Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam: Thay<br />
đổi nhận thức và cơ chế, chính sách<br />
Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã được đưa vào<br />
Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020. Tuy vậy, để làm được điều đó,<br />
theo các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa, chúng ta cần thay đổi từ nhận<br />
thức đến cơ chế, chính sách và cơ sở hạ tầng.<br />
Kết hợp kỹ thuật cao với văn hóa<br />
Công nghiệp văn hóa là việc sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa<br />
và sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa<br />
và thương phẩm hóa; là ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch<br />
vụ văn hóa, công nghiệp văn hóa lấy sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa của mọi người<br />
làm mục tiêu chủ yếu. Đó là sản phẩm kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với sự<br />
nghiệp văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa thấm sâu vào nhau.<br />
Công nghiệp văn hóa đã phát triển ở nhiều nước, đặc biệt mạnh mẽ vào giữa thế kỷ<br />
XX, và trở thành ngành trụ cột trong nhiều nền kinh tế. Chẳng hạn, các ngành công<br />
nghiệp văn hóa ở Anh đã tạo ra thu nhập khoảng 112,5 tỷ bảng/năm, đóng góp 5%<br />
GDP, chiếm 10-15% thị phần công nghiệp văn hóa thế giới. Ở Canada, công<br />
nghiệp văn hóa đóng góp 46 tỷ USD vào tổng sản phẩm quốc nội; năm 2005, xuất<br />
khẩu hàng hóa và dịch vụ văn hóa nghệ thuật của nước này lên tới trên 5 tỷ USD.<br />
Hay với Hong Kong, Trung Quốc, 85% thu nhập quốc dân có được từ nguồn thu<br />
dịch vụ giải trí, truyền hình và quảng cáo...<br />
Phát triển công nghiệp văn hóa có tác động lớn đối với kinh tế, văn hóa và xã hội<br />
của một đất nước. Trên phạm vi quốc gia, sự phát triển công nghiệp văn hóa có khả<br />
năng đóng góp to lớn cho các chỉ tiêu thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm...<br />
Mặt khác, phát triển công nghiệp văn hóa tạo nên hệ thống sản xuất và phục vụ văn<br />
hóa nhiều chủng loại, cấp độ, nhiều loại hình, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất<br />
lượng văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân.<br />
Lợi nhuận khổng lồ của công nghiệp văn hóa đã khiến rất nhiều doanh nghiệp lớn<br />
trên thế giới đua nhau tham gia.<br />
Nhu cầu cấp thiết<br />
1<br />
<br />
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)<br />
<br />
Ở Việt Nam, ngay từ đầu những năm 1990 đã bắt đầu xuất hiện quan niệm mới về<br />
văn hóa - nghệ thuật, khi coi đó là một loại hàng hóa đặc biệt. Trong một số lĩnh<br />
vực như điện ảnh, sân khấu, xuất bản... đã đòi hỏi hạch toán để sử dụng hiệu quả<br />
vốn đầu tư. Tuy vậy đến nay, khái niệm này vẫn còn khá mới. Theo Ts Nguyễn<br />
Danh Ngà, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ VH, TT và DL, trong khi nhu cầu sáng<br />
tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được nâng lên và nhiều loại tư<br />
tưởng văn hóa tác động lẫn nhau trên phạm vi thế giới như hiện nay, việc phát triển<br />
thật nhanh ngành công nghiệp văn hóa ngày càng trở nên cấp thiết. “Có thể khẳng<br />
định một cách chắc chắn rằng, xây dựng công nghiệp văn hóa là tiền đề quan trọng<br />
để xây dựng một nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Việt Nam muốn<br />
hiện đại hóa không những phải phồn vinh về kinh tế mà còn phải phồn vinh về văn<br />
hóa”.<br />
Trong hội thảo Công nghiệp văn hóa, thực trạng và giải pháp diễn ra tại Hà Nội<br />
vừa qua, các nhà chuyên môn đánh giá: Việt Nam có các tiêu chí để xây dựng nền<br />
