ta gọi là anu - hay là
những nguyên tử. Nguyên tử là thành tố nhỏ nhất cấu tạo nên thế giới, chúng
có đặc tính là không biến đổi, không bị tiêu diệt và tồn tại vĩnh viễn. Những
nguyên tử phân biệt với nhau không chỉ ở chất lượng mà còn ở khối lượng và
hình dạng [11, tr.160].
Trả lời cho câu hỏi “nguyên nhân của nỗi khổ là gì?”, trường phái Nyaya
cho rằng: nguồn gốc của nỗi khổ chính là do linh hồn bất tử luôn bị trói buộc,
vây hãm của những thực thể vật chất hay thân xác của con người với những ý
chí, dục vọng khiến con người sa vào “tham, sân, si, dục, ái”, thúc đẩy con
người ta hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những dục vọng ấy. Điều này
đã gây nên những hậu quả, nghiệp báo, giam hãm linh hồn bất tử vào vòng
ám muội của những nguyên tử hay nhục thể, không trở về với chân bản tính
thanh khiết, tuyệt đối, vĩnh viễn của mình được. Muốn giải thoát khỏi nỗi
35
khổ, con người cần phải tu luyện trì giới, thiền định, xóa bỏ vô minh, mê lầm
đã tạo ra nghiệp. Từ đó sẽ đạt được sự giác ngộ.
Trường phái triết học thứ tư ảnh hưởng đến sự hình thành nhân sinh qua
Phật giáo là Mimansa. Mimansa là trường phái triết học do triết gia Jaimini
(khoảng thế kỷ II, TCN) sáng lập. Nội dung của trường phái này tập trung vào
việc nghiên cứu, biện luận, khai thác mặt nghi thức, quy tắc tế tự cũng như
những luật lệ, nghĩa vụ xã hội tôn giáo được quy định trong kinh Veda.
Để nghi thức hóa những luật lệ, những quy tắc tế tự một cách chặt chẽ và
có hệ thống như những pháp quy, trường phái Mimansa chú trọng vào biện
luận về chữ “pháp” (dharma) được quy định trong kinh Veđa. “Pháp” là
những nguyên tắc làm cơ sở căn bản cho những quan niệm về nghi thức và
đường lối thực hành tổ chức tế tự được ghi trong kinh Veda. Cho nên “pháp”
có giá trị tối cao trong giáo lý đạo Bà la môn. Với ý nghĩa về mặt hình thức
tổ chức tế lễ, theo “pháp” cần phải định rõ cấp bậc, vị trí, chức năng của các
đấng thần linh mà thực hành nghi lễ cho đúng. Trường phái Mimansa cũng đề
cập đến hai bản nguyên cấu thành nên vũ trụ là bản nguyên vật chất và bản
nguyên tinh thần. Nhưng phái Mimansa cũng cho rằng “tinh thần thế giới vô
ngã” Brahman là nguyên thể duy nhất, tuyệt đối, tối cao sáng tạo và chi phối
vạn vật trong thế giới. Linh hồn cá biệt Atman chỉ là hiện thân của “linh hồn
vũ trụ tối cao” trong mỗi chúng sinh. Do đó, về bản chất, Atman là đồng nhất
với Brahman, nhưng vì Atman biểu hiện trong mỗi thân xác cụ thể của chúng
sinh có cảm giác, ý chí, dục vọng nên nó đã bị những cảm giác, dục vọng ấy
lôi kéo sa đọa vào thế giới vật dục, che lấp đi bản chất bản nhiên, thanh khiết
vốn có của mình.
Vì vậy, để có thể giải thoát hoàn toàn linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể
xác và thế giới vật dục là không thể đạt được, không thể lý giải được bằng tri
thức, trí tuệ thuần túy, mà phải bằng việc giữ nghiêm giới luật và thực hành
36
cho đúng mọi quy tắc, luật lệ và nghi thức tế tự được quy định trong kinh
Veda [11, tr.174].
Thứ năm, triết học Vedanta. Vedanta là học thuyết triết học tôn giáo có
ảnh hưởng rất lớn trong hệ thống triết học chính thống ở Ấn Độ cổ đại, ra đời
vào khoảng thế kỷ thứ III - IV (TCN) từ phong trào tổng thuật, chú giải, khai
thác mặt triết lý có tính chất trừu tượng của kinh Veda và kinh Upanishad.
Triết lý căn bản nhất của Veda và Upanishad mà Vedanta lấy làm cơ sở
cho học thuyết triết học của mình đó là tư tưởng cho rằng bản chất sâu xa của
mọi cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ trụ nảy sinh và hòa nhập về với nó khi
tiêu tan, đó là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman. Brahman là thực thể duy nhất,
tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, vô hình, không thể nắm bắt, không màu sắc, không
mắt, không tay, không chân, ở khắp cả và không thể đụng chạm, không có cái gì
không có nó… Brahman là nguồn sáng của mọi nguồn sáng, là nguồn sống, là
linh hồn của vũ trụ. Linh hồn cá biệt chỉ là sự hiện thân của Brahman trong mỗi
chúng sinh. Cho nên, về bản chất, Brahman và Atman là đồng nhất. Chỉ có điều
do Atman thể hiện ở trong mỗi thân xác con người với cảm giác, ý chí, dục vọng
nên con người ta lầm tưởng rằng Atman là khác với Brahamn. Những hành động
của con người nhằm thỏa mãn ý chí dục vọng của mình đã gây nên nghiệp báo,
luân hồi, làm cho linh hồn con người vốn thanh tịnh, trở nên lu mờ, ám muội,
phải lặn lội trôi dạt trong thế giới phù du, đầu thai vào hết kiếp này sang kiếp
khác, hết thân xác này đến thân xác khác [11, tr.177-178].
Vì vậy, theo trường phái Vedanta, con người muốn giải thoát khỏi mọi sự
ràng buộc của thể xác và nhục dục đối với linh hồn thì phải đưa linh hồn cá
thể (Atman) trở về đồng nhất với linh hồn vũ trụ tối cao (Brahman).
Trên cơ sở kế thừa nội dung những tư tưởng triết học trên, Phật giáo đã
xây dựng nhân sinh quan của mình với nội dung cơ bản xoay quanh quan
niệm về nhân quả, nghiệp báo và luân hồi.
37
2.1.3. Đức Phật - người hình thành nên nhân sinh quan Phật giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời thơ ấu là một thái tử tên Siddhantha (Tất
Đạt Đa), Ngài giáng sinh vào ngày 15-4 năm 624 TCN tại vườn Lumbini
(Lâm tỳ ni) cách thành Kapilavastu (Ca tỳ la vệ) khoảng 15 km. Song thân
của Ngài là Quốc Vương Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng Hậu Màya (Ma
da) thuộc dòng dõi Sakya (Thích Ca). Vua Suddhodana trị vì một Vương
Quốc nằm ven sườn dãy núi cao ngất trời Himalaya thuộc phía đông bắc Ấn
Độ, thủ phủ là Kapilavastu, nay là Nêpan.
Thái tử Siddattha được nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn diện cả về lĩnh
vực văn chương và võ thuật. Vừa tròn bảy tuổi Thái tử đã được học các môn
học đương đại như Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh
và Nội minh. Về đạo học, Thái tử đã học đươc bốn Thánh điển Veda. Nhìn
chung, trong truyền thuyết thì cuộc sống của Thái tử trong thời kỳ này là rất xa
hoa, luôn được đáp ứng mọi yêu cầu về vật chất. Thế nhưng dường như vẫn có
một thứ gì đó thôi thúc Thái tử, khiến Ngài thường có những tâm trạng không
thoải mái khi sống trong một điều kiện đầy đủ nhất về vật chất như vậy.
Theo truyền thuyết, lý do dẫn đến bước ngoặt trong cuộc đời Thích ca là
4 cuộc gặp gỡ ở bốn cổng thành. Tại cổng Đông của hoàng cung, người gặp
một cụ già còm cõi, Người bèn hỏi phu xe: “Này phu xe, ngươi có nhìn thấy
ông cụ đầu bạc, lưng gù, mắt loà, chân yếu đang phải chống gậy đi đường kia
không? Liệu có phải đến bây giờ ông cụ mới biểu hiện thành như thế hay là
vận mệnh của ông cụ lúc sinh ra đã như vậy rồi?; Tại cổng Nam, Người gặp
một người bệnh tật thân gầy, bụng ỏng, chân tay như cành củi khô, miệng rên
rỉ. Người hỏi phu xe “Tại sao người đó lại trở nên như vậy? Trên thế gian này
chỉ có mình ông ta hay mọi người đều không tránh khỏi bệnh tật?”; Một lần
khác, khi ra cổng Tây, Ngài gặp một xác chết. Người lại hỏi phu xe: “Con
người tại sao lại phải chết?”. Lần đầu tiên trong đời, đức Phật thấy rằng già
38
yếu, bệnh tật và cái chết là tất yếu sẽ đến với tất cả mọi người, không phân
biệt già trẻ, nam nữ, sang hèn. Bất kỳ ai khi sinh ra cũng sẽ phải già đi, bị
bệnh tật và cuối cùng là cái chết. Từ đó Người kết luận rằng “Con người sinh
ra thật là khổ”, làm sao con người có thể sống yên vui được. Mọi chúng sinh
trên thế gian này đều bị sự ngu si ám hoặc bao trùm. Mọi người đâu có biết
bệnh tật, tuổi già và cái chết luôn luôn rình rập và có thể bất thần kéo đến.
Vậy mà họ lại cứ đi tìm sự sung sướng của ngũ dục mơ hồ. Cuối cùng khi đi
ra cổng Bắc, Ngài thấy một người đàn ông tu hành đi ngang qua và rồi từ đó,
Người quyết định noi gương vị tu sĩ ấy xuất gia để cứu khổ cho mọi người -
lúc đó người mới 29 tuổi.
Trong sáu năm đầu, Ngài chọn hình thức tu ép xác, sống khổ hạnh trong
rừng sâu. Tuy nhiên, sau sáu năm tu luyện đó, Người vẫn không đạt được sự
yên tĩnh trong tâm hồn và cũng không nhận ra chân lý. Người thấy rằng cả
cuộc sống no đủ về vật chất, thoả mãn về dục vọng lẫn cuộc sống khổ hạnh ép
xác đều không thể tìm ra được chân lý, đều là lầm lạc bởi vì cuộc sống thứ
nhất là cuộc sống tầm thường, vô tích sự, nó chỉ đưa con người đến chỗ tham
ái. Còn cuộc sống thứ hai cũng không giải thoát được con người, không thu
được kết quả gì ngoài thân thể gầy mòn, tiều tuỵ, tâm thần tán loạn.
Từ đó ông bỏ con đường tu khổ hạnh và tự tìm cho mình một con đường
riêng. Đó là con đường Trung đạo, theo đó, Người không quá coi trọng cuộc
sống đề cao vật chất nhưng cũng không quá xa lánh và loại bỏ cuộc sống vật
chất ấy. Sau khi từ bỏ con đường tu khổ hạnh trên núi, Ngài xuống sông tắm
rồi ngồi thiền tại gốc cây Bồ đề. Sau bốn chín ngày ngồi thiền, Đức Thích ca
đã tìm ra được chân lý Tứ diệu đế - như là một nguyên lý để giải thoát con
người khỏi nỗi khổ.
Như vậy, dù cuộc đời của Đức Phật chỉ mang tính truyền thuyết, nhưng
những yếu tố cũng phần nào cho ta thấy rằng cái mà Đức Phật quan tâm hàng
39
đầu và muốn hướng đến chính là việc giải thoát con người khỏi sự đau khổ,
bất hạnh - vấn đề thuộc về nhân sinh quan chứ không quá sa đà vào những
vấn đề thuộc siêu hình học bởi vì nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước
biển. Kinh A Hàm có đoạn: “Này các vị, đừng thắc mắc rằng thế giới này là
hữu hạn hay vô hạn, cõi đời này là hữu cùng hay vô cùng, thì điều các vị phải
thừa nhận trước hết vẫn là: cuộc đời đang đầy rẫy những khổ đau…” [107,
tr.113]. Và Đức Phật cũng khẳng định rằng: “Này các đệ tử, ta nói cho mà
biết: nước ngoài bể khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy đây cũng chỉ có
một vị là giải thoát” [107, tr.113].
2.2. NỘI DUNG NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
Cũng giống như nhiều trào lưu triết học Ấn Độ cổ đại cùng thời, Phật
giáo ngay từ khi mới ra đời đã luôn hướng nội dung triết học của mình đến
những vấn đề nhân sinh chứ không quá tập trung vào vấn đề bản thể luận (thế
giới quan). Giống như một người bị thương vì một mũi tên độc, bạn bè thân
thích đưa đến một ông thầy giải phẫu, nhưng anh ta nói: ta sẽ không để cho
rút mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên
họ hắn là gì; hắn ta to, bé hay trung bình; hắn ta từ đâu tới; ta sẽ không cho rút
mũi tên này ra trước khi biết nó là loại cung nào, dây cung và mũi tên làm
bằng gì, đầu nhọn mũi tên được làm như thế nào? Nếu cứ đòi hỏi như vậy,
con người này sẽ chết mà không hề biết những điều đó. Cuộc sống của con
người không phụ thuộc vào những câu hỏi kiểu như vậy. Chúng là vô ích,
không dẫn chúng ta đến giải thoát. Việc cấp bách là cứu khổ cũng giống như
việc giải phẫu lấy mũi tên thuốc độc cắm trên thân thể con người chứ không
phải những vấn đề siêu hình trừu tượng mà hết đời này sang đời khác cũng
không giải quyết nổi [32, tr.266].
Trong tư tưởng triết học của Phật giáo, nhân sinh quan là những quan
niệm về con người và cuộc đời con người mà hạt nhân của nó chính là Tứ
40
diệu đế và thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi. Với những quan niệm ấy,
Phật giáo phủ nhận vai trò quyết định của một vị thượng đế tối cao đến sự
hình thành cũng như cuộc sống của con người. Theo đó, Phật giáo cho rằng
con người nói riêng, giống hữu tình nói chung được hình thành theo luật nhân
quả, nghiệp báo.
Trong quá trình phát triển của mình, Phật giáo đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm khác nhau, từ Phật giáo nguyên thủy đến Phật giáo Đại thừa,
rồi các tông phái Phật giáo khác nhau, nhưng về cơ bản thì vấn đề nhân sinh
quan của Phật giáo không thay đổi nhiều, vẫn xoay quanh vấn đề về sự đau
khổ của con người và cách thức để giải thoát con người khỏi những đau khổ
đó trong cuộc sống.
Với cách hiểu như vậy về nhân sinh quan Phật giáo, có thể thấy rằng, nội
hàm và ngoại diên của khái niệm này là rất rộng. Nhưng trong khuôn khổ luận
án này chỉ giới hạn ở những khía cạnh liên quan mật thiết với “Truyện Kiều”,
cụ thể là thuyết nhân quả và nghiệp báo.
Khi Phật giáo vào Việt Nam, vấn đề nhân sinh quan cũng có sự thay đổi.
Sở dĩ như vậy là bởi Phật giáo khi vào Việt Nam đã có sự kết hợp giữa nhiều
hệ phái Phật giáo và tín ngưỡng bản địa với nhau như: sự kết hợp giữa Thiền
tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Nho giáo, Lão giáo, tín ngưỡng bản địa. Điểm
nổi bật rõ nhất của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam chính là tinh thần nhập
thế. Đối với người Phật tử Việt Nam, tu Phật không có nghĩa là xa rời gia
đình, làng xóm, xã hội để chỉ chuyên tâm vào việc tụng kinh, niệm phật trong
chùa. Tu hành là phải gắn với nhân sinh, với xã hội. Thậm chí khi đất nước bị
xâm lăng thì nhà sư cũng sẵn sàng lên ngựa ra chiến trường giết giặc để bảo
vệ Tổ quốc. Họ không chấp vào giới luật sát sinh để mà nhìn giặc ngoại xâm
giày xéo và tàn sát đồng bào của mình mà sẵn sàng giết một người (vi phạm
giới luật) mà cứu muôn người. Trong trường hợp này đánh giặc cũng là thiền.
41
Người Việt có câu: Dù xây chín cấp phù đồ/ Không bằng làm phúc cứu cho
một người để nói về việc giết một người mà cứu muôn người của Phật tử Việt
Nam. Còn nhà sư Thiện Chiếu đã viết:
“Phật giáo thị nhập thế nhi phi yếm thế
Từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh”
(dịch nghĩa: Đạo Phật là nhập thế chứ không phải yếm thế
Từ bi là sát sinh để cứu độ chúng sinh) [32, tr.400].
Quan niệm của Thiện Chiếu nói riêng, Phật giáo Việt Nam là hoàn toàn
khác so với Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Có lẽ đây chính là sự
sáng tạo (bản địa hóa) của Phật giáo Việt Nam. Như GS Nguyễn Hùng Hậu đã
nhận xét: “Phải chăng đóng góp của Phật giáo Việt Nam là đã tìm ra một con
đường mới vừa tương đối cụ thể, thiết thực, rõ ràng, vừa tương đối ngắn, để đi
đến giác ngộ? Lịch sử Phật giáo từ trước tới nay theo một khía cạnh nào đó có
thể nói là lịch sử ngày càng rút ngắn con đường đến Niết bàn. Hơn nữa, trong
Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông (Việt Nam), khi đã giác ngộ thì con người
hoàn toàn không bị trói buộc bởi bất cứ cái gì, mọi chấp thủ bị vỡ tung ra, họ
tự do, tự tại, vô tâm, vô ngại, vô bổ úy, không chú tâm, không thiên chấp, do
đó không còn tạo nghiệp [32, tr.397].
Về cơ bản, nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam nhìn trên những nét đại
thể như quan niệm về con người, về cuộc đời con người vẫn giữ lại những nét
cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo nói chung mà không có sự thay đổi lớn
về chất. Điểm khác biệt là nó có sự hỗn dung giữa Nho, Phật, Lão và tín
ngưỡng bản địa. Sự khác biệt này còn được làm rõ nét hơn khi chúng ta phân
tích nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
2.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong thuyết nghiệp báo
Phật giáo cho rằng, con người được sinh ra không phải do một đấng sáng
tạo hay một phép màu nhiệm nào ở ngoài nó cả, mà theo quy luật nhân duyên,
42
luân hồi mà thành. Theo đó, con người hiện tại chính là kết quả của những
hành động tạo nghiệp của họ trong kiếp trước, và những hành động của họ
trong kiếp hiện tại sẽ lại là nguyên nhân để kiếp sau của họ hình thành. Cứ
như vậy, vòng luân hồi được quay mãi chừng nào nghiệp còn tồn tại.
“Nghiệp”, tiếng Phạn là “Karman”, tiếng Pàli là “Kamma”, theo Từ điển
Tôn giáo của Mai Thanh Hải có nghĩa là làm, là hành động về thân, khẩu, ý
một cách ý thức và trách nhiệm [30, tr.429]. Còn theo tự điển Từ Nguyên thì:
Điều mình tạo ra làm cái nhân (hạt) để sau chịu lấy cái quả (trái) gọi là
nghiệp. Nghiệp nói cho đủ là nghiệp báo. Định nghĩa tột cùng của Nghiệp là
Tác ý (cetana) [dẫn theo 71].
Nghiệp, theo quan niệm của Phật giáo, là hành vi hay hành động có tác
ý. Theo đó, tất cả những hành động có tác ý, dù biểu hiện bằng thân, khẩu,
hay ý, đều tạo nghiệp. Tất cả những hành động có tác ý, thiện hay bất thiện,
đều tạo nghiệp. Những hành động không có chủ tâm (không tác ý, vô ý), mặc
dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không tạo nghiệp.
Kinh Phật có viết: “Nầy hỡi các Tỳ Khưu, Như Lai xác nhận rằng chính
Tác ý là nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động, bằng thân, khẩu hay ý” [8,
tr.415]. Tuy cho rằng tất cả những hành động có tác ý đều sinh ra nghiệp,
nhưng Phật giáo lại lý giải rằng những hành động của chư Phật và chư vị A La
Hán không còn tạo nghiệp nữa, bởi vì các vị đã thoát ra ngoài cái lành và cái
dữ, đã tận diệt vô minh và ái dục là hai nguồn gốc của nghiệp. Kinh Tam Bảo
có ghi rằng: "Mầm giống (Khina-bija) đã bị tận diệt, những ham muốn vị kỷ
không còn khởi sinh".. Lý giải như vậy không có nghĩa là chư Phật và chư vị
A La Hán sống một cách thụ động mà trong lý giải của Phật giáo, các vị luôn
luôn tích cực hoạt động để tạo an lành hạnh phúc cho chúng sinh. Hành động
của các vị, thường được coi là thiện, không có năng lực tạo nghiệp. Bằng
hành động của mình, các vị phá tan mọi nguyên nhân trói buộc chúng sinh
trong vòng luân hồi và những chuỗi dài nhân, quả.
43
Trong sự giải thích về nghiệp thì tâm (tác ý, có ý thức) là yếu tố đóng vai
trò quan trong nhất. Bởi vì đối với Phật giáo, tất cả những việc làm, lời nói và
tư tưởng đều do tâm gây ra. Kinh Pháp Cú có câu:
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình [108].
Nghiệp không đơn giản chỉ là những hành động trong quá khứ, mà nó bao
trùm cả quá khứ và hiện tại. Hay nói một cách khác, mặc dù hiện tại là kết quả
của quá khứ và là nguyên nhân của tương lai, nhưng chúng ta phải hiểu rộng ra
rằng hiện tại của chúng ta không hoàn toàn được quyết định bởi quá khứ của
chúng ta và cũng như vậy, tương lai của chúng ta cũng không hoàn toàn bị quyết
định bởi hiện tại của chúng ta. Trong sự biến hóa vô cùng phức tạp của nghiệp,
ta không thể nhìn vào hiện tại mà quả quyết quá khứ và khẳng định tương lai.
Đức Phật có dạy:
Không trên trời, giữa biển
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn được quả ác nghiệp [108].
44
Kinh A Hàm có ghi lại câu chuyện đối đáp giữa Đức Phật và các học trò
của mình để nói về nghiệp như sau:
"Tỷ như có một người kia sớt một muỗng muối vào bát nước. Nầy hỡi
các Tỳ khưu, các thầy nghĩ như thế nào? Nước trong bát có thể trở nên mặn
và khó uống không?
- Bạch Đức Thế Tôn, có.
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì nước trong bát thì ít mà cho vào một muỗng
muối thì phải mặn.
- Bây giờ, tỷ như người kia đổ muỗng muối ấy xuống sông Hằng
(Ganges), nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ sao? Nước sông Hằng có vì
muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch Đức Thế Tôn, không?
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng rộng lớn, nước nhiều, chỉ bấy nhiêu
muối ấy không đủ làm mặn.
- Cũng dường thế ấy, có trường hợp người kia vì phạm một lỗi nhỏ mà
chịu cảnh khổ. Người khác cũng tạo một lỗi tương tợ nhưng gặt quả nhẹ hơn
và sau khi chết, quả kia không trổ sinh nữa, dù trổ một cách nhẹ nhàng. "Có
thể có trường hợp người kia bị bỏ tù vì ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm
đồng xu, và cũng trong trường hợp người nọ không bị bỏ tù vì nửa xu, một
xu, hay một trăm đồng xu.
"Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm xu?
"Khi người ta nghèo khổ, túng thiếu, bần cùng thì dù chỉ nửa xu, một xu,
hay một trăm đồng xu cũng bị bỏ tù.
"Ai không bị bỏ tù vì nữa xu, một xu, hay một trăm đồng xu?
"Khi người ta giàu có, dư dả, sung túc, thì không bị bỏ tù vì nửa xu, một
xu, hay một trăm đồng xu.
45
Cùng một thế ấy, có trường hợp người kia chỉ có một vài hành động
bất thiện nhỏ nhặt mà phải lâm vào cảnh khốn cùng, và có trường
hợp người nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải gặt quả
nào trong kiếp hiện tại. Hành động bất thiện ấy cũng không có hậu
quả nhỏ nhen nào sau kiếp sống nầy [8, tr.101].
Như vậy, mặc dù hai người có thể cùng có cùng một hành vi giống
nhau, nhưng lại có nghiệp quả khác nhau. Cũng giống như việc bỏ một
muỗng muối vào một bát nước và bỏ một muỗng muối xuống sông Hằng. Bát
nước có thể không uống được vì mặn, nhưng nước sông Hằng có gì thay đổi
đâu. Với một người có cả một dòng sông thiện thì có một việc sai trái cũng
không ảnh hưởng nhiều. Nhưng với một người chỉ có một “bát nước thiện” thì
chỉ cần một hành động sai trái cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời. Chính vì
vậy nên mới có những người dù làm việc sai trái nhưng vẫn sống sung sướng,
hạnh phúc.
Việc tạo ra nghiệp ác hay nghiệp xấu không chỉ đơn thuần dựa vào hành
động tạo nghiệp, cũng giống như việc trồng cây ăn quả vậy, việc cây cho ra
trái để ăn hay không không chỉ phụ thuộc vào hành động trồng và chăm bón
cho cây mà còn phụ thuộc vào trình độ của người trồng cây, thời gian tăng
trưởng của cây…. Nhà Phật gọi những yếu tố đó là nhân duyên. Phải có đủ
nhân duyên và thời gian thích hợp thì mới có quả báo thiện hay quả báo ác.
* Nguồn gốc của nghiệp
Đức Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái nghiệp của
chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ
nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có
cảnh dị đồng giữa chúng sinh” [78, tr.310]. Tức là sự hiện hữu của mỗi con
người chính là hiện thân của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác từ rất nhiều khiếp
trong quá khứ.
46
Vậy nghiệp được sinh ra như thế nào và tồn tại ở đâu? Để có thể trả lời
được câu hỏi này là một vấn đề không hề dễ dàng bởi nghiệp luôn thay đổi,
không đứng yên bất biến. Nó được nối dài từ kiếp này sang kiếp khác (vô
lượng kiếp)… nên việc tìm ra nguồn gốc của nghiệp là không thể. Tuy nhiên,
theo Phật giáo, sở dĩ chúng ta có những hành động (thân, khẩu, ý) tạo Nghiệp
là do vô minh và tham dục gây ra.
Trong Thập nhị nhân duyên kinh có câu: “Duyên vô minh, hành sinh
khởi”. Tức là tất cả những tư trưởng, lời nói và việc làm thiện, bất thiện trực
tiếp xuất phát từ vô minh hay bị vô minh gián tiếp làm động cơ thúc đẩy đều
sẽ tạo nghiệp. Còn những hành động hoàn toàn trong sạch, tuyệt đối không
xuất phát từ tham, sân, si thì không thể tạo nghiệp (đó chính là hành động của
chư Phật và các vị A-La-Hán).
Vô minh là điểm khởi đầu của thập nhị nhân duyên - nguyên nhân gây
đau khổ của con người. Vô minh được hiểu là lớp mây mù bao phủ, che lấp
mọi sự hiểu biết của con người, làm cho con người không nhận thức được
thực tướng của sự vật, hiện tượng (vạn pháp) hay không thấu hiểu chân tướng
của chính mình. Đức Phật có nói: “Vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc
trong ấy chúng sinh quay quần quanh lộn” [78, tr.381].
Vô minh gây hành. Hành ở góc độ nào đó chính là nghiệp. Hành tạo ra
thức. Thức là cái biết phân biệt, nó không thể tồn tại một cách độc lập được
mà phải dựa vào ngũ uẩn tức danh sắc. Có danh sắc tức là có thân và tâm,
nghĩa là con người về cơ bản đã được định hình. Có con người thì phải có lục
căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, thức), có lục căn, lục trần sẽ có lục nhập. Lục
nhập tạo tiếp xúc lục căn với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) tạo ra
xúc (cảm giác). Có xúc thì sẽ dẫn đến thụ. Từ cảm tình dẫn đến việc yêu
thương, đam mê, đắm trước, tức ái. Đã có ái thì muốn chiếm giữ, nắm giữ
(thủ). Đã chiếm giữ, nắm giữ thì phải lâu dài, tồn tại mãi (hữu). Trong quá
47
trình tồn tại, họ lại gây nghiệp nên buộc họ phải sinh (sinh), đã có sinh tất có
lão và tử.
Dục vọng đi liền với vô minh, là một nguyên nhân khác sinh ra nghiệp.
Dục vọng gồm tham (tham lam), sân (giận dữ) và si (si mê)... .
Si là si mê (còn được gọi là dục ái). Không biết đúng lẽ thật giả, không
nhận ra phải trái, không thấy được tà chính, ngu tối mờ mịt là tướng trạng của
Si. Cái si mê căn bản nhất là nhận lầm thân giả dối làm cái ta chân thật, tâm
sinh diệt làm cái ta vĩnh cữu. Nơi ta đã nhận lầm thì đối tất cả đều lầm, phát
sinh bao nhiêu thứ tội lỗi về sau. Tất cả đều gốc từ cái lầm này mà ra.
Do si mê mà con người không biết thân là tướng duyên hợp hư giả mà
lầm chấp thân mình là thật. Và, vì chấp thân mình có thật nên con người luôn
tìm mọi cách để bảo vệ, giữ gìn, nuôi dưỡng, tô điểm, giành giật và thỏa mãn
cho được những nhu cầu mà thân xác của mình đòi hỏi. Nhưng nhu cầu và
mong muốn của con người là vô cùng nên không bao giờ có sự thoả mãn của
bản thân. Vì vậy nó chính là cái gốc của lòng tham vô tận sau này.
Con người không chỉ chấp cho cái thân là có thật mà còn tưởng rằng
những suy nghĩ, cảm xúc … của mình (tâm) cũng là thật. Song, theo quan
niệm của Phật giáo, những thứ ấy là tướng duyên theo bóng dáng trần
cảnh, chợt có chợt không, bỗng sinh bỗng diệt, không có thật, cũng không
lâu dài. Vì vậy, khi bám vào cái giả dối tạm bợ ấy (nhưng cứ nghĩ là nó có
thật) đã làm cho con người nghĩ cái gì cũng cho là đúng, mình tưởng cái gì
cũng cho là hay, mình phân biệt điều gì cũng cho là phải, bảo vệ ý kiến
mình chống đối ý kiến kẻ khác. Đó chính là nguyên nhân gây đau khổ trầm
trọng của con người.
Tham lam là trạng thái nắm giữ, tâm muốn nắm giữ nó mãi mà không
muốn mất đi (còn được gọi là hữu ái). Lòng tham là cái hang không cùng, cái
túi không đáy, cho nên không biết đến đâu là đủ. Tham lam về thân xác (sống
48
lâu, trẻ đẹp, mạnh khỏe…), về tiền tài, danh vọng… và, khi lòng tham mà
không được thỏa mãn thì sẽ dẫn đến sân.
Sân (Giận dữ), là chúng ta không muốn nó tồn tại, muốn hủy diệt, xua
đuổi (còn được gọi là phi hữu ái). Do tham lam mà không toại nguyện, hoặc
bị ngăn trở liền nổi sân. Một khi nổi sân thì mọi tội ác nào cũng dám làm, mọi
khổ đau nào cũng dám tạo. Tất cả sự hung tợn dữ dằn ác độc đều do sân mà
phát sinh. Thế nên sân là mối hiểm họa cho mình cho người, mọi khổ đau
trong đời này đều do sân gây ra.
Như vậy, nguồn gốc đầy đủ của nghiệp phải là vô minh và dục vọng.
Nhưng về cơ bản, đối với Phật giáo, ý thức (tác ý) thiện hay ác mới là cái
quyết định sự hình thành nghiệp chứ không phải những biểu hiện bên ngoài
của hành vi tạo nghiệp. Chính vì vậy, ý chí tự do và đạo đức của con người có
thể làm biến đổi chính đời sống của mình. Nghiệp của Phật giáo không mang
tính định mệnh, bất biến và không thể thay đổi.
Đức Phật dạy:
Này các Tỷ khiêu, nếu có người nào đó nói một người phải chịu quả
báo theo đúng hành vi của anh ta, thì trong trường hợp đó, này các
Tỷ khiêu, sẽ không có đời sống tôn giáo, sẽ không có cơ may để
đoạn trừ toàn bộ khổ não. Nhưng này các Tỷ khiêu, nếu có người
nào đó nói rằng quả báo mà một người chịu, tương xứng với hành vi
của anh ta làm ra trước đây thì trong trường hợp đó, này các Tỷ
khiêu, người đó có đời sống tôn giáo, có cơ may đoạn trừ toàn bộ
khổ não [7, tr.284].
