BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN NGUYỄN MINH HẢI

PHÁT TRIỂN

QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 9 34 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. LÊ THỊ THANH HÀ

TS. TRẦN THỊ KỲ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả cam đoan danh dự về công trình nghiên cứu khoa học này của mình, cụ

thể như sau:

Họ tên tác giả: Trần Nguyễn Minh Hải

Sinh ngày 24 tháng 7 năm 1983 tại Bình Thuận, Việt Nam

Quê quán: Thái Bình, Việt Nam

Hiện công tác tại Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Là nghiên cứu sinh khóa 18 của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Trong thời gian học tập tại Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, tác

giả cam đoan luận án: Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán

Việt Nam

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 9 34 02 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thanh Hà và TS. Trần Thị Kỳ

Luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị tiến sĩ tại bất cứ một

trường đại học nào. Luận án này là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả

nghiên cứu là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây

hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn

đầy đủ trong luận án.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 9 năm 2018

Tác giả

Trần Nguyễn Minh Hải

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tác giả xin kính gửi tới Quý Thầy Cô Trường Đại học Ngân hàng TP.

Hồ Chí Minh tấm lòng tri ân chân thành và sâu sắc vì sự chỉ dạy, hướng dẫn nhiệt tình,

tận tâm đã giúp tác giả hoàn thiện khả năng tư duy và kiến thức. Trường Đại học Ngân

hàng TP. Hồ Chí Minh như là ngôi nhà thứ hai của tác giả, nơi đã gắn bó thân thương

với tác giả từ lúc chào đời cho đến thời điểm hiện tại. Niềm vinh hạnh và tự hào to lớn

của tác giả khi được trở thành học trò, đồng nghiệp của Quý Thầy Cô dưới mái trường

Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh luôn mãi là nguồn năng lượng mạnh mẽ hun đúc

cho tấm lòng phụng sự của tác giả đối với nghề giáo trân quý.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Người hướng dẫn khoa

học là TS. Lê Thị Thanh Hà và TS. Trần Thị Kỳ đã tận tình hỗ trợ, kiên nhẫn chỉ bảo,

góp ý và động viên, khích lệ tác giả trong thời gian hoàn thành luận án.

Đồng thời, tác giả cũng xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Quý Thầy Cô,

Quý Đồng nghiệp đã hướng dẫn tác giả từ những ngày đầu tiếp cận nghiên cứu khoa

học và luôn là hình ảnh mẫu mực cho tác giả phấn đấu noi theo.

Bên cạnh đó, tác giả cũng xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Quý Thầy Cô,

Quý Đồng nghiệp đã luôn động viên, khuyến khích và hỗ trợ với những lời khuyên hữu

ích cho tác giả cả trong công việc và trong cuộc sống.

Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc đến Gia đình, Bạn bè và các

Sinh viên của tác giả đã luôn là nguồn động lực to lớn với sự khích lệ tinh thần và tình

yêu thương vô bờ bến trong suốt quá trình tác giả thực hiện luận án.

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu

Tên tiếng Anh

Tên tiếng Việt

Ngân hàng Phát triển Châu Á

Asia-Pacific Economic

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái

APEC

Cooperation

Bình Dương

Association of Southeast Asian

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Nations

BHXH

Bảo hiểm xã hội

CTCK

Công ty chứng khoán

DB

Defined Benefit

Mức hưởng được xác định trước

DC

Defined Contribution

Mức đóng góp được xác định trước

Economic freedom

Chỉ số tự do kinh tế

EMEs

Emerging market economies

Các nền kinh tế mới nổi

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FEM

Fixed effect model

Phương pháp xem xét tác động cố định

FPI

Foreign Portfolio Investment

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

GCI

Global Competitiveness Index

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

Real GDP per capita

GDP bình quân đầu người

GSO

General Statistics Office

Tổng cục thống kê

Ho Chi Minh City Stock

HOSE

Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM

Exchange

HNX

Ha Noi Stock Exchange

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

International Labour

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

Organiztaion

International Organization of

IOSCO

Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán

Securities Commissions

Long term interest rate

Lãi suất dài hạn

ADB Asian Development Bank

iv

MOF

Ministry of Fiance

Bộ Tài chính

Ministry of Labour - Invalid &

MOLISA

Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội

Social Affairs

Kế hoạch hưu trí cá nhân có mức đóng góp

NDC

Notional Defined Contribution

xác định ước tính (danh nghĩa)

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

NSNN

Ngân sách Nhà nước

Tỷ lệ người già trên 100 người thuộc độ

Old age dependency ratio

tuổi lao động

Organization for Economic

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

Cooperation and Development

Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ

OLS

Ordinary least squares

nhất

PAYG

Pay as You Go

Cơ chế thanh toán thực thu thực chi

PESTLIED

Mô hình phân tích 8 yếu tố vĩ mô

Giá trị tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với

Pension fund's assets

GDP

REM

Random effect model

Phương pháp xem xét tác động ngẫu nhiên

State Securities Commission of

SSC

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam

VN

TMCP

Thương mại cổ phần

TPCP

Trái phiếu Chính phủ

TTCK

Thị trường chứng khoán

VSD

Viet Nam Securities Depository Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

Market capitalization of listed

Vốn hóa thị trưởng của các công ty nội địa

domestic companies

niêm yết so với GDP

WEF

World Economic Forum

Diễn đàn Kinh tế thế giới

Inflation rate

Tỷ lệ lạm phát

v

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1 Nguồn dữ liệu của các biến số trong mẫu nghiên cứu thực nghiệm. ............... 8

Bảng 1.2 Tổng hợp mô tả thông tin cá nhân trong mẫu. .................................................. 9

Bảng 2.1 Phân biệt giữa chương trình có mức hưởng xác định (DB) và chương trình có

mức đóng góp xác định (DC). ...................................................................................... 172

Bảng 2.2 Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank. .................................................. 176

Bảng 2.3 Sự tương đồng về phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD. ............... 179

Bảng 2.4 Tỷ trọng các quỹ hưu trí theo mô hình DC và DB tại một số thị trường thu

nhập hưu trí vào năm 2014 và năm 2015. ...................................................................... 18

Bảng 2.5 Sự phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện tại 7 thị trường thu nhập

hưu trí lớn nhất tính đến năm 2015. ............................................................................... 23

Bảng 2.6 Các loại hình trung gian tài chính. .................................................................. 26

Bảng 2.7 So sánh giữa đầu tư cá nhân và đầu tư tổ chức............................................... 27

Bảng 2.8 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí

tự nguyện và TTCK giai đoạn 2000 - 2015. .................................................................. 38

Bảng 2.9 Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập áp dụng đối với thu nhập hưu trí. ........ 45

Bảng 3.1. Tổng hợp các biến số được sử dụng phổ biến, có số lần được đề cập nhiều

nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm liên quan. ........................................................ 65

Bảng 3.2 Thống kê các biến số trong mẫu giai đoạn 2000 - 2015. ................................ 75

Bảng 3.3 Ma trận tương quan giữa các biến số. ............................................................. 76

Bảng 3.4 Bảng tổng hợp các kết quả ước lượng ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện đến TTCK và các kết quả kiểm định với các mô hình OLS, FE, FE-cluster và

RE. .................................................................................................................................. 80

Bảng 4.10 Sự ưa thích của cá nhân về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ thống hưu trí

được ưu tiên. ................................................................................................................. 120

vi

Bảng 4.11 Sự ưa thích của cá nhân về việc tự đầu tư trong hệ thống hưu trí được ưu

tiên. ............................................................................................................................... 121

Bảng 4.12 Các yếu tố quyết định cơ bản của sự lựa chọn ban đầu và những thay đổi kế

tiếp trong thành phần của các danh mục đầu tư hưu trí. .............................................. 123

Bảng 4.13 Tổng hợp ý kiến của các cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam ........................................................................................................... 125

Bảng 4.1 Quá trình phát triển hệ thống BHXH của Việt Nam. ..................................... 87

Bảng 4.2 Hệ thống hưu trí Việt Nam xét theo mô hình đa trụ cột của WB. .................. 92

Bảng 4.3 Phân biệt bảo hiểm hưu trí bổ sung và bảo hiểm hưu trí tự nguyện. .............. 93

Bảng 4.4 Các công ty bảo hiểm nhân thọ đủ điều kiện triển khai sản phẩm bảo hiểm

hưu trí trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. ................................................................... 99

Bảng 4.5 Tình hình khai thác mới của các hợp đồng chính trên thị trường bảo hiểm

nhân thọ Việt Nam năm 2013 - 2015. .......................................................................... 100

Bảng 4.6 Tỷ trọng khai thác mới hợp đồng bảo hiểm hưu trí trên thị trường bảo hiểm

nhân thọ giai đoạn 2013 - 2015. ................................................................................... 102

Bảng 4.7 Phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân

thọ tại Việt Nam năm 2014 và 2015. ........................................................................... 103

Bảng 4.8 Quy định đầu tư tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ...................... 103

Bảng 4.9 Tỷ suất sinh lời của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam giai đoạn 2013 -

2015. ............................................................................................................................. 105

vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1 Khung quy trình nghiên cứu của luận án. ....................................................... 11

Hình 2.1 Khung lý thuyết liên quan đến phát triển quỹ hưu trí trên thị trường chứng

khoán. ............................................................................................................................. 29

Hình 2.2 Chi phí trả cho thu nhập hưu trí của một số quốc gia theo các khu vực trên thế

giới năm 2015 và và dự báo năm 2050. ......................................................................... 51

Hình 2.3 Tỷ lệ dân số già hóa theo khu vực năm 2015 và dự báo năm 2050. ............... 55

Hình 3.1 Tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với quy mô vốn hóa thị trường

cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC năm 2000 và 2015. ..................................... 60

Hình 3.2 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự

nguyện và của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC

giai đoạn năm 2000 đến 2015. ....................................................................................... 61

Hình 4.1 Hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2014. ....................................................... 91

Hình 4.2 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ........................... 97

Hình 4.3 Tình hình tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt Nam giai

đoạn 2000 - 2015. ......................................................................................................... 107

Hình 4.4 Tình hình thực hiện thu chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. ......... 108

Hình 4.5 Khung pháp lý quy định quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. ..................... 113

Hình 4.6 Mức độ tự đánh giá thái độ về tài chính của cá nhân. ................................... 117

Hình 4.7 Khả năng chịu rủi ro trên thu nhập trọn đời của cá nhân. ............................. 118

Hình 4.8 Thành phần của khoản tiết kiệm hưu trí ưa thích: Tỷ lệ phần trăm cổ phiếu

trong danh mục đầu tư cá nhân. ................................................................................... 122

viii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH .................................................................................... v

MỤC LỤC ................................................................................................................... viii

CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1

1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .............................................................. 5

1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu chung ............................................................................... 5

1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể ............................................................................... 5

1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 5

1.3 Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu ........................... 6

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 6

1.3.2 Đối tượng khảo sát ............................................................................................. 6

1.3.3 Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian ............................................... 6

1.4 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 7

1.4.1 Về phương pháp tiếp cận ................................................................................... 7

1.4.2 Về phương pháp thu thập dữ liệu ...................................................................... 8

1.4.3 Về phương pháp xử lý dữ liệu ......................................................................... 10

1.5 Khung quy trình nghiên cứu của luận án ................................................................. 11

1.6 Đóng góp của luận án ............................................................................................... 12

1.7 Bố cục của luận án ................................................................................................... 12

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ................................................................. 13

2.1 Quỹ hưu trí tự nguyện .............................................................................................. 13

2.1.1 Khái quát về quỹ hưu trí .................................................................................. 13

ix

2.1.2 Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện ..................................................................... 15

2.2 Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán ................................ 19

2.2.1 Khái niệm về phát triển và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán .............................................................................................................. 19

2.2.2 Tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán .............................................................................................................. 22

2.2.3 Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán .... 25

2.3 Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên thị trường chứng khoán ........................................................................................... 29

2.3.1 Khung lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên thị trường chứng

khoán......................................................................................................................... 29

2.3.2 Các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài ........................................................ 37

2.3.3 Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước......................................................... 42

2.4 Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán .......... 42

2.4.1 Chính sách ưu đãi thuế thu nhập ..................................................................... 44

2.4.2 Tính ổn định của kinh tế vĩ mô ........................................................................ 45

2.4.3 Các vấn đề về xã hội học ................................................................................. 46

2.4.4 Mức độ phát triển của thị trường tài chính ...................................................... 47

2.4.5 Các quy định pháp lý ....................................................................................... 48

2.4.6 Xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới ............................................ 50

2.4.7 Vấn đề về môi trường ...................................................................................... 54

2.4.8 Các vấn đề về nhân khẩu học .......................................................................... 54

CHƯƠNG 3. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NỀN KINH

TẾ APEC ....................................................................................................................... 58

3.1 Giới thiệu tổng quan ................................................................................................. 58

3.1.1 Các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ........................... 58

x

3.1.2 Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và thị trường cổ phiếu nội địa tại

các nền kinh tế APEC ............................................................................................... 59

3.2 Mô tả dữ liệu ............................................................................................................ 62

3.2.1 Về không gian nghiên cứu ............................................................................... 62

3.2.2 Về thời gian nghiên cứu .................................................................................. 63

3.2.3 Các biến số được lựa chọn và nguồn dữ liệu ................................................... 65

3.3 Mô hình thực nghiệm ............................................................................................... 66

3.4 Ý nghĩa của các biến số trong mô hình .................................................................... 68

3.5 Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................................ 73

3.6 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm ....................................................................... 75

3.6.1 Thống kê mô tả ................................................................................................ 75

3.6.2 Kết quả hồi quy ................................................................................................ 77

3.6.3 Bài học kinh nghiệm ........................................................................................ 83

CHƯƠNG 4. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................................ 86

4.1 Tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam ................... 86

4.1.1 Quá trình hình thành và phát triển hệ thống hưu trí Việt Nam........................ 86

4.1.2 Vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam ................. 92

4.1.3 Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung trong hệ thống hưu trí

Việt Nam ................................................................................................................... 93

4.2 Tổng quan về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt

Nam ................................................................................................................................ 96

4.2.1 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt

Nam........................................................................................................................... 96

4.2.2 Thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam ......... 98

4.2.3 Hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam ................................ 101

4.3 Thực trạng các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng

khoán Việt Nam ........................................................................................................... 106

xi

4.3.1 Quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập ............................................... 106

4.3.2 Tình hình về tính ổn định của kinh tế vĩ mô .................................................. 107

4.3.3 Thực trạng các vấn đề xã hội học .................................................................. 108

4.3.4 Tình hình về mức độ phát triển của thị trường tài chính ............................... 111

4.3.5 Thực trạng về khung các quy định pháp lý ................................................... 113

4.3.6 Cải cách hệ thống hưu trí của Việt Nam so với thế giới ............................... 114

4.3.7 Tình hình về vấn đề môi trường .................................................................... 115

4.3.8 Vấn đề nhân khẩu học trong bối cảnh dân số già hoá ................................... 116

4.4 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam

nhìn từ sự lựa chọn của các cá nhân ............................................................................. 117

4.4.1 Mức độ tự đánh giá của cá nhân về các vấn đề liên quan đến tài chính........ 117

4.4.2 Thái độ của cá nhân về các vấn đề thu nhập hưu trí ...................................... 119

4.4.3 Tính ưu tiên của cá nhân về vấn đề liên quan đến danh mục đầu tư ............. 122

4.4.4 Đánh giá của cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán Việt Nam ........................................................................................... 124

CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN ..................................................... 127

5.1 Định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam

đến năm 2020 ............................................................................................................... 127

5.2 Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng

khoán Việt Nam ........................................................................................................... 128

5.2.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát ............................................. 128

5.2.2 Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam .............. 130

5.2.3 Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và phân bổ tài

sản ........................................................................................................................... 131

5.2.4 Tiếp tục cải cách hưu trí theo định hướng mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột

................................................................................................................................ 133

xii

5.2.5 Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cá nhân về quỹ hưu trí

tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt

Nam......................................................................................................................... 134

5.2.6 Đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức

lớn trên thị trường chứng khoán Việt Nam ............................................................ 135

5.2.7 Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn trong hoạt động của quỹ

hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam ...................................... 136

5.3 Kết luận chung ....................................................................................................... 136

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ........................ 140

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 141

PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT ................................................................. 158

PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN (bao gồm 7 câu hỏi) ............................................ 159

PHẦN 2: MỨC ĐỘ HIỂU BIỂT CHUYÊN MÔN VỀ TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ

RỦI RO (bao gồm 9 câu hỏi) ....................................................................................... 160

PHẦN 3: HÀNH VI VÀ SỰ ƯU TIÊN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP HƯU

TRÍ (bao gồm 8 câu hỏi) .............................................................................................. 162

PHẦN 4: THỰC TIỄN VIỆT NAM (bao gồm 8 câu hỏi) ........................................... 168

Link rút gọn ................................................................................................................ 170

Link tổng hợp thông tin trả lời khảo sát .................................................................. 170

PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................. 171

Nghỉ hưu và Thu nhập hưu trí ................................................................................ 171

Chương trình hưu trí ............................................................................................... 172

Hệ thống hưu trí ...................................................................................................... 175

Vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột................................ 180

PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................. 183

PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................. 189

PHỤ LỤC 5 ................................................................................................................. 194

PHỤ LỤC 6 ................................................................................................................. 198

xiii

PHỤ LỤC 7 ................................................................................................................. 204

Về cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 .................. 205

Về cơ sở các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 .................. 208

1

CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU

Trong chương 1, luận án giới thiệu tóm tắt các nội dung bao gồm lý do lựa

chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu,

phương pháp nghiên cứu, khung quy trình nghiên cứu, đóng góp của luận án, bố cục

của luận án.

