
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngô (Zea mays L.) có nguồn gốc ở Mexico cách đây 7000 năm và châu Mỹ
là quê hương chuyển ngô thành nguồn lương thực tốt hơn cho con người. Hạt ngô
chứa xấp xỉ 72% tinh bột, 10% protein và 4% chất béo, nó cung cấp năng lượng
sinh học (365 Kcal/100g) cho hoạt động sống. Ngô được trồng rộng khắp trên thế
giới, những nước có diện tích sản xuất và sản lượng lớn nhất là Mỹ, Trung Quốc và
Brazil, ba nước này tạo ra xấp xỉ 717 triệu tấn/năm. Ngô sử dụng làm lương thực,
thức ăn chăn nuôi, công nghiệp khác, trong 10 năm gân đây ngô được sử dụng làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nhiên liệu sinh học, do vậy nhu cầu ngô của
thế giới ngày càng tăng (Peter et al., 2014).
Hầu hết 160 triệu ha diện tích trồng ngô toàn cầu trong điều kiện canh tác nhờ
nước trời. Tỷ lệ diện tích trồng ngô có tưới ở Mỹ khoảng 14%, Trung Quốc khoảng
40% và chỉ có Ai Cập cao nhất là 100%. Còn lại, các nước khác trên thế giới chỉ
khoảng 10% diện tích trồng ngô là có tưới. Thống kê toàn cầu, thiệt hại năng suất
ngô do hạn trung bình hàng năm là 15%, tương đương với 120 triệu tấn ngô hạt, với
giá hiện nay tương đương với 36 tỷ đô la. Tuy nhiên, ảnh hưởng và tổn thất thực sự
của hạn hán là tác động của nó đến cuộc sống của con người ở những vùng ngô
được sử dụng làm lương thực hàng ngày, như sa mạc Châu Phi và các nước nghèo,
ước tính khoảng 300 triệu người. Chương trình lương thực thế giới đã phải mua
410.000 tấn ngô với kinh phí hơn 100 triệu đô la cứu đói cho những vùng này, năm
2011 hạn cũng làm thiệt hại nông nghiệp của Mỹ 5,2 tỷ đô la (Doug, 2012). Vì thế,
chọn giống ngô chống chịu hạn vẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng với thế giới
trong mục tiêu phát triển thiên niên kỷ chống nghèo đói (WFP, 2012).
Hạn hán xảy ra nghiêm trọng trong những thập kỷ qua đã ảnh hưởng nặng nề
đến năng suất và sản lượng của các vùng trồng ngô trên thế giới. Các phương pháp
nhận biết và phát triển ngô lai chịu hạn là mục tiêu quan trọng của các nhà nghiên
cứu. Những cố gắng của các nhà tạo giống cơ bản tập trung tạo giống có năng suất
ổn định khi gặp điều kiện bất thuận hạn, nhận biết để cải tiến khả năng chịu hạn
thông qua các tính trạng gián tiếp. Các tính trạng gián tiếp có thể nhận biết ở các
dòng thuần bố mẹ và khả năng di truyền của chúng cho con cái là tổ hợp lai giữa
các bố mẹ chịu hạn (Meghyn, 2010).
Mở rộng nền di truyền bằng tạo ra nguồn vật liệu di truyền chịu hạn là tiềm
năng to lớn để tạo ra giống ngô chịu hạn, đặc biệt quan trọng với điều kiện môi
trường khắc nghiệt ở các nước đang phát triển (Weiwei et al., 2011). Diện tích
trồng ngô ở Việt Nam chủ yếu trên đất dốc của vùng núi, nơi không có hệ thống
tưới tiêu do vậy canh tác ngô chủ yếu là canh tác nhờ nước trời. Những điều kiện
canh tác này cần thiết có giống ngô lai năng suất cao và có khả năng chịu hạn.
Ngô Hữu Tình (1997) cho rằng ngô của Việt Nam được trồng chủ yếu ở
miền núi trên đất dốc canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào nước mưa, nên thường