công nghiệp văn hóa, nhưng chưa thành hệ thống. Có thể nói, nước ta chưa có nền<br />
công nghiệp văn hóa. Các hoạt động văn hóa ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, chưa hiệu<br />
quả, chủ yếu sống bằng sự bao cấp của nhà nước. Hệ thống sản xuất phân phối các<br />
sản phẩm văn hóa chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp của nhà nước đảm nhiệm, sự<br />
tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ còn hạn chế. Việc đầu<br />
tư ngân sách cho hoạt động văn hóa nhìn chung còn thấp so với các ngành khác,<br />
chỉ chiếm khoảng 0,3% GDP; đồng thời, đóng góp của hoạt động văn hóa trong cơ<br />
cấu sản phẩm trong nước cũng rất hạn chế...<br />
Đổi mới từ nhận thức đến thực tiễn<br />
Để xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa, Việt Nam cần có những đột phá từ<br />
tư duy đến thực tiễn. Trước hết là sự thay đổi về nhận thức của các nhà quản lý,<br />
lãnh đạo và hoạch định chính sách văn hóa. Phải coi sự nghiệp văn hóa là một<br />
ngành sản xuất, có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần cao đẹp, đồng thời mang<br />
lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Từ đó mới tạo ra sự chuyển biến trong chính sách<br />
quản lý, định hướng hoạt động văn hóa.<br />
Công nghiệp văn hóa muốn phát triển phải dựa trên sự xây dựng và phát triển của<br />
thị trường văn hóa. Bởi vậy, cần hoàn thiện hơn hệ thống quản lý nhà nước, tạo<br />
hành lang pháp lý cho sự hình thành thị trường văn hóa lành mạnh. Ts Nguyễn<br />
2<br />
<br />
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)<br />
<br />
Danh Thuận, Trung tâm Triển lãm Việt Nam, cho rằng, nhà nước cần có những cơ<br />
chế, chính sách đặc thù như: chính sách kinh tế trong văn hóa (gồm chính sách<br />
thuế, chính sách giá, chính sách đầu tư, hình thành các quỹ hỗ trợ...); chính sách sử<br />
dụng, đãi ngộ văn nghệ sỹ có nhiều đóng góp cho xã hội; chính sách khuyến khích<br />
sáng tạo trong văn hóa, nghệ thuật...<br />
Trong điều kiện nguồn đầu tư còn hạn chế, khi xây dựng công nghiệp văn hóa,<br />
trong từng giai đoạn chúng ta cần chọn một lĩnh vực nhất định là thế mạnh để đẩy<br />
nhanh tốc độ tăng trưởng. Theo Phó viện trưởng Viện Văn học Nghệ thuật Việt<br />
Nam Lương Hồng Quang, bên cạnh chiến lược phát triển chung, cần có sự đánh<br />
giá toàn diện hoạt động văn hóa của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, để thấy<br />
được thực trạng, những cái thiếu, cái cần phải có... từ đó đưa ra các bước đi phù<br />
hợp. Việt Nam cũng cần xây dựng, ban hành, thực hiện nghiêm các luật về bản<br />
quyền và sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm và công trình văn học, nghệ thuật.<br />
Đây cũng là cơ sở quan trọng để khuyến khích sáng tạo, sản xuất, phổ biến những<br />
nội dung văn hóa, nghệ thuật ở mỗi quốc gia.<br />
Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghiệp văn hóa.<br />
UNESCO gọi đây là ngành Công nghiệp văn hóa (Cultural<br />
industries), Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) gọi là<br />
Công nghiệp bản quyền (Copyright industries), trong khi Mỹ<br />
coi đó là Công nghiệp giải trí (Entertainment industries). Hội<br />
đồng Anh lại gọi đó là Nền kinh tế sáng tạo (Creative<br />
economy). Theo định nghĩa mới của Hội đồng Anh, công<br />
nghiệp văn hóa gồm 7 lĩnh vực chủ chốt: truyền thông, thiết kế<br />
thời trang, sản phẩm tương tác, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản,<br />
phim ảnh và nghệ thuật thị giác.<br />
Lê Thủy<br />
<br />
3<br />
<br />
You created this PDF from an application that is not licensed to print to novaPDF printer (http://www.novapdf.com)<br />
<br />