1.1 Lý do chọn đề tài

Trong một thời gian dài, sự phát triển của các trung gian tài chính trên thị

trường chứng khoán (TTCK) đã là chủ đề quan tâm của nhiều nghiên cứu khoa học

từ lý thuyết đến thực tiễn. Một trong những trung gian tài chính điển hình là quỹ

hưu trí tự nguyện, đây là loại hình quỹ hưu trí được tài trợ, hình thành từ quá trình

cải cách hệ thống hưu trí công của quốc gia trong bối cảnh dân số già và dần dần trở

thành một nhà đầu tư tổ chức lớn quan trọng trên TTCK. Theo đó, trên thế giới, hệ

thống hưu trí truyền thống theo cơ chế thực thu thực chi PAYG (Pay as You Go -

PAYG) đang dần được chuyển sang hệ thống hưu trí được tài trợ (hoàn toàn/một

phần) từ sự đóng góp tự nguyện của các cá nhân tham gia vào các chương trình hưu

trí tư nhân. Sự ra đời của hệ thống hưu trí được tài trợ (funded pension system) này

đã cho phép các quỹ hưu trí tự nguyện tích lũy tài sản của quỹ để đầu tư trên thị

trường tài chính. Việc tích lũy này được kỳ vọng sẽ tăng cường chiều sâu và khả

năng thanh khoản của thị trường vốn. Đồng thời, với tài sản được tích lũy và nguồn

vốn mang tính chất dài hạn, các quỹ hưu trí tự nguyện có động lực đầu tư nhiều hơn

vào các tài sản dài hạn và thanh khoản kém nhằm đạt được lợi tức cao hơn, từ đó

cũng góp phần cung ứng nguồn tài trợ dài hạn đối với thị trường vốn nói chung,

TTCK nói riêng (Davis, 1998; Davis, 2000).

Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện đối với sự tăng trưởng của TTCK (Catalan, Impavido & Musalem, 2000;

Walker &Lefort, 2002; Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Davis & Hu, 2008;

Raddatz & Schmukler, 2008; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Meng & Pfau, 2010;

Liang & Bing, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012; Hu, 2012;

2

Zandberg & Spierdijk, 2013; Sun & Hu, 2014). Mặc dù các nghiên cứu thực nghiệm

này sử dụng các mô hình định lượng khác nhau nhằm tìm kiếm phương pháp ước

lượng đáng tin cậy và khoảng thời gian các bộ dữ liệu khác nhau, nhưng hầu hết các

kết luận đều cho thấy một sự đồng thuận về ý nghĩa và vai trò tích cực của quỹ hưu

trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường vốn. Qua đó, các nghiên cứu khẳng

định vai trò nhà đầu tư tổ chức của loại hình quỹ hưu trí tự nguyện và sự cần thiết

phát triển loại hình này trên TTCK. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm

này đều gặp phải sự hạn chế về số lượng các biến quan sát, cụ thể là khoảng thời

gian quan sát sẵn có chưa đủ lâu dài. Mặt khác, các nghiên cứu trên đều tập trung

vào các quốc gia phát triển thuộc khối OECD cũng như các thị trường mới nổi,

trong khi đó theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB)

thì các nghiên cứu về thị trường hưu trí thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

còn rất hiếm trong các tài liệu hiện có (Hu, 2012). Nhằm cung cấp bằng chứng thực

nghiệm mới cho mối quan hệ giữa phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện với sự tăng

trưởng của TTCK, theo nghiên cứu của tác giả thông qua phân tích định lượng cho

bộ dữ liệu bảng không cân bằng và sử dụng các yếu tố vĩ mô làm các biến kiểm

soát, tại các nền kinh tế thuộc khối Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương (Asia Pacific Economic Cooperation - APEC), sự phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện có mối tương quan dương với sự phát triển của TTCK với hệ số hồi quy là

dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi

trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015. Các kết quả từ phân tích định lượng mô

hình hồi quy của nghiên cứu của tác giả cũng đã cho thấy sự nhất quán với cơ sở lý

thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trước về mối liên quan tích cực giữa sự tăng

trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện với sự phát triển của TTCK. Chính vì vậy tác giả

tin rằng luận án sẽ góp phần vào cuộc tranh luận về ảnh hưởng của việc phát triển

tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường vốn và thị trường tài chính Châu Á.

Có vị trí địa lý thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một trong các

nền kinh tế thành viên thuộc APEC, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có

thu nhập bình quân đầu người còn ở mức trung bình thấp so với các nền kinh tế

trong khu vực và trên thế giới mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP ổn định qua các năm

3

gần đây. Do đó, Việt Nam rất có thể đối mặt với hiện trạng “già trước khi kịp giàu”

trong bối cảnh dân số già ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc bảo đảm an sinh xã hội

trở thành vấn đề cấp thiết cần được giải quyết thấu đáo, bao gồm bảo đảm thu nhập

hưu trí khi về già. Trong khi đó, hệ thống hưu trí công của Việt Nam hoạt động theo

cơ chế PAYG với mức hưởng được xác định trước (Defined Benefit - DB) do phí

chi trả lương hưu cao, và dự kiến chi phí này sẽ còn gia tăng đáng kể trong những

thập kỷ tới nên tiềm ẩn sự bất ổn về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế

hệ (Giang Thanh Long, 2004). Hơn nữa, áp lực chi trả thu nhập hưu trí ngày càng

lớn đối với Ngân sách Nhà nước (NSNN) Việt Nam trong tương lai, từ đó góp phần

làm thâm hụt NSNN, dẫn tới tác động tiêu cực đến tổng thể tài chính công (MOF,

2015a; Lưu Hải Vân, 2014). Chính vì vậy, Việt Nam đã tiến hành thực hiện các cải

cách hệ thống hưu trí nhưng những cải cách này chủ yếu vẫn là những cải cách

tham số (Giang Thanh Long, 2004; Điều Bá Dược, 2013; MOLISA, 2015).

Năm 2013, sự kiện Bộ Tài chính công bố Thông tư số 115/2013/TT-BTC

hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam đã đánh dấu một

bước ngoặt lịch sử đối với hệ thống hưu trí Việt Nam cũng như giới thiệu nhân tố

trung gian tài chính mới trong vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK Việt Nam.

Trong khi sự phát triển của TTCK Việt Nam vẫn còn được đánh giá, xếp hạng ở

mức thấp so với các TTCK khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên

thế giới (WEF, 2015) do số lượng, chất lượng hàng hóa giao dịch (VSD, 2015) cũng

như hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường vẫn còn rất hạn chế (SSC, 2012)

thì sự kiện này đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và các bên liên quan đến phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của xã

hội và thị trường, cũng như góp phần phát triển TTCK.

Mặc dù được quan tâm, nhưng tại Việt Nam vẫn còn thiếu vắng các nghiên

cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Hầu hết các nghiên cứu được

thực hiện kể từ sau năm 2013 và chỉ tập trung vào (i) hiện trạng và thách thức của

hệ thống hưu trí trong bối cảnh dân số già hóa và (ii) vai trò của quỹ hưu trí tự

nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột (Điều Bá Dược, 2013; Khuất Thị Kiều

Vân, 2013; TTBD, 2014; Chí Tín, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; Nguyễn Thị Lê Thu,

4

2014; Trần Phương Thảo & Nguyễn Anh Tuấn, 2014; Lương Xuân Trường, 2014;

Bùi Cẩm Hường, 2014; Thùy Dương, 2017).

Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận án về phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK, quỹ hưu trí tự nguyện được tập trung tìm hiểu và phân tích vì

những lý do chính yếu sau đây:

 Thứ nhất, quỹ hưu trí tự nguyện là một nhà đầu tư tổ chức dài hạn trên

TTCK. Quỹ hưu trí tự nguyện đã góp phần cấu thành nên cơ sở nhà đầu tư tổ

chức (instistutional investor base) trong sự phát triển của TTCK khi (i) cung

cấp cho TTCK nguồn vốn quy mô lớn, mang tính chất ổn định, dài hạn; (ii)

nắm giữ phần lớn lượng tài sản tài chính và không ngừng phát triển với quy

mô tài sản ngày một tăng trên TTCK.

 Thứ hai, quỹ hưu trí tự nguyện là một trụ cột trong hệ thống hưu trí của quốc

gia, góp phần cải thiện thu nhập hưu trí khi về già, góp phần bảo đảm an sinh

xã hội trong bối cảnh dân số đang già hóa theo thời gian và gánh nặng hệ

thống hưu trí công đang ngày càng lớn.

Từ những lý do trên, trong khuôn khổ luận án với đề tài “PHÁT TRIỂN

QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT

NAM”, nghiên cứu tập trung hệ thống hóa lý luận chung về quỹ hưu trí tự nguyện,

vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột, tiêu chí đánh giá

cũng như các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tư nhân trên TTCK từ lý

thuyết đến thực nghiệm nhằm bổ sung, đóng góp vào hệ thống kiến thức về phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và góp phần phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK Việt Nam. Trong đó, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ các

tổ chức quốc tế tin cậy để tiến hành xem xét tác động của phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện đến sự phát triển TTCK, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK tại một số nền kinh tế trên thế giới, cụ thể là các nền kinh tế thuộc APEC

nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; và dữ liệu sơ cấp từ quá trình

khảo sát trực tuyến đối với cá nhân là công dân Việt Nam để thu thập thông tin về

sự lựa chọn của họ đối với các nội dung liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện dựa

vào (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro và (ii) sở thích, hành vi cá

5

nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí. Nghiên cứu được tiến hành xử lý theo phương

pháp kết hợp cả định tính lẫn định lượng. Từ đó, luận án khẳng định sự cần thiết

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, tạo thêm nhà đầu tư tổ chức trên TTCK

Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu chung

Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án là xác định các điều kiện phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị

nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu chung, luận án tập trung vào giải quyết

các mục tiêu cụ thể như sau:

 Phân tích, trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Việt Nam thông qua mô hình PESTLIED, qua đó xác định mức độ phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

 Phân tích định lượng bằng mô hình hồi quy ảnh hưởng của phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện đến phát triển TTCK của các nền kinh tế trên thế giới, cụ

thể là các nền kinh tế thuộc APEC, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, vốn là một nền kinh tế

thành viên thuộc APEC.

 Tìm hiểu, khảo sát, thống kê mô tả nhu cầu của các cá nhân là công dân Việt

Nam về những vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ

hưu trí trên TTCK Việt Nam.

 Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam.

1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu

Từ mục tiêu nghiên cứu cụ thể, luận án giải quyết các câu hỏi nghiên cứu

sau:

6

 Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK thông qua mô hình

PESTLIED là gì? Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam đã

đạt được đến mức độ nào?

 Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tác động đến sự phát triển của

TTCK tại các nền kinh tế trên thế giới, cụ thể là các nền kinh tế thuộc APEC

ra sao? Bài học kinh nghiệm nào từ nghiên cứu thực nghiệm về phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế APEC được rút ra cho

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?

 Các cá nhân là công dân Việt Nam có hiểu biết như thế nào về những vấn đề

liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK và có nhu cầu ra sao về quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?

 Từ kết quả nghiên cứu tác động của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự

tăng trưởng TTCK tại các nền kinh tế thuộc APEC và kết quả khảo sát nhu

cầu cá nhân là các công dân Việt Nam, các khuyến nghị nào có thể được đề

xuất đối với việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam?

1.3 Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK.

1.3.2 Đối tượng khảo sát

 Các quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế được lựa chọn, cụ

thể là các nền kinh tế thuộc APEC nhằm xem xét ảnh hưởng của phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC này.

 Các cá nhân là công dân Việt Nam để khảo sát nhu cầu và sự lựa chọn của họ

đối với các vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

1.3.3 Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian

 Đối với dữ liệu thứ cấp

7

Luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp thu thập được từ các nghiên cứu thực

nghiệm, tài liệu, văn bản, báo cáo, các nguồn tài liệu tham khảo tin cậy của các tổ

chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB), Tổ chức Lao động Quốc

tế (International Labour Organiztaion - ILO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

(Organization for Economic Cooperation and Development - OECD) … được cập

nhật cho giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015 về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK, quá trình hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, quá trình cải

cách hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2015, cập nhật thông tin liên

quan năm 2016, 2017, 2018.

 Đối với dữ liệu sơ cấp

Đối với nguồn dữ liệu sơ cấp, nghiên cứu tiến hành khảo sát trực tuyến đối

với cá nhân, nhà đầu tư là công dân Việt Nam về lĩnh vực tài chính - bảo hiểm để

thu thập thông tin về sự lựa chọn của họ đối với các nội dung liên quan đến quỹ hưu

trí tự nguyện dựa vào (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro; (ii) sở

thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí vào khoảng thời gian từ ngày

24/02/2018 đến 15/3/2018.

1.4 Phương pháp nghiên cứu

1.4.1 Về phương pháp tiếp cận

Nghiên cứu tiếp thu và kế thừa tư tưởng của các lý thuyết sau: (i) lý thuyết

phát triển các trung gian tài chính trên TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003;

Andrieş, 2009; Enache, Miloş & Miloş, 2013); (ii) lý thuyết về các bên liên quan

đến hoạt động của tổ chức (Phillips & Reichart, 2000; Freeman, Wick & Parmar,

2004; Buchholz, 2004); (iii) lý thuyết về thực hiện quyết định tài chính (Franzen,

2010); (iv) lý thuyết về phân bổ tài sản dài hạn (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010;

Falkenheim, 2015). Các lý thuyết này cũng chính là nền tảng cho việc lựa chọn

hướng nghiên cứu về quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK của đề tài. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tham khảo nghiên cứu thực nghiệm về

mối quan hệ của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK

nhằm tham khảo và làm cơ sở so sánh, đối chiếu kết quả khảo sát, kết quả phân tích

định lượng.

8

1.4.2 Về phương pháp thu thập dữ liệu

 Đối với dữ liệu thứ cấp

Nghiên cứu dựa trên việc thu thập các dữ liệu thứ cấp từ các nguồn tài liệu

tham khảo tin cậy của các tổ chức quốc tế như WB, ILO, OECD … và các công

trình nghiên cứu được công bố tại các tạp chí chuyên ngành liên quan đến kinh tế,

tài chính và bảo hiểm trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015. Các dữ liệu thứ

cấp được sử dụng nhằm củng cố cơ sở lý luận từ lúc khái niệm về quỹ hưu trí tự

nguyện được xây dựng và giới thiệu trong mô hình thu nhập hưu trí đa trụ cột trên

thế giới cũng như kiểm định sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng

trưởng TTCK, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trên thế

giới, cụ thể là tại các nền kinh tế thuộc APEC (Bảng 1.1).

Bảng 1.1 Nguồn dữ liệu của các biến số trong mẫu nghiên cứu thực nghiệm.

