BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN NGUYỄN MINH HẢI
PHÁT TRIỂN
QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 9 34 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THỊ THANH HÀ
TS. TRẦN THỊ KỲ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan danh dự về công trình nghiên cứu khoa học này của mình, cụ
thể như sau:
Họ tên tác giả: Trần Nguyễn Minh Hải
Sinh ngày 24 tháng 7 năm 1983 tại Bình Thuận, Việt Nam
Quê quán: Thái Bình, Việt Nam
Hiện công tác tại Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Là nghiên cứu sinh khóa 18 của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Trong thời gian học tập tại Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, tác
giả cam đoan luận án: Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 9 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thanh Hà và TS. Trần Thị Kỳ
Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị tiến sĩ tại bất cứ một
trường đại học nào. Luận án này là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả
nghiên cứu là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây
hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn
đầy đủ trong luận án.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 9 năm 2018
Tác giả
Trần Nguyễn Minh Hải
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin kính gửi tới Quý Thầy Cô Trường Đại học Ngân hàng TP.
Hồ Chí Minh tấm lòng tri ân chân thành và sâu sắc vì sự chỉ dạy, hướng dẫn nhiệt tình,
tận tâm đã giúp tác giả hoàn thiện khả năng tư duy và kiến thức. Trường Đại học Ngân
hàng TP. Hồ Chí Minh như là ngôi nhà thứ hai của tác giả, nơi đã gắn bó thân thương
với tác giả từ lúc chào đời cho đến thời điểm hiện tại. Niềm vinh hạnh và tự hào to lớn
của tác giả khi được trở thành học trò, đồng nghiệp của Quý Thầy Cô dưới mái trường
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh luôn mãi là nguồn năng lượng mạnh mẽ hun đúc
cho tấm lòng phụng sự của tác giả đối với nghề giáo trân quý.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Người hướng dẫn khoa
học là TS. Lê Thị Thanh Hà và TS. Trần Thị Kỳ đã tận tình hỗ trợ, kiên nhẫn chỉ bảo,
góp ý và động viên, khích lệ tác giả trong thời gian hoàn thành luận án.
Đồng thời, tác giả cũng xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Quý Thầy Cô,
Quý Đồng nghiệp đã hướng dẫn tác giả từ những ngày đầu tiếp cận nghiên cứu khoa
học và luôn là hình ảnh mẫu mực cho tác giả phấn đấu noi theo.
Bên cạnh đó, tác giả cũng xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Quý Thầy Cô,
Quý Đồng nghiệp đã luôn động viên, khuyến khích và hỗ trợ với những lời khuyên hữu
ích cho tác giả cả trong công việc và trong cuộc sống.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Gia đình, Bạn bè và các
Sinh viên của tác giả đã luôn là nguồn động lực to lớn với sự khích lệ tinh thần và tình
yêu thương vô bờ bến trong suốt quá trình tác giả thực hiện luận án.
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
Ngân hàng Phát triển Châu Á
Asia-Pacific Economic
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái
APEC
Cooperation
Bình Dương
Association of Southeast Asian
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Nations
BHXH
Bảo hiểm xã hội
CTCK
Công ty chứng khoán
DB
Defined Benefit
Mức hưởng được xác định trước
DC
Defined Contribution
Mức đóng góp được xác định trước
Economic freedom
Chỉ số tự do kinh tế
EMEs
Emerging market economies
Các nền kinh tế mới nổi
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FEM
Fixed effect model
Phương pháp xem xét tác động cố định
FPI
Foreign Portfolio Investment
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
GCI
Global Competitiveness Index
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
Real GDP per capita
GDP bình quân đầu người
GSO
General Statistics Office
Tổng cục thống kê
Ho Chi Minh City Stock
HOSE
Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM
Exchange
HNX
Ha Noi Stock Exchange
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
International Labour
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
Organiztaion
International Organization of
IOSCO
Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán
Securities Commissions
Long term interest rate
Lãi suất dài hạn
ADB Asian Development Bank
iv
MOF
Ministry of Fiance
Bộ Tài chính
Ministry of Labour - Invalid &
MOLISA
Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội
Social Affairs
Kế hoạch hưu trí cá nhân có mức đóng góp
NDC
Notional Defined Contribution
xác định ước tính (danh nghĩa)
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
NSNN
Ngân sách Nhà nước
Tỷ lệ người già trên 100 người thuộc độ
Old age dependency ratio
tuổi lao động
Organization for Economic
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Cooperation and Development
Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ
OLS
Ordinary least squares
nhất
PAYG
Pay as You Go
Cơ chế thanh toán thực thu thực chi
PESTLIED
Mô hình phân tích 8 yếu tố vĩ mô
Giá trị tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với
Pension fund's assets
GDP
REM
Random effect model
Phương pháp xem xét tác động ngẫu nhiên
State Securities Commission of
SSC
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam
VN
TMCP
Thương mại cổ phần
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
TTCK
Thị trường chứng khoán
VSD
Viet Nam Securities Depository Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
Market capitalization of listed
Vốn hóa thị trưởng của các công ty nội địa
domestic companies
niêm yết so với GDP
WEF
World Economic Forum
Diễn đàn Kinh tế thế giới
Inflation rate
Tỷ lệ lạm phát
v
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Nguồn dữ liệu của các biến số trong mẫu nghiên cứu thực nghiệm. ............... 8
Bảng 1.2 Tổng hợp mô tả thông tin cá nhân trong mẫu. .................................................. 9
Bảng 2.1 Phân biệt giữa chương trình có mức hưởng xác định (DB) và chương trình có
mức đóng góp xác định (DC). ...................................................................................... 172
Bảng 2.2 Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank. .................................................. 176
Bảng 2.3 Sự tương đồng về phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD. ............... 179
Bảng 2.4 Tỷ trọng các quỹ hưu trí theo mô hình DC và DB tại một số thị trường thu
nhập hưu trí vào năm 2014 và năm 2015. ...................................................................... 18
Bảng 2.5 Sự phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện tại 7 thị trường thu nhập
hưu trí lớn nhất tính đến năm 2015. ............................................................................... 23
Bảng 2.6 Các loại hình trung gian tài chính. .................................................................. 26
Bảng 2.7 So sánh giữa đầu tư cá nhân và đầu tư tổ chức............................................... 27
Bảng 2.8 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí
tự nguyện và TTCK giai đoạn 2000 - 2015. .................................................................. 38
Bảng 2.9 Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập áp dụng đối với thu nhập hưu trí. ........ 45
Bảng 3.1. Tổng hợp các biến số được sử dụng phổ biến, có số lần được đề cập nhiều
nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm liên quan. ........................................................ 65
Bảng 3.2 Thống kê các biến số trong mẫu giai đoạn 2000 - 2015. ................................ 75
Bảng 3.3 Ma trận tương quan giữa các biến số. ............................................................. 76
Bảng 3.4 Bảng tổng hợp các kết quả ước lượng ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện đến TTCK và các kết quả kiểm định với các mô hình OLS, FE, FE-cluster và
RE. .................................................................................................................................. 80
Bảng 4.10 Sự ưa thích của cá nhân về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ thống hưu trí
được ưu tiên. ................................................................................................................. 120
vi
Bảng 4.11 Sự ưa thích của cá nhân về việc tự đầu tư trong hệ thống hưu trí được ưu
tiên. ............................................................................................................................... 121
Bảng 4.12 Các yếu tố quyết định cơ bản của sự lựa chọn ban đầu và những thay đổi kế
tiếp trong thành phần của các danh mục đầu tư hưu trí. .............................................. 123
Bảng 4.13 Tổng hợp ý kiến của các cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam ........................................................................................................... 125
Bảng 4.1 Quá trình phát triển hệ thống BHXH của Việt Nam. ..................................... 87
Bảng 4.2 Hệ thống hưu trí Việt Nam xét theo mô hình đa trụ cột của WB. .................. 92
Bảng 4.3 Phân biệt bảo hiểm hưu trí bổ sung và bảo hiểm hưu trí tự nguyện. .............. 93
Bảng 4.4 Các công ty bảo hiểm nhân thọ đủ điều kiện triển khai sản phẩm bảo hiểm
hưu trí trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. ................................................................... 99
Bảng 4.5 Tình hình khai thác mới của các hợp đồng chính trên thị trường bảo hiểm
nhân thọ Việt Nam năm 2013 - 2015. .......................................................................... 100
Bảng 4.6 Tỷ trọng khai thác mới hợp đồng bảo hiểm hưu trí trên thị trường bảo hiểm
nhân thọ giai đoạn 2013 - 2015. ................................................................................... 102
Bảng 4.7 Phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân
thọ tại Việt Nam năm 2014 và 2015. ........................................................................... 103
Bảng 4.8 Quy định đầu tư tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ...................... 103
Bảng 4.9 Tỷ suất sinh lời của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam giai đoạn 2013 -
2015. ............................................................................................................................. 105
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Khung quy trình nghiên cứu của luận án. ....................................................... 11
Hình 2.1 Khung lý thuyết liên quan đến phát triển quỹ hưu trí trên thị trường chứng
khoán. ............................................................................................................................. 29
Hình 2.2 Chi phí trả cho thu nhập hưu trí của một số quốc gia theo các khu vực trên thế
giới năm 2015 và và dự báo năm 2050. ......................................................................... 51
Hình 2.3 Tỷ lệ dân số già hóa theo khu vực năm 2015 và dự báo năm 2050. ............... 55
Hình 3.1 Tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với quy mô vốn hóa thị trường
cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC năm 2000 và 2015. ..................................... 60
Hình 3.2 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự
nguyện và của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC
giai đoạn năm 2000 đến 2015. ....................................................................................... 61
Hình 4.1 Hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2014. ....................................................... 91
Hình 4.2 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ........................... 97
Hình 4.3 Tình hình tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt Nam giai
đoạn 2000 - 2015. ......................................................................................................... 107
Hình 4.4 Tình hình thực hiện thu chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. ......... 108
Hình 4.5 Khung pháp lý quy định quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ..................... 113
Hình 4.6 Mức độ tự đánh giá thái độ về tài chính của cá nhân. ................................... 117
Hình 4.7 Khả năng chịu rủi ro trên thu nhập trọn đời của cá nhân. ............................. 118
Hình 4.8 Thành phần của khoản tiết kiệm hưu trí ưa thích: Tỷ lệ phần trăm cổ phiếu
trong danh mục đầu tư cá nhân. ................................................................................... 122
viii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH .................................................................................... v
MỤC LỤC ................................................................................................................... viii
CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .............................................................. 5
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu chung ............................................................................... 5
1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể ............................................................................... 5
1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 5
1.3 Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu ........................... 6
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 6
1.3.2 Đối tượng khảo sát ............................................................................................. 6
1.3.3 Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian ............................................... 6
1.4 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 7
1.4.1 Về phương pháp tiếp cận ................................................................................... 7
1.4.2 Về phương pháp thu thập dữ liệu ...................................................................... 8
1.4.3 Về phương pháp xử lý dữ liệu ......................................................................... 10
1.5 Khung quy trình nghiên cứu của luận án ................................................................. 11
1.6 Đóng góp của luận án ............................................................................................... 12
1.7 Bố cục của luận án ................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ................................................................. 13
2.1 Quỹ hưu trí tự nguyện .............................................................................................. 13
2.1.1 Khái quát về quỹ hưu trí .................................................................................. 13
ix
2.1.2 Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện ..................................................................... 15
2.2 Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán ................................ 19
2.2.1 Khái niệm về phát triển và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán .............................................................................................................. 19
2.2.2 Tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán .............................................................................................................. 22
2.2.3 Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán .... 25
2.3 Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên thị trường chứng khoán ........................................................................................... 29
2.3.1 Khung lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên thị trường chứng
khoán......................................................................................................................... 29
2.3.2 Các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài ........................................................ 37
2.3.3 Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước......................................................... 42
2.4 Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán .......... 42
2.4.1 Chính sách ưu đãi thuế thu nhập ..................................................................... 44
2.4.2 Tính ổn định của kinh tế vĩ mô ........................................................................ 45
2.4.3 Các vấn đề về xã hội học ................................................................................. 46
2.4.4 Mức độ phát triển của thị trường tài chính ...................................................... 47
2.4.5 Các quy định pháp lý ....................................................................................... 48
2.4.6 Xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới ............................................ 50
2.4.7 Vấn đề về môi trường ...................................................................................... 54
2.4.8 Các vấn đề về nhân khẩu học .......................................................................... 54
CHƯƠNG 3. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NỀN KINH
TẾ APEC ....................................................................................................................... 58
3.1 Giới thiệu tổng quan ................................................................................................. 58
3.1.1 Các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ........................... 58
x
3.1.2 Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và thị trường cổ phiếu nội địa tại
các nền kinh tế APEC ............................................................................................... 59
3.2 Mô tả dữ liệu ............................................................................................................ 62
3.2.1 Về không gian nghiên cứu ............................................................................... 62
3.2.2 Về thời gian nghiên cứu .................................................................................. 63
3.2.3 Các biến số được lựa chọn và nguồn dữ liệu ................................................... 65
3.3 Mô hình thực nghiệm ............................................................................................... 66
3.4 Ý nghĩa của các biến số trong mô hình .................................................................... 68
3.5 Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................................ 73
3.6 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm ....................................................................... 75
3.6.1 Thống kê mô tả ................................................................................................ 75
3.6.2 Kết quả hồi quy ................................................................................................ 77
3.6.3 Bài học kinh nghiệm ........................................................................................ 83
CHƯƠNG 4. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................................ 86
4.1 Tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam ................... 86
4.1.1 Quá trình hình thành và phát triển hệ thống hưu trí Việt Nam........................ 86
4.1.2 Vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam ................. 92
4.1.3 Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung trong hệ thống hưu trí
Việt Nam ................................................................................................................... 93
4.2 Tổng quan về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt
Nam ................................................................................................................................ 96
4.2.1 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt
Nam........................................................................................................................... 96
4.2.2 Thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam ......... 98
4.2.3 Hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam ................................ 101
4.3 Thực trạng các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng
khoán Việt Nam ........................................................................................................... 106
xi
4.3.1 Quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập ............................................... 106
4.3.2 Tình hình về tính ổn định của kinh tế vĩ mô .................................................. 107
4.3.3 Thực trạng các vấn đề xã hội học .................................................................. 108
4.3.4 Tình hình về mức độ phát triển của thị trường tài chính ............................... 111
4.3.5 Thực trạng về khung các quy định pháp lý ................................................... 113
4.3.6 Cải cách hệ thống hưu trí của Việt Nam so với thế giới ............................... 114
4.3.7 Tình hình về vấn đề môi trường .................................................................... 115
4.3.8 Vấn đề nhân khẩu học trong bối cảnh dân số già hoá ................................... 116
4.4 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam
nhìn từ sự lựa chọn của các cá nhân ............................................................................. 117
4.4.1 Mức độ tự đánh giá của cá nhân về các vấn đề liên quan đến tài chính........ 117
4.4.2 Thái độ của cá nhân về các vấn đề thu nhập hưu trí ...................................... 119
4.4.3 Tính ưu tiên của cá nhân về vấn đề liên quan đến danh mục đầu tư ............. 122
4.4.4 Đánh giá của cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán Việt Nam ........................................................................................... 124
CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN ..................................................... 127
5.1 Định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam
đến năm 2020 ............................................................................................................... 127
5.2 Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng
khoán Việt Nam ........................................................................................................... 128
5.2.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát ............................................. 128
5.2.2 Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam .............. 130
5.2.3 Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và phân bổ tài
sản ........................................................................................................................... 131
5.2.4 Tiếp tục cải cách hưu trí theo định hướng mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột
................................................................................................................................ 133
xii
5.2.5 Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cá nhân về quỹ hưu trí
tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt
Nam......................................................................................................................... 134
5.2.6 Đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức
lớn trên thị trường chứng khoán Việt Nam ............................................................ 135
5.2.7 Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn trong hoạt động của quỹ
hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam ...................................... 136
5.3 Kết luận chung ....................................................................................................... 136
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ........................ 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 141
PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT ................................................................. 158
PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN (bao gồm 7 câu hỏi) ............................................ 159
PHẦN 2: MỨC ĐỘ HIỂU BIỂT CHUYÊN MÔN VỀ TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ
RỦI RO (bao gồm 9 câu hỏi) ....................................................................................... 160
PHẦN 3: HÀNH VI VÀ SỰ ƯU TIÊN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP HƯU
TRÍ (bao gồm 8 câu hỏi) .............................................................................................. 162
PHẦN 4: THỰC TIỄN VIỆT NAM (bao gồm 8 câu hỏi) ........................................... 168
Link rút gọn ................................................................................................................ 170
Link tổng hợp thông tin trả lời khảo sát .................................................................. 170
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................. 171
Nghỉ hưu và Thu nhập hưu trí ................................................................................ 171
Chương trình hưu trí ............................................................................................... 172
Hệ thống hưu trí ...................................................................................................... 175
Vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột................................ 180
PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................. 183
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................. 189
PHỤ LỤC 5 ................................................................................................................. 194
PHỤ LỤC 6 ................................................................................................................. 198
xiii
PHỤ LỤC 7 ................................................................................................................. 204
Về cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 .................. 205
Về cơ sở các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 .................. 208
1
CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chương 1, luận án giới thiệu tóm tắt các nội dung bao gồm lý do lựa
chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu, khung quy trình nghiên cứu, đóng góp của luận án, bố cục
của luận án.
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong một thời gian dài, sự phát triển của các trung gian tài chính trên thị
trường chứng khoán (TTCK) đã là chủ đề quan tâm của nhiều nghiên cứu khoa học
từ lý thuyết đến thực tiễn. Một trong những trung gian tài chính điển hình là quỹ
hưu trí tự nguyện, đây là loại hình quỹ hưu trí được tài trợ, hình thành từ quá trình
cải cách hệ thống hưu trí công của quốc gia trong bối cảnh dân số già và dần dần trở
thành một nhà đầu tư tổ chức lớn quan trọng trên TTCK. Theo đó, trên thế giới, hệ
thống hưu trí truyền thống theo cơ chế thực thu thực chi PAYG (Pay as You Go -
PAYG) đang dần được chuyển sang hệ thống hưu trí được tài trợ (hoàn toàn/một
phần) từ sự đóng góp tự nguyện của các cá nhân tham gia vào các chương trình hưu
trí tư nhân. Sự ra đời của hệ thống hưu trí được tài trợ (funded pension system) này
đã cho phép các quỹ hưu trí tự nguyện tích lũy tài sản của quỹ để đầu tư trên thị
trường tài chính. Việc tích lũy này được kỳ vọng sẽ tăng cường chiều sâu và khả
năng thanh khoản của thị trường vốn. Đồng thời, với tài sản được tích lũy và nguồn
vốn mang tính chất dài hạn, các quỹ hưu trí tự nguyện có động lực đầu tư nhiều hơn
vào các tài sản dài hạn và thanh khoản kém nhằm đạt được lợi tức cao hơn, từ đó
cũng góp phần cung ứng nguồn tài trợ dài hạn đối với thị trường vốn nói chung,
TTCK nói riêng (Davis, 1998; Davis, 2000).
Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện đối với sự tăng trưởng của TTCK (Catalan, Impavido & Musalem, 2000;
Walker &Lefort, 2002; Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Davis & Hu, 2008;
Raddatz & Schmukler, 2008; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Meng & Pfau, 2010;
Liang & Bing, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012; Hu, 2012;
2
Zandberg & Spierdijk, 2013; Sun & Hu, 2014). Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm
này sử dụng các mô hình định lượng khác nhau nhằm tìm kiếm phương pháp ước
lượng đáng tin cậy và khoảng thời gian các bộ dữ liệu khác nhau, nhưng hầu hết các
kết luận đều cho thấy một sự đồng thuận về ý nghĩa và vai trò tích cực của quỹ hưu
trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường vốn. Qua đó, các nghiên cứu khẳng
định vai trò nhà đầu tư tổ chức của loại hình quỹ hưu trí tự nguyện và sự cần thiết
phát triển loại hình này trên TTCK. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm
này đều gặp phải sự hạn chế về số lượng các biến quan sát, cụ thể là khoảng thời
gian quan sát sẵn có chưa đủ lâu dài. Mặt khác, các nghiên cứu trên đều tập trung
vào các quốc gia phát triển thuộc khối OECD cũng như các thị trường mới nổi,
trong khi đó theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB)
thì các nghiên cứu về thị trường hưu trí thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
còn rất hiếm trong các tài liệu hiện có (Hu, 2012). Nhằm cung cấp bằng chứng thực
nghiệm mới cho mối quan hệ giữa phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện với sự tăng
trưởng của TTCK, theo nghiên cứu của tác giả thông qua phân tích định lượng cho
bộ dữ liệu bảng không cân bằng và sử dụng các yếu tố vĩ mô làm các biến kiểm
soát, tại các nền kinh tế thuộc khối Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (Asia Pacific Economic Cooperation - APEC), sự phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện có mối tương quan dương với sự phát triển của TTCK với hệ số hồi quy là
dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015. Các kết quả từ phân tích định lượng mô
hình hồi quy của nghiên cứu của tác giả cũng đã cho thấy sự nhất quán với cơ sở lý
thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trước về mối liên quan tích cực giữa sự tăng
trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện với sự phát triển của TTCK. Chính vì vậy tác giả
tin rằng luận án sẽ góp phần vào cuộc tranh luận về ảnh hưởng của việc phát triển
tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường vốn và thị trường tài chính Châu Á.
Có vị trí địa lý thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một trong các
nền kinh tế thành viên thuộc APEC, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có
thu nhập bình quân đầu người còn ở mức trung bình thấp so với các nền kinh tế
trong khu vực và trên thế giới mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP ổn định qua các năm
3
gần đây. Do đó, Việt Nam rất có thể đối mặt với hiện trạng “già trước khi kịp giàu”
trong bối cảnh dân số già ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc bảo đảm an sinh xã hội
trở thành vấn đề cấp thiết cần được giải quyết thấu đáo, bao gồm bảo đảm thu nhập
hưu trí khi về già. Trong khi đó, hệ thống hưu trí công của Việt Nam hoạt động theo
cơ chế PAYG với mức hưởng được xác định trước (Defined Benefit - DB) do phí
chi trả lương hưu cao, và dự kiến chi phí này sẽ còn gia tăng đáng kể trong những
thập kỷ tới nên tiềm ẩn sự bất ổn về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế
hệ (Giang Thanh Long, 2004). Hơn nữa, áp lực chi trả thu nhập hưu trí ngày càng
lớn đối với Ngân sách Nhà nước (NSNN) Việt Nam trong tương lai, từ đó góp phần
làm thâm hụt NSNN, dẫn tới tác động tiêu cực đến tổng thể tài chính công (MOF,
2015a; Lưu Hải Vân, 2014). Chính vì vậy, Việt Nam đã tiến hành thực hiện các cải
cách hệ thống hưu trí nhưng những cải cách này chủ yếu vẫn là những cải cách
tham số (Giang Thanh Long, 2004; Điều Bá Dược, 2013; MOLISA, 2015).
Năm 2013, sự kiện Bộ Tài chính công bố Thông tư số 115/2013/TT-BTC
hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam đã đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử đối với hệ thống hưu trí Việt Nam cũng như giới thiệu nhân tố
trung gian tài chính mới trong vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK Việt Nam.
Trong khi sự phát triển của TTCK Việt Nam vẫn còn được đánh giá, xếp hạng ở
mức thấp so với các TTCK khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên
thế giới (WEF, 2015) do số lượng, chất lượng hàng hóa giao dịch (VSD, 2015) cũng
như hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường vẫn còn rất hạn chế (SSC, 2012)
thì sự kiện này đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và các bên liên quan đến phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của xã
hội và thị trường, cũng như góp phần phát triển TTCK.
Mặc dù được quan tâm, nhưng tại Việt Nam vẫn còn thiếu vắng các nghiên
cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Hầu hết các nghiên cứu được
thực hiện kể từ sau năm 2013 và chỉ tập trung vào (i) hiện trạng và thách thức của
hệ thống hưu trí trong bối cảnh dân số già hóa và (ii) vai trò của quỹ hưu trí tự
nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột (Điều Bá Dược, 2013; Khuất Thị Kiều
Vân, 2013; TTBD, 2014; Chí Tín, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; Nguyễn Thị Lê Thu,
4
2014; Trần Phương Thảo & Nguyễn Anh Tuấn, 2014; Lương Xuân Trường, 2014;
Bùi Cẩm Hường, 2014; Thùy Dương, 2017).
Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận án về phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK, quỹ hưu trí tự nguyện được tập trung tìm hiểu và phân tích vì
những lý do chính yếu sau đây:
Thứ nhất, quỹ hưu trí tự nguyện là một nhà đầu tư tổ chức dài hạn trên
TTCK. Quỹ hưu trí tự nguyện đã góp phần cấu thành nên cơ sở nhà đầu tư tổ
chức (instistutional investor base) trong sự phát triển của TTCK khi (i) cung
cấp cho TTCK nguồn vốn quy mô lớn, mang tính chất ổn định, dài hạn; (ii)
nắm giữ phần lớn lượng tài sản tài chính và không ngừng phát triển với quy
mô tài sản ngày một tăng trên TTCK.
Thứ hai, quỹ hưu trí tự nguyện là một trụ cột trong hệ thống hưu trí của quốc
gia, góp phần cải thiện thu nhập hưu trí khi về già, góp phần bảo đảm an sinh
xã hội trong bối cảnh dân số đang già hóa theo thời gian và gánh nặng hệ
thống hưu trí công đang ngày càng lớn.
Từ những lý do trên, trong khuôn khổ luận án với đề tài “PHÁT TRIỂN
QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM”, nghiên cứu tập trung hệ thống hóa lý luận chung về quỹ hưu trí tự nguyện,
vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột, tiêu chí đánh giá
cũng như các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tư nhân trên TTCK từ lý
thuyết đến thực nghiệm nhằm bổ sung, đóng góp vào hệ thống kiến thức về phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và góp phần phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK Việt Nam. Trong đó, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ các
tổ chức quốc tế tin cậy để tiến hành xem xét tác động của phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện đến sự phát triển TTCK, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK tại một số nền kinh tế trên thế giới, cụ thể là các nền kinh tế thuộc APEC
nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; và dữ liệu sơ cấp từ quá trình
khảo sát trực tuyến đối với cá nhân là công dân Việt Nam để thu thập thông tin về
sự lựa chọn của họ đối với các nội dung liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện dựa
vào (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro và (ii) sở thích, hành vi cá
5
nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí. Nghiên cứu được tiến hành xử lý theo phương
pháp kết hợp cả định tính lẫn định lượng. Từ đó, luận án khẳng định sự cần thiết
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, tạo thêm nhà đầu tư tổ chức trên TTCK
Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu chung
Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án là xác định các điều kiện phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị
nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu chung, luận án tập trung vào giải quyết
các mục tiêu cụ thể như sau:
Phân tích, trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Việt Nam thông qua mô hình PESTLIED, qua đó xác định mức độ phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
Phân tích định lượng bằng mô hình hồi quy ảnh hưởng của phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện đến phát triển TTCK của các nền kinh tế trên thế giới, cụ
thể là các nền kinh tế thuộc APEC, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, vốn là một nền kinh tế
thành viên thuộc APEC.
Tìm hiểu, khảo sát, thống kê mô tả nhu cầu của các cá nhân là công dân Việt
Nam về những vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ
hưu trí trên TTCK Việt Nam.
Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam.
1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu cụ thể, luận án giải quyết các câu hỏi nghiên cứu
sau:
6
Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK thông qua mô hình
PESTLIED là gì? Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam đã
đạt được đến mức độ nào?
Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tác động đến sự phát triển của
TTCK tại các nền kinh tế trên thế giới, cụ thể là các nền kinh tế thuộc APEC
ra sao? Bài học kinh nghiệm nào từ nghiên cứu thực nghiệm về phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế APEC được rút ra cho
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?
Các cá nhân là công dân Việt Nam có hiểu biết như thế nào về những vấn đề
liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK và có nhu cầu ra sao về quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?
Từ kết quả nghiên cứu tác động của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự
tăng trưởng TTCK tại các nền kinh tế thuộc APEC và kết quả khảo sát nhu
cầu cá nhân là các công dân Việt Nam, các khuyến nghị nào có thể được đề
xuất đối với việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?
1.3 Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK.
1.3.2 Đối tượng khảo sát
Các quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế được lựa chọn, cụ
thể là các nền kinh tế thuộc APEC nhằm xem xét ảnh hưởng của phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC này.
Các cá nhân là công dân Việt Nam để khảo sát nhu cầu và sự lựa chọn của họ
đối với các vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
1.3.3 Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian
Đối với dữ liệu thứ cấp
7
Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp thu thập được từ các nghiên cứu thực
nghiệm, tài liệu, văn bản, báo cáo, các nguồn tài liệu tham khảo tin cậy của các tổ
chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB), Tổ chức Lao động Quốc
tế (International Labour Organiztaion - ILO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development - OECD) … được cập
nhật cho giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015 về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK, quá trình hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, quá trình cải
cách hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2015, cập nhật thông tin liên
quan năm 2016, 2017, 2018.
Đối với dữ liệu sơ cấp
Đối với nguồn dữ liệu sơ cấp, nghiên cứu tiến hành khảo sát trực tuyến đối
với cá nhân, nhà đầu tư là công dân Việt Nam về lĩnh vực tài chính - bảo hiểm để
thu thập thông tin về sự lựa chọn của họ đối với các nội dung liên quan đến quỹ hưu
trí tự nguyện dựa vào (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro; (ii) sở
thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí vào khoảng thời gian từ ngày
24/02/2018 đến 15/3/2018.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Về phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu tiếp thu và kế thừa tư tưởng của các lý thuyết sau: (i) lý thuyết
phát triển các trung gian tài chính trên TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003;
Andrieş, 2009; Enache, Miloş & Miloş, 2013); (ii) lý thuyết về các bên liên quan
đến hoạt động của tổ chức (Phillips & Reichart, 2000; Freeman, Wick & Parmar,
2004; Buchholz, 2004); (iii) lý thuyết về thực hiện quyết định tài chính (Franzen,
2010); (iv) lý thuyết về phân bổ tài sản dài hạn (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010;
Falkenheim, 2015). Các lý thuyết này cũng chính là nền tảng cho việc lựa chọn
hướng nghiên cứu về quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK của đề tài. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tham khảo nghiên cứu thực nghiệm về
mối quan hệ của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK
nhằm tham khảo và làm cơ sở so sánh, đối chiếu kết quả khảo sát, kết quả phân tích
định lượng.
8
1.4.2 Về phương pháp thu thập dữ liệu
Đối với dữ liệu thứ cấp
Nghiên cứu dựa trên việc thu thập các dữ liệu thứ cấp từ các nguồn tài liệu
tham khảo tin cậy của các tổ chức quốc tế như WB, ILO, OECD … và các công
trình nghiên cứu được công bố tại các tạp chí chuyên ngành liên quan đến kinh tế,
tài chính và bảo hiểm trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015. Các dữ liệu thứ
cấp được sử dụng nhằm củng cố cơ sở lý luận từ lúc khái niệm về quỹ hưu trí tự
nguyện được xây dựng và giới thiệu trong mô hình thu nhập hưu trí đa trụ cột trên
thế giới cũng như kiểm định sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng
trưởng TTCK, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trên thế
giới, cụ thể là tại các nền kinh tế thuộc APEC (Bảng 1.1).
Bảng 1.1 Nguồn dữ liệu của các biến số trong mẫu nghiên cứu thực nghiệm.
Biến số
Mã hóa
Đvt
Nguồn dữ liệu
Market
Vốn hóa thị trường của
capitalization of
các công ty nội địa
%GDP WB, World Development Indicators
listed domestic
niêm yết so với GDP
companies
Tỷ lệ lạm phát
Inflation rate
WB, World Development Indicators
%
Long term interest
European Central Bank, Eurostat,
%
Lãi suất dài hạn
Datastream, investing.com
rate
GDP bình quân đầu
Real GDP per capita
USD WB, World Development Indicators
người
Chỉ số tự do kinh tế
Economic freedom
points Heritage, Country Overall Score
Tỷ lệ người già trên
Old age dependency
100 người thuộc độ
%
Eurostat, databank.worldbank.org
ratio
tuổi lao động
Giá trị tài sản quỹ hưu
OECD, Instistutional Investors Statistic
Pension fund's
trí tự nguyện so với
%GDP
Yearbook and OECD Stat,
assets
GDP
data.worldbank.org
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
Đối với dữ liệu sơ cấp
Bên cạnh đó, số liệu sơ cấp cũng được thu thập thông qua khảo sát trên mạng
internet (link truy cập goo.gl/PsEzXV), nghiên cứu nhận được số phiếu hợp lệ là
215 phiếu trong tổng số 223 phiếu khảo sát phản hồi (chiếm tỷ lệ 96,41%) với
9
10.240 lượt truy cập vào khoảng thời gian từ ngày 24/02/2018 đến 15/3/2018. Các
câu hỏi được trả lời thông qua các thiết bị điện tử cá nhân có kết nối mạng internet
của người tham gia khảo sát, do đó người trả lời (i) không bị ảnh hưởng bởi quan
điểm người khảo sát; (ii) không có cảm giác vội vã hay bị thúc giục để trả lời và
(iii) hoàn toàn ẩn danh khi trả lời. Các câu hỏi được thiết kế theo hình thức bắt buộc
hoàn thành mới có thể chuyển sang câu hỏi kế tiếp nhằm giúp người tham gia thực
hiện khảo sát không bỏ sót bất cứ câu hỏi nào. Người tham gia không được trả phí
cho việc trả lời khảo sát này. Nội dung khảo sát bao gồm 32 câu hỏi chia làm 4
phần: (i) thông tin cá nhân bao gồm 7 câu hỏi; (ii) tự đánh giá về sự am hiểu tài
chính và mức độ chấp nhận rủi ro khi ra quyết định tài chính trên nhiều phương
diện bao gồm 9 câu hỏi; (iii) hành vi, sự ưu tiên và mức độ đầu tư của cá nhân đối
với thu nhập hưu trí nếu có chương trình hưu trí có mức đóng góp xác định trước
(Defined Contribution - DC) bao gồm 8 câu hỏi; (iv) thực tiễn Việt Nam bao gồm 8
câu hỏi (PHỤ LỤC 1).
Đối tượng khảo sát của nghiên cứu là những cá nhân đang hoặc sẽ sớm trở
thành người tham gia vào chương trình hưu trí tư nhân được tài trợ (private funded
pension schemes), bao gồm chương trình hưu trí nghề nghiệp (private
occupational/employee funded pension schemes) và kế hoạch hưu trí cá nhân
(private individual/personal funded pension schemes) bên cạnh hệ thống hưu trí
công (public unfunded pension system - Pay as You Go defined benefit system) tại
Việt Nam. Do đó, các cá nhân được lựa chọn khảo sát là công dân Việt Nam từ 18
tuổi trở lên đã có công việc được trả lương, đang tìm kiếm việc làm hoặc đã liệt kê
công việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo đúng chuyên ngành học tập của mình.
Bảng 1.2 Tổng hợp mô tả thông tin cá nhân trong mẫu.
STT Hạng mục
Mô tả (Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu
).
1
Độ tuổi
Độ tuổi trung bình của 215 người tham gia trả lời trong mẫu khảo sát là 26,68 tuổi, trẻ
nhất là 18 tuổi và lớn tuổi nhất là 63 tuổi.
Học vấn
Có 179 người có trình độ từ đại học trở lên (83,26% mẫu).
2
Giới tính
Có 115 nữ (53,49% mẫu) và 100 nam (46,51% mẫu).
3
Tình trạng
Có 54 người có bạn đời (25,12% mẫu) và 161 người chưa có bạn đời (74,88% mẫu)
4
hôn nhân
10
5
Công việc Có 125 người có việc làm được trả lương (58,14% mẫu) và 90 người đang tìm kiếm
việc làm hoặc dự kiến việc làm đầu tiên sẽ theo đúng chuyên ngành học tập (41,86%
mẫu)
6
Thu nhập
Có 96 người (44,65% mẫu) có thu nhập nhỏ hơn hoặc bằng 5 triệu đồng/tháng, 34
người (15,81% mẫu) có thu nhập trên 5 - 10 triệu đồng/tháng, 56 người (26,05% mẫu)
có thu nhập trên 10 - 18 triệu đồng/tháng, 29 người (13,49% mẫu) có thu nhập trên 18
triệu đồng/tháng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
1.4.3 Về phương pháp xử lý dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định tính các các điều kiện phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK theo mô hình PESTLIED (Political,
Economic, Sociological, Technological, Legal, International, Environmental,
Demographic factors). Mô hình PESTLIED này là một dạng mở rộng từ mô hình
PESTLE (Political, Economic, Sociological, Technological, Legal, Environmental
factors), một kỹ thuật quản trị chiến lược được sử dụng hiệu quả trong quy trình xác
định các yếu tố tác động đến từ bên ngoài của kế hoạch quản lý rủi ro (Rastog &
Trivedi, 2016). Nếu như các yếu tố tác động đến từ bên trong nội bộ tổ chức có thể
dễ dàng xác định hơn vì có nhiều dữ liệu lịch sử đối với các dạng tổ chức tương tự
(các yếu tố phi hệ thống) thì các yếu tố tác động đến từ bên ngoài lại vượt tầm kiểm
soát của tổ chức và có ít dữ liệu có sẵn hơn (các yếu tố hệ thống) nên có thể khiến
các tổ chức dễ bị tổn thương và tổn thất nặng nề về tài chính trong khi các bên liên
quan đến hoạt động của tổ chức đều mong đợi một tỷ suất sinh lời cao. Do vậy, bên
cạnh việc xác định các yếu tố tác động từ bên trong tổ chức, thì việc xác định các
yếu tố tác động liên quan đến từ bên ngoài là điều cần thiết cũng như thực hiện các
giải pháp thích hợp để đối mặt với những thách thức hoặc tận dụng các cơ hội từ
chúng. Từ đó, hoạt động của tổ chức có thể đáp ứng mục tiêu phát triển và mang lại
lợi ích tốt hơn cho các bên liên quan. Đồng thời, nghiên cứu cũng kết hợp sử dụng
phương pháp phân tích định lượng cho dữ liệu bảng không cân bằng đối với các nền
kinh tế thuộc APEC trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2015 để xem xét
mối quan hệ giữa phát triển quỹ hưu trí tự nguyện với sự tăng trưởng của TTCK tại
các nền kinh tế thuộc APEC và phương pháp thống kê mô tả kết quả khảo sát trực
tuyến về sự lựa chọn của các cá nhân.
11
Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
1.5 Khung quy trình nghiên cứu của luận án
Vấn đề nghiên cứu
Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
- Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận: Lý thuyết về phát triển trung gian tài chính trên TTCK, lý thuyết về các bên
liên quan, lý thuyết tài chính hành vi, lý thuyết phân bổ tài sản dài hạn và các nghiên cứu thực nghiệm
về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trong nước và nước ngoài.
- Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu thứ cấp từ các tổ chức quốc tế WB, ILO, OECD …, dữ liệu sơ
cấp từ khảo sát trực tuyến các cá nhân là công dân Việt Nam.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Kết hợp phân tích định tính (mô hình PESTLIED, thống kê mô tả) và
phân tích định lượng (ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FE, FE - cluster,
RE).
Nội dung nghiên cứu
- Trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam theo mô hình
PESTLIED.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự tăng trưởng TTCK của các
nền kinh tế thuộc khối APEC bằng ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FE,
FE - cluster, RE.
- Thống kê mô tả sự hiểu biết và nhu cầu của cá nhân là công dân Việt Nam đối với các vấn đề liên
quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
Đề xuất một số khuyến nghị về điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam nhằm
góp phần phát triển TTCK Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Hình 1.1 Khung quy trình nghiên cứu của luận án.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
12
1.6 Đóng góp của luận án
Luận án trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Việt Nam theo mô hình PESTLIED, trong đó tổng hợp xu hướng cải cách hệ
thống hưu trí tại Việt Nam, phân tích thực trạng về phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK Việt Nam.
Luận án đánh giá mức độ ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến
phát triển TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, kết quả nghiên cứu thực
nghiệm khẳng định ảnh hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện đến phát triển
TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC.
Luận án thực hiện khảo sát các cá nhân là công dân Việt Nam để phân tích
thái độ của cá nhân về chấp nhận rủi ro, mức độ am hiểu về quỹ hưu trí tự
nguyện, điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
Luận án phân tích triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị về điều kiện phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
1.7 Bố cục của luận án
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án được trình bày theo kết cấu 5
chương cùng với danh mục tài liệu tham khảo và 7 phụ lục được sử dụng
nhằm làm minh chứng củng cố thêm nội dung trình bày và phân tích của luận
án.
Chương 1. Phần mở đầu
Chương 2. Cơ sở lý luận về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Chương 3. Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK: Bài học kinh
nghiệm từ các nền kinh tế APEC
Chương 4. Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
Chương 5. Khuyến nghị và kết luận
13
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU
TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Trong chương 2, luận án trình bày cơ sở lý luận và các nghiên cứu thực
nghiệm trong thời gian từ năm 2000 và được cập nhật đến năm 2015, bao gồm khái
niệm, vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột, tiêu chí được
sử dụng để đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trong các
nghiên cứu thực nghiệm, sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.
Luận án cũng tiến hành phân tích các điều kiện phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK theo mô hình PESTLIED, cụ thể về: (i) chính sách thuế thu nhập (yếu tố
chính trị - Political); (ii) tính ổn định của kinh tế vĩ mô (yếu tố kinh tế - Economic);
(iii) vấn đề thuộc xã hội học (yếu tố xã hội - Sociological); (iv) cơ sở hạ tầng của thị
trường tài chính (yếu tố trình độ công nghệ - Technological); (v) các quy định pháp
lý liên quan đến hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện (yếu tố pháp lý - Legal); (vi)
xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới (yếu tố quốc tế - International);
(vii) vấn đề về môi trường (yếu tố môi trường - Environmental); (viii) vấn đề về
nhân khẩu học (yếu tố nhân khẩu học - Demographic).
2.1 Quỹ hưu trí tự nguyện
2.1.1 Khái quát về quỹ hưu trí
Dựa trên việc định nghĩa các chương trình hưu trí như là một thỏa thuận
mang tính pháp lý về thu nhập hưu trí liên quan đến các quyền xác định theo hợp
đồng của các bên thì có thể hiểu quỹ hưu trí chính là tập hợp tài sản đóng góp vào
quỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm theo hợp đồng trong các chương trình
hưu trí nhằm mục đích tài trợ hay cung cấp sự bảo đảm cho những lợi ích được hứa
hẹn về thu nhập hưu trí của người hưởng lợi (PHỤ LỤC 2).
Quỹ hưu trí có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Các thành viên của quỹ có quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản của quỹ.
Các quỹ hưu trí có thể được tổ chức dưới dạng một quỹ tín thác (một quỹ
độc lập có tư cách pháp nhân) hoặc một quỹ không có tư cách pháp nhân do
14
một công ty quản lý quỹ hoặc một tổ chức tài chính thay mặt cho các thành
viên của quỹ quản lý.
Các quỹ hưu trí thường được đóng góp bởi người sử dụng lao động (các công
ty, tập đoàn, hoặc công đoàn) và người lao động.
Tài sản của quỹ hưu trí có thể được quản lý nội bộ hoặc được thuê quản lý.
Các khoản chi trả cho thành viên phụ thuộc vào tình hình thị trường tài chính
hoặc tỷ lệ sinh lời tùy thuộc vào mô hình tài chính của quỹ là các chương
trình hưu trí có mức đóng góp được xác định trước (Defined Contribution -
DC) hay có mức hưởng được xác định trước (Defined Benefit - DB) (OECD,
2008).
Căn cứ trên cách phân loại các chương trình hưu trí, các loại hình quỹ hưu trí
có thể được phân loại như sau:
(i) Quỹ hưu trí được điều hành bởi Chính phủ bao gồm quỹ trợ cấp thu nhập
hưu trí của Chính phủ và quỹ hưu trí bắt buộc vận hành theo cơ chế PAYG với mô
hình kế hoạch hưu trí có mức hưởng xác định trước (DB) và không được tài trợ
(mandatory publicly managed pension). Tuy nhiên, trong thực tế, tại một số quốc
gia như Singapore (WEF, 2017), Malaysia (Howell, Wang & Shand, 2014), Mexico
(OECD, 2007) … vẫn tồn tại chương trình hưu trí bắt buộc và được quản lý bởi
Chính phủ nhưng được tài trợ hoàn toàn từ đóng góp của người tham gia và là kế
hoạch có mức đóng góp xác định trước (DC), còn được biết đến như là các quỹ tiết
kiệm dự phòng (mandatory provident funds) (Blommestein, 1997).
(ii) Quỹ hưu trí nghề nghiệp (hay còn gọi là quỹ hưu trí bổ sung - private
employee/occupational funded pension funds) được dựa trên các kế hoạch hưu trí
nghề nghiệp do khu vực tư nhân quản lý điều hành và bảo đảm thanh toán quyền lợi
thu nhập hưu trí cho các thành viên/đối tượng tham gia và quỹ hoạt động với vai trò
là pháp nhân độc lập đối với với nhà tài trợ là người sử dụng lao động. Quỹ hưu trí
nghề nghiệp là quỹ được tài trợ và có thể theo mô hình DB hoặc mô hình DC. Các
quỹ hưu trí nghề nghiệp bao gồm:
Quỹ hưu trí nghề nghiệp bắt buộc (hay quỹ hưu trí bổ sung bắt buộc - private
employee/occupational compulsory funded pension funds).
15
Quỹ hưu trí nghề nghiệp tự nguyện (hay quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện -
private employee/occupational voluntary funded pension funds).
(iii) Các quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện dựa trên các kế hoạch hưu trí cá nhân
tự nguyện (private personal/individual voluntary funded pension funds) do khu vực
tư nhân quản lý điều hành theo mô hình DC và được tài trợ.
Với cách gọi tên như trên cũng sẽ giúp dễ phân loại các quỹ hưu trí trong
việc phân tích các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội cũng như tái phân phối thu
nhập. Trong thực tế, cách phân loại của các loại hình quỹ hưu trí này cũng được sử
dụng trong các nghiên cứu về thu nhập hưu trí, đặc biệt đối với các thị trường mới
nổi, được phát triển đầu tiên bởi WB (1994) và WB (2008) căn cứ vào mô hình tài
chính và tính chất của quỹ hưu trí.
Ví dụ như tại Indonesia, theo nghiên cứu của Muliati (2013), bên cạnh quỹ
hưu trí công và mang tính chất bắt buộc, quỹ hưu trí tự nguyện là thuộc về khu vực
tư nhân quản lý và bao gồm hai loại, cụ thể là các quỹ hưu trí nghề nghiệp của
người sử dụng lao động và quỹ hưu trí cá nhân của tổ chức tài chính. Trong đó:
Quỹ hưu trí nghề nghiệp của người sử dụng lao động được thành lập bởi một
cá nhân hay một thực thể pháp lý cho người lao động của mình và những
người lao động của người sử dụng lao động khác, khi đó những người sử
dụng lao động khác sẽ đóng vai trò là nhà đồng sáng lập của quỹ hưu trí. Một
quỹ hưu trí nghề nghiệp của người sử dụng lao động có thể theo mô hình DB
hay DC.
Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện của tổ chức tài chính được thành lập bởi một
ngân hàng hay một công ty bảo hiểm nhân thọ dành cho những người muốn
tiết kiệm cho tuổi già của họ, cho dù họ là người lao động làm việc theo thời
hạn hợp đồng hay tự làm chủ. Một quỹ hưu trí cá nhân của tổ chức tài chính
chỉ có thể thực hiện theo mô hình DC.
2.1.2 Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện
Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện mang hàm ý về loại hình quỹ hưu trí được
tài trợ hoàn toàn dựa vào các khoản đóng góp tự nguyện của người tham gia vào các
chương trình hưu trí tư nhân trong mối tương quan với quỹ hưu trí bắt buộc (không
16
có tài trợ và được điều hành bởi khu vực công theo cơ chế thực thu thực chi PAYG)
(Blommestein, 1997; OECD, 2004).
Quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III1 trong hệ thống hưu trí đa trụ cột
được WB giới thiệu vào năm 1994, bao gồm:
(i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private
employee/occupational voluntary funded pension funds) có thể theo mô hình
tài chính có mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hoặc theo mô
hình có mức đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC): Quỹ hưu
trí nghề nghiệp tự nguyện có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao
động và là dạng quỹ hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý
quỹ với người sử dụng lao động đứng ra đại diện cho những người lao động
tham gia hợp đồng, nhưng người lao động có quyền không tham gia và
không có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia dạng hợp đồng này (GoC, 1999;
OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).
(ii) Quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private
personal/individual voluntary funded pension funds) theo mô hình có mức
đóng góp xác định trước (DC): Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện được thành
lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo hiểm
nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ
thống quy định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư
trên thị trường và được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế của Nhà
nước (WB, 1994; WB, 2008).
Quỹ hưu trí tự nguyện là loại hình quỹ hưu trí được tài trợ, quỹ thu thập các
khoản đóng góp và chi trả quyền lợi về thu nhập hưu trí. Mục đích của quỹ hưu trí
tự nguyện là để cung cấp cho nhân viên và người lao động tự do, hoặc bên thụ
hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện các lợi ích về thu nhập hưu trí bổ sung thêm vào
an sinh xã hội bắt buộc. Qua đó, quỹ hưu trí tự nguyện được xem như là một
hưu trí của quốc gia mình theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản, bao gồm quỹ hưu trí bắt buộc (trụ
cột I), quỹ hưu trí bổ sung (trụ cột II) và quỹ hưu trí tự nguyện (trụ cột III).
1 WB đã và đang nỗ lực quảng bá, hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội, cải cách hệ thống
17
phương tiện đầu tư mang tính tập hợp được thành lập để thu thập và đầu tư các
khoản đóng góp cho thu nhập hưu trí vào các loại tài sản nhằm tạo ra lợi nhuận và
giảm thiểu rủi ro đầu tư, từ đó làm gia tăng giá trị tài sản của quỹ để bảo đảm trách
nhiệm chi trả cho các thành viên của quỹ. Quỹ hưu trí tự nguyện chủ yếu do khu
vực tư nhân quản lý, là các quỹ được tài trợ do có sự tham gia đóng góp tự nguyện
của người tham gia theo các thỏa thuận quy định trong hợp đồng của các chương
trình hưu trí theo mô hình DB hay DC. Sự phát triển của các quỹ hưu trí tự nguyện
đi cùng với xu hướng chuyển dần từ mô hình DB sang mô hình DC (WB, 1994;
Blommestein, 1997; OECD, 2004; WB, 2008; Hinz, Rudolph, Antolín & Yermo,
2010; OECD, 2011; Holzmann, 2012).
So với các ngân hàng, các quỹ hưu trí tự nguyện là các nhà đầu tư tổ chức
thực hiện việc quản lý quỹ thay mặt cho các thành viên và chi trả các khoản lợi tức
và vốn gốc cho họ sau khi nghỉ hưu. Lợi thế của các quỹ hưu trí tự nguyện so với
các ngân hàng trong vai trò nhà đầu tư tổ chức bắt nguồn từ thực tế là các khoản nợ
của quỹ mang tính chất dài hạn. Mặc dù các ngân hàng có dự trữ và có hệ thống bảo
hiểm tiền gửi, nhưng khả năng đầu tư quy mô vốn lớn trong dài hạn bị hạn chế do
đặc thù hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, các quỹ hưu trí tự nguyện thường có
xu hướng đầu tư vào tài sản dài hạn hơn để phù hợp với thời gian đáo hạn của tài
sản và nợ phải trả.
So với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm nhân thọ, mặc
dù quỹ hưu trí tự nguyện và các công ty bảo hiểm nhân thọ đều là các nhà đầu tư tổ
chức dài hạn nhưng do đặc điểm của các nghĩa vụ nợ là không giống nhau cũng làm
cho hành vi đầu tư của chúng cũng có sự khác biệt. Các quỹ hưu trí tự nguyện với
các nghĩa vụ nợ liên quan đến thu nhập kiếm được nên ưa thích việc đầu tư vào cổ
phiếu hơn, trong khi các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm nhân
thọ có nghĩa vụ nợ được tính theo giá trị danh nghĩa thì chuộng đầu tư vào trái
phiếu hơn.
So với quỹ tương hỗ, các quỹ hưu trí tự nguyện cũng có sự khác biệt do các
nghĩa vụ nợ của quỹ hưu trí tự nguyện thì kém thanh khoản (illiquid) trong khi các
nghĩa vụ nợ của các quỹ tương hỗ hầu hết đều có tính thanh khoản (liquid). Do đó
18
khoảng thời gian đầu tư của các quỹ hưu trí tự nguyện thường dài hơn quỹ tương
hỗ. Tuy nhiên, các quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC có thể có đặc điểm hành
vi tương tự như các quỹ tương hỗ vì các nhà quản lý quỹ được khen thưởng dựa trên
các kết quả ngắn hạn (Miles, 1993; Kim, 2010).
So với các quỹ hưu trí công được quản lý bởi Nhà nước, các quỹ hưu trí tự
nguyện được điều hành bởi khu vực tư nhân hoạt động tích cực hơn trong chiến
lược danh mục đầu tư. Nguyên nhân là do (i) các quỹ hưu trí tự nguyện ít bị ràng
buộc trong đầu tư bởi các mục tiêu xã hội và (ii) các quỹ hưu trí tự nguyện, đặc biệt
là các quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình tài chính DC, phải cạnh tranh với nhau để
có mức tỷ suất sinh lời được điều chỉnh theo rủi ro cao hơn.
Quỹ hưu trí tự nguyện ngày càng được mở rộng và sẽ tiếp tục như là một xu
hướng tài chính trong những thập kỷ tới khi mà tình hình già hóa dân số tiếp diễn
nhanh chóng và sự chuyển đổi từ hệ thống hưu trí không được tài trợ sang hệ thống
hưu trí được tài trợ hoàn toàn bằng sự đóng góp của người tham gia quỹ hưu trí tự
nguyện (Davis & Hu, 2005). Theo đó, mặc dù mô hình DB vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn trong các chương trình hưu trí nhưng quy mô tài sản của các quỹ hưu trí được
tập hợp từ các hợp đồng tiết kiệm của các chương trình hưu trí theo mô hình DC đã
có sự gia tăng đáng kể trên các thị trường thu nhập hưu trí theo thời gian
(Towerswatson, 2015) (Bảng 2.4).
Bảng 2.4 Tỷ trọng các quỹ hưu trí theo mô hình DC và DB tại một số thị
trường thu nhập hưu trí vào năm 2014 và năm 2015.
(Đvt: %).
Quỹ hưu trí theo mô hình DC
Quỹ hưu trí theo mô hình DB
Quốc gia
2014
2015
2014
2015
Australia
85%
87%
15%
13%
US
58%
60%
42%
40%
UK
29%
32%
71%
68%
Netherlands
5%
5%
95%
95%
Canada
4%
5%
96%
95%
Japan
3%
4%
97%
96%
Nguồn: Towerswatson (2015), Towerswatson (2016).
19
Nội dung phân tích sau đây tập trung vào xác định vị trí quỹ hưu trí tự
nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột và vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện dưới
góc độ là nhà đầu tư tổ chức lớn với những đóng góp quan trọng đến sự phát triển
của thị trường vốn mà quỹ hưu trí công theo cơ chế PAYG (không được tài trợ và
dựa trên mô hình DB mang tính chất bắt buộc) khó có thể thực hiện được.
2.2 Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán
2.2.1 Khái niệm về phát triển và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
thị trường chứng khoán
Theo nghiên cứu của Liên hiệp quốc (United Nations - UN) (Bellù, 2011),
“phát triển” (development) có nghĩa là “sự kiện tạo thành một giai đoạn mới trong
một tình huống thay đổi” (event constituting a new stage in a changing situation)
hoặc quá trình thay đổi (the process of change). Nếu không đủ điều kiện, “phát
triển” được dự định ngầm là một điều tích cực hoặc mong muốn. Khi đề cập đến
một xã hội hoặc một hệ thống kinh tế xã hội, "phát triển" thường có nghĩa là cải tiến
cả trong tình hình chung của hệ thống và trong một số yếu tố cấu thành của nó. Việc
phát triển có thể xảy ra do một số hành động có chủ ý được thực hiện bởi các đại
diện đơn lẻ hoặc bởi một số cơ quan có chủ quyền để đạt được sự cải thiện, ví dụ
như chính sách phát triển và đầu tư tư nhân. Với định nghĩa mở rộng này, "phát
triển" là khái niệm đa chiều trong tự nhiên, bởi vì bất kỳ sự cải tiến nào của hệ
thống phức hợp cũng đều có thể xảy ra ở các phần khác nhau, ở các tốc độ khác
nhau và được điều khiển bởi các lực khác nhau. Ngoài ra, sự phát triển của một bộ
phận nào đó của hệ thống cũng có thể gây bất lợi cho sự phát triển của các bộ phận
khác, dẫn đến mâu thuẫn và xung đột giữa các mục tiêu. Do đó, việc đo lường sự
phát triển, nghĩa là xác định xem hệ thống có đang phát triển hay không là một vấn
đề cần được xem xét đa chiều trên nhiều khía cạnh liên quan.
“Phát triển" (development) còn được hiểu là là đủ điều kiện (qualified) và
xác định rõ (specified) theo những cách khác nhau, ví dụ như “phát triển kinh tế”
nghĩa là cải thiện cách thức tài trợ và hàng hóa và dịch vụ được sử dụng trong (hoặc
bằng) hệ thống để tạo ra hàng hóa và dịch vụ mới nhằm cung cấp khả năng tiêu thụ
và / hoặc đầu tư bổ sung cho các thành viên của hệ thống; “phát triển con người” là
20
phát triển con người làm trung tâm, nơi tập trung vào việc cải thiện các khía cạnh
khác nhau ảnh hưởng đến hạnh phúc của cá nhân và mối quan hệ của họ với xã hội
(y tế, giáo dục, quyền lợi, khả năng, trao quyền …); “phát triển bền vững” là phát
triển xem xét triển vọng dài hạn của hệ thống kinh tế - xã hội, để đảm bảo rằng
những cải thiện xảy ra trong ngắn hạn sẽ không gây bất lợi cho tình trạng tương lai
hoặc tiềm năng phát triển của hệ thống, tức là phát triển bền vững môi trường, xã
hội, tài chính và các căn cứ khác; “phát triển lãnh thổ” là phát triển một khu vực cụ
thể (không gian) có thể đạt được bởi khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội, môi
trường và thể chế cụ thể của khu vực và mối quan hệ của nó với các đối tượng bên
ngoài… (Bellù, 2011).
DESA (2013) và OECD (2018) cho rằng ba mặt của sự phát triển bao gồm:
(i) phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế); (ii) phát triển xã hội (thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm…); (iii) bảo vệ môi
trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;
phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên…). Việc phát triển cần phải hướng tới phát triển bền vững bằng
cách kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa ba mặt của sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai (UN, 2010; IISD, 2013; EU, 2013). Mohieldin (2017) đề cập đến các giải
pháp để phát triển bền vững là (i) tránh những ý tưởng tồi tệ (ví dụ như cắt giảm
thâm hụt ngân sách bằng cách hy sinh đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, ngăn cấm xuất
khẩu …); (ii) đầu tư vào con người và tạo sự tăng trưởng toàn diện; (iii) gia tăng tiết
kiệm nội địa; (iv) thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững một cách nghiêm túc;
(v) áp dụng cách tiếp cận đa bên (muli-stakeholder approach). Theo đó, việc khuyến
khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào phát triển bền vững (DANIDA, 2016)
được thực hiện bằng cách (i) giảm thiểu rủi ro và những cản trở đầu tư bằng cách
tạo ra một môi trường hoạt động thuận lợi hơn, bao gồm cả khuôn khổ pháp lý; (ii)
chia sẻ rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư nhân bằng cách xúc tiến và thúc đẩy
đầu tư tư nhân thông qua các mô hình tài chính mới; (iii) hỗ trợ các ưu đãi dành cho
khu vực tư nhân phù hợp với các mục tiêu công; và (iv) cân bằng các quy định và
21
chính sách nhằm bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính, với sự tiếp cận các
dịch vụ tín dụng và tài chính (UN, 2013).
Xét trong bối cảnh dân số già hóa theo thời gian và gánh nặng hệ thống hưu
trí công do áp lực chi NSNN ngày càng lớn, trong xu hướng cải cách hệ thống hưu
trí liên quan đến việc tạo lập các kế hoạch hưu trí được tài trợ (WB, 1994; WB,
2008;), việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện được hiểu là việc hình thành một trụ
cột trong hệ thống hưu trí của quốc gia nhằm bổ sung hoàn thiện hệ thống hưu trí
bên cạnh hệ thống hưu trí công PAYG, góp phần cải thiện thu nhập hưu trí khi về
già, góp phần bảo đảm an sinh xã hội (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011;
OECD, 2011).