Như vậy, cuộc sống của con người chính là kết quả của toàn bộ những
hành động, lời nói và suy nghĩ của chúng ta đã thực hiện ở hiện tại hay trong
quá khứ. Nhưng kết quả này không bất biến mà nó thay đổi theo quá trình
hoạt động của chúng ta trong từng giây, từng phút. Có lẽ con người chỉ chịu
49
nhận quả báo của nghiệp một cách thụ động khi họ không hiểu rõ về nghiệp
và cơ chế vận hành của nó, trở thành nô lệ của nghiệp. Còn nếu con người
được giác ngộ, hiểu rõ về nghiệp thì chắc chắn họ sẽ có khả năng chuyển hóa
nghiệp, trở thành chủ nhân của Nghiệp chứ không phải là nô lệ của nghiệp.
Phật giáo cho rằng, nghiệp không tồn tại hư vô hay biến mất khi con người
chết đi mà nó được ghi lại ở tạng thức. Tạng thức không phải là ý thức mà nó là
thức thứ tám trong bát thức (còn được gọi là Alaida thức). Hay nói cách khác,
sống chết chỉ là sự hợp tan của ngũ uẩn. Khi sống, mọi hành động, cử chỉ, hành
vi, suy nghĩ …đều ghi lại dấu ấn trong tạng thức, dần dần trải qua thời gian dài,
hình thành nên một cái luật vô hình, đó là nghiệp. Khi chết, các yếu tố này tan rã
ra, nhưng luật vô hình theo quán tính vẫn tiếp tục quay, gặp nhân duyên, điều
kiện thuận lợi, luật vô hình này lại nhóm các yếu tố (mà nó dần dần biến cải từ
trước để tạo nên các yếu tố mới) để tạo nên một sinh linh mới. Sinh linh này phải
trả quả cho kiếp trước và đồng thời lại tạo nhân cho kiếp sau. Cứ như thế, cuộc
đời con người chỉ là một mắt xích trong chuỗi dài hầu như vô tận nếu không
bước trên con đường đạo để diệt trừ nghiệp chướng và luân hồi [32, tr.274].
* Phân loại nghiệp
Thông thường, nghiệp được tạo tác trên cơ sở của thân, khẩu và ý. Tất
nhiên, cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý hay còn gọi là tâm. Như thế, khi
xét đến nghiệp của một con người là xét đến thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp. Ngoài ba nghiệp này, không còn một cái nghiệp nào khác.
Thân nghiệp: Phạn ngữ là Kya-karma, Pàli là Kya-kamma là một trong
ba nghiệp, chỉ cho những nghiệp tạo từ thân có thể chia làm ba loại: thiện, ác
và vô ký; Ác nghiệp của thân tức chỉ cho sát sinh, trộm cướp, tà dâm; trái lại
là không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, tức là thiện nghiệp của
thân, không thiện không ác và không cảm được năng lực của quả báo thì gọi
là thân nghiệp vô ký.
50
Khẩu nghiệp: Phạn ngữ là Vik-karma, nghĩa là hành động của miệng, tức
lời nói diễn đạt nội tâm, một trong ba nghiệp. Khẩu nghiệp có hai: Biểu
nghiệp và Vô biểu nghiệp. Khẩu nghiệp cũng đóng vai trò quyết định trọng
việc tạo nghiệp. Từ nơi miệng có thể tạo ra những ác nghiệp làm cho chúng
sinh phải chịu những quả báo khổ đau, nhưng cũng từ nghiệp khẩu này làm
cho chúng sinh có được những nghiệp tốt. Nếu như một người có được lợi
khẩu thì nếu như dùng lợi khẩu đó để tạo những vấn đề phúc thiện, nhằm tạo
phúc cho mình và cho người thì khẩu nghiệp đó là lợi khẩu tốt cho đời sống
thăng hoa con người.
Ý nghiệp: Phạn ngữ là Manas-Karma, một trong ba nghiệp, có ý nghĩa là
nghiệp nương vào Tâm vương, nghiệp có ý nghĩa tạo tác, nói rộng ra thì bao
hàm hết thảy những động tác hành vi thiện, ác hoặc vô ký.
Mọi hành động (biểu hiện qua thân và khẩu) đều do sự tác động của ý
mà thành. Nếu như không có sự chỉ đạo của ý thì mọi hành động đều không
thể hình thành. Nếu như một hành động nào đó được hình thành mà không có sự
tác động của ý thì nó sẽ không dẫn đến sự hình thành nghiệp, bởi vì, nghiệp là
một hành động có tác ý. Mặt khác, tất cả những toan tính trong cuộc sống hàng
ngày của chúng ta đều có sự chỉ đạo từ ý. Cũng chính từ ý nghiệp mà con người
có những hành động khác nhau từ đó dẫn đến sự thọ sinh khác nhau.
Tuy nhiên, tùy vào tiêu chí khác nhau mà nghiệp có những tên gọi khác nhau.
* Căn cứ vào tính chất và cảnh giới thì có:
- Thiện nghiệp: là những hành động quy tụ những tâm sở thiện mà tạo
tác những nghiệp lành đem lại lợi ích cho mình và cho người (Tâm sở hay còn
gọi là Tâm sở hữu pháp, là những yếu tố phụ thuộc vào Tâm, gắn liền với một
nhận thức (được gọi là Tâm vương) đang sinh khởi và khởi lên đồng thời với
nhận thức đó). Có mười nghiệp thiện bao gồm: 3 nghiệp về thân (không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm); 4 nghiệp về khẩu (Không nói dối,
51
không nói điều thêu dệt, không nói hai lời, không nói lời hung ác); 3 nghiệp
về ý (không tham lam, không giận dữ, không tà kiến).
- Ác nghiệp: là những tư duy, hành động về các điều không lành như
thực hành những điều trái ngược với Ngũ giới và Thập thiện giới gây tổn hại
cho mình và cho mọi người. Có 10 nghiệp ác gồm: 3 nghiệp về thân (sát sinh,
trộm cắp, tà dâm); 4 nghiệp về khẩu (nói dối, nói điều thêu dệt, nói hai lời,
nói lời hung ác); 3 nghiệp về ý (tham lam, giận dữ, tà kiến)
* Căn cứ theo tiến trình (từ nhân đến quả) của nghiệp thì có hai loại
nghiệp cơ bản:
- Định nghiệp: Là nghiệp được lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ
nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà sau khi được ấp trong một
thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp nhất định sẽ đưa đến kết quả
(như ăn thì sẽ no) thì được gọi là định nghiệp.
- Bất định nghiệp: Là nghiệp không dẫn đến kết quả, hoặc kết quả sẽ
hình thành trong thời gian bất định, hoặc có thể giữa kết quả và nguyên nhân
không hoàn toàn thống nhất với nhau, thì được gọi là bất định nghiệp.
* Theo phương diện tác động:
- Sinh nghiệp (tái tạo nghiệp): là nghiệp có năng lực mạnh nhất tạo nên
sự tái sinh kế tiếp, quyết định cảnh giới của kiếp sống mới.
- Trì nghiệp (nghiệp trợ duyên) là nghiệp giữ gìn, duy trì hỗ trợ cho sinh nghiệp.
- Chướng nghiệp là nghiệp làm cho thiện nghiệp bị trở ngại hay là những
hành động của thân, khẩu, ý bắt nguồn từ tham, sân, si, làm biến đổi quả
nghiệp từ thiện sang ác ngay trong hiện tại và cả đời sau.
- Đoạn nghiệp là nghiệp tiêu diệt sinh nghiệp và trì nghiệp.
* Theo năng lực (mức độ):
Năng lực của nghiệp được hình thành theo từng loại nghiệp khác nhau
trong một tiến trình tâm lý rồi đưa đến sự hình thành các đặc tính của nghiệp.
52
- Tập quán nghiệp: là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời
sống hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách ứng xử
v.v...Ví dụ, hút thuốc lá là một Tập quán nghiệp.
- Cực trọng nghiệp: là các nghiệp gây hiện tượng xấu ác cực mạnh và
sâu trong tâm lý của con người như phạm các tội ngũ nghịch (giết cha, mẹ,
giết A La Hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng). Phạm những nghiệp
ác không sám hối được.
- Cận tử nghiệp: là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của
con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ trọng đối với việc hướng
dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của người chết sẽ tạo
nên một cận tử nghiệp (thiện hoặc bất thiện).
Một người có thể suốt đời làm ác, nhưng trước lúc tắt thở, nỗ lực
sinh khởi về thiện pháp, về những điều thiện trong đời, và nhờ ý lực
đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp (tương tự như vậy đối với các
trường hợp ngược lại). Từ đó, qua những kinh nghiệm cận tử, chúng
ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của mình để tạo
thành một sức mạnh đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống
hàng ngày và cả đến giờ phút lâm chung [83, tr.297].
- Tích lũy nghiệp: Là những hành động của thân, khẩu, ý bất kể thiện
hay ác không nằm trong ba loại nghiệp trên thì chúng tích lũy chứa nhóm lại
thành loại nghiệp này. Nghiệp này thường rất nhẹ và dễ quên.
* Theo thời gian trả quả:
Với những nghiệp khác nhau thì thời gian trả quả là khác nhau, hay nói
cách khác, khi nào hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ được trả thành quả, còn
khi nhân duyên chưa đủ thì quả sẽ chưa thành. Chính vì vậy mà có một số
người làm việc ác, nhưng lại sống giàu sang, sung sướng, còn có người sống
lương thiện thật thà thì lại nghèo khổ, bất hạnh. Nếu căn cứ vào thời gian trả
quả thì nghiệp được chia thành 4 loại:
53
- Hiện báo nghiệp: là nghiệp đưa đến kết quả ngay ở đời hiện tại. Thông
thường, đời hiện tại chính là quả của nghiệp quá khứ, nhưng có những nghiệp
dù mới được tạo ra nhưng do đủ điều kiện để trổ quả, nó sẽ chen vào đời sống
hiện tại này.
- Sinh báo nghiệp: là những nghiệp đưa đến kết quả đời sau, kế liền kiếp
hiện tại.
- Vô hạn định nghiệp: là những nghiệp không trả quả trong kiếp hiện tại
và kiếp kế tiếp, tùy theo sức mạnh của nghiệp ấy và các duyên mà có thể trả
quả ở bất cứ kiếp nào.
- Vô hiệu nghiệp: là những nghiệp không có đủ duyên, không có cơ hội
trả quả trong kiếp hiện tại và kiếp kế tiếp sẽ trở thành vô hiệu.
Tóm lại, theo Phật giáo, nghiệp là hành động từ thân tâm con người tạo
thành. Không phải ai khác mà chính chúng ta là chủ nhân của nghiệp, đồng
thời cũng là người lãnh thọ báo. Không giống như một số tôn giáo thế giới
khác như Kitô giáo, Islam đều cho rằng con người và cuộc sống của con
người do Thượng đế tạo ra và con người không thể can thiệp vào ý chí của
Thượng đế. Phật giáo lại khẳng định, cuộc sống của chúng ta ở hiện tại không
phải do một đấng thượng đế hay thần linh nào tạo thành mà nó do chính thân,
khẩu, ý của chúng ta trong quá khứ cũng như trong hiện tại gây nên. Có thể
nhìn thấy tính vô thần rất rõ của Phật giáo nguyên thủy trong quan niệm này.
Nghiệp là cái không có hình tướng mà có khả năng đáng kể. Ví như gió, tuy
không thấy hình tướng nhưng khi nó thổi thì đất và nước đều lung lay. Nghiệp
cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng ta đi khắp nẻo
luân hồi. Sỡ dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán lâu ngày.
Chính nghiệp là động cơ quan trọng, là yếu tố thúc đẩy chúng sinh mãi ở
trong vòng luân hồi.
54
2.2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong thuyết nhân quả
Thuyết nhân quả là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống
tư tưởng của Phật giáo. Hiểu theo nghĩa thông thường, nhân là nguyên nhân,
quả là kết quả. Tuy nhiên, trong quan niệm của Phật giáo thì nhân - quả không
đơn giản như vậy. Nhân có thể được hiểu là năng lực phát động, là cái hạt,
còn quả được hiểu là sự hình thành của năng lực phát động ấy, là cái quả do
hạt ấy sinh ra.
Nhân và quả không tồn tại độc lập với nhau mà có liên quan mật thiết
với nhau, đan lấy nhau, ảnh hưởng, tương phản và thừa tiếp nhau. Nhân
không thể sinh ra quả nếu thiếu duyên. Một quả được hình thành có thể do
nhiều nhân tạo ra. Một nhân cũng có thể cho nhiều quả khác nhau. Bản thân
nhân, quả cũng chỉ mang tính tương đối. Trong nhân đã chứa quả, và trong
quả đã chứa nhân. Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai,
cũng chính trong quả hiện tại đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật
mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra quả; Một sự vật
mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta thấy. Một
vật đều có nhân và quả: đối với quá khứ thì nó là quả, nhưng đối với tương lai
thì nó là nhân. Nhân và quả đắp đổi nhau, tiếp nối nhau tạo thành một chuỗi
vô cùng tận.
Vì vậy, để có thể tìm ra được cái nhân chính của quả, hay cái quả chính
của nhân, không phải là việc dễ. Chẳng hạn, hạt lúa có thể làm nhân cho
những bông lúa vàng - là quả trong mùa gặt sau, nếu người ta đem gieo nó
xuống đất; nhưng nó cũng có thể làm cho người ta no bụng, biến thành máu
thành thịt trong cơ thể và thành phân bón cho cây cỏ, nếu chúng ta đem nấu
nó để mà ăn.
Như thế, một nhân chính có thể thành ra quả này hay quả khác nếu có
những nhân phụ khác nhau. Chẳng hạn, muốn hạt lúa ở mùa này thành bông
55
luá ở mùa sau, thì phải có đất, có nước, có ánh sáng, có không khí, có thời
gian, có nhân công; Muốn nó thành máu huyết thì phải nấu, phải ăn, phải có
bộ máy tiêu hóa. Cho nên, khi nói nhân quả là tách riêng sự vật ra khỏi cái
chung cùng toàn thể của vũ trụ, lấy một khía cạnh nào đó, để dễ quan sát,
nghiên cứu, chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai chữ “nhân - duyên”.
Nhân duyên được hiểu là một quá trình để đưa đến hay tạo thành một sự
vật hay hiện tượng gì đó. Trong đó, “duyên” là yếu tố tác động giữa “nhân” và
“quả”. Duyên cũng được hiểu là điều kiện, hoàn cảnh, môi trường…(điều kiện
xấu được gọi là nghịch duyên, còn điều kiện tốt được gọi là thuận duyên).
Theo sự giải thích bằng lối chiết tự của một số nhà khoa học thì trong
chữ Hán, chữ “duyên” được viết với bộ “mịch” có nghĩa là sợi dây, nên cũng
có ý nghĩa như một sự nối kết, ràng buộc với nhau, như duyên phận hay
duyên số [37]. Tất nhiên, sự ràng buộc của duyên ấy không phải là ngẫu
nhiên, mà nó hàm chứa nhân quả hay “nghiệp” ở trong đó. Cái duyên đưa
người ta đến với nhau có thể là do lòng ái dục, do ân oán nợ nần từ kiếp trước
- bởi vậy, cũng có chữ “duyên nợ” để chỉ cho những ràng buộc vợ chồng.
Mặc dù “duyên” mang tính phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong
mối quan hệ nhân - quả như vậy, nhưng trong mối tương quan với nhân thì
nhân mới là yếu tố quan trọng nhất. Nếu không có nhân thì có duyên cũng sẽ
không sinh ra (hình thành) quả. Nhưng theo sự giải thích của giáo lý nhà Phật
thì bản thân yếu tố “duyên” cũng mang tính tương đối mà thôi. Nghĩa là,
trong mối quan hệ này, nó có thể được hiểu là duyên, nhưng cũng vẫn là nó,
khi xem xét ở mối quan hệ khác thì lại trở thành nhân hoặc quả của một cái gì
đó. Vì vậy, giáo lý Phật giáo hay nói “trùng trùng duyên khởi” là vậy. Nhưng
dù sao thì nhân, quả hay duyên đều là vô thường, tức là luôn trong quá trình
“thành, trụ, hoại, không” như tất cả vạn pháp trên thế gian này. Duyên hợp rồi
sẽ có lúc tan, quả biến chuyển sẽ trở thành nhân và duyên khác.
56
* Phân loại nhân quả
Thông thường, khi một quả hình thành, nó cần có sự kết hợp của nhiều
nguyên nhân và các nhân duyên. Chính vì vậy, căn cứ vào những tiêu chí khác
nhau thì sẽ có những loại nhân quả khác nhau.
- Theo thời gian: Do tiến trình hình thành quả không xảy ra và đồng nhất
trong một khoảng thời gian nhất định nên nhân quả có thể được chia thành
những loại sau:
+ Nhân quả đồng thời: Là loại nhân quả mà thời gian từ nhân đến quả
xảy ra rất nhanh. Như ăn thì liền no, uống nước vào liền hết khát, sân hận vừa
khởi lên thì phiền não liền xuất hiện, hay chiếc dùi vừa đánh vào trống thì
tiếng trống liền phát ra . . .
+ Nhân quả khác thời: Là loại nhân quả mà quá trình diễn ra từ nhân đến
quả phải có một khoảng thời gian nhanh hay chậm khác nhau. Khoảng thời
gian ấy đựơc chia thành 3 loại: Hiện Báo (nghiệp nhân trong đời này đưa đến
quả báo ngay trong hiện tại); Sinh Báo (nhân ở đời này nhưng đến đời sau
mới nhận quả); Hậu Báo (nhân trong đời này nhưng đến nhiều đời sau mới
thọ quả báo).
- Theo vật lý và tâm lý: Trên cùng một con người, thế nhưng những biểu
hiện nhân quả tâm lý và vật lý của người ấy lại khác nhau. Như một người có
thân (vật lý) xấu xí, tật nguyền, thô kệch . . . nhưng tâm (tâm lý) thì lại hiền từ
nhân hậu và rất thông minh, sáng suốt. Ngược lại cũng có những người tuy vẻ
bên ngoài đẹp trai, khỏe mạnh nhưng tâm hồn thì lại xấu xa, ích kỷ. Tuy vậy,
cũng có những trường hợp đặc biệt ngoại lệ, như có người đầy đủ phước báu
vẹn toàn cả hai mặt, hoặc cũng có những trường hợp ngược lại.
- Theo nội tâm và ngoại giới: Nội tâm là những trường hợp mà quá
trình nhân quả diễn ra bên trong tâm lý của con người. Còn quá trình nhân
quả diễn ra bên ngoài thì được gọi là nhân quả ngoại giới (bên ngoài). Chẳng
57
hạn có người tuy thân bị giam cầm trong chốn tù lao nhưng tâm vị ấy luôn trú
trong an định, giải thoát. Điều đó cho ta thấy rằng nghiệp quả chỉ biểu hiện ở
thân chứ không biểu hiện nơi tâm.
Tiểu kết chương 2
Phật giáo không chỉ dừng lại là một tôn giáo mà hơn thế nữa, nó còn là
một hệ tư tưởng triết học ra đời nhằm chống lại tư tưởng thần quyền trong xã
hội Ấn Độ cổ đại, đề ra con đường tôn giáo “giảm thần quyền”, mở ra một tôn
giáo bình đẳng về niềm tin tôn giáo cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh.
Trọng tâm trong các tư tưởng triết học của Phật giáo chủ yếu giải quyết vấn
đề thuộc về nhân sinh chứ không quá tuyệt đối, sa đà vào những vấn đề
siêu hình học hay vấn đề thế giới quan. Trên cơ sở những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cũng như kế thừa những tư tưởng của các trường phái triết
học trước đó, Phật giáo đã hình thành nên nội dung nhân sinh quan riêng có
của mình.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án gắn với “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du, Nghiên cứu sinh chỉ đi sâu vào trình bày quan niệm về nghiệp
báo và nhân quả. Qua đó cho thấy rằng, nghiệp báo được hiểu là những hành
vi hay hành động có tác ý. Tức là, tất cả những hành động có tác ý, dù biểu
hiện bằng thân, khẩu, hay ý, đều tạo nghiệp, còn những hành động không có
chủ tâm (không tác ý, vô ý), mặc dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm,
đều không tạo nghiệp. Nhân quả được hiểu là một mối quan hệ mật thiết giữa
nhân - là năng lực phát động, là cái hạt và quả - là sự hình thành của năng lực
phát động ấy, là cái quả do hạt ấy sinh ra. Nhân và quả chỉ được hiểu trong
những mối quan hệ cụ thể nhất định và có tính tương đối. Trong mối quan hệ
nhân - quả, không thể không nhắc đến vai trò của duyên - như là yếu tố trung
gian, hoàn cảnh đóng vai trò không thể thiếu trong quan hệ nhân quả.
58
Điểm nổi bật trong quan niệm về nghiệp báo và nhân quả chính là sự
phủ nhận vai trò của những lực lượng siêu nhiên, thần thánh chi phối đến sự
hình thành và biến đổi của con người cũng như cuộc sống của họ, mà khẳng
định tính khách quan, vô thần khi nhấn mạnh đến sự thọ lãnh trách nhiệm của
con người đối với chính hành vi (thân, khẩu, ý) của mình trong quá khứ cũng
như ở hiện tại. Những tư tưởng này, về sau này kết hợp với sự “thần bí hóa”,
“thần thánh hóa” nội dung một số tư tưởng và nhân vật Phật giáo đã thúc đẩy
Phật giáo phát triển mạnh mẽ với tư cách là một tôn giáo nhiều hơn là một
triết thuyết.
Tất nhiên, dưới góc độ của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử thì những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và luân hồi của
Phật giáo nhuốm màu duy tâm, thần bí tôn giáo. Nó không chỉ cho ta thấy
những căn nguyên mang tính xã hội đã chi phối đến cuộc sống của con người
mà lại đề cao những trách nhiệm mang tính cá nhân không chỉ ở thế giới hiện
tại mà còn cả những những thế giới trong kiếp trước cũng như kiếp sau.
Mặc dù vậy, ở một góc độ nào đó, quan niệm này của Phật giáo cũng góp
phần thúc đẩy trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm của cá nhân trước các hành
động của bản thân mình trong quá khứ, ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Nó giúp cho quá trình điều chỉnh hành vi đạo đức của cá nhân có hiệu quả
hơn, góp phần duy trì sự ổn định và bình yên của các quan hệ xã hội.
59
Chương 3
NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
TRONG “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
3.1. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN DU VÀ “TRUYỆN KIỀU”
3.1.1. Về cuộc đời của Nguyễn Du
Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, còn có biệt hiệu là Hồng
Sơn Liệp Hộ. Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (1765), nhằm niên hiệu
Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông tại Kinh thành Thăng Long trong một gia
đình đại quý tộc có thế lực bậc nhất thời bấy giờ.
Nguyễn Du vốn quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh. Dòng họ Nguyễn của ông là một dòng họ lớn có rất nhiều người làm
quan dưới triều Lê-Trịnh. Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm, làm quan đến
chức Tể tướng đương triều. Mẹ ông là bà Trần Thị Tấn, vợ thứ ba của Nguyễn
Nghiễm, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngân xứ Kinh Bắc, Bắc Ninh.
Dòng họ Nguyễn của Nguyễn Du không chỉ thành đạt về đường quan
lộ mà còn rất có truyền thống về văn học. Cha ông còn là một sử gia, một
nhà thơ. Anh cả Nguyễn Du là Nguyễn Khản cũng rất giỏi thơ Nôm, từng
làm thơ đối đáp với chúa Trịnh Sâm. Một người anh khác mẹ của Nguyễn
Du là Nguyễn Đề, cháu ông là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành đều là những
nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ảnh hưởng của huyết thống và môi trường như
thế nên năng khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và phát
triển từ rất sớm.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử vô cùng rối ren
và phức tạp. Đất nước chia đôi, các thế lực phong kiến cầm quyền bị phân
hóa, không còn đủ sức ổn định tình hình và lãnh đạo đất nước. Ở Đàng Ngoài,
vua Lê chỉ trị vì một cách bù nhìn, quyền hành tập trung trong tay chúa Trịnh.
60
Nhưng chúa Trịnh cũng không còn đủ sức kiểm soát, làm chủ tình hình được
nữa. Sự tha hóa về đạo đức, ăn chơi sa đọa của chúa Trịnh đã vắt kiệt sức dân,
dẫn đến các cuộc khởi nghĩa chống đối của nhân dân nổi lên khắp nơi cùng
với các cuộc chiến tranh liên miên giữa hai nhà chúa đã đưa đất nước vào chỗ
suy sụp về mọi mặt, không thể cứu vãn. Ở Đàng Trong, nội tình chúa Nguyễn
cũng không có gì sáng sủa hơn.
Về kinh tế nền sản xuất nông nghiệp bị đình trệ vì các cuộc xung đột vũ
trang (khởi nghĩa chống chính quyền phong kiến) nổ ra liên miên ở nhiều nơi
cũng như bởi thiên tai, dịch bệnh mất mùa từ năm này sang năm khác. Sử
sách có ghi lại:
Năm 1713 mùa xuân trời hạn lâu giá lúa cao vọt, dân gian phải ăn
vỏ cây rễ cỏ, chết đói đầy đường, làng xóm tiêu điều. mùa thu lụt
lội, vỡ đê Sơn Tây, Sơn Nam, Thanh Hóa, trôi hàng vạn nóc nhà,
nhân dân cơ cực. Khoảng đời Cảnh Hưng (1742-1786) Chiêu Thống
(1787-1789) luôn mất mùa, đói kém, dân gian trôi dạt, lưu ly, cha
con không thể nuôi nhau, anh em không thể nương nhau. Mùa thu
năm 1776, đại hạn, đồng ruộng cháy khô không sao làm được công
việc đồng áng. Những người nghèo khó hết qua cửa quyền nọ lại
đến nhà sang kia cũng không sao kiếm được một chỗ làm thuê làm
mướn [105, tr.104 - 105].
Còn theo cuốn Sử ký Đại Nam Việt (do Giáo hội Công giáo xuất bản),
Khoảng năm 1787, “làng nọ đánh làng kia, chẳng biết cậy ai cứu
giúp. Đâu đâu cũng có kẻ cướp, người ta giết lẫn nhau. Vả lại cả
năm ấy phải đại hạn, đoạn phải bão cùng lụt cả thể. Các đảng đê…
về xứ Nam Định vữa hết, hai huyện Quỳnh Lưu và Đông Thành thì
càng khốn nạn hơn nữa. Bão lớn lắm, cửa nhà sập hết: cây cối cùng
sanh hoa đẳng vật hao hại tận tuyệt chẳng còn giống gì… kẻ đã chết
61
đói thì vô ngần vô số kể chẳng xiết… người ta chỉ ăn cỏ như bò hay
là ăn những rễ cây gốc chuối thì lại sinh bệnh dịch mà càng thêm
chết hơn nữa… trong xứ Nghệ An có xã chẳng còn sót người nào,
hoặc chết đói hoặc chết bệnh hết [dẫn theo 105, tr.105].
Với tình hình sản xuất như vậy đã dẫn đến đời sống kinh tế của nhân dân
hết sức khổ cực và khốn đốn. Đó chính là căn nguyên của nhiều vấn đề về
chính trị, đạo đức của xã hội thời kỳ đó.
Về chính trị, với một nền kinh tế đình đốn và bất ổn đã dẫn đến sự hỗn
loạn về chính trị. Những mâu thuẫn vốn có, chứa chất lâu ngày trong lòng chế
độ phong kiến Việt Nam đến đây đã có dịp bùng nổ dữ dội. Tầng lớp thống trị
lục đục, tàn sát lẫn nhau: Trịnh Giang giết vua Lê Duy Phương, giết đại thần
Nguyễn Công Kháng, Lê Anh Tuấn; Trịnh Doanh bắt vua Lê Ý Tông nhường
ngôi cho Lê Hiến Tông; Trịnh Sâm giết thái tử Lê Duy Vũ, giết em là Trịnh
Đệ; Trịnh Khải và em là Trịnh Cán tranh quyền nhau làm rối loạn cả triều
đình… Đời sống của tầng lớp vua chúa thì trụy lạc, hoang dâm vô độ (Trịnh
Giang, Trịnh Sâm, Chúa Phúc Thuần đều vì hoang dâm mà mắc bệnh) để mặc
triều đình cho bọn tham quan chi phối. Trong khi đó thì dân chúng đói khổ,
điêu linh, các cuộc khởi nghĩa xảy ra khắp nơi như cuộc khởi nghĩa Nguyễn
Danh Phương (1740 - 1750), khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751),
khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1736 - 1769) và rất nhiều các cuộc khởi nghĩa
nông dân khác. Tất cả khí thế, sức mạnh của thế kỷ nông dân khởi nghĩa ấy
kết tinh vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn năm 1771.
Về tư tưởng, trong thế kỷ XVIII, Nho giáo vẫn được nhà nước phong
kiến bảo vệ, duy trì để làm nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế của
chính quyền và làm kỷ cương của xã hội. Tuy vậy, Nho giáo thời kỳ này bước
vào thời kỳ suy đốn dần, không còn được độc tôn như trước. Thực trạng
này được biểu hiện ở lĩnh vực giáo dục, thi cử. Các chính quyền phong kiến
62
vẫn duy trì và mở rộng chế độ giáo dục, thi cử làm phương tiện đào tạo quan
lại, đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy ngày một đông đảo, nhưng không còn
được nghiêm túc như trước. Hiện tượng mua quan bán tước đã khá phổ biến
cả Đàng trong và Đàng ngoài. Những người không có học nhưng có tiền
thì dùng tiền mua chức tước. Trong thi cử, nhiều vụ hối lộ và ăn hối lộ đã diễn
ra trắng trợn. Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá và sự
tấn công của đồng tiền vào thành trì lễ giáo phong kiến đã làm cho ý thức hệ
Nho giáo bị rạn nứt dần.
Trong khi Nho giáo bước vào thời kỳ suy thoái dần thì Phật giáo lại
được phục hưng. Các vua, chúa, quý tộc, quan lại cả hai Đàng (ngoài và
trong) đua nhau tôn thờ đạo Phật, bỏ nhiều tiền của để trùng tu chùa cũ,
xây cất nhiều chùa, tháp mới. Các chùa Tây Phương, Phúc Long, Thiền
Tông, Độc Tông, Sùng Nghiêm, Quỳnh Lâm, Hồ Thiên, Hương Hải,
v.v., (ở Đàng ngoài) và các chùa Thiên Mụ, Hoà Vang, Mỹ An, Thuận
Trạch, Kính Thiên, Hà Trung, Quốc Ân, v.v., (ở Đàng trong) đều được sửa
chữa hay xây dựng trong thời kỳ này. Đạo Phật lại được xã hội tôn sùng và
phổ biến hơn thời Lê sơ.
Trong thời kỳ này, do tình hình xã hội đầy rối loạn, tinh thần tam giáo
dường như lại có cơ hội để phát triển. Phật giáo không chỉ tiếp tục khẳng định
vị trí quan trọng ở tầng lớp bình dân mà còn được mở rộng ở tầng lớp Nho sĩ.
Thái độ “cư Nho mộ Thích”, “dĩ Phật tải Nho” là khá phổ biến trong tầng lớp
nho sĩ cũng như quan lại phong kiến thời kỳ này.
Tất cả những yếu tố của thời đại ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ
và hành động của Nguyễn Du. “Trải qua một cuộc bể dâu”, Nguyễn Du đã
không thể dửng dưng với những biến động xã hội ở xung quanh mình, “những
điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng tác
phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần là một tác phẩm được
63
ra đời theo một cốt truyện của một tác phẩm khác, mà hơn thế, nó chính là
tâm sự, là tấm gương phản ánh cuộc đời của Nguyễn Du và thời đại của ông.
Như nhà nghiên cứu P. Lafargue đã viết:
Nhà văn bao giờ cũng bị cột vào hoàn cảnh xã hội của mình. Muốn
làm cách nào, y cũng không thể tách ra ngoài hay trốn thoát được
hoàn cảnh ấy; dù y không thích hay không biết đến nó, y cũng vẫn
chịu ảnh hưởng của nó. Trốn vào quá khứ hay ngoài đến tương lai, ở
chiều hướng nào y cũng không đi quá được cái giới hạn mà thời đại
của y đã ấn định [dẫn theo 105, tr.96].
Nguyễn Du đã có một tuổi thơ êm ấm trong cảnh vàng son nhung lụa của
gia đình. Thế nhưng cuộc sống ấy kéo dài không được bao lâu. Những biến cố
dữ dội của thời đại và của gia đình đã nhanh chóng đẩy Nguyễn Du ra giữa
cuộc đời đầy bão táp.