Biến số

Mã hóa

Đvt

Nguồn dữ liệu

Market

Vốn hóa thị trường của

capitalization of

các công ty nội địa

%GDP WB, World Development Indicators

listed domestic

niêm yết so với GDP

companies

Tỷ lệ lạm phát

Inflation rate

WB, World Development Indicators

%

Long term interest

European Central Bank, Eurostat,

%

Lãi suất dài hạn

Datastream, investing.com

rate

GDP bình quân đầu

Real GDP per capita

USD WB, World Development Indicators

người

Chỉ số tự do kinh tế

Economic freedom

points Heritage, Country Overall Score

Tỷ lệ người già trên

Old age dependency

100 người thuộc độ

%

Eurostat, databank.worldbank.org

ratio

tuổi lao động

Giá trị tài sản quỹ hưu

OECD, Instistutional Investors Statistic

Pension fund's

trí tự nguyện so với

%GDP

Yearbook and OECD Stat,

assets

GDP

data.worldbank.org

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

 Đối với dữ liệu sơ cấp

Bên cạnh đó, số liệu sơ cấp cũng được thu thập thông qua khảo sát trên mạng

internet (link truy cập goo.gl/PsEzXV), nghiên cứu nhận được số phiếu hợp lệ là

215 phiếu trong tổng số 223 phiếu khảo sát phản hồi (chiếm tỷ lệ 96,41%) với

9

10.240 lượt truy cập vào khoảng thời gian từ ngày 24/02/2018 đến 15/3/2018. Các

câu hỏi được trả lời thông qua các thiết bị điện tử cá nhân có kết nối mạng internet

của người tham gia khảo sát, do đó người trả lời (i) không bị ảnh hưởng bởi quan

điểm người khảo sát; (ii) không có cảm giác vội vã hay bị thúc giục để trả lời và

(iii) hoàn toàn ẩn danh khi trả lời. Các câu hỏi được thiết kế theo hình thức bắt buộc

hoàn thành mới có thể chuyển sang câu hỏi kế tiếp nhằm giúp người tham gia thực

hiện khảo sát không bỏ sót bất cứ câu hỏi nào. Người tham gia không được trả phí

cho việc trả lời khảo sát này. Nội dung khảo sát bao gồm 32 câu hỏi chia làm 4

phần: (i) thông tin cá nhân bao gồm 7 câu hỏi; (ii) tự đánh giá về sự am hiểu tài

chính và mức độ chấp nhận rủi ro khi ra quyết định tài chính trên nhiều phương

diện bao gồm 9 câu hỏi; (iii) hành vi, sự ưu tiên và mức độ đầu tư của cá nhân đối

với thu nhập hưu trí nếu có chương trình hưu trí có mức đóng góp xác định trước

(Defined Contribution - DC) bao gồm 8 câu hỏi; (iv) thực tiễn Việt Nam bao gồm 8

câu hỏi (PHỤ LỤC 1).

Đối tượng khảo sát của nghiên cứu là những cá nhân đang hoặc sẽ sớm trở

thành người tham gia vào chương trình hưu trí tư nhân được tài trợ (private funded

pension schemes), bao gồm chương trình hưu trí nghề nghiệp (private

occupational/employee funded pension schemes) và kế hoạch hưu trí cá nhân

(private individual/personal funded pension schemes) bên cạnh hệ thống hưu trí

công (public unfunded pension system - Pay as You Go defined benefit system) tại

Việt Nam. Do đó, các cá nhân được lựa chọn khảo sát là công dân Việt Nam từ 18

tuổi trở lên đã có công việc được trả lương, đang tìm kiếm việc làm hoặc đã liệt kê

công việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo đúng chuyên ngành học tập của mình.

Bảng 1.2 Tổng hợp mô tả thông tin cá nhân trong mẫu.

STT Hạng mục

Mô tả (Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu

).

1

Độ tuổi

Độ tuổi trung bình của 215 người tham gia trả lời trong mẫu khảo sát là 26,68 tuổi, trẻ

nhất là 18 tuổi và lớn tuổi nhất là 63 tuổi.

Học vấn

Có 179 người có trình độ từ đại học trở lên (83,26% mẫu).

2

Giới tính

Có 115 nữ (53,49% mẫu) và 100 nam (46,51% mẫu).

3

Tình trạng

Có 54 người có bạn đời (25,12% mẫu) và 161 người chưa có bạn đời (74,88% mẫu)

4

hôn nhân

10

5

Công việc Có 125 người có việc làm được trả lương (58,14% mẫu) và 90 người đang tìm kiếm

việc làm hoặc dự kiến việc làm đầu tiên sẽ theo đúng chuyên ngành học tập (41,86%

mẫu)

6

Thu nhập

Có 96 người (44,65% mẫu) có thu nhập nhỏ hơn hoặc bằng 5 triệu đồng/tháng, 34

người (15,81% mẫu) có thu nhập trên 5 - 10 triệu đồng/tháng, 56 người (26,05% mẫu)

có thu nhập trên 10 - 18 triệu đồng/tháng, 29 người (13,49% mẫu) có thu nhập trên 18

triệu đồng/tháng

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

1.4.3 Về phương pháp xử lý dữ liệu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định tính các các điều kiện phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK theo mô hình PESTLIED (Political,

Economic, Sociological, Technological, Legal, International, Environmental,

Demographic factors). Mô hình PESTLIED này là một dạng mở rộng từ mô hình

PESTLE (Political, Economic, Sociological, Technological, Legal, Environmental

factors), một kỹ thuật quản trị chiến lược được sử dụng hiệu quả trong quy trình xác

định các yếu tố tác động đến từ bên ngoài của kế hoạch quản lý rủi ro (Rastog &

Trivedi, 2016). Nếu như các yếu tố tác động đến từ bên trong nội bộ tổ chức có thể

dễ dàng xác định hơn vì có nhiều dữ liệu lịch sử đối với các dạng tổ chức tương tự

(các yếu tố phi hệ thống) thì các yếu tố tác động đến từ bên ngoài lại vượt tầm kiểm

soát của tổ chức và có ít dữ liệu có sẵn hơn (các yếu tố hệ thống) nên có thể khiến

các tổ chức dễ bị tổn thương và tổn thất nặng nề về tài chính trong khi các bên liên

quan đến hoạt động của tổ chức đều mong đợi một tỷ suất sinh lời cao. Do vậy, bên

cạnh việc xác định các yếu tố tác động từ bên trong tổ chức, thì việc xác định các

yếu tố tác động liên quan đến từ bên ngoài là điều cần thiết cũng như thực hiện các

giải pháp thích hợp để đối mặt với những thách thức hoặc tận dụng các cơ hội từ

chúng. Từ đó, hoạt động của tổ chức có thể đáp ứng mục tiêu phát triển và mang lại

lợi ích tốt hơn cho các bên liên quan. Đồng thời, nghiên cứu cũng kết hợp sử dụng

phương pháp phân tích định lượng cho dữ liệu bảng không cân bằng đối với các nền

kinh tế thuộc APEC trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2015 để xem xét

mối quan hệ giữa phát triển quỹ hưu trí tự nguyện với sự tăng trưởng của TTCK tại

các nền kinh tế thuộc APEC và phương pháp thống kê mô tả kết quả khảo sát trực

tuyến về sự lựa chọn của các cá nhân.

11

Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

1.5 Khung quy trình nghiên cứu của luận án

Vấn đề nghiên cứu

Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

Mục tiêu nghiên cứu

- Xác định các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

- Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp tiếp cận: Lý thuyết về phát triển trung gian tài chính trên TTCK, lý thuyết về các bên

liên quan, lý thuyết tài chính hành vi, lý thuyết phân bổ tài sản dài hạn và các nghiên cứu thực nghiệm

về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trong nước và nước ngoài.

- Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu thứ cấp từ các tổ chức quốc tế WB, ILO, OECD …, dữ liệu sơ

cấp từ khảo sát trực tuyến các cá nhân là công dân Việt Nam.

- Phương pháp xử lý dữ liệu: Kết hợp phân tích định tính (mô hình PESTLIED, thống kê mô tả) và

phân tích định lượng (ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FE, FE - cluster,

RE).

Nội dung nghiên cứu

- Trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam theo mô hình

PESTLIED.

- Xác định mức độ ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự tăng trưởng TTCK của các

nền kinh tế thuộc khối APEC bằng ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS, FE,

FE - cluster, RE.

- Thống kê mô tả sự hiểu biết và nhu cầu của cá nhân là công dân Việt Nam đối với các vấn đề liên

quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

Đề xuất một số khuyến nghị về điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam nhằm

góp phần phát triển TTCK Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Hình 1.1 Khung quy trình nghiên cứu của luận án.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

12

1.6 Đóng góp của luận án

 Luận án trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Việt Nam theo mô hình PESTLIED, trong đó tổng hợp xu hướng cải cách hệ

thống hưu trí tại Việt Nam, phân tích thực trạng về phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK Việt Nam.

 Luận án đánh giá mức độ ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến

phát triển TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, kết quả nghiên cứu thực

nghiệm khẳng định ảnh hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện đến phát triển

TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC.

 Luận án thực hiện khảo sát các cá nhân là công dân Việt Nam để phân tích

thái độ của cá nhân về chấp nhận rủi ro, mức độ am hiểu về quỹ hưu trí tự

nguyện, điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

 Luận án phân tích triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị về điều kiện phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

1.7 Bố cục của luận án

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án được trình bày theo kết cấu 5

chương cùng với danh mục tài liệu tham khảo và 7 phụ lục được sử dụng

nhằm làm minh chứng củng cố thêm nội dung trình bày và phân tích của luận

án.

 Chương 1. Phần mở đầu

 Chương 2. Cơ sở lý luận về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

 Chương 3. Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK: Bài học kinh

nghiệm từ các nền kinh tế APEC

 Chương 4. Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

 Chương 5. Khuyến nghị và kết luận

13

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU

TRÍ TỰ NGUYỆN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Trong chương 2, luận án trình bày cơ sở lý luận và các nghiên cứu thực

nghiệm trong thời gian từ năm 2000 và được cập nhật đến năm 2015, bao gồm khái

niệm, vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột, tiêu chí được

sử dụng để đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trong các

nghiên cứu thực nghiệm, sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.

Luận án cũng tiến hành phân tích các điều kiện phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK theo mô hình PESTLIED, cụ thể về: (i) chính sách thuế thu nhập (yếu tố

chính trị - Political); (ii) tính ổn định của kinh tế vĩ mô (yếu tố kinh tế - Economic);

(iii) vấn đề thuộc xã hội học (yếu tố xã hội - Sociological); (iv) cơ sở hạ tầng của thị

trường tài chính (yếu tố trình độ công nghệ - Technological); (v) các quy định pháp

lý liên quan đến hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện (yếu tố pháp lý - Legal); (vi)

xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới (yếu tố quốc tế - International);

(vii) vấn đề về môi trường (yếu tố môi trường - Environmental); (viii) vấn đề về

nhân khẩu học (yếu tố nhân khẩu học - Demographic).

2.1 Quỹ hưu trí tự nguyện

2.1.1 Khái quát về quỹ hưu trí

Dựa trên việc định nghĩa các chương trình hưu trí như là một thỏa thuận

mang tính pháp lý về thu nhập hưu trí liên quan đến các quyền xác định theo hợp

đồng của các bên thì có thể hiểu quỹ hưu trí chính là tập hợp tài sản đóng góp vào

quỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm theo hợp đồng trong các chương trình

hưu trí nhằm mục đích tài trợ hay cung cấp sự bảo đảm cho những lợi ích được hứa

hẹn về thu nhập hưu trí của người hưởng lợi (PHỤ LỤC 2).

Quỹ hưu trí có một số đặc điểm cơ bản như sau:

 Các thành viên của quỹ có quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản của quỹ.

 Các quỹ hưu trí có thể được tổ chức dưới dạng một quỹ tín thác (một quỹ

độc lập có tư cách pháp nhân) hoặc một quỹ không có tư cách pháp nhân do

14

một công ty quản lý quỹ hoặc một tổ chức tài chính thay mặt cho các thành

viên của quỹ quản lý.

 Các quỹ hưu trí thường được đóng góp bởi người sử dụng lao động (các công

ty, tập đoàn, hoặc công đoàn) và người lao động.

 Tài sản của quỹ hưu trí có thể được quản lý nội bộ hoặc được thuê quản lý.

 Các khoản chi trả cho thành viên phụ thuộc vào tình hình thị trường tài chính

hoặc tỷ lệ sinh lời tùy thuộc vào mô hình tài chính của quỹ là các chương

trình hưu trí có mức đóng góp được xác định trước (Defined Contribution -

DC) hay có mức hưởng được xác định trước (Defined Benefit - DB) (OECD,

2008).

Căn cứ trên cách phân loại các chương trình hưu trí, các loại hình quỹ hưu trí

có thể được phân loại như sau:

(i) Quỹ hưu trí được điều hành bởi Chính phủ bao gồm quỹ trợ cấp thu nhập

hưu trí của Chính phủ và quỹ hưu trí bắt buộc vận hành theo cơ chế PAYG với mô

hình kế hoạch hưu trí có mức hưởng xác định trước (DB) và không được tài trợ

(mandatory publicly managed pension). Tuy nhiên, trong thực tế, tại một số quốc

gia như Singapore (WEF, 2017), Malaysia (Howell, Wang & Shand, 2014), Mexico

(OECD, 2007) … vẫn tồn tại chương trình hưu trí bắt buộc và được quản lý bởi

Chính phủ nhưng được tài trợ hoàn toàn từ đóng góp của người tham gia và là kế

hoạch có mức đóng góp xác định trước (DC), còn được biết đến như là các quỹ tiết

kiệm dự phòng (mandatory provident funds) (Blommestein, 1997).

(ii) Quỹ hưu trí nghề nghiệp (hay còn gọi là quỹ hưu trí bổ sung - private

employee/occupational funded pension funds) được dựa trên các kế hoạch hưu trí

nghề nghiệp do khu vực tư nhân quản lý điều hành và bảo đảm thanh toán quyền lợi

thu nhập hưu trí cho các thành viên/đối tượng tham gia và quỹ hoạt động với vai trò

là pháp nhân độc lập đối với với nhà tài trợ là người sử dụng lao động. Quỹ hưu trí

nghề nghiệp là quỹ được tài trợ và có thể theo mô hình DB hoặc mô hình DC. Các

quỹ hưu trí nghề nghiệp bao gồm:

 Quỹ hưu trí nghề nghiệp bắt buộc (hay quỹ hưu trí bổ sung bắt buộc - private

employee/occupational compulsory funded pension funds).

15

 Quỹ hưu trí nghề nghiệp tự nguyện (hay quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện -

private employee/occupational voluntary funded pension funds).

(iii) Các quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện dựa trên các kế hoạch hưu trí cá nhân

tự nguyện (private personal/individual voluntary funded pension funds) do khu vực

tư nhân quản lý điều hành theo mô hình DC và được tài trợ.

Với cách gọi tên như trên cũng sẽ giúp dễ phân loại các quỹ hưu trí trong

việc phân tích các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội cũng như tái phân phối thu

nhập. Trong thực tế, cách phân loại của các loại hình quỹ hưu trí này cũng được sử

dụng trong các nghiên cứu về thu nhập hưu trí, đặc biệt đối với các thị trường mới

nổi, được phát triển đầu tiên bởi WB (1994) và WB (2008) căn cứ vào mô hình tài

chính và tính chất của quỹ hưu trí.

Ví dụ như tại Indonesia, theo nghiên cứu của Muliati (2013), bên cạnh quỹ

hưu trí công và mang tính chất bắt buộc, quỹ hưu trí tự nguyện là thuộc về khu vực

tư nhân quản lý và bao gồm hai loại, cụ thể là các quỹ hưu trí nghề nghiệp của

người sử dụng lao động và quỹ hưu trí cá nhân của tổ chức tài chính. Trong đó:

 Quỹ hưu trí nghề nghiệp của người sử dụng lao động được thành lập bởi một

cá nhân hay một thực thể pháp lý cho người lao động của mình và những

người lao động của người sử dụng lao động khác, khi đó những người sử

dụng lao động khác sẽ đóng vai trò là nhà đồng sáng lập của quỹ hưu trí. Một

quỹ hưu trí nghề nghiệp của người sử dụng lao động có thể theo mô hình DB

hay DC.

 Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện của tổ chức tài chính được thành lập bởi một

ngân hàng hay một công ty bảo hiểm nhân thọ dành cho những người muốn

tiết kiệm cho tuổi già của họ, cho dù họ là người lao động làm việc theo thời

hạn hợp đồng hay tự làm chủ. Một quỹ hưu trí cá nhân của tổ chức tài chính

chỉ có thể thực hiện theo mô hình DC.

2.1.2 Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện

Khái niệm quỹ hưu trí tự nguyện mang hàm ý về loại hình quỹ hưu trí được

tài trợ hoàn toàn dựa vào các khoản đóng góp tự nguyện của người tham gia vào các

chương trình hưu trí tư nhân trong mối tương quan với quỹ hưu trí bắt buộc (không

16

có tài trợ và được điều hành bởi khu vực công theo cơ chế thực thu thực chi PAYG)

(Blommestein, 1997; OECD, 2004).

Quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III1 trong hệ thống hưu trí đa trụ cột

được WB giới thiệu vào năm 1994, bao gồm:

(i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private

employee/occupational voluntary funded pension funds) có thể theo mô hình

tài chính có mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hoặc theo mô

hình có mức đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC): Quỹ hưu

trí nghề nghiệp tự nguyện có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao

động và là dạng quỹ hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý

quỹ với người sử dụng lao động đứng ra đại diện cho những người lao động

tham gia hợp đồng, nhưng người lao động có quyền không tham gia và

không có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia dạng hợp đồng này (GoC, 1999;

OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).

(ii) Quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private

personal/individual voluntary funded pension funds) theo mô hình có mức

đóng góp xác định trước (DC): Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện được thành

lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo hiểm

nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ

thống quy định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư

trên thị trường và được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế của Nhà

nước (WB, 1994; WB, 2008).