Xét về phát triển các trung gian tài chính trên TTCK (David, 2000; Claus &
Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache, Miloş & Miloş, 2013), việc phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK được hiểu là việc hình thành một nhà đầu tư tổ chức
quan trọng trên TTCK nhằm đóng góp vào sự phát triển của thị trường tài chính với
vai trò là trung gian tài chính khi (i) cung cấp cho TTCK nguồn vốn quy mô lớn,
mang tính chất ổn định, dài hạn và (ii) đồng thời nắm giữ phần lớn lượng tài sản tài
chính cũng như không ngừng phát triển với quy mô tài sản ngày một tăng trên
TTCK (Blommestein, 1997; Davis, 1998; Davis 2000; Vittas, 2000; Davis & Hu,
2005; Davis, 2005; Mishkin, 2012).
Việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK có vai trò quan trọng đối
với người lao động, đối với xã hội và nền kinh tế. Bản chất hoạt động của quỹ hưu
trí tự nguyện là người lao động và/hoặc doanh nghiệp sử dụng lao động đóng góp
vào các tài khoản hưu trí cá nhân tại quỹ hưu trí tự nguyện để quỹ thực hiện đầu tư
trên TTCK, trên cơ sở kết quả đầu tư quỹ hưu trí chi trả cho người lao động theo số
tiền đóng góp và lợi nhuận do hoạt động đầu tư trên TTCK mang lại. Theo đó, quỹ
hưu trí tự nguyện là một loại sản phẩm thương mại, một sản phẩm tài chính mà
người tham gia đóng góp tiền vào quỹ sẽ được nhận chi trả từ quỹ khi đến tuổi nghỉ
hưu. Số tiền hưu trí mà mỗi cá nhân được hưởng phụ thuộc vào tổng số tiền đóng
góp của chính mình và hiệu quả đầu tư của quỹ trên TTCK.
22
2.2.2 Tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị
trường chứng khoán
Trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm, quy mô tài sản của quỹ hưu trí
tự nguyện là biến số được lựa chọn và sử dụng phổ biến nhất để đánh giá sự phát
triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Còn mức độ phát triển của TTCK
thường được thể hiện thông qua hai chỉ tiêu đo lường là (i) độ sâu của TTCK được
đại diện bởi quy mô vốn hóa của TTCK so với GDP; và (ii) tính thanh khoản của
TTCK được đại diện bởi giá trị giao dịch của TTCK so với GDP (Catalan,
Impavido & Musalem, 2000; Walker & Lefort, 2002; Impavido, Musalem &
Tresselt, 2003; Davis & Hu, 2008; Raddatz & Schmukler, 2008; Hryckiewicz,
2009; Kim, 2010; Meng & Pfau, 2010; Liang & Bing, 2010; Rocholl & Niggemann,
2010; Raisa, 2012; Hu, 2012; Zandberg & Spierdijk, 2013; Sun & Hu, 2014).
Điều này có thể giải thích bởi nguyên nhân đến từ đặc điểm của quỹ hưu trí
là tập hợp tài sản được tạo ra từ các khoản đóng góp theo hợp đồng tiết kiệm của
các chương trình hưu trí. Do đó, khi quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện càng
lớn, quỹ càng có nguồn tài sản dồi dào để đầu tư tổ chức, cung ứng nguồn vốn lớn
trên TTCK. Đồng thời, các khoản đóng góp vào quỹ hưu trí thường không được
phép rút ra sớm, quỹ hưu trí luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các
tài sản tài chính, kể cả những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Ngoài
ra, mặc dù phụ thuộc lớn vào (i) các khoản đóng góp được tập hợp (Davis & Hu,
2008) nhưng quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện còn có khả năng gia tăng do chịu
ảnh hưởng bởi hai yếu tố quan trọng khác là (ii) tỷ suất sinh lời từ việc đầu tư trên
TTCK của quỹ hưu trí tự nguyện và (iii) sự thay đổi về nhân khẩu học (Zandberg &
Spierdijk, 2013).
Bên cạnh đó, tài sản quỹ hưu trí tự nguyện cũng là biến đại diện quan trong
đối với việc đánh giá hiệu quả đầu tư của các quỹ hưu trí tự nguyện, đặc biệt là sau
những tác động to lớn từ khủng hoảng tài chính thế giới gần đây. Heinz và Hinz
(2010) cũng đã cho rằng cần thiết kế một danh mục tiêu chuẩn đối sánh, trong đó
thành phần của các tiêu chuẩn này sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố như (i) các nguồn
thu nhập hưu trí khác; (ii) tuổi của cá nhân người đóng góp; (iii) tỷ lệ đóng góp; (iv)
23
tỷ lệ thay thế mục tiêu; (v) mật độ đóng góp dự kiến; (vi) loại thu nhập hưu trí trong
giai đoạn thanh toán; (vii) và sự e ngại rủi ro của các nhà hoạch định chính sách và
cá nhân người đóng góp.
Các quỹ hưu trí tự nguyện đã phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần
đây ở các nước kinh tế phát triển cũng như các nền kinh tế mới nổi (EMEs), cả về
quy mô so với GDP và so với hệ thống ngân hàng, kiểm soát số lượng tương đối lớn
về vốn và đại diện các nhà đầu tư tổ chức lớn nhất tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo đó, tổng tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện trong năm 2014 đã đạt tới 84%
so với GDP toàn cầu so với 54% so với GDP vào năm 2008 (Towerswatson, 2015).
Thông thường, tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện được dùng để đầu tư
vào cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ, bất động sản, tài sản nước ngoài, các công cụ
trên thị trường tiền tệ và các khoản tiền gửi. Sự phân bổ tài sản của quỹ hưu trí tự
nguyện là khác nhau ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tại 7 thị trường thu nhập hưu trí lớn
trên thế giới, các quỹ hưu trí tự nguyện có xu hướng đầu tư vào cổ phiếu và trái
phiếu với tỷ trọng tương đối lớn (Bảng 2.5).
Bảng 2.5 Sự phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện tại 7 thị trường thu
nhập hưu trí lớn nhất tính đến năm 2015.
Phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện năm 2015 (%)
Quốc gia
Cổ phiếu
Trái phiếu
Khác
Tiền mặt
Australia
48%
14%
21%
17%
Canada
40%
31%
27%
2%
Japan
31%
57%
9%
3%
Netherlands
33%
52%
15%
0%
Switzerland
29%
35%
29%
7%
UK
43%
37%
17%
3%
US
47%
29%
24%
3%
Nguồn: Towerswatson (2016).
Quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện được triển khai và đại diện bởi các
biến số định lượng không những góp phần đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK mà còn giúp cho việc nghiên cứu tác động của quỹ hưu trí tự
nguyện đến sự phát triển của TTCK trở nên đo lường được và quan sát được một
cách thuận lợi hơn. Tùy vào mục tiêu nghiên cứu mà các biến số định lượng biểu
24
hiện quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện cũng được tính toán và áp dụng dưới
các hình thức đa dạng như sau:
Tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP
Biến số này được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về quỹ hưu trí tự
nguyện. Theo đó, tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí so với GDP được
xem xét như là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua sự phát
triển của TTCK. Việc tăng trưởng của các quỹ hưu trí có tác động làm cho
TTCK hoạt động hiệu quả hơn, qua đó, góp phần tăng trưởng GDP của quốc
gia (Davis & Hu, 2005; Meng & Pfau, 2010).
Tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với tổng tài sản tài
chính trong nền kinh tế (trong đó tổng tài sản tài chính bao gồm quy mô
vốn hóa thị trường cổ phiếu cộng với giá trị tổng trái phiếu đang lưu hành và
cộng với khối tiền M2 trong nền kinh tế).
Giá trị vốn hóa thị trường của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện thể hiện mối
tương quan mạnh mẽ của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện với TTCK thông qua
các chuyển động của giá. Do đó, việc sử dụng biến số tài sản tài chính của
quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP trong trường hợp này không phù hợp.
Chính vì vậy, tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với tổng tài
sản tài chính được sử dụng để phân tích xem việc gia tăng của khối tiết kiệm
theo hợp đồng liệu có dẫn đến một sự gia tăng nhu cầu về chứng khoán trên
thị trường vốn hay không. Đồng thời qua đó, biến số này còn thể hiện được
tầm quan trọng của khối tiết kiệm theo hợp đồng đối với tổng tài sản tài
chính trong nền kinh tế (Impavido, Musalem & Tressel, 2003).
Các nền kinh tế trên thế giới đang ngày càng dựa vào các tài khoản tiết kiệm
hưu trí cá nhân (individual pension savings accounts) để cung cấp sự thay thế thu
nhập trong thời gian tuổi già cho công dân của mình. Khi cơ cấu của các kế hoạch
hưu trí đã dần dần được chuyển đổi từ mô hình DB sang mô hình DC, trong đó việc
cung cấp thu nhập hưu trí được hậu thuẫn bởi tài sản từ quỹ hưu trí tự nguyện. Sự
thay đổi này đã được thúc đẩy bởi các Chính phủ muốn làm giảm tác động tài chính
của dân số già hóa và đa dạng hóa các nguồn thu nhập hưu trí. Một trong những kết
25
quả quan trọng là nhiều hệ thống hưu trí trên thế giới hiện đang trong quá trình cải
cách hướng tới mô hình DC, theo đó thu nhập hưu trí gắn liền với hiệu quả hoạt
động của các tài sản này, dẫn đến những người tham gia sẽ tiếp xúc với sự không
chắc chắn của thị trường đầu tư để xác định mức lợi ích mà họ sẽ nhận được (Hinz,
Antolin, & Yermo, 2010). Chính vì vậy, có thể xem quy mô tài sản của quỹ hưu trí
tự nguyện là một tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện mà
còn là sự lựa chọn quan trọng để đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK.
2.2.3 Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán
Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trở thành xu thế khách quan
quan trọng và được khuyến khích phát triển trong quá trình phát triển hoạt động tài
chính của các quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới:
Gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị
trường
Quỹ hưu trí công PAYG (Pay as You Go) là loại quỹ được vận hành theo mô
hình tài chính DB và thuộc hệ thống hưu trí không được tài trợ (public unfunded
pension system) nên phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực lao động mới gia nhập trên
thị trường lao động chính thức và rủi ro trường thọ sau khi người lao động nghỉ
hưu, điều này dẫn tới áp lực chi trả tài chính của quỹ hưu trí công PAYG. Trong
mối tương quan đó, quỹ hưu trí tự nguyện là loại quỹ thuộc hệ thống hưu trí tư nhân
được tài trợ (private funded pension system) và được vận hành theo mô hình tài
chính DC làm chuyển giao rủi ro tài chính sang cho người lao động tham gia đóng
góp vào quỹ, đồng thời chủ động hơn với vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK
trong việc tìm kiếm các cơ hội sinh lời và phân tán rủi ro theo danh mục đầu tư của
quỹ.
Bên cạnh vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của các quốc gia,
các quỹ hưu trí tự nguyện còn là thành phần quan trọng tham gia trên TTCK trong
việc tạo nguồn vốn cho những người/tổ chức có nhu cầu như các doanh nghiệp, các
hộ gia đình và Chính phủ dưới dạng các khoản đầu tư hoặc tiêu dùng (Davis, 1998;
26
Davis, 2000). Theo đó, quỹ hưu trí tự nguyện là tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm,
đóng vai trò trung gian tài chính trên TTCK, tham gia trong quá trình vận động và
phát triển của TTCK, làm cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên TTCK (Mishkin,
2012) (Bảng 2.6).
Bảng 2.6 Các loại hình trung gian tài chính.
Loại hình trung gian
Nguồn vốn
Sử dụng vốn
Tổ chức nhận tiền gửi
Ngân hàng thương mại
Tiền gửi
Các khoản cho vay doanh nghiệp và
người tiêu dùng, hợp đồng cầm cố,
TPCP, trái phiếu đô thị
Hợp đồng cầm cố
Hiệp hội tiết kiệm và cho vay
Tiền gửi
Hợp đồng cầm cố
Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ
Tiền gửi
Tín dụng tiêu dùng
Liên minh tín dụng
Tiền gửi
Tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Phí hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng cầm cố, trái phiếu công ty
Công ty bảo hiểm hỏa hoạn và tai nạn
Phí hợp đồng bảo hiểm
Trái phiếu đô thị, trái phiếu và cổ
phiếu công ty, TPCP
Quỹ hưu trí tư nhân tự nguyện, quỹ hưu
Các khoản đóng góp
Trái phiếu và cổ phiếu của các công
trí của Chính phủ
của người lao động và
ty
người sử dụng lao động
Trung gian đầu tư
Công ty tài chính
Thương phiếu, cổ phiếu,
Các khoản cho vay đối với doanh
trái phiếu
nghiệp và người tiêu dùng
Quỹ tương hỗ
Cổ phiếu
Cổ phiếu, trái phiếu
Quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ
Cổ phiếu
Các công cụ của thị trường tiền tệ
Nguồn: Mishkin (2012).
Trong vai trò nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí tự nguyện tiến hành tập
hợp và đầu tư các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động
để phục vụ cho các lợi ích khi nghỉ hưu của người lao động. Do đó, các quỹ hưu trí
tự nguyện cho phép các cá nhân tích lũy các khoản tiết kiệm của mình trong suốt
thời gian làm việc nhằm bảo đảm cho những nhu cầu tiêu dùng khi về hưu dưới
dạng chi trả một khoản tiền trọn gói, hoặc những khoản tiền cố định hàng tháng.
Dựa trên các chương trình hưu trí tự nguyện đóng góp, quỹ hưu trí tự nguyện đáp
ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường với việc (i) đem lại thu nhập và tài sản
gia tăng đều đặn qua các năm, cung cấp cho hộ gia đình nhiều loại hình tiết kiệm
27
dài hạn hơn; (ii) nâng cao nhận thức về bảo hiểm thu nhập hưu trí khi mọi người
sống lâu hơn và nhu cầu tài chính lớn hơn trong suốt giai đoạn nghỉ hưu dài hơn;
(iii) được hỗ trợ và khuyến khích phát triển khi quy định pháp luật của Nhà nước
cho phép khoản thu nhập hưu trí được miễn thuế thu nhập cho đến lúc người lao
động nghỉ hưu và thu nhập từ việc làm không còn (Blommestein, 1997).
Phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK
Quỹ hưu trí tự nguyện có đầy đủ các đặc điểm của nhà đầu tư có tổ chức, bao
gồm: (i) tập hợp rủi ro cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ, cung cấp các giải pháp phòng
ngừa rủi ro tốt hơn cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ; (ii) lợi thế về đa dạng hóa đầu tư,
bằng cách nắm giữ nhiều loại tài sản khác nhau (cả cổ phiếu, trái phiếu và các tài
sản khác), cả tài sản trong nước và tài sản nước ngoài; (iii) thanh khoản tốt hơn,
đồng thời tăng cường thanh khoản cho thị trường; (iv) Khả năng thu nhận và xử lý
thông tin tốt hơn so với các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ trên thị trường; (v) lợi thế
quy mô nhờ lượng vốn lớn, giao dịch lớn (Bảng 2.7).
Bảng 2.7 So sánh giữa đầu tư cá nhân và đầu tư tổ chức.
Tiêu chí
Đầu tư cá nhân
Đầu tư tổ chức
Cơ hội đầu tư
Thấp do vốn nhỏ
Cao, phụ thuộc vào quy mô quỹ
và tiềm lực tài chính
Hạn chế, độ tin cậy không cao Phong phú và có độ tin cậy cao
Thu thập thông tin
Nhà đầu tư quản lý trực tiếp
Ủy thác qua công ty quản lý quỹ
Quản lý vốn
Hạn chế
Phong phú
Danh mục đầu tư
Tương đối cao
Thấp
Rủi ro
Tính chuyên nghiệp
Thấp
Cao
(trình độ, kinh nghiệm)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
Với đặc thù dựa trên các chương trình hưu trí được thiết kế đa dạng theo
hình thức hợp đồng tiết kiệm tự nguyện, do đó sẽ có sự tương đồng về hình thức và
tính năng của sản phẩm giữa các đơn vị cung cấp bảo hiểm. Do đó, nhằm tạo ra ưu
thế cạnh tranh của quỹ hưu trí tự nguyện, việc tạo ra thêm sản phẩm mới, đa dạng
hóa các sản phẩm và dịch vụ là điều bắt buộc để thu hút và gia tăng lượng tài sản
được tập hợp từ nguồn tiết kiệm theo hợp đồng trong các chương trình hưu trí.
Đồng thời, để có thể đứng vững trong cạnh tranh, quỹ hưu trí tự nguyện cần được
28
điều hành và hoạt động hiệu quả, phát triển nghiệp vụ quản lý gia sản, hướng tới
mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của quỹ, thông qua đó gia tăng tỷ lệ thay thế của
thu nhập hưu trí của các cá nhân tham gia đóng góp so với thu nhập khi họ còn làm
việc.
Cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK
Quỹ hưu trí công PAYG theo cơ chế thực thu thực chi nên hầu như không có
nguồn tích trữ ổn định để đầu tư dài hạn đồng, thời do tính chất bảo đảm an sinh xã
hội nên cũng hạn chế bởi các quy định nghiêm ngặt trong thực hiện danh mục đầu
tư đa dạng bao gồm cả các tài sản có tính rủi ro cao so với TPCP. Mặc dù quy định
về đầu tư đối với quỹ hưu trí tự nguyện vẫn còn hạn chế nhằm để bảo đảm quyền
lợi tối thiếu của thành viên tham gia đóng góp, quỹ hưu trí tự nguyện cũng đã và
đang đóng góp nguồn cung vốn lớn và dài hạn thông qua việc đầu tư vào dự án
trong nước và cả nước ngoài, qua đó gia tăng lợi ích từ đầu tư của quỹ.
Trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức, quỹ hưu trí tự nguyện có động lực để đầu
tư nhiều hơn vào các tài sản kém thanh khoản (illiquidity) và dài hạn nhưng mang
lại lợi tức cao hơn, và do đó cung cấp một nguồn cung vốn lâu dài của quỹ vào các
thị trường vốn thông qua việc tích lũy tài sản và tính chất dài hạn của các nghĩa vụ
nợ, hướng tới đổi mới tài chính, cải tiến trong các quy định về tài chính và quản trị
doanh nghiệp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, từ đó cải thiện tổng thể hiệu
quả thị trường tài chính và minh bạch, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn (Davis, 1998; Davis 2000; Davis & Hu, 2005; Davis, 2005).
Tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK
Các quỹ hưu trí tự nguyện góp phần thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường
bằng cách tác động vào cấu trúc của TTCK nhờ nhu cầu về thanh khoản và những
giao dịch quy mô lớn. Quỹ hưu trí tự nguyện còn tạo thanh khoản cho TTCK thông
qua các hoạt động giao dịch thường xuyên với khối lượng lớn và phòng ngừa rủi ro
của mình, từ đó giúp tăng cường tính hiệu quả của TTCK, giảm chi phí vốn và giảm
tính phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng trong việc tạo thanh khoản cho TTCK
(Davis, 1998; Davis, 2000).
29
Ở góc độ tài chính cộng sinh (symbiotic finance), Vittas (2000) thừa nhận
vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện trong việc tương hỗ và tăng cường sự hiện diện
của nhiều yếu tố quan trọng của hệ thống tài chính hiện đại. Tuy nhiên, để phát triển
thị trường vốn cũng cần phải phát triển cả các nguồn lực khác, chẳng hạn như việc
ứng dụng những tiến bộ công nghệ, việc xem xét bãi bỏ quy định hạn chế đầu tư,
việc khuyến khích cổ phần hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đặc biệt là hội nhập
kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.
2.3 Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán
2.3.1 Khung lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên
Lý thuyết về
Lý thuyết về thực hiện
Lý thuyết về các bên
Lý thuyết về phát triển các
phân bổ tài sản
quyết định tài chính (Lý
liên quan đến hoạt
trung gian tài chính trên thị
dài hạn
thuyết tài chính hành vi)
trường chứng khoán
động của tổ chức
Tăng trưởng kinh tế
Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán
Hệ thống hưu trí công
Vai trò của hệ thống hưu trí đa trụ cột
Hệ thống hưu trí được tài trợ
Nguyên nhân dẫn đến xu hướng cải cách hưu trí - Tình trạng già hóa dân số - Gánh nặng ngân sách nhà nước - Bảo đảm an sinh xã hội
Hệ thống tài khoản hưu trí cá nhân
thị trường chứng khoán
Hình 2.1 Khung lý thuyết liên quan đến phát triển quỹ hưu trí trên thị trường
chứng khoán.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
30
Nghiên cứu xem xét phát triển quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò là trung gian
tài chính trên TTCK nhằm phát triển TTCK trong xu hướng cải cách hệ thống hưu
trí đa trụ cột trước bối cảnh dân số già hóa.
Nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK được thực hiện
dựa trên việc tiếp cận các lý thuyết về (i) phát triển các trung gian tài chính trên
TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache, Miloş &
Miloş, 2013); (ii) lý thuyết về các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức (Phillips
& Reichart, 2000; Freeman, Wick & Parmar, 2004; Buchholz, 2004); (iii) lý thuyết
về thực hiện quyết định tài chính (Franzen, 2010); (iv) lý thuyết về phân bổ tài sản
dài hạn (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).
Lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên thị trường chứng
khoán
Đây là là căn cứ lập luận đối với sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache,
Miloş & Miloş, 2013).
Trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế, vốn đóng vai trò là một nhân tố quan
trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Và do đó, việc gia tăng mức độ trang bị vốn là
cần thiết bên cạnh việc gia tăng năng suất lao động trong mỗi quốc gia. Theo thời
gian, sự hình thành và phát triển của TTCK trong cơ cấu hệ thống tài chính của nền
kinh tế cũng đã góp phần cung cấp và phân bổ vốn một cách có hiệu quả (Hinz et
al., 1996; Caporale, Howells & Soliman, 2004; Adjasi & Biekpe, 2006; Boubakari,
2010). Đóng góp trong sự tăng trưởng của TTCK, không thể không kể đến vai trò
và sự phát triển của các trung gian tài chính trên TTCK.
Lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên TTCK được tiếp cận dựa
vào ba cách sau: (i) Cách tiếp cận dựa vào chi phí giao dịch (Benston & Smith,
1976; Fama, 1980); (ii) Cách tiếp cận dựa vào thông tin bất cân xứng (Akerlof,
1970; Leland & Pyle, 1977; Diamond, 1984) giữa chủ thể cần vốn và các nhà tài trợ
trên thị trường; (iii) Cách tiếp cận thứ ba dựa vào phương pháp điều tiết quy định
của việc tạo ra tiền, tiết kiệm và tài trợ cho nền kinh tế, từ đó làm ảnh hưởng đến
31
tính thanh khoản và khả năng thanh toán của các trung gian tài chính (Guttentag &
Lindsay, 1968; Merton, 1995; Andrieş, 2009).
Khác với hai cách tiếp cận truyền thống về phát triển các trung gian tài chính
trên TTCK góp phần làm giảm thiểu chi phí giao dịch và thông tin bất cân xứng trên
thị trường (Claus & Grimes, 2003), cách tiếp cận thứ ba cho thấy các trung gian tài
chính trên TTCK đóng vai trò là các nhà đầu tư tổ chức (instistutional investors) với
các ưu điểm nổi trội trong hoạt động đầu tư tổ chức so với đầu tư cá nhân về trình
độ kiến thức, quy mô vốn, mức độ chấp nhận rủi ro, khả năng tiếp cận thông tin
cũng như cơ hội đầu tư khi tham gia đầu tư trên TTCK.
Theo cách tiếp cận thứ ba, các quỹ hưu trí tự nguyện (private voluntary
funded pension funds) là các trung gian tài chính trên TTCK và góp phần (i) gia
tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường; (ii) phát triển
cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK; (iii) cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn
trên TTCK; (iv) tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK
(Blommestein, 1997; Davis, 1998; Davis, 2000; Vittas, 2000; Davis & Hu, 2005;
Mishkin, 2012).
Lý thuyết về các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức
Lý thuyết này được sử dụng để xem xét sự phát triển của quỹ hưu trí trong
môi trường hoạt động, nhất là sự lựa chọn từ phía cá nhân (người tham gia đóng
góp) và các yếu tố kiểm soát đóng vai trò là các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK từ môi trường vĩ mô được phân tích và tổng hợp theo mô hình
PESTLIED (Political, Economic, Sociological, Technological, Legal, International,
Environmental, Demographic factors).
Freeman, Wick & Parmar (2004) nêu rõ các bên liên quan là các nhóm và cá
nhân được hưởng lợi ích hoặc bị tổn hại, và những quyền của họ bị vi phạm hoặc
tôn trọng bởi các hành động của công ty. Các bên liên quan bao gồm cổ đông, chủ
nợ, nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, và cộng đồng nói chung. Đề xuất chính
của lý thuyết các bên liên quan là các tổ chức doanh nghiệp có trách nhiệm bảo đảm
rằng hành động của họ đáp ứng được mong đợi của tất cả các bên liên quan. Quản
lý không chỉ nên xem xét các cổ đông của mình trong quá trình ra quyết định, mà
32
còn bất cứ ai bị ảnh hưởng bởi các quyết định kinh doanh. Trái ngược với quan
điểm cổ điển, quan điểm của các bên liên quan cho rằng “mục tiêu của bất kỳ công
ty nào là hoặc nên là sự phát triển mạnh mẽ của công ty và tất cả các bên liên quan
chính”.
Heinz và Hinz (2010) khi đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ hưu trí tự
nguyện đã cho thấy vai trò quan trọng của Chính phủ và môi trường hoạt động của
các quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, các cơ chế thị trường hiện đang tập trung quá
nhiều vào lợi nhuận ngắn hạn trong khi điểm mấu chốt của vấn đề là cần phải tìm
được sự cân bằng tốt hơn giữa vai trò của thị trường và vai trò của Chính phủ trong
việc nâng cao hiệu quả của các quỹ hưu trí cũng như giảm nguy cơ thu nhập khi
nghỉ hưu không đủ do phân bổ sai tài sản hưu trí của cá nhân tham gia đóng góp.
Rooij, Kool và Prast (2007) quan tâm đến vai trò của các cá nhân tham gia
đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, sự lựa chọn đầu tư từ phía cá nhân
tham gia đóng góp sẽ quyết định sự tham gia vào chương trình hưu trí theo mô hình
tài chính DC cũng như sự tự do lựa chọn danh mục đầu tư và sở thích rõ ràng về
khẩu vị rủi ro của họ đối với các khoản đầu tư dựa trên tài sản đóng góp vào quỹ
hưu trí tự nguyện. Byrne (2007) cho rằng các cá nhân tham gia đóng góp có khả
năng tính toán được nhu cầu tiết kiệm của mình thường là những người có hiểu biết
về kiến thức đầu tư hơn và chủ động hơn trong việc rà soát và đánh giá các khoản
đầu tư của mình.
Tuy nhiên, các nhà phê bình lý thuyết của các bên liên quan lập luận rằng
những thiếu sót của lý thuyết này là nó bao gồm các bên liên quan không phải là
con người như môi trường tự nhiên và cả những người vắng mặt như các thế hệ
tương lai hoặc các nạn nhân tiềm ẩn. Phillips và Reichart (2000) cho rằng chỉ có
con người mới có thể được coi là những người có liên quan đến tổ chức và chỉ trích
những nỗ lực nhằm xem xét môi trường tự nhiên như là một bên liên quan đến hoạt
động của tổ chức. Việc xem xét môi trường tự nhiên như một bên liên quan thật sự
khó khăn do phần lớn các định nghĩa của các bên liên quan thường coi chúng như
các nhóm hoặc các cá nhân, do đó loại trừ môi trường tự nhiên theo định nghĩa vì
33
nó không phải là một nhóm người hay cộng đồng như là nhân viên hoặc người tiêu
dùng (Buchholz, 2004).
Chính vì vậy, trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK, các yếu tố liên quan đến môi trường vĩ mô cũng được
xem xét, lựa chọn sao cho có thể lượng hóa và cụ thể hóa để đánh giá tác động của
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng trưởng của TTCK, chẳng hạn như
(i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn trên thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP);
(iii) GDP bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v) tỷ lệ người già trên 100
người trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem & Tresselt, 2003;
Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012).
Lý thuyết về thực hiện quyết định tài chính trong điều kiện rủi ro
Lý thuyết này cho thấy trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức, quỹ hưu trí tự
nguyện (i) có sự tận dụng về lợi thế tiếp cận thông tin để có thể đưa ra các quyết
định hợp lý về các khoản tiết kiệm hưu trí so với nhà đầu tư cá nhân; (ii) tạo nên
tính kinh tế về mặt quy mô và chia sẻ rủi ro; (iii) giảm thiểu những sai lệch tâm lý
lựa chọn đầu tư của cá nhân trong điều kiện rủi ro (Kahneman & Tversky, 1979;
Gordon, Mitchell & Twinney, 1997; Thaler & Benartzi, 2004; Franzen, 2010). Xét
về góc độ sự lựa chọn của các cá nhân, hai đặc điểm của cá nhân tham gia đóng
góp thông qua sự lựa chọn của mình ảnh hưởng đến phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK thường được xem xét đến chính là (i) mức độ hiểu biết về tài
chính và thái độ với rủi ro; (ii) sở thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập
hưu trí. Đối với những cá nhân đã tham gia vào chương trình hưu trí, những nội
dung được các nghiên cứu quan tâm thêm chính là các thông tin cơ bản về chương
trình hưu trí mà cá nhân đó tham gia và quyết định đầu tư để nhằm củng cố thêm
hai đặc trưng trên của cá nhân (Rooij, Kool & Prast, 2007; Byrne, 2007; Njuguna
& Otsola, 2011; Katuse et al., 2013).
Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện là điều có thể giải thích được do
nhu cầu về việc cung cấp thu nhập hưu trí ngày càng tăng theo tình trạng già hóa
của dân số. Davis (2000) đã dự kiến sẽ có sự tăng mạnh về tỷ lệ dân số từ 65 tuổi
trở lên ở các nền kinh tế thuộc khối OECD, theo đó sự gia tăng này phần lớn là kết
34
quả của sự suy giảm khả năng sinh sản xuống dưới mức thay thế ở hầu hết các nước
thuộc Châu Âu, mặc dù nó cũng bắt nguồn từ sự gia tăng tuổi thọ trung bình và mức
độ di cư thuần thấp. Với tuổi nghỉ hưu không thay đổi, sự thay đổi nhân khẩu học
như vậy sẽ tự nhiên dẫn đến sự gia tăng phạm vi chuyển đổi trong hệ thống hưu trí
PAYG. Bên cạnh những cắt giảm đơn giản về các lợi ích trợ cấp an sinh xã hội, việc
gia tăng huy động nguồn tài trợ cho thu nhập hưu trí là một khía cạnh quan trọng
của phản ứng chính sách. Điều này rõ ràng sẽ làm tăng đầu tư thông qua các quỹ
hưu trí hơn là trong tiền gửi ngân hàng. Ngay cả trước khi tiến hành cải cách hưu
trí, các cá nhân ở các nước có hệ thống PAYG hào phóng cũng đã và đang tăng
cường tiết kiệm dài hạn thông qua các quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm nhân
thọ do các tiên đoán về tương lai không chắc chắn và do đó đã thúc đẩy thể chế hoá
thị trường vốn với sự phát triển của các quỹ hưu trí tự nguyện.
Rooij, Kool và Prast (2007) điều tra các ưu đãi thu nhập hưu trí và ảnh
hưởng của sự tự do lựa chọn cá nhân đối với việc chấp nhận mức độ rủi ro trong
một cuộc khảo sát đại diện cho khoảng 1.000 công dân Netherlands. Trong đó, thái
độ đối với các chương trình hưu trí và các lựa chọn danh mục đầu tư được giải thích
theo các đặc điểm cá nhân. Kết quả của việc điều tra cho thấy thái độ của các cá
nhân hướng về tâm lý e ngại rủi ro và tâm lý e ngại rủi ro này chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nội dung được khảo sát về các vấn đề liên quan đến thu nhập hưu trí. Đại
đa số người trả lời ủng hộ việc tiết kiệm bắt buộc để dành cho lúc nghỉ hưu và ủng
hộ một hệ thống hưu trí theo mô hình DB. Nếu được cung cấp một hệ thống hưu trí
với sự kết hợp của mô hình DC, phần lớn những người trả lời muốn có một khoản
thu nhập hưu trí được bảo đảm từ 70% trở lên thu nhập lao động thuần của họ. Khả
năng chịu rủi ro tự đánh giá và chuyên môn tài chính là các biến giải thích quan
trọng cho thái độ của cá nhân đối với hệ thống hưu trí. Những người tham gia thực
hiện khảo sát thì có thái độ bảo thủ ở mức trung bình trong chính sách đầu tư của
họ. Nếu được trao quyền tự chủ của nhà đầu tư, họ sẵn sàng thay đổi cấu thành của
danh mục tiết kiệm hưu trí để đáp ứng với (i) tình hình tài chính cá nhân, (ii) điều
kiện kinh tế nói chung và (iii) kỳ vọng của thị trường tài chính. Người tham gia
khảo sát có thể trả lời không thống nhất với sở thích của họ, đặc biệt là những người
35
trả lời đã chọn một danh mục tương đối an toàn (ít cổ phiếu, nhiều trái phiếu hơn)
dường như lại thích các dòng thu nhập hưu trí của danh mục đầu tư ở mức trung vị
để lựa chọn cho danh mục đầu tư của họ. Cuối cùng, trung bình số người trả lời cho
rằng mình không đủ sâu sắc về tài chính nhưng lại là những người không muốn
kiểm soát đầu tư tiết kiệm cho việc nghỉ hưu nếu họ được cung cấp khả năng tăng
cường chuyên môn.
Byrne (2007) phân tích dữ liệu từ một cuộc khảo sát các thành viên của một
chương trình hưu trí theo mô hình DC tại The United Kingdom (UK) để khám phá
thái độ và kiến thức của người lao động trước quyết định tiết kiệm hưu trí và quyết
định đầu tư. Kết quả cho thấy tính nhất quán với kinh tế học hành vi, trong đó cho
thấy nhiều người lao động có mối quan tâm hạn chế đối với các hợp đồng thỏa
thuận của mình. Không phải tất cả người lao động đều nhận được lời khuyên về thu
nhập hưu trí, nhưng những người có nhiều khả năng tính toán được nhu cầu tiết
kiệm của họ thì có mức kiến thức đầu tư cao hơn và chủ động rà soát đầu tư của họ
hơn so với những người không có.
Lý thuyết về phân bổ tài sản dài hạn
Lý thuyết này cung cấp cái nhìn sâu sắc cho việc thiết kế các lựa chọn đầu tư
trong chương trình hưu trí theo mô hình DC (defined contribution) (Campbell &
Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002; Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010;
Falkenheim, 2015).
Việc phân phối của cải khi nghỉ hưu được tích lũy theo các kiểu quỹ hưu trí
khác nhau trong chương trình hưu trí theo mô hình DC là mối quan tâm của các nhà
tài trợ (sponsors), người tham gia (plan participants), cơ quan quản lý (regulators)
và các nhà hoạch định chính sách (policy makers). Sự phân bố này phụ thuộc vào
hai yếu tố chính là (i) thông tin về thu nhập trong suốt vòng đời của người tham gia
kế hoạch giúp xác định các khoản đóng góp vào chương trình; (ii) rủi ro và lợi
nhuận của các loại tài sản trong quỹ.
Trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển, thiết kế quỹ hưu trí tự
nguyện cần giải quyết ba vấn đề đặc biệt có liên quan mật thiết đến yếu tố lạm phát
và tính ổn định của kinh tế vĩ mô, bao gồm (i) thành phần của danh mục đầu tư vào
36
các tài sản đem lại thu nhập cố định (fixed - incomes porfolios); (ii) thành phần của
danh mục cổ phần (equity porfolios), và (iii) chiến lược phòng vệ đối với những
biến động liên quan đến tiền tệ (currency hedging) (Valdés-Prieto, 2008; Viceira,
2010; Falkenheim, 2015).
Vấn đề thứ nhất, hầu hết các lựa chọn đầu tư trong chương trình hưu trí theo
mô hình DC tại các nền kinh tế đang phát triển đều hoạt động tuân theo những quy
định ràng buộc chặt chẽ về luật pháp, nên có xu hướng đầu tư với tỷ trọng cao vào
các tài sản đem lại thu nhập cố định. Hơn nữa, sự phân bổ đầu tư cho các tài sản
đem thu nhập cố định này có xu hướng tập trung cao vào TPCP trong nước và các
công cụ tiền mặt (TPCP ngắn hạn, các công cụ trên thị trường tiền tệ và tiền gửi).
Sự phân bổ đầu tư cao vào các công cụ tiền mặt, TPCP có thể đến từ hai yếu tố
chính là (i) các công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định thường là những tài
sản an toàn nhất bắt nguồn từ sự khôn ngoan thông thường trong đầu tư; (ii) việc
xem xét sự tài trợ cho vấn đề thâm hụt tài chính cũng góp phần giải thích cho quyết
định phân bổ đầu tư vào TPCP trong nước. Tuy nhiên, lý thuyết hiện đại về phân bổ
tài sản dài hạn cho thấy thực tiễn chung về việc yêu cầu các quỹ hưu trí tự nguyện
nắm giữ số lượng lớn các TPCP dài hạn trong nước và các khoản tiền gửi hoặc các
công cụ tương tự tiền mặt lại không có lợi nhất cho người tham gia chương trình
hưu trí và cần phải được xem xét lại, ngay cả khi mục tiêu cuối cùng là cung cấp
cho những người tham gia chương trình hưu trí những lựa chọn đầu tư an toàn. Các
công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định không phải là tài sản an toàn cho các
nhà đầu tư dài hạn và việc đầu tư và các loại tài sản này còn được xem như là chiến
lược mạo hiểm vì chúng chịu rủi ro tái đầu tư do thời hạn đáo hạn của chúng là
ngắn so với đặc thù mang tính chất dài hạn của mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự
nguyện cũng như sự tìm kiếm sự đầu tư dài hạn của hầu hết những người tham gia
chương trình hưu trí. Trái phiếu dài hạn bảo vệ các nhà đầu tư khỏi nguy cơ tái đầu
tư, bởi vì sự sụt giảm lãi suất được bù đắp bằng việc tăng vốn (capital gain) trong
giá trị trái phiếu. Nhưng TPCP dài hạn thường là các công cụ có các khoản lãi
cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá được cố định theo giá trị danh nghĩa. Chính
điều này làm cho trái phiếu dài hạn trở thành những khoản đầu tư rủi ro đối với các
37
nhà đầu tư dài hạn bởi vì rủi ro lạm phát trong dài hạn (nếu lạm phát kỳ vọng trong
tương lai thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát kỳ vọng đã được tính vào giá trái phiếu tại
thời điểm mua lại, sức mua của các khoản lãi cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá
của trái phiếu sẽ bị xói mòn, và việc đầu tư vào trái phiếu cũng đối mặt với các
khoản lỗ vốn) (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002).
Vấn đề thứ hai, ở hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, các quy định về
quỹ hưu trí tự nguyện với các chương trình hưu trí theo mô hình DC bị giới hạn
việc đầu tư vào cổ phiếu, đặc biệt là nguồn vốn cổ phần quốc tế (international
equity). Mặc dù việc hạn chế nắm giữ cổ phần mang hàm ý về các giới hạn mức độ
rủi ro tối đa được thiết lập trong chương trình hưu trí bởi cơ quan quản lý nhưng
việc hạn chế tiếp xúc nguồn vốn cổ phần quốc tế có thể không có lợi nhất cho người
tham gia chương trình hưu trí. Lợi ích của đa dạng hoá vốn cổ phần quốc tế nhiều
khả năng sẽ còn lớn hơn đối với các nhà đầu tư có trụ sở ở tại các nền kinh tế đang
phát triển. Các nền kinh tế đang phát triển thường có đặc điểm là các TTCK quốc
gia nhỏ có rủi ro đặc thù của quốc gia. Ví dụ, nhiều nền kinh tế đang phát triển
không có lĩnh vực sản xuất đa dạng, thay vào đó lại tập trung nhiều vào các ngành
công nghiệp hoặc dịch vụ cụ thể. Rủi ro này có thể được cải thiện thông qua sự đa
dạng hóa mang tính quốc tế. Việc phân bổ vốn cổ phần trong các lựa chọn đầu tư
vào chương trình theo mô hình DC tại các nền kinh tế đang phát triển cần được tổ
chức dưới dạng các danh mục đa dạng quốc tế, với các đối sánh nhằm phản ánh
hiệu quả của danh mục TTCK thế giới hơn là TTCK trong nước.
Vấn đề thứ ba, một quyết định quan trọng đối với các nhà đầu tư vốn cổ phần
và trái phiếu đa dạng trên quy mô quốc tế là quyết định mức phòng ngừa rủi ro tiền
tệ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của họ. Các nhà đầu tư tổ chức ở các nền kinh tế
phát triển thường thực hiện việc phòng ngừa đầy đủ để đối phó với rủi ro tiền tệ khi
đầu tư vào các cổ phiếu quốc tế.
2.3.2 Các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài
Bên cạnh các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự
nguyện với tổng tiết kiệm trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự
nguyện với tăng trưởng kinh tế nội địa, nội dung sau đây của đề tài chỉ tập trung
38
tổng hợp và tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ của việc phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng trưởng của thị trường vốn. Trong đó, các tác
động của các quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển thị trường vốn không những
được xem xét ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển và theo trình
độ phát triển của thị trường tài chính (PHỤ LỤC 3).
Bảng 2.8 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ
hưu trí tự nguyện và TTCK giai đoạn 2000 - 2015.
Tác giả
Phạm vi nghiên cứu và nguồn dữ
Phương pháp
Kết quả nghiên cứu
liệu
ước lượng
Catalan,
14 quốc gia OECD và 5 thị trường
Granger-
Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết
Impavido
đang phát triển.
causality
test
kiệm bao gồm các quỹ hưu trí tự
và
1960-1997/World
Bank,
dành cho dữ liệu
nguyện có mối quan hệ nhân quả
Musalem
Institutional
Investor data
set
bảng động
chính yếu đến sự phát triển của
(2000).
&WDI.
TTCK.
Impavido
Dữ liệu bảng của 26 quốc gia (21
OLS và error
Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết
và
quốc gia OECD và 5 quốc gia đang
component 2SLS
kiệm là công cụ quan trọng trong
Musalem
phát triển).
việc gia tăng cung các quỹ dài hạn
(2000).
1960 - 2007/IFS, WDI, OECD,
cho nền kinh tế. Sự phát triển của
Datastream và National Sources.
nhà đầu tư tổ chức trực tiếp này có
tác động tích cực làm gia tăng quy
mô vốn hóa thị trường, góp phần
gián tiếp làm gia tăng thanh khoản
thị trường thông qua giá trị cổ phiếu
được giao dịch.
Walker
33 thị trường mới nổi.
OLS, fixed effect
Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện có
và Lefort
1981 - 2000/IFC & emerging
và GLS pooled
tác động tích cực đến thị trường vốn
(2002).
country database.
estimator
thông qua việc làm giảm chi phí sử
dụng vốn, giảm biến động giá chứng
khoán và gia tăng quy mô giao dịch
chứng khoán, góp phần gián tiếp đến
sự sự tăng trưởng kinh tế và năng
suất của nền kinh tế.
Impavido
Dữ liệu bảng của 32 quốc gia phát
GMM sai phân
Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết
triển và đang phát triển.
một bước dành
kiệm có tác động tích cực đáng kể
,
Musalem
1998 - 2002/WDI, IMF Financial
cho dữ liệu bảng
đến sự phát triển của TTCK (cổ
Statistics & Bank for International
động
phiếu lẫn trái phiếu). Khi tỷ trọng
và
Tresselt
Settlement for bond market data.
khối tiết kiệm theo hợp đồng trong
39
(2003).
tổng tài sản tài chính của nền kinh tế
tăng 1% sẽ dẫn đến sự gia tăng
1,89% của quy mô vốn hóa TTCK.
Việc gia tăng tài sản của quỹ hưu trí
tự nguyện liên quan đến tài sản tài
chính trong nước có tác động tích
cực đến độ sâu và tính thanh khoản
của TTCK, tuy nhiên tác động này
thể hiện rõ nét ở các quốc gia có hệ
thống tài chính phát triển.
Davis và
Dữ liệu bảng không cân bằng của
Dynamic OLS,
Tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tác
Hu
38 quốc gia phát triển và thị trường
co-integration
động gián tiếp đến tăng trưởng kinh
(2008).
mới nổi trong giai đoạn 1980 đến
test
tế thông qua sự phát triển của thị
2003.
trường vốn ở cả các quốc gia OECD
OECD, FIAP, WDI & Various
và EMEs. Tác động này mạnh mẽ
National Sources
hơn ở EMEs hơn là ở các quốc gia
OECD.
Raddatz
Chile.
Tiếp cận
theo
Các chiến lược đầu tư của quỹ hưu trí
và
1995 - 2005/Superintendency of
hướng phân tích
tự nguyện quyết định cấp độ phát
Schmukl
PF Administrators of Chile.
kinh tế vi mô của
triển của thị trường vốn, tồn tại mối
er (2008).
Lakonishok,
quan hệ hai chiều giữa quỹ hưu trí tự
Shleifer
&
nguyện và sự phát triển của thị
Vishny (1992).
trường vốn.
Hryckiew
Dữ liệu bảng của 8 nước đang phát
GMM sai phân
Sự phát triển của các nhà đầu tư tổ
icz
triển thuộc Trung và Đông Âu.
một bước dành
chức có tác động mạnh mẽ và đáng
(2009).
1995 - 2006/WDI & Bank for
cho dữ liệu bảng
kể đến dự phát triển của TTCK, giảm
International settlement for bond
động
chi phí quản trị doanh nghiệp và có
markets.
tác động tích cực đến quy mô vốn
hóa TTCK.Việc cải cách hưu trí có
đóng góp đáng kể đến sự phát triển
của các nhà đầu tư tổ chức và sự phát
triển của TTCK.
Kim
16 quốc gia OECD.
GMM sai phân
Sự phát triển của quỹ hưu trí tự
(2010).
1991 - 2003/WDI & OECD.
bậc nhất dành
nguyện có tác động một chiều đến
cho dữ liệu bảng
đầu tư dài hạn và sự phát triển của thị
động
trường vốn với các điều kiện tiên
quyết về quy mô và thể chế áp dụng
đối với quỹ hưu trí tự nguyện.
Meng và Dữ liệu bảng không cân bằng của Dùng cả GMM Sự phát triển của quỹ hưu trí tự
40
Pfau
32 quốc gia (các nước phát triển và
sai phân
bậc
nguyện có ảnh hưởng đến sự phát
(2010).
thị trường mới nổi).
nhất và bias-
triển của thị trrường vốn của các
1960–2002/WDI, OECD,
IMF,
corrected LSDV
quốc gia có thị trường vốn đã phát
MSCI Stock Index & National
estimator
dành
triển hoàn thiện. Tài sản quỹ hưu trí
Sources.
cho dữ liệu bảng
tự nguyện có tác động tích cực đến
động để so sánh
chiều sâu và tính thanh khoản của
kết quả
TTCK.
Granger-
Sự tăng trưởng đầu tư của quỹ hưu trí
Liang và
UK.
Bing
1970
-
2008/U.K. Statistics
causality test
tự nguyện và độ sâu của sự phát triển
(2010).
Database &WDI.
thị trường tài chính có tác động tích
cực qua lại lẫn nhau.
Rocholl
Dữ liệu bảng của 57 quốc gia.
SURE và co-
Sự tăng trưởng quỹ hưu trí tự nguyện
và
1976 - 2007/WDI & OECD Private
integration
hỗ trợ tích cực đối với sự tăng trưởng
Niggema
Pension Outlook.
analysis
của TTCK (cổ phiếu và trái phiếu),
nn (2010)
(trong đó bao
tuy nhiên có hạn chế đối với thị
gồm GLS)
trường trái phiếu ở các nước OECD.
Raisa
15 quốc gia thành viên EU.
OLS và EGLS
Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự
(2012)
1994 - 2011/WDI, OECD, WB,
nguyện có mối liên hệ tích cực đến
Datastream, Eurostat, ECB and
sự phát triển của thị trường vốn tại
Heritage, Country Overall Score.
mức ý nghĩa 10%.
Hu
10 nền kinh tế thuộc Châu Á và
The panel error
Mối quan hệ tích cực có ý nghĩa
(2012)
Thái Bình Dương (Australia; the
correction model
thống kê giữa tăng trưởng tài sản hưu
PRC; Hong Kong, China; India;
(PECM).
trí và sự phát triển của thị trường tài
the Republic of Korea; Malaysia;
chính và thị trường vốn. Ý nghĩa
New Zealand; Pakistan; Singapore;
chính sách chính là các Chính phủ ở
Thailand)
Châu Á cần tiếp tục và/hoặc cải cách
2001 - 2010
hưu trí mang lại những tác động có
OECD Global Pension Statistic;
lợi cho thị trường tài chính.
World Development Database;
Financial
Structure
database;
World Development Indicators.
Zandberg
Dữ liệu bảng của 58 quốc gia
Bias-corrected
Lợi nhuận từ việc đầu tư của quỹ hưu
và
thuộc OECD và không
thuộc
LSDV estimator
trí tự nguyện trên thị trường vốn và
Spierdijk
OECD từ 2001 - 2008.
những thay đổi về nhân khẩu học là
(2013).
WDI, OECD; Barclays Capital
các yếu tố làm gia tăng tài sản quỹ
Global Aggregate Bond Index &
hưu trí tự nguyện và tác động đến
MSCI.
tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia
thuộc OECD hay không
thuộc
OECD.
41
Sun
và
Tổng cộng 55 quốc gia và khu vực
OLS
(dữ
liệu
Sự gia tăng giá trị của các quỹ hưu trí
Hu
qua các dữ liệu chéo trong năm
chéo), GLS (dữ
không những cung cấp nhiều vốn
(2014).
2002, dữ liệu bảng từ 2001 - 2008
liệu bảng), co-
hơn cho thị trường tài chính mà còn
và chuỗi thời gian từ 1981 - 2009.
integration
và
tạo ra sự đổi mới trong các sản phẩm
The Heritage Foundation, Penn
error correction,
tài chính, cải thiện năng lực quản trị
World
Table
6.1, OECD,
VAR
(dữ
liệu
doanh nghiệp cũng như hệ thống
International Federation of Pension
chuỗi thời gian)
quản lý và giám sát.
Management, IMF.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
Qua bảng 2.8 cho thấy hầu hết các kết luận đều cho thấy một sự đồng thuận
về ý nghĩa và vai trò tích cực của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của thị
trường vốn dù cho các tác giả sử dụng các mô hình định lượng khác nhau nhằm tìm
kiếm phương pháp ước lượng đáng tin cậy và khoảng thời gian các bộ dữ liệu khác
nhau. Tuy nhiên, vấn đề mà các nghiên cứu thực nghiệm gặp phải đó là sự hạn chế
về số lượng các biến quan sát, cụ thể là khoảng thời gian quan sát sẵn có chưa đủ
lâu dài. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên đều tập trung vào các quốc gia phát triển
thuộc khối OECD cũng như các thị trường mới nổi, trong khi đó theo Hu (2012) thì
các nghiên cứu về thị trường hưu trí thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương còn
rất hiếm trong các tài liệu hiện có.
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều cho thấy có sự tác
động tích cực của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường
tài chính, gián tiếp góp phần tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu này cũng đã tạo
nên những ảnh hưởng trong những thập kỷ gần đây, truyền cảm hứng trong các
khuyến nghị của các tổ chức quốc tế như WB, OECD và trong thực tế cải cách hưu
trí trên thế giới. Theo đó, việc cải cách hưu trí là nhằm bảo đảm sự phát triển bền
vững lâu dài của hệ thống hưu trí công trong mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột và
tăng cường hơn nữa vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện thông qua ý tưởng về sự tích
lũy tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện chắc chắn sẽ khuyến khích gia tăng tổng tiết
kiệm, phát triển thị trường vốn nội địa, từ đó phát triển kinh tế (Thomas & Spataro,
2014).
42
2.3.3 Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước
Tại Việt Nam, các nghiên cứu có đề cập đến quỹ hưu trí tự nguyện trong khi
đánh giá về hiện trạng và thách thức của hệ thống hưu trí Việt Nam trong điều kiện
dân số già hóa hệ thống hưu trí như nghiên cứu của Giang Thanh Long (2004), Điều
Bá Dược (2013), TTBD (2014); Chí Tín (2014), Lưu Hải Vân (2014), Nguyễn Thị
Lê Thu (2014), Trần Phương Thảo và Nguyễn Anh Tuấn (2014). Một số nghiên cứu
được thực hiện sau thời gian Bộ Tài chính công bố Thông tư số 115/2013/TT-BTC
hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam thì có sự tập
trung hơn vào phân tích vai trò quỹ hưu trí tự nguyện và giới thiệu hệ thống hưu trí
đa trụ cột (Khuất Thị Kiều Vân, 2013; Lương Xuân Trường, 2014; Bùi Cẩm
Hường, 2014; Thùy Dương, 2017) (PHỤ LỤC 4).
Như vậy, tại Việt Nam vẫn còn thiếu vắng các nghiên cứu liên quan đến phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Do đó, nghiên cứu của tác giả được tiến
hành nhằm bổ sung, đóng góp vào hệ thống kiến thức về phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK và góp phần triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
2.4 Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán
Impavido, Musalem và Tresselt (2003) thừa nhận rằng các quốc gia với trình
độ khác nhau về sự phát triển tài chính có tình trạng thị trường tài chính khác nhau
cũng có thể tác động trực tiếp đến vai trò và hiệu quả hoạt động của quỹ hưu trí tự
nguyện. Sự khác biệt bao gồm (i) quy định đầu tư quỹ hưu trí tự nguyện; (ii) hiệu
quả thị trường; (iii) tính minh bạch; (iv) khuôn khổ pháp lý; (v) các hoạt động thị
trường và điều kiện vĩ mô cũng như điều kiện tài chính; (vi) hành vi đầu tư và phân
bổ tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện …
Nghiên cứu của Blommestein (1997) nhận định tiềm năng cho việc mở rộng
các cơ sở nhà đầu tư tổ chức trong nước, trong đó bao gồm quỹ hưu trí tự nguyện, là
rất lớn. Tuy nhiên, sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện không chỉ gặp trở ngại
bởi kích thước quá mức của hệ thống hưu trí công PAYG mà còn bởi thiếu vắng
khuôn khổ pháp lý cho các quỹ hưu trí tự nguyện; vắng mặt của ngành công nghiệp
quản lý tài sản chuyên nghiệp, các hạn chế đầu tư quá mức theo danh mục; chính
43
sách cấp phép quá hạn chế, việc dẫn tới nhóm độc quyền trong lĩnh vực quỹ hưu trí;
thiếu tự do tiết kiệm để lựa chọn trong số danh mục đầu tư khác nhau của các sản
phẩm thu nhập hưu trí đã được phê duyệt; phí của các quỹ hưu trí tự nguyện còn
cao và/hoặc cố định … Do đó, để thúc đẩy sự tăng trưởng của nhà đầu tư tổ chức
nói chung, quỹ hưu trí tự nguyện nói riêng thì cần phải tập trung vào các yếu tố cụ
thể như sau, đó là: (i) việc bãi bỏ quy định về tài chính; (ii) tự do hóa các hoạt động
của các nhà đầu tư tổ chức; (iii) hiện tượng dân số già và tiến trình cải cách lương
hưu, (iv) tiến bộ của khoa học công nghệ; (v) sự mở rộng ngành quản lý tài sản.
Vittas (2000) xem xét (i) các điều kiện tiên quyết mang tính khả thi đến từ sự
phát triển của khu vực tài chính để thúc đẩy cải cách thu nhập hưu trí và phát triển
các kế hoạch hưu trí được tài trợ và (ii) các điều kiện tiên quyết mang tính tác động
cho phép quỹ hưu trí nhận ra ảnh hưởng tiềm năng của chúng đến sự phát triển của
vốn. Vittas (2000) lập luận rằng điều kiện tiên quyết mang tính khả thi quan trọng
nhất chính là cam kết mạnh mẽ và lâu dài từ các cơ quan có thẩm quyền không chỉ
trong việc thực hiện cải cách thu nhập hưu trí mà còn trong việc theo đuổi tất cả các
cải cách cần thiết đối với thị trường vốn nhằm duy trì ổn định tài chính vĩ mô, khả
năng thanh toán và tính hữu hiệu quả của các ngân hàng và công ty bảo hiểm, tạo
lập các quy định cũng như cơ quan quản lý và giám sát hiệu quả. Bên cạnh đó,
Vittas (200) cũng cho rằng cần mở cửa thị trường ngân hàng và bảo hiểm trong
nước cho thành phần nước ngoài tham gia.
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy giống như bất kỳ nhà đầu tư tổ chức
trên TTCK, việc phát triển loại hình quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK cũng chịu ảnh
hưởng của các điều kiện khách quan về thể chế kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội,
tiến bộ khoa học công nghệ trong môi trường vĩ mô và các nhân tố vi mô bên trong
của quỹ hưu trí tự nguyện. Vì vậy, với tính chất liên quan đến thu nhập hưu trí và
các khoản đóng góp tự nguyện từ người tham gia chương trình hưu trí mà các điều
kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK cũng xoay quanh những nội dung
đặc trưng cơ bản được tổng hợp và phân tích theo mô hình PESTLIED dành cho
các yếu tố tác động đến từ bên ngoài của tổ chức như sau: (i) chính sách thuế thu
nhập (Political); (ii) tính ổn định của kinh tế vĩ mô (Economic); (iii) vấn đề thuộc
44
xã hội học (Sociological); (iv) cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính tập trung vào
sự phát triển của ngành quản lý gia sản và cấu trúc đa nguyên các nhà đầu tư tổ
chức (Technological); (v) các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động của quỹ
hưu trí tự nguyện (Legal); (vi) xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới
(International); (vii) vấn đề về môi trường (Environmental); (viii) vấn đề về nhân
khẩu học (Demographic).
2.4.1 Chính sách ưu đãi thuế thu nhập
Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Chính phủ góp phần cung cấp động
cơ khuyến khích người dân có kế hoạch tài chính cho tuổi già ngay khi còn trẻ
nhằm nâng cao ý thức quản lý tài chính cá nhân. Bên cạnh đó, việc hưởng lợi từ ưu
đãi thuế cho phép quỹ hưu trí tự nguyện có lợi thế trong việc thu hút người lao động
tham gia vào các hợp đồng thu nhập hưu trí, đồng thời sử dụng tối đa được nguồn
tài trợ cho việc đầu tư nhằm gia tăng tối đa giá trị tài sản của quỹ (Impavido,
Musalem & Tresselt, 2003; Whitehouse, 2005; OECD, 2015).
Trên khắp thế giới, các chương trình hưu trí công PAYG dựa trên mô hình
DB đang phải đối mặt nghiêm trọng với vấn đề tài chính trong dài hạn chủ yếu là do
tình trạng già hóa dân số và xuất hiện tính không bền vững trong cấu trúc hiện tại.
Feldstein và Samwick (2001) lập luận rằng ba phản ứng có thể xảy ra nhằm làm
giảm gánh nặng chi trả cho các lợi ích an sinh xã hội trong tương lai của chương
trình hưu trí công PAYG theo mô hình DB (và không được tài trợ) với quy định
pháp luật hiện hành, đó là (i) làm giảm thu nhập hưu trí trong tương lai; (ii) gia tăng
mức thuế thu nhập để bổ sung vào quỹ; (iii) đầu tư các khoản tiết kiệm sao cho hiệu
quả. Feldstein và Samwick (2001) ủng hộ việc đầu tư tiết kiệm cho thu nhập hưu trí
và thay thế các kế hoạch hưu trí không được tài trợ bằng hệ thống được tài trợ hoàn
toàn từ phía tư nhân (hay là các chương trình hưu trí theo mô hình DC) do khả năng
này mang lại nhiều lợi thế hơn khi so với hai khả năng còn lại.
Không giống như các loại hình đầu tư tổ chức khác như quỹ bảo hiểm của
công ty bảo hiểm và quỹ tương hỗ (mutual funds), quỹ hưu trí tự nguyện được
hưởng lợi từ việc hoãn thuế thu nhập căn cứ vào chế độ thuế thu nhập áp dụng đối
với (i) sự đóng góp (contributions) cũng như (ii) lãi và lợi vốn được tích lũy
45
(investment income and capital gains of the pension funds), (iii) thu nhập hưu trí
được nhận vào thời điểm nghỉ hưu (benefits). Có nhiều chính sách ưu đãi thuế thu
nhập áp dụng cho thu nhập hưu trí (Bảng 2.9).
