intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích bài thơ Xúc cảnh (Ngóng gió đông) của Nguyễn Đình Chiểu

Chia sẻ: Lan Si Zhui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:3

63
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngay từ khi có "tiếng súng Tây" trên đất nước ta, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ yêu nước chống Pháp bằng những tác phẩm thơ ca của mình. Nam Bộ dần dần nằm trong tay giặc bởi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát. Sống trong vòng kìm kẹp của chế độ thực dân, tấm lòng nhà thơ khắc khoải đau buồn nhưng vẫn ngóng trông và hy vọng vào ngày mai, vào một vận hội mới làm thay đổi sơn hà. Bài thơ Xúc cảnh là tiếng vọng của tấm lòng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích bài thơ Xúc cảnh (Ngóng gió đông) của Nguyễn Đình Chiểu

Đề bài: Phân tích bài thơ Xúc cảnh (Ngóng gió đông) của Nguyễn Đình Chiểu<br /> Bài làm<br /> Ngay từ khi có "tiếng súng Tây" trên đất nước ta, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ <br /> yêu nước chống Pháp bằng những tác phẩm thơ ca của mình. Nam Bộ dần dần nằm trong <br /> tay giặc bởi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát. Sống trong vòng kìm kẹp của chế độ  thực  <br /> dân, tấm lòng nhà thơ khắc khoải đau buồn nhưng vẫn ngóng trông và hy vọng vào ngày <br /> mai, vào một vận hội mới làm thay đổi sơn hà. Bài thơ  Xúc cảnh là tiếng vọng của tấm <br /> lòng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước:<br /> Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông<br /> Chúa xuân đâu hỡi có hay không?<br /> Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn<br /> Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.<br /> Bờ cõi nay đà chia đất khác<br /> Nắng mưa nay hả đội trời chung.<br /> Chừng nào thánh đế ân soi thấu<br /> Một trận mưa nhuần rửa núi sông.<br /> Một trận mưa nhuần rửa núi sông<br /> Bài thơ  làm theo thể  thất ngôn bát cú, một thể  thơ  Đường luật quen thuộc. Đề  tài là <br /> Ngóng gió đông, trông ngóng gió của mùa xuân mát lành, nhưng thực ra là kí thác tâm  <br /> trạng và nỗi khát vọng của nhà thơ đối với vận hội đất nước.<br /> Sáu câu đầu (đề, thực, luận) miêu tả  cảnh ngóng đợi gió đông của đất trời, cây cỏ  mà  <br /> thực ra là để  nói lên tâm trạng khắc khoải, bộc lộ  một nỗi buồn da diết về cảnh nước  <br /> mất, nhà tan:<br /> "Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông<br /> Chúa xuân đâu hỡi có hay không?"<br /> Hai chữ  "ngùi ngùi" thế hiện rõ tâm trạng buồn bã của hoa cỏ  đang ngóng đợi gió xuân. <br /> Tiếp theo sau là một câu hỏi, như  một tiêng kêu đau đớn, xót xa, làm tăng thêm, tô đậm <br /> thêm tâm trạng buồn bã, ngóng đợi ở trên.<br /> Hai câu đề viết theo kiểu ẩn dụ. Nói "hoa cỏ" nhưng là để nói quê hương, đất nước, sông  <br /> núi, cũng là để nói nhân dân, đất nước. Còn "chúa xuân" thì hàm nghĩa triều đình, nhà vua,  <br /> cũng có thể là những trang anh hùng cứu nước. "Chúa xuân"  ở  đâu, có nghe không tiếng <br /> gọi của non sông, cây cỏ đang "ngùi ngùi" ngóng đợi cơn gió mùa xuân mát lành? Có một  <br /> cái gì vừa thiết tha, vừa buốn bã, đớn đau<br /> "Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn<br /> Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng"<br /> Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông<br /> Vẫn theo cách nói ẩn dụ, những hỉnh ảnh "mây giăng ải Bắc", "Ngày xế non Nam" là để <br /> chỉ tình cảnh đất nước tiêu điều, mù mịt vì sự ngóng trông vô vọng tin tức của chúa xuân,  <br /> của gió đông. Người xưa dùng chim nhạn và chim hồng để đưa tin. "Trông tin nhạn" mà <br /> chẳng thấy và "bặt tiếng hồng" cũng có nghĩa là bặt vô âm tín. Hai câu thơ  (thực) thể <br /> hiện sự chán ngán, trách móc thái độ hờ hững, vô trách nhiệm của chúa xuân:<br /> "Bờ cõi xưa đà chia đất khác<br /> Nắng sương nay há đội trời chung"<br /> Hai câu luận đưa ta trở về với hiện thực đau đớn của đất nước hồi đó. Lời thơ  có giọng <br /> oán trách và căm giận.<br /> "Bờ cõi xưa" vốn là giang sơn đất nước trọn vẹn của ta, sao giờ chia cho kẻ khác, chẳng  <br /> lẽ  có thể  sống chung với quân giặc sao? "Há đội trời chung" thể  hiện giọng điệu bất <br /> bình, thái độ dứt khoát, quyết liệt với kẻ thù.<br /> Hai câu kết:<br /> "Chừng nào thánh đế ăn soi thấu<br /> Một trận mưa nhuần rửa núi sông".<br /> Nếu mở  đầu bài thơ  tác giả  dùng ngôn ngữ   ẩn dụ: “chúa xuân"\ "gió đông" thì đến đây <br /> ông thấy cần trực tiếp gọi tên đối tượng: đó là "Thánh đế". Bao giờ mới xuất hiện vị vua  <br /> sáng suốt, vị  hoàng đế  anh minh hiểu thấu dân tình, ra tay cứu dân, cứu nước, rửa nhục  <br /> cho non sông này. Lời ước vọng cũng là lời kêu gọi tha thiết xuất phát từ lòng thương dân  <br /> sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu ­ hãy "soi thấu” tình cảnh của dân, hãy hiểu thấu lòng  <br /> dân khát khao mong đợi. Bài thơ kết thúc bằng một viễn cảnh thật hả lòng hả dạ. Người  <br /> xưa thường nói: "ơn vua như  mưa móc",  ở  đây tác giả  khao khát một trận mưa lớn tốt <br /> lành để  có thể  cuốn phăng đi tất cả  bọn cướp nước và mọi rác rưởi đang làm nhơ  bẩn <br /> nước non này.<br /> Bài thơ có hai lớp nghĩa đan xen nhau, rõ ràng mà sâu kín. Bề nổi dễ thấy của bài thơ  là  <br /> cảnh một con người đang buồn bã, ngóng đợi "gió đông", ao ước một "trận mưa nhuần"...  <br /> Nhưng ai đọc cũng thấy, cái bề  nổi  ấy cứ  chìm đi, để  cho phần chìm lại hiện lên ngày <br /> một rõ. Đó là sự khao khát, mong đợi một ngày mai tốt lành sẽ  tới. Càng nghĩ càng thấy <br /> trân trọng biết bao tấm lòng của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2