Quỹ hưu trí tự nguyện là loại hình quỹ hưu trí được tài trợ, quỹ thu thập các

khoản đóng góp và chi trả quyền lợi về thu nhập hưu trí. Mục đích của quỹ hưu trí

tự nguyện là để cung cấp cho nhân viên và người lao động tự do, hoặc bên thụ

hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện các lợi ích về thu nhập hưu trí bổ sung thêm vào

an sinh xã hội bắt buộc. Qua đó, quỹ hưu trí tự nguyện được xem như là một

hưu trí của quốc gia mình theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản, bao gồm quỹ hưu trí bắt buộc (trụ

cột I), quỹ hưu trí bổ sung (trụ cột II) và quỹ hưu trí tự nguyện (trụ cột III).

1 WB đã và đang nỗ lực quảng bá, hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội, cải cách hệ thống

17

phương tiện đầu tư mang tính tập hợp được thành lập để thu thập và đầu tư các

khoản đóng góp cho thu nhập hưu trí vào các loại tài sản nhằm tạo ra lợi nhuận và

giảm thiểu rủi ro đầu tư, từ đó làm gia tăng giá trị tài sản của quỹ để bảo đảm trách

nhiệm chi trả cho các thành viên của quỹ. Quỹ hưu trí tự nguyện chủ yếu do khu

vực tư nhân quản lý, là các quỹ được tài trợ do có sự tham gia đóng góp tự nguyện

của người tham gia theo các thỏa thuận quy định trong hợp đồng của các chương

trình hưu trí theo mô hình DB hay DC. Sự phát triển của các quỹ hưu trí tự nguyện

đi cùng với xu hướng chuyển dần từ mô hình DB sang mô hình DC (WB, 1994;

Blommestein, 1997; OECD, 2004; WB, 2008; Hinz, Rudolph, Antolín & Yermo,

2010; OECD, 2011; Holzmann, 2012).

So với các ngân hàng, các quỹ hưu trí tự nguyện là các nhà đầu tư tổ chức

thực hiện việc quản lý quỹ thay mặt cho các thành viên và chi trả các khoản lợi tức

và vốn gốc cho họ sau khi nghỉ hưu. Lợi thế của các quỹ hưu trí tự nguyện so với

các ngân hàng trong vai trò nhà đầu tư tổ chức bắt nguồn từ thực tế là các khoản nợ

của quỹ mang tính chất dài hạn. Mặc dù các ngân hàng có dự trữ và có hệ thống bảo

hiểm tiền gửi, nhưng khả năng đầu tư quy mô vốn lớn trong dài hạn bị hạn chế do

đặc thù hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, các quỹ hưu trí tự nguyện thường có

xu hướng đầu tư vào tài sản dài hạn hơn để phù hợp với thời gian đáo hạn của tài

sản và nợ phải trả.

So với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm nhân thọ, mặc

dù quỹ hưu trí tự nguyện và các công ty bảo hiểm nhân thọ đều là các nhà đầu tư tổ

chức dài hạn nhưng do đặc điểm của các nghĩa vụ nợ là không giống nhau cũng làm

cho hành vi đầu tư của chúng cũng có sự khác biệt. Các quỹ hưu trí tự nguyện với

các nghĩa vụ nợ liên quan đến thu nhập kiếm được nên ưa thích việc đầu tư vào cổ

phiếu hơn, trong khi các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm nhân

thọ có nghĩa vụ nợ được tính theo giá trị danh nghĩa thì chuộng đầu tư vào trái

phiếu hơn.

So với quỹ tương hỗ, các quỹ hưu trí tự nguyện cũng có sự khác biệt do các

nghĩa vụ nợ của quỹ hưu trí tự nguyện thì kém thanh khoản (illiquid) trong khi các

nghĩa vụ nợ của các quỹ tương hỗ hầu hết đều có tính thanh khoản (liquid). Do đó

18

khoảng thời gian đầu tư của các quỹ hưu trí tự nguyện thường dài hơn quỹ tương

hỗ. Tuy nhiên, các quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC có thể có đặc điểm hành

vi tương tự như các quỹ tương hỗ vì các nhà quản lý quỹ được khen thưởng dựa trên

các kết quả ngắn hạn (Miles, 1993; Kim, 2010).

So với các quỹ hưu trí công được quản lý bởi Nhà nước, các quỹ hưu trí tự

nguyện được điều hành bởi khu vực tư nhân hoạt động tích cực hơn trong chiến

lược danh mục đầu tư. Nguyên nhân là do (i) các quỹ hưu trí tự nguyện ít bị ràng

buộc trong đầu tư bởi các mục tiêu xã hội và (ii) các quỹ hưu trí tự nguyện, đặc biệt

là các quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình tài chính DC, phải cạnh tranh với nhau để

có mức tỷ suất sinh lời được điều chỉnh theo rủi ro cao hơn.

Quỹ hưu trí tự nguyện ngày càng được mở rộng và sẽ tiếp tục như là một xu

hướng tài chính trong những thập kỷ tới khi mà tình hình già hóa dân số tiếp diễn

nhanh chóng và sự chuyển đổi từ hệ thống hưu trí không được tài trợ sang hệ thống

hưu trí được tài trợ hoàn toàn bằng sự đóng góp của người tham gia quỹ hưu trí tự

nguyện (Davis & Hu, 2005). Theo đó, mặc dù mô hình DB vẫn còn chiếm tỷ trọng

lớn trong các chương trình hưu trí nhưng quy mô tài sản của các quỹ hưu trí được

tập hợp từ các hợp đồng tiết kiệm của các chương trình hưu trí theo mô hình DC đã

có sự gia tăng đáng kể trên các thị trường thu nhập hưu trí theo thời gian

(Towerswatson, 2015) (Bảng 2.4).

Bảng 2.4 Tỷ trọng các quỹ hưu trí theo mô hình DC và DB tại một số thị

trường thu nhập hưu trí vào năm 2014 và năm 2015.

(Đvt: %).

Quỹ hưu trí theo mô hình DC

Quỹ hưu trí theo mô hình DB

Quốc gia

2014

2015

2014

2015

Australia

85%

87%

15%

13%

US

58%

60%

42%

40%

UK

29%

32%

71%

68%

Netherlands

5%

5%

95%

95%

Canada

4%

5%

96%

95%

Japan

3%

4%

97%

96%

Nguồn: Towerswatson (2015), Towerswatson (2016).

19

Nội dung phân tích sau đây tập trung vào xác định vị trí quỹ hưu trí tự

nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột và vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện dưới

góc độ là nhà đầu tư tổ chức lớn với những đóng góp quan trọng đến sự phát triển

của thị trường vốn mà quỹ hưu trí công theo cơ chế PAYG (không được tài trợ và

dựa trên mô hình DB mang tính chất bắt buộc) khó có thể thực hiện được.

2.2 Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán

2.2.1 Khái niệm về phát triển và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

thị trường chứng khoán

Theo nghiên cứu của Liên hiệp quốc (United Nations - UN) (Bellù, 2011),

“phát triển” (development) có nghĩa là “sự kiện tạo thành một giai đoạn mới trong

một tình huống thay đổi” (event constituting a new stage in a changing situation)

hoặc quá trình thay đổi (the process of change). Nếu không đủ điều kiện, “phát

triển” được dự định ngầm là một điều tích cực hoặc mong muốn. Khi đề cập đến

một xã hội hoặc một hệ thống kinh tế xã hội, "phát triển" thường có nghĩa là cải tiến

cả trong tình hình chung của hệ thống và trong một số yếu tố cấu thành của nó. Việc

phát triển có thể xảy ra do một số hành động có chủ ý được thực hiện bởi các đại

diện đơn lẻ hoặc bởi một số cơ quan có chủ quyền để đạt được sự cải thiện, ví dụ

như chính sách phát triển và đầu tư tư nhân. Với định nghĩa mở rộng này, "phát

triển" là khái niệm đa chiều trong tự nhiên, bởi vì bất kỳ sự cải tiến nào của hệ

thống phức hợp cũng đều có thể xảy ra ở các phần khác nhau, ở các tốc độ khác

nhau và được điều khiển bởi các lực khác nhau. Ngoài ra, sự phát triển của một bộ

phận nào đó của hệ thống cũng có thể gây bất lợi cho sự phát triển của các bộ phận

khác, dẫn đến mâu thuẫn và xung đột giữa các mục tiêu. Do đó, việc đo lường sự

phát triển, nghĩa là xác định xem hệ thống có đang phát triển hay không là một vấn

đề cần được xem xét đa chiều trên nhiều khía cạnh liên quan.

“Phát triển" (development) còn được hiểu là là đủ điều kiện (qualified) và

xác định rõ (specified) theo những cách khác nhau, ví dụ như “phát triển kinh tế”

nghĩa là cải thiện cách thức tài trợ và hàng hóa và dịch vụ được sử dụng trong (hoặc

bằng) hệ thống để tạo ra hàng hóa và dịch vụ mới nhằm cung cấp khả năng tiêu thụ

và / hoặc đầu tư bổ sung cho các thành viên của hệ thống; “phát triển con người” là

20

phát triển con người làm trung tâm, nơi tập trung vào việc cải thiện các khía cạnh

khác nhau ảnh hưởng đến hạnh phúc của cá nhân và mối quan hệ của họ với xã hội

(y tế, giáo dục, quyền lợi, khả năng, trao quyền …); “phát triển bền vững” là phát

triển xem xét triển vọng dài hạn của hệ thống kinh tế - xã hội, để đảm bảo rằng

những cải thiện xảy ra trong ngắn hạn sẽ không gây bất lợi cho tình trạng tương lai

hoặc tiềm năng phát triển của hệ thống, tức là phát triển bền vững môi trường, xã

hội, tài chính và các căn cứ khác; “phát triển lãnh thổ” là phát triển một khu vực cụ

thể (không gian) có thể đạt được bởi khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội, môi

trường và thể chế cụ thể của khu vực và mối quan hệ của nó với các đối tượng bên

ngoài… (Bellù, 2011).

DESA (2013) và OECD (2018) cho rằng ba mặt của sự phát triển bao gồm:

(i) phát triển kinh tế (tăng trưởng kinh tế); (ii) phát triển xã hội (thực hiện tiến bộ,

công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm…); (iii) bảo vệ môi

trường (xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường;

phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài

nguyên thiên nhiên…). Việc phát triển cần phải hướng tới phát triển bền vững bằng

cách kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa ba mặt của sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu

hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ

tương lai (UN, 2010; IISD, 2013; EU, 2013). Mohieldin (2017) đề cập đến các giải

pháp để phát triển bền vững là (i) tránh những ý tưởng tồi tệ (ví dụ như cắt giảm

thâm hụt ngân sách bằng cách hy sinh đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, ngăn cấm xuất

khẩu …); (ii) đầu tư vào con người và tạo sự tăng trưởng toàn diện; (iii) gia tăng tiết

kiệm nội địa; (iv) thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững một cách nghiêm túc;

(v) áp dụng cách tiếp cận đa bên (muli-stakeholder approach). Theo đó, việc khuyến

khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào phát triển bền vững (DANIDA, 2016)

được thực hiện bằng cách (i) giảm thiểu rủi ro và những cản trở đầu tư bằng cách

tạo ra một môi trường hoạt động thuận lợi hơn, bao gồm cả khuôn khổ pháp lý; (ii)

chia sẻ rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư nhân bằng cách xúc tiến và thúc đẩy

đầu tư tư nhân thông qua các mô hình tài chính mới; (iii) hỗ trợ các ưu đãi dành cho

khu vực tư nhân phù hợp với các mục tiêu công; và (iv) cân bằng các quy định và

21

chính sách nhằm bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính, với sự tiếp cận các

dịch vụ tín dụng và tài chính (UN, 2013).

Xét trong bối cảnh dân số già hóa theo thời gian và gánh nặng hệ thống hưu

trí công do áp lực chi NSNN ngày càng lớn, trong xu hướng cải cách hệ thống hưu

trí liên quan đến việc tạo lập các kế hoạch hưu trí được tài trợ (WB, 1994; WB,

2008;), việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện được hiểu là việc hình thành một trụ

cột trong hệ thống hưu trí của quốc gia nhằm bổ sung hoàn thiện hệ thống hưu trí

bên cạnh hệ thống hưu trí công PAYG, góp phần cải thiện thu nhập hưu trí khi về

già, góp phần bảo đảm an sinh xã hội (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011;

OECD, 2011).

Xét về phát triển các trung gian tài chính trên TTCK (David, 2000; Claus &

Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache, Miloş & Miloş, 2013), việc phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK được hiểu là việc hình thành một nhà đầu tư tổ chức

quan trọng trên TTCK nhằm đóng góp vào sự phát triển của thị trường tài chính với

vai trò là trung gian tài chính khi (i) cung cấp cho TTCK nguồn vốn quy mô lớn,

mang tính chất ổn định, dài hạn và (ii) đồng thời nắm giữ phần lớn lượng tài sản tài

chính cũng như không ngừng phát triển với quy mô tài sản ngày một tăng trên

TTCK (Blommestein, 1997; Davis, 1998; Davis 2000; Vittas, 2000; Davis & Hu,

2005; Davis, 2005; Mishkin, 2012).

Việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK có vai trò quan trọng đối

với người lao động, đối với xã hội và nền kinh tế. Bản chất hoạt động của quỹ hưu

trí tự nguyện là người lao động và/hoặc doanh nghiệp sử dụng lao động đóng góp

vào các tài khoản hưu trí cá nhân tại quỹ hưu trí tự nguyện để quỹ thực hiện đầu tư

trên TTCK, trên cơ sở kết quả đầu tư quỹ hưu trí chi trả cho người lao động theo số

tiền đóng góp và lợi nhuận do hoạt động đầu tư trên TTCK mang lại. Theo đó, quỹ

hưu trí tự nguyện là một loại sản phẩm thương mại, một sản phẩm tài chính mà

người tham gia đóng góp tiền vào quỹ sẽ được nhận chi trả từ quỹ khi đến tuổi nghỉ

hưu. Số tiền hưu trí mà mỗi cá nhân được hưởng phụ thuộc vào tổng số tiền đóng

góp của chính mình và hiệu quả đầu tư của quỹ trên TTCK.

22

2.2.2 Tiêu chí đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị

trường chứng khoán

Trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm, quy mô tài sản của quỹ hưu trí

tự nguyện là biến số được lựa chọn và sử dụng phổ biến nhất để đánh giá sự phát

triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Còn mức độ phát triển của TTCK

thường được thể hiện thông qua hai chỉ tiêu đo lường là (i) độ sâu của TTCK được

đại diện bởi quy mô vốn hóa của TTCK so với GDP; và (ii) tính thanh khoản của

TTCK được đại diện bởi giá trị giao dịch của TTCK so với GDP (Catalan,

Impavido & Musalem, 2000; Walker & Lefort, 2002; Impavido, Musalem &

Tresselt, 2003; Davis & Hu, 2008; Raddatz & Schmukler, 2008; Hryckiewicz,

2009; Kim, 2010; Meng & Pfau, 2010; Liang & Bing, 2010; Rocholl & Niggemann,

2010; Raisa, 2012; Hu, 2012; Zandberg & Spierdijk, 2013; Sun & Hu, 2014).

Điều này có thể giải thích bởi nguyên nhân đến từ đặc điểm của quỹ hưu trí

là tập hợp tài sản được tạo ra từ các khoản đóng góp theo hợp đồng tiết kiệm của

các chương trình hưu trí. Do đó, khi quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện càng

lớn, quỹ càng có nguồn tài sản dồi dào để đầu tư tổ chức, cung ứng nguồn vốn lớn

trên TTCK. Đồng thời, các khoản đóng góp vào quỹ hưu trí thường không được

phép rút ra sớm, quỹ hưu trí luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các

tài sản tài chính, kể cả những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Ngoài

ra, mặc dù phụ thuộc lớn vào (i) các khoản đóng góp được tập hợp (Davis & Hu,

2008) nhưng quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện còn có khả năng gia tăng do chịu

ảnh hưởng bởi hai yếu tố quan trọng khác là (ii) tỷ suất sinh lời từ việc đầu tư trên

TTCK của quỹ hưu trí tự nguyện và (iii) sự thay đổi về nhân khẩu học (Zandberg &

Spierdijk, 2013).