Bảng 2.9 Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập áp dụng đối với thu nhập hưu
trí.
Thu nhập hưu trí được nhận
Sự đóng góp
Lãi và lợi vốn được
Chính sách thuế
vào thời điểm nghỉ hưu
(contributions)
tích lũy (growth)
(withdrawals)
T
ETE
E
E
E
TET
T
T
T
ETT
E
T
T
TTE
T
E
E
TEE
T
E
E
EET
E
T
*E: miễn thuế (exempt); T: tính thuế (taxed).
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ OECD (2015); EUROPA (2018).
Lý do cho việc ưu đãi thuế thu nhập được cho là (i) để khuyến khích mọi
người tiết kiệm đủ nhằm duy trì các tiêu chuẩn sống sau khi nghỉ hưu; (ii) khi mọi
người tiết kiệm đủ sẽ giúp Chính phủ giảm thiểu chi phí cung cấp các phương tiện
liên quan đến lợi ích an sinh xã hội; và (iii) góp phần nâng cao mức tiết kiệm chung
trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc hưởng lợi từ ưu đãi thuế thu nhập cho phép quỹ
hưu trí tự nguyện có lợi thế trong việc thu hút người lao động tham gia vào các hợp
đồng thu nhập hưu trí, đồng thời sử dụng tối đa được nguồn tài trợ cho việc đầu tư
nhằm gia tăng tối đa giá trị tài sản của quỹ. Do đó, để bảo hiểm hưu trí tự nguyện có
thể phát triển, để quỹ hưu trí tự nguyện phát triển thì cần phải có những ưu đãi về
chính sách thuế thu nhập.
2.4.2 Tính ổn định của kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của kinh tế vĩ mô sẽ góp phần mang lại niềm tin và tâm lý kỳ vọng
nơi công chúng, không những về một mức độ lạm phát được kiềm chế vừa phải để
duy trì nền kinh tế phát triển, tăng trưởng và ổn định mà còn về mức thâm hụt ngân
sách trong giới hạn an toàn, từ đó góp phần ổn định giá trị đồng tiền, giúp cho các
quỹ hưu trí tự nguyện hoạt động hiệu quả trên TTCK hướng tới mục tiêu tối đa hóa
46
giá thị thị trường của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, yếu tố lạm phát và
tính ổn định của kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và
hiệu quả đầu tư khi quyết định phân bổ tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trong danh
mục đầu tư trên TTCK (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002;
Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).
Ổn định kinh tế vĩ mô là rất cần thiết bởi vì cả TTCK lẫn các nhà đầu tư tổ
chức đều khó có thể hoạt động hiệu quả trong tình trạng nền kinh tế có lạm phát cao
và bất ổn. Mặc dù các công cụ được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát có thể làm
giảm thiểu các vấn đề gây ra bởi lạm phát vừa phải, nhưng mọi cơ chế điều chỉnh
theo chỉ số giá rồi cũng sẽ có xu hướng bị phá vỡ khi lạm phát gia tăng cao. Với sự
tăng tốc của lạm phát, sự điều chỉnh giá phải được thực hiện trong khoảng thời gian
càng lúc càng ngắn, nếu không người nắm giữ các công cụ tài chính được điều
chỉnh theo chỉ số giá sẽ chịu thiệt hại lớn từ sự xói mòn về giá trị thực của tài sản
của họ.
Bên cạnh đó, việc cân đối NSNN cũng đóng vai trò quan trọng trong chính
sách kinh tế của quốc gia. Chính phủ các nước có thâm hụt ngân sách lớn và thường
xuyên kéo dài thì khó có thể tài trợ bằng cách đi vay cũng như phát hành trái phiếu
mới và buộc phải phát hành tiền khiến cho diễn biến của lạm phát càng trở nên trầm
trọng.
2.4.3 Các vấn đề về xã hội học
Về mặt xã hội học: tình trạng già hóa dân số có ảnh hưởng quan trọng đối
với sự bền vững của hệ thống hưu trí và chăm sóc sức khỏe, hiệu suất kinh tế, cung
ứng lao động, việc tiết kiệm và hình thành vốn, nghèo đói, và sự bất bình đẳng giữa
các thế hệ (Lee, Mason & Park, 2011).
Đối với các nhà hoạch định chính sách, tình trạng già hóa dân số dẫn đến hai
mục tiêu chiến lược lớn mà đôi khi giữa chúng cũng có sự xung đột sâu sắc. Trong
đó, mục tiêu thứ nhất là phải phát triển hệ thống kinh tế xã hội nhằm cung cấp an
toàn về mặt kinh tế cho số lượng người cao tuổi ngày càng gia tăng và mục tiêu thứ
hai là phải duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nhằm đối mặt với tình trạng già hóa
dân số trong vài thập kỷ tới. Để thành công trong việc đạt được hai mục tiêu này đòi
47
hỏi các chính sách khuyến khích tiết kiệm, đầu tư vào nguồn vốn con người, thị
trường tài chính và thị trường lao động hoạt động tốt và tính ổn định của các yếu tố
kinh tế vĩ mô.
Do đó, Chính phủ các nước thường tìm biện pháp để đối phó với vấn đề dân
số già. Chẳng hạn ở các quốc gia thuộc Châu Âu, các giải pháp của Chính phủ cụ
thể như sau: (i) Gia tăng tỷ lệ tham gia thị trường lao động bằng cách cho phép
những người có độ tuổi trên 65 có thể tiếp tục làm việc; (ii) nâng cao tuổi nghỉ hưu
bằng cách đề xuất tăng đến 67, trong đó tuổi nghỉ hưu có thể được liên kết với tuổi
thọ của người lao động; (iii) tăng tầm quan trọng của khu vực tư nhân trong việc
cung cấp lương hưu và chăm sóc y tế, tuy nhiên điều này có thể gây ra sự bất bình
đẳng gia tăng nếu người lao động không có khả năng mua các bảo hiểm hưu trí tự
nguyện này; (iv) tăng thuế để trả cho các chi phí lương hưu, nhưng không phải
Chính phủ quốc gia nào cũng có ngân sách dồi dào để trang trải; (v) khuyến khích
người nhập cư trẻ tuổi đến làm việc được xem là giải pháp đơn giản nhất, nhưng
thực tế cho thấy việc lượng nhập cư thuần và di chuyển tự do của lao động là
không phổ biến vì những lo ngại có thể xảy ra như tiền lương sẽ bị đẩy xuống thấp
và tình trạng căng thẳng về cơ sở hạ tầng và nhu cầu nhà ở (Economicshelp, 2016).
2.4.4 Mức độ phát triển của thị trường tài chính
Việc phát triển các nhà đầu tư tổ chức với sự phát triển của thị trường tài
chính cũng có mối quan hệ tác động hai chiều. Sự phát triển của một cơ sở nhà đầu
tư tổ chức trong nước khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn hiện đại, và
ngược lại, việc mở rộng khu vực nhà đầu tư tổ chức đòi hỏi sự tồn tại của một cơ sở
hạ tầng thị trường tài chính phức tạp (Blommestein, 1997; Vittas, 2000; Impavido,
Musalem & Tresselt, 2003).
Việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thị trường tài chính tập trung vào sự phát
triển của ngành quản lý gia sản và cấu trúc đa nguyên các nhà đầu tư tổ chức. Bên
cạnh đó, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng còn phải giới thiệu được các thỏa thuận giao
dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh vi; có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin cậy
và hiệu quả, bao gồm một trung tâm lưu ký hoạt động tốt; có hệ thống thanh toán
48
liên ngân hàng có giá trị lớn, hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin cậy; và có
một hệ thống ngân hàng vững chắc.
Từ đó, bên cạnh sự kết hợp của các tiềm năng phát triển tự nhiên của ngành
(ví dụ như là thông qua sự gia tăng về mức sống, việc nhập khẩu công nghệ tài
chính hiện đại …) và loại bỏ các trở ngại trong chính sách, việc hiện đại hóa cơ sở
hạ tầng thị trường tài chính cũng sẽ góp phần thúc đẩy thêm đối với sự phát triển
hoạt động của các tổ chức đầu tư trong nước, nhất là tại các thị trường mới nổi.
2.4.5 Các quy định pháp lý
Khung pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khuôn khổ các
nguyên tắc hoạt động theo pháp luật đối với các tổ chức đầu tư trên thị trường, bao
gồm cả các bên liên quan (cơ quan quản lý giám sát, công ty bảo hiểm nhân thọ,
công ty quản lý quỹ, quỹ hưu trí tự nguyện, tổ chức lưu ký, ngân hàng giám sát, đại
lý hưu trí, tài khoản hưu trí cá nhân, chương trình hưu trí tự nguyện dành cho
nhóm/cá nhân). Do đó, để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện, việc thiết lập khung
pháp lý cần chú trọng đến các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về công khai tài chính và
các nguyên tắc kế toán được cải thiện; thực thi có hiệu quả hơn các tiêu chuẩn và
nguyên tắc này; thực hiện quy tắc giao dịch bên trong và các quy định bảo vệ nhà
đầu tư; sự cân bằng giữa quy định pháp luật với các thỏa thuận tự quy định có tính
đến năng lực của các tổ chức tự quy định và các xung đột về lợi ích tiềm tàng (bao
gồm cả những vấn đề liên quan đến năng lực và đạo đức của người đại diện quản lý
tài sản quỹ hưu trí tự nguyện khi có sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở
hữu). Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật và các quyền về quản lý tài sản cũng cần
được quy định đầy đủ và thích hợp, tập trung vào quy định về sự đối xử công bằng
của tất cả các cổ đông, trách nhiệm quản lý tốt hơn cho các cổ đông; ghi nhận đăng
ký quyền sở hữu chứng khoán độc lập nhằm tránh sự thao túng và các gian lận bởi
quản lý hoặc trong nội bộ (Blommestein, 1997; Impavido, Musalem & Tresselt,
2003; Hryckiewicz, 2009; Franzen, 2010).
Thêm vào đó, quy định định lượng cho việc nắm giữ danh mục đầu tư được
áp dụng cho quỹ hưu trí nhằm bảo vệ người thụ hưởng hay công ty bảo hiểm thụ
hưởng từ quỹ hưu trí và góp phần tạo ra nhu cầu ổn định cho các TPCP ở một số
49
quốc gia. Các giới hạn này thường được áp đặt đối với việc nắm giữ các cổ phiếu,
bất động sản và tài sản nước ngoài vốn có suất sinh lời kỳ vọng cao nhưng thường
biến động hơn so với TPCP. Bên cạnh đó, giới hạn về tự đầu tư cũng thường được
áp dụng nhằm bảo vệ trước rủi ro mất khả năng thanh toán của nhà tài trợ. Một số
quốc gia không áp đặt giới hạn định lượng nhưng lại áp đặt quy tắc cẩn trọng trong
quyết định đầu tư nhằm thực hiện việc đầu tư một cách thận trọng, chuyên nghiệp,
giàu kinh nghiệm và được đào tạo bài bản về các vấn đề tài chính và tín thác. Theo
đó, việc đầu tư không chỉ quan tâm đến tỷ suất sinh lời của danh mục để gia tăng
giá trị tài sản của quỹ mà cần khuyến khích đầu tư vào các công ty chú trọng đến
trách nhiệm với tính bền vững của xã hội và môi trường, cũng như tăng cường tính
minh bạch trong quá trình hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện.
Đồng thời, việc quy định mức tài trợ tối thiểu cũng được thực thi nhằm bảo
vệ người thụ hưởng trước rủi ro vỡ nợ của công ty do mức tài trợ quá thấp, dẫn đến
tình trạng quỹ có giá trị ít hơn hiện giá của lợi ích được hứa hẹn. Quy tắc tài trợ này
là khía cạnh chính yếu trong quy định của quỹ hưu trí theo mô hình DB. Riêng quỹ
hưu trí theo mô hình DC thì luôn được cấp vốn hoàn toàn từ người đóng góp. Tuy
nhiên, với chương trình theo mô hình DB cần phải thực hiện sự phân biệt giữa
chương trình hưu trí (nghĩa là các quyền xác định theo hợp đồng của các bên) và
quỹ hưu trí (nghĩa là tập hợp tài sản đóng góp để cung cấp sự bảo đảm cho những
lợi ích được hứa hẹn) (Blommestein, 1997).
Đối với các quốc gia phát triển, tình trạng già hóa dân số nhanh chóng thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống hưu trí được tài trợ và tạo động lực tìm
kiếm lợi nhuận tối đa thông qua việc đa dạng hóa mang tính toàn cầu đối với tài sản
của các quỹ hưu trí, đồng thời đáp ứng lợi ích tương hỗ khi đầu tư vào các TTCK
mới nổi của các nước đang phát triển có nhu cầu về vốn. Do đó, tại các quốc gia
phát triển, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải dỡ bỏ các quy định pháp lý quan
trọng cùng với những rào cản thị trường để giải phóng tài sản của quỹ hưu trí được
tự do hóa hơn nhằm hướng tới việc tìm kiếm sự kết hợp tốt nhất giữa rủi ro và lợi
nhuận. Cụ thể là bãi bỏ các quy định hạn chế đầu tư, đặc biệt đối với những quy
định cản trở việc đầu tư vào các quốc gia có xu hướng nhân khẩu học thuận lợi hơn.
50
Sau đó, các nhà quản lý quỹ sẽ gia tăng phần đầu tư vào thị trường mới nổi trong
danh mục, trong đó tập trung vào các thị trường có chỉ số P/E còn thấp (hàm ý về
các cơ hội chưa được khai thác). Điều này sẽ đòi hỏi một sự đại diện đầy đủ của các
TTCK mới nổi trong bảng đối sánh hiệu quả hoạt động liên quan đến lĩnh vực thu
nhập hưu trí (Fischer & Reisen, 1994).
Đối với các quốc gia đang phát triển, việc tập trung vào các quy định bảo
đảm quyền tài sản (tính vẹn toàn của tài sản) và tính thanh khoản của TTCK là cần
thiết nhằm thu hút mối quan tâm đầu tư từ quỹ hưu trí, đặc biệt là từ các nhà đầu tư
tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, quá trình cổ phần hóa hóa các doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước và niêm yết trên TTCK nhằm tạo độ sâu của TTCK của các quốc
gia đang phát triển cũng được thúc đẩy mạnh mẽ.
2.4.6 Xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới
Các quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải cách hệ thống hưu trí của mình
theo thời gian. Trong đó, các quốc gia tiến hành cải cách hệ thống hưu trí theo mô
hình đa trụ cột (WB 2008; Holzmann, Hinz & Dorfman, 2008; Holzmann, 2012;
Khuất Thị Kiều Vân, 2013) và có xu hướng gia tăng việc cung cấp thu nhập hưu trí
theo mô hình DC (WB, 1994; Blommestein, 1997; OECD, 2004; WB, 2008; Hinz,
Rudolph, Antolín & Yermo, 2010; OECD, 2011; Holzmann, 2012; Mishkin, 2012).
Nguyên nhân của xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới là do trong
tình trạng dân số già, hệ thống hưu trí công thuộc hệ thống hưu trí không được tài
trợ (public unfunded pension system) và hoạt động theo cơ chế PAYG với mô hình
tài chính DB vốn dĩ có chi phí chi trả lương hưu cao, dự kiến sẽ còn gia tăng đáng
kể khiến cho áp lực chi trả thu nhập hưu trí ngày càng nặng nề đối với NSNN trong
những thập kỷ tới. Điều này sẽ làm thâm hụt NSNN, từ đó dẫn tới tác động tiêu cực
đến tổng thể tài chính công. Hình 2.2 cho thấy trong năm 2015, tỷ lệ chi phí trả cho
thu nhập hưu trí của một số khu vực trên thế giới chiếm tỷ trọng đáng kể so với
GDP, trong đó, tỷ lệ chi trả cho thu nhập hưu trí ở khu vực Châu Âu là cao hơn so
với khu vực Châu Mỹ và Châu Á. Tỷ lệ này dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên theo thời
gian (Allianz, 2016).
51
Hình 2.2 Chi phí trả cho thu nhập hưu trí của một số quốc gia theo các khu
vực trên thế giới năm 2015 và và dự báo năm 2050.
(Đvt: % GDP).
Nguồn: Allianz (2016).
Xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới có thể được thực hiện theo
ba hình thức khác nhau, đó là (i) cải cách các tham số; (ii) cải cách theo kế hoạch có
mức đóng góp xác định danh nghĩa (Notional Defined Contribution - NDC); (iii) và
cải cách toàn hệ thống. Cụ thể như sau:
Cải cách các tham số
Cải cách này tập trung vào các tiêu chuẩn, tiêu chí của yếu tố cấu thành trong
kế hoạch hưu trí, chẳng hạn như tăng tuổi nghỉ hưu bình thường, thắt chặt điều kiện
hưu trí đối với việc về hưu sớm và trợ cấp an sinh xã hội (bệnh tật, tai nạn lao động
…), hạ thấp các tỷ lệ lợi ích, gia tăng thuế thu nhập cá nhân, chống trốn thuế thu
nhập cá nhân, và nâng cao hiệu quả quản lý của các tổ chức an sinh xã hội, nhằm
mục đích ngăn chặn sự sụp đổ tài chính của hệ thống an sinh xã hội truyền thống
không được tài trợ.
Trong hai thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã thực hiện cải cách các tham số cho
hệ thống hưu trí. Trong đó, việc tăng tuổi nghỉ hưu là một tham số thường được
xem xét phổ biến do tính đơn giản trong việc thiết kế giải pháp. Ngoài việc tăng
tuổi nghỉ hưu, các quốc gia thiết kế các biện pháp để giảm tỷ lệ thay thế (ví dụ như
thay đổi cách tính lương hưu, mở rộng cơ sở đánh giá, việc thay đổi cơ chế điều
52
chỉnh). Bằng cách này, các quốc gia đã tìm cách cải thiện tính bền vững lâu dài của
hệ thống hưu trí. Tuy nhiên, việc làm giảm tỷ lệ thay thế cũng mang lại mặt tiêu cực
là đói nghèo lúc già trong khi thu nhập hưu trí quá thấp. Lúc này, việc tài trợ cho
các chương trình phúc lợi có thể sẽ gây áp lực nhiều hơn lên tài chính công nếu
quốc gia đó không có hệ thống hưu trí được tài trợ bổ sung nhằm củng cố tỷ lệ thay
thế rất thấp của chính quốc gia mình. Từ đó cho thấy cách thức cải cách các tham số
có thể áp dụng chủ yếu để đối phó với sự mất cân bằng tài khóa trong ngắn hạn mà
không chỉ ra được những méo mó trong động cơ kinh tế từ hệ thống hưu trí có mối
liên kết yếu giữa sự đóng góp và lợi ích.
Cải cách theo kế hoạch có mức đóng góp xác định danh nghĩa (NDC)
Cải cách này được tiến hành nhằm để loại bỏ các biến dạng của thị trường
lao động do trốn thuế thu nhập cao và sự phát triển của thị trường lao động không
chính thức. Mô hình NDC được tài trợ trên cơ sở PAYG là một trong những cách
tiếp cận mới và thay thế chính cho chương trình PAYG truyền thống với mô hình
DB (và không được tài trợ). So với các chương trình PAYG theo mô hình DB, mô
hình NDC tạo ra một liên kết rõ ràng hơn giữa đóng góp và trợ cấp cho thu nhập
hưu trí cuối cùng. Nhưng mặt trái của vấn đề này là nó cung cấp lợi ích đối với thu
nhập hưu trí ít đầy đủ hơn cho người lao động có mức lương thấp do thiếu phân
phối lại thu nhập. Bên cạnh đó, mặc dù gánh nặng tài khóa của quá trình chuyển đổi
là ít hơn nhưng chương trình hưu trí theo mô hình NDC thiếu rất nhiều những lợi
ích kinh tế tiềm năng nếu so sánh với chương trình theo mô hình DC, chẳng hạn
như đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Cải cách toàn hệ thống
Cải cách các tham số và cải cách theo mô hình NDC đều không tạo ra được
tiết kiệm dài hạn hoặc có bất kỳ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thị trường
tài chính. Chỉ có cải cách toàn hệ thống liên quan đến việc tạo lập các chương trình
hưu trí được tài trợ (funded pension) mới đem lại các hiệu ứng này. Trong điều kiện
được hậu thuẫn bởi hệ thống ngân hàng và TTCK phát triển tốt hơn, cải cách toàn
hệ thống hưu trí sẽ tạo nên sự đóng góp độc lập và bổ sung đối với tăng trưởng kinh
tế cao hơn, đến lượt mình, cải cách toàn hệ thống hưu trí sẽ thúc đẩy tăng trưởng
53
kinh tế bằng cách giảm thiểu quy mô kích thước của thị trường lao động không
chính thức.
Dù áp dụng hình thức nào, xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới
đều nhằm hướng tới ba mục tiêu sau:
Mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của việc cải cách hệ thống hưu trí chính
là nhằm cung cấp các lợi ích đầy đủ, có giá cả hợp lý và bền vững trong vấn
đề bảo đảm toàn diện an sinh xã hội. Đây cũng là lý do chính yếu để các
quốc gia tiến hành cải cách hệ thống hưu trí. Để đạt được mục tiêu này, các
kế hoạch hưu trí được điều hành bởi khu vực tư nhân và được tài trợ từ sự
đóng góp của người lao động có vai trò ảnh hưởng sâu rộng đến hiệu quả của
thị trường tài chính. Từ những tác động này có thể đem lại những lợi ích
tiềm năng rộng lớn hơn, bao hàm cả tăng trưởng kinh tế về sau.
Mục tiêu thứ hai của cải cách hệ thống hưu trí là tạo ra một liên kết mạnh mẽ
giữa đóng góp và lợi ích để giảm thiểu bất kỳ sự thay đổi trên thị trường lao
động và tránh phân phối lại một cách thất thường và khác biệt do sự biến
động từ lạm phát. Để đạt được mục tiêu này, chỉ cần tạo lập các quỹ hưu trí
tự nguyện theo mô hình DC hoặc điều chỉnh việc áp dụng thu nhập suốt đời,
giảm đi bớt các lợi ích được tính vào giai đoạn cuối thời kỳ lao động, và trao
quyền đầy đủ và tính di động trong trường hợp của kế hoạch theo mô hình
DB.
Mục tiêu thứ ba là tạo ra hoạt động tiết kiệm dài hạn nhằm kích thích sự phát
triển của thị trường vốn. Việc sử dụng kế hoạch hưu trí được tài trợ góp phần
làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước, làm thay đổi các thành phần của tài
sản tài chính và gia tăng cung về tập hợp hợp đồng tiết kiệm dài hạn.
Do đó, phát triển hệ thống hưu trí được tài trợ thông qua khuyến khích phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC đang được các quốc gia trên thế giới
hướng đến nhằm bổ sung hoàn thiện hệ thống hưu trí của mình bên cạnh hệ thống
hưu trí công. Trong đó, quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC gồm có hai dạng cơ
bản là (i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ là dạng quỹ
hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử dụng lao
54
động đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng, người lao
động không bắt buộc phải tham gia; và (ii) Quỹ hưu trí cá nhân theo mô hình DC
được thành lập bởi các tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm nhân thọ) áp
dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ thống quy định của pháp
luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị trường và được khuyến
khích bởi chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Nhà nước (WB, 2008).
2.4.7 Vấn đề về môi trường
Bên cạnh các hành vi gây nguy hiểm cho sức khỏe (hút thuốc lá, sử dụng quá
nhiều chất cồn, không vận động thể lực), tình trạng ô nhiễm môi trường gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người. Theo thời gian, người lao động
còn có thể phải đối mặt với nhiều bệnh mạn tính gây ra khuyết tật đáng kể khiến
cho người lao động không thể duy trì hoạt động trong lực lượng lao động lâu dài và
phải sống trong với nhiều hỗ trợ chăm sóc sức khỏe hoặc can thiệp y tế thường
xuyên (UN, 2015). Điều này sẽ làm gia tăng gánh nặng tài chính cho việc chăm sóc
y tế của cá nhân, gia đình, gia tăng chi phí an sinh xã hội, đặc biệt là khi về già. Do
đó, nhu cầu cho sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi về già,
dịch vụ bảo hiểm hưu trí là rất lớn và góp phần làm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trong nền kinh tế.
2.4.8 Các vấn đề về nhân khẩu học
Về mặt nhân khẩu học, tình trạng già hóa dân số phản ánh sự kết hợp của tỷ
lệ sinh sản thấp và đang giảm dần cùng với việc gia tăng tuổi thọ. Tiêu chuẩn sinh
hoạt cao hơn và các điều kiện xã hội thay đổi nhanh chóng (ví dụ như đô thị hóa,
chăm sóc y tế …) cho phép mọi người sống lâu hơn và các gia đình có ít con hơn.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, sự giảm sút số lượng người tham gia lao
động sẽ dẫn đến một sản lượng đầu ra thấp hơn. Đến một mức độ nào đó, các chính
sách như (i) cho phép nhập cư, (ii) khuyến khích nữ giới tham gia nhiều hơn vào
lực lượng lao động và (iii) nâng cao tuổi nghỉ hưu có thể bù đắp cho sự suy giảm
tiềm năng trong lực lượng lao động, nhưng tình trạng già hóa dân số vẫn sẽ có tác
động bất lợi về cung lao động (OECD, 2014). Đồng thời, tình trạng già hóa theo
thời gian sẽ (i) làm giảm đi các khoản tiết kiệm hoặc (ii) việc nắm giữ trái phiếu
55
được áp dụng thay cho việc nắm giữ cổ phiếu khi tỷ lệ dân số trên 65 tuổi trở nên
cao hơn (Kim, 2010; Raisa, 2012).
Sự gia tăng tuổi thọ tính tại thời điểm sinh và thời điểm đạt 65 tuổi ở một số
quốc gia trên thế giới giai đoạn 1950 - 2012 cho thấy dân số có xu hướng sống lâu
hơn và xu hướng này ngày càng gia tăng với độ tuổi trung bình trong quãng thời
gian sống đạt tới mức 80 - 85 tuổi trong khi việc nghỉ hưu theo quy định hay thực
thi trung bình trên thế giới vào khoảng 55 đến 65 tuổi (OECD, 2014). Với tình trạng
già hóa này, mỗi người lao động sẽ phải hỗ trợ ngày càng nhiều người nghỉ hưu
dưới hệ thống hưu trí và chăm sóc sức khỏe công và khó tạo ra sự thuận lợi từ xu
hướng nhân khẩu học đến tăng trưởng kinh tế được như trong quá khứ.
Theo hình 2.3, mặc dù dân số già là hiện tượng trên toàn thế giới, nhưng tình
trạng và tốc độ già hóa dân số ở các nước khác nhau cũng khác nhau đáng kể. Sự
thay đổi này có thể được phân tích bằng tỷ lệ dân số già hóa (thường được tính toán
từ số người già từ trên 65 tuổi trở lên so với 100 người thuộc độ tuổi lao động). Tỷ
lệ dân số già hóa là khá cao tại các quốc gia Châu Âu, và thấp hơn tại các quốc gia
thuộc khu vực dân số trẻ hơn (Châu Mỹ Latin và Châu Á) cũng như Châu Phi.
Hình 2.3 Tỷ lệ dân số già hóa theo khu vực năm 2015 và dự báo năm 2050.
(Đvt: %).
Nguồn: Allianz (2016).
56
Kết luận Chương 2
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của Chương 2, luận án đã hệ thống
hóa cơ sở lý luận về quỹ hưu trí tự nguyện và vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ
thống hưu trí của quốc gia cũng như phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.
Theo đó, quỹ hưu trí tự nguyện góp phần hoàn thiện hệ thống hưu trí của quốc gia
hướng tới mục tiêu an sinh xã hội cho người già khi về hưu. Đồng thời, luận án
cũng đã cho thấy sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là nhằm
(i) đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường; (ii) phát triển cơ sở nhà đầu tư
tổ chức; (iii) tạo nguồn cung ứng vốn ổn định và dài hạn; và (iv) góp phần phát triển
TTCK.
Quỹ hưu trí tự nguyện gồm hai dạng cơ bản là (i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do
người sử dụng lao động tài trợ và (ii) Quỹ hưu trí cá nhân theo mô hình DC được
thành lập bởi các tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm nhân thọ) (WB,
2008).
Quỹ hưu trí tự nguyện có tập hợp tài sản được hình thành từ nguồn tiết kiệm
theo hợp đồng thỏa thuận của người tham gia các chương trình hưu trí tư nhân, cụ
thể là từ các chương trình hưu trí nghề nghiệp tự nguyện hay các kế hoạch hưu trí cá
nhân tự nguyện. Các chương trình hưu trí tự nguyện được áp dụng theo mô hình DB
hay mô hình DC đều có sự khác biệt nhau rõ rệt trong mức chi trả và người gánh
chịu rủi ro đầu tư tài chính. Tuy nhiên, trong mô hình DC, người đóng góp sẽ là
người gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính và mức chi trả phụ thuộc không những vào
mức đóng góp mà còn phụ thuộc cả vào lợi nhuận đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.
Điều này sẽ làm giảm gánh nặng tài chính của người chủ lao động, thậm chí đối với
cả Chính phủ khi hệ thống hưu trí công PAYG hiện tại là theo mô hình DB và
không được tài trợ. Chính vì vậy mà các chương trình hưu trí tự nguyện theo mô
hình DC ngày càng được khuyến khích phát triển.
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của chương 2, luận án cũng đã giới
thiệu tiêu chí được các nhà nghiên cứu sử dụng nhằm làm cơ sở để đánh giá sự phát
triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Theo đó, tiêu chí thường được dùng để
phân tích chính là quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện. Tuy nhiên, tùy thuộc
57
vào mục tiêu nghiên cứu mà quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện có thể được
tính toán và biểu hiện dưới các hình thức biến số đa dạng, ví dụ như tỷ lệ tài sản tài
chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP hoặc là tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ
hưu trí tự nguyện so với tổng tài sản tài chính trong nền kinh tế.
Theo lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan cũng đều cho thấy
quỹ hưu trí tự nguyện có vai trò tích cực trong sự phát triển của TTCK. Việc phát
triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện và phát
triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư chính trên TTCK là một trong những giải
pháp quan trọng hướng tới việc làm gia tăng số lượng nhà đầu tư tổ chức, từ đó tạo
thêm nguồn cầu đáng kể đối với các sản phẩm đầu tư tài chính trên TTCK và góp
phần làm gia tăng thu nhập hưu trí đối với người nghỉ hưu khi về già. Như vậy,
việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là cần thiết, không những góp phần
đáp ứng nhu cầu của xã hội và thị trường, mà còn góp phần phát triển TTCK, tăng
trưởng kinh tế.
Trong khuôn khổ nội dung Chương 2, các điều kiện để phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện cũng được phân tích và tổng hợp theo mô hình PESTLIED. Trong đó, các
yếu tố vĩ mô (external macro-economic factors), bao gồm (i) yếu tố lạm phát và tính
ổn định của kinh tế vĩ mô; (ii) hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK; (iii) quy định
pháp lý về hoạt động đầu tư và phân bổ tài sản là các điều kiện kiểm soát được các
nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tại các quốc
gia trên thế giới thừa nhận đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện trên TTCK (Fischer & Reisen, 1994; Blommestein, 1997; Vittas, 2000;
Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl &
Niggemann, 2010; Raisa, 2012).
58
CHƯƠNG 3. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN: BÀI HỌC KINH
NGHIỆM TỪ CÁC NỀN KINH TẾ APEC
Trong chương 3, luận án tiến hành thống kê mô tả dữ liệu và phương pháp
nghiên cứu xử lý dữ liệu có cấu trúc bảng không cân bằng (unbalanced data) bằng
mô hình định lượng nhằm đánh giá mức độ tác động của quỹ hưu trí tự nguyện đến
TTCK tại các nền kinh tế thuộc APEC. Qua đó, luận án trình bày các kết quả
nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển
TTCK nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam.
3.1 Giới thiệu tổng quan
3.1.1 Các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific - APAC) bao gồm các
quốc gia có vị trí địa lý nằm gần phía Tây của Thái Bình Dương, hay mở rộng ra
đối với phần lớn Châu Á và các quốc gia nằm trong vành đai Thái Bình Dương. Tên
gọi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được biết đến phổ biến thông qua giao
thương quốc tế, hợp tác kinh tế quốc tế, trong đó, nổi bật là tổ chức Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation -
APEC) được thành lập từ năm 1989. Quá trình hợp tác APEC chủ yếu quan tâm đến
các vấn đề kinh tế và thương mại và hiện có 212 thành viên tham gia với nhau như
những thực thể kinh tế.
Vào năm 2015, tổng dân số của các nền kinh tế APEC chiếm 39% dân số thế
2 Các nền kinh tế thành viên xếp theo thứ tự bảng chữ cái: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile,
People's Republic of China, Hong Kong, Indonesia, Japan, Republic of Korea, Malaysia, Mexico, New
Zealand, Papua New Guinea, Peru, The Philippines, Russia, Singapore, Chinese Taipei, Thailand, The United
States, Việt Nam.
giới, trong đó China chiếm tỷ lệ lớn nhất với 19% dân số, theo sau là US với 4% và
59
Indonesia với 3%; các nền kinh tế APEC chiếm 59% GDP danh nghĩa, tương đương
giá trị 43 nghìn tỉ USD, trong đó riêng The United States (US) và China đã chiếm
39% tổng GDP toàn cầu của thế giới; giao thương hàng hóa và dịch vụ thương mại
của các nền kinh tế APEC đạt 20 nghìn tỷ USD, gần một nửa (48%) tổng thương
mại thế giới, trong đó China, Japan và US chiếm 26% thương mại toàn cầu (APEC,
2016).
Sự phát triển của thị trường tài chính của các nền kinh tế thuộc APEC theo
bảng xếp hạng của WEF (2008 - 2016) có sự phân hóa rõ rệt về sự phát triển của thị
trường tài chính. Việt Nam là nền kinh tế thành viên của APEC từ năm 1998 nhưng
thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn trong nhóm cuối của bảng xếp hạng chỉ số
cạnh tranh toàn cầu và còn cách biệt rất xa so với các nền kinh tế còn lại của APEC
cũng như trên thế giới.
hết sức quan trọng đối với Việt Nam, là cơ chế hợp tác kinh tế đầu tiên ở tầm Châu Á -
Thái Bình Dương mà Việt Nam tham gia kể từ khi bước vào công cuộc Đổi mới, là minh
chứng về chủ trương hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện của đất nước.
Nhiều nền kinh tế thành viên của APEC là những hình mẫu của thế giới về liên kết và tăng
trưởng kinh tế. Do đó, tham gia hợp tác APEC, Việt Nam có điều kiện học tập kinh
nghiệm, góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, làm tốt
hơn quá trình chuẩn bị trong nước để tận dụng cơ hội của các liên kết kinh tế quốc tế thế hệ
mới mà Việt Nam là thành viên. Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm từ phát triển quỹ
Là Diễn đàn hợp tác phát triển năng động nhất trên thế giới, APEC có ý nghĩa
hưu trí tự nguyện trên TTCK tại các nền kinh tế APEC là một trong những cơ sở để
tác giả đề xuất khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
3.1.2 Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và thị trường cổ phiếu
nội địa tại các nền kinh tế APEC
Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải cách hệ thống hưu trí và đang
trong quá trình chuyển đổi hệ thống hưu trí. Các nền kinh tế APEC cũng thực hiện
việc cải cách hệ thống hưu trí dựa trên nhu cầu, sự ưu tiên và khả năng của mình và
hầu hết đều hướng tới mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, trong đó, thúc đẩy sự
phát triển của trụ cột III là hệ thống hưu trí theo mô hình DC (được tài trợ và mang
60
tính chất tự nguyện đóng góp), đồng thời góp phần tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của các quỹ hưu trí tự nguyện trong các nền kinh tế APEC theo thời gian (WB,
1994, Willmore, 2000; Holzmann & Hinz, 2005; OECD, 2007; WB, 2008; OECD,
2009; Park & Estrada, 2013; Howell, Wang & Shand, 2014, 2014; Alllianz, 2016).
Cùng với sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, việc quản lý tài
sản của các quỹ hưu trí tự nguyện cũng thay đổi tùy theo quy định của nền kinh tế
APEC áp dụng đối với quỹ hưu trí tự nguyện, cơ cấu ngành của lĩnh vực quản lý tài
sản và nhu cầu đối với chứng khoán. Ngoài ra, các quỹ hưu trí tự nguyện ở các nền
kinh tế APEC cũng có thể đầu tư theo cách khác nhau do sự khác biệt trong hệ
thống tài chính về việc thực hiện các chức năng như thanh toán, tập hợp tài sản vào
quỹ, phân bổ các nguồn lực giữa các thời điểm và các lĩnh vực khác nhau, phối hợp
việc ra quyết định phân quyền thông qua phát hiện và báo hiệu giá.... Chính vì vậy,
các quỹ hưu trí tự nguyện của các nền kinh tế APEC cũng có sự khác biệt về đặc
*RUS: Russia (2009 - 2015), CHN: China (2004 - 2015), SGN: Singapore (2000 - 2014), PHL: Philippines
(2014 - 2015), VNM: Việt Nam (n/a), PNG: Papua New Guinea (n/a), TAI: Taipei (n/a), BRN: Brunei (n/a).
điểm hành vi và danh mục đầu tư (OECD, 2007; Alllianz, 2016).
Hình 3.1 Tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với quy mô vốn hóa thị
trường cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC năm 2000 và 2015.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ WB (2000 - 2017).
61
Thông qua hình 3.1 cho thấy tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so
với quy mô vốn hóa TTCK niêm yết nội địa trung bình trên toàn thế giới đã có sự
gia tăng đáng kể từ 17% vào năm 2000 lên đến 24% vào năm 2015. Trong khi đó, ở
các nền kinh tế APEC được mô tả, tỷ lệ này đều có sự tăng trưởng nhanh chóng
đáng kể qua giai đoạn 2000 đến năm 2015. Các nền kinh tế có quy mô tài sản quỹ
hưu trí tự nguyện chiếm tương ứng trên 24% so với quy mô vốn hóa thị trường
niêm yết nội địa vào năm 2015 là các nền kinh tế Australia, Chile, Peru, US, New
Zealand, Mexico và Japan.
(2014 - 2015), VNM: Việt Nam (n/a), PNG: Papua New Guinea (n/a), TAI: Taipei (n/a), BRN: Brunei (n/a).
*RUS: Russia (2009 - 2015), CHN: China (2004 - 2015), SGN: Singapore (2000 - 2014), PHL: Philippines
Hình 3.2 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu
trí tự nguyện và của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa tại các nền
kinh tế APEC giai đoạn năm 2000 đến 2015.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ WB (2000 - 2017).
Hình 3.2 cho thấy trong giai đoạn 2000 - 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trung bình trên thế giới vào
khoảng 8%/năm, tăng gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa trung bình trên thế giới. Tại các nền
kinh tế APEC được mô tả, trong giai đoạn 2000 - 2015, tốc độ tăng trưởng bình
quân của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện hàng năm đều cao hơn tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa, ngoại
62
trừ tại Thailand, Singapore, Philippines, Indonesia. Như vậy, qua số liệu mô tả giai
đoạn 2000 - 2015 đã cho thấy sự tăng trưởng ngoạn mục của các quỹ hưu trí tự
nguyện trên thế giới nói chung và tại các nền kinh tế APEC nói riêng. Các quỹ hưu
trí tự nguyện đã tăng trung bình 5,5%/năm trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm
2015 về quy mô tài sản, trong khi vốn hóa TTCK tại các nền kinh tế APEC được
mô tả tăng trung bình khoảng 3%/năm.
Vậy, liệu tăng trưởng về quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện đã góp
phần dẫn đến sự phát triển của TTCK tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn
2000 – 2015? Có thể đề xuất khuyến nghị nào cho sự phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam? Vấn đề này đưa tới nhiệm vụ tìm kiếm lời giải đáp thông qua
quá trình tiến hành nghiên cứu thực nghiệm của đề tài.
Đồng thời, trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu
trí tự nguyện trên TTCK, bên cạnh tiêu chí quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện là
biến đại diện cho sự phát triển quỹ hưu trí tự nguyện thì các yếu tố lượng hóa, cụ
thể hóa các điều kiện có tác động đến sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện cũng
như sự phát triển của TTCK thường được lựa chọn và sử dụng để phân tích và xây
dựng mô hình hồi quy nhằm phân tích đánh giá tác động của phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK là (i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn
trên thị trường TPCP; (iii) GDP bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v)
tỷ lệ người già trên 100 người trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem &
Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa,
2012).
3.2 Mô tả dữ liệu
3.2.1 Về không gian nghiên cứu
Đề tài đo lường tác động tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự
phát triển của thị trường vốn bằng phương pháp nghiên cứu định lượng với các yếu
tố vĩ mô đóng vai trò là các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy bộ dữ liệu cho 21
nền kinh tế thuộc APEC. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bộ dữ liệu của 21 nền
kinh tế nhằm loại bỏ các giá trị bị thiếu vắng thông qua công cụ Stata 11, bộ dữ liệu
chỉ cỏn lại 17 nền kinh tế thành viên là Autralia, Canada, Chile, China, Korea, US,
63
New Zealand, Mexico, Japan, Russia, Indonesia, Peru, Malaysia, Philippines,
Singpapore, Thailand, Hong Kong) là có dữ liệu đáp ứng đầy đủ và thuận lợi để
phục vụ nghiên cứu. Theo đó các nền kinh tế thuộc APEC bao gồm Việt Nam,
Papua New Guinea, Taipei, Brunei vẫn chưa được mở rộng nghiên cứu đến do hạn
chế về mặt số liệu. Ngoài ra, đối với trường hợp Hồng Kông, nền kinh tế có TTCK
đã phát triển mạnh mẽ thể hiện qua quy mô vốn hóa có giá trị cao vượt trội trong
mối tương quan so với các nền kinh tế còn lại, đồng thời giá trị tài sản quỹ hưu trí tự
nguyện tại nền kinh tế này là chiếm tỷ trọng đóng góp ít so với quy mô vốn hóa thị
trường nên bộ dữ liệu tiếp tục được xử lý nhằm loại bỏ giá trị ngoại lai để hạn chế
những ảnh hưởng thiên lệch đối với kết quả của nghiên cứu (PHỤ LỤC 5).
3.2.2 Về thời gian nghiên cứu
Kể từ cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, trên thị
trường tài chính vẫn tồn tại tâm trạng lo lắng về khủng hoảng tài chính lan tỏa ở quy
mô toàn cầu trong 2 năm tiếp theo sau đó. Vào thời điểm 1997, cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ của Thailand đã sớm lan sang các nước Đông Nam Á khác bao gồm
Malaysia, Indonesia và Philippines. Vào mùa thu năm 1997, khủng hoảng tài chính
đã lan rộng đến Korea, Hong Kong và China. Vào năm 1998, Russia và Brazil đã
chứng kiến nền kinh tế của họ sa vào tình trạng rơi tự do, và các TTCK quốc tế, từ
New York đến Tokyo, đã đạt mức thấp kỷ lục do sự tự tin của các nhà đầu tư bị
lung lay bởi sự biến động và không thể đoán trước được trên thị trường tài chính thế
giới. Trong khi đó, những nền kinh tế không tự do hóa thị trường vốn là những nền
kinh tế ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính như China, India. Và
trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, nền kinh tế khống chế tốt nhất
những tác động của cuộc khủng hoảng, là nền kinh tế có hệ thống luật pháp tốt nhất,
Singapore.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 ở Đông Á đã nhấn mạnh mối quan hệ
chặt chẽ giữa doanh nghiệp và Chính phủ, theo đó các quỹ hưu trí và quỹ dự phòng
đã được sử dụng cho nhiều sáng kiến của Chính phủ như tư nhân hóa cùng với các
dự án được ủng hộ chính thức ở một số nền kinh tế trong khu vực Châu Á Thái
Bình Dương. Trong một số trường hợp, việc áp dụng các sáng kiến này không đáp
64
ứng được các tiêu chí về lợi tức kinh tế, do đó có khả năng tạo ra chi phí tài chính
cho Chính phủ, nhất là khi các quỹ dự phòng và quỹ hưu trí yêu cầu Chính phủ
cung cấp sự bảo đảm đối với hoạt động cho vay chính thức được khuyến khích.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 cũng đã làm cho vấn đề nợ nần càng thêm
quan trọng, việc không thu được những đóng góp hiệu quả cũng có thể gây ra
những chi phí tài chính lớn cho Chính phủ, đặc biệt là khi lương hưu tối thiểu thì
được bảo đảm. Sau năm 2000, từ bài học này, hiện nay luồng vốn đầu tư từ nước
ngoài vào thị trường Châu Á phần lớn là đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và
đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FPI) với các quỹ đầu tư tài hạn, chứ không phải là
đầu tư ngắn hạn, trong sự giám sát và điều tiết cẩn trọng của Chính phủ các nền
kinh tế Châu Á. Trong đó, các khuyến nghị chính sách nhằm bảo đảm sự cân bằng
đối với dòng vốn đầu tư và cơ cấu kinh tế đối với các nền kinh tế Đông Á là (i) tiến
hành tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp, (ii) phát triển các tổ chức
đầu tư dài hạn và thị trường cho trái phiếu bằng đồng nội tệ, (iii) giảm sự phụ thuộc
vào xuất khẩu như lĩnh vực dẫn đầu đối với phát triển kinh tế (Crockett, 2002;
McCauley, 2003; IDEAs, 2017).
Bên cạnh đó, trong năm 2014, khu vực Châu Á Thái Bình Dương có 4,3 tỷ
dân, chiếm 60% tổng số thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số khu vực Châu Á Thái
Bình Dương có xu hướng giảm dần theo thời gian, cụ thể trong giai giai đoạn 1990 -
2000 là 1,4%/năm, đến giai đoạn 2000 - 2010 là 1,2%/năm, đến năm 2015 là
1,0%/năm (thực sự thấp hơn tốc độ tăng trưởng dân số 1,2%/năm của toàn cầu).
Tuy nhiên, trong điều kiện tuyệt đối, sự tăng trưởng dân số của khu vực vẫn có ý
nghĩa rất quan trọng với 676 triệu người được bổ sung vào khoảng thời gian từ năm
2000 đến 2015 và sự gia tăng dân số trong khu vực vẫn còn được mô tả như là một
vụ bùng nổ dân số (UN-Habitat, 2015). Như vậy, tuy tốc độ tăng trưởng dân số
giảm dần nhưng so với toàn cầu, thì khu vực này vẫn có sự gia tăng đáng kể về dân
số. Thực tế cũng cho thấy tình trạng dân số đang có xu hướng già hóa tại các nền
kinh tế APEC khi tỷ lệ người già tăng theo thời gian, sống lâu hơn trong tình trạng
khỏe mạnh và có khuynh hướng tiết kiệm nhiều cho tuổi già (WB, 2016).
65
Tài sản hưu trí tự nguyện đã có sự tăng trưởng nhanh chóng trên toàn thế
giới trong những thập kỷ qua, mặc dù các quỹ hưu trí tự nguyện cũng đã phải chịu
tổn thất lớn trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 - 2008. Do vậy,
đây cũng là cơ hội để xem xét và đánh giá tác động của quỹ hưu trí tự nguyện trong
việc góp phần phát triển thị trường vốn, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế.
3.2.3 Các biến số được lựa chọn và nguồn dữ liệu
Từ việc tham khảo các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu của nước ngoài, đề
tài cũng đã lựa chọn những biến số có số lần được sử dụng phổ biến, có số lần
được đề cập nhiều nhất, trong đó có bao gồm các biến số kiểm soát được lượng
hóa, cụ thể hóa các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK để xây
dựng mô hình hồi quy nhằm phân tích đánh giá tác động của phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK, bao gồm 7 biến số cụ thể như sau (Bảng
3.1).
Bảng 3.1. Tổng hợp các biến số được sử dụng phổ biến, có số lần được đề cập
nhiều nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm liên quan.
Tỷ lệ
Giá trị
Vốn hóa thị
Chỉ
người
GDP
tài sản
trường của
Tỷ
Lãi
số
già trên
bình
quỹ hưu
các công ty
lệ
suất
tự
100
quân
trí tự
nội địa
lạm
dài
do
người
đầu
nguyện
niêm yết so
phát
hạn
kinh
thuộc độ
người
so với
với GDP
tế
tuổi lao
GDP
động
x
x
Catalan, Impavido và Musalem
(2000)
x
x
x
x
x
Impavido và Musalem (2000)
x
x
x
Walker và Lefort (2002)
x
x
x
x
x
Impavido, Musalem và Tresselt
(2003)
x
x
Davis và Hu (2008).
66
Raddatz và Schmukler (2008)
x
x
x
x
x
Hryckiewicz (2009)
x
x
x
x
x
x
Kim (2010)
x
x
x
x
x
Meng và Pfau (2010)
x
Liang và Bing (2010)
x
x
x
x
Rocholl và Niggemann (2010)
x
x
x
x
x
x
x
Raisa (2012)
x
x
x
x
x
Hu (2012)
x
x
x
Zandberg và Spierdijk (2013)
x
x
x
x
Sun và Hu (2014)
Tổng số trích dẫn
9
6
4
11
10
3
15
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các nghiên cứu trước.
Như vậy, để góp phần thấy được vai trò và đánh giá ảnh hưởng tổ chức đầu
tư dài hạn, cụ thể là quỹ hưu trí tự nguyện, đến sự phát triển của TTCK, nghiên cứu
này tập trung phạm vi không gian khảo sát là các nền kinh tế thành viên thuộc
APEC trong thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2015 với số liệu thứ cấp
được tiếp cận và sử dụng được truy cập từ nguồn dữ liệu mở của các tổ chức quốc
tế như APEC, OECD, WB, WEF. Bộ dữ liệu này là dữ liệu bảng ngắn (short panel
data) do và có cấu trúc bảng không cân bằng (unbalanced data) do những số
liệu không được công bố nên bị thiếu số quan sát nền kinh tế - năm (missing value)
dẫn đến các đơn vị chéo không có cùng số quan sát theo thời gian.
3.3 Mô hình thực nghiệm
Để xây dựng mô hình hồi quy kiểm định ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu
trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK, nghiên cứu này dựa trên những
nghiên cứu thực nghiệm trước đây để lựa chọn mô hình và các biến phù hợp. Qua
đó cho thấy, các kỹ thuật áp dụng trong phân tích dữ liệu bảng là phương pháp phổ
biến để điều tra mối quan hệ kinh tế giữa các biến trong mô hình hồi quy. Mô hình
hồi quy dữ liệu bảng dựa trên sự kết hợp của dữ liệu chéo và chuỗi thời gian nên
67
cung cấp được nhiều “thông tin hữu ích hơn, tính biến thiên nhiều hơn, ít hiện tượng
đa cộng tuyến giữa các biến số, bậc tự do cao hơn và hiệu quả hơn”.
Mô hình hồi quy dữ liệu bảng tuyến tính đơn giản có dạng:
Trong đó và đều có chỉ số dưới dòng và với quan sát
chéo và thời kỳ. Các hệ số và đều không có chỉ số dưới dòng như
và hàm ý rằng chúng là như nhau đối với các đơn vị chéo và như nhau cho tất
cả các thời kỳ.
Giả định đề xuất tồn tại mức độ không đồng nhất trong dữ liệu bảng thay vì
hệ số nên là như nhau đối với tất cả các quan sát chéo, cụ thể trong trường hợp
các nhà nghiên cứu kỳ vọng sự khác biệt trong hành vi của các nền kinh tế khác
nhau (tùy theo phương pháp tiếp cận để phân loại, ví dụ theo sự phát triển cao hay
thấp của nền kinh tế, theo tổ chức quốc tế mà nền kinh tế đó là thành viên hay
không …), mô hình trên sẽ trở thành:
Trong đó hệ số có thể không giống nhau giữa các nền kinh tế có trong
mẫu.
Trường hợp hệ số có nên thay đổi giữa các nền kinh tế khác nhau hay
không thì lại đòi hỏi một phân tích riêng rẽ cho từng đơn vị trong quan sát chéo.
Do đó, hệ số là như nhau đối với tất cả các quan sát chéo được xem như là giả
định gộp chung của ước lượng dữ liệu bảng.
Như vậy, mô hình hồi quy tổng thể trên dữ liệu bảng xem xét tác động của
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của TTCK được mô tả như sau:
Trong đó,
đại diện cho sự phát triển của TTCK với vai trò là biến số phụ thuộc
và được tính bằng quy mô vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết (%
so với GDP) của nền kinh tế tại thời điểm năm ;
68
đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò là biến
số độc lập, được tính bằng giá trị tài sản quỹ hưu trí tự nguyện (% so với
GDP) của nền kinh tế tại thời điểm ;
Ngoài ra, để kiểm soát biến giải thích có thể có ảnh hưởng đến sự phát triển
của thị trường vốn nội địa, tác giả tập trung vào các biến số sau, bao gồm:
là biến giải thích tỷ lệ lạm phát (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;
là biến giải thích tỷ suất yêu cầu của thị trường liên quan đến TPCP có
thời gian đáo hạn trong 10 năm (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;
là biến giải thích thu nhập bình quân đầu người (USD) của nền kinh
tế tại thời điểm ;
là biến giải thích chỉ số tự do kinh tế (điểm) của nền kinh tế tại thời
điểm ;
là biến tỷ lệ số người già phụ thuộc từ 65 tuổi trở lên trên 100 người
trong độ tuổi lao động (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;
là các tác động cố định đặc thù không được quan sát của nền kinh tế ;
là sai số ngẫu nhiên với và đại diện cho nền kinh tế và chiều thời gian
tương ứng.
3.4 Ý nghĩa của các biến số trong mô hình
Mối quan hệ giữa TTCK và quỹ hưu trí tự nguyện là mối quan hệ song hành.
Một TTCK vững chắc sẽ tạo điều kiện cho quỹ hưu trí tự nguyện phát triển và sự
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện cũng góp phần vào sự tăng trưởng của TTCK. Do
đó các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK cũng sẽ có ảnh hưởng đến sự
phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và ngược lại. Từ việc lựa chọn các
yếu tố làm biến kiểm soát để xem xét tác động của chúng đến sự phát triển của
TTCK, nghiên cứu trình bày ý nghĩa và cách đo lường của từng biến số trong mô
hình hồi quy như sau:
(i) : Vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết (% so với GDP)
69
Giá trị vốn hóa thị trường (còn gọi là giá trị thị trường) là giá hiện tại của cổ
phiếu thường nhân với số cổ phiếu thường đang lưu hành. Dữ liệu có giá trị được
ghi nhận vào cuối năm và được thu thập từ các công ty nội địa niêm yết. Số liệu của
các quỹ đầu tư, quỹ ủy thác và các công ty chỉ có mục tiêu kinh doanh là nắm giữ
cổ phiếu của các công ty niêm yết khác thì bị loại trừ. Tiêu chí này đại diện cho độ
sâu của TTCK (Catalan, Impavido & Musalem, 2000; Impavido, Musalem &
Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa,
2012).
(ii) : Tỷ lệ lạm phát (%/năm)
Tỷ lệ lạm phát được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng phản ánh tỷ lệ phần trăm
thay đổi hàng năm trong chi phí đối với người tiêu dùng trung bình mua rổ hàng hoá
và dịch vụ có thể được cố định hoặc thay đổi theo khoảng thời gian nhất định, như
là hàng năm. Theo đó, công thức Laspeyres thường được sử dụng phổ biến và cũng
áp dụng đối với số liệu về tỷ lệ lạm phát được thu thập trong nghiên cứu này.
Impavido, Musalem và Tresselt (2003) kỳ vọng mối quan hệ tích cực giữa
biến giải thích với biến phụ thuộc khi nhu cầu của cổ phiếu tăng lên do kỳ
vọng lạm phát. Boyd, Levine và Smith (2001) cũng cho rằng tăng kỳ vọng cũng
ảnh hưởng đến khả năng phân bổ nguồn lực của khu vực tài chính, nhưng khi lạm
phát vượt quá mức độ nghiêm trọng, dấu hiệu dự kiến sẽ là mối quan hệ tiêu cực
(tác động âm), do kết quả của một hệ thống tài chính xấu đi, đặc biệt đối với sự phát
triển của ngân hàng và hoạt động của TTCK (Kim, 2010).
(iii) : Lãi suất dài hạn trên thị trường giao dịch TPCP có thời gian đáo
hạn trong 10 năm (%/năm)
chủ yếu được xác định bởi (i) giá do bên cho vay tính toán, (ii) rủi ro từ
người đi vay và (iii) sự giảm sút giá trị vốn. Số liệu thu thập về lãi suất dài hạn được
tính là trung bình của các mức lãi suất hàng ngày, và đo lường đơn vị tính bằng
phần trăm (%). này được hiểu là lãi suất mà tại đó giá TPCP được giao dịch
trên thị trường tài chính chứ không phải là lãi suất mà tại đó các khoản vay đã được
phát hành. Trong tất cả các trường hợp, liên quan đến các trái phiếu có khoản
hoàn vốn được bảo đảm bởi Chính phủ. là một trong những yếu tố quyết định
70
đầu tư kinh doanh. Lãi suất thấp sẽ tác động và tạo áp lực lên giá cổ phiếu vì hai lý
do: (i) nhà đầu tư trái phiếu sẽ nhận được một mức lãi suất thấp hơn, và do đó có tỷ
suất lợi tức sẽ thấp hơn, nên buộc họ phải cân nhắc mua cổ phiếu có rủi ro cao hơn
để có được tỷ suất lợi nhuận cao hơn; (ii) lãi suất thấp làm cho việc đi vay ít tốn
kém, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dẫn đến thu nhập doanh nghiệp cao hơn
và giá cổ phiếu cao hơn. Hay nói cách khác, thấp sẽ khuyến khích đầu tư vào
trang thiết bị mới và ngược lại, đến lượt đầu tư là nguồn đóng góp chính vào tăng
trưởng kinh tế.
Trong thực tế, giá trái phiếu thay đổi khi chính sách tiền tệ thay đổi, cụ thể
như khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ làm giảm giá
trái phiếu, tăng (tỷ suất sinh lời yêu cầu của thị trường đối với việc nắm giữ
TPCP có thời hạn 10 năm). Điều này dẫn đến hành vi hạn chế đầu tư của các cá
nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là trong trường
hợp Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt thì lại có tác động ngược lại
đến giá trái phiếu trên thị trường. Theo đó, nếu Chính phủ thắt chặt tài chính, ví dụ
như để nhằm mục đích giảm thâm hụt NSNN, thì các yêu cầu tài chính sẽ làm tăng
giá trái phiếu trên thị trường và giảm .
Do đó được dùng để đo lường việc kiểm soát ảnh hưởng của sự thay đổi
trong tỷ suất sinh lời yêu cầu của thị trường đối với việc nắm giữ trái phiếu (các
công cụ tài chính thay thế so với cổ phiếu trên thị trường).
(iv) : GDP bình quân đầu người (USD hiện hành)
Số liệu thu thập về được WB tính là GDP chia cho dân số giữa năm.
Trong đó, GDP là tổng giá trị gia tăng của tất cả các nhà sản xuất cư trú trong nền
kinh tế cộng với thuế sản phẩm và trừ đi các khoản trợ cấp không bao gồm trong giá
trị của sản phẩm. Ngoài ra, một điểm cần lưu ý là GDP được tính toán mà không có
thực hiện khấu trừ đối với khấu hao tài sản cố định hoặc đối với việc cạn kiệt và suy
thoái tài nguyên thiên nhiên. Số liệu thu thập về được tính bằng đơn vị tiền tệ
là USD hiện hành. Biến này đại diện cho mức độ phát triển chung của quốc
gia, giải thích cho ảnh hưởng của năng suất khu vực thực tế đối với sự phát triển
của TTCK. Thông thường, các nền kinh tế có thu nhập cao hơn cũng có khuynh
71
hướng có thị trường vốn hoạt động tốt hơn và sâu hơn, điều này cũng có nghĩa là
có tác động tích cực (tác động dương) đến sự tăng trưởng của TTCK. Tuy
nhiên, tác động của đến TTCK cũng có thể trở nên tiêu cực (tác động âm)
khi mà quy mô vốn hóa thị trường tăng chậm chạp so với sự tăng trưởng của GDP
(Kim, 2010).
(v) : Chỉ số tự do kinh tế
Tự do kinh tế là quyền cơ bản của mỗi người nhằm kiểm soát lao động và tài
sản của riêng mình. Trong một xã hội tự do kinh tế, mọi cá nhân được tự do làm
việc, sản xuất, tiêu thụ và đầu tư theo bất kỳ cách nào họ muốn, với sự tự do đó
được bảo vệ bởi Nhà nước và không bị giới hạn bởi Nhà nước. Trong các xã hội tự
do kinh tế, các Chính phủ cho phép lao động, vốn và hàng hoá di chuyển tự do, và
ngăn/dừng việc hạn chế hoặc ép buộc tự do vượt quá mức cần thiết để bảo vệ và
duy trì tự do đó.
Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, bao
gồm tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, chi tiêu của Chính phủ, tự
do tiền tệ, tự do đầu tư, tự do tài chính, quyền sở hữu, tự do không bị ảnh hưởng từ
tham nhũng, tự do lao động. Với điểm số 100 là sự tự do tối đa cho mỗi yếu tố được
đánh giá, điểm số 100 mang hàm ý về một môi trường kinh tế hay chính sách kinh
tế có lợi nhất dẫn đến tự do kinh tế.
Nghiên cứu của Hryckiewicz (2009) tập trung xem xét khía cạnh tự do
thương mại khi phân tích cải cách hưu trí, sự phát triển của các nhà đầu tư tổ chức,
cụ thể là các quỹ hưu trí tự nguyện, ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Trong
khi đó, Rocholl và Niggemann (2010) lựa chọn khía cạnh tự do đầu tư, độ mở
thương mại khi nghiên cứu về việc huy động vốn thông qua quỹ hưu trí tự nguyện
đối với sự phát triển của thị trường vốn. Trong nghiên cứu này, mức độ tự do kinh
tế chung được tính đơn giản từ điểm trung bình của 10 yếu tố cơ bản và được lựa
chọn để trở thành giá trị của biến giải thích .
(vi) : Tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao động
Chỉ số được hiểu là tỷ lệ dân số già hóa (the ratio of population
aging) này được tính dựa trên tỷ số giữa số người từ 65 tuổi trở lên (độ tuổi chung
72
mà ở đó người lao động không hoạt động về mặt kinh tế) so với số người trong độ
tuổi từ 15 tuổi đến 64 tuổi. Giá trị số liệu thu thập được thể hiện qua đơn vị tính trên
100 người trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi).
Chỉ số này kiểm soát tác động của sự già hóa dân số đối với sự phát
triển của thị trường cổ phiếu liên quan đến mô hình tiết kiệm và đầu tư trong nền
kinh tế. Với giả định về giới hạn duy lý, khi xem xét những người có hành vi kinh
tế hợp lý tương tự, chuẩn bị nghỉ hưu bằng cách tích lũy tài chính và tài sản thực,
đặc biệt là ở độ tuổi trung niên, khi họ có khả năng đầu tư vào những tài sản đó và
đang ở những năm đỉnh cao về thu nhập, do đó sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tích
cực lên thị trường tài chính trong nước. Còn khi đến độ tuổi 40 - 64, nhóm tiết kiệm
dự kiến sẽ giảm phần tích lũy, tương ứng với sự gia tăng của nhóm người không tiết
kiệm, theo quá trình lão hóa, sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường tài
chính trong nước, thông qua kênh nhu cầu biên thấp hơn đối với tài sản tài chính
(Raisa, 2012).
Tỷ lệ dân số già hóa được dự kiến có tác động âm (ảnh hưởng tiêu
cực) đến sự tăng trưởng của TTCK do (i) sự già hóa theo thời gian sẽ làm giảm đi
các khoản tiết kiệm hoặc (ii) nếu việc nắm giữ trái phiếu được áp dụng thay cho
việc nắm giữ cổ phiếu khi tỷ lệ dân số trên 65 tuổi trở nên cao hơn. Tuy nhiên, trong
trường hợp (i) quy mô tài sản tiết kiệm của những người thuộc nhóm dân số trên 65
tuổi trong nền kinh tế là vô cùng lớn so với nhóm dân số có độ tuổi từ 15 đến 64
tuổi hoặc (ii) sự khuyến khích tăng cường việc dự phòng tiết kiệm là rất lớn thì tỷ lệ
dân số già hóa sẽ có dấu hiệu tích cực (tác động dương) đến sự phát triển của
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và sự tăng trưởng của TTCK (Kim, 2010).
(vii) : Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP
Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện được định nghĩa là tài sản được mua
kèm với các khoản đóng góp vào chương trình hưu trí tự nguyện với mục đích duy
nhất là để tài trợ cho các khoản trợ cấp của chương trình hưu trí tự nguyện. Trong
đó, quỹ hưu trí tự nguyện là một tập hợp các tài sản tạo thành một thực thể
pháp lý độc lập. Chỉ số này được tính bằng đơn vị tiền tệ là triệu USD hoặc
theo tỷ lệ phần trăm so với GDP. Biến được sử dụng phổ biến trong các nghiên
73
cứu về quỹ hưu trí tự nguyện, làm đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK. Theo đó, được xem xét như là một nhân tố thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua sự phát triển của TTCK. Việc tăng trưởng của các quỹ hưu
trí tự nguyện có tác động làm cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn, qua đó, góp phần
tăng trưởng GDP của quốc gia (Davis và Hu, 2005; Meng và Pfau, 2010).
3.5 Phương pháp xử lý số liệu
Việc ước lượng các mô hình hồi quy dữ liệu bảng tuyến tính đơn giản có thể
được tiến hành thông qua việc sử dụng ba phương pháp: (i) với hằng số chung trong
phương trình hồi quy; (ii) cho phép có các tác động cố định; (iii) cho phép có các
tác động ngẫu nhiên. Trong đó:
Mô hình có sử dụng hằng số chung trong phương trình hồi quy (The
common constant method) còn được gọi là phương pháp hồi quy OLS gộp
chung tất cả các quan sát (Pooled OLS method) của ước lượng thể hiện các
kết quả với giả định chủ yếu rằng không có sự khác biệt trong các ma trận dữ
liệu của kích thước mẫu ( ). Nghĩa là mô hình ước lượng một hệ số chặn
(tung độ gốc) là một hằng số chung cho tất cả các quan sát chéo và
phương pháp này hữu ích trong trường hợp bộ dữ liệu được tiên nghiệm là
đồng nhất (ví dụ mẫu chỉ toàn các nền kinh tế có thu nhập cao, hoặc chỉ xem
xét các nền kinh tế thuộc Liên minh Châu Âu …). Tuy nhiên, phương pháp
này được sử dụng khá hạn chế so với phương pháp cho phép sự bao hàm của
tác động cố định và tác động ngẫu nhiên.
Phương pháp xem xét các tác động cố định (Fixed effects method) cho phép
hằng số là đặc thù của nhóm quan sát chéo, hàm ý rằng mỗi nhóm quan
sát có hằng số là khác nhau. Phương pháp này còn có tên gọi khác là ước
lượng LSDV (least squared dummy variables) vì để cho phép hằng số là
khác nhau cho từng nhóm quan sát chéo khác nhau thì cần phải có một biến
giả cho từng nhóm quan sát chéo này. Mô hình có dạng như sau:
Trước khi kiểm tra tính tin cậy của phương pháp xem xét các tác động cố
định so với phương pháp OLS có hằng số chung trong mô hình hồi quy, kiểm định
74
F-test được sử dụng với giả thuyết rằng tất cả các hằng số đều bằng nhau (sự đồng
nhất) .
Mô hình xem xét các tác động cố định (Fixed effects method) cho phép nắm
bắt được tất cả các tác động mang đặc thù đối với từng cá thể riêng biệt và không
thay đổi theo thời gian. Do đó, với dữ liệu bảng bao gồm các nền kinh tế, mô hình
này xem xét tất cả các vấn đề như những nhân tố địa lý, các tài nguyên thiên nhiên
cũng như tất cả các nhân tố cơ bản khác có sự đa dạng giữa các nền kinh tế nhưng
lại không thay đổi theo thời gian. Điều này cũng có nghĩa rằng không thể thêm vào
các biến không có thay đổi theo thời gian (ví dụ như kích cỡ nền kinh tế) vì chúng
sẽ đồng tuyến tính hoàn hảo với tác động cố định. Trong một số trường hợp, việc sử
dụng biến giả sẽ làm giảm bậc tự do của dữ liệu, gia tăng nguy cơ đa cộng tuyến vì
có quá nhiều biến. Nếu dữ liệu có là rất lớn thì việc tính toán hàng ngàn hằng số
khác nhau cũng khó khả thi.
Ngoài ra, việc sử dụng bộ biến giả theo thời gian cũng có thể được áp dụng
trong mô hình xem xét các tác động cố định. Phương pháp này còn được biết đến
với tên gọi mô hình xem xét các tác động cố định hai chiều (two-way FEM). Trong
đó, các đặc điểm riêng biệt có tác động thay đổi theo thời gian nhưng là giống nhau
cho toàn bộ dữ liệu bảng.
Phương pháp xem xét các tác động ngẫu nhiên (Random effects method)
khác biệt với phương pháp xem xét các tác động cố định (Fixed effects
method) ở chỗ các hằng số cho mỗi nhóm quan sát không phải là các tham số
cố định mà là các tham số ngẫu nhiên. Lúc này sự biến động của hằng số cho
mỗi nhóm quan sát là , trong đó zero mean standard random
variable.
Mô hình xem xét các tác động ngẫu nhiên có dạng như sau:
Kiểm định Hausman được dùng để so sánh hiệu quả giữa phương pháp ước
lượng hiệu ứng ngẫu nhiên FEM và phương pháp ước lượng hiệu ứng cố định
75
REM. Thực chất kiểm định Hausman để xem xét có tồn tại tự tương quan giữa các
sai số và các biến độc lập trong mô hình hay không. Nếu P-value > 05% thì kết
luận rằng chưa đủ cơ sở để bác bỏ , hay nói cách khác là không có sự khác biệt
giữa FEM và REM một cách có ý nghĩa thống kê. Kết quả này còn cho thấy các sai
số không có tương quan với các biến độc lập trong mô hình và sử dụng mô hình
các ảnh hưởng ngẫu nhiên sẽ có hiệu quả hơn. Còn nếu P-value < 5%, bác bỏ ,
thường thì REM không hợp lý, nên sử dụng FEM.
3.6 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm
3.6.1 Thống kê mô tả
Thống kê mô tả các biến số trong mẫu giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015
được trình bày cụ thể trong bảng 3.2 như sau:
Bảng 3.2 Thống kê các biến số trong mẫu giai đoạn 2000 - 2015.
Variable
Obs
Mean
Std. Dev.
Min
Max
151
65,64896
29,70931
14,01656
118,1327
151
3,125655
2,426735
-1,346719
15,52533
151
5,246457
2,77952
0,3466667
15,68075
151
19.9947,82
17.387,59
958,0116
67.652,68
151
68,15533
9,995838
50,3
87,4
151
15,83827
7,939747
5,598219
43,32391
151
23,93331
27,71412
0,305036
118,7
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.
Bảng 3.2 tóm tắt kết quả thống kê của tất cả các biến số được sử dụng trong
mô hình hồi quy. Từ kết quả thống kê cho thấy giá trị trung bình của vốn hóa thị
trường của các công ty nội địa niêm yết là 65,64% so với GDP và giá trị trung bình
tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện vào khoảng 23,93% so với GDP. Tỷ lệ này cho
thấy giá trị đóng góp trong sự tăng trưởng của TTCK nói riêng và nền kinh tế của
quỹ hưu trí tự nguyện có tiềm năng phát triển hơn nữa đối với các nền kinh tế thuộc
APEC trong giai đoạn 2000 - 2015.
Bên cạnh đó, giá trị trung bình của tỷ lệ dân số già hóa vào khoảng 15,83%
cho thấy các nền kinh tế thuộc APEC đang trong thời kỳ đối mặt với tình trạng dân
số già; giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế vào khoảng 68,15% cho thấy các
76
nền kinh tế thuộc APEC vẫn còn cần mở rộng cánh cửa tự do hóa đến từ môi trường
kinh tế hay chính sách kinh tế hiệu quả dẫn đến tự do kinh tế; giá trị trung bình của
GDP bình quân đầu người vào khoảng 19.947,82 USD/năm; giá trị trung bình của
lãi suất dài hạn trên thị trường giao dịch TPCP có thời gian đáo hạn trong 10 năm
vào khoảng 5,25%/năm; giá trị trung bình của tỷ lệ lạm phát là 3,13%/năm tại các
nền kinh tế thuộc APEC trong giai đoạn 2000 - 2015.
1,000
-0,3751
1,000
0,0000
-0,5244
0,6834
1,000
0,0000
0,0000
0,4202
-0,4623
-0,5767
1,000
0,0000
0,0000
0,0000
0,4231
-0,4602
-0,3826
0,7164
1,0000
0,0000
0,0000
0,0000
0,0000
0,3434
-0,4615
-0,6610
0,7611
0,4631
1,0000
0,0000
0,0000
0,0000
0,0000
0,0000
0,6217
-0,2472
-0,3381
0,6956
0,7037
0,3906
1,0000
0,0000
0,0022
0,0000
0,0000
0,0000
0,0000
Bảng 3.3 Ma trận tương quan giữa các biến số.
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.
Kết quả ma trận tương quan trình bày ở bảng 3.3 được sử dụng để tìm hiểu
mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện (thông qua biến đại diện là tài sản của quỹ
hưu trí tự nguyện so với GDP) đối với sự phát triển TTCK (thông qua biến đại diện
là vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết so với GDP). Qua đó cũng
cho thấy xét trong mối tương quan lần lượt với từng biến số khác, giá trị vốn hóa thị
trường của các công ty nội địa niêm yết so với GDP ( ) và giá trị tài sản quỹ hưu
trí tự nguyện so với GDP ( ) đều có (i) mối tương quan thuận lần lượt với giá trị
tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP ( ), GDP bình quân đầu người
( ) và chỉ số tự do kinh tế ( ) cũng như tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100
người thuộc độ tuổi lao động ( ); (ii) đều có mối tương quan nghịch lần lượt
với tỷ lệ lạm phát ( ) và lãi suất dài hạn ( ).
77
Ma trận hệ số tương quan từng đôi được trình bày trong bảng 3.3 cho thấy
mối tương quan Pearson giữa các cặp biến số được sử dụng trong mô hình hồi quy
thông qua hệ số tương quan và mức ý nghĩa tương quan của kiểm định Pearson
(significant). Mức ý nghĩa tương quan sig của kiểm định Pearson của các cặp biến
điều nhỏ hơn 5% chứng tỏ các cặp biến có tương quan với nhau. Nhìn chung, hệ số
tương quan càng lớn thì tương quan càng chặt, hầu hết giá trị hệ số tương quan giữa
các cặp biến số là dưới 60%. Hệ số cao nhất (0,7611; 0,7164; 0,7037) thể hiện lần
lượt mối quan hệ giữa (i) tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao
động ( ) với GDP bình quân đầu người ( ), (ii) chỉ số tự do kinh tế
( ) với GDP bình quân đầu người ( ), (iii) tỷ lệ người già phụ thuộc trên
100 người thuộc độ tuổi lao động ( ) với chỉ số tự do kinh tế ( ).
Hơn nữa, để xác định liệu rằng hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến có
tồn tại hay không, việc kiểm định hệ số phóng đại phương sai (Variance Inflation
Factor - VIF) được tiến hành để kiểm tra cho dữ liệu bảng thông qua lệnh Collin
trong Stata 11. Kết quả của kiểm định VIF (kiểm định sự tương quan giữa các biến
độc lập trong mô hình) cho thấy tất cả các hệ số đều nhỏ hơn 10 (Mean VIF = 3,22),
điều này nghĩa là hiện tượng đa cộng tuyến không xảy ra trong bộ số nghiên cứu
(Kennedy, 1992).
3.6.2 Kết quả hồi quy
Đầu tiên, phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng thể (hồi quy OLS
dữ liệu bảng) được thực hiện để phân tích mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện
(thông qua biến đại diện là tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP) đối với sự
phát triển TTCK (thông qua biến đại diện là vốn hóa thị trường của các công ty nội
địa niêm yết so với GDP). Kết quả hồi quy OLS dữ liệu bảng cho thấy quỹ hưu trí
tự nguyện có tác động quan trọng đối với sự phát triển TTCK. Cụ thể, hệ số hồi quy
của biến tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP có dấu dương (0,7826) và có
ý nghĩa ở mức 1%.
Bên cạnh đó, hệ số R-squared của mô hình hồi quy ở mức là 54,72%. Điều
này có nghĩa mô hình này giải thích được tương đối kết quả về mối quan hệ giữa
78
quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển TTCK. Bên cạnh đó, kiểm định F với giá trị p
dưới 0,01 cũng cho thấy mô hình phù hợp với tập dữ liệu và sử dụng được.
Kiểm tra hettest (kiểm định Breusch - Pagan/Cook - Weisberg đối với hiện
tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy) cho thấy P-value > 5% (Prob >
chi2 = 0,7800), do đó không đủ cơ sở để bác bỏ , hay nói cách khác, không có
hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy.
Kiểm định Wooldridge đối với hiện tượng tự tương quan cho bộ dữ liệu bảng
cho thấy P-value > 5% (Prob > F = 0,0870), do đó không đủ cơ sở để bác bỏ ,
hay nói cách khác, không có sự tự tương quan trong mô hình ước lượng dữ liệu
bảng.
Qua quá trình kiểm định từng phần ở trên, mô hình có hiện tượng đa cộng
tuyến được đánh giá là không nghiêm trọng, mô hình không có hiện tượng phương
sai của sai số thay đổi, mô hình không có hiện tượng tự tương quan. Do đó, kết quả
mô hình nghiên cứu theo phương pháp OLS là tin cậy.
Tuy nhiên, độ vững và tính hiệu quả của các hệ số trong phân tích dữ liệu
bảng dựa trên phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng thể (Pooled OLS)
có thể bị nghi ngờ vì mô hình OLS tổng thể không cần quan tâm đến các yếu tố
không thể thu thập được hoặc ảnh hưởng riêng lẻ, đặc thù từng doanh nghiệp, trong
khi vấn đề ảnh hưởng riêng lẻ là một trong những hiện tượng xảy ra thường xuyên ở
những nghiên cứu thực nghiệm (Baltagi, 2005). Do đó, để xử lý vấn đề về các yếu
tố không quan sát được (unobserved heterogeneity), mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên
(RE) và ảnh hưởng cố định (FE) được sử dụng. Sau đó, việc kiểm định sự tồn tại
của các ảnh hưởng cố định được tiến hành để làm cơ sở lựa chọn giữa mô hình hồi
quy OLS và FE, kiểm định về sự tương quan chéo giữa giữa các đơn vị bảng được
triển khai để làm cơ sở lựa chọn giữa mô hình hồi quy OLS và RE. Tiếp đến, kiểm
định Hausman sẽ được thực hiện để kiểm tra sự tương quan giữa các ảnh hưởng cố
định với các biến giải thích hay lựa chọn giữa mô hình FE và RE.
Cả hai mô hình này đều đưa các kết quả về dấu của hệ số hồi quy của biến
quỹ hưu trí tự nguyện, chỉ khác nhau ở mức độ ý nghĩa thống kê. Để xác định mô
hình nào tốt hơn, nghiên cứu này thực hiện kiểm định F cho mô hình FE, kiểm định
79
Breusch and Pargan Lagrange Multiplier (LM) cho mô hình RE và kiểm định
Hausman để chọn lựa giữa mô hình RE và FE. Một cách chi tiết, kiểm định ý nghĩa
thống kê F cho thấy mô hình EF tốt hơn mô hình OLS, nghĩa là có ảnh hưởng cố
định trong mô hình ước lượng với P-value < 5% (Prob > F = 0,0000). Kết quả kiểm
định xttest0 (kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian) đối với mô hình RE cho
thấy P-value < 5% (Prob > chi2 = 0,0000) nghĩa là giả thiết bị bác bỏ, điều này
chứng tỏ có ảnh hưởng ngẫu nhiên trong mô hình ước lượng. Chính vì vậy mô hình
RE tốt hơn mô hình OLS, hay nói cách khác, mô hình RE là mô hình phù hợp hơn
mô hình OLS.
Trong khi đó, với giả định về sự khác biệt ảnh hưởng của các biến là
không mang tính hệ thống, nếu nếu giả thiết này không có đủ cơ sở để bị bác bỏ, thì
việc ước lượng của 2 mô hình FE và RE là tương đương về kết quả. Đối chiếu với
kết quả kiểm định Hausman có P-value > 5% (Prob > Chi2 = 0,0636) cho thấy
không đủ cơ sở bác bỏ , trong trường hợp này nghiên cứu lựa chọn sử dụng mô
hình RE hợp lý hơn FE. Điều này hàm ý rằng mô hình FE có thể bị chệch (biased)
và hệ số không vững chắc (inconsistent); ngược lại, mô hình RE sẽ duy trì được tính
không chệch (unbiased) và hệ số vững chắc.
Như vậy, trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn mô hình RE do mô hình RE
tốt hơn mô hình OLS và mô hình EF trong việc thể hiện tác động của phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC
trong giai đoạn 2000 đến 2015. Từ đó, tác giả lựa chọn kết quả hồi quy theo REM
để làm kết quả cho kết luận của nghiên cứu. Kết quả hệ số ước lượng trong mô hình
RE cho thấy hệ số hồi quy của biến quỹ hưu trí tự nguyện thì dương và có ý nghĩa
thống kê tại mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này nằm
trong kỳ vọng của giả thuyết đặt ra ban đầu của nghiên cứu (PHỤ LỤC 6).
Hơn nữa, để tăng tính hiệu quả của mô hình RE, kiểm định phương sai thay
đổi và kiểm định tự tương quan trong dữ liệu bảng được thực hiện. Kết quả kiểm
định xttest3 đối với mô hình FE (kiểm định Modified Wald) chứng minh có xảy ra
hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình ước lượng ban đầu do P-value < 5%
(Prob > chi2 = 0,0000). Nhưng kiểm định Wooldridge cho thấy không xuất hiện
80
hiện tượng tự tương quan trong tất cả các phương trình hồi quy. Ngoài ra, để xử lý
vấn đề phương sai thay đổi trong mô hình EF, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy
FE với điều chỉnh sai số chuẩn (FE - robust standard errors) dành cho nhỏ, lớn
(FE - cluster).
Bảng 3.4 Bảng tổng hợp các kết quả ước lượng ảnh hưởng của phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện đến TTCK và các kết quả kiểm định với các mô hình OLS,
FEM
Variable
OLS
FEM-cluster
REM
-0,8813978
-2,155102**
-2,155102*
-1,778959**
0,011
0,387
0,055
0,031
0,839
1,016
1,035
0,826
-4,598254***
-4,785188***
-4,785188***
-4,578459***
0,000
0,000
0,000
0,000
0,904
0,993
0,734
0,882
-0,0006348***
-0,0006722***
-0,0006722*
-0,0009343***
0,009
0,003
0,060
0,000
0,000
0,000
0,000
0,000
-0,1277528
-0,7771847
-0,7771847
0,1497132
0,319
0,649
0,342
0,750
0,777
0,279
0,792
0,469
0,1637325
2,098729***
2,098729***
1,20526**
0,001
0,661
0,008
0,019
0,646
0,372
0,680
0,513
0,7826034***
0,0114778
0,0114778
0,551053***
0,963
0,000
0,970
0,001
0,249
0,097
0,299
0,171
Constant
92,57421***
130,3531**
130,3531**
72,71303**
0,000
0,017
0,010
0,011
18,755
30,334
49,588
45,257
R-squared
R-squared 0,5472
within = 0,3518
within = 0,3518
within = 0,3188
Adj R-squared
between = 0,0071
between = 0,0071
between = 0,6337
0,5284
overall = 0,0877
overall = 0,0877
overall = 0,4709
151
Observations
151
151
151
F test that all β=0
F( 6, 144) = 29,01
F(6,129) = 11,67
F(6,15) = 34,68
Prob>F
Prob>F = 0,0000
Prob>F = 0,0000
Prob>F = 0,0000
FE, FE-cluster và RE.
81
Wald (chi2) Prob>
Wald chi2(6) =
Chi2
82,31
Prob > chi2 =
0,0000
Breusch
and
chi2(1) = 192,56
Pagan test Prob>
Prob > chi2 =
Chi2
0,0000
F
test
that all
F(15, 129) = 11,76
u_i=0
Prob > F = 0,0000
Prob>F
Hausman
test
chi2(5) = (b-
Chi2 Prob>Chi2
B)[(V_b-V_B)^(-
1)](b-B) = 10,45
Prob>chi2 = 0,0636
Wald
test
for
chi2 (16) = 390,65
heteroskedasticity
Prob>chi2 =
Chi2 Prob>Chi2
0,0000
Wooldridge
test
F( 1, 13) = 3,428
for autocorrelation
Prob > F = 0,0870
Kết quả được trình bày ở mỗi biến số trong mỗi mô hình theo thứ tự lần lượt là (i) giá trị trung bình của hệ số
hồi quy (Coeficient); (ii) mức ý nghĩa thống kê (P-value) và (iii) sai số chuẩn (Standard error);
* Có ý nghĩa thống kê tại mức 10%; ** Có ý nghĩa thống kê tại mức 5%; *** Có ý nghĩa thống kê tại mức
1%.
Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.
Qua bảng 3.4 cho thấy mặc dù tiếp cận ở các phương pháp khác nhau, nhưng
tất cả các kết quả của các mô hình đều đồng nhất và cùng kết quả như kỳ vọng về
mối quan hệ tích cực giữa sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự tăng
trưởng của TTCK. Các kết quả tìm được từ các mô hình OLS, FE, FE-cluster và RE
đã ủng hộ giả thuyết đó là sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện có mối tương
quan dương với sự phát triển của TTCK, trong đó kết quả này từ các mô hình OLS
và RE cho thấy tác động sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đến tăng trưởng
của TTCK là ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Cụ thể, trong
mô hình RE, với mỗi phần trăm tăng lên của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện
) thì kỳ vọng sẽ góp phần làm tăng trưởng TTCK ( ) lên trung bình vào (
khoảng 0,55% tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến 2015, với điều
82
kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này đồng nhất với hầu hết tất cả các nghiên
cứu trước đây (Catalan, Impavido & Musalem, 2000; Impavido, Musalem &
Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Meng & Pfau, 2010; Kim, 2010; Rocholl &
Niggemann, 2010; Raisa, 2012).
Điều thú vị là dấu hiệu của hệ số hồi quy thu được cho biến tự do kinh tế
( ) như là một yếu tố quyết định cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK và sự tăng trưởng của TTCK, trong mô hình OLS và FE, FE - cluster khi
xem xét các tác động cố định đặc thù thì lại mang dấu âm, tuy nhiên độ tin cậy là
thấp. Vì nghiên cứu đã xem xét một chỉ số tổng hợp về tự do kinh tế được đề xuất
như nghiên cứu của Raisa (2012) bao trùm cả 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế
(trong đó gồm tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, chi tiêu của
Chính phủ, tự do tiền tệ, tự do đầu tư, tự do tài chính, quyền sở hữu, tự do không bị
ảnh hưởng từ tham nhũng, tự do lao động) nên thật khó để có thể kết luận yếu tố
nào trong số 10 yếu tố trên đã tạo ra dấu hiệu tiêu cực này. Raisa (2012) giải thích
rằng tự do hoá tài chính và mở cửa thị trường vốn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động của thị trường vốn nội địa do dòng vốn đầu tư di chuyển ra nước ngoài,
nói cách khác, sự di chuyển của hoạt động kinh doanh vốn sang TTCK quốc tế làm
giảm hoạt động của thị trường vốn trong nước.
Còn trong mô hình hồi quy RE khi xem xét đến các tác động ngẫu nhiên,
ngoại trừ chỉ số tự do kinh tế ( ) có tác động tích cực đến sự phát triển của TTCK
nhưng ảnh hưởng này lại có độ tin cậy là thấp, thì tất cả các chỉ tiêu còn lại đều có
tác động có ý nghĩa thống kê đến sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
và sự tăng trưởng của TTCK. Cụ thể như sau:
Tỷ lệ lạm phát ( ) có ảnh hưởng bất lợi (tác động âm) đến sự phát triển của
TTCK ( ) tại mức ý nghĩa thống kê 5% cho thấy tại các nền kinh tế APEC trong
giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015, cứ mỗi phần trăm tăng lên của tỷ lệ lạm phát
( ) làm giảm sự tăng trưởng của TTCK ( ) trung bình vào khoảng -1,77% trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này phù hợp với Boyd, Levine &
Smith (2001), Raisa (2012) cho thấy mức lạm phát cao hơn có liên quan đến một
quy mô TTCK nhỏ hơn, ít hoạt động hơn và kém hiệu quả hơn.
83
Lãi suất dài hạn ( ) tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến
2015 cho thấy sự thay đổi về lãi suất của các công cụ nợ dài hạn có tác động tiêu
cực và có ý nghĩa thống kê tại mức 1% đến sự tăng trưởng của TTCK ( ), theo
đó cứ mỗi phần trăm tăng lên của lãi suất dài hạn ( ) làm giảm sự tăng trưởng
của TTCK ( ) trung bình vào khoảng -4,57% trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi.
) tại các nền kinh tế APEC trong giai
Thu nhập bình quân đầu người (
đoạn 2000 đến 2015 có tác động tiêu cực đến sự phát triển của TTCK ( ). Mặc
dù kết nối này dường như là rất yếu nhưng kết quả hồi quy là có ý nghĩa thống kê
tại mức 1%. Theo đó cứ mỗi phần trăm tăng lên của thu nhập bình quân đầu người
) làm sự tăng trưởng của TTCK (
( ) thiên về khuynh hướng giảm trung
bình vào khoảng -0,00% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Điều này đã
được lưu ý trong nghiên cứu của Kim (2010) khi mà quy mô vốn hóa thị trường
tăng trưởng chậm hơn so với sự phát triển của GDP thì có thể mang đến ảnh
hưởng tiêu cực (tác động âm) đến sự phát triển của TTCK.
Tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao động ( ) tại
các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến 2015 có mối tương quan thuận và
có ý nghĩa thống kê tại mức 5% với sự phát triển của TTCK nội địa được đại diện
bởi biến quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa ( ), theo đó cứ mỗi phần
trăm tăng lên của tỷ lệ dân số già hóa ( ) được kỳ vọng làm cho sự phát triển
của TTCK ( ) tăng trung bình vào khoảng 1,20% trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi.
3.6.3 Bài học kinh nghiệm
Qua đó, nghiên cứu cho thấy bài học kinh nghiệm để phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK Việt Nam từ các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK nói riêng, phát triển TTCK nói chung tại các nền kinh tế APEC là:
Cần duy trì ổn định các yếu tố kinh tế vĩ mô, đặc biệt là tỷ lệ lạm phát;
84
Chú trọng mức độ phát triển tài chính trong nền kinh tế thông qua hiện đại
hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, đa dạng hóa các sản phẩm tài chính trên
TTCK;
Thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của quy mô vốn hóa của tài sản quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK cũng như quy mô vốn hóa TTCK nhanh hơn so với tốc độ
tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người;
Quan tâm đến các cải cách toàn hệ thống hưu trí, thực hiện theo hướng mô
hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, trong đó chú trọng phát triển các quỹ hưu
trí tự nguyện theo mô hình DC. Đồng thời, khuyến khích tăng cường dự
phòng tiết kiệm trong dân cư nhằm góp phần gia tăng quy mô tài sản của
quỹ hưu trí tự nguyện bên cạnh nguồn lợi tức có được từ việc đầu tư các tài
sản của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.
Kết luận Chương 3
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của Chương 3, luận án đã tập trung
phân tích thị trường hưu trí của các quốc gia thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Nhìn chung, các kết quả từ phân tích định lượng mô hình hồi quy của
nghiên cứu cũng đã xác nhận những phát hiện từ các tài liệu nghiên cứu trước về
mối liên quan tích cực giữa sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện với sự phát
triển của TTCK. Sự gia tăng hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện dẫn đến sự
tăng trưởng tài sản tài chính của các quỹ này có tương quan dương với sự phát triển
của quy mô vốn hóa thị trường với hệ số hồi quy là dương và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi tại các nền kinh tế thuộc APEC
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015.
Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu cũng đồng nhất quan điểm của Hu
(2012) khi cho rằng sự tăng trưởng tài sản hưu trí có những tác động tích cực đến
phát triển tài chính, ví dụ như lãi suất thấp hơn và mức vốn hóa TTCK cao hơn và
các Chính phủ của các nền kinh tế thuộc AEPC nên tiếp tục cải cách hệ thống hưu
trí của mình hướng tới việc tạo ra các nguồn tài chính trang trải cho các nghĩa vụ nợ
phải trả trong tương lai thông qua việc thiết lập các chương trình hưu trí tự nguyện.
Từ đó, nghiên cứu góp phần bổ sung thêm kết quả chứng minh từ khu vực Châu Á -
85
Thái Bình Dương, góp phần chứng minh tác động tích cực của tăng trưởng quỹ hưu
trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường vốn một cách toàn diện trên toàn thế
giới.
Nghiên cứu cũng đã xem xét các yếu tố lượng hóa, cụ thể hóa các điều kiện
kiểm soát sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK thường được lựa chọn
phân tích như (i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn trên thị trường TPCP; (iii) GDP
bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v) tỷ lệ người già trên 100 người
trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Hryckiewicz,
2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012). Bài học kinh nghiệm
từ kết quả nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền
kinh tế thuộc APEC của luận án là một trong các cơ sở để tác giả đề xuất các
khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
86
CHƯƠNG 4. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Trong chương 4, luận án giới thiệu tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong
hệ thống hưu trí Việt Nam thông qua việc trình bày quá trình hình thành và phát
triển hệ thống hưu trí tại Việt Nam bao gồm (i) quá trình hình thành và phát triển hệ
thống hưu trí Việt Nam (ii) vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí
Việt Nam; (iii) Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung. Luận án
trình bày về thực trạng phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam thông qua các
khía cạnh sau: (i) cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện; (ii) thực trạng phát
triển các chương trình hưu trí tự nguyện; (iii) hoạt động của các quỹ hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam. Luận án cũng trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam bằng mô hình PESTLIED và xem xét triển vọng phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam và đánh giá triển vọng phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện trên TTCK Việt Nam từ sự lựa chọn của cá nhân là công dân Việt Nam.
4.1 Tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt
Nam
4.1.1 Quá trình hình thành và phát triển hệ thống hưu trí Việt Nam
BHXH ở Việt Nam bao gồm BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
trợ cấp xã hội và các chương trình việc làm. BHXH ở Việt Nam bao gồm lương hưu
và trợ cấp ngắn hạn (bao gồm thai sản và hỗ trợ cho sự thay đổi thu nhập trong
trường hợp sinh con, nghỉ ốm, thất nghiệp, tai nạn lao động, người già, người tàn tật
và đủ sống). Hệ thống hưu trí là một bộ phận của hệ thống BHXH Việt Nam, do đó
quá trình hình thành của hệ thống hưu trí gắn liền với các giai đoạn phát triển của hệ
thống BHXH Việt Nam. Về mặt xã hội, chế độ hưu trí dành cho những người không
còn tham gia vào quan hệ lao động nữa. Vì vậy, chế độ này rất cần thiết và không
thể thiếu được vì đến lúc hết tuổi lao động thì người lao động vẫn có nhu cầu bảo
đảm cuộc sống. Lúc này, lương hưu là nguồn thu nhập chính của họ nên được
87
hưởng trợ cấp lương hưu là nguồn động lực cơ bản để người lao động tham gia vào
quan hệ BHXH (Bảng 4.1).
Bảng 4.1 Quá trình phát triển hệ thống BHXH của Việt Nam.
Thời gian
Sự kiện đối với hệ thống BHXH Việt Nam
8/1945
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.
12/1946
Hiến pháp đầu tiên đã xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già.
12/3/1947
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký 02 sắc lệnh số 76 và 77/SL vào ngày 20/5/1950, trong
đó quy định về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công
nhân viên chức.
27/12/1961 Điều lệ tạm thời về BHXH được ban hành ở miền Bắc. Đây là văn bản gốc về
BHXH đối với cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước, gồm có 6 chế độ và quy
định Quỹ BHXH nằm trong NSNN, do các cơ quan, đơn vị đóng góp. Năm 1964,
điều lệ đãi ngộ đối với quân nhân được ban hành.
Tại miền Nam, BHXH cũng được thực hiện đối với người làm công, hưởng lương
và binh lính làm việc cho chính thể chính quyền cũ.
Từ
1975
BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Đối tượng chủ yếu là cán bộ, công
đến
nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang.
trước 1995
01/01/1995 Bộ Luật Lao động được ban hành, quy định về hình thành Quỹ BHXH độc lập với
NSNN, do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ
của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện
các chế độ BHXH, quy định thêm thành phần kinh tế tư nhân tham gia BHXH.
29/6/2006 Quốc hội thông qua Luật BHXH, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH
bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện; từ 01/01/2009 đối với
BHTN.
20/11/2014 Quốc hội thông qua Luật BHXH năm 2014 với những bổ sung, sửa đổi quan trọng
so với luật BHXH năm 2006.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Giang Thanh Long (2004), Điều Bá Dược (2013).
Qua bảng 4.1 cho thấy hệ thống BHXH của Việt Nam có sự hình thành, sửa
đổi bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do đó, hệ thống
hưu trí của Việt Nam cũng có những thay đổi quan trọng trong quá trình hình thành
và phát triển của mình như sau:
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1995
88
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1954, do đất nước còn đang trong giai
đoạn kháng chiến, nên việc thực hiện chế độ BHXH còn gặp nhiều khó khăn và hạn
chế, nhưng cũng đã tạo nền móng cho quá trình phát triển của BHXH sau này.
Đến giai đoạn từ năm 1954 đến trước năm 1975, miền Bắc đã được giải
phóng, các văn bản pháp lý và chính sách về BHXH được hình thành và phát triển
nhanh, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Khi Nghị định 218/CP được ký ngày
27/12/1961 về ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân
viên chức Nhà nước được thực thi ở miền Bắc vào cuối năm 1961 thì hệ thống hưu
trí cũng bắt đầu hoạt động từ năm 1962.
Từ năm 1975 đến trước năm 1995, BHXH được thực hiện thống nhất trong
cả nước. Khoản hưởng lợi được chi trả từ quỹ BHXH - quỹ được hình thành từ
khoản đóng góp của người sử dụng lao động (một phần quỹ lương) và từ trợ cấp của
Chính phủ. Quỹ BHXH do Chính phủ quản lý và bảo trợ và là một bộ phận của
NSNN.
Do đó, đặc điểm BHXH của Việt Nam giai đoạn này gắn với nền kinh tế tập
trung, bao cấp; đối tượng chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và lực
lượng vũ trang; nguồn chi trả các chế độ từ NSNN thường chậm, thiếu chủ động, tổ
chức bộ máy thực hiện phân tán. Trong đó, chế độ BHXH đối với công nhân viên
chức Nhà nước là chế độ PAYG theo kế hoạch có mức hưởng được xác định trước
(DB) (Giang Thanh Long, 2004; Điều Bá Dược, 2013).
Nhìn chung, trước năm 1995, hệ thống hưu trí của Việt Nam là hệ thống có
mức hưởng được xác định trước (DB), chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức
năng dưới sự giám sát của Chính phủ và chỉ có lao động của khu vực công tham gia
vào hệ thống. Trong đó, mức hưởng hưu trí được xác định căn cứ vào số năm đóng
góp và thu nhập cơ sở (thường là mức lương vào thời điểm nghỉ hưu) và được chi
trả từ Quỹ BHXH. Quỹ BHXH này do Nhà nước quản lý và bảo trợ, là một bộ phận
89
của NSNN, quỹ được hình thành từ các khoản đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động và trợ cấp từ Nhà nước3.
Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2007
Từ năm 1995 đến trước năm 2007, chiến lược phát triển Việt Nam theo nền
kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội đã tạo điều kiện cho thành phần kinh
tế tư nhân phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng làm phát sinh những vẫn đề phức
tạp khó khăn trong việc quản lý hành chính, tài chính và đặc biệt bảo vệ quyền lợi
cho người lao động. Chính vì vậy, Bộ Luật Lao động số 35-L/CTN được Chính phủ
ban hành ngày 23/6/1994, có hiệu lực thực hiện từ 01/01/1995, dành một chương về
BHXH, quy định về đối tượng được mở rộng; hình thành Quỹ BHXH độc lập với
NSNN, do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ
của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện
các chế độ BHXH.
Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH
Việt Nam (Vietnam Social Insurance - VSI), trên cơ sở thống nhất chức năng,
nhiệm vụ về BHXH của Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (MOLISA) và Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam. Về chính sách BHXH, Chính phủ ban hành Nghị
định số 12/CP kèm theo Điều lệ BHXH áp dụng cho cán bộ, công nhân viên chức
và người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế.
Ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP kèm theo Điều lệ
BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân
dân và công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu.
Như vậy, từ năm 1995 trở đi, hệ thống hưu trí của Việt Nam được quản lý
bởi BHXH Việt Nam (VSI). Hệ thống hưu trí chủ yếu là hệ thống hưu trí công vận
toàn bộ cho số người được hưởng lợi của hệ thống trước năm 1995 và sau đó nhận khoản thanh toán từ Chính
phủ thông qua Bộ Tài chính. Điều này nghĩa là lương hưu cho các cá nhân nghỉ hưu trước năm 1995 được
thanh toán từ ngân sách nhà nước. Các đối tượng này đã được tích hợp vào hệ thống mới, nhưng Chính phủ
ghi nhận rằng các quyền lợi lương hưu có trước năm 1995 vẫn nên do Nhà nước chi trả để chi phí không
đánh vào những người đóng góp hiện tại. Điều này dẫn tới việc tồn tại hai hệ thống chồng chéo và vướng víu
(WB, 2012).
3 Trên thực tế, từ sau năm 1995, BHXH Việt Nam (Vietnam Social Insurance - VSI) nhận trách nhiệm chi trả
90
hành theo cơ chế PAYG có mức hưởng được xác định trước (DB) nhưng trong đó
có sự quy định thêm sự tham gia của cả thành phần kinh tế tư nhân.
Giai đoạn từ năm 2007 đến trước 2014
Luật BHXH được thông qua vào năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ
01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện;
từ 01/01/2009 đối với Bảo hiểm thất nghiệp. Các quy định của Luật BHXH về chế
độ hưu trí được kế thừa từ các quy định trước đây; có phát triển, mở rộng về đối
tượng, loại hình BHXH tự nguyện. Các chế độ BHXH được quy định cụ thể có lợi
hơn cho người lao động như quy định chặt chẽ về quản lý, sử dụng, đầu tư tăng
trưởng Quỹ BHXH, trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, quản lý, giám sát
việc quản lý và Quỹ BHXH công khai, minh bạch, góp phần bảo đảm an sinh xã
hội.
Hệ thống hưu trí của Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm chế độ
hưu trí nằm trong BHXH theo các quy định pháp luật về BHXH và bảo hiểm hưu trí
(niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp.
Tóm lại, từ năm 2007 trở đi, cùng với sự ra đời của luật BHXH, hệ thống
hưu trí của Việt Nam chủ yếu vẫn là hệ thống hưu trí công theo cơ chế PAYG có
mức hưởng được xác định trước (DB) nhằm bảo đảm an sinh xã hội với chương
trình bảo hiểm hưu trí bắt buộc. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí đã có sự phát triển mở
rộng thêm về đối tượng áp dụng, chương trình bảo hiểm hưu trí tự nguyện theo mô
hình DC, trong đó người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. Đây cũng
chính là cơ sở phát triển đối với quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của
Việt Nam trong tương lai.
Giai đoạn từ năm 2014 đến nay
Theo hình 4.1, bên cạnh hệ thống hưu trí BHXH mang tính chất bắt buộc
theo cơ chế PAYG với mô hình DB, cùng với chương trình bảo hiểm hưu trí tự
nguyện theo mô hình DC, Luật BHXH năm 2014 đề cập đến chương trình bảo hiểm
hưu trí bổ sung mang tính chất tự nguyện nhằm hướng tới mô hình hệ thống hưu trí
91
đa trụ cột. Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển quỹ hưu trí bổ sung và quỹ hưu
Hệ thống hưu trí Việt Nam
Chính sách bảo
Chương trình bảo hiểm
Đề án BH hưu
hiểm hưu trí bổ
trí và quỹ hưu
hưu trí tự nguyện
Chế độ BHXH hiện hành
sung
trí tự nguyện
(Cục giám sát
BH trình
Quỹ hưu trí
Sản phẩm hưu
trí tự nguyện vẫn đang trong giai đoạn sơ khởi.
BTC),
bổ sung
Quỹ hưu trí tự nguyện
trí tự nguyện
Thông tư
115/2013 ban
hành ngày
20/8/2013
Đề án thí điểm Chính sách bảo hiểm hưu
Đề án hình thành và phát triển
trí bổ sung (Bộ LĐ - TB&XH trình
Chương trình hưu trí tự nguyện
Chính phủ), Nghị định số 88/2016/NĐ-
theo Quyết định số 144/2014/QĐ-
CP ngày 01/7/2016, Thông tư số
TTg ngày 20/01/2014
86/2017/TT-BTC ban hành ngày
15/8/2017
*Việt Nam hiện vẫn chưa hình thành quỹ hưu trí bổ sung và quỹ hưu trí tự nguyện.
Quỹ BHXH
Hình 4.1 Hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2014.
Nguồn: Bùi Cẩm Hường (2014); Thùy Dương (2017); các văn bản pháp luật liên
quan.
Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2016 với bổ sung và sửa
đổi các nội dung quan trọng về cách tính mức lương hưu, tuổi nghỉ hưu, chế độ tử
tuất, mức đóng BHXH, phương thức đóng BHXH, sửa đổi bổ sung chính sách hỗ
trợ của Nhà nước đối với người tham gia BHXH tự nguyện cũng như mở rộng đối
tượng áp dụng BHXH bắt buộc.
Trong đó, người lao động trong Doanh nghiệp Nhà nước, hưởng lương theo
hệ số theo Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 24/12/2004, trước năm 2016 đang
đóng, hưởng BHXH theo hệ số, thì từ ngày 01/01/2016 trở đi tính đóng BHXH theo
tiền lương ghi trong hợp đồng lao động như những người lao động làm việc trong
92
doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước nhằm tạo sự bình đẳng giữa khu vực Doanh
nghiệp Nhà nước và Doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Ngoài ra, tiền lương đóng
BHXH từ 01/01/2016 là tiền lương ghi trong hợp đồng lao động, gồm thêm phụ cấp
lương, và từ 01/01/2018 còn có thêm cả các khoản phụ cấp khác (MOLISA, 2015).
Cũng trong nội dung luật BHXH 2014, bảo hiểm hưu trí bổ sung lần đầu tiên
được đề cập đến với ý nghĩa là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm
mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ
sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, dưới hình thức tài
khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tư theo
quy định pháp luật.
4.1.2 Vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam
Theo WB, một hệ thống bảo hiểm hưu trí phát triển toàn diện có kết cấu 3
tầng bảo vệ. Trong đó, tầng 1 là bảo hiểm hưu trí cơ bản với vai trò nền tảng nhằm
bảo đảm mức thu nhập tối thiểu cho người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu. Hưu trí
cơ bản được Nhà nước bảo hộ cả về ngân sách lẫn chính sách. Còn tầng 2 là bảo
hiểm hưu trí bổ sung, đóng vai trò hỗ trợ thêm cho người nghỉ hưu và cũng nằm
trong chính sách an sinh xã hội do Nhà nước quản lý và điều tiết. Tầng 3 là bảo
hiểm hưu trí tự nguyện, nhằm phủ lấp những phần mà 2 tầng hưu trí trước chưa bao
trùm hết. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn bao gồm
(i) chế độ hưu trí nằm trong BHXH theo các quy định pháp luật về BHXH và (ii)
bảo hiểm hưu trí (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Trong đó,
bảo hiểm niên kim mang tính chất tự nguyện, tiết kiệm cá nhân, đóng góp không
đáng kể trong hệ thống hưu trí của Việt Nam.
Bảng 4.2 Hệ thống hưu trí Việt Nam xét theo mô hình đa trụ cột của WB.
Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank
Trụ cột 0
Trụ cột I
Trụ cột II
Trụ cột III
Trụ cột 4
(A non-
(A mandatory
(A mandatory
(“A voluntary
(A non-
contributory
“first pillar”)
“second pillar”)
“third-pillar”)
financial
Quỹ hưu trí bắt
Quỹ hưu trí bổ
Quỹ hưu trí tự nguyện
“zero pillar”)
“fourth
Quỹ trợ cấp
buộc (Mandatory
sung/Quỹ hưu trí nghề
(Voluntary pension)
pillar”)
Chính phủ
publicly managed
nghiệp (Mandatory
Quỹ hỗ trợ tự
93
pension)
privately managed
nguyện
pension)
(Voluntary
non-pension)
Hệ thống hưu trí Việt Nam
Không có hệ
BHXH
BHHT bắt buộc
BHHT tự nguyện
Sức khỏe và
Chưa có trụ cột này
Chủ yếu là BH niêm
thống phúc
Đối tượng tham
nhà ở
gia: Người lao
kim và BHHT tự
Chưa có trụ cột
lợi toàn dân
Đối tượng tham gia:
động (NLĐ)
NLĐ
nguyện mới triển khai
này
Bắt buộc: Đóng
Bắt buộc: Đóng góp
từ 15/10/2013
góp bởi NLĐ và
bởi NLĐ và NSDLĐ
Đối tượng tham gia:
Người sử dụng lao
Hình thức: DC
NLĐ
động (NSDLĐ)
Tự nguyện: Đóng
Hình thức: DB -
góp bởi NLĐ và
PAYG
NSDLĐ
Hình thức: DB, DC
Nguồn: Nguyễn Thị Lê Thu (2014), Lưu Hải Vân (2014).
Do vậy, Bảng 4.2 cho thấy nếu áp dụng mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột
do WB xây dựng thì hệ thống hưu trí Việt Nam vẫn là hệ thống đơn tầng (chủ yếu
là trụ cột I - BHXH bắt buộc), chưa có hệ thống phúc lợi xã hội toàn dân, trụ cột III
- bảo hiểm hưu trí tự nguyện - đang được hình thành và đóng góp chưa đáng kể, còn
trụ cột II - bảo hiểm hưu trí bổ sung thì vẫn chưa được triển khai.
4.1.3 Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung trong hệ
thống hưu trí Việt Nam
Quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ bảo hiểm hưu trí bổ sung đều là một
phần nguồn thu nhập của người đến tuổi nghỉ hưu. Mỗi người đều có tài khoản hưu
trí riêng biệt. Tài sản tích lũy và hình thành trong tài khoản hưu trí thuộc quyền sở
hữu của người tham gia bảo hiểm và được quyền sử dụng khi đến tuổi nghỉ hưu.
Bảng 4.3 Phân biệt bảo hiểm hưu trí bổ sung và bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
Tiêu chí
Bảo hiểm hưu trí bổ sung
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện
Là sản phẩm thương mại, sản phẩm bảo
Nguyên
tắc
thực
Không phải là một sản phẩm thương mại,
hiểm nhân thọ, do các công ty bảo hiểm
hiện
mà là một chính sách BHXH.
nhân thọ cung cấp.
Theo hình thức tự nguyện (trong giai
Hình thức đóng góp
đoạn đầu) và bắt buộc (trong giai đoạn
Theo hình thức tự nguyện.
sau).
94
Cá nhân người lao động, hoặc nhóm
Người lao động và người sử dụng lao
người lao động (bảo hiểm hưu trí nhóm
Đối tượng tham gia
động đang tham gia BHXH bắt buộc.
do chủ sử dụng lao động mua).
Tỷ lệ đóng góp quy định trong hợp đồng
lao động/thỏa ước lao động tập thể, trích
Phụ thuộc vào ý chí cá nhân hoặc người
Mức đóng góp
từ tiền lương hàng tháng của người lao
sử dụng lao động.
động, có quy định mức đóng góp tối
thiểu và mức đóng góp tối đa.
Công ty bảo hiểm nhân thọ cam kết lãi
Quyền lợi chi trả
Toàn bộ lợi nhuận thu được từ đầu tư sẽ
suất đầu tư tối thiểu tại hợp đồng bảo
cho người tham gia
chi trả cho người tham gia.
hiểm, có thể chia thêm lãi tùy thuộc vào
kết quả kinh doanh.
Quyền
lợi
cho
Áp dụng khi người được bảo hiểm suy
người tham gia khi
Toàn bộ các khoản đóng góp của người
giảm khả năng lao động 61% trở lên
rút tài khoản trước
lao động được hoàn lại
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
hạn
Tuân thủ theo quy định về danh mục và
hạn mức đầu tư tài sản của quỹ tại
Nhà nước quy định hoạt động đầu tư của
Thông tư 115/2013/TT-BTC. Tài sản
Danh mục đầu tư
quỹ, bao gồm danh mục đầu tư và các
của quỹ không được đầu tư trực tiếp
của quỹ
loại tài sản đầu tư.
vào bất động sản, vàng, bạc, …, cổ
phiếu CTCK, công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính.
Công ty quản lý quỹ, ngân hàng lưu ký,
Tổ chức tài chính
các tổ chức và các định chế tài chính
Công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty
trung gian tham gia
trung gian khác (tổ chức quản trị dịch vụ
quản lý quỹ.
thành viên, tổ chức dịch vụ quản trị quỹ).
Phí quản lý quỹ <2% giá trị tài sản đầu
tư, phí chuyển khoản tài khoản, phí
Phí
Chưa đề cập đến phí trong đề án.
quản lý hợp đồng bảo hiểm, phí bảo
hiểm rủi ro.
Quy định thời gian
tối thiểu (sau khi ký
Quy định cụ thể trong hợp đồng bảo
hợp đồng làm việc
Thời gian làm việc tối thiểu 5 năm để
hiểm hưu trí của công ty bảo hiểm nhân
tối thiểu) để được
nhận được 100% hưu trí bổ sung.
thọ.
hưởng khoản hưu
trí
Ưu đãi
thuế
thu
Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương
Có ưu đãi thuế thu nhập cho người lao
nhập
binh và Xã hội, ưu đãi thuế thu nhập
động và người sử dụng lao động.
95
(dành cho người lao động và người sử
dụng lao động) của bảo hiểm hưu trí bổ
sung nên cao hơn mức ưu đãi thuế thu
nhập của bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
- Theo bộ Luật Lao động, Luật BHXH
- Đề án thí điểm Chính sách bảo hiểm
- Theo Luật kinh doanh bảo hiểm
hưu trí bổ sung do Bộ Lao động -
(2000) và Luật sửa đổi kinh doanh bảo
Thương binh và Xã hội trình Chính phủ
hiểm (2010).
- Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày
- Đề án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí
Văn bản pháp luật
01/7/2016 của Chính phủ về chương
tự nguyện do Cục giám sát Bảo hiểm
liên quan
trình hưu trí bổ sung tự nguyện
trình Bộ Tài chính
- Thông tư số 86/2017/TT-BTC ban hành
- Thông tư số 115/2013/TT-BTC hướng
ngày 15/8/2017 hướng dẫn thực hiện một
dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự
số điều của Nghị định số 88/2016/NĐ-
nguyện ban hành ngày 20/8/2013
CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về
chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện
Nguồn: Bùi Cẩm Hường (2013), các văn bản pháp luật liên quan.
Tuy nhiên, quỹ hưu trí tự nguyện là trụ cột III. Trong khi đó, quỹ hưu trí bổ
sung là trụ cột II trong hệ thống hưu trí đa trụ cột. Bảng 4.3 cho thấy theo các đề án
liên quan đến bảo hiểm hưu trí tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ sung của Việt
Nam, hai loại sản phẩm này có các điểm khác nhau cơ bản.
Quỹ hưu trí tự nguyện là một mô hình mà các quốc gia đều triển khai và có
thể áp dụng tại Việt Nam hiện nay. Trong đó, việc triển khai và áp dụng chương
trình hưu trí tự nguyện nhằm hướng đến 3 mục tiêu mà Chính phủ đặt ra, bao gồm:
(i) khuyến khích và cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính để người lao động gia tăng
tiết kiệm cho tương lai khi kết thúc tuổi lao động; (ii) đa dạng hóa các chương trình
an sinh xã hội, giúp hình thành đồng bộ hệ thống hưu trí đa trụ cột tại Việt Nam,
giảm gánh nặng an sinh xã hội cho Nhà nước trong dài hạn; (iii) phát triển thị
trường vốn thông qua việc củng cố cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn.
Khác với bảo hiểm hưu trí tự nguyện là loại hình sản phẩm thương mại, bảo
hiểm hưu trí bổ sung là một chính sách được Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội
đề xuất triển khai nhằm đối phó với thực tế lương hưu thấp trong xu hướng già hóa
dân số nhưng vẫn muốn hướng tới mục tiêu hình thành hệ thống hưu trí đa trụ cột.
Theo đó, lộ trình được thực hiện theo 3 giai đoạn:
96
Giai đoạn 1 (2012 - 2015): hình thành khung pháp lý, tổ chức thí điểm đối
với một số tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Giám sát quá
trình hoạt động và thực hiện các cải tiến cần thiết để hoàn thiện hệ thống.
Giai đoạn 2 (2015 - 2020): hoàn thiện khung pháp lý và mở rộng đối tượng
tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí bổ sung.
Giai đoạn 3 (sau 2020): nghiên cứu chuyển đổi mô hình quỹ hưu trí bổ sung
từ hình thức tự nguyện sang hình thức bắt buộc.
Từ đó cho thấy bảo hiểm hưu trí bổ sung cũng bao gồm bảo hiểm hưu trí bổ
sung tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ sung bắt buộc. Do trong bối cảnh ở Việt
Nam hiện nay chưa có đủ điều kiện để triển khai được các chương trình bảo hiểm
hưu trí bổ sung bắt buộc do thu nhập của người dân phần lớn còn ở mức độ trung
bình thấp nên hiện tại, Việt Nam đang tập trung hoàn thiện khung pháp lý nhằm
hình thành và phát triển mô hình bảo hiểm hưu trí bổ sung tự nguyện thông qua
Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về chương trình hưu
trí bổ sung tự nguyện và Thông tư số 86/2017/TT-BTC ban hành ngày 15/8/2017
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016
của Chính phủ về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện.
4.2 Tổng quan về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán Việt Nam
4.2.1 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Kể từ sau năm 2013, TTCK Việt Nam được tập trung tái cấu trúc với nhiều
chính sách mang tính đổi mới. Trong đó, TTCK Việt Nam chào đón sự hình thành
của bảo hiểm hưu trí tự nguyện nguyện (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân
thọ cung cấp và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam từ cuối năm 2013 dựa trên Đề
án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện của Cục Giám sát Bảo hiểm trực
thuộc Bộ Tài chính. Sự phát triển của bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự
nguyện được kỳ vọng giúp tạo lập và làm đa dạng cơ sở nhà đầu tư tổ chức bên
cạnh ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian khác trên TTCK Việt Nam và
góp phần phát triển TTCK Việt Nam.
97
Bộ Tài chính
Đại lý hưu trí 1
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Đại lý hưu trí 2
Tổ chức lưu ký
Đại lý hưu trí 3
Công ty quản lý quỹ
Ngân hàng giám sát
Đại lý hưu trí n
Quỹ hưu trí tự nguyện
Tài khoản hưu trí cá nhân 3
Tài khoản hưu trí cá nhân 1
Tài khoản hưu trí cá nhân 2
Tài khoản hưu trí cá nhân n
Chương trình hưu trí tự nguyện dành cho nhóm/cá nhân
Hình 4.2 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BTC.
Theo hình 4.2, trong chương trình hưu trí tự nguyện, mỗi người lao
động/thành viên sẽ có một tài khoản hưu trí cá nhân thông qua việc ký kết hợp đồng
bảo hiểm hưu trí tự nguyện do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Tập hợp tất
cả các tài khoản hưu trí cá nhân của người lao động/thành viên từ các nhóm hưu trí
của doanh nghiệp/cá nhân hình thành nên quỹ hưu trí tự nguyện (private individual
voluntary funded pension funds).
Tại Việt Nam, bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện đã bắt đầu được
triển khai sau khi thông tư số 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn
bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện có hiệu lực từ 15/10/2013. Theo đó:
Quỹ hưu trí tự nguyện là loại hình quỹ đầu tư, được quản lý bởi công ty quản
lý quỹ được ủy thác hoặc được thuê bởi công ty bảo hiểm nhân thọ dưới sự giám sát
của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính thông qua các quy định nhằm bảo đảm tính an
toàn và thận trọng trong hoạt động của quỹ để bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Công ty quản lý quỹ dạng mở, quản lý tách biệt các tài sản đầu tư từ quỹ hưu trí tự
nguyện của công ty bảo hiểm với các quỹ khác của công ty bảo hiểm và của các
khách hàng khác.