Nguyễn Du lên mười tuổi thì thân phụ là Nguyễn Nghiễm mất. Hai năm
sau ông lại mồ côi mẹ. Bốn anh em cùng mẹ với nhà thơ chưa ai trưởng
thành. Gia đình bên ngoại không phải là nơi quyền quý giàu sang có thể
nương náu được nên mấy anh em Nguyễn Du phải đến ở với người anh cả
cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, bấy giờ đang làm Tả thị lang Bộ Hình
kiêm chức Hiệp trấn xứ Sơn Tây. Nhưng chỉ vài năm sau, địa vị của Nguyễn
Khản cũng lao đao. Năm 1780, Đặng Thị Huệ, thứ phi của Trịnh Sâm, cùng
Hoàng Đình Bảo lập mưu giành ngôi Thế tử của Trịnh Khải cho con mình là
Trịnh Cán. Nguyễn Khản ủng hộ Trịnh Khải. Việc bại lộ, Nguyễn Khản bị
cách chức và bắt giam. Đến khi Trịnh Khải lên ngôi chúa, Nguyễn Khản được
phục chức làm Lại bộ Thượng thư rồi thăng Tham Tụng. Đến khi loạn kiêu
binh nổi lên đã kéo đến phá nhà, toan giết chết ông. Nguyễn Khản phải trốn
vào phủ chúa rồi cải trang chạy lên Sơn Tây sau đó về quê nhà ở Hà Tĩnh.
Trong thời gian đầy biến động này, Nguyễn Du còn ít tuổi vẫn tiếp tục đi học.
64
Năm 1783, Nguyễn Du 18 tuổi, đi thi Hương ở Sơn Nam và đậu tam trường.
Sau đó, có lẽ do hoàn cảnh gia đình và biến động xã hội nên ông bỏ luôn
không đi thi nữa.
Trước đó có một người họ Hà, làm quan dưới quyền Nguyễn Nghiễm,
giữ chức Chánh thủ hiệu Hùng hậu quân ở Thái Nguyên, vì không có con trai
nên nhận Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi người họ Hà mất, ông được kế
chân giữ chức ấy. Năm 1789, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh tan hai
mươi vạn quân Thanh, Nguyễn Du và hai người anh em cùng mẹ theo vua Lê
Chiêu Thống chạy sang Tàu nhưng không kịp. Nguyễn Du trở về quê vợ ở xã
Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ nhà người
anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, bấy giờ đang làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà
thơ sống ở đây được mấy năm thì về quê nhà ở Hà Tĩnh.
Năm 1796, Nguyễn Du lên đường vào Gia Định theo Nguyễn Ánh,
nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An, nhà thơ đã bị viên Trấn tướng của Tây
Sơn là Quận công Nguyễn Thận bắt giữ. Nguyễn Du bị giam ba tháng. Sau vì
Nguyễn Thận là bạn của Nguyễn Đề, lại mến phục tài năng của nhà thơ nên
tha cho ông. Từ đấy, Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền suốt mười năm sau đó.
Mười năm gió bụi và những năm tháng tại quê nhà dưới chân núi Hồng
Lĩnh là thời gian nhà thơ có dịp gần gũi, hiểu biết, cảm thông và đồng điệu
với đời sống của quần chúng nhân dân lao động; nhà thơ có cơ hội tiếp cận
những giá trị văn học dân gian, nơi khơi nguồn cho những giá trị tinh thần vô
giá của dân tộc. Có thể nói, thiên tài lỗi lạc Nguyễn Du; những vần thơ lung
linh châu ngọc, bất diệt với thời gian của nhà thơ xứ Tiên Điền đã được ấp ủ,
nảy nở trong những năm tháng buồn vui tâm sự của nhà thơ tại quê nhà này.
Tháng 8 năm 1802, Nguyễn Du được triều đình vua Gia Long bổ làm tri
huyện Phù Dung (nay là tỉnh Hưng Yên). Tháng 11 năm ấy, thăng Tri phủ
Thường Tín (Hà Tây). Năm sau, ông được cử lên Nam Quan tiếp sứ thần nhà
65
Thanh. Năm 1805, Nguyễn Du được thăng Đông các Điện học sĩ, tước Du
Đức hầu. Năm 1807, được cử làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình, đây là chức vụ nhà thơ giữ
lâu nhất trong thời gian làm quan dưới triều Nguyễn.
Năm 1813, Nguyễn Du thăng Cần chánh Điện học sĩ và được cử cầm
đầu phái bộ đi sứ Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815 ông được thăng
Hữu Tham tri Bộ Lễ. Nguyễn Du chết ngày 16 tháng 9 năm 1820 (tức ngày
10 tháng 8 năm Canh Thìn) do dịch bệnh.
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn không có trở ngại,
biến động gì đáng kể. Trong suốt gần hai mươi năm ấy, nhà thơ có xin về trí sĩ
bốn lần nhưng lần dài nhất cũng chỉ sáu tháng, sau đó lại ra làm việc lại.
Nguyễn Du được thăng chức rất nhanh, có lúc được giữ những chức vụ tương
đối quan trọng trong triều đình. Thế nhưng, nhà thơ không lấy đó làm vui mà
luôn có những tâm sự u uẩn. Những tâm sự đó được Nguyễn Du gửi gắm vào
thi ca, đặc biệt là nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm “Đoạn trường tân
thanh” của ông.
Xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, làm quan với những chức
vụ cao và trọng trách ở triều đình, thế nhưng hậu thế hoài niệm, ngưỡng vọng
về Nguyễn Du không phải ở những điều ấy. Tất cả đã qua đi, đã trở thành dĩ
vãng trong cuộc biến động trường thiên của lẽ vô thường. Sự nghiệp lớn nhất,
có ý nghĩa nhất nhà thơ núi Hồng Lĩnh để lại cho đời đó là sự nghiệp văn
chương của ông.
Ngoài thơ chữ Hán, Nguyễn Du còn có biệt tài về thơ Nôm, mà đỉnh cao
thể hiện biệt tài ấy là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là
“Truyện Kiều”. Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ của dân tộc ta đã được nâng lên
một tầm cao mới với sự súc tích, đẹp đến không ngờ! “Truyện Kiều” đi vào
lòng quần chúng nhân dân, từ bác học đến bình dân trước tiên là nhờ ở tài sử
66
dụng, biểu đạt ngôn ngữ của nhà thơ và trở thành linh hồn văn học Việt Nam.
Ngoài áng văn chương tuyệt tác “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn những sáng
tác chữ bằng chữ Nôm khác cũng rất nổi tiếng như: “Văn tế thập loại cô hồn”,
“Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”, “Thác lời trai phường nón”…
Với những ảnh hưởng của nhiều biến cố xã hội cũng như cuộc sống của
bản thân, Nguyễn Du đã sáng tác những tác phẩm văn học (chưa hẳn đã đồ
sộ) nhưng có giá trị vô giá. Thông qua từng câu chữ của thơ ông là cả một tâm
hồn dạt dào mẫn cảm yêu thương, nhân hậu. Tinh thần nhân bản, thái độ bao
dung, cảm thông và đồng điệu là chìa khóa để thi ca Nguyễn Du đi vào lòng
người và đọng lại với những cảm nhận ở nhiều mức độ khác nhau.
3.1.2. Khái lược tác phẩm “Truyện Kiều”
“Truyện Kiều” được Nguyễn Du phóng tác từ tác phẩm “Kim Vân Kiều
truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống khoảng cuối đời Minh,
đầu đời Thanh - Trung Quốc.
Do có rất nhiều bản dịch “Truyện Kiều” khác nhau với một số nội dung
còn có sự tranh luận trong giới nghiên cứu “Truyện Kiều”. Vì vậy, luận án
nhất quán sử dụng cuốn “Truyện Kiều” do GS. Nguyễn Thạch Giang khảo
đính, chú giải và Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp phát hành
năm 1991 (xuất bản lần thứ IX) để thống nhất trong nghiên cứu.
Câu chuyện kể về cuộc đời tài hoa bạc mệnh, truân chuyên lưu lạc của
người con gái họ Vương tên Thúy Kiều. Gia đình Vương viên ngoại có ba người
con: Thúy Kiều, Thúy Vân, và con trai út là Vương Quan. Thúy Kiều là một cô
gái tài sắc vẹn toàn. Không chỉ đẹp người, Thúy Kiều còn rất đa tài: biết làm thơ,
đặc biệt là chơi đàn rất hay. Nàng còn là một cô gái có tâm hồn rất đa cảm và đó
là dấu hiệu cho cuộc đời đoạn trường, truân chuyên của nàng sau này.
Nhân tiết Thanh minh, ba chị em cùng mọi người đi trẩy hội. Trên đường
về, họ gặp một ngôi mồ hoang, hương tàn khói lạnh ngay trong ngày tảo mộ
67
lễ Thanh minh. Vốn đa cảm, trong khi Thúy Vân và Vương Quan vẫn vô tình,
bình thản thì Thúy Kiều lại quan tâm đến ngôi mộ. Theo Vương Quan dẫn
giải thì đó là ngôi mộ của một cô ca sĩ có tên là Đạm Tiên, xinh đẹp, tài hoa
nhưng yểu mệnh, từng nổi danh nhưng giờ thì lạnh lẽo mồ hoang như thế!
Thúy Kiều nghe xong đầy lòng trắc ẩn và bỗng dưng liên tưởng đến mình.
Kiều đốt hương khấn vái Đạm Tiên, khóc than thương cảm và đề thơ nơi gốc
cây như một người đồng điệu. Đạm Tiên đã hiển linh ngay tức khắc, một
điềm báo trước cho thân phận của Kiều sau này.
Cũng trong chuyến đi chơi này, Kiều gặp Kim Trọng. Kim Trọng là một
thư sinh, bạn học với Vương Quan. Sự gặp gỡ tình cờ này đã bắt đầu cho một
mối tình sắt son, vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến đương thời của Kim Trọng,
Thúy Kiều.
Sau lần hội ngộ ấy, Kim Trọng đã thầm thương trộm nhớ và tương tư
Kiều. Chàng dọn đến thuê nhà ở gần nhà Vương viên ngoại để mong được
gặp gỡ Thúy Kiều. Nhân dịp cả nhà họ Vương đi dự sinh nhật bên ngoại, Kiều
và Kim Trọng đã gặp nhau, trao nhau kỷ vật làm tin, cùng nhau thề non hẹn
biển. Mối tình Kim Trọng, Thúy Kiều vừa bắt đầu cũng là lúc Kim Trọng
nhận được hung tin, phải trở về quê nhà ở Liêu Dương để thọ tang chú. Kim
Trọng đâu biết rằng lần hội ngộ đầu tiên cũng là lần chia xa suốt mười lăm
năm lưu lạc của Thúy Kiều.
Tai họa bất ngờ ập đến gia đình Thúy Kiều khi Kim Trọng vừa ra đi.
Vương viên ngoại và Vương Quan bị bắt vì có người vu oan về tội giết người.
Và để có thể cứu cha và gia đình khỏi tù tội, Thúy Kiều đã quyết định bán
mình để lấy tiền lo lót cho bọn quan lại.
Mã Giám Sinh, tay chân của Tú Bà ở Lâm Tri hay tin đã đến mua Kiều
về lầu xanh làm gái làng chơi. Với danh nghĩa cưới Kiều làm vợ lẽ, Mã Giám
Sinh đã bỏ ra 400 lượng vàng và thành thân với Kiều. Kiều được đưa về lầu
68
xanh ở Lâm Tri để tiếp khách. Khi hay tin Kiều đã thất thân với Mã Giám
Sinh, mụ Tú Bà đã nổi cơn lôi đình, hành hung Thúy Kiều. Do đã dự liệu
trước, Kiều rút dao trong người ra tự vẫn nhưng không chết.
Biết không thể ép buộc được Kiều, Tú Bà một mặt dỗ dành Kiều, cho
nàng ở một mình nơi lầu Ngưng Bích; một mặt sắp đặt cho Sở Khanh, một tay
ăn chơi đểu giả lập mưu lừa Kiều, dụ nàng trốn đi. Ngây thơ tin người, nàng
nghe lời đường mật, trốn đi theo Sở Khanh và bị Tú Bà theo bắt lại. Thúy
Kiều trở thành gái lầu xanh từ đó.
Ở với Tú Bà một thời gian, nàng gặp Thúc Sinh. Thúc Sinh vốn quê Vô
Tích, đã có vợ là Hoạn Thư ở quê nhà, nhưng theo cha lên buôn bán tại Lâm
Tri. Nhân khi Thúc ông về nhà, Thúc Sinh lân la chơi bời nơi chốn lầu xanh.
Gặp Kiều, Thúc Sinh mê mẩn, đem lòng yêu thương nàng. Thúc Sinh quyết
tâm lấy Kiều làm vợ lẽ nên sắp đặt đưa Kiều trốn đi rồi bắn tin cho Tú Bà để
chuộc Kiều. Ở vào thế đã rồi, Tú Bà nhận tiền chuộc của Thúc Sinh cho Kiều
được tự do và trở thành vợ lẽ của Thúc Sinh.
Thúc Ông trở lại Lâm Tri, hay tin Thúc Sinh lấy Kiều từ chốn lầu xanh
đã đùng đùng nổi giận. Không buộc được Thúc Sinh bỏ Kiều, Thúc ông thưa
lên quan và nhất quyết bắt Kiều phải bị trừng trị. Nhưng sau khi đọc bản
tường trình của Kiều, viên quan lấy làm cảm động và khuyên Thúc Ông nên
vì tình mà chấp nhận cho Thúc Sinh lấy Kiều. Thúc Ông vâng lời và đám cưới
được tiến hành.
Những tưởng vậy là đời Kiều yên ổn. Kiều vốn biết thân phận mình,
khuyên Thúc Sinh nên về nói rõ cho Hoạn Thư biết sự việc. Thúc sinh nghe
lời Kiều trở lại quê nhà để gặp Hoạn Thư.
Ở quê nhà, Hoạn Thư đã biết tất cả. Nàng chờ đợi một sự thú nhận từ
Thúc Sinh. Vốn tính nhu nhược, lại không thấy Hoạn Thư tỏ ra nghi kỵ hỏi
han gì, Thúc Sinh đã không nghe lời Kiều mà giấu biệt sự việc. Hoạn Thư
69
càng tức tối, về bàn với mẹ, sắp đặt cho bọn gia nô là Ưng, Khuyển lên Lâm
Tri bắt cóc Kiều về hành hạ và bắt làm người hầu. Bọn Ưng, Khuyển đã đánh
tráo một tử thi chết trôi rồi phóng hỏa đốt nhà để ai cũng tưởng Kiều đã chết
vì hỏa hoạn.
Thúc Sinh trở lại Lâm Tri và thấy Thúc ông đã lập bàn thờ cúng tế Kiều.
Đau buồn vì tưởng Kiều đã chết chàng lại trở về nhà. Tại đây, Thúc Sinh đã
gặp lại Kiều với thân phận của một con ở. Để thỏa cơn ghen, Hoạn Thư đã
hành hạ Thúy Kiều, bắt Thúy Kiều chuốc rượu, đánh đàn hầu hạ Thúc Sinh.
Còn Thúc Sinh thì phải làm bộ giả vui cười cho Hoạn Thư vừa lòng.
Sau đó, thể theo nguyện vọng Kiều, Hoạn Thư cho nàng ra Quan Âm
Các ở tu hành với pháp danh là Trạc Truyền. Nhân buổi Hoạn Thư về nhà
thăm mẹ, Thúc Sinh lén ra tâm sự với Kiều. Nào ngờ Hoạn Thư về đứng bên
ngoài nghe hết mọi chuyện nhưng nàng vẫn cười cợt bình thường như không
có chuyện gì xảy ra. Quá sợ một con người như thế, Kiều đã lấy chuông vàng
khánh bạc ở Quan Âm Các làm vật hộ thân rồi trốn đi.
Từ nhà Hoạn Thư ra, Thúy Kiều đến nương nhờ tại “Chiêu Ẩn am” của
sư trưởng Giác Duyên. Nhưng đoạn trường chưa dứt, nghiệp chướng còn dày,
một lần nữa Kiều lại sa vào lầu xanh của Bạc Bà, Bạc Hạnh ở Châu Thai, vì
tung tích nàng đã bị bại lộ. Tại đây nàng gặp Từ Hải, người anh hùng cái thế
đang dấy binh chống lại triều đình.
Say mê sắc đẹp, cảm phục tài năng và đồng điệu tâm hồn, Từ Hải cứu
nàng ra khỏi chốn lầu xanh nhà họ Bạc, đưa nàng về làm vợ. Sau một năm
khởi binh, Từ Hải đã trở thành lãnh chúa một vùng và Kiều đường đường là
một mệnh phụ phu nhân. Ân oán giang hồ từ ngày lưu lạc được nàng báo đáp
phân minh. Những kẻ gây nên đau khổ cho nàng đều phải đền tội dưới trướng
hùm Từ Hải. Đây có lẽ là quãng đời hạnh phúc nhất của Kiều trên suốt chặng
đường mười lăm năm lưu lạc.
70
Những tưởng Kiều hạnh phúc dài lâu cùng Từ Hải, nhưng sổ đoạn
trường nàng đâu đã đoạn tên. Khi Hồ Tôn Hiến kéo binh mã triều đình ra
đánh Từ Hải, biết không thể thắng nên dùng kế chiêu an. Kiều lại ngây thơ
tin lời đường mật của Hồ Tôn Hiến, phân tích lẽ thiệt hơn và khuyên Từ
Hải đầu hàng.
Nghe lời Kiều, Từ Hải đầu hàng và mắc kế phục binh của Hồ Tôn Hiến
phải chết đứng giữa trận tiền. Vậy là Kiều thành thân phận “thanh y”, hầu
rượu, đánh đàn cho tiệc mừng công của Hồ Tôn Hiến. Sau đó, Kiều bị ép gả
cho một Thổ quan. Và cuối cùng, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường
tự vẫn khi Thổ quan đang đưa nàng đi.
Về phần sư Giác Duyên, sau khi chia tay Kiều ở “Chiêu Ẩn am”, sư
trưởng Giác Duyên trên đường vân du gặp Đạo cô Tam Hợp. Được Đạo cô
Tam Hợp cho biết hậu vận của Kiều nên đã đến nên thuê người chờ sẵn bên
sông Tiền Đường. Nhờ vậy, Kiều được cứu sống và đem về nương náu ở am
cỏ ven sông. Từ ngày Kiều rời nhà cho đến bấy giờ, chốc đã mười lăm năm
luân lạc.
Ở quê nhà, khi hết thời gian chịu tang, Kim Trọng trở lại tìm Thúy Kiều
thì Thúy Kiều đã không còn nữa. Theo lời Kiều dặn, Kim Trọng cưới Thúy
Vân nhưng trong lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ Thúy Kiều. Sau đó Kim
Trọng cùng Vương Quan thi đậu và được bổ ra làm quan. Từ đó Kim Trọng
bắt đầu dò la tìm kiếm tông tích Thúy Kiều. Từ Vô Tích qua Lâm Tri đến
Châu Thai rồi cuối cùng dừng lại bên bờ sông Tiền Đường.
Cả nhà Thúy Kiều hội ngộ mừng mừng tủi tủi. Dù cả nhà đều nài ép và
mối tình với Kim Trọng vẫn nồng ấm như xưa, nhưng Thúy Kiều cảm thấy đã
quá đỗi ê chề và nghĩ mình không xứng đáng với Kim Trọng nữa. Vì vậy,
Thúy Kiều đã nhất quyết không chắp lại tình xưa với người yêu cũ. “Đem tình
cầm sắc đổi ra cầm cờ” là sự chọn lựa cuối cùng của nàng đối với Kim Trọng.
71
Kiều sống nốt những ngày còn lại với gia đình và người thân trong an lạc
niềm vui sau khi đã trải qua một quãng đời sương gió đoạn trường.
3.2. NỘI DUNG NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG “TRUYỆN KIỀU”
CỦA NGUYỄN DU
Dân gian có câu Văn dĩ tải đạo (lấy văn chương mà chở đạo lý). Câu nói
ấy rất thích hợp cho “Truyện Kiều”. Có thể thấy rằng “Truyện Kiều” là tác
phẩm nổi tiếng nhất trong thi đàn Việt Nam vào thế kỷ XVIII. Tác phẩm này
không chỉ là một áng thơ độc nhất vô nhị trong kho tàng văn học Việt Nam,
mà còn chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc của Tam giáo (Nho giáo,
Đạo giáo và Phật giáo).
Thông qua sự thăng trầm và đầy biến cố của những nhân vật trong
“Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã miêu tả một cách khéo léo, tài tình những
thăng trầm, vinh nhục, những vui buồn, thương ghét của cuộc đời con người,
cũng như những bạc bẽo, bất công, loạn lạc của thực trạng xã hội.
Không chỉ vậy, bằng “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện được
những quan niệm, những triết lý nhân sinh mang màu sắc tam giáo của người
Việt nói chung và của bản thân Nguyễn Du nói riêng. Do đó, “Truyện Kiều”
đã được mọi tầng lớp từ vua chúa, quý tộc đến tầng lớp nhân dân lao động
đón nhận và say mê. Dường như ai cũng có thể tìm thấy hình bóng, cuộc đời,
tâm tư, tình cảm của mình trong những nhân vật của Nguyễn Du (dân gian ví
thơ là người). Người Việt thậm chí còn đề cao “Truyện Kiều” hơn những gì
mà một tác phẩm văn học đem lại khi coi nó là một công cụ xem xét và tiên
đoán về cuộc đời mình - bói Kiều. Có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa
có một bản trường ca trữ tình nào bỗng hóa thành một hiện tượng "sấm"
truyền hay thánh ca tôn giáo mẫu mực được truyền tụng và kính cẩn như
“Truyện Kiều”: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy Vương Thúy Kiều
xin chứng dám lòng thành ứng cho một quẻ…".
72
Nội dung “Truyện Kiều” chứa đựng nhiều tư tưởng liên quan đến những
đạo nghĩa, luân thường của Nho gia cũng như những ước vọng tiêu dao,
phóng khoáng của Đạo gia. Nhưng cũng không thể không nói đến sự ảnh
hưởng rõ nét của nhân sinh quan Phật giáo trong nội dung “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du, đặc biệt là các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả và luân hồi.
3.2.1. Quan niệm về nghiệp báo của Phật giáo trong “Truyện Kiều”
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm “Truyện Kiều”
nằm trong lý thuyết về nhân quả, nghiệp báo. Điều này đã được rất nhiều các
nhà nghiên cứu thừa nhận dù cách diễn giải có thể là khác nhau như: Trần
Trọng Kim, Đào Duy Anh, Nguyễn Đăng Thục, Cao Huy Đỉnh…
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, có lẽ người đầu tiên đặt vấn đề Phật
giáo trong “Truyện Kiều” là sử gia Trần Trọng Kim. Trần Trọng Kim được
biết đến như một học giả uyên bác về sử học, văn học và tư tưởng Việt Nam.
Trong tập san Khai Trí Tiến Ðức số 1 (Octobre-Décembre) năm 1940, ông đã
có bài “Lý thuyết Phật học trong Truyện Kiều”. Trong tác phẩm này, ông đã
chỉ ra sự ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo vào nội
dung “Truyện Kiều” (dù nó còn rất sơ sài). Ông viết:
Theo đạo Phật thì ở đời không có gì là không có nhân duyên (loi de
causalité), mà cái nhân duyên đó kết hợp thành cái nghiệp. Cái phần
tốt, phần hay của nàng Kiều là ở chỗ dù khổ sở thế nào, cũng giữ
được cái tâm trong sạch, cái bụng nhân nghĩa và cái sức cố gắng mà
phấn đấu với cái nghiệp chướng của mình. Cái giá trị của con người
ta ở đời cốt ở chỗ ấy, mà cái nhân cách của con người ta có rõ rệt ra
là cũng ở chỗ ấy [3].
Ông cũng đã đúng khi nhận định rằng:
Cái thuyết nhân quả và cái nghiệp của nhà Phật gần giống như cái
thuyết định mệnh (déterminisme) của triết học bên Tây. Nhưng chỉ
73
khác ở chỗ cái định mệnh của nhà Phật là do tự mình định ra, chứ
không phải tự ở sức ngoài sai khiến. Thành thử cái thuyết nhân quả
vẫn để cho mình có cái hoàn toàn tự do. Mình phải theo cái nghiệp
tự mình gây ra cho mình, chứ không phải cái nghiệp tự đâu gây ra
mà bắt mình phải chịu… cái thuyết nhân quả của Phật học là thế.
Đem cái thuyết ấy mà so với một đời nàng Kiều thì không thấy chỗ
nào là không đúng [3].
Cũng thừa nhận về nhân quả, nghiệp báo trong “Truyện Kiều”, nhưng
nhà nghiên cứu Cao Huy Ðỉnh thì nhận xét: chất bi quan yếm thế của “Truyện
Kiều” đến từ cái khối thế giới quan tiêu cực hỗn hợp ấy của “Truyện Kiều”,
trong đó triết lý Phật chiếm một liều lượng lớn, vì chất bi quan yếm thế của nó
dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình ở trong tâm trạng con người, nhất là
phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất của xã hội phong kiến. Ðạo Nho lúc này đây chỉ
còn có những con người đa tình, phong nhã hào hoa như Kim Trọng, những con
người tầm thường sống trong khuôn phép tầm thường như Thúy Vân, như
Vương Quan, những con người biết yêu biết khóc nhưng không dám hành động
như Thúc Sinh, những ông quan lừng chừng như viên tri phủ, những vị trọng
thần mặt sắt cũng ngây vì tình như Hồ Tôn Hiến. Ðạo Nho rõ ràng đang suy sụp
cùng với cả cái nền tảng xã hội phong kiến của nó. Cương thường đạo lý của nó
không còn sức hấp dẫn nữa. Ðạo Phật đã bổ sung cho đạo Nho ở chỗ nó dựa trên
luật nhân quả để kết án cá nhân là tự mình gieo cái mầm khổ cho mình ngay từ
kiếp trước nên tự mình phải chịu lấy quả khổ của kiếp này. Theo ông,
chữ nghiệp mê muội và an ủi tâm hồn quả đã hấp dẫn được lòng người đang sợ
hãi cái thực tại đầy đau thương và đã thổi thêm luồng gió bi quan vào trong cơn
bão táp của thời đại Nguyễn Du và trong “Truyện Kiều” [46].
GS. Ðào Duy Anh trong sách Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943) thì lại
nhận định: Tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là "tài
74
mệnh tương đố". Tư tưởng ấy làm cái nòng cốt tinh thần cho toàn truyện, mà
mỗi một chương, mỗi một tiết, mỗi một đoạn chỉ là để chứng minh cho nó
thôi. Tư tưởng ấy là gốc ở thuyết thiên mệnh của Nho giáo. Tuy nhiên,
Nguyễn Du không phải là một nhà Nho thuần túy. Cái tình đa cảm,
những kinh nghiệm đau đớn đã đem Nguyễn Du đến Phật giáo. Ông
không thỏa mãn đối với cái luật “bỉ sắc tư phong” vì nó mới chỉ là một
nhận xét tuồng như đúng mà chưa cắt nghĩa rõ ràng về lý do. Người ta
vẫn chưa hiểu tại sao lại có cái luật thừa trừ như thế. Ông không chịu
rằng người ta không có trách nhiệm gì về sự cân nhắc họa phúc của
Trời. Ông bèn lấy chữ nghiệp của nhà Phật mà phát huy cho chữ mệnh
của nhà Nho. Theo luật nhân quả của Phật thì những điều người ta làm
ở kiếp này là nguyên nhân sẽ sinh ra kết quả ở kiếp sau, mà những điều
người ta làm ở kiếp trước là nguyên nhân sinh ra kết quả ở kiếp này.
Những việc làm trước sinh ra kết quả ở sau gọi là nghiệp [3].
Cũng theo GS Đào Duy Anh, hiểu nghiệp là như vậy, nhưng nếu quan
niệm rằng nhờ thiện tâm (ở kiếp này) mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng
để hưởng thụ ngay ở hiện tại thì không đúng hẳn với quan niệm nhân quả
thuần túy của nhà Phật. Mặc dù vậy, nó lại rất đúng với quan niệm nghiệp báo
hay báo ứng phổ thông trong dân gian. Chính như cái tư tưởng “trời định” (tỷ
dụ, khi Ðạm Tiên báo cho Kiều là “Ðoạn trường [đã] sổ rút tên ra” hoặc khi
sư Tam Hợp cho rằng Kiều tuy có “hại một người [Từ Hải, nhưng] cứu muôn
người” thì “khi nên, trời cũng chiều người”) ... cũng không có quan hệ gì với
Phật lý, nhưng vốn là điều người mình tin lắm, vô luận là người theo Phật hay
theo Nho. Vậy ta nên nói rõ rằng tư tưởng Phật giáo của Nguyễn Du ở đây là
theo tín ngưỡng thông thường của dân chúng [3].
Nhìn chung, dù còn nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về sự
ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến nội dung “Truyện Kiều”, nhưng về cơ
75
bản các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng những ảnh hưởng này là có, và
chủ yếu thể hiện lý thuyết nhân quả, nghiệp báo.
Mở đầu “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã viết:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Và, kết thúc “Truyện Kiều”, ở câu 3247, Nguyễn Du lại viết:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Nếu như nhìn vào những câu thơ đầu tiên thì có thể thấy tư tưởng tài
mệnh tương đố (tài năng và số mệnh đố kỵ nhau) là rõ nét. Dường như với
những người có tài và có sắc, việc phải nhận một số phận trớ trêu, đau khổ,
điêu đứng, không yên bình do bị ông trời “đánh ghen”, đày đọa là một sự tất
yếu. Nhưng khi đọc những vần thơ cuối thì có thể thấy rằng Nguyễn Du đã
không chỉ dừng lại ở thuyết tài mệnh tương đố, mà ông đã đẩy xa hơn, lý giải
sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa tài và mệnh trong sự ảnh hưởng của thuyết
nghiệp báo nhà Phật.
Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Có tài mà không
biết giấu (giữ) mình mà ngông cuồng, khoe khoang, hợm hĩnh thì sẽ phải lãnh
hậu quả (tai nạn) và sẽ đau khổ rất nhiều vì sự khoe khoang hợm hĩnh đó.
76
Nhưng “mầm mống” của những tai nạn và đau khổ kia từ đâu đến?. Theo
Nguyễn Du, tất cả những thứ đó không phải do bên ngoài đem đến cho ta,
cũng không hẳn là vì trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, mà bởi chính
chúng ta, bởi những hành động tham lam, giận dữ, si mê.. mà chúng ta đã tạo
nghiệp xấu cho bản thân mình.
Và, khi đã trót mang lấy nghiệp vào thân, thì cũng đừng trách lẫn trời
gần trời xa. Tất nhiên, chữ “nghiệp” mà cụ Nguyễn Du nói đến ở đây chỉ là
nghiệp xấu, còn chữ nghiệp của Phật giáo thì nó không chỉ có nghiệp xấu mà
nó còn rộng hơn nữa, bao gồm cả nghiệp tốt.
Trong “Truyện Kiều”, Thúy Kiều là con gái cả của gia đình họ Vương,
được Nguyễn Du mô tả như một người có tài, sắc vẹn toàn. Thúy Kiều rất
thông minh, giỏi cả thi, họa, ca ngâm và đặc biệt là chơi đàn tỳ bà. Năm 16
tuổi, Thúy Kiều đã sáng tác một bản nhạc tên là Bạc mệnh (số kiếp mỏng,
không tốt). Bản nhạc rất hay, nhưng đàn lên thì nghe buồn thấm thía ruột gan.
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Có lẽ đây chính là chỉ dấu đầu tiên cho thấy cuộc đời trầm luân ba chìm
bảy nổi, đầy đau khổ và bão tố sau này của Kiều. Về sắc đẹp, Nguyễn Du đã
xây dựng nên hình ảnh một người con gái đẹp đến nỗi hoa phải ghen tỵ, liễu
phải tủi hờn (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh). Cái đẹp của Kiều có
thể làm nảy sinh sự ghen tỵ không chỉ của con người mà còn cả vạn vật xung
quanh. Về tài năng, dù là người rất giỏi về âm nhạc, nhưng bản nhạc đầu tiên
của Thúy Kiều lại chứa đựng sự buồn bã, đau khổ. Mỗi lần tấu bản nhạc này
lên, Kiều lại vô tình tưới tẩm những hạt giống của sự đau buồn lên cuộc đời
của mình.