Bên cạnh đó, tài sản quỹ hưu trí tự nguyện cũng là biến đại diện quan trong

đối với việc đánh giá hiệu quả đầu tư của các quỹ hưu trí tự nguyện, đặc biệt là sau

những tác động to lớn từ khủng hoảng tài chính thế giới gần đây. Heinz và Hinz

(2010) cũng đã cho rằng cần thiết kế một danh mục tiêu chuẩn đối sánh, trong đó

thành phần của các tiêu chuẩn này sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố như (i) các nguồn

thu nhập hưu trí khác; (ii) tuổi của cá nhân người đóng góp; (iii) tỷ lệ đóng góp; (iv)

23

tỷ lệ thay thế mục tiêu; (v) mật độ đóng góp dự kiến; (vi) loại thu nhập hưu trí trong

giai đoạn thanh toán; (vii) và sự e ngại rủi ro của các nhà hoạch định chính sách và

cá nhân người đóng góp.

Các quỹ hưu trí tự nguyện đã phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần

đây ở các nước kinh tế phát triển cũng như các nền kinh tế mới nổi (EMEs), cả về

quy mô so với GDP và so với hệ thống ngân hàng, kiểm soát số lượng tương đối lớn

về vốn và đại diện các nhà đầu tư tổ chức lớn nhất tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Theo đó, tổng tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện trong năm 2014 đã đạt tới 84%

so với GDP toàn cầu so với 54% so với GDP vào năm 2008 (Towerswatson, 2015).

Thông thường, tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện được dùng để đầu tư

vào cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ, bất động sản, tài sản nước ngoài, các công cụ

trên thị trường tiền tệ và các khoản tiền gửi. Sự phân bổ tài sản của quỹ hưu trí tự

nguyện là khác nhau ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tại 7 thị trường thu nhập hưu trí lớn

trên thế giới, các quỹ hưu trí tự nguyện có xu hướng đầu tư vào cổ phiếu và trái

phiếu với tỷ trọng tương đối lớn (Bảng 2.5).

Bảng 2.5 Sự phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện tại 7 thị trường thu

nhập hưu trí lớn nhất tính đến năm 2015.

Phân bổ tài sản của các quỹ hưu trí tự nguyện năm 2015 (%)

Quốc gia

Cổ phiếu

Trái phiếu

Khác

Tiền mặt

Australia

48%

14%

21%

17%

Canada

40%

31%

27%

2%

Japan

31%

57%

9%

3%

Netherlands

33%

52%

15%

0%

Switzerland

29%

35%

29%

7%

UK

43%

37%

17%

3%

US

47%

29%

24%

3%

Nguồn: Towerswatson (2016).

Quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện được triển khai và đại diện bởi các

biến số định lượng không những góp phần đánh giá sự phát triển của quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK mà còn giúp cho việc nghiên cứu tác động của quỹ hưu trí tự

nguyện đến sự phát triển của TTCK trở nên đo lường được và quan sát được một

cách thuận lợi hơn. Tùy vào mục tiêu nghiên cứu mà các biến số định lượng biểu

24

hiện quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện cũng được tính toán và áp dụng dưới

các hình thức đa dạng như sau:

 Tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP

Biến số này được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về quỹ hưu trí tự

nguyện. Theo đó, tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí so với GDP được

xem xét như là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua sự phát

triển của TTCK. Việc tăng trưởng của các quỹ hưu trí có tác động làm cho

TTCK hoạt động hiệu quả hơn, qua đó, góp phần tăng trưởng GDP của quốc

gia (Davis & Hu, 2005; Meng & Pfau, 2010).

 Tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với tổng tài sản tài

chính trong nền kinh tế (trong đó tổng tài sản tài chính bao gồm quy mô

vốn hóa thị trường cổ phiếu cộng với giá trị tổng trái phiếu đang lưu hành và

cộng với khối tiền M2 trong nền kinh tế).

Giá trị vốn hóa thị trường của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện thể hiện mối

tương quan mạnh mẽ của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện với TTCK thông qua

các chuyển động của giá. Do đó, việc sử dụng biến số tài sản tài chính của

quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP trong trường hợp này không phù hợp.

Chính vì vậy, tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với tổng tài

sản tài chính được sử dụng để phân tích xem việc gia tăng của khối tiết kiệm

theo hợp đồng liệu có dẫn đến một sự gia tăng nhu cầu về chứng khoán trên

thị trường vốn hay không. Đồng thời qua đó, biến số này còn thể hiện được

tầm quan trọng của khối tiết kiệm theo hợp đồng đối với tổng tài sản tài

chính trong nền kinh tế (Impavido, Musalem & Tressel, 2003).

Các nền kinh tế trên thế giới đang ngày càng dựa vào các tài khoản tiết kiệm

hưu trí cá nhân (individual pension savings accounts) để cung cấp sự thay thế thu

nhập trong thời gian tuổi già cho công dân của mình. Khi cơ cấu của các kế hoạch

hưu trí đã dần dần được chuyển đổi từ mô hình DB sang mô hình DC, trong đó việc

cung cấp thu nhập hưu trí được hậu thuẫn bởi tài sản từ quỹ hưu trí tự nguyện. Sự

thay đổi này đã được thúc đẩy bởi các Chính phủ muốn làm giảm tác động tài chính

của dân số già hóa và đa dạng hóa các nguồn thu nhập hưu trí. Một trong những kết

25

quả quan trọng là nhiều hệ thống hưu trí trên thế giới hiện đang trong quá trình cải

cách hướng tới mô hình DC, theo đó thu nhập hưu trí gắn liền với hiệu quả hoạt

động của các tài sản này, dẫn đến những người tham gia sẽ tiếp xúc với sự không

chắc chắn của thị trường đầu tư để xác định mức lợi ích mà họ sẽ nhận được (Hinz,

Antolin, & Yermo, 2010). Chính vì vậy, có thể xem quy mô tài sản của quỹ hưu trí

tự nguyện là một tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện mà

còn là sự lựa chọn quan trọng để đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK.

2.2.3 Sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán

Phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK trở thành xu thế khách quan

quan trọng và được khuyến khích phát triển trong quá trình phát triển hoạt động tài

chính của các quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới:

 Gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị

trường

Quỹ hưu trí công PAYG (Pay as You Go) là loại quỹ được vận hành theo mô

hình tài chính DB và thuộc hệ thống hưu trí không được tài trợ (public unfunded

pension system) nên phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực lao động mới gia nhập trên

thị trường lao động chính thức và rủi ro trường thọ sau khi người lao động nghỉ

hưu, điều này dẫn tới áp lực chi trả tài chính của quỹ hưu trí công PAYG. Trong

mối tương quan đó, quỹ hưu trí tự nguyện là loại quỹ thuộc hệ thống hưu trí tư nhân

được tài trợ (private funded pension system) và được vận hành theo mô hình tài

chính DC làm chuyển giao rủi ro tài chính sang cho người lao động tham gia đóng

góp vào quỹ, đồng thời chủ động hơn với vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK

trong việc tìm kiếm các cơ hội sinh lời và phân tán rủi ro theo danh mục đầu tư của

quỹ.

Bên cạnh vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của các quốc gia,

các quỹ hưu trí tự nguyện còn là thành phần quan trọng tham gia trên TTCK trong

việc tạo nguồn vốn cho những người/tổ chức có nhu cầu như các doanh nghiệp, các

hộ gia đình và Chính phủ dưới dạng các khoản đầu tư hoặc tiêu dùng (Davis, 1998;

26

Davis, 2000). Theo đó, quỹ hưu trí tự nguyện là tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm,

đóng vai trò trung gian tài chính trên TTCK, tham gia trong quá trình vận động và

phát triển của TTCK, làm cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên TTCK (Mishkin,

2012) (Bảng 2.6).

Bảng 2.6 Các loại hình trung gian tài chính.

Loại hình trung gian

Nguồn vốn

Sử dụng vốn

Tổ chức nhận tiền gửi

Ngân hàng thương mại

Tiền gửi

Các khoản cho vay doanh nghiệp và

người tiêu dùng, hợp đồng cầm cố,

TPCP, trái phiếu đô thị

Hợp đồng cầm cố

Hiệp hội tiết kiệm và cho vay

Tiền gửi

Hợp đồng cầm cố

Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ

Tiền gửi

Tín dụng tiêu dùng

Liên minh tín dụng

Tiền gửi

Tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm

Công ty bảo hiểm nhân thọ

Phí hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng cầm cố, trái phiếu công ty

Công ty bảo hiểm hỏa hoạn và tai nạn

Phí hợp đồng bảo hiểm

Trái phiếu đô thị, trái phiếu và cổ

phiếu công ty, TPCP

Quỹ hưu trí tư nhân tự nguyện, quỹ hưu

Các khoản đóng góp

Trái phiếu và cổ phiếu của các công

trí của Chính phủ

của người lao động và

ty

người sử dụng lao động

Trung gian đầu tư

Công ty tài chính

Thương phiếu, cổ phiếu,

Các khoản cho vay đối với doanh

trái phiếu

nghiệp và người tiêu dùng

Quỹ tương hỗ

Cổ phiếu

Cổ phiếu, trái phiếu

Quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ

Cổ phiếu

Các công cụ của thị trường tiền tệ

Nguồn: Mishkin (2012).

Trong vai trò nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí tự nguyện tiến hành tập

hợp và đầu tư các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động

để phục vụ cho các lợi ích khi nghỉ hưu của người lao động. Do đó, các quỹ hưu trí

tự nguyện cho phép các cá nhân tích lũy các khoản tiết kiệm của mình trong suốt

thời gian làm việc nhằm bảo đảm cho những nhu cầu tiêu dùng khi về hưu dưới

dạng chi trả một khoản tiền trọn gói, hoặc những khoản tiền cố định hàng tháng.

Dựa trên các chương trình hưu trí tự nguyện đóng góp, quỹ hưu trí tự nguyện đáp

ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường với việc (i) đem lại thu nhập và tài sản

gia tăng đều đặn qua các năm, cung cấp cho hộ gia đình nhiều loại hình tiết kiệm

27

dài hạn hơn; (ii) nâng cao nhận thức về bảo hiểm thu nhập hưu trí khi mọi người

sống lâu hơn và nhu cầu tài chính lớn hơn trong suốt giai đoạn nghỉ hưu dài hơn;

(iii) được hỗ trợ và khuyến khích phát triển khi quy định pháp luật của Nhà nước

cho phép khoản thu nhập hưu trí được miễn thuế thu nhập cho đến lúc người lao

động nghỉ hưu và thu nhập từ việc làm không còn (Blommestein, 1997).

 Phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK

Quỹ hưu trí tự nguyện có đầy đủ các đặc điểm của nhà đầu tư có tổ chức, bao

gồm: (i) tập hợp rủi ro cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ, cung cấp các giải pháp phòng

ngừa rủi ro tốt hơn cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ; (ii) lợi thế về đa dạng hóa đầu tư,

bằng cách nắm giữ nhiều loại tài sản khác nhau (cả cổ phiếu, trái phiếu và các tài

sản khác), cả tài sản trong nước và tài sản nước ngoài; (iii) thanh khoản tốt hơn,

đồng thời tăng cường thanh khoản cho thị trường; (iv) Khả năng thu nhận và xử lý

thông tin tốt hơn so với các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ trên thị trường; (v) lợi thế

quy mô nhờ lượng vốn lớn, giao dịch lớn (Bảng 2.7).

Bảng 2.7 So sánh giữa đầu tư cá nhân và đầu tư tổ chức.

Tiêu chí

Đầu tư cá nhân

Đầu tư tổ chức

Cơ hội đầu tư

Thấp do vốn nhỏ

Cao, phụ thuộc vào quy mô quỹ

và tiềm lực tài chính

Hạn chế, độ tin cậy không cao Phong phú và có độ tin cậy cao

Thu thập thông tin

Nhà đầu tư quản lý trực tiếp

Ủy thác qua công ty quản lý quỹ

Quản lý vốn

Hạn chế

Phong phú

Danh mục đầu tư

Tương đối cao

Thấp

Rủi ro

Tính chuyên nghiệp

Thấp

Cao

(trình độ, kinh nghiệm)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

Với đặc thù dựa trên các chương trình hưu trí được thiết kế đa dạng theo

hình thức hợp đồng tiết kiệm tự nguyện, do đó sẽ có sự tương đồng về hình thức và

tính năng của sản phẩm giữa các đơn vị cung cấp bảo hiểm. Do đó, nhằm tạo ra ưu

thế cạnh tranh của quỹ hưu trí tự nguyện, việc tạo ra thêm sản phẩm mới, đa dạng

hóa các sản phẩm và dịch vụ là điều bắt buộc để thu hút và gia tăng lượng tài sản

được tập hợp từ nguồn tiết kiệm theo hợp đồng trong các chương trình hưu trí.

Đồng thời, để có thể đứng vững trong cạnh tranh, quỹ hưu trí tự nguyện cần được

28

điều hành và hoạt động hiệu quả, phát triển nghiệp vụ quản lý gia sản, hướng tới

mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của quỹ, thông qua đó gia tăng tỷ lệ thay thế của

thu nhập hưu trí của các cá nhân tham gia đóng góp so với thu nhập khi họ còn làm

việc.

 Cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK

Quỹ hưu trí công PAYG theo cơ chế thực thu thực chi nên hầu như không có

nguồn tích trữ ổn định để đầu tư dài hạn đồng, thời do tính chất bảo đảm an sinh xã

hội nên cũng hạn chế bởi các quy định nghiêm ngặt trong thực hiện danh mục đầu

tư đa dạng bao gồm cả các tài sản có tính rủi ro cao so với TPCP. Mặc dù quy định

về đầu tư đối với quỹ hưu trí tự nguyện vẫn còn hạn chế nhằm để bảo đảm quyền

lợi tối thiếu của thành viên tham gia đóng góp, quỹ hưu trí tự nguyện cũng đã và

đang đóng góp nguồn cung vốn lớn và dài hạn thông qua việc đầu tư vào dự án

trong nước và cả nước ngoài, qua đó gia tăng lợi ích từ đầu tư của quỹ.

Trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức, quỹ hưu trí tự nguyện có động lực để đầu

tư nhiều hơn vào các tài sản kém thanh khoản (illiquidity) và dài hạn nhưng mang

lại lợi tức cao hơn, và do đó cung cấp một nguồn cung vốn lâu dài của quỹ vào các

thị trường vốn thông qua việc tích lũy tài sản và tính chất dài hạn của các nghĩa vụ

nợ, hướng tới đổi mới tài chính, cải tiến trong các quy định về tài chính và quản trị

doanh nghiệp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, từ đó cải thiện tổng thể hiệu

quả thị trường tài chính và minh bạch, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong

dài hạn (Davis, 1998; Davis 2000; Davis & Hu, 2005; Davis, 2005).

 Tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK

Các quỹ hưu trí tự nguyện góp phần thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường

bằng cách tác động vào cấu trúc của TTCK nhờ nhu cầu về thanh khoản và những

giao dịch quy mô lớn. Quỹ hưu trí tự nguyện còn tạo thanh khoản cho TTCK thông

qua các hoạt động giao dịch thường xuyên với khối lượng lớn và phòng ngừa rủi ro

của mình, từ đó giúp tăng cường tính hiệu quả của TTCK, giảm chi phí vốn và giảm

tính phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng trong việc tạo thanh khoản cho TTCK

(Davis, 1998; Davis, 2000).

29

Ở góc độ tài chính cộng sinh (symbiotic finance), Vittas (2000) thừa nhận

vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện trong việc tương hỗ và tăng cường sự hiện diện

của nhiều yếu tố quan trọng của hệ thống tài chính hiện đại. Tuy nhiên, để phát triển

thị trường vốn cũng cần phải phát triển cả các nguồn lực khác, chẳng hạn như việc

ứng dụng những tiến bộ công nghệ, việc xem xét bãi bỏ quy định hạn chế đầu tư,

việc khuyến khích cổ phần hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đặc biệt là hội nhập

kinh tế khu vực cũng như toàn cầu.

2.3 Khung lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán

2.3.1 Khung lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên

Lý thuyết về

Lý thuyết về thực hiện

Lý thuyết về các bên

Lý thuyết về phát triển các

phân bổ tài sản

quyết định tài chính (Lý

liên quan đến hoạt

trung gian tài chính trên thị

dài hạn

thuyết tài chính hành vi)

trường chứng khoán

động của tổ chức

Tăng trưởng kinh tế

Sự phát triển của thị trường chứng khoán

Sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán

Hệ thống hưu trí công

Vai trò của hệ thống hưu trí đa trụ cột

Hệ thống hưu trí được tài trợ

Nguyên nhân dẫn đến xu hướng cải cách hưu trí - Tình trạng già hóa dân số - Gánh nặng ngân sách nhà nước - Bảo đảm an sinh xã hội

Hệ thống tài khoản hưu trí cá nhân

thị trường chứng khoán

Hình 2.1 Khung lý thuyết liên quan đến phát triển quỹ hưu trí trên thị trường

chứng khoán.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

30

Nghiên cứu xem xét phát triển quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò là trung gian

tài chính trên TTCK nhằm phát triển TTCK trong xu hướng cải cách hệ thống hưu

trí đa trụ cột trước bối cảnh dân số già hóa.

Nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK được thực hiện

dựa trên việc tiếp cận các lý thuyết về (i) phát triển các trung gian tài chính trên

TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache, Miloş &

Miloş, 2013); (ii) lý thuyết về các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức (Phillips

& Reichart, 2000; Freeman, Wick & Parmar, 2004; Buchholz, 2004); (iii) lý thuyết

về thực hiện quyết định tài chính (Franzen, 2010); (iv) lý thuyết về phân bổ tài sản

dài hạn (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).

 Lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên thị trường chứng

khoán

Đây là là căn cứ lập luận đối với sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK (David, 2000; Claus & Grimes, 2003; Andrieş, 2009; Enache,

Miloş & Miloş, 2013).

Trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế, vốn đóng vai trò là một nhân tố quan

trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Và do đó, việc gia tăng mức độ trang bị vốn là

cần thiết bên cạnh việc gia tăng năng suất lao động trong mỗi quốc gia. Theo thời

gian, sự hình thành và phát triển của TTCK trong cơ cấu hệ thống tài chính của nền

kinh tế cũng đã góp phần cung cấp và phân bổ vốn một cách có hiệu quả (Hinz et

al., 1996; Caporale, Howells & Soliman, 2004; Adjasi & Biekpe, 2006; Boubakari,

2010). Đóng góp trong sự tăng trưởng của TTCK, không thể không kể đến vai trò

và sự phát triển của các trung gian tài chính trên TTCK.

Lý thuyết về phát triển các trung gian tài chính trên TTCK được tiếp cận dựa

vào ba cách sau: (i) Cách tiếp cận dựa vào chi phí giao dịch (Benston & Smith,

1976; Fama, 1980); (ii) Cách tiếp cận dựa vào thông tin bất cân xứng (Akerlof,

1970; Leland & Pyle, 1977; Diamond, 1984) giữa chủ thể cần vốn và các nhà tài trợ

trên thị trường; (iii) Cách tiếp cận thứ ba dựa vào phương pháp điều tiết quy định

của việc tạo ra tiền, tiết kiệm và tài trợ cho nền kinh tế, từ đó làm ảnh hưởng đến

31

tính thanh khoản và khả năng thanh toán của các trung gian tài chính (Guttentag &

Lindsay, 1968; Merton, 1995; Andrieş, 2009).

Khác với hai cách tiếp cận truyền thống về phát triển các trung gian tài chính

trên TTCK góp phần làm giảm thiểu chi phí giao dịch và thông tin bất cân xứng trên

thị trường (Claus & Grimes, 2003), cách tiếp cận thứ ba cho thấy các trung gian tài

chính trên TTCK đóng vai trò là các nhà đầu tư tổ chức (instistutional investors) với

các ưu điểm nổi trội trong hoạt động đầu tư tổ chức so với đầu tư cá nhân về trình

độ kiến thức, quy mô vốn, mức độ chấp nhận rủi ro, khả năng tiếp cận thông tin

cũng như cơ hội đầu tư khi tham gia đầu tư trên TTCK.

Theo cách tiếp cận thứ ba, các quỹ hưu trí tự nguyện (private voluntary

funded pension funds) là các trung gian tài chính trên TTCK và góp phần (i) gia

tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường; (ii) phát triển

cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK; (iii) cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn

trên TTCK; (iv) tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK

(Blommestein, 1997; Davis, 1998; Davis, 2000; Vittas, 2000; Davis & Hu, 2005;

Mishkin, 2012).

 Lý thuyết về các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức

Lý thuyết này được sử dụng để xem xét sự phát triển của quỹ hưu trí trong

môi trường hoạt động, nhất là sự lựa chọn từ phía cá nhân (người tham gia đóng

góp) và các yếu tố kiểm soát đóng vai trò là các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK từ môi trường vĩ mô được phân tích và tổng hợp theo mô hình

PESTLIED (Political, Economic, Sociological, Technological, Legal, International,

Environmental, Demographic factors).

Freeman, Wick & Parmar (2004) nêu rõ các bên liên quan là các nhóm và cá

nhân được hưởng lợi ích hoặc bị tổn hại, và những quyền của họ bị vi phạm hoặc

tôn trọng bởi các hành động của công ty. Các bên liên quan bao gồm cổ đông, chủ

nợ, nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, và cộng đồng nói chung. Đề xuất chính

của lý thuyết các bên liên quan là các tổ chức doanh nghiệp có trách nhiệm bảo đảm

rằng hành động của họ đáp ứng được mong đợi của tất cả các bên liên quan. Quản

lý không chỉ nên xem xét các cổ đông của mình trong quá trình ra quyết định, mà

32

còn bất cứ ai bị ảnh hưởng bởi các quyết định kinh doanh. Trái ngược với quan

điểm cổ điển, quan điểm của các bên liên quan cho rằng “mục tiêu của bất kỳ công

ty nào là hoặc nên là sự phát triển mạnh mẽ của công ty và tất cả các bên liên quan

chính”.

Heinz và Hinz (2010) khi đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ hưu trí tự

nguyện đã cho thấy vai trò quan trọng của Chính phủ và môi trường hoạt động của

các quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, các cơ chế thị trường hiện đang tập trung quá

nhiều vào lợi nhuận ngắn hạn trong khi điểm mấu chốt của vấn đề là cần phải tìm

được sự cân bằng tốt hơn giữa vai trò của thị trường và vai trò của Chính phủ trong

việc nâng cao hiệu quả của các quỹ hưu trí cũng như giảm nguy cơ thu nhập khi

nghỉ hưu không đủ do phân bổ sai tài sản hưu trí của cá nhân tham gia đóng góp.

Rooij, Kool và Prast (2007) quan tâm đến vai trò của các cá nhân tham gia

đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, sự lựa chọn đầu tư từ phía cá nhân

tham gia đóng góp sẽ quyết định sự tham gia vào chương trình hưu trí theo mô hình

tài chính DC cũng như sự tự do lựa chọn danh mục đầu tư và sở thích rõ ràng về

khẩu vị rủi ro của họ đối với các khoản đầu tư dựa trên tài sản đóng góp vào quỹ

hưu trí tự nguyện. Byrne (2007) cho rằng các cá nhân tham gia đóng góp có khả

năng tính toán được nhu cầu tiết kiệm của mình thường là những người có hiểu biết

về kiến thức đầu tư hơn và chủ động hơn trong việc rà soát và đánh giá các khoản

đầu tư của mình.

Tuy nhiên, các nhà phê bình lý thuyết của các bên liên quan lập luận rằng

những thiếu sót của lý thuyết này là nó bao gồm các bên liên quan không phải là

con người như môi trường tự nhiên và cả những người vắng mặt như các thế hệ

tương lai hoặc các nạn nhân tiềm ẩn. Phillips và Reichart (2000) cho rằng chỉ có

con người mới có thể được coi là những người có liên quan đến tổ chức và chỉ trích

những nỗ lực nhằm xem xét môi trường tự nhiên như là một bên liên quan đến hoạt

động của tổ chức. Việc xem xét môi trường tự nhiên như một bên liên quan thật sự

khó khăn do phần lớn các định nghĩa của các bên liên quan thường coi chúng như

các nhóm hoặc các cá nhân, do đó loại trừ môi trường tự nhiên theo định nghĩa vì

33

nó không phải là một nhóm người hay cộng đồng như là nhân viên hoặc người tiêu

dùng (Buchholz, 2004).

Chính vì vậy, trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK, các yếu tố liên quan đến môi trường vĩ mô cũng được

xem xét, lựa chọn sao cho có thể lượng hóa và cụ thể hóa để đánh giá tác động của

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng trưởng của TTCK, chẳng hạn như

(i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn trên thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP);

(iii) GDP bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v) tỷ lệ người già trên 100

người trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem & Tresselt, 2003;

Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012).

 Lý thuyết về thực hiện quyết định tài chính trong điều kiện rủi ro

Lý thuyết này cho thấy trong vai trò là nhà đầu tư tổ chức, quỹ hưu trí tự

nguyện (i) có sự tận dụng về lợi thế tiếp cận thông tin để có thể đưa ra các quyết

định hợp lý về các khoản tiết kiệm hưu trí so với nhà đầu tư cá nhân; (ii) tạo nên

tính kinh tế về mặt quy mô và chia sẻ rủi ro; (iii) giảm thiểu những sai lệch tâm lý

lựa chọn đầu tư của cá nhân trong điều kiện rủi ro (Kahneman & Tversky, 1979;

Gordon, Mitchell & Twinney, 1997; Thaler & Benartzi, 2004; Franzen, 2010). Xét

về góc độ sự lựa chọn của các cá nhân, hai đặc điểm của cá nhân tham gia đóng

góp thông qua sự lựa chọn của mình ảnh hưởng đến phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK thường được xem xét đến chính là (i) mức độ hiểu biết về tài

chính và thái độ với rủi ro; (ii) sở thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập

hưu trí. Đối với những cá nhân đã tham gia vào chương trình hưu trí, những nội

dung được các nghiên cứu quan tâm thêm chính là các thông tin cơ bản về chương

trình hưu trí mà cá nhân đó tham gia và quyết định đầu tư để nhằm củng cố thêm

hai đặc trưng trên của cá nhân (Rooij, Kool & Prast, 2007; Byrne, 2007; Njuguna

& Otsola, 2011; Katuse et al., 2013).

Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện là điều có thể giải thích được do

nhu cầu về việc cung cấp thu nhập hưu trí ngày càng tăng theo tình trạng già hóa

của dân số. Davis (2000) đã dự kiến sẽ có sự tăng mạnh về tỷ lệ dân số từ 65 tuổi

trở lên ở các nền kinh tế thuộc khối OECD, theo đó sự gia tăng này phần lớn là kết

34

quả của sự suy giảm khả năng sinh sản xuống dưới mức thay thế ở hầu hết các nước

thuộc Châu Âu, mặc dù nó cũng bắt nguồn từ sự gia tăng tuổi thọ trung bình và mức

độ di cư thuần thấp. Với tuổi nghỉ hưu không thay đổi, sự thay đổi nhân khẩu học

như vậy sẽ tự nhiên dẫn đến sự gia tăng phạm vi chuyển đổi trong hệ thống hưu trí

PAYG. Bên cạnh những cắt giảm đơn giản về các lợi ích trợ cấp an sinh xã hội, việc

gia tăng huy động nguồn tài trợ cho thu nhập hưu trí là một khía cạnh quan trọng

của phản ứng chính sách. Điều này rõ ràng sẽ làm tăng đầu tư thông qua các quỹ

hưu trí hơn là trong tiền gửi ngân hàng. Ngay cả trước khi tiến hành cải cách hưu

trí, các cá nhân ở các nước có hệ thống PAYG hào phóng cũng đã và đang tăng

cường tiết kiệm dài hạn thông qua các quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm nhân

thọ do các tiên đoán về tương lai không chắc chắn và do đó đã thúc đẩy thể chế hoá

thị trường vốn với sự phát triển của các quỹ hưu trí tự nguyện.

Rooij, Kool và Prast (2007) điều tra các ưu đãi thu nhập hưu trí và ảnh

hưởng của sự tự do lựa chọn cá nhân đối với việc chấp nhận mức độ rủi ro trong

một cuộc khảo sát đại diện cho khoảng 1.000 công dân Netherlands. Trong đó, thái

độ đối với các chương trình hưu trí và các lựa chọn danh mục đầu tư được giải thích

theo các đặc điểm cá nhân. Kết quả của việc điều tra cho thấy thái độ của các cá

nhân hướng về tâm lý e ngại rủi ro và tâm lý e ngại rủi ro này chiếm tỷ trọng cao

nhất trong nội dung được khảo sát về các vấn đề liên quan đến thu nhập hưu trí. Đại

đa số người trả lời ủng hộ việc tiết kiệm bắt buộc để dành cho lúc nghỉ hưu và ủng

hộ một hệ thống hưu trí theo mô hình DB. Nếu được cung cấp một hệ thống hưu trí

với sự kết hợp của mô hình DC, phần lớn những người trả lời muốn có một khoản

thu nhập hưu trí được bảo đảm từ 70% trở lên thu nhập lao động thuần của họ. Khả

năng chịu rủi ro tự đánh giá và chuyên môn tài chính là các biến giải thích quan

trọng cho thái độ của cá nhân đối với hệ thống hưu trí. Những người tham gia thực

hiện khảo sát thì có thái độ bảo thủ ở mức trung bình trong chính sách đầu tư của

họ. Nếu được trao quyền tự chủ của nhà đầu tư, họ sẵn sàng thay đổi cấu thành của

danh mục tiết kiệm hưu trí để đáp ứng với (i) tình hình tài chính cá nhân, (ii) điều

kiện kinh tế nói chung và (iii) kỳ vọng của thị trường tài chính. Người tham gia

khảo sát có thể trả lời không thống nhất với sở thích của họ, đặc biệt là những người

35

trả lời đã chọn một danh mục tương đối an toàn (ít cổ phiếu, nhiều trái phiếu hơn)

dường như lại thích các dòng thu nhập hưu trí của danh mục đầu tư ở mức trung vị

để lựa chọn cho danh mục đầu tư của họ. Cuối cùng, trung bình số người trả lời cho

rằng mình không đủ sâu sắc về tài chính nhưng lại là những người không muốn

kiểm soát đầu tư tiết kiệm cho việc nghỉ hưu nếu họ được cung cấp khả năng tăng

cường chuyên môn.

Byrne (2007) phân tích dữ liệu từ một cuộc khảo sát các thành viên của một

chương trình hưu trí theo mô hình DC tại The United Kingdom (UK) để khám phá

thái độ và kiến thức của người lao động trước quyết định tiết kiệm hưu trí và quyết

định đầu tư. Kết quả cho thấy tính nhất quán với kinh tế học hành vi, trong đó cho

thấy nhiều người lao động có mối quan tâm hạn chế đối với các hợp đồng thỏa

thuận của mình. Không phải tất cả người lao động đều nhận được lời khuyên về thu

nhập hưu trí, nhưng những người có nhiều khả năng tính toán được nhu cầu tiết

kiệm của họ thì có mức kiến thức đầu tư cao hơn và chủ động rà soát đầu tư của họ

hơn so với những người không có.

 Lý thuyết về phân bổ tài sản dài hạn

Lý thuyết này cung cấp cái nhìn sâu sắc cho việc thiết kế các lựa chọn đầu tư

trong chương trình hưu trí theo mô hình DC (defined contribution) (Campbell &

Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002; Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010;

Falkenheim, 2015).

Việc phân phối của cải khi nghỉ hưu được tích lũy theo các kiểu quỹ hưu trí

khác nhau trong chương trình hưu trí theo mô hình DC là mối quan tâm của các nhà

tài trợ (sponsors), người tham gia (plan participants), cơ quan quản lý (regulators)

và các nhà hoạch định chính sách (policy makers). Sự phân bố này phụ thuộc vào

hai yếu tố chính là (i) thông tin về thu nhập trong suốt vòng đời của người tham gia

kế hoạch giúp xác định các khoản đóng góp vào chương trình; (ii) rủi ro và lợi

nhuận của các loại tài sản trong quỹ.

Trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển, thiết kế quỹ hưu trí tự

nguyện cần giải quyết ba vấn đề đặc biệt có liên quan mật thiết đến yếu tố lạm phát

và tính ổn định của kinh tế vĩ mô, bao gồm (i) thành phần của danh mục đầu tư vào

36

các tài sản đem lại thu nhập cố định (fixed - incomes porfolios); (ii) thành phần của

danh mục cổ phần (equity porfolios), và (iii) chiến lược phòng vệ đối với những

biến động liên quan đến tiền tệ (currency hedging) (Valdés-Prieto, 2008; Viceira,

2010; Falkenheim, 2015).

Vấn đề thứ nhất, hầu hết các lựa chọn đầu tư trong chương trình hưu trí theo

mô hình DC tại các nền kinh tế đang phát triển đều hoạt động tuân theo những quy

định ràng buộc chặt chẽ về luật pháp, nên có xu hướng đầu tư với tỷ trọng cao vào

các tài sản đem lại thu nhập cố định. Hơn nữa, sự phân bổ đầu tư cho các tài sản

đem thu nhập cố định này có xu hướng tập trung cao vào TPCP trong nước và các

công cụ tiền mặt (TPCP ngắn hạn, các công cụ trên thị trường tiền tệ và tiền gửi).