98
Về phía Bộ Tài chính: Quy định việc thiết lập và quản lý quỹ hưu trí thông
qua qua các Hướng dẫn, Thông tư, Nghị định, văn bản Luật liên quan, bao gồm:
(i) Quy định về việc thiết lập và sử dụng quỹ hưu trí tự nguyện;
(ii) Các quy định chặt chẽ về hoạt động đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện nhằm
hạn chế các rủi ro về đầu tư, bảo đảm tính an toàn và hiệu quả. Hàng năm, công ty
bảo hiểm phải có báo cáo tình hình hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện cho Bộ Tài
chính, sau khi được công ty kiểm toán độc lập xác nhận và sẽ thông báo về tình
hình đầu tư từ quỹ hưu trí tự nguyện đến với người lao động/thành viên;
(iii) Các yêu cầu tối thiểu về vốn để triển khai sản phẩm hưu trí tự nguyện cũng
như các yêu cầu về vốn tối thiểu tương ứng với các mức cam kết với khách hàng.
Yêu cầu về vốn tối thiểu có tác dụng như một quỹ dự phòng nhằm bảo đảm khả
năng thanh toán của công ty bảo hiểm với các cam kết thực hiện với khách hàng.
Về phía công ty bảo hiểm nhân thọ: ủy thác/thuê công ty quản lý quỹ để
quản lý danh mục đầu tư tài sản của quỹ theo đúng mục tiêu, chiến lược, hạn mức
đầu tư và quy định của pháp luật nhằm cung cấp quyền lợi bảo đảm tối thiểu cho
người mua bảo hiểm, nghĩa là trong mọi trường hợp, bất kể tình hình đầu tư của quỹ
hưu trí tự nguyện, công ty bảo hiểm nhân thọ đều cam kết một mức lợi suất đầu tư
tối thiểu cho người mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Cơ quan quản lý cũng giám sát
và kiểm tra chặt chẽ các cam kết này của công ty bảo hiểm nhân thọ với khách hàng
thông qua các báo cáo và các kỳ kiểm tra định kỳ.
Về phía công ty quản lý quỹ: Hiện tại công ty quản lý quỹ được hướng dẫn
thành lập và tổ chức hoạt động theo Thông tư Số 212/2012/TT-BTC hướng dẫn về
thành lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý quỹ ban hành ngày 5/12/2012 của
Bộ Tài chính.
4.2.2 Thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt
Nam
Đối với các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực
hiện theo quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự
nguyện (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Mục đích hướng đến
việc hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc, nhằm góp phần tạo nên một hệ
99
thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu
bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời,
nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua việc huy động nguồn phí bảo
hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư,
tăng trưởng kinh tế - xã hội. Trên phương diện là một công cụ hoạch định kế hoạch
tài chính cho tuổi nghỉ hưu, sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện đem lại những lợi
ích thiết thực đối với người tham gia (Lương Xuân Trường, 2014).
Bảng 4.4 biểu hiện 6 công ty trong 18 công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt
Nam có đủ điều kiện triển khai bảo hiểm hưu trí tự nguyện theo luật định là
Prudential Việt Nam, Bảo Việt Nhân thọ, Manulife, AIA Việt Nam, Dai-ichi Việt
Nam, PVI Sun Life.
Bảng 4.4 Các công ty bảo hiểm nhân thọ đủ điều kiện triển khai sản phẩm bảo
hiểm hưu trí trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Sản phẩm bảo hiểm hưu trí
Công ty bảo hiểm
STT
Năm công bố
nhân thọ
Dành cho Doanh nghiệp
Dành cho Cá nhân
1
Dai-ichi Life VN
Hưng nghiệp hưu trí
An nhàn hưu trí
2013
2 Manulife
Manulife - Điểm tựa hưu trí
2013
PVI Sunlife
Hưu trí PVI Sunlife
3
2013
AIA VN
An nghiệp hưu trí
4
2014
Phú - An thịnh hưu
Prudential VN
5
2015
trí
6
Bảo Việt Nhân thọ
Hưu trí vững nghiệp
Hưu trí An Khang
2015
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016), trang tin điện
tử chính thức của các công ty trên.
Dai-ichi Life Việt Nam là công ty bảo hiểm nhân thọ đã đưa ra sản phẩm
Bảo hiểm hưu trí tự nguyện đầu tiên trên thị trường từ ngày 15/10/2013. Sau đó,
Manulife, AIA Việt Nam và PVI Sunlife cũng công bố đưa sản phẩm bảo hiểm hưu
trí tự nguyện ra thị trường. Trong đó, có Dai-ichi Life VN và Bảo Việt Nhân thọ
phát triển dòng sản phẩm hưu trí tự nguyện dành cho nhóm lẫn cá nhân có thể tham
gia, 4 công ty bảo hiểm nhân thọ gồm Manulife, PVI Sunlife, AIA VN tập trung
100
triển khai dòng sản phẩm bảo hiểm hưu trí dành cho nhóm người lao động làm việc
tại doanh nghiệp, riêng Prudential VN phát triển dòng sản phẩm bảo hiểm hưu trí
dành cho cá nhân.
Bảng 4.5 Tình hình khai thác mới của các hợp đồng chính trên thị trường bảo
hiểm nhân thọ Việt Nam năm 2013 - 2015.
Hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng)
Số tiền bảo hiểm (tỷ đồng)
Phí bảo hiểm (tỷ đồng)
Loại hình
2013
2014
2015
2013
2014
2015
2013
2014
2015
bảo hiểm
Trọn đời
748
1.057
1.635
103
98
174
5
8
Sinh kỳ
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Tử kỳ
474.884
258.945
273,940
31.271
29.947
35,189
430
252
373
Hỗn hợp
395,477
399,712
545,238
46,204
64,877
3.109
3.906
5.739
Trả tiền
1.862
32.736
4.274
63
101
19,6
49
77
định kỳ
Liên kết
305.392
361.252
460.763
142.499
205.115
3.647
3.735
5.772
đầu tư*
Hưu trí
74
10.912
8.121
7
1.089
844
0,334
208
206
1.178.437 1.064.614
1.293.971 31.381 219.900 306.300
7.216
8.155
12.175
Tổng cộng
* Nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư gồm bảo hiểm liên kết đơn vị và bảo hiểm liên kết chung.
Nguồn: ISA - MOF (2015); ISA - MOF (2016).
Bảng 4.5 cho thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn khá khiêm tốn
về số lượng và quy mô giá trị hợp đồng bảo hiểm. Trong đó, thị trường bảo hiểm
hưu trí tự nguyện Việt Nam chỉ ghi nhận vài hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện
khi loại hình bảo hiểm này được giới thiệu vào tháng 10/2013, trong đó, chủ thể
tham gia đóng góp chủ yếu đến từ chính các nhân viên các doanh nghiệp bảo hiểm
và một số khách hàng doanh nghiệp đồng ý về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên chỉ trong
thời gian ngắn, từ 74 hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện với tổng giá trị chỉ ở
mức 7 tỷ đồng vào năm 2013 thì tổng số hợp đồng được khai thác mới đã tăng
trưởng lên đến 19.107 hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện có giá trị 1.940 tỷ theo
số liệu tích lũy hàng năm từ năm 2013 cho đến cuối năm 2015 (ISA - MOF, 2015;
ISA - MOF, 2016). Sau 3 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hưu trí tự nguyện, kết
quả tăng trưởng của bảo hiểm hưu trí tự nguyện khá ấn tượng trong thời gian ngắn
101
cho thấy tiềm năng phát triển khả quan của bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ hưu
trí tự nguyện trong tương lai tại Việt Nam.
4.2.3 Hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam
Hoạt động của bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện
nay vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, do đó thông tin số liệu còn hạn chế trên thị trường.
Điều này cũng làm hạn chế việc nghiên cứu trực tiếp hiệu quả hoạt động của các
quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. Tuy nhiên, do đặc thù về nguồn hình thành tài
sản của quỹ và đặc điểm đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ nên việc tiếp cận
hoạt động của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam
trở nên thuận lợi hơn xét về góc độ giá trị tài sản và phân bổ cơ cấu tài sản phù hợp
với chiến lược đầu tư và mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, đầu tư
tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện phải tuân thủ quy định pháp luật, tự chịu trách
nhiệm về hoạt động đầu tư, bảo đảm tính an toàn, hiệu quả, phân tán rủi ro, thanh
khoản, giá trị tài sản đầu tư tương xứng với trách nhiệm và đặc thù rủi ro của sản
phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
Về giá trị tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện
Quỹ hưu trí tự nguyện là quỹ được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm từ các
hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện và là một phần của quỹ chủ hợp đồng bảo
hiểm. Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện không phân chia mà xác định chung cho tất
cả các hợp đồng bảo hiểm thuộc quỹ hưu trí tự nguyện.
Tại Việt Nam, các công ty bảo hiểm nhân thọ đáp ứng điều kiện để thành lập
và quản lý quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam bắt buộc phải đóng góp và duy trì tối
thiểu 200 tỷ đồng từ vốn chủ sở hữu vào quỹ hưu trí tự nguyện theo luật định. Như
vậy, tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện hoạt động tại Việt Nam bao gồm tài sản hình
thành từ (i) nguồn phí bảo hiểm, (ii) nguồn đóng góp của công ty bảo hiểm nhân thọ
theo quy định của pháp luật và (iii) tài sản hình thành từ lợi nhuận đầu tư của các
nguồn trên. Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, tổng doanh thu phí bảo
hiểm của các hợp đồng khai thác mới của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính
đạt 8.155 tỷ đồng vào năm 2014 và 12,175 tỷ đồng vào năm 2015, tốc độ tăng
trưởng vào năm 2014 so với năm 2013 là 13,17%, năm 2015 so với năm 2014 là
102
49,29%. Điều này cho thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ đang có sự phát triển
mạnh mẽ tại Việt Nam trong những năm gần đây.
Bảng 4.6 Tỷ trọng khai thác mới hợp đồng bảo hiểm hưu trí trên thị trường
bảo hiểm nhân thọ giai đoạn 2013 - 2015.
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
% so thị
% so thị
% so thị
BHHT
BHHT
BHHT
trường
trường
trường
Hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng)
0,01%
10.912
1,02%
8.121
74
0,63%
Số tiền bảo hiểm (tỷ đồng)
0,02%
189
0,50%
844
7
0,28%
Phí bảo hiểm (tỷ đồng)
0,334
0,00%
208
2,55%
206
1,69%
Nguồn: ISA - MOF (2015); ISA - MOF (2016).
Bảng 4.6 cho thấy mặc dù sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện mới xuất
hiện trên thị trường bảo hiểm vào tháng 10/2013, đồng thời quy định pháp lý vẫn
đang được xây dựng để hoàn thiện, nhưng phí bảo hiểm khai thác mới từ hợp đồng
bảo hiểm hưu trí tự nguyện của các tài khoản hưu trí cá nhân này cũng đã tăng
trưởng đáng kể. Từ 74 hợp đồng bảo hiểm với doanh thu từ phí bảo hiểm khai thác
mới chỉ đạt 0,334 tỷ đồng vào năm 2013, bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho thấy triển
vọng tích cực với doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới năm 2014 lên hơn 208 tỷ
đồng, chiếm 2,55% tổng phí khai thác mới của toàn thị trường bảo hiểm nhân thọ
tính đến năm 2014; còn trong năm 2015 là 206 tỷ đồng, chiếm 1,69% tổng phí khai
thác mới của toàn thị trường bảo hiểm nhân thọ (ISA - MOF, 2015; ISA - MOF,
2016).
Về phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư
Cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ mang tính biến
động mức sinh lời thấp, do đó chủ yếu tập trung phần lớn vào TPCP và tiền gửi tại
các tổ chức tín dụng. Các hạng mục đầu tư rủi ro cao như cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản đầu tư
(ISA - MOF, 2015; ISA - MOF, 2016). Theo quy định hiện hành, tài sản của quỹ
hưu trí tự nguyện không được trực tiếp đầu tư vào bất động sản, vàng, bạc, kim loại
quý, đá quý; không được đầu tư vào cổ phiếu của các công ty chứng khoán
(CTCK), công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính (Bảng 4.7).
103
Bảng 4.7 Phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo
hiểm nhân thọ tại Việt Nam năm 2014 và 2015.
Năm 2014 (Đvt: %)
Năm 2015 (Đvt: %)
Tài sản
Trái phiếu Chính phủ
62,88
69,94
Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
25,72
18,64
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh
0,8
0,75
Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh
4,26
4,27
Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
0,38
0,27
Kinh doanh bất động sản
0,04
0,00
Cho vay
5,63
5,16
Ủy thác đầu tư
0,07
0,13
Khác
0,22
0,83
100
100
Cộng
Nguồn: ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016).
Hiện tại, do các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trực thuộc và được quản
lý bởi các công ty bảo hiểm nhân thọ, do đó cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ hưu trí
tự nguyện cũng tương tự cơ cấu danh mục chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ
với tính chất an toàn và tập trung chủ yếu vào tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và
TPCP theo quy định về tỷ trọng phân bổ tài sản.
Tuy nhiên, tùy vào sự thay đổi của thị trường tài chính và hoạt động đầu tư,
Bộ Tài chính có thể điều chỉnh danh mục và hạn mức đầu tư của quỹ hưu trí tự
nguyện theo Thông tư 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính (Bảng 4.8).
Bảng 4.8 Quy định đầu tư tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.
Tài sản
Tỷ trọng phân bổ tài sản
Tiền gửi tại tổ chức tín dụng
Mua không hạn chế, nhưng không quá 20% tổng giá trị tài sản
đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện vào một tổ chức tín dụng.
Trái phiếu Chính phủ
Mua không hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài
sản đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.
Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh và
Mua không vượt quá 25% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ
trái phiếu chính quyền địa phương
hưu trí tự nguyện.
Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không
Mua tối đa không quá 20% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ
có bảo lãnh, góp vốn vào doanh nghiệp
hưu trí tự nguyện.
104
khác
Việc đầu tư vào cổ phiếu đã phát hành của một doanh nghiệp,
trái phiếu doanh nghiệp không được vượt quá 5% khối lượng
mỗi lần phát hành và không được vượt quá 5% tổng giá trị tài
sản đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BTC.
Về doanh thu và chi phí hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện
Doanh thu của các quỹ hưu trí tự nguyện được ghi nhận khi tiền lãi phát sinh
theo cơ sở dồn tích dựa trên các lợi ích kinh tế có thể xác định được một cách chắc
chắn do các tài sản của quỹ đem lại. Doanh thu trong kỳ của các quỹ hưu trí tự
nguyện trên thị trường hiện nay chủ yếu đến từ (i) nguồn phí bảo hiểm niên kim và
(ii) nguồn lãi từ các khoản đầu tư, bao gồm đầu tư vào tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, trái phiếu và cổ phiếu theo quy định.
Chi phí trong kỳ của các quỹ hưu trí tự nguyện được ghi nhận phát sinh dựa
trên cơ sở dồn tích, chủ yếu bao gồm các loại phí như sau (i) phí ban đầu; (ii) phí
bảo hiểm rủi ro; (iii) phí quản lý hợp đồng bảo hiểm; (iv) phí quản lý quỹ; (v) phí
chuyển giao tài khoản hưu trí; (vi) chi trích lập dự phòng nghiệp vụ và (vii) chi
phân bổ cho phần tương ứng của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong quỹ (ISA -
MOF, 2015; ISA - MOF, 2016).
Về lãi suất đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện
Quỹ hưu trí tự nguyện được đầu tư một cách chuyên nghiệp để có thể mang
lại hiệu quả đầu tư trong dài hạn với chiến lược đầu tư an toàn, thận trọng. Theo đó,
lãi suất đầu tư được các quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện công bố công khai qua
hàng tháng, được ghi nhận theo giá trị danh nghĩa và có sự điều chỉnh phù hợp với
định hướng đầu tư của quỹ trước tình hình chung của nền kinh tế. Khi tiến hành
hoạt động đầu tư của quỹ, do lãi suất đầu tư thực tế có thể biến động so với lãi suất
đầu tư công bố tùy theo mức độ thuận lợi của thị trường, từ đó dẫn tới lãi suất tích
lũy vào giá trị tài khoản có thể tăng hoặc giảm. Tuy nhiên, các quỹ hưu trí tự
nguyện cũng công khai cụ thể lãi suất cam kết tích lũy tối thiểu vào tài khoản hưu
trí cá nhân nhằm bảo đảm quyền lợi bảo hiểm hưu trí tự nguyện của bên mua bảo
hiểm theo luật định.
105
Bảng 4.9 Tỷ suất sinh lời của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam giai đoạn
2013 - 2015.
(Đvt: %/năm).
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Công ty bảo hiểm
STT
nhân thọ
(i)
(ii)
(i)
(ii)
(i)
(ii)
Dai-ichi Life VN
10,75%
8,78%
10,49%
8,98%
8,55%
8,06%
1
n/a
4%*
n/a
4%*
7,12%
4%*
2
Manulife
n/a
n/a
5,89%
8 %
7,32%
7,51%
3
PVI Sunlife
8,13%
6%
8,12%
5,5%
4
AIA VN
3,55%
4%
5
Prudential VN
n/a
n/a
6
Bảo Việt Nhân thọ
(i) Lãi suất đầu tư thực tế
(ii) Lãi suất thanh toán cho bên mua bảo hiểm
* Lãi suất cam kết chi trả (lãi suất tích lũy tối thiểu vào tài khoản cho bên mua).
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016), trang tin điện
tử chính thức của các công ty trên.
Cụ thể theo bảng 4.9, đối với Dai-ichi Life VN, tỷ suất đầu tư thanh toán cho
bên mua luôn cao hơn hoặc bằng mức lãi suất cam kết tối thiểu là 5%/năm cho 10
năm đầu của hợp đồng bảo hiểm và 3%/năm cho những năm hợp đồng tiếp theo cho
cả loại hình sản phẩm hưu trí nhóm dành cho doanh nghiệp và dành cho cá nhân.
Lãi suất đầu tư thực tế của Dai-ichi Life VN trong giai đoạn 2013 - 2015 đều cao
hơn mức lãi suất đầu tư công bố (cụ thể là 10,75%/năm so với công bố là 9%/năm
trong năm 2013, năm 2014 là 10,49%/năm so với 9%/năm và năm 2015 là
8,55%/năm so với 8%/năm), do đó tỷ suất đầu tư thanh toán cho khách hàng cao
hơn mức lãi suất cam kết chi trả (cụ thể năm 2013 là 8,78%/năm so với 5%/năm,
năm 2014 là 8,98%/năm so với 5%/năm và năm 2015 là 8,06%/năm so với
5%/năm).
Đối với Manulife, quyền lợi hưởng lãi từ kết quả đầu tư của quỹ hưu trí tự
nguyện được cam kết tích lũy tối thiểu 4%/năm trên giá trị tài khoản hợp đồng trong
5 năm hợp đồng đầu tiên, 3%/năm cho năm hợp đồng thứ 6 đến năm hợp đồng thứ
106
10 và 2%/năm cho những năm hợp đồng tiếp theo. Lãi suất đầu tư thực tế trung
bình trong năm 2015 là 7,12%/năm.
Đối với PVI Sunlife, lãi suất đầu tư công bố trung bình trong năm 2014 là
8%/năm, lãi suất đầu tư thực tế là 5,89%/năm và lãi suất tích lũy hàng tháng được
ghi nhận chi trả cho bên mua bảo hiểm là 8%. Số liệu này trong năm 2015 lần lượt
là 7,58%/năm, 7,32%/năm và 7,51%/năm.
Đối với AIA VN, lãi suất đầu tư thực tế trung bình trong năm 2014 là
8,13%/năm, năm 2015 là 8,12%/năm. Lãi suất tích lũy vào tài khoản của khách
hàng được bảo đảm sẽ không thấp hơn mức lãi suất cam kết, trong đó, lãi suất cam
kết của quỹ hưu trí tự nguyện là 6%/năm trong năm 2014, 5,5%/năm trong năm
2015, 5%/năm vào năm 2016, 4,5%/năm vào năm 2017, 4%/năm vào năm 2018 và
1%/năm trong những năm tiếp theo.
Đối với Prudential VN, lãi suất đầu tư thực tế theo giá trị sổ sách trung bình
trong năm 2015 là 3,55%/năm, tỷ suất đầu tư công bố cho bên mua bảo hiểm sau
khi đã trừ chi phí quản lý quỹ là 4%/năm.
Đối với Bảo Việt Life, khoản đóng góp của bên mua bảo hiểm sẽ được đầu
tư vào quỹ hưu trí tự nguyện và được hưởng lãi từ kết quả đầu tư của quỹ này sau
khi đã trừ chi phí hợp lý có liên quan với lãi suất cam kết tối thiếu quỹ hưu trí tự
nguyện trong năm thứ 1 của hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện là 5,5%/năm,
năm thứ 2 là 5%/năm, năm thứ 3 là 4,5%/năm, năm thứ 4 đến năm thứ 10 là
3%/năm, mỗi năm còn lại sau đó là 1,5%/năm.
4.3 Thực trạng các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
4.3.1 Quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập
Theo quy định tại Thông tư 115/2013/TT-BTC, người tham gia được hưởng
ưu đãi nhất định về thuế thu nhập cá nhân như được miễn một phần thuế thu nhập
cá nhân đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, trì hoãn thu thuế thu nhập cá
nhân đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân
đối với tiền hưu trí được nhận. Tại Việt Nam, theo quy định hiện nay thì khoản tiền
đóng bảo hiểm hưu trí tự nguyện do người sử dụng lao động đóng cho người lao
107
động được trì hoãn đóng thuế thu nhập cá nhân và khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí
do cá nhân tự đóng sẽ được khấu trừ trước khi tính thu nhập chịu thuế với mức khấu
trừ tối đa 1 triệu đồng/tháng. Đây cũng chính là sự khác biệt cơ bản của bảo hiểm
hưu trí tự nguyện so với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác tại Việt Nam.
4.3.2 Tình hình về tính ổn định của kinh tế vĩ mô
Hình 4.3 cho thấy tình hình tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt Nam biến động
thăng trầm qua các năm. Đối với quỹ hưu trí tự nguyện, hoạt động đầu tư của quỹ
hưu trí tự nguyện hướng tới mục tiêu đạt được mức sinh lời nhất định trong khi vẫn
phải bảo đảm an toàn vốn. Đồng thời, với đặc thù của quỹ tự nguyện, nhất là khi có
thể dự đoán được số tiền hưu trí phải chi trả hàng năm nên quỹ hưu trí tự nguyện
thường định hướng đầu tư vào các tài sản tài chính dài hạn và có rủi ro biến động
mức sinh lời thấp. Do những đặc thù của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện, việc ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế với lạm phát thấp là điều cần thiết và cũng
là thách thức đối với Việt Nam để tạo môi trường hoạt động hiệu quả cho phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, phát triển TTCK cũng như các nhà đầu tư tham
gia trên TTCK Việt Nam.
Hình 4.3 Tình hình tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2015.
(Đvt: %/năm)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ SBV, GSO và WB (2000 - 2015).
108
4.3.3 Thực trạng các vấn đề xã hội học
Thiếu bền vững về mặt tài chính trong dài hạn
Hệ thống hưu trí công Việt Nam trực thuộc hệ thống BHXH Việt Nam, hoạt
động trên cơ sở đóng góp trong quá trình lao động và theo cơ chế PAYG với mức
hưởng xác định trước (DB). Chính vì vậy, hệ thống hưu trí Việt Nam đối mặt với
thách thức về thiếu tính bền vững tài chính trong dài hạn.
Hình 4.4 cho thấy tổng thu NSNN Việt Nam hàng năm đều không đủ bảo
đảm cho hoạt động chi NSNN, dẫn tới NSNN hàng năm đều bội chi. Trong đó, tỷ lệ
chi trả lương hưu và bảo đảm xã hội của Việt Nam chiếm trung bình 8,49% so với
tổng chi trong cùng kỳ và mức chi ước thực hiện cho khoản mục này cũng gia tăng
theo thời gian. Trong chi sự nghiệp xã hội của NSNN Việt Nam, chi trả lương hưu
và bảo đảm xã hội là một khoản chi thường xuyên và lớn sau khoản chi cho giáo
dục - đào tạo, dạy nghề. Mặt khác, việc điều chỉnh lương hưu theo tỷ lệ tăng của
lương tối thiểu của khu vực công làm cho hệ thống hưu trí công đối mặt với áp lực
chi trả và khả năng chi trả trong tương lai, góp phần làm gia tăng thâm hụt NSNN
Từ năm 2011 đến 2015: Số liệu ước thực hiện.
Việt Nam (Hình 4.4).
Hình 4.4 Tình hình thực hiện thu chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015.
Nguồn: MOF (2015a).
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 1995 cho
đến 2011, hàng năm số thu cho Quỹ hưu trí công đều lớn hơn số chi (tỷ lệ sử dụng
109
chi/thu là 76,3%; ước năm 2011 cân đối thu - chi trong năm còn dư là 11.551 tỷ
đồng, tỷ lệ sử dụng chi/thu là 77%), nên bảo đảm chi trả và có kết dư. Tuy nhiên,
trong tương lai dự báo với mức đóng góp và mức hưởng chế độ như quy định hiện
hành thì Quỹ BHXH sẽ đứng trước nguy cơ mất cân đối nghiêm trọng. Dự kiến đến
năm 2023 số thu cho Quỹ hưu trí công sẽ bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi để bảo
đảm chi chế độ hưu trí, tử tuất, ngoài số thu trong năm cho Quỹ hưu trí công phải
trích sử dụng thêm kết dư của thu các năm trước mới bảo đảm đủ chi. Đến năm
2037, nếu không có chính sách hoặc biện pháp tăng thu hoặc giảm chi thì số thu
BHXH trong năm và số tồn tích bắt đầu không bảo đảm khả năng chi trả. Các năm
sau đó số chi lớn hơn rất nhiều so với số thu trong năm (Lưu Hải Vân, 2014).
Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ hưởng lương hưu khá cao (75% mức bình quân
tiền lương tháng đóng BHXH) so với mức tối thiểu quy định trong công ước An
sinh xã hội của ILO vốn quy định hệ thống hưu trí chỉ cho phép một tỷ lệ hưởng
trong khoảng trên 40% đến 60% và tỷ lệ hưởng lương hưu nên trên 40% nhằm bảo
đảm cuộc sống đầy đủ cho người nghỉ hưu. Điều này đe dọa tính bền vững về tài
chính của quỹ hưu trí công PAYG. Do đó, công thức tính thu nhập hưu trí tại Việt
Nam cũng cần được điều chỉnh.
Như vậy, sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam chịu
tác động của rất nhiều nhân tố. Thứ nhất, tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ thống đang
có xu hướng gia tăng nhanh. Thứ hai, tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ lệ
đóng góp bền vững - hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG - và vì thế mà quỹ có thể bị
cạn kiệt. Thứ ba, tỷ lệ tham gia có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của khu
vực Nhà nước, đặc biệt là các Doanh nghiệp Nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của các
đối tượng lao động sắp xếp lại từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại
không đăng ký tham gia vào hệ thống BHXH, và (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư
nhân còn quá thấp. Thứ tư, mức hưởng được chỉ số hóa theo mức lương tối thiểu
vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và
tuổi thọ có xu hướng tăng lên. Tất cả những nhân tố kể trên khiến cho hệ thống hưu
trí Việt Nam đối mặt với nhiều vấn đề và có thể rơi vào khủng hoảng trong tương
lai. Việc ổn định tài chính và duy trì sự công bằng giữa các thế hệ trong hệ thống
110
hưu trí PAYG trước sức ép dân số già hoá nhanh chóng là những câu hỏi chính sách
hóc búa nhất đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Do vậy, Việt Nam cần nhanh chóng có
những chính sách phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm chủ động đối
phó với những thách thức của hệ thống hưu trí trong dài hạn.
Bất công bằng giữa các thế hệ
Bất công bằng giữa các thế hệ xảy ra do các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai
sẽ phải chịu gánh nặng lớn hơn mới có thể trang trải được chi phí cho hệ thống hưu
trí công theo cơ chế PAYG với mức hưởng được xác định trước (DB) trong điều
kiện dân số già hoá và tỉ lệ tham gia hệ thống chưa cao ở thời điểm này. Gánh nặng
lớn hơn này có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ đóng
góp tăng lên liên tục, độ tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nguy cơ vỡ quỹ BHXH khiến
quyền lợi hưu trí trong tương lai của lực lượng lao động hiện tại và tương lai không
được bảo đảm (Giang Thanh Long, 2004; Điền Bá Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê
Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD, 2014).
Bất bình đẳng giữa các nhóm lao động
Sự bất bình đẳng xảy ra khi có sự khác nhau về tỷ lệ hưởng so với mức đóng
góp thực tế giữa các nhóm lao động khác nhau (như khối quân nhân, công chức,
viên chức, và khối lao động tư nhân). Đây là một vấn đề khác đáng lo ngại của hệ
thống hưu trí. Việc đối xử không công bằng sẽ tiềm ẩn hai vấn đề sau: (i) sự khác
biệt nhau về thu nhập hưu trí; và (ii) động cơ trốn tránh và không tham gia hệ thống
BHXH. Do đó hệ thống hưu trí hiện tại vẫn chưa thu hút được sự tham gia rộng
khắp của người lao động trong khu vực tư nhân (Giang Thanh Long, 2004; Điền Bá
Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD, 2014). .
Mức độ bao phủ còn thấp
Tính đến hết năm 2017, số liệu của BHXH Việt Nam cho thấy có gần 14
triệu người tham gia BHXH bắt buộc, tăng hơn 6 triệu người so với năm 2007 (là
năm đầu thực hiện Luật BHXH), chiếm khoảng 24% lực lượng lao động (khoảng
28% lực lượng lao động trong độ tuổi). Diện bao phủ BHXH theo quy định của
pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến
bao phủ toàn dân, do đó chưa đạt được sự kỳ vọng của chính sách và còn một
111
khoảng cách rất xa so với mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị số 21/NQ-TW về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, bảo hiểm y tế giai đoãn
2012 - 2020 ban hành ngày 22/11/2012 đặt ra là đến năm 2020 có 50% lực lượng
lao động tham gia BHXH (Lan Vũ, 2017).
Tính hiệu quả về mặt thực thi và công nghệ quản lý chưa cao
BHXH Việt Nam được tổ chức theo cơ cấu chiều dọc với các chi nhánh ở
cấp huyện và các chi nhánh ở địa phương chịu trách nhiệm cả thu và chi. Việc phân
cấp quản lý theo hình thức này giúp việc tiếp cận người tham gia hệ thống ở địa
phương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, hình thức này cũng dẫn đến sự gia tăng chi
phí hành chính và có thể dẫn đến những vấn đề tiêu cực trong quá trình thu, chi thực
hiện phân tán tại địa phương. Hơn nữa, sự hợp tác trong quản lý giữa BHXH Việt
Nam và các Bộ khác, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng quản lý các
loại hình doanh nghiệp trong cả nước, vẫn chưa thực sự chặt chẽ nên việc nợ
BHXH vẫn còn phổ biến, đặc biệt là khu vực tư nhân (Giang Thanh Long, 2004;
Điền Bá Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD,
2014). Để khắc phục các vấn đề phát sinh trong quá trình chi trả lương hưu, từ năm
2013, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho BHXH Việt Nam thực hiện mở rộng chi
trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng qua bưu điện trên phạm vi cả nước.
BHXH Việt Nam đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công
trực tuyến mức độ 4; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH
với các hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính
sách và nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng như tiếp tục hiện đại hóa quản lý
BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức
thực hiện.
4.3.4 Tình hình về mức độ phát triển của thị trường tài chính
Theo Báo cáo đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu4 của WEF
(2015), từ quốc gia được đánh giá có nền kinh tế phát triển dựa vào các yếu tố cơ
vào năm 2005 và hiện được công bố hàng năm qua Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh
4 Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) bao gồm 12 trụ cột với 113 chỉ tiêu, được khởi xướng
112
bản, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2015 của Việt Nam được đánh giá ở
mức xếp hạng 56 so với 140 nền kinh tế trên thế giới được xếp hạng. Điều này đã
ghi nhận nền kinh tế Việt Nam đang ở bước chuyển tiếp sang giai đoạn phát triển
dựa trên tính hiệu quả. Trong đó, mức độ phát triển thị trường tài chính Việt Nam
nói chung, TTCK Việt Nam nói riêng dù vẫn còn xếp hạng thấp ở mức 84/140
nhưng đã có những cải thiện đáng kể (WEF, 2015) (PHỤ LỤC 7).
Nghiên cứu của WEF (2015) cho thấy mức độ phát triển TTCK Việt Nam
được đánh giá cao ở các chỉ tiêu về (i) mức độ dễ dàng huy động vốn thông qua thị
trường cổ phiếu (xếp thứ 48/140); (ii) mức độ hiện hữu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
trên thị trường (xếp thứ 46/140); và (iii) mức độ bảo vệ các quyền hợp pháp theo
pháp luật (xếp thứ 24/140). Tuy nhiên, các chỉ tiêu về (i) các quy chế hoạt động
giao dịch và giám sát trên TTCK chưa thực sự hiệu quả (xếp thứ 108/140); (ii) mức
độ đa dạng và phong phú của các sản phẩm dịch vụ tài chính vẫn còn thấp (xếp thứ
103/140); (iii) tính cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính trên
TTCK được đánh giá thấp nên các dịch vụ tài chính được cung cấp trên TTCK vẫn
còn có mức chi phí cao (xếp thứ 115/140).
Đặc biệt, năm 2015 là một năm đáng nhớ đối với TTCK Việt Nam với nhiều
chính sách, quy định điều chỉnh mang tính đổi mới được ban hành nhằm phát triển
thị trường theo chiều sâu, tiến gần hơn đến thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, TTCK Việt
Nam chỉ mới phục vụ chủ yếu với vai trò là kênh huy động vốn thông qua tiến trình
cổ phần hóa các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, cơ sở các nhà đầu tư trên
TTCK vẫn chưa được đa dạng, khối nhà đầu tư chủ đạo là ngân hàng thương mại
vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Chính vì vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các tổ chức trung gian thuộc ngân hàng trên
TTCK, qua đó tác động đến sự phát triển của TTCK Việt Nam.
TTCK Việt Nam còn chứa đựng nhiều tiềm năng và triển vọng để phát huy
tối đa vai trò của mình trong tương lai gần hướng đến các mục tiêu (i) một TTCK
ổn định, vững chắc, cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều cấp độ, đồng bộ về các yếu tố
quốc gia.
tế thế giới (WEF) nhằm đánh giá nền tảng kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô tạo nên năng lực cạnh tranh của
113
cung - cầu; tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm,
nghiệp vụ, bảo đảm thị trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn
trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế; (ii) bảo đảm tính công khai, minh bạch,
các tiêu chuẩn và thông lệ quản trị công ty, tăng cường năng lực quản lý, giám sát
và cưỡng chế thực thi, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và lòng tin của thị trường; (iii)
chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, từng bước tiếp cận với các chuẩn
mực chung và thông lệ quốc tế (SSC, 2012).
4.3.5 Thực trạng về khung các quy định pháp lý
Ngày 20/8/2013, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư 115/2013/TT-BTC
hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện có hiệu lực từ ngày
15/10/2013. Do đó, bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam mới
được hình thành từ cuối năm 2013 dựa trên Đề án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí
Luật Tổ chức Chính phủ 25/12/2001
Luật kinh doanh bảo hiểm 9/12/2000
Bộ Luật dân sự 14/6/2005
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm 24/11/2010
Luật Chứng khoán 12/7/2006
QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN
Luật Phá sản 19/6/2014
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán 14/11/2010
Luật Bảo hiểm xã hội 20/11/2014
Bộ Luật lao động 18/6/2012
Luật Doanh nghiệp 26/11/2014
tự nguyện của Cục Giám sát Bảo hiểm trực thuộc Bộ Tài chính.
Hình 4.5 Khung pháp lý quy định quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BT.
Hình 4.5 cho thấy khung pháp lý đối với hoạt động của quỹ hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam. Theo các quy định pháp lý liên quan, quỹ hưu trí tự nguyện
tại Việt Nam được định nghĩa là quỹ hưu trí được tài trợ (có tài sản được tích lũy từ
sự đóng góp của các thành viên nguyện do được hình thành từ phí bảo hiểm và là
114
tập hợp các tài khoản bảo hiểm hưu trí của người được bảo hiểm), là quỹ hưu trí do
tư nhân điều hành và là quỹ hưu trí có sự cam kết bảo đảm cho đối với các kế hoạch
hưu trí (về tỷ suất sinh lời, về niên kim sẽ được chi trả trong tương lai).
Ngày 20/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
144/2014/QĐ-TTg về Đề án hình thành và phát triển Chương trình hưu trí tự
nguyện do Bộ Tài chính xây dựng nhằm xây dựng hệ thống hưu trí đa trụ cột tại
Việt Nam, đồng thời khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn
trên thị trường vốn theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020.
Vào tháng 12/2015, dự thảo Nghị định về quy định quỹ hưu trí tự nguyện đã
được Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ, hiện vẫn đang trong giai đoạn hoàn
thiện.
4.3.6 Cải cách hệ thống hưu trí của Việt Nam so với thế giới
Trên thế giới, sự thay đổi trong nhân khẩu học và những vấn đề phát sinh đối
với hệ thống hưu trí theo cơ chế PAYG đã buộc Chính phủ các quốc gia phải cải
cách hưu trí. Theo xu hướng cải cách hưu trí, hệ thống hưu trí được tài trợ được
khuyến nghị thực thi nhằm bổ sung và hoàn thiện bên cạnh hệ thống hưu trí theo cơ
chế PAYG.
Trong bối cảnh tốc độ già hóa nhanh của dân số Việt Nam và những bất cập
trong hệ thống hưu trí hiện nay như tỷ lệ tham gia thấp, gia tăng đối tượng hưởng
hưu trí, mất cân bằng giữa mức đóng và mức hưởng…, yêu cầu cải cách hệ thống
hưu trí Việt Nam theo hướng bảo đảm sự bền vững của hệ thống càng trở nên cấp
thiết. Hệ thống hưu trí Việt Nam cũng đã có những cải cách tập trung vào các tham
số như tiêu chuẩn, tiêu chí của yếu tố cấu thành trong kế hoạch hưu trí, chẳng hạn
như là (i) tăng tuổi nghỉ hưu đối với những trường hợp suy giảm khả năng lao động
từ 61% trở lên; (ii) tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% với mỗi
năm nghỉ hưu trước tuổi; (iii) quy định các chế độ hưu trí đối với người bị phạt tù
giam, ra nước ngoài để định cư; (iv) tăng thời gian đóng BHXH … từ đó thắt chặt
điều kiện hưu trí đối với việc về hưu sớm và trợ cấp khuyết tật, hạ thấp các tỷ lệ lợi
ích, gia tăng thuế thu nhập, chống trốn thuế, và nâng cao hiệu quả quản lý của các
tổ chức an sinh xã hội, nhằm mục đích ngăn chặn sự sụp đổ tài chính của hệ thống
115
hưu trí truyền thống PAYG theo mô hình DB không được tài trợ. Tuy nhiên, những
cải cách trong hệ thống hưu trí tại Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu vẫn là các
cải cách tham số. Nghiên cứu của Giang Thanh Long (2004) khuyến nghị Việt Nam
cần nỗ lực tiến hành cải cách hệ thống hưu trí hướng đến một hệ thống tài khoản
tích lũy cá nhân theo mô hình tài chính có mức đóng góp được xác định trước
(fully/partially funded defined contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng
về tác động kinh tế - xã hội để có thể tránh được sự bất ổn về mặt tài chính của hệ
thống và sự bất công bằng giữa các thế hệ).
Do đó, để có thể phát triển bền vững hệ thống hưu trí, Chính phủ cần quan
tâm hơn đến các hình thức cải cách NDC và cải cách hệ thống, chuyển từ hệ thống
hưu trí PAYG không được tài trợ sang hệ thống hưu trí được tài trợ có lộ trình.
Trong đó, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là xu hướng tất yếu
trong bối cảnh dân số già hóa và gánh nặng tài chính của quỹ hưu trí công. Vì vậy,
có thể nói quỹ hưu trí tự nguyện là một trụ cột không thể thiếu để nâng đỡ các trụ
cột khác, tạo nên thế kiềng ba chân vững vàng cho hệ thống hưu trí.
4.3.7 Tình hình về vấn đề môi trường
Trước tình trạng già hóa dân số, tỷ lệ người đóng BHXH trên số người
hưởng lương hưu đang có xu hướng giảm nghiêm trọng, từ 21,7 người đóng cho 1
người hưởng lương hưu vào năm 1996 thì đến năm 2010 chỉ còn 10,7 người đóng
cho 1 người hưởng (MOLISA, 2015). Trong khi đó, tuổi nghỉ hưu thực tế bình quân
chỉ là 53,2 tuổi. Theo tính toán, mỗi cá nhân có 31 năm đóng BHXH và chỉ đủ để
quỹ bảo hiểm trả lương hưu trong vòng gần 13 năm. Song tuổi thọ bình quân của
người Việt Nam ngày càng cao và độ dài thời gian hưởng thu nhập hưu trí bình
quân hiện nay là 19,5 năm. Thực trạng cho thấy người cao tuổi có chi phí điều trị
thường cao gấp từ tám đến mười lần so với người trẻ; hiện nay tỷ lệ người cao tuổi
chiếm hơn 10% số dân và sử dụng tới hơn 50% chi phí điều trị mỗi năm do bệnh tật
ở người cao tuổi xuất hiện ngày càng nhiều hơn và việc chữa trị, phục hồi sức khỏe
của người cao tuổi cũng trở nên khó khăn hơn. Trong khi đó, thu nhập của người
cao tuổi còn rất thấp, hầu như không có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ khỏe
hơn. Do vậy, nhằm hướng tới già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam đòi hỏi phải có những
116
thay đổi cơ bản về cách thức tổ chức và vận hành của toàn bộ hệ thống cung cấp các
dịch vụ chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng, bao gồm (i) can thiệp
dịch vụ y tế; (ii) can thiệp chăm sóc dài hạn; (iii) can thiệp vào môi trường văn hóa
xã hội (Bộ Y tế Việt Nam, 2016).
4.3.8 Vấn đề nhân khẩu học trong bối cảnh dân số già hoá
Theo định nghĩa của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA), dân số vàng là
giai đoạn dân số cứ có 2 người trong độ tuổi lao động mới có 1 người trong độ tuổi
phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 60 tuổi). Còn cơ cấu dân số già (còn gọi là già hóa
dân số) được chia thành hai giai đoạn: khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 10%
hoặc người từ 65 tuổi trở lên đạt 7% thì gọi là dân số đang già. Còn khi tỷ lệ này lần
lượt đạt 20% và 14% thì là giai đoạn dân số đã già. Theo WB, tỷ lệ dân số già hóa
(hay tỷ lệ phụ thuộc tuổi già) được tính dựa trên số người tuổi từ 65 trở lên so với số
người trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi.
Tháp dân số của Việt Nam theo nhóm tuổi và giới tính vào năm 2016, qua đó
cho thấy tỷ lệ sinh và tử vong ở mức khá thấp, tuổi thọ trung bình tăng lên đã làm
thay đổi đáng kể cấu trúc dân số của Việt Nam, khiến cho tháp tuổi của dân số Việt
Nam thu hẹp dần về phía đáy tháp (CIA, 2016; CEFR, 2014). Việt Nam đã chính
thức bước vào thời kỳ già hóa dân số khi tỷ lệ người già của Việt Nam đang chiếm
tỷ trọng xấp xỉ 10% so với tổng số dân ở Việt Nam và đang có xu hướng gia tăng
trong tương lai (WB, 2015).
Tính đến hết quý 2 năm 2016, dân số Việt Nam đã vượt mốc 92 triệu người,
tốc độ tăng dân số đã xuống mức thấp vào khoảng 1,05%/năm. Trong đó, nhóm dân
số từ 60 tuổi trở lên ở Việt Nam tăng trung bình mỗi năm khoảng 400,000 người,
tốc độ tăng 4,43%/năm. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2016 là 73,4
năm, trong đó nam là 70,8 năm và nữ là 76,1 năm (GSO, 2015; GSO, 2016). Do đó,
những thay đổi về nhân khẩu học này đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ và bảo
đảm an sinh xã hội cho người già. Sự già hoá dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quỹ
BHXH Việt Nam, cụ thể thông qua (i) tỷ lệ giữa số người đóng BHXH trên số
người hưởng hưu giảm đi, khiến cho quỹ BHXH đối mặt với những vấn đề nghiêm
117
trọng trong tương lai nếu không cải cách hệ thống hưu trí; (ii) các chi phí BHXH
tăng lên, theo đó số người đóng BHXH giảm đi, số người hưởng BHXH tăng lên thì
nguồn thu của quỹ BHXH sẽ có xu hướng giảm đi và nguồn chi có xu hướng tăng
lên; (iii) ảnh hưởng đến cân đối thu - chi và tăng trưởng quỹ BHXH vì đối với
những nước có dân số già thì xu hướng chi BHXH tăng nhanh hơn so với xu hướng
thu, nên mức độ tăng trưởng của quỹ nhỏ đi dẫn đến khả năng chi trả, khả năng an
toàn của quỹ sẽ bị giảm đi. Chính vì vậy, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời về
chính sách hoặc sự hỗ trợ của Nhà nước, nguy cơ vỡ quỹ BHXH là rất cao.
4.4 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng
khoán Việt Nam nhìn từ sự lựa chọn của các cá nhân
4.4.1 Mức độ tự đánh giá của cá nhân về các vấn đề liên quan đến tài
chính
Để phân tích rõ hơn về thái độ chấp nhận rủi ro đối với thu nhập hưu trí,
nghiên cứu tiến hành kế thừa và xây dựng các tiêu chí đánh giá sự ưu tiên lựa chọn
trong điều kiện có rủi ro đối với người tham gia khảo sát dựa vào hai cách tiếp cận
là (i) cá nhân chủ động tự đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro của mình và (ii) đánh
giá mức độ chấp nhận rủi ro của cá nhân theo lý thuyết và các nghiên cứu thực
nghiệm của Barsky et al. (1997), Kapteyn và Teppa (2002) và Rooij et al. (2007).
(thang đo 7 mức độ từ thấp đến cao dần).
*1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội
Hình 4.6 Mức độ tự đánh giá thái độ về tài chính của cá nhân.
(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
118
Theo hình 4.6, phần lớn người khảo sát (130 người, chiếm 60,47% mẫu
) đánh giá mức độ am hiểu về tài chính của mình ở 3 mức cao nhất của
thang đo (mức 5, mức 6, mức 7) và do đó, có thể xem những người khảo sát này là
những người thực hiện quyết định tài chính có kỹ năng. Có 40 người khảo sát
(chiếm 18,60% mẫu) lựa chọn ở 3 mức thấp nhất của thang đo (mức 1, mức 2, mức
3), do đó những người trả lời này được xem là có sự hiểu biết nhất định khi đánh
giá mức độ am hiểu về tài chính của mình. Mức độ chấp nhận rủi ro chung trong
các vấn đề tài chính và trong lĩnh vực thu nhập hưu trí có điểm trung bình theo
thang đo lần lượt là 4,71 điểm (mức độ chuyên môn của cá nhân về các quyết định
tài chính); 5,05 điểm (thái độ chung trong cuộc sống); 4,75 điểm (thái độ trong các
vấn đề tài chính); 4,49 điểm (thái độ về thu nhập hưu trí của bản thân).
Nhìn chung, việc tự đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro cho thấy hầu hết
người tham gia khảo sát đều có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp
nhận rủi ro. Thái độ về thu nhập hưu trí của người tham gia khảo sát cũng có xu
hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp nhận rủi ro, tuy nhiên điều thú vị là
nó lại có mức độ chấp nhận rủi ro trung bình thấp hơn so với thái độ chung trong
cuộc sống cũng như trong các vấn đề tài chính nói chung. Điều này thể hiện thái độ
dè dặt hơn của người trả lời trong việc chấp nhận rủi ro đối với thu nhập hưu trí.
năng đem lại thu nhập tương đương 25% thu nhập hiện tại, mức 1 tương ứng với công việc bảo đảm thu nhập
hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời (thang đo 6 mức độ từ mức hoàn toàn e ngại rủi ro cho đến chấp nhận
rủi ro cao).
*Mức 6 tương ứng với công việc có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại và 50% khả
Hình 4.7 Khả năng chịu rủi ro trên thu nhập trọn đời của cá nhân.
(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
119
Còn trong hình 4.7, nghiên cứu đo lường khả năng chịu đựng rủi ro trên thu
nhập trọn đời theo lý thuyết với 6 mức độ tử hoàn toàn e ngại rủi ro cho đến chấp
nhận rủi ro ở mức cao. Kết quả về khả năng chịu đựng rủi ro cũng cho thấy hầu hết
người tham gia khảo sát đều có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp
nhận rủi ro.
4.4.2 Thái độ của cá nhân về các vấn đề thu nhập hưu trí
Để làm sáng tỏ thái độ của cá nhân đối với tiết kiệm hưu trí bắt buộc, nghiên
cứu khảo sát sự hài lòng của người trả lời đối với một chương trình hưu trí bắt
buộc và lý do nếu có. Đa số người được hỏi (129 người trả lời, chiếm 60,00% mẫu)
ủng hộ tiết kiệm lương hưu bắt buộc, 53 người trả lời (chiếm 24,65% mẫu) cho rằng
nghĩa vụ tiết kiệm lương hưu bắt buộc là một bất lợi, 19 người (chiếm 8,84% mẫu)
bàng quan và 14 người (6,51% mẫu) phản hồi là không biết. Khoảng 112 (62+50)
người trả lời (chiếm 52,09% mẫu) ủng hộ một chương trình hưu trí bắt buộc cho
biết chi phí của kế hoạch nghỉ hưu xét cả về thời gian và công sức là lý do quan
trọng nhất (vì (i) nếu không nhờ có tiết kiệm hưu trí bắt buộc thì cá nhân sẽ bị cám
dỗ không tiết kiệm đủ để nghỉ hưu và (ii) cá nhân không muốn suy nghĩ về việc tiết
kiệm bao nhiêu cho nghỉ hưu). Có 62 người trả lời (chiếm 28,84% mẫu) nếu không
có tiết kiệm hưu trí bắt buộc thì sẽ không tiết kiệm đủ tiền cho nghỉ hưu, điều này
làm dấy lên sự nhận thức về vấn đề tự kiểm soát của cá nhân. Có 47 người trả lời
(chiếm 21,86% mẫu) cho rằng nghĩa vụ tiết kiệm hưu trí bắt buộc là một bất lợi vì
cá nhân muốn có quyền quyết định có tiết kiệm không và tiết kiệm bao nhiêu bao
nhiêu cho nghỉ hưu.
Thông qua câu hỏi khảo sát, nghiên cứu có đề nghị người trả lời về tỷ lệ phần trăm
thu nhập tiền lương mà cá nhân đó muốn được bảo đảm là thu nhập hưu trí. Theo
bảng 4.10 thống kê kết quả khảo sát từ 215 người tham gia trả lời, tỷ lệ bảo đảm thu
nhập hưu trí trung bình là 54,22% thu nhập từ tiền lương, có 120 người trả lời
(chiếm 55,81% mẫu) chọn tỷ lệ bảo đảm thu nhập hưu trí là thấp hơn hoặc bằng
50% thu nhập từ tiền lương và có 37 người trả lời (chiếm 17,21% mẫu) chọn tỷ lệ
bảo đảm thu nhập hưu trí phải cao hơn 70% thu nhập từ tiền lương. Kết quả cũng
cho thấy sự lựa chọn đối với tỷ lệ bảo đảm thu nhập ở một mức cao (hoặc thấp) có
120
mối tương quan tích cực với hệ thống hưu trí DB (hoặc DC). Trong 97 người trả lời
chọn hệ thống hưu trí DB, có 20,62% (8,25%+11,34%+1,03%) muốn bảo đảm thu
nhập hưu trí là trên 70% thu nhập từ tiền lương và có 51,55% trong nhóm này hài
lòng với tỷ lệ bảo đảm thu nhập hưu trí là thấp hơn hoặc bằng 50% thu nhập từ tiền
lương. Mặt khác, chỉ có 14,28% (9,09%+5,09%+0,00%) trong số 77 người lựa chọn
hệ thống hưu trí theo mô hình DC muốn bảo đảm thu nhập hưu trí là trên 70% thu
nhập từ tiền lương và có đến 61,04% trong nhóm này thỏa mãn với thu nhập hưu trí
là thấp hơn hoặc bằng 50% thu nhập từ tiền lương.
Bảng 4.10 Sự ưa thích của cá nhân về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ
thống hưu trí được ưu tiên.
Sự ưa thích về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ thống hưu trí được ưu tiên
Hệ thống hưu trí được cá nhân ưu tiên (đvt: Tỷ lệ phần trăm người trả lời trong mẫu
)
Hệ thống hưu trí được ưa
Mức độ bảo đảm thu nhập được ưa thích
thích (số người chọn)
(Tỷ lệ phần trăm của thu nhập thuần cuối cùng)
Đến
Trên 50%
Trên 60%
Trên 70%
Trên 80%
Trên 90%
50%
đến 60%
đến 70%
đến 80%
đến 90%
đến 100%
DB (97 người chọn)
51,55%
11,34%
16,49%
8,25%
11,34%
1,03%
DC (77 người chọn)
61,04%
12,99%
11,69%
9,09%
5,19%
0,00%
Bàng quan (20 người chọn)
60,00%
20,00%
15,00%
5,00%
0,00%
0,00%
Không biết (21 người chọn)
52,38%
4,76%
19,05%
9,52%
14,29%
0,00%
*Tỷ lệ phầm trăm khi cộng theo dòng hàng ngang có thể không bằng 100% do việc làm tròn số.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
Để đánh giá mức độ ưa thích của cá nhân về tính tự chủ đối với danh mục
đầu tư, nghiên cứu đặt ra câu hỏi trong tình huống giả định về một chương trình
hưu trí theo mô hình DC để xem người trả lời muốn đầu tư thu nhập hưu trí theo
danh mục được cung cấp bởi quỹ hưu trí của mình hay theo sự lựa chọn đầu tư của
cá nhân mình. Kết quả từ bảng 4.12 cho thấy có 95 người trả lời (chiếm 44,19%
mẫu) chọn đầu tư theo danh mục đầu tư do quỹ hưu trí đề xuất, 77 người trả lời
(chiếm 35,81% mẫu) chọn việc tự chủ trong quyết định đầu tư, 24 người trả lời
(chiếm 11,16% mẫu) bàng quan và 19 người trả lời (chiếm 8,84% mẫu) không
biết/không trả lời. Bảng 4.11 tổng hợp sự liên kết giữa mức độ ưa thích của cá nhân
về tính tự chủ đối với danh mục đầu tư và các ưu tiên về hệ thống hưu trí một lần
121
nữa cho thấy sự phân đôi giữa những người ủng hộ hệ thống hưu trí theo mô hình
DC so với mô hình DB càng trở nên rõ ràng khi một lượng lớn người trả lời thích để
quỹ hưu trí quyết định đầu tư trong khi một lượng người tương ứng thì muốn có sự
tự chủ cá nhân trong việc tạo ảnh hưởng lên danh mục đầu tư.
Bảng 4.11 Sự ưa thích của cá nhân về việc tự đầu tư trong hệ thống hưu trí
được ưu tiên.
Sự ưa thích về việc cá nhân tự đầu tư trong hệ thống hưu trí được ưu tiên
Hệ thống hưu trí được cá nhân ưu tiên (đvt: Tỷ lệ phần trăm người trả lời trong mẫu
)
Hệ thống hưu trí được ưa thích
Mức độ ưa thích của cá nhân về tính tự chủ trong quyết
(số người chọn)
định đối với danh mục đầu tư
Quỹ hưu trí
Tự đầu tư Bàng quan Không biết
DB (97 người chọn)
45,36%
35,05%
10,31%
9,28%
DC (77 người chọn)
42,86%
35,06%
11,69%
10,39%
Bàng quan (20 người chọn)
45,00%
40,00%
10,00%
5,00%
Không biết/không trả lời (21 người chọn)
42,86%
38,10%
14,29%
4,76%
*Tỷ lệ phầm trăm khi cộng theo dòng hàng ngang có thể không bằng 100% do việc làm tròn số.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
Để xem xét việc gia tăng về chuyên môn tài chính ảnh hưởng đến sự thay đổi
sở thích tự chủ đầu tư của cá nhân, người trả lời đã được hỏi rằng liệu cơ hội tham
gia một khóa học (miễn phí) nâng cao chuyên môn tài chính sẽ giúp họ sẵn sàng tận
dụng sự tự chủ nhiều hơn đến việc đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí hay không. Kết quả
khảo sát cho thấy 178 người trả lời (chiếm 82,79% mẫu) trả lời rằng việc được đào
tạo nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn tài chính sẽ làm cho họ nghiêng về hướng
kiểm soát danh mục hưu trí của mình; 37 người trả lời (chiếm 17,21% mẫu) việc gia
tăng về chuyên môn tài chính không làm ảnh hưởng đến sự thay đổi sở thích tự chủ
đầu tư của cá nhân. Sự phản hồi cũng tương quan với việc ưa thích hệ thống hưu trí
theo mô hình DC của người trả lời: 65 trong số 77 người trả lời thích hệ thống hưu
trí theo mô hình DC tin rằng họ tận dụng ảnh hưởng nhiều hơn đến việc đầu tư tiền
bảo hiểm hưu trí khi được cung cấp khả năng nâng cao kiến thức tài chính của
mình.
Tóm lại, mặc dù số lượng người trả lời ưa thích hệ thống hưu trí theo mô
hình DC khá cao nhưng số lượng người trả lời ưa thích hệ thống hưu trí theo mô
122
hình DB vẫn nhiều hơn là DC, vẫn ưa thích một tỷ lệ cao bảo đảm cho thu nhập
hưu trí từ thu nhập tiền lương và vẫn ưa thích quỹ hưu trí chuyên nghiệp thực hiện
quyết định đầu tư. Ngoài ra, người trả lời có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần
với sự chấp nhận rủi ro. Phần lớn người trả lời là những người có trình độ và có sự
am hiểu về tài chính nhất định. Những người trả lời có xu hướng nghiêng về chấp
nhận rủi ro và có sự am hiểu nhất định về tài chính thì có xu hướng ưa thích một
chương trình hưu trí theo mô hình DC, ưa thích lựa chọn một tỷ lệ thấp đối với việc
bảo đảm cho thu nhập hưu trí từ thu nhập tiền lương và có nhiều khả năng ưa thích
sự tự chủ đầu tư. Từ đó cho thấy, các thái độ tự đánh giá và việc đo lường khả năng
chấp nhận rủi ro rủi ro cũng như sự tự đánh giá chuyên môn tài chính của cá nhân
có vai trò đáng kể trong việc giải thích các ưu tiên của cá nhân đối với chương
trình hưu trí.
4.4.3 Tính ưu tiên của cá nhân về vấn đề liên quan đến danh mục đầu tư
Trong trường hợp tự chủ đầu tư đối với danh mục đầu tư giả định bao gồm
cổ phiếu và trái phiếu, người trả lời được khảo sát về tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ
phiếu từ 0% (danh mục đầu tư hoàn toàn vào trái phiếu) đến 100% (danh mục đầu
tư hoàn toàn vào cổ phiếu).
Hình 4.8 Thành phần của khoản tiết kiệm hưu trí ưa thích: Tỷ lệ phần trăm cổ
phiếu trong danh mục đầu tư cá nhân.
(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
123
Hình 4.8 cho thấy đối với những người ưu tiên hệ thống hưu trí theo mô hình
DC (77 người trong 215 người trả lời) trung bình ưa thích việc nắm giữ một lượng
lớn cổ phiếu trong danh mục đầu tư của mình (trung bình 54,29% giá trị danh mục
đầu tư) trong khi những người ưu tiên hệ thống hưu trí DB (97 người trong 215
người trả lời) trung bình ưa thích việc nắm giữ một tỷ trọng cổ phiếu thấp hơn trong
danh mục đầu tư của mình (trung bình 38,20% giá trị danh mục đầu tư).
Tiếp theo, người trả lời cũng được hỏi về các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa
chọn ban đầu và các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn thay đổi về tỷ lệ phần trăm
cổ phiếu trong danh mục đầu tư trong tương lai.
Theo Bảng 4.12, có khoảng 86,98% người được hỏi cho biết rằng các hoàn
cảnh cá nhân (tuổi tác, thành phần gia đình, tình trạng tài chính cá nhân hoặc các
khoản tiền cấp dưỡng hưu trí tích luỹ) hoặc các điều kiện kinh tế chung và các kỳ
vọng của TTCK có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn danh mục ưu tiên và sẽ
tiếp tục ảnh hưởng đến các quyết định điều chỉnh trong tương lai. Khoảng 13,02%
người được hỏi cho biết những yếu tố này không có liên quan đến sự lựa chọn thành
phần danh mục đầu tư ban đầu hoặc sự điều chỉnh thành phần danh mục đầu tư
trong tương lai. Các yếu tố quyết định lựa chọn ban đầu của danh mục đầu tư và các
yếu tố quyết định sau này có sự thay đổi nhiều hoặc ít giống nhau là ở tình hình tài
chính cá nhân (33,49% với 54,42%), tài sản hưu trí tích lũy (21,40% với 87,91%),
tình hình kinh tế chung (25,12% với 53,49%) và kỳ vọng về TTCK (46,05% với
51,16%). Đây cũng là các yếu tố chứa đựng sự thay đổi khó có thể dự đoán tính
chắc chắn như các yếu tố về tuổi tác, tình hình gia đình nhưng lại là động lực mạnh
mẽ của các quyết định đầu tư trong tương lai của cá nhân khi hơn một nửa số người
trả lời cho rằng sẽ xem xét việc thay đổi danh mục đầu tư của họ trong trường hợp
có sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào trong bốn yếu tố này.