Theo quan điểm Phật học, đây chính là những hạt giống tiêu cực sẽ đem
lại cho Thúy Kiều những sự đau khổ về sau. Anh hoa phát tiết ra ngoài, nghìn
77
thu bạc mệnh một đời tài hoa. Trong cuộc sống, chúng ta có đầy đủ tất cả các
hạt giống (nhất thiết chủng thức), có những hạt giống cần được tưới tẩm hàng
ngày, nhưng cũng có những hạt giống không nên tưới tẩm vì nó sẽ ảnh hưởng
rất xấu đến cuộc đời của con người. Trong “Truyện Kiều”, khi Kim Trọng
nghe Kiều gảy bản nhạc Bạc mệnh, Kim Trọng đã phải thốt lên:
Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Lựa chi những khúc tiêu hao
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người
Rõ ràng rằng Kim Trọng có những hạt giống của sự lành mạnh trong
tâm, và khi trong lòng có sự lành mạnh thì sẽ không đau khổ nhiều (hay nghĩ
đến nhiều sự đau khổ) như những người có chủng tử khổ đau lớn như Thúy
Kiều. Với những chủng tử khổ đau nhiều, lại được tưới tẩm liên tục bởi âm
nhạc và suy nghĩ nên đã góp phần đưa Kiều đi qua mười lăm năm rất đau
thương và cực khổ. Bản thân Thúy Kiều cũng nhận thấy điều này, nhưng lại
cho rằng:
Rằng: quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao
Theo Phật học, đây chính là tập khí mà Kiều không biết. Tập khí có thể
được hình thành từ thời thơ ấu hoặc được trao truyền từ những thế hệ trước.
Trong “Truyện Kiều”, chủng tử khổ đau được trao truyền cho Thúy Kiều chứ
không trao cho Thúy Vân hay Vương Quan. Mặc dù mọi thứ của chúng ta đều
từ chủng tử mà hình thành nên, nhưng chúng ta vẫn có thể làm thay đổi nó
thông qua việc thay đổi các tập khí bằng cách tưới hoặc không tưới các hạt
giống [31, tr.56-57].
Nhân vật đầu tiên trong câu chuyện của Nguyễn Du có ảnh hưởng lớn
đến những hành động tạo nghiệp của Thúy Kiều sau này là một hồn ma
78
(Đạm Tiên). Trên đường về nhà sau khi đi thanh minh, Thúy Kiều bỗng
thấy một ngôi mộ bên đường tiêu điều, không có người hương khói bèn
chạnh lòng hỏi:
“Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
“Rằng: “Sao trong tiết thanh minh
Mà đây hương khói vắng tanh thế này”
Vương Quan (em Thúy Kiều) bèn kể cho chị mình nghe về lai lịch và
cuộc đời đầy chông gai của người đang nằm dưới mộ. Đó là Đạm Tiên. Đạm
Tiên là một ca sĩ nổi tiếng xinh đẹp ngày xưa, chết khi đang còn trẻ và không
có người thân thích nên ngôi mộ này không có người chăm nom. Thúy Kiều
nghe vậy thì òa lên khóc (trong khi Vương Quan và Thúy Vân thì không có sự
rung động nào - Vân rằng: chị cũng nực cười, khéo dư nước mắt khóc người
đời xưa).
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy hóa công
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Dường như Kiều có những trực giác mà người bình thường không có
được. Cô tin rằng ở đâu đó Đạm Tiên vẫn tồn tại và nghe thấy lời cô nói (thác
là thể phách, còn là tinh anh). Với sự nhạy cảm của mình, Kiều linh cảm thấy
số phận của Đạm Tiên có mối liên hệ với số phận của mình sau này nên cứ ủ
dột nấn ná quanh mộ mà không chịu về.
79
Lại càng mê mẩn tinh thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra
Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Kiều nói với Thúy Vân:
Rằng: “hồng nhan tự thủa xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào”
Chính cái sự đa sầu, đa cảm và luôn nghĩ đến những điều không hay sẽ
đến với cuộc đời mình khi nghĩ về Đạm Tiên đã lại tưới tẩm lên hạt giống của
sự buồn đau, đầy tiêu cực của Kiều. Với niềm tin “thác là thể phách, còn là
tinh anh”, hồn ma của Đạm Tiên đã trở thành hiện thân của nghiệp lực theo
Kiều từ đó.
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội một thuyền đâu xa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Kiều không chỉ là một cô gái đa sầu, đa
cảm mà còn đa tình. Nàng đã mạnh dạn đem lòng yêu thương Kim Trọng
ngay trong lần đầu gặp gỡ, một điều rất xa lạ với lễ giáo phong kiến đương
thời. Chỉ một lần gặp gỡ ngắn ngủi thoáng qua thôi mà đã:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Du tiếp tục vượt qua những lễ nghi, những
quan niệm trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến khi ông để cho Kiều
vừa kín đáo, vừa đa tình đưa tín hiệu yêu thương bằng cách bỏ rơi cành kim
80
thoa, vừa mạnh mẽ và táo bạo khi hai lần chủ động sang nhà Kim Trọng (lần
thứ nhất là khi cha mẹ và hai em Thúy Kiều về quê ngoại ăn sinh nhật: Nhà
lan thanh vắng một mình, ngẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay; lần thứ hai là
khi chiều đến đã trở về nhà, thấy cha mẹ còn dở tiệc hoa, Kiều lại hấp tấp
chạy tìm người yêu: Đến nhà vừa thấy tin nhà, hai thân còn dở tiệc hoa chưa
về. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình) - một
hành động đã bị các nhà phê bình đạo đức đương thời phê phán gay gắt khi
đặt vấn đề đức hạnh của người phụ nữ. Và xa hơn nữa, Kiều còn tự do bày tỏ
tình cảm của mình với người mình yêu:
“Nàng rằng khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
Mặc dù là người con gái đa tình, chủ động và mãnh liệt trong tình yêu
với Kim Trọng, nhưng Kiều vẫn đủ tỉnh táo để phân biệt được ranh giới giữa
“tình” và “dâm”, giữa “mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm”:
"Thưa rằng đừng lấy làm chơi"
"Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu"
"Gieo thoi trước chẳng giữ giàng
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi liễu ép hoa nài
Còn thân ắt lại đền bồi có khi”.
Tất nhiên, dưới cách nhìn của Phật giáo, hành động không “tà dâm”
(không phạm giới tà dâm) này của Thúy Kiều đã giúp cô tích được nghiệp tốt
làm cơ sở cho sự chuyển hóa sau này. Nhưng dù sao thì Kiều cũng đã mắc
điều tình ái - đây chính là hành động tạo nghiệp xấu của Kiều. Khi con người
81
mắc phải lưới tình, con người trở nên bất an, lo lắng, sợ phải xa cách với
người mình yêu, rồi người ta tìm mọi cách để thỏa mãn và bảo vệ tình yêu của
mình… tất cả những điều đó làm cho con người không thể thoát khỏi nỗi khổ,
đặc biệt là nỗi khổ về tâm. Điều này là rất rõ nét trong trường hợp Thúy Kiều.
Những lúc Kiều đau khổ, bế tắc và chán nản nhất chính là lúc Kiều nhớ đến
Kim Trọng. Càng nhớ đến Kim Trọng, Kiều càng bị dằn vặt, day dứt vì đã
phụ tình chàng, vì đã không được ở bên chàng để thỏa nỗi nhớ mong và tình
yêu mà Kiều dành cho chàng. Những điều đó đã vô tình đẩy Kiều đi hết sự
đoạn trường này đến đoạn trường khác. Chính vì vậy, mối tình với chàng
Kim chính là một trong những nghiệp xấu đầu tiên mà Kiều đã mắc phải
trong cuộc đời Kiều - theo quan niệm của Phật học.
Bên cạnh những nghiệp do mình tạo ra trong cuộc sống hiện tại, theo
quan niệm của Phật giáo, con người còn phải chịu sự chi phối của rất nhiều
nghiệp được tạo ra trong quá khứ. Và cuộc sống của chúng ta cũng bị những
nghiệp nhân trong quá khứ đó ảnh hưởng mạnh mẽ.
Có thể thấy rằng, nhìn bề ngoài, thuyết luân hồi nghiệp báo của nhà Phật
có vẻ giống với thuyết định mệnh, nhưng về bản chất thì lại có sự khác nhau
căn bản. Bởi vì, cái “định mệnh” của triết lý nhà Phật do chính bản thân mình
định ra chứ không phải do bên ngoài sai khiến. Cái nghiệp tự mình gây ra cho
mình chứ không phải là cái nghiệp từ đâu gây ra mà bắt mình phải chịu.
Vì vậy, với cái định mệnh bị quy định bởi những nghiệp xấu ở tiền kiếp,
Thúy Kiều buộc phải gánh chịu những sự đắng cay, bất hạnh và đau khổ trong
cuộc đời của mình kể từ sau ngày Kim Trọng phải về quê chịu tang chú. Kiều
đã phải bán mình chuộc cha, rồi bị Sở Khanh lừa, bị Tú bà hành hạ ép phải ra
tiếp khách lầu xanh. Cùng quẫn, Kiều đã tìm đến cái chết. Nhưng theo quan
niệm của nhà Phật, chết không phải là hết. Chết chỉ là một sự thoát xác, sự
thay đổi từ một trạng thái sinh hoạt này sang một trạng thái sinh hoạt khác,
82
đau khổ hoặc sung sướng hơn, tùy nghiệp nhân mình gây tạo ra ở kiếp
trước. Cái nghiệp đã định đi đến đâu mới hết, thì cứ phải đi cho đến cùng, chứ
không sao trốn được. Không thể tự mình kết thúc theo ý của mình được. Do
đó, Nguyễn Du đã không cho Kiều toại nguyện khi tìm đến cái chết. Nguyễn
Du hay nói chính xác hơn là cái nghiệp của Kiều buộc Kiều phải sống để tiếp
tục trả nợ những gì mình đã tạo ra trong tiền kiếp.
“Rỉ rằng nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao
Số nàng nặng nghiệp má đào
Người dù muốn quyết trời nào đã cho”
“Người này nặng nghiệp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”
“Trời” hay “Trời xanh” ở đây không phải là tác nhân theo “đánh ghen”
bởi tài, bởi sắc làm Kiều bị đày đọa mà chính là những Nghiệp nhân Kiều đã
gây trong quá khứ nên bây giờ Kiều phải trả, không thể trốn thoát đi đâu mà
được. Nói khác hơn, “Trời” ở đây chỉ là một khái niệm, một hình ảnh được
mô tả như là một định luật chi phối vũ trụ và cuộc đời chứ không còn là vị
chúa tể “Trời xanh” có quyền ban phúc giáng họa nữa. Trong ý nghĩa ấy,
“Trời” là Nghiệp nhân mà “Trời” cũng là Nghiệp quả: “có Trời mà cũng có
ta”, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Phật giáo cho rằng con người có thể tác động làm thay đổi nghiệp quả
mà mình đang phải gánh chịu bằng những hành động tạo nghiệp tốt, một
trong những cách thức tạo nghiệp tốt chính là đi tu. Khi ta tu hành tốt thì ta sẽ
thay đổi được cuộc sống của bản thân, được giải thoát khỏi khổ đau và dục
vọng (nhân định thắng thiên). Còn nếu không tu hành đến nơi đến chốn,
không tạo nghiệp tốt thì con người phải thọ lãnh những nghiệp quả xấu do
những nghiệp nhân trong quá khứ của mình tạo ra:
83
“Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi
Dẫu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!”
Kiều đã nhận ra rằng, đã mang lấy nghiệp vào thân rồi thì cố gắng mà trả
nợ cho hết. Nếu không trả nợ hết mà chết thì sang kiếp sau vẫn tiếp tục phải
trả nợ, như vậy thì nợ sẽ chồng chất.
“Kiếp này trả nợ chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”
Mặc dù buộc phải chấp nhận nhắm mắt đưa chân theo dòng đời (“cũng
liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”, nhưng khi sự đau khổ lên đến cùng cực,
Kiều vẫn phải thốt lên:
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho cho hại cho tàn cho cân!
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã rất đúng khi nhận xét về bốn câu thơ này
rằng: Có sáu chữ “cho”. Như đóng đinh vào gỗ, mỗi chữ cho chuyên chở sức
mạnh của một nhát búa, thể hiện sự phẫn uất của con người (và tác giả) trước
số mệnh. Nếu tác giả không từng đau khổ thì không thể nào viết được bốn câu
thơ này. Tác giả cũng từng bị sỉ nhục trong cuộc đời. Cảm giác bị ô nhục
không phải là cảm giác của riêng Thúy Kiều [31, tr.115]. Đó chính là cõi lòng,
là tiếng than, là sự phẫn uất của Nguyễn Du đối với chính cuộc đời và số phận
của ông chứ không hẳn chỉ là tiếng than của Thúy Kiều.
Cứ tưởng cuộc đời đã mỉm cười với Thúy Kiều khi gặp được Thúc
Sinh, được Thúc Sinh chuộc khỏi tay Tú Bà và lấy về làm vợ lẽ, nhưng
đúng là cái nghiệp nó chưa buông tha Kiều, Kiều bị mẹ con nhà Hoạn Thư
84
lập mưu bắt về và hành hạ cho thỏa cơn ghen của Hoạn Thư với Thúc Sinh.
Oan nghiệp trong quá khứ của Kiều quá lớn nên Kiều phải trả giá trong
kiếp hiện tại:
Cũng là oan nghiệt chi đây
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng
Tất nhiên, nếu cứ đổ hết mọi đau khổ, bất hạnh của cuộc đời Kiều cho
cái nghiệp mà kiếp trước Kiều đã mắc phải thì có vẻ như không ổn lắm. Dưới
góc nhìn của Phật giáo, trong quá trình Kiều phải trả nợ kiếp trước, Kiều cũng
đã nhiều lần mắc phải nghiệp xấu ở hiện tại.
Đầu tiên là Nghiệp luyến ái Kiều mắc phải khi phải lòng và hẹn ước tình
yêu với Kim Trọng. Với hành động tạo nghiệp này Kiều đã phải chịu đựng sự
khổ đau về thân xác và sự dằn vặt về tinh thần do “giấc mộng hương quan” và
“người tình Kim Trọng” gây ra. Cái nhân đa tình đã bắt Kiều thọ cái quả nhớ
nhung đau đớn như thế.
“Ôi Kim Lang hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
“Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai.
Biết thân đến nước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”
Thứ đến là hành động Kiều đi tu ở Quan Âm Các với pháp danh Trạc
Tuyền (Tuyền là dòng suối, Trạc là tắm gội), nhưng lại phạm giới, tu không
đến nơi đến chốn nên đã tích nghiệp xấu. Theo quan niệm của Phật giáo, đi tu
không phải là để trốn tránh những đau khổ trong cuộc đời. Có thể trong cuộc
sống của chúng ta, khi đứng trước những đau khổ, chúng ta không thể hóa
giải được nó, không thể vượt qua được nó. Khi đó, việc xuất gia đi tu chính là
cách thức để chúng ta chuyển hóa những đau khổ đó khỏi cuộc đời của chính
85
chúng ta, cũng như giúp những người khác chuyển hóa sự đau khổ (khi gặp
hoàn cảnh như chúng ta trước khi đi tu).
Sư cô Trạc Tuyền đi tu ở Quan Âm Các không phải để chuyển hóa mà để
lẩn trốn hoàn cảnh bị Hoạn Thư đầy đọa và hành hạ mà thôi. Chính vì không
có chí nguyện tu hành thực sự nên sư cô đã phạm nhiều giới, trong đó có giới
nói dối và ăn cắp. Nếu Thúy Kiều quyết chí tu hành, quyết chí làm ni cô thì có
lẽ cuộc đời của Thúy Kiều sẽ chuyển sang một hướng khác, bình an, lặng
sóng hơn. Giả sử, khi thấy Thúc Sinh lén lút đến thăm, Thúy Kiều nên nói:
“thôi anh đừng đến đây nữa, em muốn đi tu, em muốn làm một người xuất gia
đàng hoàng”. Hoạn Thư nghe thấy vậy chắc chắn sẽ sung sướng và kính phục
Thúy Kiều. Kiều sẽ chẳng phải trốn đi đâu cả. Chỉ cần tu ở đấy cũng được
yên ổn phần đời còn lại của mình. Chính vì vậy, chìa khóa của vấn đề không
phải nằm ở Thúc Sinh hay Hoạn Thư mà nằm ở ngay trong trái tim của Thúy
Kiều. Vì Kiều đi tu mà không có quyết tâm tu nên mới xảy ra những lỗi lầm
sau đó [31, tr.176].
Trong khi nói chuyện với Thúc Sinh, Trạc Tuyền đã quên mất mình là sư
cô, đã nói chuyện, khóc lóc và cầm tay Thúc Sinh, thể hiện rằng mình rất
muốn gặp lại chàng:
“Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san”
“Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!”
“Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,”
86
Trong lúc Kiều đang tay trong tay với Thúc Sinh thì được báo tin rằng
Hoạn Thư đã nhìn thấy hết sự tình. Sợ lại phải chịu những đòn ghen hiểm ác
của Hoạn Thư, Kiều đã quyết định phải trốn khỏi Quan Âm Các để đến một
nơi khác lánh nạn. Trong lúc quẫn trí, Kiều đã lấy trộm đồ thờ bằng vàng bạc
trong chùa mang theo để đề phòng khi đói khát sẽ bán đi mua cơm ăn:
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Đã phạm giới ăn trộm, khi trốn đến chùa Am Chiêu Ẩm, Thúy Kiều còn
phạm giới nói dối. Vì sợ sư trụ trì Am Chiêu Ẩm (Giác Duyên) không cho ở
lại chùa, Kiều đã nói dối sư Giác Duyên rằng sư phụ của mình sai mình mang
chuông vàng, khánh bạc tới cúng dường cho sư Giác Duyên:
Gạn cùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh.
“Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu.
Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình dở ra.
Với những nghiệp xấu mắc phải ở kiếp hiện tại ấy, Kiều đã phải gánh
những hậu quả khổ đau ngay sau đó là bị lừa bán vào lầu xanh lần thứ hai.
Những tưởng cuộc đời của nàng sẽ hạnh phúc và được bù đắp khi gặp Từ Hải,
nhưng đúng là nghiệp kiếp của Kiều vẫn chưa hết đoạn trường.
“Mấy người phụ bạc xưa kia
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra
87
Lại sai lệnh tiễn truyền qua
Giữ giàng họ thúc một nhà cho yên
Mụ quản gia vãi Giác Duyên
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời”
Với thế lực của Từ Hải, Kiều đã thực hiện việc trả ân đối với những
người đã giúp đỡ và cưu mang Kiều lúc hoạn nạn như nhà họ Thúc, bà quản
gia nhà mẹ Hoạn Thư, sư Giác Duyên. Đồng thời Kiều cũng báo oán đối với
những người đã gây ra những đau khổ cho cuộc đời mình.
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh
Tú Bà với Mã Giám Sinh
Các tên tội ấy đáng tình còn sao
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Những oan ức và đau khổ của ngày xưa như một gánh nặng đè lên tâm
tư và suy nghĩ của Kiều, và Kiều muốn trút bỏ gánh nặng ấy bằng cách trừng
phạt những người đã làm cho Kiều đau khổ, Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan
dường đã vơi vơi cạnh lòng. Và, chính vì lựa chọn cách thức chuyển hóa gánh
nặng trong tâm của Kiều sai lầm nên việc Kiều vừa giết vừa hành hạ một số
người đã trở thành một vết đen, một nghiệp xấu mà Kiều mắc phải trong cuộc
sống hiện tại. Hậu quả của nó được Nguyễn Du chỉ ra ngay sau đó, ấy là việc
Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến dẫn đến việc hại chết Từ Hải và bị ép làm vợ của
một viên thổ quan.
Cuối cùng, khi đến sông Tiền Đường, nhớ lại lời nói của Đạm Tiên, Kiều
đã lựa chọn cái chết để kết thúc mọi đau khổ và bất hạnh mà mình đã phải
chịu đựng trong mười lăm năm qua, Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết
kiếp đoạn tràng là đây.
88
Kiều lựa chọn cái chết, đó là một sự giải thoát tiêu cực của Kiều, nhưng
nó cũng là một tin mừng của Thúy Kiều. Vì nếu không chết như vậy thì
không sống trở lại được. Hạt cây không chết thì cái cây không thể sinh ra
được, cũng giống như việc hạt lúa khi gieo xuống đất thì phải chết, nứt ra, tàn
hoại thì mầm cây mới trở thành cây con được. “Trong cơ âm cực dương hồi
khôn hay” nghĩa là khi cái âm đến chỗ sâu nhất thì cái dương bắt đầu sinh ra.
Kiều sẽ có sự chuyển hóa.
Có thể thấy những giọt nước mắt cụ Nguyễn Du nhỏ xuống để khóc cho
Thúy Kiều cũng chính là để khóc cho bản thân cụ. Cụ là người có tài, nhưng
cuộc đời của cụ cũng đầy thăng trầm, biến động khi đã thờ nhà Lê mà còn bị
ép buộc phải làm quan cho nhà Nguyễn. Đó chính là nỗi đau sâu thẳm trong
tâm của cụ.
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng quần thử soi.
Đời người đến thế thì thôi
Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay
3.2.2. Quan niệm về nhân quả của Phật giáo trong “Truyện Kiều”
Nhân quả Nghiệp báo vốn là một giáo lý phổ quát căn bản của đạo Phật.
Đạo Phật chủ trương tất cả mọi hành vi tạo tác của ba nghiệp thân, miệng, ý
con người đều tạo thành những Nghiệp nhân và Nghiệp nhân đó sẽ thành
Nghiệp quả hiện hành báo ứng ở ba thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai. Nói
khác hơn, không một sự vật gì ngẫu nhiên sinh ra, tất cả đều chịu sự tác động
tương hỗ của nhau.
89
Theo nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, Nguyễn Du đã ứng dụng “lý
thuyết nhân quả phổ thông” làm tông chỉ cho tư tưởng trong “Truyện Kiều”:
“Nhân nào quả ấy, hết quả này lại đeo cái nhân đã gây nên mà có cái quả
khác. Nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu, cứ luân chuyển mãi như thế
trong cõi hồng trần…Theo cái lý thuyết ấy, thì phàm phúc hay họa là ở tự
mình gây ra cho mình. Mình đã có cái hoàn toàn tự do mà làm việc thiện hay
việc ác, thì mình lại có hoàn toàn trách nhiệm về những việc ấy [24, tr.274] .
Và, cái thuyết nhân quả của Phật học là thế. Đem cái thuyết ấy mà so với một
đời nàng Kiều, thì thấy không có chỗ nào là không đúng…” [24, tr.274]. Còn
nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh thì nhận xét: “Đạo Phật đã bổ sung cho đạo
Nho ở chỗ nó dựa trên luật Nhân Quả để kết án cá nhân là tự mình gieo cái
mầm khổ cho mình ngay từ kiếp trước nên tự mình phải chịu lấy quả khổ của
kiếp này” [24, tr.556].
Kiều là người con gái sinh ra trong một gia đình tử tế, có nề nếp, xinh
đẹp, thông minh và tài giỏi. Nhưng ngay từ những bước chân đầu vào đời,
Kiều đã gặp phải nhiều nỗi éo le, bất hạnh. Tại sao điều đó lại đến với một cô
gái như Kiều? Bất kỳ ai khi đọc “Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng đặt câu
hỏi như vậy.
Thực ra, khi chúng ta đọc “Truyện Kiều” dưới góc nhìn của Phật giáo,
thì có lẽ chúng ta sẽ tự tìm được lời giải cho câu hỏi trên. Đó chính là cái
nghiệp nhân quá nặng mà Kiều phải thọ lãnh từ trong quá khứ đã chi phối và
quyết định những nỗi đoạn trường sau này của Kiều. Và, cái nghiệp nhân này
đã biểu hiện ra bởi sự đa tình, đa cảm của cô. Như Trần Trọng Kim đã nhận
xét: Vì cô đa sầu, đa cảm nên khi đi tết Thanh minh, người khác trông thấy
mả Đạm Tiên thì không ai để ý, còn cô trông thấy thì động lòng, rồi than khóc
cho cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của Đạm Tiên. Vì cô đa tình nên khi mới
nhìn thấy Kim Trọng lần đầu mà đã dan díu mối tơ tình, để về sau trong mười
90
lăm năm trời đeo lấy bao nỗi sầu khổ. Dường như mọi nỗi cơ cực nó xoay cả
vào một việc (Kim Trọng phải về quê gấp) làm cho Kiều phải đi đến chỗ đau
khổ. Nếu không, thì việc Kim Trọng về quê hoãn lại mấy ngày, sao đến nỗi
Kiều phải bán mình chuộc cha? Mà đã phải đi vào con đường ấy, sao không
gặp ai lại gặp gã Mã Giám Sinh. Nhưng cái dây nghiệp chướng cứ mỗi lúc lại
thắt chặt lại, bắt phải như thế. Người nào vào cái tròng ấy, muốn cựa cạy thế
nào cũng không gỡ ra được [24, tr.274-275].
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Vô duyên, có nghĩa là không có cơ duyên may mắn. May mắn không
phải ngẫu nhiên mà đến. May mắn được hiểu là những nhân duyên do mình
hoặc cha mẹ ông bà mình đã gieo trồng trong quá khứ. Thúy Kiều có sắc
đẹp và thông minh, nhưng lại thiếu những nhân tốt của đời trước (vô
duyên) cộng với sự đa tình và thêm cả ma đưa lối, quỷ dẫn đàng (ma quỷ ở
đây chính là những tâm hành tham, sân, si, mạn, nghi, tà, kiến) đã tạo nên
bi kịch của Thúy Kiều.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chưa bao giờ nói về những gì đã xảy
ra trong kiếp trước của Kiều, Kiều đã tạo ra những nhân gì để mà rồi trong
kiếp này, Kiều phải thọ lãnh quả nặng như vậy. Điều này đã gây ra một số
thắc mắc của các nhà nghiên cứu. Trong bài Triết lý “Truyện Kiều”, Hoàng
Ngọc Hiến viết: “Tư tưởng nhân quả khẳng định quan hệ nhân quả giữa kiếp
91
này, kiếp trước và kiếp sau. Nội dung hình tượng “Truyện Kiều” chỉ nói về
kiếp này của Kiều. Như vậy, quan hệ “Nhân Quả” không được bộc lộ ở ngay
nội dung hình tượng của tác phẩm. Đó là một quan hệ không có nội dung.
Cũng có thể nói rằng một cuộc đời của Kiều chia đôi làm hai kiếp mà thời
điểm phân chia là phút gieo mình xuống sông Tiền Đường. Nhưng như vậy,
quan hệ giữa hai kiếp này, nói đúng hơn, giữa hai đoạn đời này không phải là
quan hệ “nhân quả” theo tinh thần “luân hồi” của Phật giáo nhất thiết lấy sự
hóa kiếp làm tiền đề [24, tr.546].
Tuy nhiên, trong Kinh Phật có viết: Dục tri tiền thế nhân, Kim sinh thọ
giả thị. Dục tri lai thế quả, Kim sinh tác giả thị. Nghĩa là, muốn biết cái nhân
đã gây ở đời trước, hãy xem kết quả đang thọ nhận ở đời này. Muốn biết cái
quả trong đời sau, hãy nhìn hiện tại đã làm gì. Vì vậy, Nguyễn Du không cần
phải chỉ rõ cuộc sống của Kiều ở những kiếp trước là gì để có thể làm tiền đề
cho cuộc sống hiện tại của Kiều. Mà thực ra, Nguyễn Du có muốn kể về
những nghiệp nhân trước của Kiều thì cũng khó có thể kể được, bởi theo quan
niệm của Phật giáo, mối quan hệ giữa nhân và quả là không đứng yên, cố
định mà nó luôn biến đổi trong từng sát - na và nó còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác (trợ duyên). Trong mối tương quan chằng chịt ấy, việc xác
định nguyên nhân sinh ra một cây lúa đã là không thể (vì hạt lúa muốn thành
cây lúa còn cần phải hội đủ bao yếu tố khác: đất, nước, khí hậu, độ ẩm, sự
chăm sóc. v.v…) thì nói gì đến việc xác định nhân quả chi phối một con
người qua rất nhiều đời trong quá khứ và cả đời sống hiện tại nữa.
Mối quan hệ nhân - quả trong Phật giáo không đơn giản chỉ là sự liên
quan lẫn nhau giữa nghiệp nhân trong quá khứ và quả ở hiện tại, mà nó được
hiểu một cách biện chứng hơn ở chỗ, quả ở hiện tại là kết quả không chỉ của
nghiệp nhân trong quá khứ mà ngay cả nghiệp nhân ở hiện tại. Hay nói một
cách khác, mặc dù hiện tại là kết quả của quá khứ và là nguyên nhân của
92
tương lai, nhưng chúng ta phải hiểu rộng ra rằng hiện tại của chúng ta không
hoàn toàn được quyết định bởi quá khứ của chúng ta và cũng như vậy, tương
lai của chúng ta cũng không hoàn toàn bị quyết định bởi hiện tại của chúng ta.
Trong sự biến hóa vô cùng phức tạp của luật nhân quả, nghiệp báo,
chúng ta không thể nhìn vào kết quả hiện tại mà quả quyết nghiệp nhân ở quá
khứ và khẳng định quả ở tương lai. Giống như hình ảnh đổ một thìa muối vào
một bát nước và cũng đổi thìa muối ấy xuống sông Hằng mà Đức Phật đã kể
trong Kinh A Hàm. Với một người có cả một dòng sông thiện thì có một việc
sai trái cũng không ảnh hưởng nhiều. Nhưng với một người chỉ có một “bát
nước thiện” thì chỉ cần một hành động sai trái cũng đủ làm cay đắng cả cuộc
đời. Hai người có thể cùng có cùng một hành động tạo nghiệp nhân giống
nhau, nhưng lại có nghiệp quả khác nhau. Chính vì vậy, Thúy Kiều, dù là một
con người thương người, sống có trước có sau, yêu thương cha mẹ, sẵn sàng
bán mình để cứu cha mẹ và gia đình nhưng chỉ có “một bát nước thiện” (phận
mỏng) thôi nên phải chịu quả báo đau khổ trong cuộc đời.
Tuy nhiên, thuyết nhân quả của nhà Phật không phải là thuyết định mệnh
của phương Tây, nghiệp quả có thể được chuyển hóa nhờ những nghiệp thiện
ở hiện tại. Đức Phật có dạy:
Nếu có ai cho rằng con người phải gặt hái trọn hậu quả theo tất cả
những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức,
và con người cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền não, nhưng
nếu nói rằng quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời
sống đạo đức và con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não [8, tr.294].
Điều này có nghĩa rằng mười lăm năm đau khổ của Thúy Kiều không
hoàn toàn do nghiệp của quá khứ tạo ra mà Kiều cũng phải có trách nhiệm.
Chính tài, sắc và tình của cô ràng buộc đã làm cho cô cứ đi theo mà không thể
mở cho mình lối thoát khỏi vòng vây.
93
“Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.”
“Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc, tình là dây oan”
Mặc dù Kiều có một nghiệp nhân rất nặng và nàng phải trả nợ cho nhân
đó trong quá khứ của mình (Người này nặng kiếp oan gia, Còn nhiều nợ lắm
sao đà thác oan), nhưng chính nhờ những nghiệp nhân tốt mà Thúy Kiều đã
gieo trong đời hiện tại mà Kiều đã chuyển hóa phần nào nghiệp lực của nàng,
làm nhẹ đi quả báo của quá khứ.
“Sư rằng: song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.”
“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm”
“Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời”
“Hại một người cứu muôn người
Biết đường kính trọng biết lời phải chăng”
Như vậy, theo lời của Đạo cô Tam Hợp, trong thời gian lầm lẫn và đi vào
những chốn đoạn tràng do ma quỷ dẫn đường, Kiều đã tạo ra được ba nghiệp
nhân tốt. Thứ nhất, tuy vướng vào tình ái nhưng không phạm giới tà dâm (giữ
được trinh tiết trong cơn say tình ái với Kim Trọng, Mắc điều tình ái khỏi điều
tà dâm). Thứ hai, sẵn sàng hy sinh cuộc đời của mình để bán mình cứu cha
mẹ và hai em (Bán mình đã động hiếu tâm đến trời). Và, thứ ba là khuyên Từ
Hải quy thuận triều đình để chấm dứt binh đao, dân tình không phải chịu cảnh
chết chóc nữa (Ngẫm từ dấy việc binh đao, Đống xương Vô Định đã cao bằng
đầu. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào), nhưng
Kiều không biết mình đã bị Hồ Tôn Hiến lừa nên vô tình đã hại chết Từ Hải.