Sự phân bổ đầu tư cao vào các công cụ tiền mặt, TPCP có thể đến từ hai yếu tố

chính là (i) các công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định thường là những tài

sản an toàn nhất bắt nguồn từ sự khôn ngoan thông thường trong đầu tư; (ii) việc

xem xét sự tài trợ cho vấn đề thâm hụt tài chính cũng góp phần giải thích cho quyết

định phân bổ đầu tư vào TPCP trong nước. Tuy nhiên, lý thuyết hiện đại về phân bổ

tài sản dài hạn cho thấy thực tiễn chung về việc yêu cầu các quỹ hưu trí tự nguyện

nắm giữ số lượng lớn các TPCP dài hạn trong nước và các khoản tiền gửi hoặc các

công cụ tương tự tiền mặt lại không có lợi nhất cho người tham gia chương trình

hưu trí và cần phải được xem xét lại, ngay cả khi mục tiêu cuối cùng là cung cấp

cho những người tham gia chương trình hưu trí những lựa chọn đầu tư an toàn. Các

công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định không phải là tài sản an toàn cho các

nhà đầu tư dài hạn và việc đầu tư và các loại tài sản này còn được xem như là chiến

lược mạo hiểm vì chúng chịu rủi ro tái đầu tư do thời hạn đáo hạn của chúng là

ngắn so với đặc thù mang tính chất dài hạn của mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự

nguyện cũng như sự tìm kiếm sự đầu tư dài hạn của hầu hết những người tham gia

chương trình hưu trí. Trái phiếu dài hạn bảo vệ các nhà đầu tư khỏi nguy cơ tái đầu

tư, bởi vì sự sụt giảm lãi suất được bù đắp bằng việc tăng vốn (capital gain) trong

giá trị trái phiếu. Nhưng TPCP dài hạn thường là các công cụ có các khoản lãi

cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá được cố định theo giá trị danh nghĩa. Chính

điều này làm cho trái phiếu dài hạn trở thành những khoản đầu tư rủi ro đối với các

37

nhà đầu tư dài hạn bởi vì rủi ro lạm phát trong dài hạn (nếu lạm phát kỳ vọng trong

tương lai thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát kỳ vọng đã được tính vào giá trái phiếu tại

thời điểm mua lại, sức mua của các khoản lãi cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá

của trái phiếu sẽ bị xói mòn, và việc đầu tư vào trái phiếu cũng đối mặt với các

khoản lỗ vốn) (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002).

Vấn đề thứ hai, ở hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, các quy định về

quỹ hưu trí tự nguyện với các chương trình hưu trí theo mô hình DC bị giới hạn

việc đầu tư vào cổ phiếu, đặc biệt là nguồn vốn cổ phần quốc tế (international

equity). Mặc dù việc hạn chế nắm giữ cổ phần mang hàm ý về các giới hạn mức độ

rủi ro tối đa được thiết lập trong chương trình hưu trí bởi cơ quan quản lý nhưng

việc hạn chế tiếp xúc nguồn vốn cổ phần quốc tế có thể không có lợi nhất cho người

tham gia chương trình hưu trí. Lợi ích của đa dạng hoá vốn cổ phần quốc tế nhiều

khả năng sẽ còn lớn hơn đối với các nhà đầu tư có trụ sở ở tại các nền kinh tế đang

phát triển. Các nền kinh tế đang phát triển thường có đặc điểm là các TTCK quốc

gia nhỏ có rủi ro đặc thù của quốc gia. Ví dụ, nhiều nền kinh tế đang phát triển

không có lĩnh vực sản xuất đa dạng, thay vào đó lại tập trung nhiều vào các ngành

công nghiệp hoặc dịch vụ cụ thể. Rủi ro này có thể được cải thiện thông qua sự đa

dạng hóa mang tính quốc tế. Việc phân bổ vốn cổ phần trong các lựa chọn đầu tư

vào chương trình theo mô hình DC tại các nền kinh tế đang phát triển cần được tổ

chức dưới dạng các danh mục đa dạng quốc tế, với các đối sánh nhằm phản ánh

hiệu quả của danh mục TTCK thế giới hơn là TTCK trong nước.

Vấn đề thứ ba, một quyết định quan trọng đối với các nhà đầu tư vốn cổ phần

và trái phiếu đa dạng trên quy mô quốc tế là quyết định mức phòng ngừa rủi ro tiền

tệ tiềm ẩn trong danh mục đầu tư của họ. Các nhà đầu tư tổ chức ở các nền kinh tế

phát triển thường thực hiện việc phòng ngừa đầy đủ để đối phó với rủi ro tiền tệ khi

đầu tư vào các cổ phiếu quốc tế.

2.3.2 Các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài

Bên cạnh các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự

nguyện với tổng tiết kiệm trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự

nguyện với tăng trưởng kinh tế nội địa, nội dung sau đây của đề tài chỉ tập trung

38

tổng hợp và tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ của việc phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự tăng trưởng của thị trường vốn. Trong đó, các tác

động của các quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển thị trường vốn không những

được xem xét ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển và theo trình

độ phát triển của thị trường tài chính (PHỤ LỤC 3).

Bảng 2.8 Tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quỹ

hưu trí tự nguyện và TTCK giai đoạn 2000 - 2015.

Tác giả

Phạm vi nghiên cứu và nguồn dữ

Phương pháp

Kết quả nghiên cứu

liệu

ước lượng

Catalan,

14 quốc gia OECD và 5 thị trường

Granger-

Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết

Impavido

đang phát triển.

causality

test

kiệm bao gồm các quỹ hưu trí tự

1960-1997/World

Bank,

dành cho dữ liệu

nguyện có mối quan hệ nhân quả

Musalem

Institutional

Investor data

set

bảng động

chính yếu đến sự phát triển của

(2000).

&WDI.

TTCK.

Impavido

Dữ liệu bảng của 26 quốc gia (21

OLS và error

Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết

quốc gia OECD và 5 quốc gia đang

component 2SLS

kiệm là công cụ quan trọng trong

Musalem

phát triển).

việc gia tăng cung các quỹ dài hạn

(2000).

1960 - 2007/IFS, WDI, OECD,

cho nền kinh tế. Sự phát triển của

Datastream và National Sources.

nhà đầu tư tổ chức trực tiếp này có

tác động tích cực làm gia tăng quy

mô vốn hóa thị trường, góp phần

gián tiếp làm gia tăng thanh khoản

thị trường thông qua giá trị cổ phiếu

được giao dịch.

Walker

33 thị trường mới nổi.

OLS, fixed effect

Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện có

và Lefort

1981 - 2000/IFC & emerging

và GLS pooled

tác động tích cực đến thị trường vốn

(2002).

country database.

estimator

thông qua việc làm giảm chi phí sử

dụng vốn, giảm biến động giá chứng

khoán và gia tăng quy mô giao dịch

chứng khoán, góp phần gián tiếp đến

sự sự tăng trưởng kinh tế và năng

suất của nền kinh tế.

Impavido

Dữ liệu bảng của 32 quốc gia phát

GMM sai phân

Các tổ chức tập hợp hợp đồng tiết

triển và đang phát triển.

một bước dành

kiệm có tác động tích cực đáng kể

,

Musalem

1998 - 2002/WDI, IMF Financial

cho dữ liệu bảng

đến sự phát triển của TTCK (cổ

Statistics & Bank for International

động

phiếu lẫn trái phiếu). Khi tỷ trọng

Tresselt

Settlement for bond market data.

khối tiết kiệm theo hợp đồng trong

39

(2003).

tổng tài sản tài chính của nền kinh tế

tăng 1% sẽ dẫn đến sự gia tăng

1,89% của quy mô vốn hóa TTCK.

Việc gia tăng tài sản của quỹ hưu trí

tự nguyện liên quan đến tài sản tài

chính trong nước có tác động tích

cực đến độ sâu và tính thanh khoản

của TTCK, tuy nhiên tác động này

thể hiện rõ nét ở các quốc gia có hệ

thống tài chính phát triển.

Davis và

Dữ liệu bảng không cân bằng của

Dynamic OLS,

Tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tác

Hu

38 quốc gia phát triển và thị trường

co-integration

động gián tiếp đến tăng trưởng kinh

(2008).

mới nổi trong giai đoạn 1980 đến

test

tế thông qua sự phát triển của thị

2003.

trường vốn ở cả các quốc gia OECD

OECD, FIAP, WDI & Various

và EMEs. Tác động này mạnh mẽ

National Sources

hơn ở EMEs hơn là ở các quốc gia

OECD.

Raddatz

Chile.

Tiếp cận

theo

Các chiến lược đầu tư của quỹ hưu trí

1995 - 2005/Superintendency of

hướng phân tích

tự nguyện quyết định cấp độ phát

Schmukl

PF Administrators of Chile.

kinh tế vi mô của

triển của thị trường vốn, tồn tại mối

er (2008).

Lakonishok,

quan hệ hai chiều giữa quỹ hưu trí tự

Shleifer

&

nguyện và sự phát triển của thị

Vishny (1992).

trường vốn.

Hryckiew

Dữ liệu bảng của 8 nước đang phát

GMM sai phân

Sự phát triển của các nhà đầu tư tổ

icz

triển thuộc Trung và Đông Âu.

một bước dành

chức có tác động mạnh mẽ và đáng

(2009).

1995 - 2006/WDI & Bank for

cho dữ liệu bảng

kể đến dự phát triển của TTCK, giảm

International settlement for bond

động

chi phí quản trị doanh nghiệp và có

markets.

tác động tích cực đến quy mô vốn

hóa TTCK.Việc cải cách hưu trí có

đóng góp đáng kể đến sự phát triển

của các nhà đầu tư tổ chức và sự phát

triển của TTCK.

Kim

16 quốc gia OECD.

GMM sai phân

Sự phát triển của quỹ hưu trí tự

(2010).

1991 - 2003/WDI & OECD.

bậc nhất dành

nguyện có tác động một chiều đến

cho dữ liệu bảng

đầu tư dài hạn và sự phát triển của thị

động

trường vốn với các điều kiện tiên

quyết về quy mô và thể chế áp dụng

đối với quỹ hưu trí tự nguyện.

Meng và Dữ liệu bảng không cân bằng của Dùng cả GMM Sự phát triển của quỹ hưu trí tự

40

Pfau

32 quốc gia (các nước phát triển và

sai phân

bậc

nguyện có ảnh hưởng đến sự phát

(2010).

thị trường mới nổi).

nhất và bias-

triển của thị trrường vốn của các

1960–2002/WDI, OECD,

IMF,

corrected LSDV

quốc gia có thị trường vốn đã phát

MSCI Stock Index & National

estimator

dành

triển hoàn thiện. Tài sản quỹ hưu trí

Sources.

cho dữ liệu bảng

tự nguyện có tác động tích cực đến

động để so sánh

chiều sâu và tính thanh khoản của

kết quả

TTCK.

Granger-

Sự tăng trưởng đầu tư của quỹ hưu trí

Liang và

UK.

Bing

1970

-

2008/U.K. Statistics

causality test

tự nguyện và độ sâu của sự phát triển

(2010).

Database &WDI.

thị trường tài chính có tác động tích

cực qua lại lẫn nhau.

Rocholl

Dữ liệu bảng của 57 quốc gia.

SURE và co-

Sự tăng trưởng quỹ hưu trí tự nguyện

1976 - 2007/WDI & OECD Private

integration

hỗ trợ tích cực đối với sự tăng trưởng

Niggema

Pension Outlook.

analysis

của TTCK (cổ phiếu và trái phiếu),

nn (2010)

(trong đó bao

tuy nhiên có hạn chế đối với thị

gồm GLS)

trường trái phiếu ở các nước OECD.

Raisa

15 quốc gia thành viên EU.

OLS và EGLS

Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự

(2012)

1994 - 2011/WDI, OECD, WB,

nguyện có mối liên hệ tích cực đến

Datastream, Eurostat, ECB and

sự phát triển của thị trường vốn tại

Heritage, Country Overall Score.

mức ý nghĩa 10%.

Hu

10 nền kinh tế thuộc Châu Á và

The panel error

Mối quan hệ tích cực có ý nghĩa

(2012)

Thái Bình Dương (Australia; the

correction model

thống kê giữa tăng trưởng tài sản hưu

PRC; Hong Kong, China; India;

(PECM).

trí và sự phát triển của thị trường tài

the Republic of Korea; Malaysia;

chính và thị trường vốn. Ý nghĩa

New Zealand; Pakistan; Singapore;

chính sách chính là các Chính phủ ở

Thailand)

Châu Á cần tiếp tục và/hoặc cải cách

2001 - 2010

hưu trí mang lại những tác động có

OECD Global Pension Statistic;

lợi cho thị trường tài chính.

World Development Database;

Financial

Structure

database;

World Development Indicators.

Zandberg

Dữ liệu bảng của 58 quốc gia

Bias-corrected

Lợi nhuận từ việc đầu tư của quỹ hưu

thuộc OECD và không

thuộc

LSDV estimator

trí tự nguyện trên thị trường vốn và

Spierdijk

OECD từ 2001 - 2008.

những thay đổi về nhân khẩu học là

(2013).

WDI, OECD; Barclays Capital

các yếu tố làm gia tăng tài sản quỹ

Global Aggregate Bond Index &

hưu trí tự nguyện và tác động đến

MSCI.

tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia

thuộc OECD hay không

thuộc

OECD.

41

Sun

Tổng cộng 55 quốc gia và khu vực

OLS

(dữ

liệu

Sự gia tăng giá trị của các quỹ hưu trí

Hu

qua các dữ liệu chéo trong năm

chéo), GLS (dữ

không những cung cấp nhiều vốn

(2014).

2002, dữ liệu bảng từ 2001 - 2008

liệu bảng), co-

hơn cho thị trường tài chính mà còn

và chuỗi thời gian từ 1981 - 2009.

integration

tạo ra sự đổi mới trong các sản phẩm

The Heritage Foundation, Penn

error correction,

tài chính, cải thiện năng lực quản trị

World

Table

6.1, OECD,

VAR

(dữ

liệu

doanh nghiệp cũng như hệ thống

International Federation of Pension

chuỗi thời gian)

quản lý và giám sát.

Management, IMF.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

Qua bảng 2.8 cho thấy hầu hết các kết luận đều cho thấy một sự đồng thuận

về ý nghĩa và vai trò tích cực của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của thị

trường vốn dù cho các tác giả sử dụng các mô hình định lượng khác nhau nhằm tìm

kiếm phương pháp ước lượng đáng tin cậy và khoảng thời gian các bộ dữ liệu khác

nhau. Tuy nhiên, vấn đề mà các nghiên cứu thực nghiệm gặp phải đó là sự hạn chế

về số lượng các biến quan sát, cụ thể là khoảng thời gian quan sát sẵn có chưa đủ

lâu dài. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên đều tập trung vào các quốc gia phát triển

thuộc khối OECD cũng như các thị trường mới nổi, trong khi đó theo Hu (2012) thì

các nghiên cứu về thị trường hưu trí thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương còn

rất hiếm trong các tài liệu hiện có.

Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều cho thấy có sự tác

động tích cực của phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường

tài chính, gián tiếp góp phần tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu này cũng đã tạo

nên những ảnh hưởng trong những thập kỷ gần đây, truyền cảm hứng trong các

khuyến nghị của các tổ chức quốc tế như WB, OECD và trong thực tế cải cách hưu

trí trên thế giới. Theo đó, việc cải cách hưu trí là nhằm bảo đảm sự phát triển bền

vững lâu dài của hệ thống hưu trí công trong mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột và

tăng cường hơn nữa vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện thông qua ý tưởng về sự tích

lũy tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện chắc chắn sẽ khuyến khích gia tăng tổng tiết

kiệm, phát triển thị trường vốn nội địa, từ đó phát triển kinh tế (Thomas & Spataro,

2014).

42

2.3.3 Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước

Tại Việt Nam, các nghiên cứu có đề cập đến quỹ hưu trí tự nguyện trong khi

đánh giá về hiện trạng và thách thức của hệ thống hưu trí Việt Nam trong điều kiện

dân số già hóa hệ thống hưu trí như nghiên cứu của Giang Thanh Long (2004), Điều

Bá Dược (2013), TTBD (2014); Chí Tín (2014), Lưu Hải Vân (2014), Nguyễn Thị

Lê Thu (2014), Trần Phương Thảo và Nguyễn Anh Tuấn (2014). Một số nghiên cứu

được thực hiện sau thời gian Bộ Tài chính công bố Thông tư số 115/2013/TT-BTC

hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam thì có sự tập

trung hơn vào phân tích vai trò quỹ hưu trí tự nguyện và giới thiệu hệ thống hưu trí

đa trụ cột (Khuất Thị Kiều Vân, 2013; Lương Xuân Trường, 2014; Bùi Cẩm

Hường, 2014; Thùy Dương, 2017) (PHỤ LỤC 4).