Bảng 4.12 Các yếu tố quyết định cơ bản của sự lựa chọn ban đầu và những
thay đổi kế tiếp trong thành phần của các danh mục đầu tư hưu trí.
(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).
Tỷ lệ phần trăm người trả lời theo khoản mục
Yếu tố quyết định
Thành phần ban đầu
Các lý do thay đổi
124
Không có
6,98%
7,91%
Tuổi tác của cá nhân
26,98%
23,72%
Tình hình gia đình
26,05%
26,98%
Tình hình tài chính cá nhân
33,49%
54,42%
Tài sản hưu trí tích lũy
21,40%
87,91%
Tình hình kinh tế chung
25,12%
53,49%
Kỳ vọng về thị trường tài chính
46,05%
51,16%
Các hoàn cảnh khác
6,05%
3,72%
*Tỷ lệ phần trăm không cộng dồn thành 100% do người khảo sát có thể trả lời nhiều hơn một lựa chọn.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
4.4.4 Đánh giá của cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
Thứ nhất, kết quả khảo sát cho thấy hầu hết người trả lời đều đánh giá tích
cực về sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhất là TTCK Việt Nam
trong những năm gần đây. Theo đó, TTCK Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh,
tốt nhưng còn nhiều biến động. Đồng thời, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK Việt Nam được đánh giá là phù hợp (183 ý kiến, chiếm 85,12% mẫu
(=11,163%+33,953%+40%)).
Thứ hai, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam được
đánh giá sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của TTCK trong việc (i)
cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK (117 ý kiến, chiếm 54,42%
mẫu); (ii) gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường
(122 ý kiến, chiếm 56,74% mẫu); (iii) phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên
TTCK (91 ý kiến, chiếm 42,33% mẫu); (iv) tăng cường chiều sâu và tính thanh
khoản của TTCK (66 ý kiến, chiếm 30,7% mẫu).
Thứ ba, thông qua kết quả khảo sát các điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến
phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam cũng cho thấy các điều kiện phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam còn nhiều thách thức. Theo đó, kết quả
khảo sát cho thấty có 111 ý kiến (chiếm 51,63% mẫu) đồng ý cơ sở hạ tầng của
TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa, có 141 ý kiến (chiếm 65,58% mẫu) cho
rằng khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân
bổ tài sản, có 149 ý kiến (chiếm 69,30% mẫu) nhận định yếu tố lạm phát và tính ổn
125
định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các năm. Riêng việc chính sách ưu
đãi về thuế thu nhập chưa đủ hấp dẫn chỉ nhận được 81 ý kiến (chiếm 37,67% mẫu)
cho rằng đây là thách thức quan trọng đối với sự phát triển của quỹ hưu trí trên
TTCK. Các ý kiến chung và phổ biến của các cá nhân được khảo sát về các điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện được
tổng hợp trong Bảng 4.13.
Bảng 4.13 Tổng hợp ý kiến của các cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự
S1: Nguồn vốn dùng để đầu tư là lớn và ổn định dài hạn
nguyện trên TTCK Việt Nam
Strengths
- Các
S2: Có hiệu quả về lợi ích kinh tế và cả lợi ích xã hội
điểm mạnh đến từ
S3: Tính minh bạch và an toàn
các yếu tố bên trong
W1: Sản phẩm mới ít người biết, chưa phổ biến, ít thông tin truyền thông, có độ rủi
Weaknesses - Các
ro cao hơn loại hình hưu trí công
điểm yếu đến từ các
W2: Chậm tiếp cận với những người chưa có nhiều kiến thức chuyên sâu, khó tiếp
yếu tố bên trong
cận đối với đa số lao động phổ thông do ít người am hiểu về lĩnh vực này tại Việt
Nam
W3: Năng lực quản lý quỹ (uy tín, kinh nghiệm, tầm nhìn và sự liêm chính)
O1: Kinh tế Việt Nam, TTCK Việt Nam đang phát triển và hội nhập, trong khi thị
Opportunities - Các
trường thu nhập hưu trí tự nguyện còn ở giai đoạn sơ khai nên còn nhiều tiềm năng
cơ hội đến từ các
để phát triển
yếu tố bên ngoài quỹ
O2: Tỷ lệ người già trong xã hội đang dần tăng lên, quỹ hưu trí công đang có vấn
hưu trí tự nguyện
đề, sự quan tâm ủng hộ của Nhà nước trong việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
O3: Tầng lớp trí thức, trung lưu ở Việt Nam đang tăng nhanh
T1: Yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các
Threats - Các thách
năm
thức đến từ các yếu
T2: Cơ sở hạ tầng của TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa
tố bên ngoài quỹ
T3: Khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân
hưu trí tự nguyện
bổ tài sản
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.
Kết luận Chương 4
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của luận án, tác giả đã phân tích tổng
quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của Việt Nam, qua đó cho thấy
vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III trong mô hình hưu trí đa trụ cột
với vai trò góp phần hoàn thiện hệ thống hưu trí của quốc gia hướng tới mục tiêu an
sinh xã hội cho người già khi về hưu. Đồng thời, nghiên cứu nhận định thực trạng
126
cải cách hệ thống hưu trí tại Việt Nam chủ yếu vẫn là những cải cách tham số. Năm
2013 là năm đánh dấu bước ngoặt lớn khi Việt Nam triển khai bảo hiểm hưu trí tự
nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là các sản phẩm thương mại, cũng
như bảo hiểm hưu trí bổ sung trong vai trò là một chính sách bảo hiểm xã hội. Đồng
thời, luận án cũng trình bày tổng quan phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Việt Nam và các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
theo mô hình PESTLIED cũng như xem xét triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK từ sự lựa chọn của các cá nhân là các công dân Việt Nam.
Thông qua sự lựa chọn của mình, các cá nhân ảnh hưởng đến phát triển quỹ hưu trí
tự nguyện trên TTCK dựa trên (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro;
(ii) sở thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí. Theo đó, sự lựa chọn
đầu tư từ phía cá nhân tham gia đóng góp sẽ quyết định sự tham gia vào chương
trình hưu trí theo mô hình tài chính DC cũng như sự tự do lựa chọn danh mục đầu
tư và sở thích rõ ràng về khẩu vị rủi ro đối với các khoản đầu tư dựa trên tài sản
đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện.
Nhìn chung, sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong thực tế mang tính
bảo hiểm nhiều hơn và do có việc bảo hiểm trong quá trình đóng góp nên khiến phí
cao hơn, dẫn đến thu nhập ít hơn cho người hưởng thụ. Trong khi đó, hoạt động
của quỹ hưu trí tự nguyện sẽ hướng tới việc tập trung vào mục tiêu tối đa hóa giá trị
tài sản của quỹ nên hứa hẹn đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất sinh lời kỳ vọng cao
hơn. Việc phân tích tình hình phát triển của hoạt động bảo hiểm hưu trí tự nguyện
và quỹ hưu trí tự nguyện, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
theo mô hình PESTLIED cũng như thu thập ý kiến sự lựa chọn của cá nhân về thu
nhập hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam đã cho thấy hoạt động của các
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam vẫn còn mới mẻ nhưng cũng đã nhận
được sự quan tâm từ những cá nhân có trình độ đại học trở lên, có hiểu biết chuyên
môn về tài chính. Kết quả khảo sát này là cơ sở tham khảo quan trọng để góp phần
xác lập các đối tượng khách hàng mục tiêu của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.
127
CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Trong chương 5, luận án trình bày những điểm chính trong định hướng về
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Đồng thời luận án đề xuất
một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam
căn cứ từ (i) định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam; (ii)
kết quả nghiên cứu thực nghiệm và bài học kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc khối APEC; (iii) các điều kiện phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam và (iv) thông tin thu thập từ quá
trình khảo sát sự lựa chọn của các cá nhân là công dân Việt Nam về các vấn đề liên
quan đến quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt
Nam. Cuối cùng, luận án tiến hành tóm tắt các kết luận chính của nghiên cứu về quỹ
hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK nói chung, TTCK
Việt Nam nói riêng.
5.1 Định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng
khoán Việt Nam đến năm 2020
Theo Quyết định số 252/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành ngày 01/03/2012, mục tiêu cụ thể
để phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2020, việc phát triển các nhà đầu tư có tổ
chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí và phát triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư
chính trên TTCK là một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện và phát
triển TTCK nhằm hướng tới gia tăng quy mô, độ sâu và tính thanh khoản của TTCK
Việt Nam. Trong đó có quỹ hưu trí tự nguyện sẽ làm gia tăng thêm cơ sở các nhà
đầu tư tổ chức, tạo thêm nguồn cầu đáng kể đối với các sản phẩm đầu tư tài chính
trên thị trường tài chính, từ đó thúc đẩy và phát triển TTCK trong tương lai để
TTCK có thể trở thành kênh huy động vốn quan trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam.
Theo Quyết định số 144/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án hình thành và phát
triển chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam được ban hành ngày 20/01/2014,
128
mục tiêu hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện là nhằm xây dựng
hệ thống hưu trí đa trụ cột tại Việt Nam, góp phần bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ Chính trị; đồng thời
khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn trên thị trường vốn
theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu cụ thể được kỳ
vọng là (i) đến năm 2020, có khoảng 400 - 500 doanh nghiệp với khoảng 150 nghìn
người tham gia mua sản phẩm bảo hiểm hưu trí hoặc đóng góp vào các quỹ hưu trí
tự nguyện theo hình thức ủy thác đầu tư và (ii) đến năm 2020, doanh số tích lũy của
các quỹ hưu trí tự nguyện để đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có thị trường vốn,
TTCK khoảng 10 - 12 nghìn tỷ đồng.
5.2 Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
thị trường chứng khoán Việt Nam
Nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị đến Chính phủ Việt Nam, Bộ Tài
Chính dựa trên những căn cứ từ (i) định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam, (ii) bài học kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, (iii) các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên TTCK cũng như (iv) từ các ý kiến được tổng hợp của các cá nhân là
công dân Việt Nam về các vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí và phát triển quỹ hưu trí
trên TTCK Việt Nam. Theo đó, Chính phủ Việt Nam cần chú trọng việc thực hiện
và đáp ứng của các điều kiện sau để có thể phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam:
5.2.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát
Theo bộ dữ liệu thống kê từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2000 đến 2015, các số liệu kinh tế vĩ mô như (i) tự do kinh tế, (ii) thu nhập
bình quân đầu người và (iii) quy mô vốn hóa thị trường nội địa có sự tăng trưởng
đáng kể theo thời gian; trong khi đó (iv) lãi suất dài hạn và (v) tỷ lệ lạm phát trong
giai đoạn này có những biến động thăng trầm và có xu hướng giảm; còn (vi) tỷ lệ
dân số già hóa xấp xỉ 10% qua các năm so với tổng dân số cũng báo hiệu tình trạng
dân số đang có xu hướng già hóa theo thời gian tại Việt Nam.
129
Trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển nói chung cũng như ở Việt
Nam, việc thiết kế quỹ hưu trí tự nguyện cũng phải đáp ứng được ba vấn đề đặc biệt
có liên quan mật thiết đến yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô, bao
gồm (i) thành phần của danh mục đầu tư vào các tài sản đem lại thu nhập cố định
(fixed - incomes porfolios); (ii) thành phần của danh mục cổ phần (equity
porfolios), và (iii) chiến lược phòng ngừa đối với những biến động liên quan đến
tiền tệ (currency hedging) (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).
Trong thực tế, hầu hết các lựa chọn đầu tư trong chương trình hưu trí theo mô hình
DC tại các nền kinh tế đang phát triển đều hoạt động tuân theo những quy định ràng
buộc chặt chẽ về luật pháp, nên có xu hướng đầu tư với tỷ trọng cao vào các tài sản
đem lại thu nhập cố định. Hơn nữa, sự phân bổ đầu tư cho các tài sản đem thu nhập
cố định này có xu hướng tập trung cao vào TPCP trong nước và các công cụ tiền
mặt (TPCP ngắn hạn, các công cụ trên thị trường tiền tệ và tiền gửi). Tương tự tại
Việt Nam, theo mục tiêu cụ thể để phát triển TTCK đến năm 2020 thì việc phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện cũng được định hướng phát triển thị trường TPCP nhằm
góp phần giảm bớt tỷ trọng đầu tư vào TPCP của các ngân hàng thương mại. Do đó,
việc nhận diện ưu điểm và rủi ro của sự phân bổ đầu tư cao vào TPCP cần được chú
trọng xem xét điều chỉnh theo thời gian.
Sự phân bổ đầu tư cao vào các công cụ tiền mặt, TPCP có thể đến từ hai yếu
tố chính là (i) các công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định thường là những tài
sản an toàn nhất bắt nguồn từ sự khôn ngoan thông thường trong đầu tư; (ii) việc
xem xét sự tài trợ cho vấn đề thâm hụt tài chính cũng góp phần giải thích cho quyết
định phân bổ đầu tư vào TPCP trong nước. Tuy nhiên, lý thuyết hiện đại về phân bổ
tài sản dài hạn cho thấy thực tiễn chung về việc yêu cầu các quỹ hưu trí tự nguyện
nắm giữ số lượng lớn các TPCP dài hạn trong nước và các khoản tiền gửi hoặc các
công cụ tương tự tiền mặt lại không có lợi nhất cho người tham gia chương trình
hưu trí và cần phải được xem xét lại, ngay cả khi mục tiêu cuối cùng là cung cấp
cho những người tham gia chương trình hưu trí những lựa chọn đầu tư an toàn. Các
công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định không phải là tài sản an toàn cho các
nhà đầu tư dài hạn và việc đầu tư và các loại tài sản này còn được xem như là chiến
130
lược mạo hiểm vì chúng chịu rủi ro tái đầu tư do thời hạn đáo hạn của chúng là
ngắn so với đặc thù mang tính chất dài hạn của mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự
nguyện cũng như sự tìm kiếm sự đầu tư dài hạn của hầu hết những người tham gia
chương trình hưu trí. Trái phiếu dài hạn bảo vệ các nhà đầu tư khỏi nguy cơ tái đầu
tư, bởi vì sự sụt giảm lãi suất được bù đắp bằng việc tăng vốn (capital gain) trong
giá trị trái phiếu. Nhưng TPCP dài hạn thường là các công cụ có các khoản lãi
cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá được cố định theo giá trị danh nghĩa. Chính
điều này làm cho trái phiếu dài hạn trở thành những khoản đầu tư rủi ro đối với các
nhà đầu tư dài hạn bởi vì rủi ro lạm phát trong dài hạn (nếu lạm phát kỳ vọng trong
tương lai thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát kỳ vọng đã được tính vào giá trái phiếu tại
thời điểm mua lại, sức mua của các khoản lãi cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá
của trái phiếu sẽ bị xói mòn, và việc đầu tư vào trái phiếu cũng đối mặt với các
khoản lỗ vốn) (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002).
5.2.2 Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam cần chú trọng mức độ phát triển tài chính trong nền kinh tế thông
qua hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK. Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK,
trong đó bao gồm (i) sự phát triển của ngành quản lý tài sản; (ii) các thỏa thuận giao
dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh vi; (iii) có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin
cậy và hiệu quả, bao gồm một trung tâm lưu ký hoạt động tốt; (iv) có hệ thống
thanh toán liên ngân hàng có giá trị lớn, hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin
cậy; (v) và có một hệ thống ngân hàng vững chắc.
Trong đó, TTCK Việt Nam cần hoàn thiện về (i) các quy chế hoạt động giao
dịch và giám sát trên TTCK; (ii) mức độ đa dạng và phong phú của các sản phẩm
dịch vụ tài chính; (iii) tính cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính
trên TTCK để cung cấp các dịch vụ tài chính được trên TTCK với mức chi phí hợp
lý. Ngoài ra, để tạo điều kiện phát triển cho các loại hình quỹ đầu tư nói chung, quỹ
hưu trí tự nguyện nói riêng, TTCK Việt Nam cần chú trọng phát triển ngành quản lý
gia sản và và chấp nhận sự đa dạng của các nhà đầu tư tổ chức.
Với những đặc thù của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện và với mục tiêu phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam đến năm 2020, Việt Nam nhìn
131
nhận việc phát triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí và
phát triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư chính trên TTCK là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP, từ đó nhằm
tăng cường sự ổn định của TTCK và hệ thống tài chính Việt Nam. Việc phát triển
các nhà đầu tư tổ chức với sự phát triển của thị trường tài chính cũng có mối quan
hệ tác động hai chiều. Sự phát triển của một cơ sở nhà đầu tư tổ chức trong nước
khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn hiện đại, và ngược lại, việc mở rộng
khu vực nhà đầu tư tổ chức đòi hỏi sự tồn tại của một cơ sở hạ tầng thị trường tài
chính phức tạp. Do đó, bên cạnh việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện, các giải pháp
hiện đại hóa cơ sở thị trường tài chính để phát triển đồng đều các bộ phận của thị
trường TTCK nói riêng, thị trường tài chính nói chung cần được triển khai thực hiện
đồng bộ và toàn diện.
So với các TTCK lớn trên thế giới đã được vận hành lâu đời thì TTCK Việt
Nam chỉ mới hoạt động từ năm 2000. Vì vậy, TTCK Việt Nam còn trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển và vẫn cần sự nỗ lực hoàn thiện không ngừng, kế thừa
kinh nghiệm của thế giới để phát triển phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xu hướng
quốc tế. Bên cạnh sự kết hợp các tiềm năng phát triển tự nhiên của ngành và loại bỏ
các trở ngại trong chính sách, việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thị trường tài chính
cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức đầu tư trong nước, nhất là
tại các thị trường mới nổi. Như vậy, song song với việc phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện, các giải pháp hiện đại hóa cơ sở thị trường tài chính để phát triển TTCK
nói riêng, thị trường tài chính nói chung cần được triển khai thực hiện đồng bộ và
toàn diện.
5.2.3 Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và
phân bổ tài sản
Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là quy định pháp lý về hoạt động đầu tư
và phân bổ tài sản đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK và cần được quy định đầy đủ và thích hợp, tập trung vào quy định về sự
đối xử công bằng của tất cả các cổ đông, trách nhiệm quản lý tốt hơn cho các cổ
đông; ghi nhận đăng ký quyền sở hữu chứng khoán độc lập nhằm tránh sự thao túng
132
và các gian lận bởi quản lý hoặc trong nội bộ (bao gồm cả những vấn đề liên quan
đến năng lực và đạo đức của người đại diện quản lý tài sản quỹ hưu trí tự nguyện
khi có sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu dẫn đến sự xung đột về lợi
ích tiềm tàng khi tồn tại thông tin bất cân xứng giữa các bên liên quan.
Tại Việt Nam hiện nay, dự thảo Nghị định về quy định quỹ hưu trí tự nguyện
đã được Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ, hiện vẫn đang trong giai đoạn hoàn
thiện, nên việc dự thảo Nghị định này cần được đẩy nhanh tiến độ sẽ hoàn thiện
khung pháp lý quy định về hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt
Nam theo mô hình ủy thác với hướng quy định rõ cơ chế đăng ký thành lập quỹ;
những quy định khung về mô hình tổ chức và hoạt động; cơ chế đóng góp, chi trả,
giới hạn đầu tư của quỹ, bảo đảm an toàn của quỹ hưu trí tự nguyện; và cơ chế
thông tin, báo cáo, giám sát quỹ.
Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quỹ đầu tư chứng
khoán, ủy thác đầu tư trên TTCK theo hướng mở rộng, đa dạng hóa các loại sản
phẩm đầu tư trên thị trường vốn, củng cố hệ thống nhà đầu tư có tổ chức trên TTCK
theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Bên cạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước và
niêm yết trên TTCK sẽ góp phần tạo độ sâu của TTCK thì việc tập trung vào các
quy định bảo đảm quyền tài sản (tính vẹn toàn của tài sản) và tính thanh khoản của
TTCK là cần thiết, qua đó cũng sẽ góp phần thu hút mối quan tâm đầu tư từ quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK, đặc biệt là từ các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.
Việt Nam cần tiếp tục xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
các Luật thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cụ thể
hóa những chính sách ưu đãi đối với chương trình hưu trí tự nguyện đã được quy
định tại luật. Trong đó, các văn bản hướng dẫn cần quy định rõ đối tượng, mức và
điều kiện được tính vào chi phí, được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế hoặc miễn/giảm
thuế đối với các khoản đóng góp vào, lợi nhuận đầu tư và các khoản chi trả từ
chương trình hưu trí tự nguyện. Tuy nhiên, do đặc thù về nguồn hình thành tài sản
của quỹ và đặc điểm đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ nên việc tiếp cận hoạt
động của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trở
133
nên thuận lợi hơn về góc độ giá trị tài sản của quỹ và phân bổ cơ cấu tài sản của quỹ
phù hợp với chiến lược đầu tư và mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện. Theo
đó, việc đầu tư tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện phải tuân thủ quy định pháp luật,
tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư, bảo đảm tính an toàn, hiệu quả, phân tán
rủi ro, thanh khoản, giá trị tài sản đầu tư tương xứng với trách nhiệm và đặc thù rủi
ro của sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện (chẳng hạn như tỷ suất sinh lời cam kết
công bố công khai theo đặc thù của bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam là phải công bố dự
kiến cho giai đoạn 5 năm tới kể từ thời điểm hiện tại).
Như vậy, có thể thấy việc hoàn thiện hành lang pháp lý với các quy định, văn
bản hướng dẫn, phối hợp cụ thể đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền
tảng vững chắc cho việc tích lũy và bảo đảm kỷ luật thị trường trong quản lý quy
mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện, hướng tới sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện
bền vững trong dài hạn.
5.2.4 Tiếp tục cải cách hưu trí theo định hướng mô hình hệ thống hưu trí
đa trụ cột
Việt Nam cần tiếp tục tiến hành cải cách toàn hệ thống hưu trí theo hướng
mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột vì một hệ thống hưu trí đa trụ cột sẽ giúp khắc
phục những bất cập của hệ thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí
bắt buộc PAYG do Nhà nước quản lý. Trong đó, Việt Nam cũng cần chú trọng phát
triển bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC vì những
lợi ích mà quỹ hưu trí tự nguyện có thể đem lại cho người tham gia, cho xã hội và
cho nền kinh tế. Trong đó về phía người tham gia, (i) họ có thể thực hiện hoạch
định kế hoạch tài chính và chi tiêu một cách kỷ luật, hiệu quả và chắc chắn cho tuổi
nghỉ hưu. Khi được kết hợp với các trụ cột tài chính khác, bảo hiểm hưu trí tự
nguyện góp phần bảo đảm cuộc sống sau nghỉ hưu, vượt qua được rủi ro thiếu hụt
tài chính trong giai đoạn nghỉ hưu, đặc biệt là khi sống thọ; (ii) họ không phải tự
mình thực hiện việc quản lý và đầu tư tài sản, do đó có thể trút bỏ những lo lắng, vất
vả khi phải tự thực hiện quản lý và đầu tư tài sản phục vụ cho cuộc sống hưu trí, từ
đó yên tâm hưởng thụ cuộc sống sau nghỉ hưu; (iii) họ có thể được hưởng giá trị
đầu tư lớn hơn so với việc tự đầu tư do các tổ chức cung cấp bảo hiểm hưu trí tự
134
nguyện có chuyên môn cao và có nhiều thông tin hơn cá nhân trong quản lý, đầu tư
đồng thời các tổ chức này quản lý quỹ đầu tư lớn nên có thể đạt được hiệu quả đầu
tư cao hơn. Thêm vào đó, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
cũng đem lại quyền lợi, dịch vụ tốt hơn cho khách hàng; (iv) họ được hưởng ưu đãi
nhất định về thuế thu nhập cá nhân như được miễn một phần thuế thu nhập cá nhân
đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, trì hoãn thu thuế thu nhập cá nhân đối với
khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với tiền
hưu trí được nhận.
5.2.5 Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cá nhân về
quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị
trường chứng khoán Việt Nam
Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP ổn định qua các năm gần đây song Việt
Nam vẫn là một quốc gia có thu nhập bình quân của mỗi người dân còn thấp so với
các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, tỷ lệ dân số già hóa ở
Việt Nam đang ngày càng tăng và có thể dẫn tới hiện trạng “già trước khi kịp giàu”.
Chính vì vậy, việc khuyến khích người lao động có kế hoạch tài chính cho tuổi già
càng sớm là nhằm nâng cao ý thức quản lý tài chính cá nhân và chủ động với các kế
hoạch tài chính với các khoản tiết kiệm về già dành cho bản thân mình ngay khi còn
trẻ. Nhà nước khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia chương trình
hưu trí tự nguyện theo các hình thức sản phẩm của chương trình và có các chính
sách ưu đãi về thuế đối với các khoản đóng góp, lợi nhuận đầu tư và các khoản chi
trả cho người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu với các điều kiện được hưởng và mức
ưu đãi thuế cụ thể thực hiện theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,
Luật thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn.
Chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực hiện theo
quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện (niên
kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp với mục đích hướng đến việc (i)
hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc, nhằm góp phần tạo nên một hệ
thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu
bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như (ii)
135
nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua việc huy động nguồn phí bảo
hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư,
tăng trưởng kinh tế - xã hội. Với sự thuận lợi đến từ các điều kiện bao gồm (i) xu
hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới; (ii) các vấn đề về nhân khẩu học; (iii)
các vấn đề về xã hội học cũng như (iv) tiềm năng phát triển của TTCK Việt Nam đã
và đang góp phần phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Trong khi
đó hoạt động của bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam
hiện nay vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, do đó thông tin số liệu còn hạn chế trên thị
trường.
Chính vì vậy, việc tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các cá
nhân về bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự nguyện và tham gia quỹ hưu trí
tự nguyện cần được chú trọng nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia của các cá
nhân vào các chương trình hưu trí tự nguyện. Qua đó, dự phòng tiết kiệm trong dân
cư được kỳ vọng tăng cường, góp phần làm nền tảng cung cấp nguồn tiết kiệm hưu
trí vào tài khoản cá nhân, hình thành nên tài sản quỹ hưu trí tự nguyện bên cạnh
nguồn lợi tức có được từ việc đầu tư các tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK, góp phần gia tăng quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện.
Đặc biệt, để thu hút đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu
trí tự nguyện trên TTCK, kết quả khảo sát của luận án cũng đề xuất (i) việc tăng
cường tiếp cận với các đối tượng khách hàng tiềm năng là các cá nhân có trình độ,
có hiểu biết nhất định về tài chính và (ii) nội dung tuyên truyền cần gắn liền với lợi
ích của quỹ hưu trí tự nguyện cũng như tính minh bạch và an toàn trong hoạt động
của quỹ hưu trí tự nguyện.
5.2.6 Đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là nhà
đầu tư tổ chức lớn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam trong
vai trò là nhà đầu tư tổ chức lớn, cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên
TTCK, từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của quy mô vốn hóa của tài sản quỹ hưu
trí tự nguyện trên TTCK cũng như quy mô vốn hóa TTCK nhanh hơn so với tốc độ
tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Với việc cung ứng nguồn vốn dài hạn và
136
ổn định trên TTCK, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện sẽ thể hiện vai trò tích cực
của mình đến sự phát triển của TTCK nói riêng, nền kinh tế nói chung.
Tại Việt Nam, theo mục tiêu cụ thể để phát triển TTCK Việt Nam đến năm
2020, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện có mối quan hệ mật thiết với việc thúc
đẩy và phát triển thị trường TPCP trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam. Giải pháp
này kỳ vọng nguồn tiền đầu tư vào quỹ hưu trí tự nguyện sẽ trở thành nguồn tiền
lớn đầu tư vào TPCP và góp phần làm giảm bớt tỷ trọng đầu tư vào TPCP của các
ngân hàng thương mại.
5.2.7 Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn trong hoạt động
của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn, năng lực quản lý quỹ về
các mặt như uy tín, kinh nghiệm, tầm nhìn và sự liêm chính cũng như tăng cường
công tác truyền thông … trong hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trong điều kiện
khuôn khổ pháp lý vẫn đang hoàn thiện với các quy định về đầu tư và phân bổ tài
sản, nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên liên quan (stake holders) để thiết lập các
kế hoạch chủ động trước những thách thức nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên
liên quan (stake holders) và tránh bị tác động nặng nề bởi các rủi ro đến từ môi
trường bên ngoài.
5.3 Kết luận chung
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quỹ hưu trí tự nguyện, vị trí của
quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí quốc gia theo mô hình đa trụ cột cũng
như tiêu chí đánh giá và các điều kiện cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK. Trong bối cảnh dân số già hóa, nhiều quốc gia đã áp dụng các hệ thống hưu
trí khác nhau và hệ thống hưu trí làm thay đổi sự phát triển tài chính. Sự gia tăng giá
trị của các quỹ hưu trí tự nguyện không chỉ cung cấp cho thị trường tài chính nhiều
vốn mà còn tạo ra những đổi mới trong sản phẩm tài chính, cải thiện quản trị doanh
nghiệp và cải thiện hệ thống giám sát và điều tiết, tất cả đều tốt cho phát triển tài
chính trong nền kinh tế, đặc biệt đối với EMEs (Rocholl & Niggemann, 2010). Việc
tăng cường các kế hoạch hưu trí tự nguyện từ khu vực tư nhân được tài trợ đầy đủ
có thể là một phản ứng chính sách hiệu quả đối với việc thiếu vắng sự đón nhận rủi
137
ro của các nhà đầu tư; còn việc áp dụng quỹ hưu trí bắt buộc khi đã hoàn thành các
điều kiện tiên quyết có thể cứu thoát nền kinh tế ra khỏi bẫy tăng trưởng thấp vì lúc
này đã có sự gia tăng trong việc đón nhận rủi ro của các nhà đầu tư với các tài sản
đang được đa dạng hóa hiệu quả sẽ nâng cao tỷ suất lợi nhuận đã được điều chỉnh
theo rủi ro cho cả nền kinh tế (Kim, 2010). Ngoài ra, Hryckiewicz (2009) cũng thừa
nhận chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng của các nhà đầu tư tổ chức là vấn đề quan
trọng, chỉ cần sự gia tăng thuần của các nhà đầu tư tổ chức trong tài sản là đủ để
thúc đẩy tăng trưởng thị trường vốn. Do đó, các nhà hoạch định chính sách, bằng
cách thông qua luật và cải cách thích hợp, có thể thu hút sự phát triển của các nhà
đầu tư tổ chức và từ đó hỗ trợ tăng trưởng TTCK ở các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
Hệ thống hưu trí Việt Nam đang đối mặt với những thách thức về (i) thiếu
bền vững về mặt tài chính trong dài hạn; (ii) bất công bằng giữa các thế hệ; (iii) bất
bình đẳng giữa các nhóm lao động; (iv) mức độ bao phủ còn thấp; và (v) tính hiệu
quả về mặt thực thi và công nghệ quản lý chưa cao thì việc hình thành các quỹ hưu
trí tự nguyện là cần thiết và đáp ứng nhu cầu của xã hội trong điều kiện dân số già
hóa. Theo đó, càng nhiều người có thể tiếp cận tốt hơn đối với sản phẩm chất lượng
cũng như các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và gia tăng nguồn cung tài sản của các nhà
đầu tư tổ chức để có thể đầu tư lâu dài một cách an toàn, bao gồm thông qua các
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK (WB, 2018). Từ đó, luận án cũng cho thấy xu
hướng cải cách hệ thống hưu trí tại Việt Nam, thực trạng phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện tại Việt Nam thông qua thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự
nguyện, hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện có tài sản hưu trí được tập hợp từ
các hợp đồng bảo hiểm hưu trí. Đồng thời, luận án cũng cho thấy triển vọng phát
triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam thông qua phân tích kết quả sự
lựa chọn của các cá nhân.
Theo Quyết định số 252/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 vào ngày 01/03/2012 và Quyết định số 144/QĐ-
TTg về Phê duyệt Đề án hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện tại
Việt Nam vào ngày 20/01/2014, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là
138
một trong những giải pháp quan trọng nhằm mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn
để hoàn thiện và phát triển TTCK và góp phần bảo đảm an sinh xã hội. TTCK Việt
Nam đã và đang tích cực đón nhận sự tham gia của quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò
là nhà đầu tư tổ chức trên TTCK, trong đó tài sản quỹ hưu trí tự nguyện được tập
hợp từ các khoản đóng góp thông qua các hợp đồng bảo hiểm hưu trí. Hiện tại, do
các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trực thuộc và được quản lý bởi các công ty
bảo hiểm nhân thọ, do đó cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện cũng
tương tự cơ cấu danh mục chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ với tính chất an
toàn và tập trung chủ yếu vào tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và TPCP theo quy
định về tỷ trọng phân bổ tài sản.
Đồng thời, việc phân tích tình hình phát triển của hoạt động bảo hiểm hưu trí
tự nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện cũng như thu thập ý kiến sự lựa chọn của cá
nhân đã cho thấy hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam vẫn
còn mới mẻ nhưng cũng đã nhận được sự quan tâm từ những cá nhân có trình độ đại
học trở lên, có hiểu biết chuyên môn về tài chính. Kết quả khảo sát này là cơ sở
tham khảo quan trọng để góp phần xác lập các đối tượng khách hàng mục tiêu của
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Vì vậy, có thể thấy việc phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam là phù hợp và có triển vọng lớn lao về tiềm
năng kinh tế và lợi ích kinh tế.
Luận án cũng tiến hành nghiên cứu mức độ tác động của quỹ hưu trí tự
nguyện đến TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC. Từ kết quả nghiên cứu cho
thấy (i) duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và tính ổn định của kinh tế vĩ mô; (ii) hiện
đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK; (iii) hoàn thiện khung pháp lý với các quy định về
hoạt động đầu tư và phân bổ tài sản là các điều kiện quyết định để phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệp để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam cần (i) tiếp tục thực hiện các cải cách hưu trí hướng tới
hệ thống hưu trí đa trụ cột và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC trên
TTCK; (ii) tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các cá nhân
về quỹ hưu trí tự nguyện và tham gia quỹ hưu trí tự nguyện; (iii) nâng cao năng lực
139
quản lý quỹ về mọi mặt (tài chính và phi tài chính) cũng như củng cố tính minh
bạch và an toàn trong hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện; (iv) đẩy mạnh phát triển
quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam (trong đó bao gồm tiếp cận các cá nhân
có trình độ, có hiểu biết nhất định về tài chính).
Tuy còn một số hạn chế nhưng luận án vẫn đạt được những thành tựu và bảo
đảm nội dung nghiên cứu đã đề ra. Đối với tác giả, đây là một chủ đề nghiên cứu
thú vị và ý nghĩa, đóng góp giá trị cả về kinh tế lẫn xã hội. Vì vậy, tác giả sẽ tiếp tục
theo đuổi chủ đề này trong các nghiên cứu tiếp theo. Trong đó, đề tài sẽ mở rộng
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, hoàn thiện phương pháp xử lý số liệu nhằm tìm ra
được những đánh giá chính xác hơn về mối quan hệ giữa phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện với sự tăng trưởng của TTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển quỹ
hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Theo quan điểm của kiến trúc hệ thống hưu
trí và mức độ phát triển của thị trường vốn trong nước, việc xem xét vai trò của hệ
thống hưu trí đối với sự thay đổi trong phát triển thị trường vốn và các điều kiện
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK đến từ bên trong tổ chức của quỹ hưu trí
tự nguyện được kỳ vọng là hướng nghiên cứu sâu hơn trong tương lai của luận án.
Trên cơ sở đánh giá đó, tác giả có thể đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
của TTCK Việt Nam, tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
140
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
Trong quá trình thực hiện luận án, một phần của luận án đã được sử dụng để
công bố trên các tạp chí và hội thảo khoa học chuyên ngành về lĩnh vực Kinh tế -
Tài chính - Ngân hàng để gia tăng độ tin cậy của luận án khi nhận được các phản
biện của Quý chuyên gia và Quý độc giả có uy tín.
Các bài viết cụ thể như sau:
Trần Nguyễn Minh Hải (2016). Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện trên Thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài chính - Tiền tệ, số 22 (463),
tháng 11/2016, tr. 21 - 27.
Trần Nguyễn Minh Hải (2017). Cải cách hệ thống hưu trí: Xu hướng thế giới và
thực trạng Việt Nam. Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 34 (44), tháng 05 -
06/2017, tr. 88 - 93.
Trần Nguyễn Minh Hải (2018). The impact of voluntary funded pension funds on
stock market: the case of APEC economies. Proceedings of the first
international conference on Vietnam’s Business & Economics Research
2018 (VBER 2018), July 22 - 24, 2018, Ho Chi Minh City. Retrieved from
http://vber.ou.edu.vn/speakers-slides/.
141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bộ Y tế Việt Nam (2016). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2016. Tham
khảo từ http://jahr.org.vn/downloads/JAHR2016/JAHR2016_full_VN.pdf.
Bùi Cẩm Hường (2014). Thế nào là hưu trí tự nguyện và hưu trí bổ sung?. Tham
khảo từ http://tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem/the-nao-la-huu-tri-tu-
nguyen-va-huu-tri-tu-nguyen-bo-sung-96633.html.
Chí Tín (2014). Hệ thống bảo hiểm hưu trí: Ngôi nhà bị rỗng tầng. Tham khảo từ
http://baodautu.vn/he-thong-bao-hiem-huu-tri-ngoi-nha-bi-rong-tang-
d6603.html.
Điều Bá Dược (2013). Bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam: Thực trạng và thách thức.
Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-
luan/bao-hiem-huu-tri-o-viet-nam-thuc-trang-va-thach-thuc-47050.html.
GSO (2015). Tình hình kinh tế - xã hội. Tham khảo tại:
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621.
GSO (2016). Tình hình kinh tế - xã hội. Tham khảo từ
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=16174.
HOSE (2015a). Lịch sử hình thành và phát triển của Sở GDCK TP.HCM. Tham
khảo từ
http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vigioithieu/lichsuphatt
rien?_adf.ctrl-state=osdfqxzsh_4&_afrLoop=12207819721107812.
HOSE (2015b). Quy mô niêm yết. Tham khảo tại:
https://www.hsx.vn/Modules/Listed/Web/ListingSummary/153?fid=a1b2850
9a59441f28d508074c0a72aad (Truy cập ngày 31/5/2016).
HNX (2016a). Lịch sử phát triển. Tham khảo từ http://hnx.vn/web/guest/lich-su-
phat-trien.
HNX (2016b). Dữ liệu thị trường. Tham khảo từ
http://www.hnx.vn/web/guest/128.
142
ISA - MOF (2015). Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2014. Tham khảo từ
http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh/ngttbh_chitiet?
dDocName=BTC074126&_afrLoop=15537987276787259#!%40%40%3F_a
frLoop%3D15537987276787259%26dDocName%3DBTC074126%26_adf.c
trl-state%3Dbl8jmolkk_9.
ISA - MOF (2016). Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2015. Tham khảo từ
http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh/ngttbh_chitiet?
dDocName=MOFUCM094528&_afrLoop=4261724373023002#!%40%40%
3F_afrLoop%3D4261724373023002%26dDocName%3DMOFUCM094528
%26_adf.ctrl-state%3D1bs3o1eim5_84.
Khuất Thị Kiều Vân (2013). Vai trò của quỹ hưu trí đối với TTCK và hệ thống hưu
trí đa trụ cột. Vụ Quản lý Các CtyQLQ và Quỹ ĐTCK. Tham khảo từ
http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/oracle/webcenter/portalapp/pages/vi/aptcn
oidungchitiet.jspx?id=350&_afrLoop=68478244087000&_afrWindowMode
=0#%40%3F_afrLoop%3D68478244087000%26id%3D350%26_afrWindo
wMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3Dq42yncjmg_9.
Lan Vũ (2017). Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội. Tham khảo từ
http://nhandan.com.vn/xahoi/item/34049602-mo-rong-do-bao-phu-bao-hiem-
xa-hoi.html.
Lương Xuân Trường (2014). Bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong hoạch định kế hoạch
tài chính hưu trí. Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-
doi/trao-doi-binh-luan/bao-hiem-huu-tri-tu-nguyen-trong-hoach-dinh-ke-
hoach-tai-chinh-huu-tri-39678.html.
Lưu Hải Vân (2014). Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và thách thức. Tham
khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/he-
thong-huu-tri-viet-nam-hien-trang-va-thach-thuc-39543.html.
MOF (2015a). Ngân sách nhà nước. Tham khảo từ
http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/slnsnn/slqt/slqt_chitiet?d
DocName=BTC217451&_afrLoop=8652831456479737#!%40%40%3F_afr
143
Loop%3D8652831456479737%26dDocName%3DBTC217451%26_adf.ctrl
-state%3D4tat6pzpt_238.
MOF (2015b). Thị trường trái phiếu. Tham khảo từ
http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tpcp/r/m/tb6/tb_chitiet4?dDocNam
e=BTC209073&_afrLoop=21341644962901417#!%40%40%3F_afrLoop%3
D21341644962901417%26dDocName%3DBTC209073%26_adf.ctrl-
state%3Dwwba39v5h_9.
MOLISA (2015). Một số thay đổi về lương hưu và tuổi nghỉ hưu từ ngày 1/1/2016.
Tham khảo từ
http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/ChiTiet.aspx?IDNews=22724.
NECIF (2015). Phát triển thị trường chứng khoán phái sinh - công cụ phòng ngừa
rủi ro cho nhà đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Tham khảo từ
http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/Pages/phattrienthitruongchungkhoan-nd-
17228.html.
Nguyễn Thị Lê Thu (2014). An toàn Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tham khảo từ
http://www.mof.gov.vn/webcenter/contentattachfile/idcplg?dID=81076&dD
ocName=BTC264044&filename=1728290.PDF.
SSC (2012). Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2011-2020. Tham khảo từ
http://ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vilinks/videtail/vichitietthongtinthitruong/vids
thongtintrenhnx/vidstintuchnx/vichitiet119;jsessionid=56h0Xvlp5btJjDH2Q
qXDMPy1rhDTkMTSnHvJKqf1fHDGyNSQL5hn!-1545660682!-
1340227069?dDocName=APPSSCGOVVN162075828&_afrLoop=1380804
5845582812&_afrWindowMode=0&_afrWindowId=null#%40%3F_afrWin
dowId%3Dnull%26_afrLoop%3D13808045845582812%26dDocName%3D
APPSSCGOVVN162075828%26_afrWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-
state%3D4f3y8mji6_4.
SSC (2016a). Trang công bố thông tin. Tham khảo từ
http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/cbtt/cbttmenu/cbttpages_cbttthongtincong
144
bo/cbtt_ctyquanlyquy_ttcb?_adf.ctrl-
state=kla3e0zqn_31&_afrLoop=13475559318403812.
SSC (2016b). Quỹ đầu tư chứng khoán. Tham khảo từ
http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vicsdlcty/ctyquydautuc
k/quyetf?_adf.ctrl-state=s1iqut4mo_4&_afrLoop=11434010914322812.
Thùy Dương (2017). Quỹ hưu trí tại Việt Nam: Xu thế tất yếu của phát triển. Tạp
chí Tài chính. Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-
doi/trao-doi-binh-luan/quy-huu-tri-tai-viet-nam-xu-the-tat-yeu-cua-phat-
trien-102967.html.
Trần Phương Thảo & Nguyễn Anh Tuấn (2014). Hệ thống hưu trí trên thế giới:
Kinh nghiệm quốc tế và xu hướng cải cách. Tạp chí Tài chính. Tham khảo từ
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/trao-doi---binh-luan/he-thong-
huu-tri-tren-the-gioi-kinh-nghiem-quoc-te-va-xu-huong-cai-cach-
39531.html.
VSD (2015). Thông tin số lượng tài khoản giao dịch trong nước và ngoài nước tại
ngày 31/12/2015. Tham khảo từ http://www.vsd.vn/38-p4c22-
30901/0/Thong-tin-so-luong-tai-khoan-giao-dich-trong-nuoc-va-ngoai-nuoc-
tai-ngay-31122015.htm
WB (2012). Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những
thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai.
Tham khảo từ http://www-
wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/IB/2013/06/
10/000445729_20130610130833/Rendered/PDF/782820WP0Vietn00Box37
7335B00PUBLIC0.pdf.
WB (2015). Việt Nam. Retrieved from
http://data.worldbank.org/country/vietnam/vietnamese#cp_surv.
145
Tiếng Anh
ADB (2016). Size of LCY Bond Market. Retrieved from
https://asianbondsonline.adb.org/vietnam/data/bondmarket.php?code=LCY_
Bond_Market_USD.
Adjasi, C. K., & Biekpe, N. B. (2006). Stock market development and economic
growth: the case of selected African countries. African Development
Review, 18(1), 144-161.
Akerlof, G. (1970). The market for lemons: quality uncertainty and the market
Mechanism. Quarterly Journal of Economics 48, 488-500.
Alllianz (2016). 2016 Pension Sustainability Index. Retrieved from http://projectm-
online.com/app/uploads/Allianz_2016_Pension_Sustainability_Index.pdf.
Andrieş, A. M. (2009). Heories regarding financial intermediation and financial
intermediaries - a survey. Retrieved from
http://www.seap.usv.ro/annals/ojs/index.php/annals/article/download/229/22
7.
Barsky, R. B., Juster, F. T., Kimball, M. S., Shapiro, M. D. (1997). Preference
Parameters and Behavioral Heterogeneity: An Experimental approach in the
health and retimrement study. Quarterly Journal of Economics 112, 729 –
758. Retrieved from
http://darp.lse.ac.uk/papersdb/Barsky_et_al_(QJE_97).pdf.
Bellù, L. G. (2011). Development and Development Paradigms A (Reasoned)
Review of Prevailing Visions. Retrieved from
http://www.fao.org/docs/up/easypol/882/defining_development_paradigms_
102en.pdf.
Benston, G. W. & Smith, C. W. (1976). A transaction cost approach to the theory of
financial intermediation. The Journal of Finance, Vol. XXXI (1), pp. 215-
231.
Blommestein, H. J. (1997). Institutional Investors, Pension Reform, and Emerging
Securities Markets. Retrieved from
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1815985.
146
Boubakari, A. (2010). The Role of Stock Market Development in Economic
Growth: Evidence from Some Euronext Countries. International Journal of
Financial Research, ISSN 1923-4023 (Print), ISSN 1923-4031 (Online).
DOI: https://doi.org/10.5430/ijfr.v1n1p14.
Boyd, J. H., Levine, R., & Smith, B. D. (2001). The Impact of Inflation on Financial
Sector Performance. Journal of Monetary Economics, Vol. 47 pp. 221-248.
Buchholz, R. A. (2004). The natural environment: Does it count?. Academy of
Management Executive, 18 (2):130-133.
Byrne, A. (2007). Employee Saving and Investment Decisions in Defined
Contribution Pension Plans: Survey Evidence from the UK. Financial
Services Review, Vol. 16, No. 1, 2007. Retrieved from
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1012855.
Campbell, J. Y., & Viceira, L. M. (2001). “Who Should Buy Long-Term Bonds?.
The American Economic Review, Vol. 91, No. 1:99-127.
Campbell, J. Y., & Viceira, L. M. (2002), Strategic Asset Allocation: Portfolio
Choice for Long-Term Investors. Oxford University Press.
Caporale, G. M., Howells, P. G., & Soliman, A. M. (2004). Stock market
development and economic growth: the causal linkage. Journal of Economic
Development, 29(1), 33-50.
Catalan, M., Impavido, G., & Musalem, A. R. (2000). Contractual savings or stock
market development, which leads? (Vol. 2421). World Bank Publications.
Retrieved from http://elibrary.worldbank.org/doi/abs/10.1596/1813-9450-
2421.
CEFR (2014). Dữ liệu về dân số. Tham khảo từ
http://cefr.uel.edu.vn/ArticleId/409b807f-9ab0-4243-b65b-
9082153c944c/dan-so-xa-hoi-kinh-te-nang-luong.
CIA (2016). The world factbook. Tham khảo từ
https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html.
Claus, I. & Grimes, A. (2003). Asymmetric Information, Financial Intermediation
and the Monetary Transmission Mechanism: A Critical Review. New
147
Zealand Treasury Working Paper 03/19. Retrieved from
http://www.treasury.govt.nz/publications/research-policy/wp/2003/03-
19/04.htm.
Collins (2012). A retirement pension. Collins English Dictionary - Complete &
Unabridged 2012 Digital Edition, William Collins Sons & Co. Ltd. 1979,
1986. Harper Collins Publishers 1998, 2000, 2003, 2005, 2006, 2007, 2009,
2012.
Crockett, A. (2002). Capital flows in East Asia since the crisis. Retrieved from
http://www.bis.org/speeches/sp021011.htm.
DANIDA (2016). Private Capital for Sustainable Development: Concepts, Issues
and Options for Engagement in Impact Investing and Innovative Finance.
Retrieved from http://um.dk/~/media/UM/Danish-
site/Documents/Danida/Resultater/Eval/201602StudyPrivateCapital.pdf?la=e
n.
Davis, E. P. (1998). Pension funds: retirement-income security and capital markets:
an international perspective. OUP Catalogue from Oxford University Press
1998 (paperback edition), ISBN 0-19-829304-6. Retrieved from
https://ideas.repec.org/b/oxp/obooks/9780198293040.html.
Davis, E. P (2000). Pension Funds, Financial Intermediation and the New
Financial Landscape. Retrieved from https://www.pensions-
institute.org/workingpapers/wp0010.pdf.
Davis, E. P. (2005). The role of pension funds as institutional investors in emerging
markets. Retrieved from http://bura.brunel.ac.uk/handle/2438/979.
Davis, E. P., & Hu, Y. W. (2005). Is there a link between pension-fund assets and
economic growth?-A cross-country study. Retrieved from
http://bura.brunel.ac.uk/handle/2438/978.
Davis, E. P., & Hu, Y. W. (2008). Does funding of pensions stimulate economic
growth?. Journal of Pension Economics and Finance, 7(02), 221-249.
Retrieved from http://dx.doi.org/10.1017/S1474747208003545.
148
DESA (2013). Sustainable Development Challenges. Retrieved from
https://sustainabledevelopment.un.org/content/documents/2843WESS2013.p
df.
Diamond, D. (1984). Financial Intermediation and Delegated Monitoring. Review of
Economic Studies 51, pp. 393-414.
Economicshelp (2016). The impact of an ageing population on the economy.
Retrieved from http://www.economicshelp.org/blog/8950/society/impact-
ageing-population-economy/.
Enache, C., Miloş, L. R. & Miloş, M. C. (2013). Pension reform and capital market
development in Central and Eastern European countries. Retrieved from
http://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/1331677X.2015.1022388.
EU (2013). Sustainable Development. Retrieved from
http://ec.europa.eu/environment/eussd/.
EUROPARL (2014). Pension Schemes. Online available at:
http://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/STUD/2014/536281/IPOL_S
TU(2014)536281_EN.pdf.
EUROPE (2018). Pension taxation. Taxation and Customs Union. Retrieved from
https://ec.europa.eu/taxation_customs/individuals/personal-taxation/pension-
taxation_en.
Falkenheim, M, (2015). Optimal pension funding strategy and pension insurance
reform. Retrieved from https://www.brookings.edu/wp-
content/uploads/2016/07/Falkenheim-WP-17-2.pdf.
Fama, E. F. (1980). Fama Banking in the theory of finance. Journal of Monetary
Economics, 6 (1), pp. 39-57.
Feldstein, M., & Samwick, A. (2001). Potential paths of social security reform (No.
w8592). National Bureau of Economic Research. Retrieved from
http://www.nber.org/papers/w8592.pdf.
Fischer, B., & Reisen, H. (1994). Pension fund investment from ageing to emerging
markets. OECD. Retrieved from http://www.oecd-
ilibrary.org/development/pension-fund.
149
Franzen, D. (2010). Managing Investment Risk in Defined Benefit Pension Funds.
OECD working paper on insurance and private pensions. No. 38. Retrieved
from http://www.oecd.org/finance/private-pensions/44899253.pdf.
Freeman, R. E., Wicks, A. C. & Parmar, B. (2004). Stakeholder Theory and ‘The
Corporate Objective Revisited. Organization Science, 15 (3): 364-369.
Giang Thanh Long (2004). HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện trạng và
những thách thức trong điều kiện dân số già hoá. Tham khảo từ
http://www.grips.ac.jp/vietnam/VDFTokyo/Temp/Doc/2003-2004/DP02V-
GTLongJun04.pdf.
GoC - Government of The Republic of Croatia (1999). Compulsory and voluntary
pension funds Act. Retrieved from
http://www.regos.hr/UserDocsImages/dokumenti/WBFOND5.pdf.
Gordon, M. S., Mitchell, O. S. & Twinney, M. M (1997). Positioning Pensions for
the Twenty-First Century. ISBN 0-8122-3391-3 (acid-free paper). USA:
University of Pennsylvania Press.
Guttentag, J. M. & Linsay, R. (1968). The uniqueness of commercial banks.
Journal of Political Economy, Vol. 71, 991-1014.
Hinz, R., Rudolph, H. P., Antolín, P., Levine, R., & Zervos, S. (1996). Stock market
development and long-run growth. The World Bank Economic Review, 10(2),
323-339.
Hinz, R., Rudolph, H. P., Antolín, P. & Yermo, J. (2010). Evaluating the financial
performance of pension funds. World Bank Publications. Retrieved from
http://www.apapr.ro/images/BIBLIOTECA/investitiirandamente/wb%20201
0%20evaluating%20financial%20performance.pdf.
Heinz, R. & Hinz, R. (2010). Evaluating the Financial Performance of Pension
Funds. Retrieved from
http://www.worldbank.org/en/topic/financialsector/publication/evaluating-
the-financial-performance-of-pension-funds.
Holzmann R., Hinz R. P. & Dorfman M. (2008). Pension Systems and Reform
Conceptual Framework. Retrieved from
150
http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-
Discussion-papers/Pensions-DP/0824.pdf.
Holzmann, R. (2012). Global Pension System and Their Reform, World Drivers,
Trends, and Challenges. Social Protection & Labor Disscussion Paper N.
1213, The World Bank. Retrieved from
http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-
Discussion-papers/Pensions-DP/1213.pdf.
Howell, T., Wang, P., Zhang, M., & Shand, R. (2014). Retirement systems and
pension reform: A Malaysian perspective. International Labour
Review, 153(3), 489-502. Retrieved from
https://www.researchgate.net/publication/267457342_Retirement_systems_a
nd_pension_reform_A_Malaysian_perspective.
Hryckiewicz, A. (2009). Pension Reform, Insitutional Investors' Growth and Stock
Market Development in the Developing Countries? Does it Function?.
Retrieved from http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1370886.
Hu, Y. W. (2012). Growth of Asian Pension Assets: Implications for Financial and
Capital Markets. ADBI Working Paper Series. Retrieved from
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2071134.
IDEAs (2017). Twenty Years after The Asian Financial Crisis. Retrieved from
http://www.networkideas.org/news-analysis/2017/08/twenty-years-after-the-
asian-financial-crisis/.
IISD (2013). What is Sustainable Development. Retrieved from
http://www.iisd.org/sd/.
Impavido, G., & Musalem, A. R. (2000). Contractual savings, stock, and asset
markets (Vol. 2490). World Bank Publications.
Impavido, G., Musalem, A. R., & Tresselt, T. (2003). The impact of contractual
savings institutions on securities markets. World Bank Policy Research
Working Paper, (2948). Retrieved from
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=636310.
151
JPS (2017). National Pension System. Retrieved from
http://www.nenkin.go.jp/international/english/nationalpension/nationalpensio
n.html.
Kapteyn, A., Teppa, F. (2002). Subjective Measures of Risk Aversion and Portfolio
Choice. Center/RAND. Retrieved from
http://www.dartmouth.edu/~lusardiworkshop/Papers/RiskAversion.pdf.
Kahneman, D. & Tversky, A. (1979). Prospect theory: An analysis of decision
under risk daniel kahneman; amos tversky. Econometrica (pre-1986); Mar
1979; 47, 2; ABI/INFORM Global, pg. 263. Retrieved from
https://www.princeton.edu/~kahneman/docs/Publications/prospect_theory.pd
f.
Katuse, P., Aiyabei, J. K., Karanja, P. K. & Waititu, G. A. (2013). Does the size of
pension’s funds influence the adoption of risk management strategies among
the pension schemes?. Retrieved from
http://erepo.usiu.ac.ke/handle/11732/426.
Kim, H. S. (2010). Spillover effects of pension funds on capital markets: the
mechanisms and preconditions. Bank of Korea. Retrieved from
http://growth-institutions.ec.unipi.it/pages/Pension_system/spillover.pdf.
Liang, R., & Bing, L. (2010). Management of UK pension funds and financial
market development: 1970-2008. In 2010 3rd International Conference on
Information Management, Innovation Management and Industrial
Engineering (Vol. 4, pp. 594-598). IEEE. Retrieved from
http://ieeexplore.ieee.org/document/5694978/.
Lakonishok, J., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1992). The impact of institutional
trading on stock prices. Journal of financial economics, 32(1), 23-43.
Lee, S. H., Mason, A. W., & Park, D. (2011). Why Does Population Aging Matter
So Much for Asia? Population Aging, Economic Growth, and Economic
Security in Asia (October 1, 2011). Asian Development Bank Economics
Working Paper Series, (284).
152
Leland, H. & Pyle, D. (1977). Informational Asymmetries, Financial Structure and
Financial Intermediation. Journal of Finance, Vol. 32, pp. 371 – 387.
McCauley, N. R. (2003). Capital flows in East Asia since the 1997 crisis.
Retrieved from http://www.bis.org/publ/qtrpdf/r_qt0306e.pdf.
Meng, C., & Pfau, W. D. (2010). The role of pension funds in capital market
development. GRIPS Discussion Papers, (10-17). Retrieved from
http://www.grips.ac.jp/r-center/wp-content/uploads/10-17.pdf.
Merton, R. C. (1995). Financial Innovation and the Management and Regulation of
Financial Institutions. Journal of Banking and Finance (July), 461-482.
Miles, D. (1993). Testing for short termism in the UK stock market. The Economic
Journal, 103(421), 1379-1396.
Mishkin, F. S. (2012). Economics of Money, Banking, and Financial Markets. The
10th Edition. USA: Published by Prentice Hall, Jan 6, 2012. Retrieved from
http://www.cwu.edu/~saunders/ec330/ec330ppt.html.
Mohieldin, M. (2017). The Sustainable Development Goals and Private Sector
Opportunities. Retrieved from
http://pubdocs.worldbank.org/en/394231501877501769/The-Sustainable-
Development-Goals-and-Private-Sector-Opportunities.pdf.
Muliati, I. (2013). Pension reform experience in Indonesia. IMF Conference
“Designing Sustainable and Equitable Pension Systems in Asia in the Post
Crisis World”. World Bank. Retrieved from www. imf.
org/external/np/seminars/eng/2013/oapfad/pdf/muliati_ppr.
NBS - National Bank of Serbia (2011). Law on voluntary pension funds and
pension schemes. Retrieved from
http://www.nbs.rs/export/sites/default/internet/english/20/laws/law_pension_
funds.pdf.
Njuguna, A. G. & Otsola, J. K. (2011) Predictors of Pension Finance Literacy: A
Survey of Members of Occupational Pension Schemes in Kenya. Retrieved
from http://erepo.usiu.ac.ke/handle/11732/505.
153
OECD (2004). Private Pensions Series Pension Reform in the Baltic Countries.
Retrieved from http://www.oecd-ilibrary.org/finance-and-
investment/pension-reform-in-the-baltic-countries_9789264021068-en.
OECD (2005). EET system. Retrieved from
https://stats.oecd.org/glossary/detail.asp?ID=5225.
OECD (2008). OECD-IOPS Guidelines on the Licensing of Pension Entities.
Retrieved from http://www.oecd.org/finance/private-pensions/oecd-
iopsguidelinesonthelicensingofpensionentities.htm.
OECD (2011). Chile review of the private pesion fund. Retrieved from
http://www.oecd.org/finance/private-pensions/49497472.pdf.
OECD (2007). Survey of Investment Choice by Pension Fund Members. Retrieved
from https://www.oecd.org/finance/insurance/37977416.pdf.