94
Cái lý thứ ba này Đạo Cô đưa ra có vẻ hơi gượng, vì thực ra Kiều đâu có cố
tình hại chết từ Hải mà lại nói là Hại một người cứu muôn người!. Tuy nhiên
nếu nhìn nhận từ góc độ của giai cấp thống trị phong kiến thì rõ ràng việc
Kiều (vô tình) giúp Hồ Tôn Hiến giết được Từ Hải là điều tốt chứ không phải
là điều xấu, là điều mà giai cấp thống trị phong kiến Việt Nam luôn khuyến
khích trước làn sóng chống đối nhà nước đang gia tăng của các phong trào
khởi nghĩa nông dân trong thế kỷ 18.
Có thể thấy rằng, ý tưởng của Thanh Tâm Tài Nhân (tác giả nguyên lục)
cũng như Nguyễn Du, là Kiều có hai nghiệp: một nghiệp xấu và một nghiệp
tốt. Con sông Tiền Đường là ranh giới giữa mười lăm năm khổ đau và quãng
đời hạnh phúc sau này. Nguyên nhân (nghiệp nhân) cho mười lăm năm khổ
đau khổ của Thúy Kiều là thiên mệnh, là những nghiệp báo từ quá khứ, ông
bà và kiếp trước của Thúy Kiều. Còn nghiệp nhân hiện tại của Thúy Kiều
chính là tài, sắc, tình (vướng mắc) và tâm (thiện tâm). Tài, sắc và tình, ba cái
làm lưng tựa (nhân) cho mười lăm năm khổ đau (theo lý thuyết của Nguyễn
Du). Nhưng cái tâm tốt đồng thời cũng tạo ra được vài thiện nghiệp. Nhờ
những thiện nghiệp đó mà tạo ra được giai đoạn thứ hai của đời Kiều, giai
đoạn tu hành với sư Giác Duyên và đoàn tụ với gia đình.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự chuyển hóa nghiệp quả tốt của Thúy
Kiều không thôi thì dường như là chưa đủ. Đối với cái nhìn nhân quả nghiệp
báo của dân gian thì nhân quả phải được họ nhìn thấy một cách trực quan,
ngay tại cuộc sống hiện tại của họ theo kiểu ở hiền gặp lành, ác giả ác báo,
đời cha ăn mặn, đời con khát nước, gieo gió gặt bão, gieo nhân nào, gặt quả
ấy …. Theo đó, những kẻ làm điều ác nhất định phải bị trừng trị, những người
lương thiện nhất định sẽ nhận được sự báo đáp công bằng, hạnh phúc.
Chính vì vậy mà Nguyễn Du đã sắp đặt cho Thúy Kiều thực hiện một
cuộc đền ơn, báo oán phân minh là nằm trong cách hiểu ấy:
95
Nàng rằng lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
Đối với dân gian, những kẻ bạc ác, gian giảo và thất nhân, thất đức như
Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Bạc Bà, Bạc Hạnh… cần phải
bị trừng phạt như là những nghiệp quả tất yếu mà họ phải lãnh nhận vì những
đau khổ mà họ đã gây ra cho Thúy Kiều nói riêng và những người dân hiền
lành, lương thiện khác nói chung.
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta ?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao ?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời .
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta !
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương
Có lẽ chi tiết Kiều thực hiện sự báo oán này trong “Truyện Kiều” là một
trong những chi tiết gây ra sự tranh luận mạnh mẽ nhất, đặc biệt khi nghiên
cứu nó theo quan niệm nhân quả của Phật giáo.
Rõ ràng rằng việc làm này của Kiều đã đi ngược với tinh thần từ bi của
nhà Phật. Phật giáo cho rằng không thể “Lấy oán báo oán”, bởi vì làm vậy
oán sẽ chất chồng. Chẳng hạn, nếu giết những người đã làm cho mình đau
96
khổ thì sẽ tạo ra sự oán hờn trong lòng con cháu của những người đó, và rồi
những người con, người cháu đó sẽ lại tìm cách trả thù. Điều này không
những không làm oán hận tiêu tan mà lại oán chồng oán. Vì vậy, đã là người
theo Phật pháp thì phải lấy ân báo oán, khi đó oán sẽ tiêu tan. Dưới cái nhìn
của Phật giáo thì hành động báo oán của Thúy Kiều không được cổ vũ:
“Những oan ức ngày xưa như một gánh nặng đè lên làm mình đau khổ, bây
giờ trả thù được thì nhẹ đi. Nhưng đó là suy nghĩ của người đời, không phải
của người tu hành (Trạc Tuyền). Người tu thì không làm theo cách đó. Làm
cách đó thì không nhẹ đi được [31, tr.240].
Tất cả những đau khổ, bất hạnh mà Kiều phải gánh chịu không phải do
những người kia gây ra, mà do nhân ở kiếp trước của Kiều hình thành nên. Vì
vậy, Kiều không thể sử dụng biện pháp báo oán để trút bỏ đi những đau khổ
và oan trái của mình ở hiện tại được. Theo quan niệm của Phật giáo, những
gánh nặng trong tâm Kiều (nội kết) phải được chuyển hóa thì tâm mới thực sự
nhẹ nhàng và được giải thoát.
Nhưng như trên đã nói, thuyết nhân quả mà Nguyễn Du đề cập đến trong
tình huống này là nhân quả mang tính dân gian rõ nét. Ở đó Nguyễn Du
(cũng như dân gian) muốn thông qua sự trừng phạt của Thúy Kiều để thể
hiện rõ ràng rằng, thuyết nhân quả báo ứng là một định lý hiển nhiên, có
thật. Mọi người kể cả nàng Kiều đều có thể được đáp ứng tương ứng với
những hành vi, ngôn ngữ và ý nghĩ của mình đã tạo ra trong kiếp sống hiện
tại. Cái ác sẽ (và phải) bị trừng phạt. Có thể ở một khía cạnh hay chừng
mực nào đó, oan nghiệp lẫn nhau giữa Thúy Kiều và những Tú Bà, Bạc
Hạnh… chưa hẳn đã tan, nhưng tác dụng giáo dục mang tính luân lý của
tác phẩm đối với xã hội thì rất tích cực. Phải chăng “Hại một người, cứu
muôn người” - đó chính là sự cảnh báo, răn đe cần thiết với những ai đã
đang và manh nha làm ác.
97
Cùng với cái ác phải bị trừng phạt thì cái thiện sẽ được đền đáp. Vì vậy,
Nguyễn Du đã không để Thúy Kiều phải chết mà đã giúp Thúy Kiều chuyển
hóa mọi oan khuất của cuộc đời trên sông Tiền Đường để bước sang một giai
đoạn mới, thọ lãnh một quả mới an vui và hạnh phúc hơn (còn nhiều hưởng
thụ về sau, duyên kia tròn trặn phúc sau dồi dào).
Theo quan niệm của Phật giáo, nhân và quả không tồn tại độc lập với
nhau mà có liên quan mật thiết với nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau.
Nhân không thể sinh ra quả nếu thiếu duyên. Bản thân nhân, quả cũng chỉ
mang tính tương đối, trong nhân đã chứa quả, và trong quả đã chứa nhân.
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong quả
hiện tại đã có hình bóng của nhân quá khứ. Khi nào điều kiện thuận lợi (có
duyên) thì nhân sẽ được chuyển hóa thành quả.
Trong “Truyện Kiều”, sông Tiền Ðường vừa là sự kết thúc của một cuộc
đời hồng nhan bạc mệnh, nhưng đồng thời cũng là khởi điểm cho một cuộc
đời mới sung sướng, bình yên và hạnh phúc hơn. Những nhân tốt mà Kiều đã
gieo đã chuyển hóa thành quả ngọt mà Kiều được thụ hưởng sau khi nhảy
xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu sống.
Có thể thấy, sư Giác Duyên là một nhân vật rất đặc biệt và quan trọng
trong cuộc đời của Thúy Kiều. Dưới cái nhìn của thuyết nhân quả thì Giác
Duyên chính là điều kiện, là duyên để nghiệp nhân tốt của Kiều được chuyển
hóa thành quả. Giác Duyên không phải chỉ là một con người, Giác Duyên là
tất cả những điều kiện có tác dụng làm cho Thúy Kiều bừng tỉnh (ngộ). Sự
xuất hiện của Giác Duyên trong đời Thúy Kiều là sự xuất hiện của Bụt. Và,
cũng nhờ Thúy Kiều đã chạm đến đáy vực của sự đau khổ cùng cực mà nhờ
có sự gieo trồng những hạt nhân tốt (ba nghiệp tốt mà đạo cô Tam Hợp đã nêu
ra), nhưng quan trọng hơn nữa đó là sự xuất hiện và nắm tay của Giác Duyên
đã giúp sự chuyển hóa nghiệp của Thúy Kiều thành công. Thiền sư Thích
98
Nhất Hạnh gọi Giác Duyên là tăng thân [31, tr.385]. Theo đó, sự chuyển
nghiệp của người tu hành là do công phu tu tập (ở Thúy Kiều đó chính là
những đau khổ oan trái lên đến cực điểm mà nàng phải trải qua trong mười
lăm năm; là ba nghiệp tốt mà sư Tam Hợp đã nói: không để Kim Trọng lấn
tới, bán mình và giết Từ Hải) và do tăng thân. Nhờ tăng thân (Giác Duyên)
hướng dẫn và cứu giúp nên Thúy Kiều đã được chuyển hóa hoàn toàn
“Nạn xưa trút sạch làu làu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này”
“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”
“Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”
Nhìn chung, trong “Truyện Kiều”, con người sống có đạo đức, hướng
thiện thì sẽ được đền bù, còn những kẻ bạc ác sẽ bị trừng phạt ngay trong
cuộc đời này. Như nhận xét của GS. Lê Văn Quán, đấy là triết lý hành động
nhân đạo của nhân dân. Tâm lý những nhân vật chính trong “Truyện Kiều” là
phản chiếu tâm sự Nguyễn Du, nghĩa là nỗi lòng - chí hướng, đau đớn và hy
vọng. Nguyễn Du đôi khi đã tự mình phủ định quan điểm tôn giáo của chính
mình và khẳng định giá trị chân thực chủ nghĩa nhân đạo của nhân dân. Trong
“Truyện Kiều”, triết lý Phật giáo được hiểu là tín ngưỡng thông thường của
quần chúng, theo xu thế chủ nghĩa nhân đạo gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa
hiện thực, không còn thuần nhất lấy thiện trị ác như lời dạy của Phật. Qua tính
chất không thuần nhất của triết lý Phật giáo trong ”Truyện Kiều”, chúng ta
thấy trí tưởng tượng định mệnh cũng như tư tưởng tài - mệnh - tâm vừa day
dứt lòng mà lại dễ bác bỏ, dễ phủ định bởi cái xã hội của nó. Ở ”Truyện
Kiều” quan hệ giữa người và người là những quan hệ xã hội gắn liền với vị trí
xã hội, với tâm lý riêng của từng người. Tất cả những điều liên quan ấy tạo
99
tiền đề cho chúng ta tìm đến những mâu thuẫn phức tạp trong nhân vật Thúy
Kiều, trong thế giới quan phức tạp của Nguyễn Du, để rồi xác định chân giá
trị ”Truyện Kiều” là chủ nghĩa nhân đạo của nhân dân ta [64, tr.56].
Tiểu kết chương 3
“Truyện Kiều” là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du - một nhà Nho,
một quan lại của triều đình phong kiến Việt Nam thế kỷ 18 - 19. Nhưng nội
dung của “Truyện Kiều” lại không hoàn toàn phản ánh những tư tưởng của
Nho giáo, của nhà nước phong kiến mà nó lại thấm đẫm những tư tưởng Phật
giáo, đặc biệt là các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả.
Thứ nhất, Cuộc đời đầy đau khổ và gian truân của Thúy Kiều chính là
do những nghiệp xấu trong tiền kiếp cũng như trong hiện tại của Thúy Kiều
(vướng vào chuyện tình ái với Kim Trọng, ăn trộm đồ thờ, nói dối sư Giác
Duyên, giết người khi thực hiện hành vi báo oán…). Vì vậy, Thúy Kiều phải
gánh chịu sự quả báo cho chính hành vi của mình (trong quá khứ cũng như ở
hiện tại) gây ra. Trước những nghiệp báo đầy đau khổ và bất hạnh ấy, Thúy
Kiều phải sống để trả nợ nó mà không thể dùng cái chết của bản thân để giải
thoát khỏi nó.
Thứ hai, trong mười lăm năm đoạn trường, Thúy Kiều không chỉ mắc
phải những nghiệp nhân xấu mà nàng còn tích được rất nhiều nghiệp nhân tốt.
Chính điều này đã giúp cho Kiều có được sự giải thoát khỏi đau khổ khi được
Giác Duyên cứu và đoàn viên với gia đình.
Thứ ba, Quan niệm nhân quả trong “Truyện Kiều” không chỉ thể hiện
trong cuộc đời của Thúy Kiều mà còn thể hiện ở quan niệm ở hiền gặp
lành, ác giả ác báo, đời cha ăn mặn, đời con khát nước, gieo gió gặt bão,
gieo nhân nào, gặt quả ấy …. Theo đó, những kẻ làm điều ác nhất định
phải bị trừng trị, những người lương thiện nhất định sẽ nhận được sự báo
100
đáp công bằng, hạnh phúc. Chính vì vậy mà Nguyễn Du đã sắp đặt cho
Thúy Kiều thực hiện một cuộc đền ơn, báo oán phân minh với những người
đã giúp hay hại mình.
Thứ tư, theo quan niệm của Phật giáo, nhân và quả không tồn tại độc lập
với nhau mà có liên quan mật thiết với nhau, đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau.
Nhân không thể sinh ra quả nếu thiếu duyên. Trong truyện Kiều, sông Tiền
Ðường, sư Giác Duyên chính là điều kiện, là duyên để nghiệp nhân tốt của
Kiều được chuyển hóa thành quả tốt. Giác Duyên không phải chỉ là một con
người, Giác Duyên là tất cả những điều kiện có tác dụng làm cho Thúy Kiều
bừng tỉnh (ngộ). Sự xuất hiện của Giác Duyên trong đời Thúy Kiều là sự xuất
hiện của Bụt, của Phật.
Có thể thấy rằng, việc Nguyễn Du sử dụng đến những tư tưởng nghiệp
báo và nhân quả của Phật giáo để lý giải cho cuộc đời đầy đau khổ và bất
hạnh của Thúy Kiều và lấy con đường tu, tích thiện của Phật giáo để cứu vớt
cuộc sống của Thúy Kiều đã cho thấy sự bế tắc và lúng túng của Nguyễn Du
trong việc lựa chọn một hệ tư tưởng xuyên suốt trong tác phẩm của mình. Tác
giả đã không chọn Nho giáo mà lại lựa chọn Tam giáo trong đó những tư
tưởng Phật giáo đóng vai trò trọng tâm.
Tất nhiên, Nguyễn Du đã không sử dụng những tư tưởng Phật giáo đó để
đổ thừa cho cái nghiệp, cái nhân quả chung chung đâu đó, mà thông qua
những tư tưởng đó, Nguyễn Du muốn nói về cuộc đời của mình, về xã hội
mình đang sống và hơn hết đó là những mong muốn thay đổi mà không thể
thực hiện được do những hạn chế có tầm thời đại trong tư tưởng của nhà thơ.
101
Chương 4
MỘT SỐ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ
VÀ Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
TRONG “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
4.1. MỘT SỐ GIÁ TRỊ CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG
“TRUYỆN KIỀU”
4.1.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” góp phần điều
chỉnh suy nghĩ và hành vi đạo đức của con người
Phật giáo không chỉ là một tôn giáo, một trào lưu triết học mà còn là
một cách sống, phương pháp sống do Đức Phật Thích Ca giáo huấn khoảng
2500 năm về trước. Với tính chất một triết thuyết vị nhân sinh, Phật giáo
mang lại cho con người cách nhận thức về cuộc sống và chỉ ra bản chất của
cuộc sống đó là khổ, đồng thời tìm ra con đường “thoát khổ”, hướng con
người tới những lý tưởng cao đẹp, nhân văn và từ bi, lấy điều thiện làm
chuẩn mực sống.
Rất nhiều tư tưởng nhân sinh của Phật giáo nói chung và trong “Truyện
Kiều” nói riêng đã và đang ảnh hưởng đến đời sống của con người Việt Nam
hiện đại. Đó là quan niệm về thiện - ác của Phật giáo; quan niệm từ, bi, hỉ, xả,
bình đẳng, bác ái, vị tha, tu thân, tích đức, nhẫn nhịn; nuôi dưỡng nhân tâm để
đạt tới trí tuệ giải thoát của nhà Phật. Thuyết luân hồi, nghiệp báo của đạo
Phật giúp họ có ý thức hơn trong mỗi hành động, lời nói và suy nghĩ của
mình. Những nội dung đó được thể hiện trong lối sống, trong suy nghĩ và đến
cả sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ là một kiệt tác về văn thơ, mà
hơn thế nữa, nó còn là một tấm gương lớn nơi mỗi người (khi đọc “Truyện
Kiều”) đều có thể nhìn thấy hình ảnh của mình, của cuộc đời mình ở trong đó.
102
Như thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhận xét: “Truyện Kiều” là truyện về cuộc
đời, có những hoàn cảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê của cuộc đời. Lấy con
mắt của người quán chiếu nhìn vào “Truyện Kiều”, chúng ta có thể thấy được
bản chất của cuộc đời. Những điều xảy ra trong mười lăm năm của cô Kiều có
thể xảy ra cho bất cứ một người nào [31, tr.6]. Ông thậm chí còn gọi “Truyện
Kiều” là một cuốn kinh của Phật giáo. Ông viết: “Trong quá khứ, có nhà Nho
đã liệt “Truyện Kiều” vào loại dâm thư vì trong truyện có tả đời sống của một
gái giang hồ. Họ có thể đứng về phương diện đạo đức của Nho giáo mà nói
như vậy. Nhưng dùng con mắt quán chiếu mà nhìn cuộc đời của Thúy Kiều, ta
có thể học được bài học của khổ đau và kinh nghiệm. Nếu biết cách đọc,
chúng ta có thể học được rất nhiều từ “Truyện Kiều” như học từ một cuốn
kinh. Và “Truyện Kiều” sẽ không phải là dâm thư mà là kinh điển [31, tr.5-6].
Tất nhiên, nhận định này của Thích Nhất Hạnh không hẳn là không có cơ sở.
Với hình ảnh Kiều sáng tác bản nhạc Bạc mệnh từ khi mới 16 tuổi, cùng
với những tâm lý sầu đau, buồn bã và tiêu cực trong cuộc sống, Nguyễn Du
muốn cảnh tỉnh những hành vi, suy nghĩ của chúng ta ở hiện tại. Theo đó, dẫu
có trải qua khó khăn, bất hạnh và đau khổ dường nào, thì chúng ta cần có tinh
thần lạc quan, luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp sẽ đến với mình. Điều này sẽ
góp phần giúp chúng ta có tinh thần tốt nhất để có thể vượt qua những khó
khăn, bất hạnh ấy. Ngược lại, nó sẽ kéo ta xuống tâm trạng tiêu cực, không
thể giúp chúng ta vượt qua những đau khổ mà mình đang gặp phải.
Theo cách giải thích của Phật giáo thì những đau khổ, bất hạnh của Thúy
Kiều là do những nghiệp nhân ở tiền kiếp tạo ra. Ngoài ra, những nghiệp nhân
này lại được tưới tẩm bởi tâm tư, tình cảm mang tính sầu đau, bi quan, yếm
thế của Thúy Kiều. Điều này đã không giúp cho Kiều giảm bớt đi những quả
báo mình phải thọ lãnh mà nó càng thúc đẩy những quả đó xảy ra và siết lấy
Thúy Kiều. Trong bốn lần Nguyễn Du miêu tả Thúy Kiều gảy đàn thì có tới
103
ba lần diễn tả tâm trạng sầu bi, ai oán và tang thương của Thúy Kiều. Lần đầu
là cảnh Kim Trọng ngồi nghe Kiều đánh đàn.
“Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”
Kim Trọng là người không phải gánh nghiệp nhân đau khổ như Thúy
Kiều, đồng thời, Kim Trọng cũng khác Thúy Kiều ở chỗ không bi quan, yếm
thế và luôn nghĩ tới những sự không may mắn và tiêu cực như Thúy Kiều.
Thế nhưng, khi một tâm hồn lạc quan, tích cực bị tưới tẩm bởi những giọt
nước sầu đau, yếm thế đã làm cho nó bị cuốn hút vào thế giới sầu khổ với một
tâm lý bất an, tiêu cực (Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi chau đôi
mày”. Lần khác, Kiều đã tấu bản nhạc này ở nhà của Thúc Sinh với tư cách
của một người đầy tớ đàn cho ông bà chủ nghe:
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt tương
Một lần nữa Kiều phải đàn cho Hồ Tôn Hiến để ăn mừng thắng trận sau
khi lừa và giết được Từ Hải:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Theo quan niệm của Phật giáo, trong mỗi con người chúng ta luôn có
nhiều loại hạt giống khác nhau (nhất thiết chủng tử). Có hạt giống vui, hạt
104
giống buồn, hạt giống tích cực, hạt giống tiêu cực… Có những hạt giống cần
tưới tẩm và có những hạt giống không nên tưới tẩm. Khi chúng ta vun trồng,
tưới tẩm hạt giống nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi theo hướng của
hạt giống đó. Vì vậy, chúng ta không nên tưới tẩm những hạt giống tiêu cực,
sầu đau của mình. Hát và ngâm thơ là một cách tưới tẩm những hạt giống
trong lòng mình. Thúy Kiều đã thực hiện việc tưới tẩm các hạt giống của
mình bằng âm nhạc và thi ca. Nhưng thay vì tưới tẩm những hạt giống tốt,
tích cực, Kiều lại tưới tẩm những hạt giống sầu đau, tiêu cực. Điều này đã tác
động rất xấu đến cuộc sống của Thúy Kiều trong hiện tại.
Chính vì vậy, việc sống trong tinh thần lạc quan, hưởng thụ những tác
phẩm âm nhạc, tác phẩm văn học nghệ thuật trong sáng, lành mạnh, vui tươi
cũng đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta
không muốn cuộc sống trở nên sầu bi, tiêu cực và bế tắc.
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, toàn bộ sự thăng trầm và đau khổ
của Kiều không hoàn toàn do nghiệp trước của nàng gây ra.
Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có trời mà cũng tại ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan.
Khi đọc “Truyện Kiều”, chúng ta sẽ không chỉ tìm thấy sự đồng cảm của
mình đối với Thúy Kiều mà còn có thể nhìn thấy hình ảnh của mình trong
Thúc Sinh, Từ Hải, Mã Giám Sinh, Tú Bà… Với mỗi nhân vật ấy, chúng ta có
thể rút ra những bài học quý giá cho bản thân.
Ai cũng vậy, không nhiều thì ít cũng có sự đam mê và nhu nhược của
Thúc Sinh trong con người mình (Thúc Sinh rất yêu Thúy Kiều, nhưng không
nghe lời khuyên của Kiều để đến nỗi Kiều phải gánh chịu sự trả thù của Hoạn
Thư, và khi thấy sự đau khổ của Kiều, Thúc Sinh đã không đủ sự dũng cảm
(do bản tính sợ vợ) để cứu Thúy Kiều.
105
Dù ai cũng có sự nhu nhược của Thúc Sinh trong con người, nhưng đôi
lúc, chúng ta lại tỏ ra là người có khí phách anh hùng như Từ Hải, thấy sự bất
bình chẳng tha. Trong cuộc sống, nếu chúng ta thường xuyên tưới tẩm hạt
giống của sự khí khái, anh hùng thì hạt giống đó sẽ lớn lên, còn hạt giống của
sự nhu nhược như Thúc Sinh thì không nên tưới tẩm. Khi đó, chúng ta sẽ có
thể trở thành một người có bản lĩnh, mạnh mẽ và quyết tâm như Từ Hải.
Cũng như vậy, trong mỗi chúng ta còn có hạt giống của sự ghen ghét, đố
kỵ như Hoạn Thư. Tự bản thân chúng ta không thể nhận ra hạt giống ganh
ghét đó, và chúng ta cũng có những lý lẽ khác nhau để biện minh cho thái độ
ganh ghét của mình. Chính sự ganh ghét, đố kỵ của mỗi chúng ta sẽ làm cho
những người bị chúng ta ghen ghét, đố kỵ đau khổ, phiền muộn.
Vì vậy, thông qua “Truyện Kiều”, chúng ta cần học tập tinh thần Từ, Bi,
Hỷ, Xả của Phật giáo để chuyển hóa cái ghen của mình. Cần phải biết tha thứ
cho lỗi lầm của người khác cũng như vui cái vui, cái hạnh phúc của họ. Có
như vậy, ta mới có một cái tâm thanh thản, nhẹ nhàng và hạnh phúc, mới có
một nghiệp nhân tốt cho tương lai. Cũng giống như Hoạn Thư vậy, ở Hoạn
Thư, không chỉ tồn tại sự ghen ghét, đố kỵ, trong cô cũng có sự từ bi và tha
thứ. Sau khi đọc tờ khai của Kiều, Hoạn Thư đã tha thứ và cho Kiều đi tu ở
Quan Âm Các. Dù nghe lỏm được câu chuyện giữa Kiều và Thúc Sinh, nhưng
Hoạn Thư đã lờ đi, không canh gác để cố ý cho Kiều chạy trốn; Kiều đã lấy
trộm chuông vàng khánh bạc của nhà chùa trong lúc trốn chạy, nhưng Hoạn
Thư vẫn không truy đuổi dù cô có đủ phương tiện và nhân lực để truy đuổi.
Chính những hành động nhân từ này đã tạo nghiệp nhân tốt và giúp cho cô
thoát khỏi sự trừng phạt của Thúy Kiều sau này.
Rồi những hạt giống xấu của Tú Bà, Mã Giám Sinh, Ưng, Khuyển…,
chúng ta đều có nó ở trong mỗi chúng ta. Tất cả chúng ta, người nào cũng có
những hạt giống tốt và những hạt giống xấu. Vấn đề là chúng ta phải biết chấp
106
nhận nhau và giúp đỡ cũng như chăm chút, tưới tẩm để những hạt giống tốt
trong mỗi chúng ta ngày càng phát triển, còn những hạt giống xấu thì ngày
càng mất dần đi.
Như Thích Nhất Hạnh đã nhận xét: Đọc “Truyện Kiều” dưới con mắt Phật
học sẽ giúp chúng ta thấy rằng người nào cũng có mặt trong ta cả. Họ ở ngay đó,
trong đời sống hàng ngày. Ta chỉ đưa tay ra là đụng. Bằng chánh niệm chúng ta
nhận diện ngay lập tức những hạt giống của những nhân vật đó trong ta và trong
người xung quanh. Ta phải thấy được họ và thấy một cách sáng suốt để có thể
giúp họ và phản chiếu nội tâm ta. Thấy để bắt chước những cái hay, cái đẹp cũng
như tránh lặp lại những lỗi lầm của họ [31, tr.212].
Trong cuộc sống, có thể có những người nhìn ra và ngày ngày tưới tẩm
những hạt giống tốt mình có, nhưng cũng có những người vô tình không nhận
ra những chủng tử tốt trong cơ thể của mình, mà lại đi tưới tẩm những hạt
giống xấu, thực hiện những điều ác, những điều trái với giới luật nhà Phật.
Mặc dù, có thể trong hiện tại, những người bạc ác, bất lương (tưới tẩm những
nhân xấu, tạo các nghiệp xấu) vẫn hưởng những cuộc sống sung sướng, an
nhàn và ngược lại, những người hiền lành lương thiện (tưới tẩm những nhân
tốt, có nghiệp nhân tốt) nhưng cuộc sống lại vất vả, đau khổ (Ăn trộm, ăn
cướp thành Phật thành tiên, Đi chùa, đi chiền bán thân bất toại).
Nhưng, theo thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo, điều đó không
phải là mãi mãi, nó có thể do những hành động nghiệp nhân của họ tạo ra và
nhất thời như vậy, nhưng trong tương lai sẽ có sự thay đổi. Mọi hành động
độc ác (nghiệp xấu) trong cuộc sống đều bị trả giá (Mã Giám Sinh, Tú Bà,
Ưng, Khuyển….), còn những hành động tốt sẽ được đền bù xứng đáng (Thúy
Kiều, Hoạn Thư, Giác Duyên…).
“Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta”
107
“Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.”
Mọi thứ đều có nhân quả của nó, mọi nghiệp quả mình lãnh nhận đều do
hành vi của chính mình (nghiệp nhân) gây ra. Trồng bắp thì được ăn bắp,
trồng đậu thì được ăn đậu, gieo gió thì gặt bão. Khi mình yêu thương, đối xử
tốt với một người nào đó thì mình được người đó yêu thương, đối xử tốt lại.
Còn khi mình phản bội độc ác với một người nào đó thì mình sẽ bị đáp lại
bằng sự độc ác và phản bội của chính người đó hoặc của một người nào khác.
Vì vậy, chúng ta phải tự chịu trách nhiệm trước chính chúng ta và cộng đồng
vì những hành vi mình đã tạo ra.
“Chị sao phận mỏng phúc dày,
Kiếp xưa đã vận lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
Âm công cất một đồng cân đã già”
Nhờ những nghiệp nhân tốt tích được trong cuộc sống mà Kiều đã
chuyển hóa được chính cuộc sống của mình và có được một kết cục thỏa đáng
“Còn nhiều hưởng thụ về sau, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào”. Chính
những quan niệm ấy đã ảnh hưởng đến tư duy, lối sống của người Việt. Họ
luôn khuyên nhau làm điều thiện, tránh điều ác vì nhân nào quả nấy.
Trồng cây chua ăn quả chua
Trồng cây ngọt ăn quả ngọt
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Qua đó, đã góp phần điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của mỗi người trong
cuộc sống, hướng họ đến những việc tốt để hưởng quả lành và lánh xa những
việc ác để tránh quả xấu.
108
4.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” giúp con
người tìm được sự “tĩnh tâm”, hướng thiện trong cuộc sống
Trong quan niệm của Phật giáo, “tâm” là phạm trù cơ bản được hiểu theo
hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, “tâm” chính là ý thức, là ý chí, tình cảm, sự hiểu
biết…. Ngoài ra, “tâm” còn biểu hiện ra là những tư tưởng, xúc cảm, cảm giác,
tư duy, tinh thần, tâm linh, linh hồn, tâm trạng… là tất cả những gì mà có thể
suy tư và lĩnh hội. “Tâm” còn là tất cả những gì mình có thể hiểu biết và ý
thức. Tất cả ý thức và vô thức hay hạ thức, tiềm thức, hiện thức và thượng thức,
theo Kinh Bát Nhã, đều thuộc về “tâm” [2, tr.28]. Theo đó, “cái “tâm” tự bản
tính là thanh tịnh và thoát khỏi các phạm trù xác định và vô định, là cái chúng
sinh hữu tình hiểu một cách lầm lạc” (Kinh Lăng Già, kệ 750).
Nghĩa thứ hai, “tâm” được hiểu là Bản thể vũ trụ, là tâm thể, là thực
tướng, chân tâm [2, tr.29]. Với cách hiểu này thì Phật giáo luôn nhấn mạnh
“tâm” với nghĩa là sự thanh tịnh, không vọng động, không thay đổi theo ngoại
vật. Người đắc đạo, theo nhà Phật, phải đạt được cái “tâm” theo nghĩa này.
Ngoài ra, “tâm” cũng được coi là một trong những yếu tố đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành thế giới và chi phối các hoạt động của con
người. Theo đó thì hết thảy mọi cái đều bởi “tâm” tạo ra. “Tâm” sinh thì
vật sinh, “tâm” diệt thì vật diệt, “tâm” làm chủ vật, vật chuyển theo “tâm”.
Nếu không có “tâm” thì cũng sẽ không có vật, sở dĩ vật tồn tại được là do
có “tâm”, không có “tâm” thì vật là gì thì cũng không ai biết. Ngay cả tên
gọi của vật cũng do “tâm” đặt ra. Trong kinh luận Phật giáo thường chép:
‘Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức’ (ba cõi dục giới, sắc giới, và vô sắc
giới là do tâm, vạn pháp hữu hình, vô hình, tâm pháp, sắc pháp đều do thức
tạo ra). Nghĩa là tâm là chủ thể của muôn sự muôn vật. Ở giữa đời này, sở
dĩ có muôn vạn sai biệt, có những màu sắc, âm thanh khác nhau, tất cả đều
do tâm. Riêng đối với con người ta, tâm là động cơ chính thúc đẩy ta đến
109
hành động, mà hành động ấy thiện hay ác, tốt hay xấu, một phần lớn cũng
phải căn cứ vào tâm.
Khi Phật giáo vào Việt Nam thì chữ “tâm” của Phật giáo được người Việt
hiểu với nghĩa gần gũi với đạo đức, với con người hơn. Chữ “tâm” lúc này được
gắn nhiều hơn với những giáo lý từ bi, hướng thiện, đạo đức của nhà Phật.
Trong điều kiện hiện nay, giữa bộn bề lo toan của cuộc sống, đôi khi
chúng ta vì mải mê chạy theo những dục vọng, những ham muốn vật chất tầm
thường mà đã vô tình hay hữu ý chà đạp lên những giá trị tốt đẹp của cuộc
sống. Những lúc ấy, chúng ta cần có những khoảng tĩnh lặng trong tâm hồn để
chúng ta tìm lại bản thân mình, nhìn nhận lại giá trị thực sự của cuộc sống.
Khi ấy “tâm” thực sự quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người. Bởi lẽ
nếu mọi hành động của chúng ta đều xuất phát từ “tâm từ”, “tâm bi”, “tâm
cảm thông”, “tâm trí tuệ” thì cuộc sống này chắc hẳn sẽ trở nên tốt đẹp hơn,
tình người hơn, đáng trân trọng hơn rất nhiều.
Với câu chuyện về thân phận và sự đau khổ mà Kiều gặp phải, có thể
nhìn nhận nó dưới một cách nhìn khác, đó là sự “tĩnh tâm”. Mặc dù cuộc sống
của Kiều bị chi phối bởi những nghiệp quả xấu trong tiền kiếp, nhưng rõ ràng
rằng, với những hành động ở hiện tại cũng đã tác động không nhỏ đến tương
lai của Kiều sau này. Vì vậy nếu như ngay từ đầu và cả những biến cố sau này
nữa, Kiều biết tĩnh tâm, biết gạt đi những dục vọng đời thường, nhận ra sự vô
thường của vạn pháp mà không cố chấp bám giữ vào những ảo ảnh của cuộc
sống, không sai lầm tạo ra nghiệp báo mới thì có lẽ cuộc đời của Thúy Kiều
đã khác đi rất nhiều.
Ngay từ đầu câu chuyện, khi Kiều “phải lòng” Kim Trọng, rồi tìm mọi
cách để gặp mặt, để bày tỏ tình cảm và nỗi nhớ nhung khôn nguôi của mình
với Kim Trọng, đặc biệt trong lần gia đình Kiều về quê ăn giỗ và Kiều đã lén
sang nhà Kim Trọng. Người thường hay người trong cuộc cứ nghĩ rằng đó là
110
khoảng thời gian hạnh phúc của Thúy Kiều vì đã thỏa mãn được sự nhớ
nhung người tình Kim Trọng của mình, nhưng thực ra, đó không phải là sự
sung sướng, hạnh phúc. Kể từ đây, Kiều sẽ luôn gặp phải rắc rối vì chữ tình
này. Bởi dưới góc nhìn của nhà Phật, khi Kiều mắc phải chữ tình này thì Kiều
sẽ luôn bất an, lo lắng, phiền não… vì tình. Đó là sự đau khổ chứ không phải
hạnh phúc.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.
Rõ ràng chúng ta thấy không có hạnh phúc thật trong mối tình của Kim
Trọng và Thúy Kiều. Dường như cái tâm của hai người không an. Họ thiếu
cái gì thì đi tìm cái đó, và khi chưa kiếm được thì chưa an tâm. Lúc có
hạnh phúc thì không biết rằng mình đang có hạnh phúc. Hạnh phúc mất rồi
mới biết là mình đã có nó. Thời gian hạnh phúc nhất của Thúy Kiều là từ
nhỏ đến năm mười sáu tuổi, trước khi gặp chàng Kim. Thời gian đó là thiên
đường, nhưng cô đâu biết đó là hạnh phúc. Bị mũi tên tình ái bắn trúng vào
tim rồi thì mất hạnh phúc. Từ đó về sau chỉ toàn là những vết thương đau
khổ mà thôi. Thiên đường hạnh phúc có đó mà mình không tiếp xúc được.
Mình đi tìm một cái khác. Cái khác đó, là thế giới đau khổ. Mình tưởng
rằng chạm được vào cái đó là chạm được hạnh phúc. Nhưng sự thật không
phải như vậy [31, tr.63].
Vì cái tâm bất an, không thiền định nên con người ta không nhận ra được
thực tướng của vạn pháp, từ đó dẫn đến những nhận thức sai lầm và những
hành động tạo nghiệp. Chính vì sự vô minh này mà con người nói chung,
Thúy Kiều nói riêng đã để mặc (không làm chủ được) cho những tham dục,
ngạo mạn, mê muội của đời thường kéo đi. Trong “Truyện Kiều” có câu:
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
111
Có nghĩa là, khi con người ta không có năng lực, không có sự tĩnh tâm
thì sẽ bị những tham, sân, si của cuộc đời (hồng trần - bụi đỏ) cuốn theo và đó
chính là nguyên nhân của những đau khổ mà con người mắc phải. Trong cuộc
sống của chúng ta, mỗi người như đang cưỡi trên một chiếc xe, nếu chúng ta
không tĩnh tâm để điều khiển chiếc xe thì chúng ta sẽ bị cuốn vào vòng xoáy
của nghiệp báo, còn đau khổ. Còn nếu chúng ta điều khiển được chiếc xe, làm
chủ được cuộc sống của mình thì chúng ta sẽ giải thoát khỏi những tham dục
và vô minh, chúng ta sẽ không thấy đau khổ nữa. Đó chính là cách thức mà
những nhà tu hành theo Phật giáo lựa chọn.
Vậy nên ở chốn thong dong,
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
Vì mang lấy một chữ tình nên dù có được ở trong chốn thong dong, thì
Thúy Kiều vẫn ở không yên ổn ngồi không vững vàng, vẫn bị ma đưa lối quỷ
dẫn đàng,để tìm những chốn đoạn tràng mà đi. Chốn thong dong là chốn có
những người có thể bước những bước chân thảnh thơi, ngồi uống trà, ăn cơm
có hạnh phúc, có thể ngồi yên từ giờ này sang giờ khác mà không cần phải
bôn ba chạy đi đâu hết. Đã có duyên đi tới những chốn thong dong đó nhưng
vẫn không thong dong được. Vẫn đi thì như “chó đạp phải lửa”, vẫn ngồi
như ngồi trên than hồng. Không tiếp xúc được với sự thong dong ở trong lòng
mình và xung quanh mình [31, tr.272]. Nói cách khác, bản chất của luân hồi,
nghiệp báo và nhân quả nằm ngay trong chính con người, trong chính hành vi
của chúng ta.
Vì vậy, dù gặp hoàn cảnh nào, khó khăn nào trong cuộc sống, bên cạnh
sự lạc quan, yêu đời, chúng ta cũng cần có sự an trú trong tâm, để sao cho
chúng ta có thể ở cho yên ổn, ngồi cho vững vàng. Khi tâm không an trú thì
chúng ta luôn tham lam, lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ và tà kiến. Chính những con
ma này sẽ đưa chúng ta vào những hoàn cảnh đen tối, giống như Thúy Kiều
112
vậy. Thúy Kiều vì muốn níu kéo tình cảm của Thúc Sinh nên dù đã đi tu ở
Quan Âm Các nhưng vẫn gặp và than khóc với Thúc Sinh để đến nỗi Hoạn
Thư bắt gặp, rồi lại vì lo lắng, sợ đòn ghen của Hoạn Thư mà bỏ trốn khỏi
Quan Âm Các. Cũng bởi nỗi sợ bị đói trên đường bỏ trốn mà phạm vào giới
trộm cắp. Khi gặp sư Giác Duyên, do lo Giác Duyên không cho mình trú ngụ
ở Chiêu Ẩn Am nên đã nói dối…Hết nạn ấy đến nạn kia, thanh y hai lượt,
thanh lâu hai lần.
Và phải chăng, nếu cái tâm của Kiều được an trú, tĩnh lặng và sáng suốt
thì có lẽ cuộc đời của Thúy Kiều đã không trải qua ngần ấy những nỗi gian
truân, chìm nổi. Cái căn bản nằm ở trong trái tim của Thúy Kiều chứ không
phải nằm ở Hoạn Thư hay Thúc Sinh. Nếu Kiều yên phận tu hành ở Quan Âm
các, không vướng víu, níu kéo tình cảm với Thúc Sinh thì Kiều đã không phải
bỏ trốn, không phải ăn trộm, nói dối để rồi lại lưu lạc vào chốn lầu xanh lần
thứ hai…
Thông qua hình ảnh của Thúy Kiều, chúng ta có thể học được rất nhiều
bài học về sự an trú (tĩnh lặng) của “tâm”. Nếu chúng ta cứ ngồi một nơi
nhưng tâm một nẻo, nếu chúng ta làm việc và tu tập ở chỗ này, nhưng tâm
tưởng của chúng ta lại đang hướng về một việc khác, nếu chúng ta cứ mải mê
chạy theo sự vô thường và ảo ảnh của cuộc sống để cho sự tham dục, kiêu
ngạo và vô minh dẫn dắt thì chúng ta sẽ không bao giờ thành công, không bao
giờ chuyển hóa được hết sự đau khổ trong cuộc đời mình.
Trong phần cuối của “Truyện Kiều”, sau khi phải trả giá vì sự bất an, bấn
loạn của “Tâm” với hành động nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử, Kiều đã
tìm được trạng thái tĩnh lặng, an trú trong “Tâm” sau khi được sư Giác Duyên
cứu sống và đưa về cưu mang trong một ngôi chùa được dựng bên bờ sông.
Kể từ đây, cuộc đời của Thúy Kiều đã chuyển hóa sang một giai đoạn mới,
Kiều đã được giải thoát khỏi sự đau khổ.
113
Nguyễn Du mô tả cuộc sống của Thúy Kiều cùng với Giác Duyên trong
giai đoạn này bằng những câu thơ:
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Chợ văn bán sách lầu cao,
Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.
Dưới cái nhìn Phật học thì có thể thấy hạnh phúc của Thúy Kiều chính là
đây, bởi vì, chỉ khi tinh thần, tư tưởng thanh thản, cái “tâm” được an trú, tĩnh
lặng thì Kiều mới cảm nhận được gió trăng mát mặt. Còn nếu cái “tâm” của
ta đang bất an, biến động thì dù trăng có đẹp, gió có mát ta cũng không thể
cảm nhận được cái đẹp, cái an nhiên tự tại của thiên nhiên. Trăng đẹp và gió
mát có cũng như không.
Muối dưa chay lòng ở đây được hiểu là trong lòng Kiều không còn
nhuốm những màu sắc, ham muốn ở ngoài đời nữa, đã buông bỏ những bon
chen ngoài xã hội, không còn đi tìm kiếm những cái mà ngoài đời người ta
cho là thiết yếu cho hạnh phúc, và đã biết chấp nhận nếp sống đơn giản nhưng
đem lại hạnh phúc thật sự cho mình. Hạnh phúc ở đây không phải là sự giàu
sang phú quý, hạnh phúc đơn giản là do “tâm” của chúng ta tạo ra nếu chúng
ta biết hài lòng với những gì chúng ta đang có mà không phải bon chen chạy
theo những yêu cầu và ham muốn của xã hội.
Sư rằng: phúc họa đạo trời.
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Đúng là gặp phúc hay họa là ở cái lý nhân quả, nhưng cội nguồn của nó
lại do chúng ta, do những hành động tạo nghiệp mà chúng ta tích phải. Nếu
chúng không có cái tâm an tịnh, xa lánh bụi trần, lúc nào cũng phiền não và u
mê chi phối thì chúng ta còn đau khổ.
Với Thúy Kiều, mười lăm năm đau khổ đã giúp nàng nhận ra điều đó
114
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Tất cả những phiền não, dục vọng, tham, sân, si, danh lợi… không còn
trong lòng của Kiều nữa. Vì vậy, Kiều không muốn trở về chốn bụi bặm làm
gì. Lửa lòng ở đây là phiền não. Không có lửa dục, lửa tham, lửa sân nữa thì
gọi là tắt lửa lòng. Nhưng đã có một thứ lửa khác nhem nhúm, đó là lửa tam
muội, lửa từ bi. Đây là một sức sống mới trong con người Thúy Kiều.
Vì vậy, dù vẫn nhận lời về ở với bố mẹ, kết hôn với Kim Trọng, nhưng
Kiều lại “Từ rày khép cửa phù thu, Chẳng tu mà cũng như tu mới là”. Đó
chính là sự dứt khoát đoạn trừ những ràng buộc của trần thế (tâm an tịnh) đối
với cuộc sống của nàng, nhưng nàng không cô lập mình trong sự đoạn trừ đó.
Nếu như trước đây Thúy Kiều đã từ chối Kim Trọng và giữ được giới bất tà
dâm, thì bây giờ, cũng với Kim Trọng, nhưng Thúy Kiều không cần phải giữ
giới nữa bởi vì Thúy Kiều đã trải qua quá nhiều đau khổ, đã có kinh nghiệm
về sự sống, về giá trị của vật dục, dục lạc. Do vậy, Kiều đã đạt tới trình độ
không cần giữ giới nữa mà giới vẫn được giữ như thường, Thúy Kiều không
cần giữ Giới mà Kim Trọng cũng không phạm Giới. Theo Phật giáo, giữ Giới
là khi nào mình còn yếu, còn khi mình đã giải thoát rồi thì không cần giữ Giới
mà Giới vẫn được giữ. Vua Trần Thái Tông ngày xưa, trong sách Khóa Hư đã
viết: khi mới tu học thì chúng ta cần phải niệm Bụt, tụng Kinh và giữ Giới
nhưng khi chúng ta đã giải thoát rồi thì: “Đâu còn Bụt để mà niệm, Kinh nào
để mà tụng, Giới nào để mà trì” [31, tr.339].
Như vậy, thông qua hình ảnh và cuộc đời của Thúy Kiều, có thể thấy
rằng trong cuộc sống, đặc biệt trong cuộc sống hiện đại ngày nay, đôi khi
chúng ta mải mê chạy theo, tìm kiếm và thỏa mãn nhu cầu cuộc sống vật chất
của bản thân mà vô tình hay hữu ý làm cho cuộc sống chúng ta trở nên bó
buộc, căng thẳng, mệt mỏi, đôi khi là sự bế tắc. Những lúc như vậy, chúng ta
115
hãy tĩnh tâm trở lại, tìm lấy một sự an trú về tinh thần, từ đó tìm ra những con
đường, cách thức sống cho phù hợp với hoàn cảnh của bản thân. Có như vậy
mới giúp chúng ta giải thoát khỏi sự khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
Bên cạnh sự tĩnh tâm trong cuộc sống, thông qua câu chuyện về thân
phận và cuộc đời của Thúy Kiều cũng như các nhân vật khác trong “Truyện
Kiều”, Nguyễn Du đã phần nào đưa ra những sự cảnh tỉnh đối với những
người đang làm những việc xấu như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hoạn Thư, Bạc
bà, Bạc Hạnh… cũng như khuyến khích và động viên những người làm việc
tốt như Bà quản gia, sư Giác Duyên…
Từ đó, giúp người Việt Nam có một phương pháp hướng thiện hữu hiệu
bằng cách quan sát mọi người, quan sát mọi vật xung quanh, thông qua đó
điều chỉnh hành động của mình sao cho phù hợp. Quan niệm “ở hiền gặp
lành”, “cha mẹ hiền lành để phúc đức cho con”, “ác giả ác báo” đã ăn sâu vào
nếp nghĩ của con người Việt Nam, ít nhiều tạo ra lối sống hiền hoà, cởi mở
của người Việt. Đồng thời họ cũng tin rằng nếu ăn ở thất đức, làm nhiều việc
ác khi còn sống thì sau này linh hồn sẽ bị đầy ải xuống địa ngục, con cháu của
họ sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu (đời cha ăn mặn, đời con khát nước hay tu
nhân tích đức cho con cháu). Do đó họ tích cực làm phúc, giúp người trong
lúc gặp hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn.
Với niềm tin vào thuyết nhân quả, nghiệp báo, Phật giáo đã chi phối ý
thức đạo đức cũng như hành vi của mỗi tín đồ, hướng tín đồ đến những hành
động (nghiệp) thiện mà xa lánh hành động (nghiệp) ác. Không những vậy, nó
còn lan toả và tác động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, tạo ra cho con
người một sức mạnh tinh thần để vượt lên cám dỗ vật chất, những trắc trở
trong cuộc sống, hướng họ vào một lý tưởng sống tốt đẹp, vị tha. Tình thương
và lòng nhân ái có thể giúp con người hạn chế bớt tính ích kỷ, từ bỏ tham,
sân, si cốt lõi của những thói xấu, những mâu thuẫn, xung đột và bạo hành
trong xã hội.
116
4.2. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG
“TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
4.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” không phản
ánh đúng nguyên nhân đau khổ, bất hạnh của con người
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác viết: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [49,
tr.11]. Điều này được hiểu là, những quan hệ xã hội ấy thể hiện toàn bộ hoạt
động cụ thể của con người. Không có con người trừu tượng mà chỉ có những
con người sống và hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất
định, với những điều kiện lịch sử nhất định. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ
xã hội cụ thể đó, con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thật sự của
mình. Chúng ta sẽ không thể hiểu về một con người nếu như chúng ta tách họ
ra khỏi các mối quan hệ xã hội mà họ tham gia và tồn tại.
Trong “Truyện Kiều”, khi Nguyễn Du tìm cách lý giải về căn nguyên
những đau khổ, bất hạnh và gian truân mà Thúy Kiều phải gánh chịu trong
suốt cuộc đời mình, ông đã không bám vào hiện thực xã hội phong kiến mà
Kiều đang sống ở trong đó. Thay vào đó, ông đã tỏ ra lúng túng, đôi lúc còn
thể hiện sự bất lực, bế tắc khi lý giải nguyên nhân của sự đau khổ và bất hạnh
của Kiều:
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.
Theo đó, lúc thì Nguyễn Du đổ tội cho tài - sắc (vì có tài, có sắc nên trời
đất và con người ghen tỵ, dẫn đến khổ:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
“Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
117
Lúc thì ông lại đổ tội cho mệnh trời:
“Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”;
“Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha”
Hay:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Và, cuối cùng thì lại quy cho nghiệp báo, nhân quả tạo nên
Đã mang lấy nghiệp vào thân;
Rỉ rằng nhân quả dở dang;
Người này nặng nghiệp oan gia.
Vì không thấy được căn nguyên xã hội của những đau khổ và bất hạnh
của Thúy Kiều nên Nguyễn Du phải dựa vào sự giải thích trong các lý thuyết
tài mệnh tương đố, định mệnh của Nho giáo, nhân quả - nghiệp báo của Phật
giáo. Điều này cũng phần nào cho thấy Nguyễn Du còn lúng túng và chưa
hoàn toàn thỏa mãn với một trong những lý thuyết trên khi mà ông không
nhất quán sử dụng một lý thuyết nào xuyên suốt từ đầu cho đến cuối câu
chuyện, mà sử dụng cả hai tư tưởng trên. Đây chính là hạn chế của Nguyễn
Du khi ông chịu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo vào nội dung
“Truyện Kiều”.
Như C.Mác đã khẳng định: “Không thể nhận định được về một thời đại
đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức
ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa
các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” [51, tr.15].
Điều đó có nghĩa là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội
là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội
118
thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị,
đạo đức, triết học, tôn giáo… sẽ thay đổi theo. Ngoài ra, C.Mác cũng khẳng
định: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [51, tr.15].
Muốn tìm hiểu về căn nguyên những đau khổ bất hạnh mà Kiều gặp phải thì
chúng ta phải tìm kiếm nó trong đời sống xã hội hiện thực, chứ không phải trong
các tư tưởng, quan niệm về tôn giáo như nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật.
Hầu hết các nhà nghiên cứu về “Truyện Kiều” đều nhận thấy có cả một
xã hội “Truyện Kiều”, cái xã hội mà đã sản sinh ra cuộc sống bi đát của Thúy
Kiều. Xã hội ấy bắt đầu với bộ máy thống trị, từ thằng bán tơ đến ông tổng đốc
Hồ Tôn Hiến (mà đằng sau Hồ Tôn Hiến là cả một triều đình phong kiến).
Chính vì cái bộ máy nhà nước ấy với những viên quan tham lam, vô
trách nhiệm đã đẩy gia đình Thúy Kiều vào chỗ kiệt quệ, mất hết tài sản để
đến nỗi Thúy Kiều phải bán mình cho bọn bất lương Mã Giám Sinh, Tú Bà để
cứu gia đình. Trong mười lăm năm, Kiều phải đối diện với ba ông quan: một
ông ăn hối lộ, một ông xử án bằng thơ, và cuối cùng cũng là đỉnh điểm sự đầy
đọa (của chính quyền) đối với Kiều chính là Hồ Tôn Hiến - một ông quan bội
ước. Hồ Tôn Hiến là người đại diện triều đình, nhưng hắn lại là kẻ hèn nhác,
phản trắc khi làm những việc bất nhân bất nghĩa và đê hèn khi lừa dối Kiều để
giết Từ Hải. Có lẽ thông qua hình ảnh của những ông quan này Nguyễn Du
muốn nói đến sự suy đồi, thối nát của chính quyền phong kiến hiện thời.
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây
Oan này còn một kêu trời nhưng xa
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Con người bị áp bức giày xéo trong chế độ phong kiến chỉ còn biết kêu
trời bởi những kẻ “cha mẹ dân” cầm cân nảy mực không những không giải
oan, mà lại chính là những thủ phạm gây ra biết bao oan khốc.
119
Mặc dù “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được tiếp nhận từ một câu
chuyện của Trung Quốc, cái xã hội phong kiến với bộ máy quan lại thối nát
của nó mà “Truyện Kiều” đề cập đến chủ yếu là xã hội của Trung Quốc chứ
không phải xã hội Việt Nam, nhưng rõ ràng rằng, xã hội Trung Quốc thời Gia
Tĩnh triều Minh hay xã hội Việt Nam thời cuối Lê đầu Nguyễn đều là xã hội
phong kiến (tất nhiên mức độ có khác nhau giữa các xã hội phong kiến ở vào
các giai đoạn phát triển khác nhau) và đều suy thoái, lạc hậu và cần phải thay
thế như nhau.
Về bản chất, chế độ phong kiến ở cả hai nước trong thời kỳ này đều bắt
đầu bước vào thời kỳ suy tàn. Trong sự suy tàn đó, bắt đầu có sự hoài nghi,
phủ định những tư tưởng truyền thống của xã hội phong kiến cũng như sự
phản kháng, bài trừ những xiềng xích của chế độ phong kiến chuyên chế tập
quyền. Đồng thời với đó là sự thể nghiệm và bắt đầu lĩnh hội (dù còn mơ hồ)
hệ tư tưởng tự do, dân chủ của xã hội mới…
GS Đặng Thai Mai có viết:
Tập truyện của Nguyễn Du cố nhiên không phải là bức chân dung
chụp lấy mọi nét đặc sắc kinh tế, chính trị của xã hội Việt Nam đầu
thế kỷ XIX. Nhà thi sĩ không phải là nhà khoa học xã hội. Trong tác
phẩm của Nguyễn Du, ta chỉ nên nhận lấy những tia hồi quang soi
rọi cho mọi người nhìn thấy những nỗi mâu thuẫn của xã hội phong
kiến trên con đường phân hóa [24, tr.731].
Sự phản ánh (soi rọi) của xã hội phong kiến Việt Nam trong “Truyện
Kiều” không chỉ dừng lại ở những hình ảnh về đội ngũ quan lại tham lam và
dốt nát, mà còn thể hiện ở những tệ nạn xã hội với những thành phần bất
lương, độc ác chuyên sống trên thân xác của người dân mọc lên nhan nhản
như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Bạc Bà, Bạc
Hạnh…mà hình như cứ bước chân ra khỏi nhà là rơi vào nhà chứa. Thúy Kiều
120
bước chân ra khỏi nhà cha mẹ mình thì rơi vào tay Tú Bà, bước chân ra khỏi
nhà Thúc Sinh thì rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh, và lần cuối, khi Từ Hải chết,
Kiều không bị rơi vào nhà chứa thì cũng phải lao xuống sông Tiền Đường để
tự vẫn.
Còn GS Trần Đức Thảo trong bài viết Nội dung xã hội của “Truyện
Kiều” đã nhận xét:
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Kiều là một điển hình lý
tưởng, đủ đức lẫn tài, giữ được phẩm giá cao quý, tinh thần trong
sạch trong những hoàn cảnh hết sức nhục nhã. Đây, mâu thuẫn giữa
lý tưởng và thực tế được diễn tả một cách thấm thía, làm cho chúng
ta cảm thấy những mâu thuẫn thực tại chia xé xã hội phong kiến suy
đồi, những mâu thuẫn ấy không thể nào giải quyết một cách khác
hơn là bằng mộc cuộc khởi nghĩa của nông dân. Những sự việc nói
chung thì đã được kể trong Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng chỉ có
trong Nguyễn Du nó mới mang được một ý nghĩa sâu sắc. Đó là nội
dung chân chính mà Nguyễn Du đã sáng tạo, phản ánh thực tại tiến
hoá của xã hội Việt Nam đời Lê mạt - Nguyễn sơ [75].
Cũng theo giải thích của GS Trần Đức Thảo, sự suy vong của gia đình họ
Vương chính là biểu hiện mâu thuẫn giữa tiểu phong kiến và phong kiến
thống trị. Tầng lớp thống trị dựa vào những phần tử lái buôn để đàn áp tầng
lớp tiểu phong kiến, và ngược lại một số con buôn lại lợi dụng chế độ quan
liêu để làm giàu với những thủ đoạn ty tiện, buôn thịt, bán người”. Những
phần tử tiểu phong kiến phá sản oán ghét những bọn tham quan ô lại đã đàn
áp họ, đồng thời họ cũng oán ghét những hạng lái buôn dùng thủ đoạn để tiếp
tục áp bức bóc lột họ. Hai mối thù ấy thống nhất trong cùng một lòng căm
giận tác hại của đồng tiền, trong cùng một tư tưởng nhân đạo đòi bảo vệ
quyền sống của con người chống bọn quan lại hối lộ và bọn con buôn đầu cơ.
121
Tuy nhiên, họ chỉ có thể quan niệm cái quyền sống ấy trong hệ thống tư tưởng
thống trị. Nhưng vì trong thực tế khách quan, họ bị đàn áp và truất ra khỏi
giai cấp phong kiến, đẩy về với quần chúng nhân dân, thái độ phản kháng của
họ có phần nội dung chính đáng, phù hợp với ý nguyện của quần chúng [75].
Chính sự câu kết của những thế lực đen tối trong xã hội phong kiến suy
đồi, sự tham lam xem thường pháp luật của quan lại, chế độ buôn bán phụ nữ
một cách phi nhân tính đã là nguyên nhân cuộc đời lưu lạc long đong suốt
mười lăm năm của Thúy Kiều. Những nguyên nhân này đều phản ánh sự thối
nát của tầng lớp quan lại và sự đen tối của xã hội đương thời.
Mặc dù Nguyễn Du đã chỉ ra những mặt trái, những tiêu cực, những tồn
đọng cần phải xóa bỏ trong xã hội phong kiến nói chung, xã hội phong kiến
thời đại Nguyễn Du nói riêng, nhưng do những quan niệm đã hình thành hoặc
được kết tụ một cách vô thức nhưng thâm căn cố đế trong tư tưởng, kết hợp
với kinh nghiệm sống của chính Nguyễn Du đã không thể dẫn lối một cách
sáng suốt cho ông đi lý giải các hiện tượng xã hội phức tạp và bất thường. Vì
vậy, ông vẫn chỉ dừng lại ở việc miêu tả chứ chưa chỉ ra được nguyên nhân xã
hội của những vấn đề trên. Ở một khía cạnh nào đó, ông đã đi tìm lời giải
trong các quan niệm về tài mệnh tương đố của Nho giáo, nghiệp báo, nhân
quả của Phật giáo, qua đó biểu lộ tình cảm thương tiếc buồn đau của chính
mình. Dù sao thì hạn chế về nhân sinh quan, thế giới quan này của Nguyễn
Du cũng bị chi phối bởi thời đại của ông.
4.2.2. Nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” không chỉ ra
được phương pháp thực tiễn để giải phóng những con người có thân
phận đau khổ
Với sự hạn chế về nhận thức luận mang tính thời đại, Nguyễn Du đã
không thực sự chỉ ra được những nguyên nhân thực tiễn của những đau khổ
mà con người nói chung và Thúy Kiều nói riêng gặp phải. Chính vì không chỉ
122
ra được những nguyên nhân đúng đắn nên Nguyễn Du đã đưa ra những biện
pháp sai lầm trong việc xóa bỏ những đau khổ và bất hạnh của con người
trong xã hội phong kiến. Thứ nhất, ông đã phải cầu viện đến các giải pháp của
tôn giáo để có thể cứu giúp con người khỏi sự đau khổ; Thứ hai, ông cũng đã
nghĩ đến trách nhiệm của nhà nước phong kiến trong sự bất hạnh và cùng cực
của con người, nhưng vì còn quá nhiều sự ràng buộc với chế độ phong kiến
nên ông không đi đến cùng cuộc cách mạng mà mình đã gợi ra. Ông không
dám lật đổ cái chế độ mà ông đang phụng sự mà chỉ dám lên án nó, cảnh báo
nó bằng một số cuộc khởi nghĩa không thành công mà thôi.
Thứ nhất, theo Nguyễn Du, mọi sự đau khổ và bất hạnh của Thúy Kiều
đều bắt nguồn từ nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Vì vậy, Kiều phải tự
chịu trách nhiệm cho những hành động tạo nghiệp của mình trong quá khứ.
Kiều cũng không thể than trách cái xã hội phong kiến nhiễu nhương mà Kiều
đang sống đã làm cho Kiều đau khổ:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Hay,
Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng khéo đền bù mới xuôi
Và, vì đã quy cho tiền kiếp, cho luật nhân quả nên Kiều cũng không thể
nhanh chóng thay đổi cuộc đời của mình được, mà phải chấp nhận nó, nhẫn
nhịn chịu đựng nó như là một món nợ phải trả (vì nếu không trả thì nó sẽ
ngày càng nhiều hơn và không thể trốn tránh khỏi món nợ đó được). Cùng với
sự nhẫn nhịn đó là những hành động mang tính cá nhân để có thể thay đổi
cuộc sống của mình theo hướng tốt đẹp hơn trong tương lai (tích nghiệp nhân
tốt để hái được quả ngọt). Con người phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, diệt
trừ tham, sân, si, thực hiện những hành vi mang tính đạo đức như Kiều đã
123
thực hiện không mắc điều tà dâm, có hiếu với cha mẹ, có công trong việc giết
một người mà cứu muôn người để thay đổi cuộc sống của mình.
Rõ ràng rằng đây là một sự lẩn trốn thực tế, một biện pháp cải tạo xã hội
và cuộc sống con người mang tính bi quan, yếm thế và thụ động. Nếu theo
cách thức giải phóng đó nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, thực
hiện một triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu
dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài
thực tại. Chúng ta không thể sử dụng tôn giáo (hình thái ý thức xã hội - yếu tố
tinh thần) để cải tạo và thay đổi thực tiễn xã hội mà ta đang sống.
Xét ở một góc độ nào đó, quan niệm về nghiệp báo, nhân quả của Phật
giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã góp phần hình thành nên thế
giới quan và nhân sinh quan sai lệch của con người, làm hạn chế tính tích cực,
chủ động và sáng tạo của con người. Nó, mặc dù, hướng con người tới khát
vọng hạnh phúc, song, đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn
nhục, chấp nhận phải trả nợ của những nghiệp trong tiền kiếp mà nó đề cập
đến thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh, tạo thái độ bàng quan trước
thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận, không tích cực đấu tranh chống lại
những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người. Chính tâm lý đó đã ngăn cản
con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế.
Thêm nữa, quan niệm về nghiệp báo, nhân quả của Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá
nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có
quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của
con người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi
những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con
người. Như C.Mác đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà
124
những quan hệ xã hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn
thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi.
C.Mác cũng cho rằng, chúng ta không thể lấy bất kỳ yếu tố tư tưởng,
tinh thần (tôn giáo) nào để giải thích về nguồn gốc cũng như làm biến đổi cái
tồn tại xã hội mà ta đang có, và “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất” [48, tr.580] mà thôi.