OECD (2014). OECD Pensions Outlook. OECD Publishing. Retrieved from
http://www.oecd-ilibrary.org/finance-and-investment/oecd-pensions-
outlook_23137649.
OECD (2015). The tax treatment of unded rivate pension plans: OECD AND EU
COUNTRY PROFILES. Retrieved from
https://www.oecd.org/daf/fin/private-pensions/tax-treatment-pension-plans-
country-profiles.pdf.
OECD (2016). OECD Pensions Outlook. OECD Publishing. Retrieved from
https://pensjonskasseforeningencms.nordiskbedriftsutvikling.com/PKF_Dok
umenter/Opne_sider/OECD%202016%20Pensions%20Outlook.pdf.
OECD (2018). Sustainable Development: Critical Issues - free overview of the
report.
Retrieved
from
http://www.oecd.org/greengrowth/sustainabledevelopmentcriticalissues-
freeoverviewofthereport.htm.
Park, D., & Estrada, G. B. (2013). Emerging Asia’s Public Pension Systems:
Challenges and Reform Efforts. Retrieved from
https://www.imf.org/external/np/seminars/eng/2013/oapfad/pdf/park_ppr.pdf
.
154
Phillips, R. A. and Reichart, J. (2000). The Environment as a Stakeholder? A
Fairness-Based Approach. Journal of Business Ethics, 23 (2): 185-197.
Raddatz, C. E., & Schmukler, S. L. (2008). Pension funds and capital market
development. World Bank Policy Research Working Paper Series, Vol.
Retrieved from
https://www.researchgate.net/profile/Sergio_Schmukler/publication/2397020
9_PENSION_FUNDS_AND_CAPITAL_MARKET_DEVELOPMENTHO
W_MUCH_BANG_FOR_THE_BUCK/links/0912f50b587fe91026000000.p
df.
Raisa, M. L. (2012). Spillover effects of pension funds on capital markets. The EU-
15 countries case. Annals-Economy Series, 4, 164-170. Retrieved from
http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2012-
04.I/27_MILOS%20Laura%20Raisa.pdf
Rastog, N. & Trivedi, M. K. (2016). Pestle technique – A tool to identify external
risk in construction projects. International Research Journal of Engineering
and Technology (IRJET), Volume: 03 Issue: 01 | Jan-2016. Retrieved from
https://irjet.net/archives/V3/i1/IRJET-V3I165.pdf.
Rocholl, J., & Niggemann, T. (2010). Pension funding and capital market
development. Available at SSRN 1571126. Retrieved from
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1571126.
Rooij, M. C. J., Kool, C. J. M & Prast, H. M (2007). Risk-return preferences in the
pension domain: Are people able to choose?. Journal of Public Economics,
Volume 91, Issues 3–4, April 2007, Pages 701-722. Retrieved from
https://doi.org/10.1016/j.jpubeco.2006.08.003.
Sun, S., & Hu, J. (2014). The Impact of Pension Systems on Financial
Development: An Empirical Study. Available at SSRN 2481749.
Thaler, R. H, & Benartzi, S. (2004). Save more tomorrow: Using behavioral
economics to increase employee saving. Journal of Political Economy, 112,
164-187, doi: 10.1086/380085.
155
Thomas, A., & Spataro, L. (2014). The Effects of Pension Funds on Markets
Performance: A Review. Journal of Economic Surveys. Retrieved from
http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/joes.12085/full.
Towerswatson (2015). Indonesia: New Social Security System Has Defined Benefit
Feature. Retrieved from
https://www.towerswatson.com/en/Insights/Newsletters/Global/global-news-
briefs/2015/08/indonesia-new-social-security-system-has-defined-benefit-
feature.
Towerswatson (2016). Global Pensions Asset Study – 2016. Retrieved from
https://www.willistowerswatson.com/~/media/WTW/PDF/Insights/2016/02/G
lobal-Pensions-Asset-Study-2016.pdf?la=en.
TTBD (2014). Đánh giá thực trạng hệ thống bảo hiểm hưu ở Việt Nam. Tham khảo
từ http://tailieu.ttbd.gov.vn:8080/index.php/tai-lieu/chuyen-de-chuyen-
sau/item/361-danh-gia-thuc-trang-he-thong-bao-hiem-huu-tri-o-viet-nam.
UN (2010). Sustainable Development: From Brundtland to Rio 2012. Retrieved
from
http://www.un.org/wcm/webdav/site/climatechange/shared/gsp/docs/GSP1-
6_Background%20on%20Sustainable%20Devt.pdf.
UN (2013). Chapter 3: Challenges in raising private sector resources for financing
sustainable development. UNTT Working Group on Sustainable
Development Financing. Retrieved from
https://sustainabledevelopment.un.org/content/documents/2106Chapter%203
-challenges%20in%20raising%20private%20sector%20resources.pdf.
UN (2015). World population ageing report. Retrieved from
http://www.un.org/en/development/desa/population/publications/pdf/ageing/
WPA2015_Report.pdf.
Valdés-Prieto, S. (2008). A Theory of Contribution Density and Implications for
Pension Design. Retrieved from
http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-
Discussion-papers/Pensions-DP/0828.pdf.
156
Viceira, L. M. (2010). Pension Fund Design in Developing Economies. Retrieved
from
http://www.people.hbs.edu/lviceira/Optimal%20Portfolios%20in%20Mandat
ory%20Defined%20Contribution%20Pension%20Funds.pdf.
Vittas, D. (2000). Pension Reform and Capital Market Development:" Feasibility"
and" Impact" Preconditions (Vol. 2414). World Bank Publications.
Zandberg, E., & Spierdijk, L. (2013). Funding of pensions and economic growth:
are they really related?. Journal of Pension Economics and Finance,12(02),
151-167. Retrieved from http://dx.doi.org/10.1017/S1474747212000224.
Walker, E. & Lefort, F. (2002). Pension reform and capital markets: are there any
(hard) links? (Social Protection Discussion Paper 0201). Washington DC:
The World Bank. Retrieved from
http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-
Discussion-papers/Pensions-DP/0201.pdf.
WB (1994). Averting the old age crisis: policies to protect the old and promote
growth (English). Retrieved from
http://documents.worldbank.org/curated/en/1994/09/698030/averting-old-
age-crisis-policies-protect-old-promote-growth.
WB (2001). World Bank Pension Reform Primer: Notional defined contribution
plans as a pension reform strategy. Retrieved from
http://siteresources.worldbank.org/INTPENSIONS/Resources/395443-
1121194657824/PRPNoteNotionalAccts.pdf.
WB (2008). The World Bank pension conceptual framework. World Bank pension
reform primer series. Washington, DC: World Bank. Retrieved from
http://documents.worldbank.org/curated/en/2008/09/9898950/world-bank-
pension-conceptual-framework.
WB (2018). Pension Funds, Insurance & Investment Funds. Retrieved from
http://www.worldbank.org/en/topic/financialsector/brief/pension-funds.
157
WEF - World Economic Forum (2015). The Global Competitiveness Report 2015 -
2016. Retrieved from https://www.weforum.org/reports/global-
competitiveness-report-2015.
WEF (2008 - 2016). Global Competitiveness Report 2008-2016. World Economic
Forum. Retrieved from
https://www.weforum.org/search?utf8=%E2%9C%93&query=Global+compet
itiveness+report&cx=005374784487575532108%3Azwr8u4lxoba&cof=FORI
D%3A11&op.x=0&op.y=0&op=Search.
WEF (2017). Case Studies in Retirement System Reform. Retrieved from
https://www.mercer.com/content/dam/mercer/attachments/global/gl-2017-
wef-retirement-handbook.pdf.
Whitehouse, E. (2005). Taxation: The tax treatment of funded pensions. World
Bank Pension Reform Primer Series. World Bank, Washington, DC.
Retrieved from https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/11211.
Williams, C. (2018). The Difference Between a Pension & Retirement. Retrieved
from https://budgeting.thenest.com/difference-between-pension-retirement-
20451.html.
Willmore, L. (2000). Three pillars of pensions? A proposal to end mandatory
contributions. United Nations. Retrieved from
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=233586.
158
PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT
Kính thưa Quý Anh/Chị,
Tôi tên là Trần Nguyễn Minh Hải, công tác tại Khoa Tài chính, Trường Đại
học Ngân hàng TP.HCM. Hiện tôi đang nghiên cứu đề tài “Phát triển quỹ hưu trí tự
nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Nghiên cứu của tôi hướng vào những cá nhân đang hoặc sẽ sớm trở thành
người tham gia vào chương trình hưu trí được tài trợ tư nhân (private funded
pension schemes), bao gồm chương trình hưu trí nghề nghiệp (private
occupational/employee funded pension schemes) và chương trình kế hoạch hưu trí
cá nhân (private individual/personal funded pension schemes) bên cạnh hệ thống
hưu trí công (public unfunded pension system - Pay as You Go defined benefit
system) tại Việt Nam. Do đó, các cá nhân được lựa chọn khảo sát là từ 18 tuổi trở
lên đã có công việc được trả lương, đang tìm kiếm việc làm hoặc đã liệt kê công
việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo đúng chuyên ngành học tập của mình.
Kính nhờ Quý Anh/Chị dành chút thời gian quý báu trả lời giúp các câu hỏi
sau với mục đích khảo sát sự lựa chọn của cá nhân trong thực tế để có cơ sở đề xuất
quan trọng và ý nghĩa đối với các giải pháp phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam. Nội dung khảo sát được cấu trúc thành 4 phần
Phần 1: Thông tin cá nhân (gồm 7 câu hỏi)
Phần 2: Mức độ hiểu biết về tài chính và đánh giá rủi ro (gồm 9 câu hỏi)
Phần 3: Hành vi và sở thích cá nhân đối với thu nhập hưu trí (gồm 8 câu hỏi)
Phần 4: Thực tiễn Việt Nam (bao gồm 8 câu hỏi)
Những thông tin khảo sát từ Quý Anh/Chị sẽ chỉ được dùng cho mục đích
nghiên cứu của đề tài và được bảo mật thông tin của người trả lời.
Xin chân thành cảm ơn và xin trân trọng kính chào.
159
PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN (bao gồm 7 câu hỏi)
Anh/Chị vui lòng điền các thông tin sau
1. Độ tuổi: ………Tuổi
2. Cấp bậc giáo dục cao nhất mà Anh/Chị đã hoàn thành?
[] Trung học phổ thông
[] Cao Đẳng [] Đại học [] Sau Đại học
3. Tình trạng hôn nhân [] Chưa có bạn đời [] Đã có bạn đời
4. Giới tính [] Nam [] Nữ
5. Thu nhập thường xuyên trung bình theo tháng dùng để tính thuế thu nhập cá nhân
của Anh/Chị?
(Anh/Chị đánh dấu vào một lựa chọn)
[] Nhỏ hơn hoặc bằng 5 triệu đồng/tháng [] Trên 5 - 10 triệu đồng/tháng
[] Trên 10 - 18 triệu đồng/tháng [] Trên 18 - 32 triệu đồng/tháng
[] Trên 32 - 52 triệu đồng/tháng [] Trên 52 - 80 triệu đồng/tháng
[] Trên 80 triệu đồng/tháng
6. Tình trạng công việc hiện nay của Anh/Chị?
[] Đã có việc làm được trả lương
[] Đang tìm kiếm việc làm hoặc dự kiến việc làm đầu tiên sẽ theo đúng chuyên
ngành học tập của mình
7. Anh/Chị đã làm việc bao lâu? ……. năm ….. tháng
(Nếu đang tìm kiếm việc làm hoặc dự kiến công việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo
đúng chuyên ngành học tập của mình, xin vui lòng ghi “0”)
160
PHẦN 2: MỨC ĐỘ HIỂU BIỂT CHUYÊN MÔN VỀ TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH
GIÁ RỦI RO (bao gồm 9 câu hỏi)
1. Anh/Chị đánh giá chuyên môn của mình về các quyết định tài chính (ví dụ như
về quyết định đầu tư) ở mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa
là "Tôi cố gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm
bắt cơ hội")?
2. Anh/Chị mô tả chính xác nhất về thái độ chung của Anh/Chị trong cuộc sống ở
mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh
rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?
3. Anh/Chị mô tả chính xác nhất thái độ của Anh/Chị trong các vấn đề tài chính ở
mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh
rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?
4. Anh/Chị mô tả chính xác nhất thái độ của Anh/Chị về thu nhập hưu trí của
Anh/Chị ở mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố
gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?
Giả định Anh/Chị hiện đang có việc làm. Bác sĩ của Anh/Chị khuyên Anh/Chị nên
chuyển nhà vì lý do về sức khỏe (bị dị ứng). Anh/Chị làm theo lời khuyên của bác sĩ.
Ngôi nhà mới của Anh/Chị thì xa nơi làm việc (việc đi làm rồi trở về nhà với quãng
đường xa không phải là một sự lựa chọn). Trong thành phố mới, Anh/Chị được đề
nghị lựa chọn một trong hai công việc thích hợp và đều đòi hỏi như nhau về mô tả
và khối lượng công việc, nhưng có một công việc có thu nhập chắc chắn hơn so với
công việc còn lại (áp dụng giả định chung cho câu 5, 6, 7, 8, 9).
5. Công việc (5.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời
Anh/Chị. Công việc (5.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và
với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 30% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời còn lại
của Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại
và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 70% thu nhập hiện tại). Anh/Chị
chọn công việc nào?
[] Công việc (5.1) (chuyển tiếp đến câu 8)
[] Công việc (5.2) (chuyển tiếp đến câu 6)
161
6. Công việc (6.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời
Anh/Chị. Công việc (6.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và
với 50% cơ hội thu nhập tương đương 50% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời
còn lại của Anh/Chị). Anh/Chị chọn công việc nào?
[] Công việc (6.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)
[] Công việc (6.2) (chuyển tiếp đến câu 7)
7. Công việc (7.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời
Anh/Chị. Công việc (7.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và
với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 75% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời còn lại
của Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại
và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 25% thu nhập hiện tại). Anh/Chị
chọn công việc nào?
[] Công việc (7.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)
[] Công việc (7.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)
8. Công việc (8.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời
Anh/Chị. Công việc (8.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và
với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 20% thu nhập hiện tại trong suốt phần còn lại của
cuộc đời Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập
hiện tại và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 80% thu nhập hiện tại).
Anh/Chị chọn công việc nào?
[] Công việc (8.1) (chuyển tiếp đến câu 9)
[] Công việc (8.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)
9. Công việc (9.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời
Anh/Chị. Công việc (9.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và
với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 10% so với thu nhập hiện tại phần đời còn lại của
Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại và
50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 90% thu nhập hiện tại). Anh/Chị chọn
công việc nào?
[] Công việc (9.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)
[] Công việc (9.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)
162
PHẦN 3: HÀNH VI VÀ SỰ ƯU TIÊN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP
HƯU TRÍ (bao gồm 8 câu hỏi)
Phần này cung cấp cho người được phỏng vấn sự mô tả các khái niệm quan trọng
nhất có liên quan.
Hệ thống hưu trí có thể được tài trợ hoàn toàn (fully funded), không được tài trợ
(unfunded) hoặc chỉ có được tài trợ một phần (partly funded). Với tình trạng dân số
già hoá và gánh nặng chi trả thu nhập hưu trí, hệ thống hưu trí không được tài trợ
(unfunded) đang dần được thay thế bằng hệ thống hưu trí được tài trợ (funded).
Một hệ thống hưu trí không được tài trợ (unfunded) thì được gọi là hệ thống hưu trí
công (public compulsory pension system) theo cơ chế PAYG và được vận hành theo
mô hình DB, do trong cơ cấu quỹ này không có nguồn dành riêng để chi trả cho thế
hệ hưu trí trong hiện tại và tương lai mà được trích từ các khoản đóng góp của
những người đang lao động.
Ngược lại, trong một hệ thống hưu trí được tài trợ (funded), quỹ hưu trí tự nguyện
(private voluntary funded pension funds) mang hàm ý về loại hình quỹ hưu trí được
tài trợ hoàn toàn dựa vào các khoản đóng góp tự nguyện của người tham gia vào
các chương trình hưu trí tư nhân trong mối tương quan với quỹ hưu trí bắt buộc.
Với sự hiện hữu của một tập hợp các tài sản hưu trí đến từ sự đóng góp của người
lao động vào quỹ hưu trí (thông qua tài khoản hưu trí cá nhân), người lao động khi
nghỉ hưu sẽ nhận được lợi ích hưu trí đến từ lợi nhuận tích lũy của quá trình đầu tư
tài sản của quỹ hưu trí. Quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III trong hệ thống
hưu trí đa trụ cột được WB giới thiệu vào năm 1994, bao gồm:
(i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private
employee/occupational voluntary funded pension) có thể theo mô hình tài chính có
mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hay theo mô hình có mức đóng
góp xác định trước (Defined Contribution - DC): Quỹ hưu trí nghề nghiệp tự
nguyện có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao động và là dạng quỹ hưu
trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử dụng lao động
đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng, nhưng người lao
163
động có quyền không tham gia và không có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia dạng
hợp đồng này.
(ii) Quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private personal/individual
voluntary funded pension) theo mô hình DC: Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện được
thành lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo hiểm
nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ thống quy
định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị trường và
được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế của Nhà nước.
Tại một số quốc gia trên thế giới, ví dụ ở Netherlands, các khoản phí bảo hiểm của
những người tham gia vào các thỏa thuận hưu trí cụ thể của doanh nghiệp được tập
hợp đầu tư bởi quỹ hưu trí hoặc công ty bảo hiểm nhưng tiết kiệm cho nghỉ hưu là
bắt buộc với đa số người lao động (quỹ hưu trí nghề nghiệp/quỹ hưu trí bổ sung
mang tính chất bắt buộc - private employee/occupational compulsory funded
pension funds). Các chương trình hưu trí tại Netherlands chủ yếu thuộc về loại hình
có mức hưởng được xác định (defined benefit - DB). Do đó, đây là hình thức quỹ
hưu trí bổ sung bắt buộc nhằm gia tăng thêm thu nhập hưu trí cho người lao động
bên cạnh quỹ hưu trí công, và vì vậy chúng không phải là một sản phẩm bảo hiểm
thương mại mà là một chính sách BHXH.
Tại US, người lao động được phép lựa chọn tỷ lệ tiết kiệm của họ về hưu trí. Hơn
nữa, theo nguyên tắc, họ được phép lựa chọn trong số các danh mục có mức lợi
nhuận - rủi ro khác nhau cho việc đầu tư các khoản đóng góp của họ. Người lao
động không bị bắt buộc phải tham gia quỹ hưu trí nghề nghiệp (quỹ hưu trí bổ sung
tự nguyện - private employee/occupational voluntary funded pension funds) và có
thể chọn đầu tư tiền tiết kiệm để nghỉ hưu theo một cách nào đó, ví dụ như tham gia
quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện (individual private pension funds). Do đó, tại US,
phổ biến nhất là phải đóng phí bảo hiểm vào các tài khoản cá nhân với nhiều sự tự
do lựa chọn hơn vào trong việc đầu tư các tài sản hưu trí như cổ phiếu và trái phiếu
theo hệ thống hưu trí theo mô hình DC. Theo đó, trợ cấp hưu trí trong hệ thống có
mức đóng góp xác định trước (DC) không được bảo đảm mức hưởng được xác định
trước (defined benefit - DB) mà phụ thuộc vào lợi tức đầu tư từ tiền phí đóng bảo
164
hiểm. Đầu tư nhiều hơn vào cổ phiếu có thể đem đến mức hưởng lợi cao hơn nhưng
sự không chắc chắn về mức trợ cấp hưu trí được hưởng cũng tăng lên. Do đó, thu
nhập hưu trí cũng có thể lên cao cũng như xuống thấp.
Còn trong hệ thống bảo hiểm hưu trí hiện tại của Việt Nam, chủ yếu vẫn là hệ thống
hưu trí công theo cơ chế PAYG có mức hưởng được xác định trước (DB) nhằm bảo
đảm an sinh xã hội với chương trình bảo hiểm hưu trí bắt buộc. Tuy nhiên, trong
tình trạng tỷ lệ dân số già hoá đang tăng theo thời gian, hệ thống hưu trí công Việt
Nam đối mặt với áp lực chi trả thu nhập hưu trí nên tiềm ẩn sự bất ổn về mặt tài
chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ. Do đó, hệ thống hưu trí Việt Nam đã có
sự phát triển mở rộng thêm về đối tượng áp dụng, chương trình bảo hiểm hưu trí tự
nguyện theo mô hình DC, trong đó người lao động tự nguyện tham gia, được lựa
chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng
BHXH. Các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực hiện
theo quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện
(niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Mục đích hướng đến việc
hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc trong hệ thống hưu trí đa trụ cột,
nhằm góp phần tạo nên một hệ thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa
dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi
thành phần kinh tế. Đồng thời, nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua
việc huy động nguồn phí bảo hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ
đó góp phần thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế - xã hội. Đây cũng chính là cơ sở
phát triển đối với quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của Việt Nam.
1. Giả sử người sử dụng lao động gửi tiền đóng góp hưu trí vào tài khoản hưu trí cá
nhân của Anh/Chị. Phí đóng bảo hiểm được quỹ hưu trí của Anh/Chị đầu tư đầu tư
vào cổ phiếu và trái phiếu. Anh/Chị phải tự quyết định xem phần nào được đầu tư
vào cổ phiếu và phần nào được đầu tư vào trái phiếu. Tỷ lệ phần trăm Anh/Chị sẽ
đầu tư vào cổ phiếu là bao nhiêu?
2. Anh/Chị đã lựa chọn tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ phiếu từ phí bảo hiểm hưu trí
được nộp vào tài khoản hưu trí cá nhân do quỹ hưu trí quản lý. Hoàn cảnh nào sau
đây phù hợp với sự lựa chọn của Anh/Chị?
165
(Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).
[ ] Không có
[ ] Tuổi tác của tôi
[] Tình hình gia đình
[] Tình hình tài chính cá nhân của tôi
[] Tài sản hưu trí tích lũy
[] Tình hình kinh tế chung
[] Kỳ vọng của tôi về thị trường tài chính
[] Các hoàn cảnh khác
3. Anh/Chị đã lựa chọn tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ phiếu. Các tình huống có thể
thay đổi theo thời gian và Anh/Chị có thể sẵn sàng điều chỉnh tỷ lệ phần trăm đầu tư
vào cổ phiếu. Hoàn cảnh nào có thể thúc giục Anh/Chị có sự thay đổi tỷ lệ đầu tư
vào cổ phiếu? (Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).
[ ] Không có
[] Thay đổi về độ tuổi
[] Thay đổi trong tình hình gia đình
[] Thay đổi về tình hình tài chính cá nhân của tôi
[] Thay đổi về tài sản hưu trí dồn tích
[] Thay đổi trong tình hình kinh tế tổng thể
[] Những thay đổi trong kỳ vọng của tôi về thị trường tài chính
[] Những thay đổi trong các hoàn cảnh khác
4. Giả sử Anh/Chị có sự lựa chọn giữa hai chương trình hưu trí: (i) theo mô hình có
mức hưởng xác định trước (DB) hoặc (ii) theo mô hình có mức đóng góp xác định
trước (DC).
Chương trình theo mô hình DB dựa trên mức thu nhập tiền lương của Anh/Chị
trong những năm làm việc với sự bảo đảm về mức phúc lợi danh nghĩa. Tiền phí
đóng bảo hiểm phải trả thì dao động. Hệ thống hưu trí theo mô hình DB phần lớn
tương đương với hệ thống hiện tại ở Netherlands với lợi tức hưu trí tổng cộng bằng
70% tổng thu nhập tiền lương (tương ứng với 90% thu nhập tiền lương thuần). Việt
Nam cũng là quốc gia có tỷ lệ hưởng lương hưu hào phóng (75% mức bình quân
166
tiền lương tháng đóng BHXH) so với mức tối thiểu quy định trong công ước An sinh
xã hội của ILO vốn quy định hệ thống hưu trí công chỉ cho phép một tỷ lệ hưởng
lương hưu trong khoảng trên 40% đến 60% và tỷ lệ hưởng lương hưu nên trên 40%
nhằm bảo đảm cuộc sống đầy đủ cho người nghỉ hưu.
Còn trong hệ thống hưu trí theo mô hình DC, tiền phí đóng bảo hiểm hưu trí được
gửi vào tài khoản đầu tư cá nhân. Phí bảo hiểm hưu trí được ấn định nhưng mức
thu nhập hưu trí là không chắc chắn vì có thể thấp hơn hoặc cao hơn tùy theo lợi
tức đầu tư.
Anh/Chị thích chương trình hưu trí nào hơn?
[] Chương trình hưu trí có mức hưởng được xác định trước (DB)
[] Chương trình hưu trí có mức đóng góp được xác định trước (DC)
[] Không có ưu tiên nào
[] Không biết / không trả lời
5. Anh/Chị hãy tưởng tượng một chương trình hưu trí kết hợp giữa hệ thống có mức
hưởng xác định trước (DB) và hệ thống có mức đóng góp xác định trước (DC). Một
phần của thu nhập hưu trí được bảo đảm thông qua hình thức tập thể, nhưng phí bảo
hiểm có thể dao động và một phần của mức thu nhập hưu trí phụ thuộc vào sự phát
triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu mặc dù phí bảo hiểm phải trả đã được ấn
định. Nếu Anh/Chị phải chọn một sự kết hợp của hai hệ thống này, tỷ lệ phần trăm
thu nhập tiền lương Anh/Chị muốn được bảo đảm là thu nhập hưu trí sẽ là bao
nhiêu?
(Câu trả lời của Anh/Chị có thể thay đổi từ 0% đến 90% thu nhập tiền lương ròng.
Trong đó 0% có nghĩa là Anh/Chị muốn lợi ích hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả
đầu tư; còn 90% có nghĩa là Anh/Chị chọn bảo đảm đầy đủ 90% thu nhập ròng từ
tiền lương của mình và cho cả việc phí bảo hiểm thay đổi trong những năm làm
việc).
6. Giả sử hệ thống hưu trí được thay đổi thành hệ thống trong đó tiền đóng bảo hiểm
của quỹ hưu trí nghề nghiệp sẽ được gửi vào các tài khoản cá nhân và được sử dụng
tự động để mua hợp đồng bảo hiểm niên kim sẽ bắt đầu được chi trả ở tuổi 65.
Ngoài ra, Anh/Chị không có quyền truy cập vào tài khoản hưu trí của mình nhưng
167
(i) có cơ hội đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí của mình theo danh mục quỹ hưu trí của
Anh/Chị cung cấp hoặc (ii) đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí theo lựa chọn đầu tư của
mình. Anh/Chị chọn cái nào?
[] Đầu tư theo danh mục đầu tư của quỹ hưu trí
[] Tận dụng ảnh hưởng của mình lên danh mục đầu tư
[] Không có ưu tiên nào
[] Không biết / không trả lời
7. Ảnh hưởng mà Anh/Chị muốn áp dụng đối với các khoản đầu tư hưu trí của
Anh/Chị có thể phụ thuộc vào chuyên môn tài chính, kiến thức và những mong đợi
của Anh/Chị đối với thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Giả sử Anh/Chị có cơ hội
nâng cao kiến thức chuyên môn bằng cách nhận thông tin và / hoặc tham dự khóa
học chất lượng cao do các chuyên gia hưu trí độc lập cung cấp miễn phí. Anh/Chị
có mong muốn rằng mình sẵn sàng tận dụng ảnh hưởng nhiều hơn đến việc đầu tư
tiền bảo hiểm hưu trí của mình?
8. Người lao động ở Netherlands tiết kiệm bắt buộc đối với thu nhập hưu trí trong
quỹ hưu trí nghề nghiệp (là hình thức của chương trình hưu trí bổ sung bắt buộc
bên cạnh quỹ hưu trí công nhằm gia tăng thêm thu nhập hưu trí cho người lao
động, và vì vậy chúng không phải là một sản phẩm bảo hiểm thương mại mà là một
chính sách BHXH).
Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 88/2016 về chương trình hưu trí bổ sung tự
nguyện (dự kiến sẽ chuyển thành chương trình hưu trí bổ sung bắt buộc sau năm
2020) và chuẩn bị cho việc hình thành quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện trên TTCK.
Câu nào sau đây mô tả chặt chẽ nhất ý kiến của Anh/Chị về nghĩa vụ tiết kiệm
lương hưu là bắt buộc?
[] Đây là một lợi thế, vì nếu không tôi sẽ bị cám dỗ không tiết kiệm đủ để nghỉ hưu
[] Đây là một lợi thế, vì tôi không muốn suy nghĩ về việc tiết kiệm bao nhiêu cho
nghỉ hưu
[] Đây là một lợi thế vì những lý do khác
[] Đây là một bất lợi vì tôi muốn mình có thể quyết định có tiết kiệm không và bao
nhiêu cho nghỉ hưu
168
[] Đây là một bất lợi vì những lý do khác
[] Tôi không quan tâm đến việc tiết kiệm lương hưu là bắt buộc hay không
[] Không biết / không trả lời
PHẦN 4: THỰC TIỄN VIỆT NAM (bao gồm 8 câu hỏi)
1. Anh/Chị đánh giá gì về sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhất là
TTCK Việt Nam trong những năm gần đây? ….
2. Anh/Chị nhận định về sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường
chứng khoán (Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).
[] Gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường
[] Phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK
[] Cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK
[] Tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK
Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")
…..
3. Theo Anh/Chị, 3 điểm mạnh nào nổi bật để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam (Strengths - Các điểm mạnh đến từ các yếu tố bên trong quỹ hưu
trí tự nguyện)
(i) …
(ii) …
(iii) …
4. Theo Anh/Chị, 3 điểm yếu nhất khi phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK
Việt Nam (Weaknesses - Các điểm yếu đến từ các yếu tố bên trong quỹ hưu trí tự
nguyện)
(i) …
(ii) …
(iii) …
5. Theo Anh/Chị, 3 cơ hội đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt
Nam là (Opportunities - Các cơ hội đến từ các yếu tố bên ngoài quỹ hưu trí tự
nguyện)
169
(i) …
(ii) …
(iii) …
6. Theo Anh/Chị, các thách thức chính đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK Việt Nam là (Threats- Các thách thức đến từ các yếu tố bên ngoài quỹ hưu
trí tự nguyện)
(Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).
[] Yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các
năm
[] Cơ sở hạ tầng của TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa
[] Khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân bổ
tài sản
[] Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập chưa đủ hấp dẫn
Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")
…..
7. Đây là những khuyến nghị đề xuất chính dự kiến của đề tài nghiên cứu nhằm phát
triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Anh/Chị vui lòng cho biết mình
có đồng ý với những giải pháp này không?
Có Không
[] []
[] Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát
[] Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, trong đó bao gồm (i) sự phát triển của
ngành quản lý tài sản; (ii) các thỏa thuận giao dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh
vi; (iii) có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin cậy và hiệu quả, bao gồm một trung
tâm lưu ký hoạt động tốt; (iv) có hệ thống thanh toán liên ngân hàng có giá trị lớn,
hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin cậy; (v) và có một hệ thống ngân hàng
vững chắc.
[] Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và phân bổ tài sản
[] Chính sách hấp dẫn về ưu đãi thuế thu nhập
170
Xin ghi rõ ý kiến đề xuất khác của Anh/Chị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện
trên TTCK Việt Nam
…
8. Anh/Chị đánh giá triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt
Nam ra sao?
(Anh/Chị đánh dấu vào một lựa chọn)
[] Không hề thích hợp
[] Không thích hợp lắm
[] Thích hợp vừa phải
[] Tương đối thích hợp
[] Rất thích hợp
Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")
…..
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác khảo sát của Quý Anh/Chị. Kính chúc Quý
Anh/Chị sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Trân trọng.
Trần Nguyễn Minh Hải.
Link khảo sát trực tuyến
https://docs.google.com/forms/d/12lBEvGKjtQO74nPp7Vrf5TEGyWjkXkloAMY
B4mek1Lc/edit
Link rút gọn
goo.gl/PsEzXV
Link tổng hợp thông tin trả lời khảo sát
https://docs.google.com/spreadsheets/d/1BGtqDVWON6OJ7lu87WlAE8PhCaDwu
0Sj6lRWWJ5l0-g/edit?usp=forms_web_b#gid=1681080345
171
PHỤ LỤC 2
Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện
Nghỉ hưu và Thu nhập hưu trí
Nghỉ hưu (retirement) là khi người lao động chọn ngừng làm việc. Tuy
nhiên, do thu nhập khi nghỉ hưu không được bảo đảm, có những người lao động vẫn
chọn làm việc sau khi nghỉ hưu như là một cơ hội để tiếp tục kiếm được thu nhập,
theo kịp tư duy hiện tại và duy trì hoạt động (Viceira, 2010; Williams, 2018).
OECD (2014) định nghĩa thu nhập hưu trí (pension) như là khoản thanh toán
cho một cá nhân hoặc những người phụ thuộc của cá nhân đó sau khi cá nhân đó
nghỉ hưu. Thu nhập hưu trí cũng có thể được bổ sung bởi của cải hộ gia đình, tài sản
tài chính cá nhân, và các dịch vụ được cung cấp công khai.
Williams (2018) mô tả thu nhập hưu trí là khoản tiền được xác định cho
người lao động khi nghỉ hưu mà người lao động kiếm được bằng cách làm việc
trong một khoảng thời gian cụ thể. Thu nhập hưu trí thường được cung cấp theo các
công việc cụ thể và người lao động có thể rút ra một lần (a lump sum) hoặc được
thanh toán hàng tháng (monthly payments) sau khi nghỉ hưu.
Collins (2012) ghi nhận thu nhập hưu trí là khoản tiền được trao cho người
lao động khi nghỉ hưu, thường được chi trả bởi Nhà nước, phát sinh từ công việc
của người lao động trước khi nghỉ hưu hoặc từ các sản phẩm của việc đầu tư vào
chương trình hưu trí cá nhân hay có các bên liên quan tham gia.
Williams (2018) chỉ ra rằng thu nhập hưu trí này có thể là khoản thu nhập có
mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hoặc là khoản thu nhập có mức
đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC). Viceira (2010) lập luận theo
truyền thống, hệ thống an sinh xã hội và các chương trình hưu trí tự nguyện hoặc
bắt buộc có mức hưởng xác định (DB) cung cấp cho người lao động một dòng thu
nhập hưu trí ổn định và hào phóng khi nghỉ hưu. Trong những năm gần đây, các
quốc gia đang phát triển trên thế giới đang thử nghiệm những thay đổi về cấu trúc
đối với việc cung cấp thu nhập hưu trí và hệ thống theo mô hình DB đang dần được
172
thay thế bằng một hệ thống theo mô hình DC. Theo đó người lao động đóng góp để
tự tài trợ cho kế hoạch tài chính khi nghỉ hưu từ tài sản tích lũy trong tài khoản hưu
trí trong quá trình làm việc. Quy mô của các tài sản này phụ thuộc vào sự đóng góp
theo thời gian của người lao động và các quyết định đầu tư.
Chương trình hưu trí
Chương trình hưu trí là một thỏa thuận mang tính pháp lý về thu nhập hưu trí
dựa trên hình thức tiết kiệm theo hợp đồng (contractual savings). Trong đó, thỏa
thuận hưu trí có thể là (i) một phần của thỏa thuận lao động giữa người sử dụng lao
động với người lao động thông qua việc chuyển một phần dòng thu nhập hiện tại
của người lao động vào trong thu nhập hưu trí dành cho người lao động đó hoặc là
(ii) một thỏa thuận riêng được xác lập theo quy định của pháp luật.
Chương trình hưu trí thường gắn với các ưu đãi đặc biệt về thuế thu nhập
nhằm bảo đảm thu nhập cho các thành viên tham gia khi đến tuổi về hưu, ngoài ra
còn có thể bao gồm các điều khoản chi trả thu nhập trong các trường hợp người
tham gia mất khả năng lao động hay gặp tai nạn, bệnh tật (Trần Phương Thảo &
Nguyễn Anh Tuấn, 2014).
Trong thực tế, các chương trình hưu trí còn được phân chia thành nhiều loại
khá đa dạng và phong phú hơn, nhưng mô hình tài chính mà các chương trình hưu
trí này áp dụng mới là vấn đề quan trọng hơn hết. Theo đó, về cơ bản, có hai loại
mô hình tài chính của chương trình hưu trí, bao gồm kế hoạch hưu trí theo mô hình
tài chính DB hay kế hoạch hưu trí theo mô hình DC. Hai loại mô hình tài chính này
luôn được tập trung xem xét vì chúng xác định rõ ràng hai nội dung quan trọng về
mặt tài chính trong chương trình hưu trí, đó là mức chi trả và người sẽ gánh chịu rủi
ro tài chính được thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2.1 Phân biệt giữa chương trình có mức hưởng xác định (DB) và chương
trình có mức đóng góp xác định (DC).
Chương trình DB
Chương trình DC
Mức chi trả được xác định dựa trên phần đóng góp
Mức chi trả Mức chi trả được xác định theo
công thức cho trước với các yếu tố
thực tế của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu
đầu vào là thời gian đóng góp và
tư. Kế hoạch hưu trí theo mô hình DC thiết lập mối
thu nhập của người đóng góp. Lợi
liên hệ rõ ràng giữa các khoản đóng góp, hiệu suất
173
ích được hưởng không nhất thiết
đầu tư và lợi ích, ủng hộ thực thi quyền sở hữu; và
phải có liên kết trực tiếp với khoản
có thể hỗ trợ phát triển thị trường tài chính.
đóng góp (danh nghĩa).
Tùy
theo mô hình mà Chính
Người đóng góp là người gánh chịu rủi ro đầu tư tài
Người gánh
phủ/người sử dụng lao động/đơn vị
chính từ quỹ trong kế hoạch hưu trí theo mô hình
chịu rủi ro
cung cấp kế hoạch hưu trí sẽ phải
DC vì khoản thu nhập hưu trí định kỳ nhận được từ
đầu tư tài
gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính
kế hoạch hưu trí theo mô hình DC rất có thể không
chính
của quỹ đối với các khoản chi trả
bảo đảm mức sống đối với những người có thu nhập
bảo đảm cho người được hưởng,
thấp và mức đóng góp thấp, hoặc do lợi nhuận đầu
như là rủi ro về nhân khẩu học, rủi
tư thấp vì các nguyên nhân như khủng hoảng kinh tế
ro chính trị.
kéo dài, khủng hoảng tài chính làm thất thoát các
khoản đầu tư. Ngoài ra còn có các rủi ro liên quan
đến vấn đề người đại diện trong quá trình quản lý tài
sản cá nhân, rủi ro chi phí giao dịch và chi phí quản
trị cao, rủi ro trường thọ.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.
Dựa vào nền tảng mô hình tài chính làm chủ đạo, cách thức phân loại các
chương trình hưu trí cũng trở nên dễ dàng hơn với ba loại hình cơ bản sau:
(i) Chương trình hưu trí được điều hành bởi Chính phủ với kế hoạch hưu trí
có mức hưởng xác định trước dựa trên thu nhập (Defined Benefits - DB) và bảo
đảm thanh toán quyền lợi khi nghỉ hưu cho các thành viên/đối tượng tham gia
chương trình hưu trí công (cơ chế thực thu thực chi - Pay as You Go - PAYG),
mang tính chất bắt buộc đối với người lao động được bảo hiểm. Trong cơ chế thực
thu thực chi PAYG, nguồn thanh toán lương hưu được trích từ các khoản đóng góp
của những người đang lao động. Có nghĩa là thế hệ người lao động hiện tại thanh
toán trợ cấp hưu trí hiện tại cho người đang được hưởng quyền lợi từ kế hoạch hưu
trí. Như vậy, trong cơ cấu quỹ này, không có nguồn dành riêng để chi trả cho thế hệ
hưu trí trong tương lai, nói cách khác, đây là loại hình quỹ không được tài trợ
(unfunded funds).
(ii) Chương trình hưu trí nghề nghiệp được tổ chức tại nơi làm việc của
người lao động và do người sử dụng lao động cung cấp cho người lao động với kế
hoạch hưu trí có mức hưởng xác định trước dựa trên thu nhập (Defined Benefits -
DB) hoặc kế hoạch có mức đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC).
Chương trình hưu trí nghề nghiệp này do khu vực tư nhân cung cấp có thể được sử
174
dụng như giải pháp bổ sung hoặc thay thế cho chương trình hưu trí do Chính phủ
cung cấp.
(iii) Kế hoạch hưu trí cá nhân trong hình thức hợp đồng tiết kiệm và thường
là kế hoạch có mức đóng góp xác định trước (DC). Do đó, các quỹ hưu trí cá nhân
dựa trên các kế hoạch hưu trí cá nhân là loại hình quỹ được cấp vốn hoàn toàn bằng
việc tự nguyện đóng góp đầy đủ của người tham gia. Theo đó, mức chi trả được tính
dựa trên phần đóng góp của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu tư. Người đóng
góp là người gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính từ quỹ trong kế hoạch hưu trí theo mô
hình có mức đóng góp xác định trước (DC). Các kế hoạch hưu trí cá nhân này
thường được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập, nhờ vào lợi thế này, các kế hoạch hưu
trí cá nhân ngày càng phát triển và có xu hướng chuyển dần từ mô hình có mức
hưởng xác định trước (DB) sang mô hình có mức đóng góp xác định trước (DC).
Một số quốc gia trên thế giới đã và đang tiến hành thực hiện kế hoạch hưu trí
cá nhân có mức đóng góp xác định danh nghĩa (Notional Defined Contribution -
NDC). Đây là một dạng thức mới của chương trình hưu trí công và được tạo ra với
mục tiêu giải quyết sự bất ổn tài chính của kế hoạch truyền thống PAYG theo mô
hình DB (và không được tài trợ) và bắt chước các đặc điểm của kế hoạch DC trong
khi vẫn giữ việc trợ cấp theo chương trình PAYG. Theo đó, các khoản đóng góp tạo
ra quyền cho bên đóng góp và nghĩa vụ nợ được xác định của bên tổ chức điều hành
nhằm có thể tách biệt rủi ro đầu tư và rủi ro bảo đảm chi trả đầy đủ lợi ích thu nhập
hưu trí cam kết, nhưng nguồn gốc lợi ích chủ yếu vẫn là dựa vào ưu đãi về thuế thu
nhập.
Mức chi trả trong kế hoạch hưu trí theo mô hình NDC được tính dựa trên
phần đóng góp của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu tư tính trên một mức lãi
suất do tổ chức điều hành quy định. Tuy nhiên, lợi nhuận trên khoản đóng góp kiếm
được chỉ là danh nghĩa được thiết lập bởi tổ chức điều hành chứ không phải là kết
quả của việc đầu tư trên thị trường. Chính phủ/người sử dụng lao động/đơn vị cung
cấp kế hoạch hưu trí vẫn sẽ phải gánh chịu rủi ro tài chính trong kế hoạch hưu trí
theo mô hình NDC (Blommestein, 1997; WB, 2001).
175
Hệ thống hưu trí
Hệ thống hưu trí là bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội của quốc
gia, tham gia thực hiện các chức năng (i) tiết kiệm, (ii) tái phân phối thu nhập, (iii)
bảo hiểm, nhằm hướng tới bảo đảm nhu cầu và quyền lợi cho người cao tuổi thông
qua việc cung cấp toàn diện các kế hoạch hưu trí linh hoạt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu dân số xã hội mà hệ thống hưu trí được xây
dựng tương đối khác biệt ở từng quốc gia.
Hệ thống hưu trí có thể được tài trợ (fully funded), không được tài trợ
(unfunded) hoặc chỉ có được tài trợ một phần (partly funded). Một hệ thống hưu trí
không được tài trợ (unfunded) thì được gọi là hệ thống hưu trí công theo cơ chế
thực thu thực chi PAYG, do trong cơ cấu quỹ này không có nguồn dành riêng để chi
trả cho thế hệ hưu trí trong tương lai. Theo đó, nguồn thanh toán lương hưu được
trích từ các khoản đóng góp của những người đang lao động. Có nghĩa là thế hệ
người lao động hiện tại thanh toán trợ cấp hưu trí hiện tại cho người đang được
hưởng quyền lợi từ kế hoạch hưu trí. Hay nói cách khác, trong hệ thống PAYG
không tồn tại các tài sản như của quỹ hưu trí vì các khoản đóng góp dành cho hưu
trí được dùng để chi trả ngay cho các lợi ích hưu trí đến hạn ở hiện tại. Ngược lại,
trong một hệ thống hưu trí được tài trợ (funded), với sự hiện hữu của một tập hợp
các tài sản hưu trí đến từ sự đóng góp của người lao động vào quỹ hưu trí (thông
qua tài khoản hưu trí cá nhân), người lao động khi nghỉ hưu sẽ nhận được lợi ích
hưu trí đến từ lợi nhuận tích lũy của quá trình đầu tư tài sản của quỹ hưu trí.
Như vậy, quỹ hưu trí công PAYG (Pay as You Go) là loại quỹ được vận
hành theo mô hình tài chính có mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB)
và thuộc hệ thống hưu trí không được tài trợ (public unfunded pension system) nên
phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực lao động mới gia nhập trên thị trường lao động
chính thức và rủi ro trường thọ sau khi người lao động nghỉ hưu, điều này dẫn tới áp
lực chi trả tài chính của quỹ hưu trí công PAYG. Trong mối tương quan đó, quỹ
hưu trí tự nguyện là loại quỹ thuộc hệ thống hưu trí tư nhân được tài trợ (private
funded pension system) và được vận hành theo mô hình tài chính DC làm chuyển
giao rủi ro tài chính sang cho người lao động tham gia đóng góp vào quỹ, đồng thời
176
chủ động hơn với vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK trong việc tìm kiếm các cơ
hội sinh lời và phân tán rủi ro theo danh mục đầu tư của quỹ.
Hệ thống hưu trí ở mỗi quốc gia là rất khác nhau, nhưng thường có sự kết
hợp hệ thống hưu trí công và hệ thống hưu trí được tài trợ nhằm tạo nên hệ thống
hưu trí đa trụ cột. Trong đó, các chương trình hưu trí công mang tính pháp lý, dựa
trên cơ sở PAYG (với những khoản đóng góp hiện hành được dùng để chi trả cho
các lợi ích hưu trí hiện hành) và được quản lý bởi các tổ chức công. Các chương
trình hưu trí tư nhân trong một số trường hợp là bắt buộc, nhưng thông thường và
phổ biến là theo dạng tự nguyện, được tài trợ, và là chương trình hưu trí nghề
nghiệp hoặc là kế hoạch tiết kiệm hưu trí cá nhân (OECD, 2014; EUROPARL,
2014).
Bảng 2.2 khái quát mô hình hệ thống hưu trí năm trụ cột được WB giới thiệu
vào năm 1994. Trong đó, có thể thấy rõ mục đích của hệ thống hưu trí năm trụ cột
này chính là nhằm tách bạch các mục tiêu chính của kế hoạch hưu trí, hỗ trợ cho
việc xác định các yếu tố quyết định đến thể thức hệ thống hưu trí và các lựa chọn
cải cách hưu trí phù hợp với các điều kiện cụ thể ở mỗi quốc gia.
Bảng 2.2 Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank.
Nội dung
Đặc điểm
Mục tiêu
Áp dụng
Bao gồm các quỹ trợ
Được hỗ trợ từ NSNN
Hướng tới mục tiêu
Tính chất
Trụ cột 0
cấp xã hội.
(chính
quyền
địa
xóa đói giảm nghèo
cấp phát,
(A non-
phương, khu vực, quốc
và tái phân phối thu
áp dụng
contributory
gia).
nhập nhằm bảo đảm
đối
với
“zero pillar”)
Quỹ trợ cấp
mức trợ cấp tối thiểu
toàn
bộ
Chính phủ
cho người cao tuổi.
cư dân.
Là quỹ hưu trí mang
Hình thành chủ yếu từ
Thường vận hành
Tính chất
Trụ cột I
tính chất bắt buộc,
nguồn đóng góp của
theo cơ chế PAYG.
bắt buộc
(A mandatory
có mức hưởng lợi
người sử dụng lao động,
Phân phối
lại
thu
đóng góp,
“first pillar”)
Quỹ hưu trí bắt
xác định dựa trên
người lao động và có thể
nhập nhằm bảo đảm
áp dụng
buộc
thu nhập (DB).
được bổ sung thêm từ
trợ cấp tối thiểu cho
đối
với
(Mandatory
Quỹ do Nhà nước
NSNN.
người có thu nhập
người lao
publicly
quản
lý và điều
thấp,
trợ cấp
thất
động.
managed
hành.
nghiệp, mất sức.
pension)
Thường là Quỹ có Quỹ được hình thành từ Không có chức năng Tính chất
Trụ cột II
177
mức đóng góp xác
nguồn đóng góp của
phân phối
lại
thu
bắt buộc
(A mandatory
định trước (DC), do
người sử dụng lao động
nhập, khoản thu nhập
đóng góp,
“second pillar”)
Quỹ hưu trí bổ
khu vực tư nhân tự
và từ người lao động,
hưu trí nhận được
áp dụng
sung/Quỹ hưu trí
quản lý (thông qua
góp phần gia tăng thu
phụ thuộc vào mức
đối
với
nghề nghiệp
các Công ty quản lý
nhập, hỗ trợ thêm cho
đóng góp và
lợi
người lao
(Mandatory
quỹ) và chịu sự điều
người hưởng lương hưu
nhuận đầu tư, được
động.
privately
chỉnh, giám sát chặt
bên cạnh khoản lương
hạch toán riêng biệt
managed
chẽ bởi cơ quan
nhận từ Quỹ hưu trí bắt
vào tài khoản lương
pension)
quản lý Nhà nước.
buộc tại trụ cột I.
hưu của từng người
tham gia.
Hình thức đa dạng
Do người lao động quyết
Cùng với trụ cột I và
Tính chất
Trụ cột III
(tiết kiệm cá nhân
định mức đóng góp,
trụ cột II, trụ cột III
tự
(“A voluntary
cho hưu trí, bệnh tật,
cũng có thể có đóng góp
góp phần làm giảm
nguyện,
“third-pillar”)
Quỹ hưu trí tự
tử tuất; chủ lao động
thêm từ người sử dụng
gánh nặng của Nhà
áp dụng
nguyện
tài trợ, DB, DC …),
lao động, được khuyến
nước trong việc bảo
đối
với
(Voluntary
được quản lý bởi các
khích bởi chính sách ưu
đảm an sinh xã hội.
người lao
pension)
Công
ty quản
lý
đãi về thuế thu nhập của
động.
quỹ, chịu sự điều
nhà nước.
chỉnh bởi hệ thống
quy định pháp luật,
cơ quan quản
lý
giống như các quỹ
đầu tư.
Bao gồm việc tiếp
Là các khoản đóng góp
Góp phần trong việc
Tính chất
Trụ cột IV
cận hỗ
trợ chính
tự nguyện, trợ cấp không
bảo đảm an sinh xã
tự
(A non-
thức
(hỗ
trợ gia
hình thành Quỹ hưu trí,
hội.
nguyện,
financial
đình), chăm sóc y tế
ví dụ như các hình thức
áp dụng
“fourth pillar”)
Quỹ hỗ trợ tự
và/hoặc nhà ở …
viện trợ, các Quỹ từ
đối
với
thiện...
nguyện
toàn
bộ
(Voluntary non-
cư dân.
pension)
Nguồn: WB (1994); WB (2008).
Trụ cột 0 và trụ cột I được xây dựng nhằm bảo đảm mức sinh hoạt phí và xoá
đói giảm nghèo khi tuổi về già, trụ cột II và II được xây dựng nhằm duy trì mức
sống, trụ cột IV được hình thành nhằm bảo đảm duy trì sự chăm sóc xã hội. Mô
hình hệ thống năm trụ cột này được WB xây dựng và giới thiệu từ năm 1994 dựa
trên quan điểm rằng so với việc chỉ dựa vào một trụ cột duy nhất, thì một hệ thống
178
đa dạng các trụ cột có thể cung cấp thu nhập hưu trí hiệu quả hơn, thiết kế đa trụ cột
cũng linh hoạt hơn, xác định cụ thể hơn nhu cầu của những nhóm đối tượng chính
trong dân số và bảo đảm an sinh xã hội hơn và tăng cường an toàn đối với hệ thống
hưu trí trước những rủi ro về nhân khẩu học, rủi ro chính trị.
Nhìn chung, mỗi trụ cột có những ưu điểm và hạn chế riêng, tuy nhiên, một
hệ thống an sinh xã hội được coi là hoàn chỉnh khi nó dựa trên tất cả các trụ cột này,
và các trụ cột này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao mức
sống của người hưởng lương hưu, giảm gánh nặng cho NSNN. Trụ cột đầu tiên (trụ
cột 0) trong hệ thống hưu trí đa trụ cột được dùng để phục vụ xóa đói giảm nghèo
khi tuổi già, vì vậy trụ cột này cũng được xem như là một trụ cột hưu trí công cộng
nói chung, được cung cấp trên cơ sở phổ cập (universal basis) mà không đặt ra bất
kỳ yêu cầu, điều kiện về thu nhập hay công việc làm nào liên quan. WB đã và đang
nỗ lực quảng bá, hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội, cải cách hệ
thống hưu trí của quốc gia mình theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản,
bao gồm quỹ hưu trí bắt buộc (trụ cột I), quỹ hưu trí bổ sung (trụ cột II) và quỹ hưu
trí tự nguyện (trụ cột III).
ILO cũng đã đề xuất một quy tắc phối hợp của hệ thống hưu trí ba tầng (3
tiers) với tầng đầu tiên nhằm ngăn chặn sự đói nghèo, tầng thứ hai hướng về một hệ
thống hưu trí công PAYG mang tính chất bắt buộc và tầng thứ ba hướng về chương
trình hưu trí theo mô hình DC được tài trợ đầy đủ nhằm bổ sung cho hai tầng đầu
tiên.
OECD cũng sử dụng hệ thống hưu trí đa tầng. Trong đó tầng thứ nhất tập
trung vào việc bảo đảm ngăn chặn đói nghèo khi cao tuổi (PAYG bắt buộc), tầng
thứ hai cũng mang tính chất bắt buộc, bao gồm những chương trình hưu trí liên
quan đến PAYG và các chương trình được tài trợ. Tầng thứ ba được xác định là các
khoản tiết kiệm tự nguyện dành cho hưu trí nhằm giúp các cá nhân cải thiện các tỷ
lệ thay thế (replacement rate) khi nghỉ hưu. Trong đó, tỷ lệ thay thế này là tỷ lệ
phần trăm của mức thu nhập hưu trí so với thu nhập kiếm được khi còn làm việc.
Trong các hệ thống hưu trí mà người lao động nhận được khoản chi trả khác nhau
đáng kể do thu nhập khác nhau của họ thì tỷ lệ thay thế là một phép đo phổ biến
179
được sử dụng để xác định tính hiệu quả của hệ thống hưu trí. Trong một số trường
hợp, người lao động có thể sử dụng tỷ lệ thay thế để đánh giá thu nhập hưu trí của
họ có thể có từ chương trình hưu trí (EUROPAL, 2014).
Trong khi mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột của WB cung cấp giải pháp về
nhận thức cho vấn đề cải cách hệ thống hưu trí thì mô hình hệ thống hưu trí đa tầng
của OECD thay thế các trụ cột bằng các tầng thu nhập hưu trí và làm nổi bật tính
chất bắt buộc hơn là tính chất quản lý trong các chương trình hưu trí. Tuy nhiên,
trong cách phân loại của cả WB lẫn OECD đều hướng tới việc làm rõ tính chất bắt
buộc hay tự nguyện cũng như bản chất tài trợ của các thành tố trong hệ thống hưu
trí (PAYG hay là được tài trợ). Đồng thời, cả WB lẫn OECD đều nhấn mạnh sự tái
phân phối và bản chất tiết kiệm của các hệ thống khác nhau, mặc dù cách phân loại
của WB dựa và nguồn gốc tài trợ nhiều hơn là của OECD. Bảng 2.3 chỉ ra sự tương
đồng trong phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD.
Bảng 2.3 Sự tương đồng về phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD.
Trụ cột 1
Trụ cột 2
Trụ cột 3
Công cộng
Nghề nghiệp (Công cộng/Tư nhân)
Cá nhân
OECD Tầng 1
OECD Tầng 2
OECD Tầng 3
WB Trụ cột 0
WB Trụ cột I
WB Trụ cột II
WB Trụ cột III
Phổ cập,
Thu nhập có liên quan
Được tài trợ, DC
Tiết kiệm hưu trí
Cơ bản/Mục tiêu/Tối thiểu
đến DB, PAYG
tự nguyện
Nguồn: EUROPAL (2014).
Hầu hết các nước hiện nay đều tiến hành cải cách hệ thống hưu trí từ chỗ dựa
vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Lý do là vì việc dựa vào duy nhất một trụ
cột có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống an sinh xã hội dựa trên duy nhất một trụ cột là quỹ hưu trí
bắt buộc do Nhà nước quản lý (trụ cột I) khó có thể thực hiện được tốt cả 3 chức
năng (i) tiết kiệm, (ii) tái phân phối và (iii) bảo hiểm, đặc biệt trong điều kiện dân số
đang già hóa với tốc độ nhanh. Khi dân số trẻ, hệ thống thường đòi hỏi mức đóng
góp thấp bởi số thành viên đóng góp nhiều hơn số thành viên nhận lợi ích. Tuy
180
nhiên việc quỹ đã ấn định mức chi trả cho người hưởng lương hưu sẽ gặp khó khăn
trong việc bảo đảm lợi ích thu nhập hưu trí khi dân số già hóa và số thành viên đóng
góp bị giảm sút. Lúc này, hoặc là hệ thống cần phải được đáp ứng bởi một tỷ lệ
đóng góp cao hơn, hoặc là Chính phủ phải gánh vác một phần trách nhiệm trợ cấp
do quỹ bị thâm hụt. Nhưng việc tăng mức đóng góp hoặc tăng thuế để hỗ trợ quỹ
hưu trí có thể sẽ gây ra những phản ứng xã hội tiêu cực.
Thứ hai, hệ thống quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản lý dựa trên cơ chế
thực thu thực chi (PAYG) sẽ không hỗ trợ nhiều cho sự phát triển của thị trường
vốn. Các khoản đóng góp của người lao động hiện tại được dùng để chi trả trực tiếp
lương hưu cho những người về hưu, nên sẽ không có cơ hội và thời gian để tái đầu
tư sinh lợi nhuận và cũng không mang tính chất của một khoản tiết kiệm cho việc
nghỉ hưu của người lao động. Như vậy, hệ thống các quỹ này đã không thực hiện tốt
chức năng tiết kiệm, chưa tạo ra lợi thế để tích lũy nguồn vốn vừa phục vụ cho phát
triển kinh tế, vừa bảo đảm an sinh xã hội.
Tóm lại, hệ thống hưu trí đa trụ cột giúp khắc phục những bất cập của hệ
thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản
lý. Thông qua mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, WB cũng chú trọng đến việc tăng
cường bảo hiểm xã hội (BHXH) và hệ thống tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm
nhằm hỗ trợ thu nhập khi về già tại các quốc gia đang phát triển (WB 2008;
Holzmann, Hinz & Dorfman, 2008; Holzmann, 2012; Khuất Thị Kiều Vân, 2013).
Vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột
Từ mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột
III, bao gồm (i) quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private
occupational voluntary funded pension funds) có thể theo mô hình DB hay DC và
(ii) quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private personal voluntary
funded pension funds) theo mô hình DC. Trong đó, quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện
được thành lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo
hiểm nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ
thống quy định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị
181
trường và được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Nhà nước
(WB, 1994; WB, 2008).
Các quốc gia thuộc OECD cũng xem xét quỹ hưu trí tự nguyện trong vị trí
trụ cột III của mô hình hệ thống hưu trí đa tầng. Quỹ hưu trí tự nguyện là những
pháp nhân được thành lập một cách riêng biệt và được quản lý bởi các công ty được
cấp phép. Quỹ hưu trí tự nguyện thu thập các khoản đóng góp và chi trả quyền lợi
về thu nhập hưu trí. Mục đích của quỹ hưu trí tự nguyện là để cung cấp cho nhân
viên và người lao động tự do, hoặc bên thụ hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện các lợi
ích về thu nhập hưu trí bổ sung thêm vào an sinh xã hội bắt buộc. Qua đó, quỹ hưu
trí tự nguyện được xem như là một phương tiện đầu tư mang tính tập hợp được
thành lập để thu thập và đầu tư các khoản đóng góp cho thu nhập hưu trí vào các
loại tài sản nhằm tạo ra lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro đầu tư, từ đó làm gia tăng giá
trị tài sản của quỹ để bảo đảm trách nhiệm chi trả cho các thành viên của quỹ. Quỹ
hưu trí tự nguyện cũng có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao động và là
dạng quỹ hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử
dụng lao động đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng,
nhưng người lao động có quyền không tham gia và không có nghĩa vụ bắt buộc phải
tham gia dạng hợp đồng này (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).
Mặc dù quỹ hưu trí tự nguyện dễ dàng được nhận diện thông qua mô tả trên
lý thuyết, nhưng trong thực tế của quá trình phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại một
số quốc gia trên thế giới cho thấy việc so sánh các quỹ hưu trí tự nguyện giữa các
quốc gia là một nhiệm vụ không hề đơn giản bởi các vấn đề sau đây:
Về chương trình hưu trí nghề nghiệp và kế hoạch hưu trí cá nhân
Ở một số nước như Đan Mạch và Latvia, các chương trình hưu trí nghề
nghiệp là theo mô hình DC với sự đóng góp hoàn toàn tự nguyện, và do đó chúng
thuộc về trụ cột III theo như mô hình thu nhập hưu trí đa trụ cột, nhưng chúng lại
được các quốc gia này xếp vào trụ cột II. Do đó, việc so sánh các chương trình hưu
trí giữa các quốc gia và phân biệt rõ ràng các tỷ lệ thay thế giữa các trụ cột I, trụ cột
II và trụ cột III trở nên khó khăn (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011; OECD,
2011).
182
Về chương trình hưu trí bắt buộc và chương trình hưu trí bán bắt buộc
Ở một số nước, tính chất bắt buộc hay tự nguyện của một chương trình hưu
trí khó có thể xác định được rõ ràng. Do đó, việc phát sinh hiện trạng các chương
trình hưu trí bán bắt buộc cũng khiến cho việc phân tách rõ ràng giữa các chương
trình hưu trí trở nên khó khăn hơn khi một phần đặc tính của chúng thuộc về trụ cột
II và cả trụ cột III. Ví dụ, tại Portugal và Slovenia, chương trình hưu trí nghề nghiệp
được tài trợ bằng sự đóng góp của người tham gia lại mang tính chất bắt buộc đối
với một số ngành nghề. Tại Spain, Ireland và Cyprus, tất cả nhân viên khu vực công
tham gia vào một chương trình nghề nghiệp bắt buộc.
Ở các nước khác, mặc dù tính chất tự nguyện (trên danh nghĩa) của chương
trình/hệ thống hưu trí được tài trợ bởi các khoản đóng góp, nhưng việc rút các
khoản đóng góp cho các chương trình hưu trí nghề nghiệp là không thể nếu công ty
hoặc lĩnh vực này là một phần của một thỏa thuận về thu nhập hưu trí nghề nghiệp.
Thậm chí trong trường hợp của Belgium, mặc dù (về nguyên tắc) chương trình hưu
trí nghề nghiệp là mang tính chất tự nguyện nhưng công ty phải cung cấp các
chương trình hưu trí nghề nghiệp tương đồng cho tất cả nhân viên, nên các nhân
viên không được tự do để quyết định thích hay không thích một chương trình hưu
trí nghề nghiệp nếu các nhân viên khác của công ty đã tham gia vào đó (GoC, 1999;
OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).
183
PHỤ LỤC 3
Các nghiên cứu thực nghiệm của nước ngoài
Trong lĩnh vực nghiên cứu về quỹ hưu trí và phát triển quỹ hưu trí trên các
thị trường tài chính, ấn phẩm sách về quỹ hưu trí của Davis (1998) có thể được xem
như là công trình nghiên cứu nền tảng cung cấp chi tiết và cụ thể những vấn đề liên
quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, bao gồm biểu hiện của các quỹ hưu trí tự nguyện
trên thị trường tài chính, ảnh hưởng của điều kiện tài khóa và các quy định pháp lý;
mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển của thị trường vốn, tài
chính doanh nghiệp và đầu tư quốc tế; các mối quan hệ với an sinh xã hội, lợi thế
cạnh tranh của quỹ hưu trí tư nhân theo mô hình DB và quỹ hưu trí tư nhân theo mô
hình DC; và vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện trong các nước đang phát triển cũng
được đề cập đến. Dựa vào cơ sở lý luận này, Davis và Hu (2005) và Davis và Hu
(2008) chỉ ra rằng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện (thông qua việc tài trợ cho quỹ
hưu trí tự nguyện sẽ làm gia tăng quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện) có tác
động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế thông qua thị trường vốn tại 38 quốc gia phát
triển và thị trường mới nổi trong giai đoạn 1980 đến 2003. Tuy nhiên, nghiên cứu
của Zandberg và Spierdijk (2013) lại cho rằng bên cạnh (i) việc huy động các khoản
đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện là yếu tố làm gia tăng quy mô tài sản của quỹ,
thì hai yếu tố quan trọng không kém khiến quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện
gia tăng là (ii) lợi nhuận từ việc đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường vốn
và (iii) những thay đổi về nhân khẩu học, và chúng cũng chính là các yếu tố tác
động đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia thuộc OECD hay không thuộc OECD.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu gần đây xem xét quỹ hưu trí tự nguyện với
vai trò là tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm và tiến hành phân tích cùng với loại
hình công ty bảo hiểm nhân thọ trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển TTCK.
Chẳng hạn như Catalan, Impavido và Musalem (2000) dựa trên dữ liệu của 14 quốc
gia OECD và 5 nước đang phát triển từ năm 1997 đến 1998 và cho thấy rằng các tổ
chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm (contractual savings institutions) bao gồm các quỹ
184
hưu trí tự nguyện có mối quan hệ nhân quả (Granger causality) chính yếu đến sự
phát triển của TTCK cả về vốn hóa và giá trị giao dịch. Tuy nhiên, ước lượng của
nghiên cứu này cũng có hạn chế về số lượng quan sát theo thời gian, cụ thể là số
lượng biến quan sát chỉ có 6 đối với Austria, 8 cho Portugal và 9 cho Australia.
Trong cùng năm 2000, Impavido và Musalem (2000) tìm thấy tác động đáng
kể mang ý nghĩa thống kê của tài sản tài chính thuộc các tổ chức tập hợp hợp đồng
tiết kiệm bao gồm các quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK, nhưng
chỉ là đối với vốn hóa của TTCK mà không phải đối với giá trị được giao dịch. Các
tác giả cũng nhìn nhận vai trò quan trọng của các tổ chức này đối với sự gia tăng
cung các quỹ dài hạn trong nền kinh tế thông qua việc sử dụng ước lượng bình
phương nhỏ nhất (OLS), Error Component (EC), và Error Component Two Stage
Least squares (EC2SLS) ước lượng trên một dữ liệu bảng của 26 quốc gia OECD, 5
trong số đó là các nước đang phát triển.
Walker và Lefort (2002) sử dụng Generalized Least squares (GLS) cho dữ
liệu bảng để ước lượng tập trung cho 33 thị trường mới nổi và tìm các liên kết tích
cực giữa cải cách thu nhập hưu trí và thị trường vốn trong giai đoạn từ năm 1981
đến năm 2000. Nghiên cứu nhận thấy rằng tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện làm
giảm suất sinh lợi đòi hỏi từ cổ tức và tăng chỉ số giá thị trường so với giá trị sổ
sách, do đó hàm ý giảm chi phí vốn. Đồng thời, tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện
giúp làm giảm biến động giá chứng khoán và gia tăng quy mô giao dịch chứng
khoán, góp phần gián tiếp đến sự sự tăng trưởng kinh tế và năng suất của nền kinh
tế thông qua kênh thị trường vốn. Tuy nhiên, các kết quả ước lượng của nghiên cứu
gặp hạn chế do vấn đề sai số đo lường, và các kết luận mới chỉ mang tính sơ bộ cần
được kiểm định lại khi có thời kỳ đủ dài đối với số quan sát.
Impavido, Musalem và Tresselt (2003) sử dụng GMM sai phân ước lượng
trên bảng dữ liệu bảng động từ 32 quốc gia phát triển và đang phát triển và nhận
thấy việc gia tăng tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện liên quan đến tài sản tài chính
trong nước có tác động tích cực đến độ sâu và tính thanh khoản của TTCK, tuy
nhiên tác động này thể hiện rõ nét ở các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển
dựa vào thị trường và có thông tin công ty minh bạch hơn. Nhưng nghiên cứu này
185
cũng gặp vấn đề với số lượng nhỏ của mẫu quan sát trong thời gian ngắn (thời gian
trung bình là 6 năm).
Nghiên cứu của Raddatz và Schmukler (2008) về các chiến lược đầu tư và
cấu trúc của quỹ hưu trí tự nguyện là một trong những nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu
về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển của thị trường vốn thông
qua cách tiếp cận kinh tế vi mô. Với bộ dữ liệu về sự phân bổ danh mục tài sản
hàng tháng của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Chile5 trong giai đoạn 1995 đến 2005,
kết quả nghiên cứu cho thấy các quỹ hưu trí tự nguyện có xu hướng nắm giữ các
danh mục đầu tư tương tự nhau và theo hiệu ứng đám đông trong các quyết định
đầu tư. Hơn nữa, các quỹ hưu trí tự nguyện giao dịch khá ít, không thường xuyên
thay đổi vị thế của mình và nắm giữ tài sản đến khi đáo hạn. Raddatz và Schmukler
(2008) cho rằng những mô hình đầu tư này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tín thanh khoản của thị trường vốn nhưng mặt khác, quỹ hưu trí tự nguyện lại hấp
thụ một lượng lớn trái phiếu tư nhân, cho phép các công ty phát hành các dạng trái
phiếu và hỗ trợ hữu hiệu đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu.
Hryckiewicz (2009) đánh giá sự liên kết thực nghiệm giữa tăng trưởng tài
sản và hành vi đầu tư của nhà đầu tư tổ chức với hiệu quả hoạt động của TTCK tại
các quốc gia đang phát triển thuộc Châu Âu và đã thấy rằng các nhà đầu tư tổ chức
đóng góp cho giao dịch lớn trên các thị trường vốn, đặc biệt thông qua nhu cầu cao
đối với chứng khoán địa phương. Ngoài ra, Hryckiewicz (2009) cho rằng tại các
quốc gia có các nhà đầu tư tổ chức tích cực tham gia vào quản trị công ty thì sự hiện
diện của họ có thể làm giảm chi phí sử dụng vốn của công ty cũng như có ảnh
hưởng tích cực đến giá trị vốn hóa của TTCK. Với việc sử dụng GMM để ước
lượng cho dữ liệu bảng bao gồm 8 quốc gia đang phát triển thuộc Trung và Đông
Âu trong giai đoạn từ 1995 đến 2006, nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển của các
nhà đầu tư tổ chức, và đặc biệt là sự hiện diện của quỹ hưu trí tự nguyện được hỗ
trợ bởi những cải cách hưu trí, đã tạo nên một tác động mạnh mẽ và đáng kể đến sự
tăng trưởng của TTCK.
tư nhân hóa (quỹ hưu trí được tài trợ/quỹ hưu trí tự nguyện).
5 Chile là hình mẫu của quốc gia thành công trên thế giới với công cuộc cải cách hệ thống hưu trí theo hướng
186
Kim (2010) sử dụng dữ liệu bảng động không cân bằng từ 16 quốc gia thuộc
OECD cho thấy sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện có ảnh hưởng tích cực có ý
nghĩa đối với các khoản đầu tư dài hạn vào các hoạt động sáng tạo cũng như cho sự
phát triển của thị trường vốn thông qua các điều kiện tiên quyết về quy mô và thể
chế áp dụng đối với quỹ hưu trí tự nguyện. Các kết quả cho thấy sự tăng trưởng của
quỹ hưu trí tự nguyện có thể làm cho thị trường vốn (thêm) biến động theo thời
gian, kích thích sự phát triển của cả thị trường vốn và nền kinh tế trong dài hạn.
Meng và Pfau (2010) trong nghiên cứu đang còn thảo luận đã sử dụng ước
lượng biased-corrected Squared Variable Dummy (LSDVC) cho dữ liệu bảng động
không cân bằng từ 32 quốc gia, đồng thời cũng sử dụng cả GMM dạng sai phân để
làm ước lượng ban đầu, qua đó đều cho thấy tác động đáng kể của các quỹ hưu trí
tự nguyện đến sự phát triển TTCK cả về chiều sâu và tính thanh khoản, tuy nhiên
tác động này là khác nhau tùy theo mức độ phát triển tài chính của một quốc gia.
Đối với các nước có sự phát triển tài chính thấp, quỹ hưu trí tự nguyện không cho
thấy một tác động đáng kể, các hành vi đầu tư và phân bổ tài sản của quỹ hưu trí tự
nguyện cũng khác biệt với các nước có sự phát triển tài chính cao. Kết quả này ủng
hộ nghiên cứu của Vittas (2000) khi cho thấy rằng các quốc gia có mức độ phát
triển tài chính thấp phải hành động nhiều hơn nữa để tạo điều kiện cho các quỹ hưu
trí tự nguyện tác động tích cực phát triển thị trường vốn. Trong đó, cần chú ý đến
môi trường tài chính vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò và hoạt động của các
quỹ hưu trí tự nguyện, bao gồm (i) các quy định đối với quỹ hưu trí, (ii) tính hiệu
quả của thị trường, (iii) tính minh bạch, (iv) khuôn khổ pháp lý, (v) hoạt động thị
trường và (vi) điều kiện kinh tế vĩ mô và tài chính.
Liang và Bing (2010) sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ năm 1970 đến 2008
để tiến hành phân tích thực nghiệm mối quan hệ Granger - nhân quả giữa phát triển
thị trường tài chính và quản lý của quỹ hưu trí tự nguyện tại Vương quốc Anh. Các
kết quả thử nghiệm cho thấy rằng sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện có tác
động tích cực đến độ sâu của sự phát triển thị trường tài chính. Hơn nữa, các kiểm
định co-integration cho thấy rằng có một mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa tăng
187
trưởng quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển thị trường tài chính và chúng đều
mang lại những tác động tích cực cho nhau.
Rocholl và Niggemann (2010) nhấn mạnh thực tế rằng cấu trúc của hệ thống
hưu trí là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của thị trường vốn thông qua
việc sử dụng GLS ước lượng trên bộ dữ liệu của 87 cải cách về tài trợ quỹ hưu trí
hưu trí ở 57 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến 2007. Theo đó,
những cải cách về tài trợ (chuyển đổi từ cơ chế PAYG truyền thống sang hệ thống
hưu trí được tài trợ) đã dẫn đến thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu công ty
lớn hơn so với thời điểm trước khi những cải cách này được khởi xướng, đặc biệt ở
các quốc gia mới nổi trong khi các nước OECD chỉ có thị trường trái phiếu doanh
nghiệp mới chịu tác động này.
Nghiên cứu của Raisa (2012) sử dụng EGLS ước lượng cho dữ liệu bảng
động từ 15 quốc gia thuộc EU trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2011 để đánh giá
mối quan hệ giữa tỷ lệ quy mô vốn hóa TTCK so với GDP (đại diện cho sự phát
triển TTCK) và tỷ lệ tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP. Kết quả cho
thấy một mối quan hệ tích cực giữa sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và
phát triển thị trường vốn tại mức ý nghĩa 10%, đồng thời thừa nhận các quốc gia có
thu nhập cao hơn cũng có xu hướng có thị trường vốn hoạt động sâu hơn và tốt hơn.
Nghiên cứu của Hu (2012) sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số cho dữ liệu
bảng (PECM) cho 10 nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á và Thái Bình Dương trong
giai đoạn từ năm 2001 đến 2010 cho thấy sự tăng trưởng tài sản hưu trí có những
tác động tích cực đến phát triển tài chính, ví dụ như lãi suất thấp hơn và mức vốn
hóa TTCK cao hơn. Do đó, các Chính phủ của các nền kinh tế ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương nên tiếp tục cải cách hưu trí của mình hướng tới việc tạo ra các
nguồn tài chính trang trải cho các nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai thông qua
việc thiết lập các chương trình hưu trí tự nguyện.
Sun và Hu (2014) kiểm định các giả thuyết khác nhau bằng cách mô phỏng
các tác động của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển tài chính sử dụng dữ liệu
chéo, dữ liệu bảng và dữ liệu chuỗi thời gian với tổng cộng 55 quốc gia và vùng
lãnh thổ trong mô hình hồi quy. Kết quả cho thấy hệ thống hưu trí và giá trị của nó
188
có thể giải thích sự khác biệt giữa các quốc gia liên quan đến phát triển tài chính, cụ
thể hơn, sự khác biệt trong TTCK. Đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét nguồn gốc
pháp lý, các khoản quyên trợ và các hệ thống hưu trí pháp lý tại cùng một thời gian
để phân tích ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển tài chính. Tiếp theo, các mô
hình hồi quy dữ liệu bảng điều tra sự phát triển tài chính theo các mô hình hưu trí
khác nhau cho thấy quy mô của các quỹ hưu trí tự nguyện biểu thị một sự gia tăng
lớn hơn trong sự phát triển của thị trường tài chính ở các quốc gia không theo hệ
thống thông luật (i.e. không theo cách tổ chức pháp lý dành vị trí ưu tiên cho các
tiền án lệ) với hệ thống tài chính và kinh tế kém phát triển. Nghiên cứu cũng đã sử
dụng đồng liên kết (co-integration) và VAR để phân tích trường hợp Chile với dữ
liệu chuỗi thời gian từ năm 1981 đến 2009. Kết quả cũng xác nhận tác động tích cực
của các quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển tài chính, một hệ thống hưu trí được
tài trợ cũng có lợi cho sự tích tụ của các quỹ hưu trí tự nguyện, kích thích thị trường
tài chính và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
189
PHỤ LỤC 4
Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước
Trong đó, Giang Thanh Long (2004) sử dụng các mô hình thống kê của ILO
và chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit pension debt - IPD) của hệ thống
là rất cao so với GDP của năm 2000 - năm cơ sở được dùng để dự báo. Xét về mặt
xã hội, điều này hàm ý việc gánh nặng nợ sẽ do các thế hệ hiện tại và tương lai chi
trả nếu Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng xác
định trước (DB). Chính vì thế, hệ thống hưu trí Việt Nam không những đối mặt với
các bất ổn về mặt tài chính, mà còn dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ. Do
đó, Giang Thanh Long (2004) và Nguyễn Thị Lê Thu (2014) cho rằng hệ thống hưu
trí Việt Nam cần phải được cải cách, cụ thể là chuyển sang một hệ thống tài khoản
cá nhân một phần với mức hưởng xác định dựa trên mức đóng góp (partially -
funded defined - contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng về tác động
kinh tế và xã hội để từ đó có thể tránh được cả sự bất ổn về mặt tài chính của hệ
thống hưu trí và sự bất công bằng giữa các thế hệ nhằm bảo đảm bền vững về mặt
tài chính của hệ thống hưu trí trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu quả
động.
Cùng quan điểm với Giang Thanh Long (2004), Điều Bá Dược (2013),
Nguyễn Thị Lê Thu (2014), Lưu Hải Vân (2014) và TTBD (2014) thừa nhận hệ
thống hưu trí PAYG với mức hưởng xác định trong điều kiện dân số già hóa và tỷ lệ
tham gia hệ thống chưa cao cũng có nghĩa là các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai sẽ
phải chịu gánh nặng lớn hơn mới có thể trang trải được chi phí cho hệ thống. Gánh
nặng lớn hơn này có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ
đóng góp tăng lên liên tục, độ tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nguy cơ vỡ quỹ BHXH
khiến quyền lợi hưu trí trong tương lai của lực lượng lao động hiện tại và tương lai
không được bảo đảm. Sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam
chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó bao gồm (i) tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ
thống đang có xu hướng tăng nhanh; (ii) tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ
190
lệ đóng góp bền vững - hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG nên quỹ có thể bị cạn
kiệt; (iii) tỷ lệ tham gia có xu hướng giảm xuống do sự thu hẹp của khu vực Nhà
nước (đặc biệt là các Doanh nghiệp Nhà nước), sự dịch chuyển của các đối tượng
lao động sắp xếp lại từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không
đăng ký tham gia vào hệ thống BHXH và tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn
quá thấp, mức hưởng được chỉ số hóa theo mức lương tối thiểu vẫn còn lớn, gắn
liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi thọ có xu
hướng tăng lên. Do vậy, Việt Nam cần nhanh chóng có những chính sách phù hợp
với những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm chủ động đối phó với những thách thức
của hệ thống hưu trí trong dài hạn.
Khuất Thị Kiều Vân (2013) phân tích vai trò của quỹ hưu trí đối với TTCK
và hệ thống hưu trí đa trụ cột và ghi nhận rằng các quỹ hưu trí đã phát triển rất
mạnh mẽ trong những năm gần đây ở nhiều nước, cả về quy mô so với GDP và so
với hệ thống ngân hàng. Do các khoản đóng góp vào Quỹ thường không được phép
rút ra sớm, nên Quỹ hưu trí luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các
tài sản tài chính, kể cả những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Thông
thường, tài sản của các Quỹ hưu trí được dùng để đầu tư vào cổ phiếu, TPCP, bất
động sản, tài sản nước ngoài, các công cụ trên thị trường tiền tệ và các khoản tiền
gửi. Xu hướng hiện nay cho thấy, hầu hết các nước đều tiến hành cải cách hệ thống
hưu trí từ chỗ dựa vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Lý do là vì việc dựa
vào duy nhất một trụ cột có những hạn chế nhất định. Hệ thống đa trụ cột giúp khắc
phục những bất cập của hệ thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí
bắt buộc do Nhà nước quản lý. Tuy nhiên, nếu hệ thống an sinh xã hội chỉ dựa trên
trụ cột là các quỹ hưu trí bổ sung, quỹ hưu trí tự nguyện cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro,
đặc biệt khi chúng làm mất đi chức năng bảo hiểm, gây phân hóa xã hội, khoảng
cách giàu nghèo và không bảo đảm được thu nhập sau khi nghỉ hưu khi phụ thuộc
vào lợi nhuận đầu tư và hiệu quả đầu tư của các công ty quản lý quỹ.
Bên cạnh đó, Chí Tín (2014) cũng cho thấy hệ thống bảo hiểm hưu trí đang
phát triển theo kiểu một ngôi nhà bị rỗng tầng. Hệ thống bảo hiểm hưu trí phát triển
toàn diện giống như một ngôi nhà có 3 tầng, bao gồm (i) bảo hiểm hưu trí cơ bản
191
giống như tầng 1 của ngôi nhà, được Nhà nước bảo hộ cả về ngân sách lẫn chính
sách với vai trò nền tảng, bảo đảm mức thu nhập tối thiểu cho người lao động khi
đến tuổi nghỉ hưu; (ii) bảo hiểm hưu trí bổ sung giống như tầng 2, với vai trò hỗ trợ
thêm cho người nghỉ hưu và cũng nằm trong chính sách an sinh xã hội do Nhà nước
quản lý và điều tiết và (iii) bảo hiểm hưu trí tự nguyện giống như tầng 3, với vai trò
lấp nốt những phần mà hai tầng hưu trí trước chưa phủ hết. Ở Việt Nam trong một
thời gian dài chỉ có 1 tầng bảo hiểm hưu trí cơ bản. Mãi cho đến cuối năm 2013,
Thông tư số 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và
quỹ hưu trí tự nguyện bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên, hệ thống bảo hiểm hưu trí
Việt Nam vẫn còn tình trạng trống rỗng khoảng giữa, do đó tiềm ẩn sự thiếu vững
vàng trong kết cấu tổng thể của toàn bộ hệ thống bảo hiểm hưu trí.
Trần Phương Thảo và Nguyễn Anh Tuấn (2014) thừa nhận hệ thống hưu
trí là bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội tại bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới. Xu hướng già hóa dân số diễn ra nhanh chóng cộng với những thay đổi về mặt
kinh tế xã hội lao động đang đặt ra những thách thức về tính đầy đủ (Adequacy) và
đặc biệt là tính bền vững (Sustainability) cho hệ thông hưu trí hầu hết các quốc gia.
Hưu trí là vấn đề xã hội không mới nhưng đã không nhận được sự quan tâm đúng
mức của Chính phủ và công chúng cho đến thời gian gần đây khi các tài sản hưu trí
bị ảnh hưởng nặng nề do tác động từ các cuộc khủng hoảng tài chính. Nếu không có
những cải cách kịp thời, các thách thức hệ thống hưu trí sẽ không chỉ còn là vấn đề
bảo đảm về tài chính mà có thể dẫn đến nguy cơ mất ổn định đời sống kinh tế - xã
hội. Nhận thức được các vấn đề phải đối mặt, nhiều quốc gia đã tiến hành cải cách
hệ thống hưu trí với mục tiêu xây dựng hệ thống hưu trí có tính ổn định và bền vững
hơn trong dài hạn. Mặc dù các chính sách cải cách tiến hành rất đa dạng, phụ thuộc
nhiều vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể mỗi quốc gia, xu hướng cải cách vẫn
mang nhiều nét tương đồng. Theo đó, hệ thống hưu trí thông thường được xây dựng
gồm ba tầng (phúc lợi xã hội, hưu trí bắt buộc, hưu trí tự nguyện) nhằm bảo đảm
diện bao phủ rộng và cung cấp sản phẩm hưu trí linh hoạt, bảo đảm nhu cầu và
quyền lợi cho người cao tuổi. Cụ thể (i) về hệ thống, các chương trình hưu trí bắt
buộc chuyển dịch dần từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân, các chương trình
192
hưu trí tự nguyện được xây dựng hoặc chú ý phát triển hơn; (ii) về tính chất, các
chương trình hưu trí có xu hướng chuyển đổi từ phương thức DB định trước sang
DC. Đồng thời, xu hướng hệ thống hưu trí cho phép sự tham gia của nhiều đơn vị
trung gian như như đơn vị giám sát, đơn vị quản lý tài sản, tổ chức đầu tư (ngân
hàng, công ty bảo hiểm, CTCK, tổ chức tín dụng…), đơn vị quản trị chương trình
hưu trí cũng ngày càng trở nên phổ biến.
Lương Xuân Trường (2014) cho rằng bảo hiểm hưu trí tự nguyện đóng vai
trò quan trọng trong hoạch định kế hoạch tài chính hưu trí. Theo đó, việc chuẩn bị
tài chính cho giai đoạn nghỉ hưu cần được thực hiện càng sớm càng tốt, và bảo hiểm
hưu trí tự nguyện là một trong những công cụ hữu hiệu, thiết thực để mỗi người
chuẩn bị nguồn tài chính cho tuổi nghỉ hưu.
Bùi Cẩm Hường (2014) phân tích sự khác biệt giữa hưu trí tự nguyện và hưu
trí bổ sung, đồng thời đánh giá nỗ lực cải cách hệ thống hưu trí Việt Nam của Chính
phủ đã bước đầu ghi nhận một số bước tiến đáng kể với sự xuất hiện thêm các sản
phẩm bảo hiểm hưu trí mới, khuôn khổ pháp lý đã và đang được hoàn thiện, người
dân và doanh nghiệp được khuyến khích tham gia các đề án bảo hiểm hưu trí. Vai
trò của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội, Bộ Tài chính là rất lớn
trong việc thiết kế chương trình cải cách tổng thể, hoạch định chính sách, tạo hành
lang pháp lý và đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhận thức cộng đồng về việc
tham gia các chương trình hưu trí. Quá trình này sẽ còn rất nhiều khó khăn và thách
thức trong thời gian tới, cần phải có sự góp sức của toàn bộ xã hội, đặc biệt là từ
phía người lao động, người sử dụng lao động và cả các bên trung gian cung cấp dịch
vụ vận hành hệ thống.
Thùy Dương (2017) nhìn nhận việc phát triển quỹ hưu trí tại Việt Nam cả về
quy mô cũng như nguồn vốn mà loại hình quỹ này đang đầu tư vào TTCK tại các
quốc gia là xu thế tất yếu của sự phát triển. Thị trường vốn tại Việt Nam đã và đang
phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây. Tuy tăng trưởng mạnh về quy
mô, nhưng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư tổ chức có vốn dài hạn còn rất
khiêm tốn. Với thị trường trái phiếu, vẫn chủ yếu là các tổ chức tín dụng nắm giữ
dư nợ TPCP. Sự tham gia của các quỹ đầu tư, trong đó có các quỹ hưu trí tự nguyện
193
còn rất hạn chế. Với cơ cấu cơ sở nhà đầu tư như hiện nay, thị trường trái phiếu và
cổ phiếu còn rất thiếu các nguồn vốn đầu tư dài hạn, đặc biệt là nguồn vốn để đầu tư
phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội. Vấn đề quan trọng hiện nay là cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư, đặc biệt là
nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn. Từ kinh nghiệm phát triển thành công hệ
thống quỹ hưu trí tự nguyện trên thế giới cho thấy, trong giai đoạn ban đầu, các
nước đều có cơ chế khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia thông
qua các chính sách ưu đãi về phí, thuế thu nhập đối với khoản đóng góp vào quỹ
hưu trí tự nguyện, cũng như khoản tiền mà họ nhận được từ quỹ. Cùng với đó là các
cơ chế bảo vệ bảo đảm tính an toàn cao cho đồng vốn của doanh nghiệp và người
lao động góp vào quỹ, vì đây là loại hình quỹ hoạt động lâu dài gắn chặt với người
lao động trong suốt độ tuổi lao động cho đến khi về hưu và còn sống. Đồng thời,
phát huy vai trò tổ chức trung gian tài chính của quỹ hưu trí là trong việc huy động
nguồn vốn dài hạn từ người dân để đầu tư trên thị trường tài chính, góp phần quan
trọng vào phát triển thị trường này tại Việt Nam.
194
PHỤ LỤC 5
Bộ dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên
TTCK: trường hợp các nền kinh tế APEC
t
i
MK
INF
LTR
GDPP
EF
OADR
PFA
1
2000 AUS
89,84
4,48
6,31
21665,12
77,1
18,49
61,75
2
2001 AUS
99,12
4,38
5,62
19495,15
77,4
18,59
62,5
3
2002 AUS
96,42
3
5,84
20059,45
77,3
18,7
58,6
4
2005 AUS
116,01
2,67
5,34
33982,95
79
19,19
80,3
5
2008 AUS
64,85
4,35
5,82
49628,12
82,2
19,45
76,03
6
2011 AUS
86,21
3,3
4,88
62216,55
82,5
20,41
83,56
7
2012 AUS
90,2
1,76
3,38
67646,1
83,1
20,92
93,45
8
2013 AUS
87,34
2,45
3,7
67652,68
82,6
21,51
102,31
9
2014 AUS
88,59
2,49
3,66
61995,83
82,03
22,12
109,52
10
2015 AUS
88,65
1,51
2,71
56310,96
81,39
22,71
118,69
11
2000 CAN
103,85
2,72
5,93
24124,17
70,5
18,38
54,29
12
2001 CAN
83,55
2,53
5,48
23691,59
71,2
18,47
51,28
13
2002 CAN
117,25
2,26
5,29
24167,8
74,6
18,56
47,03
14
2003 CAN
102
2,76
4,81
28172,15
74,8
18,65
50,31
15
2004 CAN
115,08
1,86
4,58
31979,87
75,3
18,77
52,4
16
2008 CAN
66,72
2,37
3,61
46596,34
80,2
19,6
50,12
17
2011 CAN
106,94
2,91
2,78
52083,83
80,8
20,91
61,46
18
2012 CAN
112,92
1,52
1,87
52495,29
79,9
21,52
65,21
19
2013 CAN
115,04
0,94
2,26
52266,18
79,4
22,22
70,7
20
2014 CAN
117,47
1,91
2,23
50185,48
80,17
22,98
76,29
21
2015 CAN
102,76
1,13
1,52
43248,53
79,06
23,77
83,44
22
2004 CHL
116,19
1,05
6,31
6323,76
76,9
12,46
55,97
23
2005 CHL
109,72
3,05
6,05
7728,61
77,8
12,67
55,62
24
2006 CHL
112,77
3,39
6,16
9500,84
78
12,91
57,53
25
2008 CHL
73,38
8,72
7,1
10791,02
78,6
13,49
49,82
26
2011 CHL
107,76
3,34
6,03
14582,17
77,4
14,46
58,01
27
2012 CHL
118,13
3,01
5,47
15253,33
78,3
14,79
60,1
28
2013 CHL
95,69
1,79
5,35
15764,76
79
15,15
62,3
29
2014 CHL
90,15
4,4
4,69
14566,15
78,73
15,54
68,27
30
2015 CHL
79,05
4,35
4,42
13416,23
78,46
15,98
69,64
31
2004 CHN
22,9
3,88
4,4
1508,67
52,5
10,25
0,31
32
2005 CHN
17,58
1,82
3,85
1753,42
53,7
10,35
0,37
33
2006 CHN
41,62
1,46
3,11
2099,23
53,6
10,46
0,42
34
2008 CHN
38,68
5,86
3,91
3471,25
53,1
10,71
0,58
195
35
2009 CHN
3,36
-0,7
69,93
3838,43
53,2
10,87
0,73
36
2010 CHN
3,5
3,31
66,02
4560,51
51
11,09
0,71
37
2011 CHN
3,86
5,41
45,06
5633,8
52
11,36
0,76
38
2012 CHN
3,49
2,62
43,19
6337,88
51,2
11,66
0,9
39
2013 CHN
3,84
2,63
41,11
7077,77
51,9
12,02
1,02
40
2014 CHN
4,13
2
57,29
7683,5
52,46
12,47
1,2
41
2015 CHN
3,36
1,44
74,38
8027,68
52,74
13,05
1,39
42
2008
IDN
12,77
9,78
19,36
2167,86
53,2
7,48
1,6
43
2009
IDN
11,12
4,81
39,83
2262,72
53,4
7,49
1,8
44
2010
IDN
8,42
5,13
47,73
3125,22
55,5
7,46
1,83
45
2011
IDN
7,37
5,36
43,69
3647,63
56
7,51
1,69
46
2012
IDN
5,81
4,28
46,65
3700,52
56,4
7,55
1,78
47
2013
IDN
7,04
6,41
37,99
3631,67
56,9
7,59
1,65
48
2014
IDN
8,14
6,39
47,4
3499,59
58,5
7,64
1,76
3346,49
58,13
49
2015
IDN
8,24
6,36
40,99
7,71
1,73
64,6
-0,65
50
2000
JPN
1,74
38532,04
70,7
25,19
18,17
51
2001
JPN
1,32
-0,8
52,62
33846,47
70,9
26,09
18,19
52
2002
JPN
1,26
-1,31
50,29
32289,35
66,7
26,99
25,04
53
2003
JPN
1
0,17
66,43
34808,39
67,6
27,93
27,46
54
2004
JPN
1,49
-0,01
73,89
37688,72
64,3
28,9
24,93
55
2005
JPN
1,35
-0,27
96,16
37217,65
67,3
29,91
27,13
56
1,74
0,24
2006
JPN
101,85
35433,99
73,3
30,93
26,16
57
2007
JPN
1,67
0,06
95,92
35275,23
72,7
32,01
25,64
58
2008
JPN
1,47
1,37
61,85
39339,3
73
33,19
23,11
59
2009
JPN
1,33
-1,35
63,2
40855,18
72,8
34,5
26,69
60
2010
JPN
1,15
-0,72
67,15
44507,66
72,9
35,98
25,31
61
2011
JPN
1,1
-0,28
54,01
48173,93
72,8
37,33
25,16
62
2012
JPN
0,84
-0,03
56,08
48629,2
71,6
38,81
26,36
63
2013
JPN
0,69
0,36
88,12
40488,24
71,8
40,37
29,2
64
2014
JPN
0,52
2,75
90,29
41,9
30,2
38139,42
72,37
65
0,35
0,79
43,32
32,03
2015
JPN
111,68
34523,7
73,33
66
2002 KOR
6,59
2,76
41,17
12788,58
69,5
11,3
1,46
67
2003 KOR
5,05
3,51
48,41
14219,19
68,3
11,8
1,45
68
2004 KOR
4,73
3,59
56
15921,94
67,8
12,27
1,67
69
2005 KOR
4,95
2,75
79,94
18657,52
66,4
12,72
1,65
70
2006 KOR
5,15
2,24
82,47
20917,03
67,5
13,25
2,69
71
2007 KOR
5,35
2,53
99,99
23101,51
67,8
13,78
2,63
72
2008 KOR
5,57
4,67
46,98
20474,89
68,6
14,3
2,42
73
2009 KOR
5,17
2,76
92,53
18338,71
68,1
14,79
3,6
196
74
2010 KOR
4,77
2,96
99,76
22151,21
69,9
15,26
3,73
75
2011 KOR
4,2
4
82,84
24155,83
69,8
15,73
3,98
76
2012 KOR
3,45
2,19
96,45
24453,97
69,9
16,23
5,2
77
2013 KOR
3,28
1,31
94,56
25997,88
70,3
16,77
6,25
78
2014 KOR
3,19
1,27
85,93
27989,35
71,2
17,36
7,45
79
2015 KOR
2,31
0,71
89,36
27221,52
71,54
18,01
8,76
80
2002 MEX
5,03
14,02
10,13
7023,79
63
8,37
4,51
81
2003 MEX
8,98
4,55
17,18
6673,17
65,3
8,42
5,23
82
2004 MEX
9,54
4,69
22,25
7115,12
66
8,49
5,51
83
2005 MEX
9,42
3,99
27,6
7893,96
65,2
8,58
8,83
84
2006 MEX
8,39
3,63
36,09
8666,34
64,7
8,68
10
85
2007 MEX
7,79
3,97
38,12
9222,88
66
8,8
9,88
86
2008 MEX
8,31
5,12
21,25
9578,57
66,2
8,92
10,03
87
2009 MEX
7,96
5,3
39,34
7661,21
65,8
9,05
11,66
88
2010 MEX
6,9
4,16
43,22
8861,49
68,3
9,16
12,55
89
2011 MEX
6,67
3,41
34,9
9730,28
67,8
9,26
12,75
90
2012 MEX
5,6
4,11
44,25
9720,56
65,3
9,36
14,06
91
2013 MEX
5,68
3,81
41,68
67
10198,65
9,47
14,74
92
2014 MEX
6,01
4,02
36,99
10353,45
66,77
9,61
15,55
93
2015 MEX
5,93
2,72
35,17
9005,02
66,43
9,81
15,61
94
2008 MYS
4,1
5,44
81,99
8486,6
63,9
7,16
44,95
95
2001 NZL
6,39
2,51
33,08
13882,86
81,1
17,94
13,76
96
2002 NZL
6,53
2,66
32,66
16874,31
80,7
17,95
11,85
97
2003 NZL
5,87
1,12
37,45
21913,71
81,1
17,97
10,28
98
2004 NZL
6,07
2,29
42,09
25420,23
81,5
18,02
10,77
99
2005 NZL
5,88
3,04
35,38
27750,9
82,3
18,09
10,89
100
2006 NZL
5,78
3,37
40,16
26670,86
82
18,3
11,13
101
2007 NZL
6,27
2,38
34,58
32509,73
81,4
18,52
10,31
102
2008 NZL
6,08
3,96
18,16
31287,61
80,7
18,78
11,66
103
2009 NZL
5,46
2,12
29,26
28200,94
82
19,12
10,27
104
2012 NZL
3,69
0,88
29,93
40066,56
82,1
20,65
16,28
105
2013 NZL
4,09
1,3
34,59
42928,1
81,4
21,37
17,93
106
2014 NZL
4,3
0,91
37,18
44380,43
81,19
22,13
19,87
107
2015 NZL
3,42
0,23
42,79
37807,97
82,07
22,89
22,22
108
2010 PER
5,55
1,53
70,07
5021,25
67,6
9,62
20,58
109
2012 PER
4,5
3,65
53,28
6386,37
68,7
9,9
19,06
110
2013 PER
4,97
2,82
40,26
6580,98
68,2
10,06
18,66
111
2014 PER
5,57
3,23
39,22
6490,18
67,45
10,25
19,91
112
2015 PER
6,26
3,56
29,91
6027,13
67,71
10,46
20,28
197
2001 PHL
27,86
15,68
5,35
113
958,01
60,9
5,6
4,19
2002 PHL
22,75
13,21
2,72
114
1000,78
60,7
5,64
3,87
2003 PHL
27,62
12,02
2,29
115
1011,29
61,3
5,68
3,76
2004 PHL
31,3
12,97
4,83
116
1080,09
59,1
5,72
3,5
2005 PHL
38,61
11,88
6,52
117
1196,54
54,7
5,75
3,52
2006 PHL
55,52
8,55
5,49
118
1395,21
56,3
5,95
3,64
2007 PHL
68,86
7,15
2,9
119
1678,85
56
6,13
3,59
2008 PHL
29,87
8,3
8,26
120
1929,13
56
6,3
3,02
2009 PHL
51,3
7,99
4,22
121
1836,87
56,8
6,48
3,4
2010 PHL
78,82
7,25
3,79
122
2145,24
56,3
6,67
3,31
2011 PHL
73,64
6,42
4,65
123
2371,85
56,2
6,76
3,32
2012 PHL
91,69
5,31
3,17
124
2604,66
57,1
6,87
3,44
2013 PHL
79,95
3,78
3
125
2786,01
58,2
6,98
3,33
2873,09
60,07
2014 PHL
91,93
4,28
4,1
126
7,1
3,51
2009 RUS
62,3
11,67
9,87
127
8562,81
50,8
18,33
1,86
2010 RUS
62,38
7,83
6,84
128
10674,99
50,3
18,17
1,92
2011 RUS
38,52
8,06
8,43
129
14227,72
50,5
18,24
2,12
2012 RUS
38,32
8,15
5,08
130
15042,19
50,5
18,38
2,46
2013 RUS
34,53
7,33
6,78
131
15552,05
51,1
18,55
5,4
2014 RUS
18,8
8,46
7,81
132
14051,6
51,9
18,79
5,12
133
19,13
5,96
2015 RUS
29,54
15,53
10,89
9092,58
52,09
3,51
134
87,4
10,69
2002 SGN
110,38
-0,39
22016,83
59,41
2005 THA
65,44
4,97
4,54
135
2874,39
62,5
10,99
4,87
2006 THA
63,2
5,37
4,64
136
3351,12
63,3
11,25
4,98
2007 THA
74,97
4,58
2,24
137
3962,75
63,5
11,5
5,18
2008 THA
35,39
4,46
5,47
138
4384,78
62,3
11,76
5,13
2009 THA
62,85
3,93
-0,85
139
4231,14
63
12,04
5,69
2010 THA
81,46
3,53
3,27
140
5111,91
64,1
12,38
5,67
2011 THA
72,45
3,7
3,81
141
5539,49
64,7
12,72
5,84
2012 THA
98,1
3,55
3,02
142
5915,22
64,9
13,1
6,12
2013 THA
84,4
3,82
2,18
143
6225,05
64,1
13,52
6,29
2014 THA
106,46
3,51
1,89
144
5969,94
63,35
14,02
6,89
2015 THA
88,27
2,75
-0,9
145
5814,77
62,43
14,58
6,24
2002 USA
100,7
4,61
1,59
146
38166,04
78,4
18,39
62,47
2008 USA
78,75
3,67
3,84
147
48401,43
81
18,74
59,56
2009 USA
104,57
-0,36
3,26
148
47001,56
80,7
19
70,04
2010 USA
115,5
3,21
1,64
149
48374,09
78
19,35
74,65
2011 USA
100,79
2,79
3,16
150
49781,8
77,8
19,79
71,84
2012 USA
115,56
1,8
2,07
151
51433,05
76,3
20,33
74,7
198
PHỤ LỤC 6
Các bước thực hiện phân tích định lượng bằng Stata 11 trong nghiên cứu về
phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK: trường hợp các nền kinh tế
APEC
egen economy = group( i)
list i economy in 1/10, sepby ( i)
xtset economy
xtset economy t,yearly
Bước 1. Thống kê mô tả các biến số
summarize mk inf ltr gdpp ef oadr pfa
Bước 2. Ma trận tương quan giữa các biến số
pwcorr mk inf ltr gdpp ef oadr pfa
Bước 3. Kiểm định sự tương quan giữa các biến số
vif
199
Bước 4. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS
reg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa
Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi
hettest
P-value >5%: Chấp nhận (i.e. không có đủ cơ sở để bác bỏ ) Không có hiện
tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy
Kiểm định Wooldridge hiện tượng tự tương quan
xtserial mk inf ltr gdpp ef oadr pfa
200
P-value >5%, chấp nhận , không có sự tự tương quan trong mô hình hồi quy
Bước 5. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp xem xét các tác động cố
định (FEM)
xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,fe
F test that all u_i=0: F(15, 129) = 11.76 Prob > F = 0.0000
Giả thiết bị bác bỏ, chứng tỏ có ảnh hưởng cố định trong mô hình ước lượng.
Kiểm định Modified Wald trong FEM
Modified Wald test for groupwise heteroskedasticity in fixed effect regression
model
xttest3
201
P-value <5%, Giả thiết bị bác bỏ, chứng tỏ có hiện tượng phương sai thay đổi
trong mô hình ước lượng ban đầu, chạy vce(cluster economy) dành cho nhỏ,
lớn
xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,fe vce(cluster economy)
Bước 6. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp xem xét các tác động
ngẫu nhiên (REM)
xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,re
202
Kiểm định ảnh hưởng ngẫu nhiên
xttest0
P-value <5%: Giả thiết bị bác bỏ chứng tỏ có ảnh hưởng ngẫu nhiên trong mô
hình ước lượng REM là mô hình phù hợp hơn OLS
Kiểm định Hausman
estimates store fixed
estimates store random
hausman fixed random
203
: Sự khác biệt ảnh hưởng của các biến không mang tính hệ thống
P-value > 5%, không đủ cơ sở bác bỏ , REM hợp lý hơn FEM nên sử dụng
REM.
204
PHỤ LỤC 7
Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
giai đoạn 2000 - 2015
Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, từ đầu những
năm thập niên 90, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nghiên
cứu đề án xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đề án của các Bộ,
Ngành, ngày 28//11/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/1998/NĐ-CP về
việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (State Securities Commission of VN
- SSC) và giao cho đơn vị này chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời
TTCK. Ngày 11/07/1998, với Nghị định số 48/CP về Chứng khoán và TTCK,
TTCK Việt Nam chính thức được khai sinh. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng
ký Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
TP.HCM. Hai năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên đã chính
thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử của TTCK Việt Nam (HOSE, 2015a). Ngày 07/07/2006, Trung
tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (Viet Nam Securities Depository - VSD) chính
thức khai trương hoạt động, hỗ trợ cho hoạt động của cả TTCK Việt Nam (VSD,
2016).
TTCK Việt Nam được quản lý, tổ chức và điều hành thông qua 02 Sở giao
dịch chứng khoán TP.HCM (HoChiMinh Stock Exchange - HOSE)6 và Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HaNoi Stock Exchange - HNX)7. Hai Sở giao dịch
chứng khoán đều hoạt động dưới mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
khoán TP.HCM (HOSE) theo Quyết định 599/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (HOSE, 2015a).
7 Ngày 24/06/2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết định số
01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch chứng
khoán Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và khai trương hoạt động vào ngày
08/03/2005) (HNX, 2016a).
viên, thuộc quyền quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, trực thuộc Bộ Tài 6 Ngày 11/05/2007, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM chuyển đổi thành Sở Giao dịch chứng
205
chính. Hiện nay, việc niêm yết chéo trên cả hai Sở giao dịch là không được phép.
Tuy nhiên, trong tương lai gần, hai Sở giao dịch này được định hướng sáp nhập để
trở thành một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất quản lý và vận hành TTCK Việt
Nam.
Trong đó, HOSE là nơi tập trung các công ty niêm yết có quy mô vốn lớn và
có ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam, là thị trường cổ phiếu có quy mô lớn
nhất, đóng vai trò đại diện cho TTCK Việt Nam với chất lượng của các công ty
niêm yết và quy mô vốn hóa không ngừng gia tăng theo thời gian. Bên cạnh 306 cổ
phiếu, HOSE hiện còn niêm yết và giao dịch 01 chứng chỉ quỹ hoán đổi danh mục
(ETF), 39 trái phiếu công ty và chính quyền địa phương. Có 03 nhóm ngành chiếm
tỷ trọng lớn nhất trên thị trường là (i) Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; (ii) Công
nghiệp chế biến chế tạo; (iii) Sản xuất và phân phối điện (HOSE, 2015b). Còn HNX
là nơi tập trung tổ chức hoạt động đấu giá cổ phần, tổ chức đấu thầu TPCP, huy
động vốn cho NSNN và vận hành 3 thị trường giao dịch thứ cấp, bao gồm (i) thị
trường cổ phiếu niêm yết có quy mô vốn vừa và nhỏ, (ii) thị trường TPCP chuyên
biệt và (iii) thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết
(UPCoM). Hiện nay tại HNX, có 377 mã cổ phiếu và 01 chứng chỉ quỹ hoán đổi
danh mục (ETF) được niêm yết và giao dịch trên thị trường cổ phiếu niêm yết, có
299 mã cổ phiếu đăng ký giao dịch trên thị trường UPCoM. Đối với thị trường
TPCP, hoạt động phát hành TPCP được khởi động từ ngày 19/4/2005 tại HNX và
HOSE, nhưng đến tháng 6/2006 Bộ Tài chính đã quyết định đưa hoạt động đấu thầu
TPCP về tập trung, duy nhất tại HNX. Ngày 24/9/2009, hệ thống TPCP chuyên biệt
chính thức được vận hành trên HNX, đánh dấu giai đoạn hình thành và phát triển thị
trường TPCP. Đến năm 2012, tín phiếu được đưa vào giao dịch tại hoạt đông tại hệ
thống giao dịch thứ cấp TPCP; hệ thống đấu thầu điện tử cũng được HNX đưa vào
vận hành. Hàng hóa giao dịch trên thị trường giao dịch TPCP bao gồm các loại
TPCP, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và
tín phiếu (HNX, 2016b).
Về cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
Thị trường cổ phiếu
206
Thị trường cổ phiếu tại Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 đã trải qua những
thăng trầm nhất định, trong đó, thị trường giao dịch cổ phiếu của các công ty lớn
niêm yết trên HOSE là thị trường cổ phiếu có quy mô lớn nhất, đóng vai trò đại diện
cho TTCK Việt Nam. Mặc dù số lượng công ty niêm yết có tốc độ tăng chậm,
nhưng quy mô thị trường đã tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2015, quy mô vốn
hóa thị trường cổ phiếu đạt hơn 1,2 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 30% so với GDP,
trong đó chủ yếu từ quy mô vốn hóa cổ phần của các công ty lớn niêm yết trên
HOSE (HOSE, 2015b). Như vậy, tuy thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có một lượng
lớn các công ty niêm yết trên các Sở giao dịch chứng khoán nhưng quy mô vốn hóa
thị trường trung bình còn thấp trong giai đoạn 2000 - 2015.
Về thị trường trái phiếu
Thời gian qua, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng
đã có những bước tiến mạnh về quy mô và chất lượng, trở thành kênh quan trọng
trong việc huy động vốn cho NSNN. Trong đó, trên thị trường trái phiếu, TPCP8
(trái phiếu và tín phiếu kho bạc, TPCP bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương)
là hàng hóa cơ bản nhất với tỷ trọng lớn nhất, trong khi trái phiếu doanh nghiệp9
chiếm tỷ trọng vô cùng khiêm tốn, phần lớn đến từ các công ty thuộc ngành bất
động sản và sản xuất.
Kể từ sau năm 2013, trong khi thị trường cổ phiếu Việt Nam tăng trưởng
chậm chạp thì thị trường trái phiếu Việt Nam, đặc biệt là thị trường TPCP lại có sự
phát triển mạnh mẽ. Tính đến cuối năm 2015, quy mô vốn hóa thị trường trái phiếu
đạt gần 1 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 25% so với GDP (ADB, 2016). Không những
có sự phát triển nhanh chóng, thị trường trái phiếu Việt Nam cũng ghi nhận sự thay
đổi trong cơ cấu danh mục kỳ hạn của TPCP. Trong đó, kể từ sau năm 2013, trái
phiếu có kỳ hạn từ 3 - 5 năm có xu hướng gia tăng và chiếm tỷ trọng lớn trên thị
trường trái phiếu, tỷ trọng trái phiếu kỳ hạn dài tăng đã góp phần giúp thị trường
ương.
9 Các doanh nghiệp bao gồm cả công ty đại chúng và tư nhân, bao gồm cả các tổ chức tài chính. Trong đó, tổ
chức tài chính bao gồm cả các ngân hàng khu vực tư nhân và khu vực công, và các tổ chức tài chính khác.
8 TPCP bao gồm các nghĩa vụ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, và ngân hàng trung
207
tăng trưởng khá bền vững (ADB, 2016). Trong đó, sản phẩm trên thị trường TPCP
cũng dần được đa dạng, ngoài loại trái phiếu chuẩn đã được phát hành thường
xuyên trên thị trường (trái phiếu được thanh toán lãi định kỳ 1 năm/1 lần, thanh toán
gốc 1 lần khi đến hạn); tính đến năm 2015, thị trường TPCP có thêm 03 sản phẩm
mới là trái phiếu kỳ hạn 20 năm, trái phiếu long - coupon (trái phiếu có kỳ lĩnh lãi
đầu tiên dài hơn kỳ hạn chuẩn) và trái phiếu zero coupon (trái phiếu không thanh
toán lãi định kỳ).
Kể từ sau năm 2013 và với những điểm sáng trong năm 2015, thị trường
TPCP Việt Nam tiếp tục hướng tới sự đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm giao dịch,
tạo cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các chủ chủ thể đầu tư và hỗ trợ nghiệp vụ phòng
ngừa rủi ro. Trong tương lai, khi những yếu tố này được cải thiện, sẽ gia tăng sự
tham gia tích cực của các nhà đầu tư trên thị trường TPCP, đặc biệt đối với quỹ bảo
hiểm và quỹ hưu trí, vốn là hai nhà đầu tư tiềm năng đối với thị trường trái phiếu
(MOF, 2015b).
Về TTCK phái sinh
Tại Việt Nam, chứng khoán phái sinh được quy định trong Nghị định
42/2015/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành vào ngày 5/5/2015, theo đó chứng
khoán phái sinh và TTCK phái sinh bao gồm hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp
đồng kỳ hạn và các chứng khoán khác theo hướng dẫn của Bộ Tài chính (MOF).
Như vậy, TTCK phái sinh Việt Nam đang trong giai đoạn cuối của quá trình xây
dựng khung pháp lý, hoàn thiện hạ tầng cơ sở vật chất, công nghệ bao gồm hệ thống
giao dịch, thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh, hệ thống giam sát và công bố
thông tin tại các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán (VSD)
và thành viên thị trường, bảo đảm phù hợp với các sản phẩm phái sinh cơ bản và
chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết (NECIF, 2015) để chính thức đưa TTCK phái sinh
Việt Nam đi vào hoạt động vào ngày 10/8/2017 (SSC, 2017).
Hợp đồng tương lai là sản phẩm chứng khoán phái sinh đầu tiên được niêm
yết và giao dịch trên TTCK phái sinh Việt Nam, cụ thể là Hợp đồng tương lai trên
chỉ số cổ phiếu (VN30 và HNX30) và Hợp đồng tương lai trên TPCP (kỳ hạn 5
năm). Do TTCK phái sinh Việt Nam là thị trường mới, cần hạn chế rủi ro và có
208
bước thử nghiệm nên Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu VN30 được áp dụng
trước, sau đó là Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu HNX30 và tiếp theo mới là
Hợp đồng tương lai trên trái phiếu (SSC, 2017).
Về cơ sở các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
Số lượng tài khoản giao dịch và cơ sở các nhà đầu tư
Số lượng tài khoản giao dịch trên TTCK Việt Nam có sự tăng trưởng đáng
kể. Từ con số 2.007 tài khoản vào năm 2000, tính đến cuối năm 2015, số lượng tài
khoản giao dịch đã đạt 1.569.792 tài khoản (VSD, 2015). Trong đó, số lượng tài
khoản giao dịch của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tại ngày 31/12/2015 theo
quản lý trên hệ thống VSD (2015) cho thấy phần lớn số tài khoản giao dịch hoạt
động của các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam đều là tài khoản của các nhà đầu tư
cá nhân. So với tổng số tài khoản giao dịch hoạt động của nhà đầu tư trên TTCK
tính đến cuối năm 2015 thì số tài khoản giao dịch hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài chiếm tỷ trọng khiêm tốn tại mức 1,13%, số tài khoản giao dịch hoạt động
của nhà đầu tư tổ chức chỉ chiếm tỷ trọng 0,57%. Nhìn chung, nếu so với quy mô
dân số Việt Nam, thì tỷ lệ số lượng tài khoản chứng khoán so với dân số xấp xỉ
1,8%, qua đó cho thấy mức độ hấp dẫn của kênh đầu tư chứng khoán vẫn còn khá
thấp và triển vọng củng cố phát triển cơ sở các nhà đầu tư nhà đầu tư trên TTCK cả
về số lượng lẫn chất lượng vẫn còn rất lớn.
Về các tổ chức trung gian trên TTCK Việt Nam
Tái cấu trúc TTCK Việt Nam là việc đã được cơ quan quản lý tập trung đẩy
mạnh trong năm 2013 và 2014, theo đó các CTCK, các công ty quản lý quỹ cũng
được điều chỉnh lại theo hướng giảm số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động. Tính
đến hết năm 2015, TTCK Việt Nam có 80 CTCK, 45 công ty quản lý quỹ đang hoạt
động; trong đó các ngân hàng cũng tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ
trên TTCK Việt Nam thông qua các CTCK và các công ty quản lý quỹ thuộc ngân
hàng như CTCK Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS), CTCK Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam (CTS), CTCK Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BSC), CTCK Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
Việt Nam (AGR), CTCK Ngân hàng TMCP Á Châu (ACBS)… đã được thành lập
209
và đồng hành cùng với sự phát triển của TTCK Việt Nam từ lúc sơ khởi (SSC,
2016a). Các CTCK thuộc các ngân hàng này và các CTCK khác hoạt động trên
TTCK Việt Nam như Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI), Công ty cổ phần
chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt
(VCSC), Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cũng là các CTCK chiếm
lĩnh thị phần hoạt động lớn trên TTCK Việt Nam. Kể cả đối với thị trường trái
phiếu Việt Nam, đặc biệt là TPCP, thành viên tham gia chủ yếu vẫn là ngân hàng và
các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm khả năng thanh khoản và công cụ trong giao
dịch với Ngân hàng Nhà nước; ngoài ra còn các CTCK cũng tham gia nhằm mục
đích đầu tư tài chính.
Như vậy, cơ sở các nhà đầu tư trên thị trường chưa được đa dạng, khối nhà
đầu tư chủ đạo là ngân hàng thương mại vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, tình trạng
hoạt động của các tổ chức trung gian (CTCK, công ty quản lý quỹ) thuộc ngân hàng
cũng không thoát khỏi ảnh hưởng về uy tín và tiềm lực tài chính, thuận lợi cũng như
khó khăn đến từ hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, nếu hệ
thống ngân hàng thương mại nội địa có biểu hiện hoạt động yếu kém với hàng loạt
rủi ro tác nghiệp sẽ dẫn tới tác động tiêu cực đến hoạt động của các tổ chức trung
gian thuộc ngân hàng thương mại trên TTCK Việt Nam và sự phát triển của TTCK
Việt Nam.
Hoạt động quỹ đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam
Trong giai đoạn phát triển 2000 - 2015 của TTCK Việt Nam, thế hệ các quỹ
đóng và các quỹ thành viên được thay thế dần bằng hệ thống các quỹ đầu tư dạng
mở (các quỹ đầu tư tương hỗ - mutual funds) hoạt động linh hoạt và minh bạch hơn
và có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn. Các quỹ đầu tư chứng khoán trên TTCK
Việt Nam đang hoạt động hiện nay bao gồm 02 quỹ hoán đổi danh mục đầu tư, 9
quỹ thành viên đang hoạt động, và 15 quỹ mở, ngoài ra còn có 5 quỹ đóng đang
trong tiến trình giải thể (SSC, 2016b). Ngoại trừ VFMVF1 và VFMVF4 đã có thời
gian hoạt động dài trên TTCK Việt Nam, các quỹ mở còn lại đều được cấp phép
hoạt động trong giai đoạn 2013 - 2014. Như vậy, có thể thấy mặc dù phần lớn các
quỹ mở được cấp phép thành lập trong những năm gần đây, nhưng các quỹ mở này
210
hoạt động trên TTCK Việt Nam khá ấn tượng khi quy mô giá trị tài sản ròng có xu
hướng ngày càng tăng. Trong số các quỹ mở đang hoạt động trên TTCK Việt Nam,
các quỹ mở chuyên đầu tư vào cổ phiếu có số lượng áp đảo so với các quỹ mở
chuyên đầu tư vào trái phiếu và quỹ mở cân bằng. Chính vì vậy, việc phân bổ tỷ
trọng tài sản của các hình thức quỹ mở cũng có sự khác biệt và biến động đáng kể
do phụ thuộc vào mục tiêu đầu tư của quỹ.