Vì vậy, chỉ có một biện pháp duy nhất mới có thể thay đổi được cuộc
sống đau khổ và đầy bất hạnh của Thúy Kiều cũng như những tầng lớp nhân
dân trong xã hội phong kiến, đó là cách mạng xã hội mang tính thực tiễn. Cần
phải sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ sự thống trị của xã hội phong kiến
đương thời thì những người có hoàn cảnh đau khổ và bị áp bức như Thúy
Kiều mới có thể thay đổi cuộc sống của mình.
Và, có lẽ Nguyễn Du phần nào đã hiểu ra điều đó khi ông xây dựng hình
tượng Từ Hải trong tác phẩm của mình - một thủ lĩnh của những người bị áp
bức dưới chế độ phong kiến thối nát đương thời. Từ Hải là biểu tượng đại
diện cho những tầng lớp cư dân muốn lâ ̣ ̣t đổ chế độ phong kiến với hệ tư
tưởng Nho giáo đã tỏ ra quá lạc hậu trong thời kỳ này để xây dựng một chế độ
chính trị mới với hệ tư tưởng tiến bộ hơn.
Tuy nhiên, quá tiếc khi mà Nguyễn Du không đi đến cùng cuộc cách
mạng về tư tưởng và thực tiễn của mình trong việc chống lại nhà nước phong
kiến. Ông chỉ dừng lại ở việc lên án, cảnh báo nhà nước và chế độ phong kiến
mà thôi. Có lẽ điều này có nguyên nhân từ chính hoàn cảnh của Nguyễn Du
cũng như mối quan hệ quá mật thiết của gia đình và bản thân ông đối với nhà
nước và chế độ phong kiến. Chính nhờ chế độ và nhà nước phong kiến mà
ông và gia đình mới có được sự giàu có và địa vị cao trong xã hội. Chính vì
vậy mà Từ Hải không đi đến cùng được cuộc khởi nghĩa của mình, không lật
đổ được chế độ phong kiến đó và giải phóng cho dân nghèo, thay vào đó, Từ
Hải phải chết dưới tay Hồ Tôn Hiến.
125
Như tác giả Lê Đình Kỵ đã nhận xét:
Chưa bao giờ cái tư tưởng trung quân lại được bộc lộ trắng trợn và
đáng ghét như vậy. Không phải vô tình mà Nguyễn Du đã để cho
cuộc đời lưu lạc của Kiều chấm dứt sau khi Từ Hải chết. Cái mà
Nguyễn Du chỉ nói mập mờ thì Đạm Tiên và sư Tam Hợp lại nói
thẳng ra: cái chết của Từ Hải là điều kiện để Kiều được rút tên ra
khỏi sổ đoạn trường, là điều kiện để được đoàn viên. Nguyễn Du
không phải là Đạm Tiên và sư Tam Hợp, nhưng một lúc nào đó,
Nguyễn Du ít nhiều đã tán thành họ. Bao nhiêu ước mơ và hào hứng
gửi vào Từ Hải để rồi cuối cùng cho phép các nhân vật của mình nói
những điều phũ phàng, độc địa như thế kia [44, tr.141].
Có lẽ, với Nguyễn Du, cuộc nổi dậy của Từ Hải chỉ là sự đấu tranh mang
tính tự phát, chỉ là nỗi bức xúc của người không chịu nổi những bất
bình trong xã hội, chỉ là muốn thể hiện chí tung hoành của một người thích tự
do mà thôi. Chiến thắng của Từ Hải chỉ là để giúp Kiều báo ân, báo oán chứ
chưa thật sự đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Nói đúng hơn, sự nổi dậy của Từ Hải chỉ vì lợi ích cá nhân mà thôi. Vì
vậy, sự nổi dậy này chỉ tát vào mặt chế độ phong kiến cho hả giận chứ không
đe doạ sự tồn vong của chế độ này. Ở một mức độ nào đó, Nguyễn Du chỉ
muốn dừng lại ở việc trừng phạt bọn bất lương chứ không muốn thay đổi chế
độ phong kiến đương thời. Như nhận xét của nhà nghiên cứu Hoài Thanh,
Kiều là tiếng ta thán của Nguyễn Du và của bao nhiêu người ngột
thở trong cái khuôn phong kiến. Từ Hải là một giấc mơ, một lối
thoát cho những con người đó, trong khi bị bó buộc, bị giày vò vẫn
ao ước được vẫy vùng giữa khoảng trời cao bể rộng. Song Nguyễn
Du đã không dám ta thán đến cùng, Nguyễn Du cũng không dám
mơ ước đến triệt để. Nguyễn Du đã nửa đường bỏ dở. Cái mộng anh
126
hùng Nguyễn Du không biết đưa nó đến đâu cho ổn, lối thoát ra
ngoài nửa chừng bị nghẽn. Túng thế Nguyễn Du đành trở về chỗ cũ.
Nhưng người trở về mà lòng để đâu đâu nên trở về mà vẫn chán
chường và bất mãn [24, tr.468].
Đó là hạn chế lớn trong tư tưởng thời đại của Nguyễn Du.
4.3. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
TRONG “TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU
4.3.1. Nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du giúp thấy được quá trình tiếp biến tư tưởng trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam
Với vị trí chiến lược về địa lý của mình (nằm trong bán đảo Đông
Dương, giữa Ấn Độ và Trung Hoa), người Việt đã sớm có sự giao lưu tiếp xúc
với các dân tộc khác trên thế giới, cũng như sớm bị các thế lực bên ngoài
trong khu vực xâm lược với âm mưu đồng hoá hoàn toàn dân tộc Việt. Nhưng
với truyền thống văn hoá sâu sắc, tinh thần đoàn kết cộng đồng chặt chẽ,
người Việt không chỉ tiến hành thành công công cuộc chống lại sự đồng hoá
của các quốc gia lớn, mà còn tiếp thu được những tinh hoa của các nền văn
hoá khác, biến các giá trị văn hoá ngoại lai thành giá trị văn hoá của bản thân
mình, từ đó hình thành nên bản sắc văn hoá riêng có của người Việt. Trong sự
tiếp thu văn hoá đó, không thể không nói đến sự tiếp biến tư tưởng Phật Giáo
vào Việt Nam.
Phật Giáo mặc dù được ra đời ở Ấn Độ với những quan niệm về thế giới,
về nhân sinh rất khác so với người Việt Nam thời kỳ đầu, nhưng vẫn được
chấp nhận và tiếp tục phát triển, giúp cho Phật Giáo càng ngày càng trở thành
một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Lúc
này Phật Giáo không còn là Phật Giáo nguyên thuỷ như khi nó được truyền
vào Việt Nam nữa. Nó đã được bồi đắp, được “cải biến” một cách tinh tế với
127
những giá trị văn hoá truyền thống, với những nhu cầu, những tâm tư tình
cảm của người Việt Nam để thành một Phật Giáo của riêng người Việt Nam -
Phật giáo Việt Nam.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ du nhập, Phật giáo chủ yếu được truyền
bá trong tầng lớp lao động bình dân, vì vậy hình thức truyền khẩu tỏ ra thích
hợp và phát triển hơn cả. Những câu chuyện về Đức Phật, giáo lý và lễ nghi
của Phật giáo được truyền kể trong sự đan xen với các câu chuyện cổ tích bản
địa của Việt Nam. Sau này, kể cả những Phật giáo phát triển thịnh trị nhất
(thời Lý - Trần, hay khi bị khủng hoảng phải thực hiện phong trào chấn hưng
Phật giáo cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ) thì Phật giáo vẫn chủ yếu tồn tại
và phát triển ở vùng nông thôn, trong những tầng lớp lao động, bình dân…
Chính vì vậy, cho đến tận ngày nay, mặc dù số lượng tín đồ Phật giáo là
rất lớn, vị trí của Phật giáo là rất quan trọng trong kho tàng văn hóa truyền
thống của Việt Nam, nhưng những tư tưởng giáo lý, kinh sách mang tính trừu
tượng vẫn không được phổ biến và am hiểu bởi các tín đồ ở nông thôn.
Đối với phần đông tín đồ Phật giáo Việt Nam trong quá khứ và thậm chí
cả ở hiện tại, họ không có điều kiện (hay nhu cầu) đi sâu vào những nội dung
trừu tượng của triết học Phật giáo mà chỉ tìm hiểu và vận dụng những tư
tưởng Phật giáo nào liên quan mật thiết đến đời sống của bản thân, gia đình
và cộng đồng họ một cách trực quan cảm tính mà thôi (Phật nhịn ăn để mặc -
Tuyết Sơn, Phật nhịn mặc để ăn - Di Lặc).
Có thể với họ, mặc dù vẫn đi chùa, vẫn theo Phật giáo, nhưng lại không
hiểu một cách tường tận những triết lý cao siêu của nhà Phật về vô thường, vô
ngã, thập nhị nhân duyên, nghiệp báo, nhân quả… Hay, họ có thể thuộc một
vài bài kinh Phật, một vài câu niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan
Thế Âm Bồ Tát…. nhưng lại không thể hiểu sâu sắc được giáo lý nhà Phật.
Mặc dù vậy, đối với họ, Phật giáo đã trở thành một thành tố văn hóa, một nhu
128
cầu tinh thần, tôn giáo không thể thiếu trong đời sống của họ cũng như cộng
đồng xã hội mà họ là thành viên (Đất vua, chùa làng phong cảnh Bụt).
Nói cách khác, người Việt đã hiểu và tiếp nhận Phật giáo theo cách của
mình, thỏa mãn nhu cầu của mình chứ không tiếp nhận Phật giáo một cách
dập khuôn, bất biến. Như GS Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Nếu đặc điểm
của tôn giáo Việt Nam là sự thờ thần (Tha lực siêu nhiên) mà con người cúng
và cầu để nhờ vả sự phù hộ độ trì thì Phật hay Quan Âm cũng trở thành một
thứ Thần điện; tính tâm linh Ấn Độ nhường bước cho tính tình cảm Việt Nam
(Hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giáo
luật, đoàn thể tôn giáo), sự suy tưởng nội tâm (Thiền định) nhường bước cho
sự “van vái, co kéo” Thần Phật xuống gần “cõi người ta” để “cứu khổ, cứu
nạn” cho Đời… [107, tr.140]. Còn GS Trần Văn Giàu thì viết:
Tín ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số nhân dân. Người dân
không biết gì về triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu phúc, chỉ
biết chuyện quả báo luân hồi. Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành
một thứ đạo đức bác học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn là hạt nhân,
chúng sinh có thể hiểu được và làm được, không cao xa, rắc rối như
triết lý Phật giáo nguyên thủy. Tu thân tích đức ở kiếp này để an vui,
hưởng phúc ở kiếp sau [28, tr.495].
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng là một trong số các tác phẩm văn
học phản ánh sự tiếp biến tư tưởng nói chung, tư tưởng Phật giáo nói riêng
của người Việt Nam. Điều này thể hiện ở hai nội dung: 1) Nguyễn Du đã
không phóng tác “Kim Vân Kiều truyện” một cách dập khuôn từ chữ Hán
sang chữ Nôm dưới dạng văn xuôi mà ông đã lấy cốt truyện “Kim Vân Kiều
truyện” (phần xác) rồi dùng tâm hồn của thi sỹ với cái nền văn hóa của người
Việt Nam để xây dựng ra một kiệt tác “Truyện Kiều” dưới dạng thơ lục bát
bằng chữ Nôm; 2) Những tư tưởng Phật giáo nói chung, tư tưởng về nhân
129
sinh quan Phật giáo (qua quan niệm về nghiệp báo, nhân quả) nói riêng trong
“Truyện Kiều” đã được Nguyễn Du Việt hóa (tiếp biến) để rồi nó không còn
giống với nguyên tác (tư tưởng Phật giáo) của người Trung Quốc hay tư
tưởng Phật giáo của Ấn Độ nữa mà trở thành những quan niệm nghiệp báo và
nhân quả của Phật giáo Việt Nam.
Thứ nhất: “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài
Nhân viết vào đời Thanh và Nguyễn Du đã mượn cốt truyện mà viết
nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Nếu như “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh
Tâm Tài Nhân từ khi ra đời cho đến sau này gần như đã hoàn toàn bị quên
lãng và chẳng được ai biết đến thì tác phẩm cùng tên với “Kim Vân Kiều
truyện” do Nguyễn Du viết lại trở thành tác phẩm trứ danh không chỉ ở Việt
Nam mà cả trên thế giới, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp,
Nhật, Trung, Tiệp Khắc, v.v… Như GS Zhao Yanqiu đã nhận xét:
Sau khi “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung
Quốc, được đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cải biên thành tiểu
thuyết thơ cùng tên, thì bộ tiểu thuyết này từ thân phận một tác
phẩm không được biết đến trong nước đã nhảy vọt thành danh tác
trên thế giới… và tác giả Nguyễn Du cũng nhờ đó mà trở thành
danh nhân văn hóa thế giới, sánh vai cùng Puskin, Goethe, Balzac,
Khuất Nguyên, Tào Tuyết Cần… [110].
Vì “Kim Vân Kiều truyện” là tác phẩm nguyên tác được Nguyễn Du dựa
vào để sáng tác “Truyện Kiều” nên giữa hai tác phẩm này có nhiều sự tương
đồng. Về nội dung, hầu như cốt truyện của hai tác phẩm này là giống nhau.
Cả hai tác phẩm đều xoay quanh cuộc đời đầy đau khổ và bất hạnh mà Thúy
Kiều phải trải qua. Thúy Kiều là con một viên ngoại ở Bắc Kinh, có em gái là
Thúy Vân và một em trai tên là Vương Quan. Trong một lần đi tảo mộ trong
tiết Thanh Minh, Thúy Kiều gặp Kim Trọng - bạn của Vương Quan. Từ đó
130
Thúy Kiều và Kim Trọng đem lòng yêu nhau. Tuy nhiên, do chú của Kim
Trọng mất (Kim Trọng về quê chịu tang chú) trong lúc cha Thúy Kiều là
Vương viên ngoại bị người xấu vu oan hãm hại nên để cứu cha già và giúp đỡ
gia đình, Thúy Kiều buộc lòng phải bán mình cho Mã Giám Sinh vào lầu
xanh. Sau đó nàng được gả cho một thư sinh yếu đuối nhu nhược tên Thúc
Sinh, nhưng do vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông tìm đủ kế hãm hại nên
nàng không còn cách nào khác đành tìm cách trốn chạy. Nào ngờ nàng lại bị
lừa bán vào lầu xanh một lần nữa. Nàng gặp Từ Hải và được Từ lấy làm vợ,
đồng thời mượn uy thế của Từ để báo thù rửa hận. Nhưng Kiều lại bị Hồ Tôn
Hiến lừa khuyên Từ Hải quy hàng để rồi vô tình hại chết Từ Hải. Sau khi Từ
Hải chết, Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm nhục và gán Kiều cho một viên thổ quan.
Quá đau khổ, Thúy Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn khi đang được
viên thổ quan rước nàng về nhà. Kiều được ni sư Giác Duyên cứu và đoàn
viên với Kim Trọng (khi đó đã đỗ đạt, vinh hiển) cùng gia đình của mình. Tên
gọi và tính cách của các nhân vật trong hai câu chuyện này là giống nhau,
thậm trí các sự kiện, thời gian, địa điểm trong truyện là hoàn toàn trùng nhau.
Mặc dù về cốt truyện và nhân vật trong cả hai tác phẩm là giống nhau,
nhưng Nguyễn Du đã không dừng lại ở việc mô phỏng đơn thuần nội dung
cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, mà đã căn
cứ vào kinh nghiệm sống, ý thức thẩm mỹ của dân tộc để tiến hành tái sáng
tạo lại “Kim Vân Kiều truyện” để cho ra “Truyện Kiều” với những thành công
vô cùng to lớn không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.
Do sự khác biệt về nền tảng văn hóa của Việt Nam và Trung Quốc, đặc
biệt trong quan niệm thẩm mỹ về người phụ nữ nên khi xây dựng hình tượng
Thúy Kiều trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã có sự thay đổi rất lớn về
tính cách và hành vi so với nhân vật Thúy Kiều trong nguyên tác của Thanh
Tâm Tài Nhân. Thúy Kiều trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài
131
Nhân là người tài sắc vẹn toàn, có bản lĩnh, năng động, khí khái và có phần
quyết liệt. Chẳng hạn khi thuật lại tình tiết Kiều phải bán thân chuộc cha,
Thanh Tâm Tài Nhân đã dành một đoạn dài để miêu tả thái độ điềm tĩnh của
Kiều trong cơn nguy biến này (trong khi Nguyễn Du chỉ dùng vài dòng sơ
lược để miêu tả chuyện Kiều phải bán thân cho Mã Giám Sinh, còn lại chủ
yếu tập trung vào đoạn “trao duyên” và ủy thác mối tình với Kim Trọng cho
Thúy Vân).
Hay trong tình tiết Thúy Kiều báo oán. Nếu như trong “Kim Vân Kiều
truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều tỏ ra rất quyết liệt, có ân thì báo
ân, có thù thì phải báo thù. Vì vậy, Kiều đã trừng phạt những người đã gây ra
cuộc đời đau khổ của nàng, kể cả Hoạn Thư (bị đánh 100 roi đến thân tàn ma
dại) và Hoạn bà (mẹ của Hoạn Thư) - dù cuối cùng cũng được Kiều tha chết
nhưng vì sợ quá nên vỡ mật mà chết. Sự trừng phạt của Thúy Kiều trong
nguyên bản được miêu tả một cách chi tiết và tỷ mỉ đến mức người đọc cảm
thấy một Thúy Kiều có phần tàn nhẫn khi xuống tay với kẻ thù của mình. Còn
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Thúy Kiều tuy cũng báo thù, nhưng
trong sự báo thù đó có một phần “dĩ đức báo oán”. Vì vậy, khi nghe lời biện
bạch của Hoạn Thư, Thúy Kiều đã tha tội chết ngay cho Hoạn Thư. Nguyễn
Du cũng không đề cập đến việc Hoạn bà bị Thúy Kiều trừng phạt.
Điều đó cho thấy rằng Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân không phải
một cô gái bình thường, mà là một cô gái có hào khí của một nam nhi. Còn
Thúy Kiều của Nguyễn Du lại lương thiện, dịu dàng, thùy mị hoàn toàn phù
hợp với những chuẩn mực về người con gái lý tưởng trong xã hội phong kiến
Việt Nam.
Ngoài ra, do sự khác nhau về định hướng giá trị thẩm mỹ của nền văn
hóa Việt Nam so với văn hóa Trung Quốc nên việc đề cập và miêu tả tình yêu
cũng như tình dục của hai tác giả là khác nhau. Trong “Kim Vân Kiều truyện”
132
của Thanh Tâm Tài Nhân “có nét phong nguyệt, có ý vị dâm tà, rất dễ làm
người ta hư hỏng”, những miêu tả về sắc tình rất trực tiếp, kích thích giác
quan” [110]. Còn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thì những tình tiết liên
quan đến tình dục dường như được ông cố tình lướt qua hoặc lược đi (Chẳng
hạn đoạn Tú Bà dạy Thúy Kiều những chiêu thức của gái lầu xanh).
Bên cạnh đó, quan niệm về tình yêu của hai tác phẩm cũng có sự khác
nhau. Nếu như trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, tình yêu phải là sự
“tự nhiên nhất”, “hợp lý nhất” giữa những người yêu nhau và nó luôn gắn với
bản năng tình dục của con người [110], thì tình yêu, theo quan niệm của
Nguyễn Du, lại bảo thủ, đòi hỏi sự trung trinh như nhất, không thoát khỏi
vòng cương tỏa của hôn nhân, gia đình trong lễ giáo truyền thống.
Như vậy, có thể thấy rằng, dù có cùng một cốt truyện, nhưng do sự chi
phối của nền tảng văn hóa dân tộc, những trải nghiệm trong cuộc đời đầy gian
truân của bản thân Nguyễn Du, cũng như những tình cảm, những suy nghĩ
hướng về tầng lớp bình dân của ông đã là những căn nguyên chủ yếu tạo ra sự
khác biệt giữa tác phẩm “Truyện Kiều” so với nguyên tác của nó. Nói cách
khác, Nguyễn Du đã thổi vào “Kim Vân Kiều” truyện những giá trị văn hóa
của dân tộc Việt Nam để biến nó thành “Truyện Kiều” của người Việt Nam,
một tác phẩm được biết đến trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ hai, nếu như sự sáng tác “Truyện Kiều” từ tác phẩm “Kim Vân
Kiều” như là sự tiếp biến tư tưởng văn học Trung Quốc vào Việt Nam thì việc
diễn đạt những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả trong “Truyện Kiều”
chính là sự tiếp biến tư tưởng Phật giáo nguyên thủy Ấn Độ vào Việt Nam.
Trong quá trình tiếp nhận tư tưởng nhân sinh quan của Phật giáo, người
Việt Nam không quá đi sâu tìm hiểu những khái niệm, nguồn gốc, nội dung
cũng như sự biện chứng qua lại trong tư tưởng về nhân quả và nghiệp báo.
Nhưng người Việt Nam lại vẫn thường nói với nhau rằng: gieo nhân nào, gặt
133
quả ấy, gieo gió gặp bão, ác giả ác báo, đời cha ăn mặn, đời con khát nước…
Đó chính là quá trình người Việt biến đổi Phật giáo từ chỗ Phật giáo ở Việt
Nam thành Phật giáo Việt Nam, làm cho những tư tưởng, giáo lý Phật giáo trở
nên bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ đối với quần chúng nhân dân lao động hơn.
Với lòng tốt của mình khi giúp Thúy Kiều ở nhà mẹ của Hoạn Thư, bà
Quản gia đã được Kiều trả ơn nghìn vàng. Cũng có lòng tốt như bà quản gia,
sư Giác Duyên cũng được Kiều nhớ đến mà mời về hậu tạ. Còn một lũ bạc ác
đã gây họa cho Kiều thì đã bị Kiều trừng trị:
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
Riêng đối với Hoạn Thư, mặc dù cũng đã gây ra nhiều sự đau khổ cho
Thúy Kiều, nhưng vì có nhiều hành động tốt đối với Kiều như: tha cho Kiều
và để Kiều đi tu tại Quan Âm Các, rồi khi biết Kiều lấy trộm đồ của chùa để
trốn chạy nhưng Hoạn Thư cũng không truy sát đến cùng, nhờ vậy mà Kiều
mới không bị bắt… do vậy, Hoạn Thư đã được Kiều tha chết.
Đó chính là tư tưởng nhân quả của Phật giáo Việt Nam (gieo nhân nào
hái quả ấy) - một hành động mang tính tất yếu và đương nhiên là không sai,
mặc dù nếu xét dưới góc nhìn của Phật giáo nguyên thủy, thì việc Kiều
thực hiện hành động báo oán đã vô tình tạo ra những nghiệp xấu cho cuộc
đời của Kiều.
134
Nhìn chung, có thể thấy rằng Nguyễn Du, mặc dù là một nhà Nho,
nhưng ông lại truyền tải những tư tưởng, mong muốn và khát vọng của tầng
lớp lao động, bình dân trong xã hội vào các trong tác phẩm của mình, trong
đó “Truyện Kiều” với tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo là điển hình.
Ngoài ra, Nguyễn Du cũng đã thể hiện việc bản địa hóa tư tưởng nhân
sinh quan Phật giáo trong việc nhấn mạnh tính nhập thế của Phật giáo nói
chung và của tư tưởng nghiệp báo, nhân quả của Phật giáo nói riêng.
Như chúng ta đã biết, về cơ bản thì Phật giáo nguyên thủy chủ trương
“xuất thế”, coi cuộc đời của con người là một kiếp khổ sở, cho nên cách làm
tốt nhất của con người là “xuất thế” để giải thoát. Tuy nhiên, khi Phật giáo du
nhập vào Việt Nam thì tinh thần nhập thế được thể hiện rất rõ.
Sự nhập thế của Phật giáo Việt Nam thể hiện ở chỗ: những nhà tu hành
Phật giáo không phải là những người đoạn tuyệt với đời sống trần tục mà họ
vẫn tham gia các hoạt động của xã hội khi xã hội cần đến họ. Thời Lý Trần,
các nhà sư tham gia chính sự, giúp vua cai trị đất nước. Tiêu biểu như các
thiền sư: Khuông Việt, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh,Mãn Giác, Viên Thông
và Huyền Quang... đã góp phần lớn vào công việc chính trị, ngoại giao của
nhà nước trên lịch sử thế kỷ X-XIV của Việt Nam. Ngày nay, tinh thần nhập
thế này vẫn thể hiện rõ nét trong đời sống đạo của Phật giáo Việt Nam (các
nhà sư tham gia các tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận
tổ quốc các cấp; tham gia vào các các cơ quan lập pháp như Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp…
Ngoài ra, tinh thần nhập thế còn được thể hiện ở chỗ khi đất nước có
giặc ngoại xâm, các nhà sư không ngồi yên để tụng kinh niệm Phật mà họ sẵn
sàng cởi bỏ áo cà sa để lên lưng ngựa ra trận chiến đấu chống giặc ngoại xâm
bảo vệ bờ cõi quê hương đất nước. Đến khi hòa bình lập lại, những người còn
sống lại quay về chùa, cởi bỏ chiến bào và khoác áo cà sa tiếp tục tu hành
135
Phật Pháp. Hành động này không chỉ có trong lịch sử mà xuất hiện ngay cả
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Đối với Nguyễn Du, tinh thần nhập thế của Phật giáo được tái hiện lại
trong “Truyện Kiều”. Tất nhiên, nhập thế trong trường hợp này không phải là
việc nhà sư lên đường chống giặc hay tham gia chính sự. Nhập thế ở đây là
tham gia vào các quan hệ xã hội để cứu những người có hoàn cảnh khó khăn
cần giúp đỡ, chứ không chăm chăm chỉ lo tụng kinh niệm Phật để giải thoát
cho duy nhất bản thân mình. Ni sư Giác Duyên chính là biểu tượng cho sự
nhập thế đó.
Trong sự đau khổ và tuyệt vọng vì bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều đã tìm
đến cái chết để giải thoát, đã được một thương gia giàu có là Thúc Sinh cứu,
đã được Từ Hải (một ông đại tướng) cưới, nhưng cuối cùng Kiều vẫn không
thoát được khỏi nghiệp báo của mình. Chỉ đến khi được sư cô Giác Duyên
cứu vớt thì Kiều mới thực sự được giải thoát khỏi trầm luân, bể khổ, được trở
về đoàn tụ với gia đình. Sư Giác Duyên đã âm thầm theo dõi và cứu giúp
Kiều vượt qua những đau khổ và bất hạnh của cuộc đời chứ không chỉ lo tu
hành ở chùa của mình mà bỏ mặc và xa lánh sự đời (những người gặp khó
khăn trong cuộc sống).
Kinh Phật đã viết: “Dâm phòng, tửu tứ, vô vi thanh tịnh đạo tràng”
(quán rượu và nhà chứa đều là những đạo tràng mà các nhà tu hành cần phải
đi vào để cứu độ). Phải biến những chỗ đó thành những đạo tràng thanh tịnh
để hành đạo chứ không nên nhắm mắt lại, nói rằng những chỗ đó không có.
Nhắm mắt lại thì không chuyển hóa được. Không độ được. Không độ được
một Mã Giám Sinh hay một Tú Bà thì có biết bao Thúy Kiều sẽ rơi vào những
ổ nhện đó. Giải tán được một ổ nhện là cứu được không biết bao nhiêu những
cô thiếu nữ [31, tr.97]. Chính vì vậy, cứu vớt người trầm luân, đau khổ là công
việc, trách nhiệm của nhà tu hành. Không phải ai khác (Thúc Sinh, Từ Hải),
136
không phải bằng cách khác (tự tử), mà chỉ có sư giác Duyên, chỉ có đi tu thì
Kiều mới có thể chuyển nghiệp được thành công, mới có thể chấm dứt những
đoạn trường đau khổ để về với gia đình và người thân.
Với tinh thần đó, Phật giáo Việt Nam luôn kêu gọi tín đồ cũng như các
nhà tu hành cần có sự liên hệ với xã hội, không xa rời xã hội một cách thụ
động mà chủ động tham gia giải quyết những vấn đề của xã hội trong phạm vi
giáo lý và giáo luật của mình. Chẳng hạn như việc tham gia các hoạt động từ
thiện, các hoạt động xã hội hay thậm chí là cả những hoạt động chính trị trong
giai đoạn hiện nay của Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện
nay theo đường hướng hoạt động là Đồng hành cùng dân tộc).
4.3.2. Nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du giúp thấy được sự hỗn dung tam giáo trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam
Tinh thần hỗn dung tam giáo là một xu hướng có từ lâu trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Thời kỳ Lý, Trần, tam giáo đã thịnh hành, đã hội nhập trên cơ sở
lấy Phật giáo làm trung tâm. Tinh thần Bồ tát cứu thế, tinh thần nhập thế của Phật
giáo đời Trần và lý tưởng bình trị thiên hạ của Nho gia gặp nhau, tạo ra trạng thái
khoan dung, hợp nhất của tam giáo, là cơ sở cho Phật giáo chấp nhận Nho giáo.
Sang thế kỷ XV, sự hỗn dung tam giáo chuyển vai trò Phật giáo là trung
tâm sang cho Nho giáo. Chính nhu cầu đời sống chính trị và xu hướng quan
liêu hoá bộ máy cai trị có ý nghĩa quyết định trong việc phá vỡ tương quan
Tam giáo thời kỳ này. Nho học tách khỏi khối Tam giáo, vươn lên chiếm lĩnh
đời sống chính trị xã hội. Phật giáo chuyển sang ảnh hưởng chủ yếu trong dân
gian, trong nhu cầu tinh thần của dân chúng nói chung, trong đó có cả trí thức
Nho học. Phật giáo và Đạo giáo thời kỳ này tồn tại như những nhân tố bổ
sung trong đời sống tâm linh. Mặc dù vậy, trong mỗi nhà Nho đều có phần
ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo.
137
Đến thế kỷ XVI-XVIII, xã hội loạn thế là yếu tố tạo nên những mối quan
tâm phức tạp của Nhà Nho. Thời kỳ này, tư tưởng của Nho gia ít kiềm toả
được nhân tâm. Nhà Nho đứng ra mở rộng hệ thống, tìm tới tư tuởng Phật
giáo và Đạo giáo như sự điều chỉnh cần thiết để tự thoả mãn. Họ tìm cách lý
giải những vấn đề rất cơ bản của Phật giáo thông qua những phạm trù, những
khái niệm của Nho gia. Bên cạnh đó, họ cũng chứng minh tam giáo là không
mâu thuẫn, có thể quy chúng về một dòng. Theo đó, cả tam giáo đều có chung
mục đích ra đời là cứu thế, chống loạn, đề cao cuộc sống và giá trị sinh mệnh
con người. Xuất phát điểm đó là chung, là giống nhau. Từ gốc chung đó, tam
giáo có con đường thực hiện, phương pháp thực hiện, cách thức tu dưỡng
khác nhau, nhưng điểm cuối cùng hướng tới lại giống nhau. Đó là làm tâm
tính con người hướng thiện, làm thiện.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là tác phẩm thể hiện rất rõ những tư
tưởng trên. Theo đó, Nguyễn Du đã sử dụng những quan niệm của Nho giáo,
Phật giáo và Đạo giáo để giải thích những phức tạp trong đời sống con người
cá nhân và những biến động của lịch sử thời kỳ đó.
Có thể thấy rằng sự hỗn dung tam giáo trong “Truyện Kiều” được
thể hiện rõ nhất trong dấu ấn đạo cô Tam Hợp và bóng ma Đạm Tiên của
Đạo giáo, định mệnh của Nho giáo và nhân quả, nghiệp báo của Phật
giáo. Ba quan niệm này không thể hiện tách rời nhau mà luôn có sự bổ
khuyết cho nhau.
Khi lý giải về cuộc sống đầy đau khổ, bất hạnh và gian truân của Thúy
Kiều, Nguyễn Du viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
“Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
138
Hay,
“Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
Và cuối cùng, Nguyễn Du lại than:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Có lẽ, như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định, với sự trải nghiệm từ
chính cuộc đời chìm nổi của mình, Nguyễn Du đã nhận thấy trong cuộc đời
này (thời đại mà Nguyễn Du sống), con người luôn luôn sẵn sàng hãm hại
nhau vì lòng ích kỷ và sự đố kỵ, một xã hội loạn lạc không dành cho những
người có tài (vì luôn bị loại trừ) mà chỉ dành cho những kẻ bất tài, tiểu nhân.
Đúng như nhận định của tác giả Đỗ Đức Dục: “Trong xã hội phong kiến, tài
được quan niệm một cách trừu tượng mà mệnh là một yếu tố siêu nhiên, và
trong vấn đề xung đột giữa tài và mệnh gắn liền với thuyết như Hồng nhan
bạc mệnh, Bỉ sắc tư phong mang tính chất trừu tượng và siêu hình, đó là mâu
thuẫn giữa cá nhân tài năng với xã hội, rồi đi đến chỗ chung hơn nó được mở
rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội… Cuối cùng, về thực
chất đó là quyền sống của con người và chế độ xã hội.
Tựu trung, Truyện Kiều mà Nguyễn Du muốn thu hẹp vào chủ đề “Tài
mệnh ghét nhau” có ý nghĩa khách quan, ý nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ
đề đó, vượt xa tư tưởng chủ quan của tác giả, nó đề cập đến vấn đề quyền
sống của con người trong xã hội phong kiến” [14, tr.80].
Nhưng nếu chỉ dựa vào quan niệm tài mệnh tương đố mà giải thích về
cuộc đời của Thúy Kiều thì chưa thực sự thuyết phục đối với Nguyễn Du, bởi
vì trong Truyện Kiều, còn có nhiều người có tài (tài hoa, tài trí) nhưng không
phải ai có tài cũng đều bất hạnh và có số phận nghiệt ngã như Thúy Kiều. Có
thể kể đến như: Kim Trọng, đại thần Hồ Tôn Hiến, Vương Quan, Thuý Vân…
139
Ngoài ra, có thể thấy rằng, chính nhờ sắc đẹp và tài hoa của mình mà Thúy
Kiều nhiều lần thoát được những hoàn cảnh đau khổ và khó khăn như: nhờ có
tài sắc Kiều mới có thể bán mình chuộc cha, nhờ tài sắc Kiều mới được Thúc
Sinh, Từ Hải chuộc thân, nhờ tài đức mà Kiều được Thúc Ông cho làm lẽ
Thúc Sinh, Hoạn Thư thương tình … Như vậy, dường như Nguyễn Du đã gặp
sự bế tắc khi sử dụng quan niệm tài mệnh tương đố để lý giải về các nhân vật
của mình trong “Truyện Kiều”.
Chính vì sự bế tắc và mâu thuẫn này, Nguyễn Du đã cầu viện đến quan
niệm định mệnh của Nho giáo khi nói về số phận của Thúy Kiều. Ông viết:
“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
“Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha”
Hay:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Theo quan niệm định mệnh của Nho giáo thì mọi thứ đều đã được sắp
đặt hết (thiên mệnh), con người không có khả năng chống lại và thay đổi sự
sắp xếp đó. Với sự giải thích đó, dường như nó phần nào khắc phục được sự
bế tắc trong quan niệm về tài mệnh tương đố khi lý giải về thân phận của mỗi
con người trong “Truyện Kiều”. Thế nhưng đối với Nguyễn Du, ông vẫn còn
nhiều mâu thuẫn và trăn trở khi đề cập đến vấn đề này. Lúc thì ông cho rằng
mọi việc do trời định sẵn, con người chỉ việc tuân theo và không thể thay đổi
được gì, lúc thì lại bảo rằng con người không hoàn toàn bất lực trước số mệnh
vì “có trời mà cũng có ta”, trời quyết định cuộc đời ta, nhưng ta cũng quyết
định không ít đến số mệnh của mình. Dù số trời bắt ta bạc mệnh nhưng ta tu
nhân, tích đức làm việc thiện giúp đời thì trời sẽ mang lại phúc lành đến cho
140
ta, sẽ thay đổi được cuộc sống của ta theo hướng tốt đẹp hơn. Như vậy, cái
quan niệm về định mệnh mà Nguyễn Du nêu ra không phải là quy luật bất
biến như trong tư tưởng Nho gia mà nó đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết nhân
quả nghiệp báo của nhà Phật.
Với quan niệm về nhân quả nghiệp báo của Phật giáo, Nguyễn Du đã
giải thích được tại sao Kiều lại phải chịu cảnh hồng nhan bạc mệnh. Tất
nhiên, cái mệnh bạc ấy không hẳn là do định mệnh. Quan niệm về định mệnh
chỉ nêu lên kết quả mà không giải thích được nguyên nhân của điều bạc mệnh
kia là do đâu. Nguyễn Du đã bổ khuyết vấn đề này bằng thuyết nhân quả
nghiệp báo của nhà Phật. Theo đó, nỗi khổ của Kiều là do những nghiệp xấu ở
tiền kiếp của Kiều gây ra, hay nói cách khác, những nỗi khổ của Kiều ở hiện
tại chính là do hành vi của Kiều trong quá khứ gây ra:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Hay:
“Rỉ rằng nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao
Số nàng nặng nghiệp má đào
Người dù muốn quyết trời nào đã cho”
“Người này nặng nghiệp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho”
Nhìn chung, quan niệm về nghiệp báo, nhân quả của Phật giáo trong
“Truyện Kiều” đã phần nào bổ khuyết những thiếu hụt cho nội dung của
thuyết tài mệnh tương đố và định mệnh của Nho giáo trong tác phẩm của
Nguyễn Du.
Vì vậy, rất khó để có thể xác định rằng “Truyện Kiều” được sáng tác nhằm
thể hiện tư tưởng của học thuyết nào. Thực chất là qua việc tiếp thu các học
thuyết Nho, Phật, Lão, Nguyễn Du muốn thể hiện nhân sinh quan của mình.
141
Đối với Nho giáo, dường như Nguyễn Du không có sự nhất quán mặc dù
ông xuất thân từ một gia đình chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo. Có lúc ông
tin theo tinh thần thuận mệnh của Nho gia nên đã để nhân vật của mình sống
theo sự sắp đặt của định mệnh. Nhưng ông cũng nhận ra Nho giáo chỉ biết
dạy con người cố sống, cố hành động giúp ích cho xã hội, nhất là phải tuyệt
đối trung thành, cống hiến cho triều đình, trong khi hạnh phúc cá nhân con
người thì không được quan tâm. Kiều chỉ muốn có hạnh phúc bình thường,
muốn giữ cái ý thích cá nhân của mình, muốn được tự do làm theo những gì
mình yêu thích. Nhưng cuộc đời đã không cho nàng được toại nguyện, đã đày
đoạ nàng hết từ những đau khổ này đến những đau khổ khác.
Còn với Đạo giáo, chủ nghĩa tự nhiên chỉ là thứ thuốc giảm đau cho các
vết thương tâm hồn. Lão Tử thấy được quy luật của sự chuyển hoá mâu thuẫn
nhưng ông không chủ trương phát triển mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn mà
lại chủ trương ngăn cản mâu thuẫn phát triển, mong muốn giữ nguyên hiện
trạng ấy. Vận dụng quan điểm này vào sinh hoạt xã hội, Lão Tử cho rằng
người ta nên biết đủ, không tranh giành, có như vậy mới mong bảo toàn
sinh mạng, tránh được những điều nguy hại. Với triết lý sống như thế con
người trở nên thụ động, xã hội sẽ không tiến triển. Nguyễn Du không chấp
nhận cái lý tưởng sống đó. Và ông đã bổ khuyết cho tư tưởng ấy bằng triết
lý tu tâm của nhà Phật. Nghĩa là, con người phải nhận ra mâu thuẫn ấy,
phải chấp nhận số kiếp “hồng nhan bạc phận”, “tài mệnh ghét nhau” vì đó
là quy luật. Nhưng quy luật ấy không phải bất biến, nó sẽ được thay đổi
nếu chúng ta tích cực làm việc thiện, điều này gần với quan niệm “ở hiền
gặp lành” của nhân dân. Nhưng tư tưởng của ông gần với tinh thần Phật
giáo hơn. Ông cho rằng ta làm việc thiện thì có thể trả được nghiệp chướng
mình gây chứ chưa hẳn là hết khổ, con người chỉ hoàn toàn thoát khổ khi
biết từ bỏ dục vọng, tu tâm.
142
Nhìn chung, thông qua tinh thần tam giáo trong “Truyện Kiều”, Nguyễn
Du muốn nói lên suy nghĩ, trăn trở đối với chính cuộc sống của bản thân cũng
như những biến động của xã hội thời kỳ ông sống. Học giả Trần Trọng Kim
đã rất có lý khi nhận xét: “Tại làm sao trong tiểu thuyết Tàu thiếu gì truyện
hay mà tiên sinh không dịch lại dịch bộ Thanh Tâm Tài Nhân? Là tại tiên sinh
thấy cảnh ngộ của Kiều đối với cảnh ngộ của tiên sinh hình như là “cùng một
hội một thuyền đâu xa”. Cho nên tiên sinh mới dụng tâm lấy Truyện Kiều mà
bày ra cho hết mọi tình, mọi ý của mình… Than người bạc mệnh tức là than
thân mình”. Không chỉ dừng lại ở than thân, “Truyện Kiều” của ông còn lột tả
bản chất chế độ phong kiến đương thời. Ông luôn tôn trọng sự hoà hợp giữa
tình người và lòng người, nghĩa là sự hoà hợp giữa con người cá nhân với con
người xã hội và đề cao lòng nhân đạo, lòng trắc ẩn của con người. Cho nên
qua Truyện Kiều, ta nhận ra nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
Tiểu kết chương 4
Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được đánh giá là một kiệt tác
mà khó có tác phẩm văn học nào có thể sánh kịp. Dưới góc độ triết học nói
chung, những quan niệm về nghiệp báo, nhân quả trong “Truyện Kiều” nói
riêng luôn có những giá trị nhất định.
Thứ nhất, những quan niệm về nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc chỉnh suy
nghĩ và hành vi đạo đức của các cá nhân và cộng động người. Thông qua
thuyết nhân quả, nghiệp báo của đạo Phật giúp họ có ý thức hơn trong mỗi
hành động, lời nói và suy nghĩ của mình.
Bên cạnh đó, với câu chuyện về thân phận và sự đau khổ mà Thúy
Kiều gặp phải, có thể nhìn nhận nó dưới một cách nhìn khác, đó là sự “tĩnh
tâm”. Nếu như ngay từ đầu và cả những biến cố sau này nữa, Thúy Kiều
143
biết tĩnh tâm, biết gạt đi những dục vọng đời thường, nhận ra sự vô thường
của vạn pháp mà không cố chấp bám giữ vào những ảo ảnh của cuộc sống,
không sai lầm tạo ra nghiệp báo mới thì có lẽ cuộc đời của Thúy Kiều đã
khác đi rất nhiều.
Mặc dù có những giá trị lớn lao như vậy, nhưng không thể không thừa
nhận rằng nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du còn
có những hạn chế nhất định. Khi tìm cách lý giải về căn nguyên những đau
khổ, bất hạnh và gian truân mà Thúy Kiều phải gánh chịu trong suốt cuộc đời
mình, Nguyễn Du đã không bám vào hiện thực xã hội phong kiến mà Kiều
đang sống ở trong đó mà lại tỏ ra lúng túng, đôi lúc còn là sự bất lực, bế tắc
khi lúc thì đổ tội cho tài - sắc; lúc thì mệnh trời; và cuối cùng là nghiệp báo,
nhân quả. Tất nhiên chúng ta cũng không thể đổ lỗi cho Nguyễn Du về vấn đề
này khi ông sử dụng những quan niệm của Phật giáo để làm lu mờ đi con
đường cách mạng hiện thực trong xã hội phong kiến đương thời, bởi lẽ đó là
hạn chế mang tính thời đại mà không chỉ Nguyễn Du mà nhiều nhà trí thức
khác cùng thời với ông cũng không vượt qua được.
Với sự hạn chế về nhận thức luận mang tính thời đại ấy nên Nguyễn Du
đã đưa ra những biện pháp sai lầm trong việc xóa bỏ những đau khổ và bất
hạnh của con người trong xã hội phong kiến. Thứ nhất, ông đã phải cầu viện
đến các giải pháp của tôn giáo để có thể cứu giúp con người khỏi sự đau khổ;
Thứ hai, ông cũng đã nghĩ đến trách nhiệm của nhà nước phong kiến trong sự
bất hạnh và cùng cực của con người, nhưng vì còn quá nhiều sự ràng buộc với
chế độ phong kiến nên ông không đi đến cùng cuộc cách mạng mà mình đã gợi
ra. Ông không dám lật đổ cái chế độ mà ông đang phụng sự mà chỉ dám lên án
nó, cảnh báo nó bằng một số cuộc khởi nghĩa không thành công mà thôi.
Mặc dù còn những hạn chế như vậy, nhưng thông qua việc nghiên cứu
nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du sẽ giúp chúng
144
ta thấy được quá trình tiếp biến tư tưởng ở Việt Nam thể hiện trước hết ở sự
sáng tạo riêng có của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” so với nguyên bản
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, cũng như ở những quan
niệm nghiệp báo, nhân quả theo cách hiểu của Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra,
nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
còn giúp chúng ta thấy được sự hỗn dung tam giáo trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Theo đó, Nguyễn Du đã sử dụng những quan niệm của Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo để giải thích những phức tạp trong đời sống con người cá
nhân và những biến động của lịch sử trong thời đại của ông.
145
KẾT LUẬN
1. Phật giáo không chỉ dừng lại là một tôn giáo mà hơn thế nữa, nó còn
là một hệ tư tưởng triết học ra đời nhằm chống lại tư tưởng thần quyền trong
xã hội Ấn Độ cổ đại với trọng tâm trong các tư tưởng triết học là giải quyết
vấn đề của nhân sinh chứ không sa đà vào những vấn đề siêu hình học hay
vấn đề thế giới quan.
Trong những vẫn đề thuộc nhân sinh quan thì quan niệm về nghiệp báo
và nhân quả là những tư tưởng cơ bản, nòng cốt của triết học Phật giáo. Nội
dung cơ bản của những tư tưởng này chính là sự phủ nhận vai trò của những
lực lượng siêu nhiên, thần thánh chi phối đến sự hình thành cũng như cuộc
sống của con người, mà khẳng định tính khách quan, vô thần khi nhấn mạnh
đến sự thọ lãnh trách nhiệm của con người đối với chính hành vi (thân, khẩu,
ý) của mình trong quá khứ cũng như ở hiện tại.
2. “Truyện Kiều”, tác phẩm lớn của Nguyễn Du, là kết tinh sâu lắng nhất
những tư tưởng của nhà thơ, cốt cách dân tộc Việt Nam. Tình thương yêu con
người của Nguyễn Du thể hiện vừa sâu sắc, vừa bao la trong nhân vật Thuý
Kiều. Những khắc hoạ về cuộc đời đầy oan khổ, bị vùi dập đầy đoạ của nàng
Kiều đã bộc lộ thái độ và lòng nhân ái của một nghệ sĩ vĩ đại trước những nỗi
đau của con người và thời đại.
“Truyện Kiều” với ngôn từ mỹ lệ, hình ảnh trác tuyệt, văn phong xúc
tích từng chữ, từng câu, thiên tài họ Nguyễn đã làm nên vẻ đẹp văn chương
vô tiền khoáng hậu trong kho tàng văn học cổ điển. Một yếu tố này đủ đưa
Nguyễn Du lên hàng Thánh Thi trên thi đàn văn học Việt Nam. Giá trị vĩ đại
của tác phẩm này không chỉ nằm trong tính kiệt tác của văn chương mà còn
nằm trong tư tưởng mà văn chương ấy chuyển tải. Nguyễn Du đã không thể đi
vào tâm tư, tình cảm của dân tộc nếu ông chỉ là người thợ tuyệt xảo về ngôn
ngữ mà không có tư tưởng triết lý sâu sắc.
146
“Văn dĩ tải đạo”, đó là quan niệm văn chương, là đường hướng sáng tác
của người xưa. Qua văn chương để chuyển tải những thông điệp đạo lý,
những mạch nguồn tư tưởng mà tác giả đã hấp thụ và chắt lọc. Nguyễn Du là
một nhà Nho, một quan lại của triều đình phong kiến Việt Nam thế kỷ 18 - 19.
Nhưng nội dung của “Truyện Kiều” lại không hoàn toàn phản ánh những tư
tưởng của Nho giáo, của nhà nước phong kiến mà nó lại thấm đẫm những tư
tưởng Phật giáo, đặc biệt là các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả.
Thứ nhất, cuộc đời Thúy Kiều chính là do những nghiệp xấu trong tiền
kiếp cũng như trong hiện tại của Thúy Kiều (vướng vào chuyện tình ái với
Kim Trọng, ăn trộm đồ thờ, nói dối sư Giác Duyên, giết người khi thực hiện
hành vi báo oán…).
Thứ hai, Thúy Kiều không chỉ mắc phải những nghiệp nhân xấu mà nàng
còn tích được rất nhiều nghiệp nhân tốt. Chính điều này đã giúp cho Kiều có
được sự giải thoát khỏi đau khổ khi được Giác Duyên cứu và đoàn viên với
gia đình.
Thứ ba, Nguyễn Du đã đem cách hiểu của quần chúng nhân dân về tư
tưởng nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo Việt Nam (ở hiền gặp lành, ác giả ác
báo, đời cha ăn mặn, đời con khát nước, gieo gió gặt bão, gieo nhân nào, gặt
quả ấy …. ) để diễn tả sự đền ơn của Kiều đối với những `người đã giúp đỡ cưu
mang mình cũng như trừng phạt, báo oán đối với những kẻ đã hãm hại nàng.
3. Dưới góc độ triết học, có thể thấy rằng những quan niệm về nhân sinh
quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có một ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc chỉnh suy nghĩ và hành vi đạo đức của các cá nhân và
cộng động người. Thông qua những tình tiết miêu tả cuộc sống đầy bất hạnh
của Thúy Kiều cũng như số phận của những nhân vật khác trong “Truyện
Kiều” như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Ưng, Khuyển, Hoạn
Thư, Giác Duyên, Bà quản gia nhà mẹ Hoạn Thư… đã là những hình ảnh sinh
147
động tác động một cách sâu sắc đến ý thức, hành vi và lời nói của mỗi người
trong cuộc sống hàng ngày, thúc đẩy họ làm những việc thiện cũng như ngăn
ngừa học thực hiện những việc xấu.
Ngoài ra, với câu chuyện về Thúy Kiều, có thể nhìn nhận nó dưới một
cách nhìn khác, đó là sự “tĩnh tâm”. Nếu như ngay từ đầu và cả những biến cố
sau này nữa, Thúy Kiều biết tĩnh tâm, biết gạt đi những dục vọng đời thường,
nhận ra sự vô thường của vạn pháp mà không cố chấp bám giữ vào những ảo
ảnh của cuộc sống, không sai lầm tạo ra nghiệp báo mới thì có lẽ cuộc đời của
Thúy Kiều đã khác đi rất nhiều.
Chính vì vậy, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, chúng ta cần phải tĩnh
tâm trở lại, tìm lấy một sự an trú về tinh thần, từ đó tìm ra những con đường,
cách thức sống cho phù hợp với hoàn cảnh của bản thân. Có như vậy mới
giúp chúng ta giải thoát khỏi sự khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
4. Quan niệm về nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du còn có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, Nguyễn Du đã không căn cứ vào những cơ sở kinh tế, xã hội
hiện thực để lý giải về căn nguyên những đau khổ, bất hạnh mà Thúy Kiều
phải gánh chịu trong suốt cuộc đời mình mà lại đi tìm trong các tư tưởng tài -
sắc; mệnh trời; và nghiệp báo, nhân quả.
Thứ hai, vì không chỉ ra được căn nguyên xã hội đã đẩy Thúy Kiều tới
những đau khổ, bất hạnh trong mười lăm năm lưu lạc của mình nên Nguyễn
Du cũng không đưa ra được những biện pháp mang tính thực tiễn, cách mạng
triệt để để xóa bỏ những đau khổ và bất hạnh của con người trong xã hội
phong kiến nói chung, Thúy Kiều nói riêng đang phải chịu đựng. Thay vào
đó, Nguyễn Du lại thể hiện tâm lý bi quan, yếm thế; lối sống thụ động, an bài,
không muốn thay đổi, cải tạo hoàn cảnh xã hội mình đang sống. Đồng thời
hướng con người đến những hành động mang tính đạo đức cá nhân, đổ lỗi cho
148
chính bản thân con người trước những đau khổ và bất hạnh mà họ đang phải
chịu đựng (mặc dù về bản chất thì những đau khổ bất hạnh đó là do xã hội mà
họ đang sống gây ra).
5. Thông qua việc nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du sẽ giúp chúng ta thấy được quá trình tiếp biến tư tưởng
ở Việt Nam. Thứ nhất, Nguyễn Du không sao chép một cách cơ học nội dung,
tính cách nhân vật, ngôn từ và tình tiết trong “Kim Vân Kiều Truyện” của
Thanh Tâm Tài Nhân vào “Truyện Kiều”. Mặc dù về cơ bản nội dung cốt
truyện của hai tác phẩm này là giống nhau, nhưng ở “Truyện Kiều”, Nguyễn
Du đã rất thành công khi thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam vào
tính cách các nhân vật (trong đó Thúy Kiều là nhân vật chính, trung tâm) và
nội dung của tác phẩm.
Thứ hai, sự tiếp biến tư tưởng trong “Truyện Kiều” còn thể hiện ở quá
trình bản địa hóa những quan niệm về nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo Ấn
Độ thành những quan niệm mang tính dân gian của Phật giáo Việt Nam.
6. Nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du còn giúp chúng ta thấy được sự hỗn dung tam giáo trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam. Theo đó, Nguyễn Du đã sử dụng những quan niệm của
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo để giải thích những phức tạp trong đời sống
con người cá nhân và những biến động của lịch sử trong thời đại của ông.
Nhìn chung, có thể có rất nhiều sự đánh giá khác nhau về giá trị và hạn
chế của “Truyện Kiều” nói chung, những tư tưởng về nhân quả, nghiệp báo
nói riêng, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều tập trung nhấn mạnh đến
mặt giá trị tích cực của tác phẩm này. Những giá trị này không chỉ hiện hữu
trong lịch sử mà còn phát huy tác dụng ngay cả trong xã hội hiện nay.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Hồ Ngọc Anh (2011), "Biện chứng của qúa trình tiếp biến Phật giáo vào
Việt Nam", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (12), tr.34 - 37.
2. Hồ Ngọc Anh (2013), "Dấu ấn của Phật giáo trong giáo lý của đạo Cao
Đài", Tạp chí Khuông Việt, (22), tr.64 - 67.
3. Hồ Ngọc Anh (2014), "Tư tưởng về nhân quả trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du", Tạp chí Khuông Việt, (26), tr.46 - 51.
4. Hồ Ngọc Anh (2014), "Tư tưởng về nghiệp báo của Phật giáo trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (215),
tr.73 - 75.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1993), Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Ngô Thị Lan Anh (2011), Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với
đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Ngọc Bích, Phật-Giáo Và Truyện Kiều: Từ Trần Trọng Kim
(1940) tới Cao Huy Ðỉnh (1965), www.ivce.org.
4. Diệu Thanh Đỗ Thị Bình (2009), "Đôi điều luận về nhân quả - nghiệp
báo", Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (4), tr.40 - 41.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Nguyên Cẩn (2011), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
7. Thích Minh Châu (Dịch) (1991), Kinh Tăng Chi, Đại tạng kinh Việt Nam,
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Thích Minh Châu (1996), Trung A Hàm Kinh, Tập 1, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam.
9. Thích Minh Châu (1996), Tăng Chi Bộ Kinh, tập 3, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam.
10. Mai Phương Chi (Tuyển soạn) (2005), Truyện Kiều và lời bình, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
11. Doãn Chính (1998), Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
12. Thích Nguyên Chơn (Chủ biên) (2009), Thiện ác nghiệp báo: Chư kinh yếu
tập, Tập 1, Quyển 1 - 10, Nxb Phương Đông, Cà Mau.
13. Thích Nguyên Chơn (Chủ biên) (2009), Thiện ác nghiệp báo: Chư kinh yếu
tập, Tập 1, Quyển 11 - 20, Nxb Phương Đông, Cà Mau.
151
14. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb
Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
17. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và
phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Hồng Dương, Thích Thọ Lạc (Chủ biên) (2010), Phật giáo thời
Đinh và tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước, http://dangcongsan.vn/cpv/index.html.
22. Mộng Đắc (2009), "Vài nét về đạo Phật và thuyết Nhân quả", Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo, (4/70), tr.71 - 74.
23. Thích Như Điển (2009), Sống và chết theo quan niệm của Phật giáo,
Nxb Phương Đông, Cà Mau.
24. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Nguyễn Du -Về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Thạch Giang (1986), Truyện Kiều / Nguyễn Du; khảo đính và
chú giải, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
26. Thích Đạt Ma Phổ Giác (2013), Nhân quả & số phận con người, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
152
27. Hà Huy Giáp (2000), Truyện Kiều của Nguyễn Du: Chú thích, chú giải
và những tư liệu gốc, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội
28. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Bùi Thị Thu Hà (2006), "Phương pháp văn hoá học- phương pháp cần
thiết để khám phá nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều dưới góc
độ văn hoá", Tạp chí Giáo dục, (149), tr.20-21.
30. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
31. Thích Nhất Hạnh (2009), Thả một bè lau, Nxb Văn hóa Sài gòn, Tp Hồ
Chí Minh
32. Nguyễn Hùng Hậu (Minh Không) (2002), Đại cương triết học Phật giáo
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hoá Phương Đông, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
34. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
35. Thích Thiện Hoa (2007), Xây dựng đời sống trên nền nhân quả, nghiệp
và luân hồi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam,
Tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Diệu Huyền, Bàn về nhân duyên nhân quả, http://www.ngocbao.org.
38. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
39. D.J. Kalupahana (Đồng Loại, Trần Nguyên Trung dịch) (2007), Nhân
quả - triết lý trung tâm Phật giáo, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh.
40. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển
của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Khuê (2013), Luận lý học Phật giáo, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
153
42. Tưởng Duy Kiều (Thích Đạo Quang dịch) (1996), Đại cương triết học
Phật giáo, Nxb Thuận Hoá, Huế.
43. Trần Trọng Kim (1952), Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay, Nxb
Tân Việt.
44. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Nguyễn Xuân Lam (Sưu tầm) (2009), Nghiên cứu "Truyện Kiều" những
năm đầu thế kỉ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Thái Kim Lan, Ý niệm đoàn viên trong truyện Kiều của Nguyễn Du,
www.nhohue.org.
47. Thích Thế Long, Thích Trí Hải (Dịch) (2011), Phật nói Kinh Nhân quả ba
đời & Kinh Nhân quả kinh tội phúc báo ứng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
48. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
49. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
50. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
51. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
52. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
53. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
54. C.Mác và Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, Tập 27, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
55. Thích Giác Nghiên (Sưu tầm) (2009), Nhân quả luân hồi, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
154
56. Thanh Tâm Tài Nhân (2008), Kim Vân Kiều truyện, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
57. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
58. Phan Ngọc (2003), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
59. Thích Chúc Phú (Biên soạn) (2013), Vài vấn đề về Phật giáo và nhân
sinh, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
60. Thích Chân Quang (2005), Luận về nhân quả, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
61. Thích Chân Quang (Biên soạn) (2009), Căn bản luật nhân quả, Nxb Văn
hoá Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
62. Thích Giác Quả (Trích dịch) (2011), Kinh Nhân quả luân hồi, Nxb
Thuận Hoá, Huế.
63. Lê Văn Quán (2009), "Bàn về "mệnh" và triết lý "mệnh" trong truyện
Kiều", Tạp chí Hán nôm, (3), tr.3 - 10.
64. Lê Văn Quán (2010), Góp phần tìm hiểu triết lý đạo Phật trong truyện
Kiều, Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (102), Tr.56-66.
65. Thích Trung Quán (Dịch) (1999), Kinh thiện ác nhân quả, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
66. Văn Xương Đế Quân (Quảng Tráng lược dịch) (2011), Nhân quả báo
ứng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
67. Phạm Đan Quế (2005), Truyện Kiều trên báo chương thế kỷ XX, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
68. Ngô Quốc Quýnh (2010), Thử tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua
truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Thích Thiện Siêu (2002), Chữ nghiệp trong đạo Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
70. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều: Chuyên luận, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
71. Thích Minh Tâm, Con người là chủ nhân của nghiệp và thừa tự của
nghiệp, http://www.vbu.edu.vn/application.
155
72. Thích Thiền Tâm (dịch) (2003), Kinh nhân quả ba đời, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
73. Hoài Thanh (1949), Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, Nxb Hội Văn hoá Việt Nam.
74. Tân Thanh, Nguyễn Đại Đồng (2012), Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến 1981, Nxb Văn học, Hà Nội.
75. Trần Đức Thảo, Nội dung xã hội của “Truyện Kiều”, www.viet-studies.info.
76. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1, Nxb Thuận
Hoá, Huế.
77. Lưu Thị Quyết Thắng (2004), "Thử bàn về nhân sinh quan Phật giáo qua
giáo lý duyên khởi", Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (5), tr. 6-10.
78. Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch) (1999), Đức Phật và Phật pháp,
Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
79. Narada Thera (Phương Thảo dịch) (2006), Học thuyết tái sanh của Phật
giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
80. Thích Mật Thể (2004), Thế giới quan Phật giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
81. Đỗ Kim Thêm (2013), Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện
đại, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
82. Thích Tâm Thiện (1998), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb Tp.
Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
83. Thích Chơn Thiện (1997), Phật Học Khái Luận, Viện Nhiên cứu Phật
học Việt Nam.
84. Trần Nho Thìn (2004), "Cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong
Truyện Kiều" Tạp chí Nghiên cứu văn học, (5), tr.25-40.
85. Trần Nho Thìn (2004), "Cảm nhận của Nguyễn Du về xã hội trong
Truyện Kiều, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6, tr.17- 40.
86. Trần Nho Thìn (2006), "Lịch sử đánh giá nhân vật truyện Kiều", Tạp chí
Văn hóa Nghệ thuật, (11), tr.33 - 37.
156
87. Thích Tuệ Thông (dịch) (2007), Phật nói kinh nghiệp báo sai biệt, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
88. Nguyễn Đăng Thục (1963), Tư tưởng Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
89. Đỗ Lai Thuý (2005), "Nhìn lại nguyễn Du và truyện Kiều: Kỷ niệm 240
năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du", Tạp chí Xưa và nay, (249),
tr.9-10.
90. Đỗ Lai Thuý (2006), "Nguyễn Du và truyện Kiều dưới cái nhìn của phê
bình văn hoá lịch sử", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (11), tr.38 - 43.
91. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
92. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và nho học ở Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
93. Nguyễn Tài Thư (2011), “Quan hệ con người - tự nhiên trong truyền
thống phương Đông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng xã hội
hiện đại”, Tạp chí Triết học (9), tr.25-33.
94. Thích Chân Tính (2012), Lành dữ nghiệp báo, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
95. Nguyễn Thị Toan (2010), Giải thoát luận Phật giáo, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
96. Thích Quảng Trí (2011), Phật giáo nhập thế và phát triển, Quyển 3, Nxb
Tp Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
97. Nguyễn Quảng Tuân (1990), Chủ nghĩa truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
98. Nguyễn Quảng Tuân (2000), Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
99. Nguyễn Quảng Tuân (2004), Truyện Kiều: Nghiên cứu và khảo luận,
Nxb Văn học, Hà Nội
100. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong truyện
Kiều: Chuyên luận, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
157
101. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam
thế kỷ 20, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội
102. Thích Thanh Từ (2005), Phật giáo trong mạch sống dân tộc, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
103. Thích Thanh Từ (2007), Vài nét chính luân lý Phật giáo, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
104. Thích Thanh Từ (2012), Tội phước nghiệp báo, Nxb Văn hoá Văn nghệ
Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
105. Trương Tửu (1956), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du: Phê bình văn
học, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
106. Tinh Vân (2006), Cách nhìn của Phật giáo đối với vấn đề luân hồi, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
107. Viện Triết học (1986), Một số vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt
Nam, Nhà in Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
108. Website: Kinh Pháp Cú, http://thuvienhoasen.org.
109. Hoàng Tâm Xuyên (Chủ biên) (2003), Mười tôn giáo lớn trên thế giới,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Zhao Yanqiu, “Kim Vân Kiều truyện” của Nguyễn Du với “Kim Vân
Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân: Kế thừa và biến đổi,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/
111. Huyễn Ý (2006), Truyện Kiều qua cách nhìn của người học Phật, Nxb.
Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
112. Huyễn Ý (2007), Truyện Kiều qua khía cạnh tâm linh, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.