Như vậy, tại Việt Nam vẫn còn thiếu vắng các nghiên cứu liên quan đến phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Do đó, nghiên cứu của tác giả được tiến

hành nhằm bổ sung, đóng góp vào hệ thống kiến thức về phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK và góp phần triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

2.4 Các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán

Impavido, Musalem và Tresselt (2003) thừa nhận rằng các quốc gia với trình

độ khác nhau về sự phát triển tài chính có tình trạng thị trường tài chính khác nhau

cũng có thể tác động trực tiếp đến vai trò và hiệu quả hoạt động của quỹ hưu trí tự

nguyện. Sự khác biệt bao gồm (i) quy định đầu tư quỹ hưu trí tự nguyện; (ii) hiệu

quả thị trường; (iii) tính minh bạch; (iv) khuôn khổ pháp lý; (v) các hoạt động thị

trường và điều kiện vĩ mô cũng như điều kiện tài chính; (vi) hành vi đầu tư và phân

bổ tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện …

Nghiên cứu của Blommestein (1997) nhận định tiềm năng cho việc mở rộng

các cơ sở nhà đầu tư tổ chức trong nước, trong đó bao gồm quỹ hưu trí tự nguyện, là

rất lớn. Tuy nhiên, sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện không chỉ gặp trở ngại

bởi kích thước quá mức của hệ thống hưu trí công PAYG mà còn bởi thiếu vắng

khuôn khổ pháp lý cho các quỹ hưu trí tự nguyện; vắng mặt của ngành công nghiệp

quản lý tài sản chuyên nghiệp, các hạn chế đầu tư quá mức theo danh mục; chính

43

sách cấp phép quá hạn chế, việc dẫn tới nhóm độc quyền trong lĩnh vực quỹ hưu trí;

thiếu tự do tiết kiệm để lựa chọn trong số danh mục đầu tư khác nhau của các sản

phẩm thu nhập hưu trí đã được phê duyệt; phí của các quỹ hưu trí tự nguyện còn

cao và/hoặc cố định … Do đó, để thúc đẩy sự tăng trưởng của nhà đầu tư tổ chức

nói chung, quỹ hưu trí tự nguyện nói riêng thì cần phải tập trung vào các yếu tố cụ

thể như sau, đó là: (i) việc bãi bỏ quy định về tài chính; (ii) tự do hóa các hoạt động

của các nhà đầu tư tổ chức; (iii) hiện tượng dân số già và tiến trình cải cách lương

hưu, (iv) tiến bộ của khoa học công nghệ; (v) sự mở rộng ngành quản lý tài sản.

Vittas (2000) xem xét (i) các điều kiện tiên quyết mang tính khả thi đến từ sự

phát triển của khu vực tài chính để thúc đẩy cải cách thu nhập hưu trí và phát triển

các kế hoạch hưu trí được tài trợ và (ii) các điều kiện tiên quyết mang tính tác động

cho phép quỹ hưu trí nhận ra ảnh hưởng tiềm năng của chúng đến sự phát triển của

vốn. Vittas (2000) lập luận rằng điều kiện tiên quyết mang tính khả thi quan trọng

nhất chính là cam kết mạnh mẽ và lâu dài từ các cơ quan có thẩm quyền không chỉ

trong việc thực hiện cải cách thu nhập hưu trí mà còn trong việc theo đuổi tất cả các

cải cách cần thiết đối với thị trường vốn nhằm duy trì ổn định tài chính vĩ mô, khả

năng thanh toán và tính hữu hiệu quả của các ngân hàng và công ty bảo hiểm, tạo

lập các quy định cũng như cơ quan quản lý và giám sát hiệu quả. Bên cạnh đó,

Vittas (200) cũng cho rằng cần mở cửa thị trường ngân hàng và bảo hiểm trong

nước cho thành phần nước ngoài tham gia.

Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy giống như bất kỳ nhà đầu tư tổ chức

trên TTCK, việc phát triển loại hình quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK cũng chịu ảnh

hưởng của các điều kiện khách quan về thể chế kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội,

tiến bộ khoa học công nghệ trong môi trường vĩ mô và các nhân tố vi mô bên trong

của quỹ hưu trí tự nguyện. Vì vậy, với tính chất liên quan đến thu nhập hưu trí và

các khoản đóng góp tự nguyện từ người tham gia chương trình hưu trí mà các điều

kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK cũng xoay quanh những nội dung

đặc trưng cơ bản được tổng hợp và phân tích theo mô hình PESTLIED dành cho

các yếu tố tác động đến từ bên ngoài của tổ chức như sau: (i) chính sách thuế thu

nhập (Political); (ii) tính ổn định của kinh tế vĩ mô (Economic); (iii) vấn đề thuộc

44

xã hội học (Sociological); (iv) cơ sở hạ tầng của thị trường tài chính tập trung vào

sự phát triển của ngành quản lý gia sản và cấu trúc đa nguyên các nhà đầu tư tổ

chức (Technological); (v) các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động của quỹ

hưu trí tự nguyện (Legal); (vi) xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới

(International); (vii) vấn đề về môi trường (Environmental); (viii) vấn đề về nhân

khẩu học (Demographic).

2.4.1 Chính sách ưu đãi thuế thu nhập

Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Chính phủ góp phần cung cấp động

cơ khuyến khích người dân có kế hoạch tài chính cho tuổi già ngay khi còn trẻ

nhằm nâng cao ý thức quản lý tài chính cá nhân. Bên cạnh đó, việc hưởng lợi từ ưu

đãi thuế cho phép quỹ hưu trí tự nguyện có lợi thế trong việc thu hút người lao động

tham gia vào các hợp đồng thu nhập hưu trí, đồng thời sử dụng tối đa được nguồn

tài trợ cho việc đầu tư nhằm gia tăng tối đa giá trị tài sản của quỹ (Impavido,

Musalem & Tresselt, 2003; Whitehouse, 2005; OECD, 2015).

Trên khắp thế giới, các chương trình hưu trí công PAYG dựa trên mô hình

DB đang phải đối mặt nghiêm trọng với vấn đề tài chính trong dài hạn chủ yếu là do

tình trạng già hóa dân số và xuất hiện tính không bền vững trong cấu trúc hiện tại.

Feldstein và Samwick (2001) lập luận rằng ba phản ứng có thể xảy ra nhằm làm

giảm gánh nặng chi trả cho các lợi ích an sinh xã hội trong tương lai của chương

trình hưu trí công PAYG theo mô hình DB (và không được tài trợ) với quy định

pháp luật hiện hành, đó là (i) làm giảm thu nhập hưu trí trong tương lai; (ii) gia tăng

mức thuế thu nhập để bổ sung vào quỹ; (iii) đầu tư các khoản tiết kiệm sao cho hiệu

quả. Feldstein và Samwick (2001) ủng hộ việc đầu tư tiết kiệm cho thu nhập hưu trí

và thay thế các kế hoạch hưu trí không được tài trợ bằng hệ thống được tài trợ hoàn

toàn từ phía tư nhân (hay là các chương trình hưu trí theo mô hình DC) do khả năng

này mang lại nhiều lợi thế hơn khi so với hai khả năng còn lại.

Không giống như các loại hình đầu tư tổ chức khác như quỹ bảo hiểm của

công ty bảo hiểm và quỹ tương hỗ (mutual funds), quỹ hưu trí tự nguyện được

hưởng lợi từ việc hoãn thuế thu nhập căn cứ vào chế độ thuế thu nhập áp dụng đối

với (i) sự đóng góp (contributions) cũng như (ii) lãi và lợi vốn được tích lũy

45

(investment income and capital gains of the pension funds), (iii) thu nhập hưu trí

được nhận vào thời điểm nghỉ hưu (benefits). Có nhiều chính sách ưu đãi thuế thu

nhập áp dụng cho thu nhập hưu trí (Bảng 2.9).

Bảng 2.9 Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập áp dụng đối với thu nhập hưu

trí.

Thu nhập hưu trí được nhận

Sự đóng góp

Lãi và lợi vốn được

Chính sách thuế

vào thời điểm nghỉ hưu

(contributions)

tích lũy (growth)

(withdrawals)

T

ETE

E

E

E

TET

T

T

T

ETT

E

T

T

TTE

T

E

E

TEE

T

E

E

EET

E

T

*E: miễn thuế (exempt); T: tính thuế (taxed).

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ OECD (2015); EUROPA (2018).

Lý do cho việc ưu đãi thuế thu nhập được cho là (i) để khuyến khích mọi

người tiết kiệm đủ nhằm duy trì các tiêu chuẩn sống sau khi nghỉ hưu; (ii) khi mọi

người tiết kiệm đủ sẽ giúp Chính phủ giảm thiểu chi phí cung cấp các phương tiện

liên quan đến lợi ích an sinh xã hội; và (iii) góp phần nâng cao mức tiết kiệm chung

trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc hưởng lợi từ ưu đãi thuế thu nhập cho phép quỹ

hưu trí tự nguyện có lợi thế trong việc thu hút người lao động tham gia vào các hợp

đồng thu nhập hưu trí, đồng thời sử dụng tối đa được nguồn tài trợ cho việc đầu tư

nhằm gia tăng tối đa giá trị tài sản của quỹ. Do đó, để bảo hiểm hưu trí tự nguyện có

thể phát triển, để quỹ hưu trí tự nguyện phát triển thì cần phải có những ưu đãi về

chính sách thuế thu nhập.

2.4.2 Tính ổn định của kinh tế vĩ mô

Sự ổn định của kinh tế vĩ mô sẽ góp phần mang lại niềm tin và tâm lý kỳ vọng

nơi công chúng, không những về một mức độ lạm phát được kiềm chế vừa phải để

duy trì nền kinh tế phát triển, tăng trưởng và ổn định mà còn về mức thâm hụt ngân

sách trong giới hạn an toàn, từ đó góp phần ổn định giá trị đồng tiền, giúp cho các

quỹ hưu trí tự nguyện hoạt động hiệu quả trên TTCK hướng tới mục tiêu tối đa hóa

46

giá thị thị trường của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, yếu tố lạm phát và

tính ổn định của kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và

hiệu quả đầu tư khi quyết định phân bổ tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trong danh

mục đầu tư trên TTCK (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002;

Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).

Ổn định kinh tế vĩ mô là rất cần thiết bởi vì cả TTCK lẫn các nhà đầu tư tổ

chức đều khó có thể hoạt động hiệu quả trong tình trạng nền kinh tế có lạm phát cao

và bất ổn. Mặc dù các công cụ được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát có thể làm

giảm thiểu các vấn đề gây ra bởi lạm phát vừa phải, nhưng mọi cơ chế điều chỉnh

theo chỉ số giá rồi cũng sẽ có xu hướng bị phá vỡ khi lạm phát gia tăng cao. Với sự

tăng tốc của lạm phát, sự điều chỉnh giá phải được thực hiện trong khoảng thời gian

càng lúc càng ngắn, nếu không người nắm giữ các công cụ tài chính được điều

chỉnh theo chỉ số giá sẽ chịu thiệt hại lớn từ sự xói mòn về giá trị thực của tài sản

của họ.

Bên cạnh đó, việc cân đối NSNN cũng đóng vai trò quan trọng trong chính

sách kinh tế của quốc gia. Chính phủ các nước có thâm hụt ngân sách lớn và thường

xuyên kéo dài thì khó có thể tài trợ bằng cách đi vay cũng như phát hành trái phiếu

mới và buộc phải phát hành tiền khiến cho diễn biến của lạm phát càng trở nên trầm

trọng.

2.4.3 Các vấn đề về xã hội học

Về mặt xã hội học: tình trạng già hóa dân số có ảnh hưởng quan trọng đối

với sự bền vững của hệ thống hưu trí và chăm sóc sức khỏe, hiệu suất kinh tế, cung

ứng lao động, việc tiết kiệm và hình thành vốn, nghèo đói, và sự bất bình đẳng giữa

các thế hệ (Lee, Mason & Park, 2011).

Đối với các nhà hoạch định chính sách, tình trạng già hóa dân số dẫn đến hai

mục tiêu chiến lược lớn mà đôi khi giữa chúng cũng có sự xung đột sâu sắc. Trong

đó, mục tiêu thứ nhất là phải phát triển hệ thống kinh tế xã hội nhằm cung cấp an

toàn về mặt kinh tế cho số lượng người cao tuổi ngày càng gia tăng và mục tiêu thứ

hai là phải duy trì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nhằm đối mặt với tình trạng già hóa

dân số trong vài thập kỷ tới. Để thành công trong việc đạt được hai mục tiêu này đòi

47

hỏi các chính sách khuyến khích tiết kiệm, đầu tư vào nguồn vốn con người, thị

trường tài chính và thị trường lao động hoạt động tốt và tính ổn định của các yếu tố

kinh tế vĩ mô.

Do đó, Chính phủ các nước thường tìm biện pháp để đối phó với vấn đề dân

số già. Chẳng hạn ở các quốc gia thuộc Châu Âu, các giải pháp của Chính phủ cụ

thể như sau: (i) Gia tăng tỷ lệ tham gia thị trường lao động bằng cách cho phép

những người có độ tuổi trên 65 có thể tiếp tục làm việc; (ii) nâng cao tuổi nghỉ hưu

bằng cách đề xuất tăng đến 67, trong đó tuổi nghỉ hưu có thể được liên kết với tuổi

thọ của người lao động; (iii) tăng tầm quan trọng của khu vực tư nhân trong việc

cung cấp lương hưu và chăm sóc y tế, tuy nhiên điều này có thể gây ra sự bất bình

đẳng gia tăng nếu người lao động không có khả năng mua các bảo hiểm hưu trí tự

nguyện này; (iv) tăng thuế để trả cho các chi phí lương hưu, nhưng không phải

Chính phủ quốc gia nào cũng có ngân sách dồi dào để trang trải; (v) khuyến khích

người nhập cư trẻ tuổi đến làm việc được xem là giải pháp đơn giản nhất, nhưng

thực tế cho thấy việc lượng nhập cư thuần và di chuyển tự do của lao động là

không phổ biến vì những lo ngại có thể xảy ra như tiền lương sẽ bị đẩy xuống thấp

và tình trạng căng thẳng về cơ sở hạ tầng và nhu cầu nhà ở (Economicshelp, 2016).

2.4.4 Mức độ phát triển của thị trường tài chính

Việc phát triển các nhà đầu tư tổ chức với sự phát triển của thị trường tài

chính cũng có mối quan hệ tác động hai chiều. Sự phát triển của một cơ sở nhà đầu

tư tổ chức trong nước khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn hiện đại, và

ngược lại, việc mở rộng khu vực nhà đầu tư tổ chức đòi hỏi sự tồn tại của một cơ sở

hạ tầng thị trường tài chính phức tạp (Blommestein, 1997; Vittas, 2000; Impavido,

Musalem & Tresselt, 2003).

Việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thị trường tài chính tập trung vào sự phát

triển của ngành quản lý gia sản và cấu trúc đa nguyên các nhà đầu tư tổ chức. Bên

cạnh đó, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng còn phải giới thiệu được các thỏa thuận giao

dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh vi; có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin cậy

và hiệu quả, bao gồm một trung tâm lưu ký hoạt động tốt; có hệ thống thanh toán

48

liên ngân hàng có giá trị lớn, hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin cậy; và có

một hệ thống ngân hàng vững chắc.

Từ đó, bên cạnh sự kết hợp của các tiềm năng phát triển tự nhiên của ngành

(ví dụ như là thông qua sự gia tăng về mức sống, việc nhập khẩu công nghệ tài

chính hiện đại …) và loại bỏ các trở ngại trong chính sách, việc hiện đại hóa cơ sở

hạ tầng thị trường tài chính cũng sẽ góp phần thúc đẩy thêm đối với sự phát triển

hoạt động của các tổ chức đầu tư trong nước, nhất là tại các thị trường mới nổi.

2.4.5 Các quy định pháp lý

Khung pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khuôn khổ các

nguyên tắc hoạt động theo pháp luật đối với các tổ chức đầu tư trên thị trường, bao

gồm cả các bên liên quan (cơ quan quản lý giám sát, công ty bảo hiểm nhân thọ,

công ty quản lý quỹ, quỹ hưu trí tự nguyện, tổ chức lưu ký, ngân hàng giám sát, đại

lý hưu trí, tài khoản hưu trí cá nhân, chương trình hưu trí tự nguyện dành cho

nhóm/cá nhân). Do đó, để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện, việc thiết lập khung

pháp lý cần chú trọng đến các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về công khai tài chính và

các nguyên tắc kế toán được cải thiện; thực thi có hiệu quả hơn các tiêu chuẩn và

nguyên tắc này; thực hiện quy tắc giao dịch bên trong và các quy định bảo vệ nhà

đầu tư; sự cân bằng giữa quy định pháp luật với các thỏa thuận tự quy định có tính

đến năng lực của các tổ chức tự quy định và các xung đột về lợi ích tiềm tàng (bao

gồm cả những vấn đề liên quan đến năng lực và đạo đức của người đại diện quản lý

tài sản quỹ hưu trí tự nguyện khi có sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở

hữu). Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật và các quyền về quản lý tài sản cũng cần

được quy định đầy đủ và thích hợp, tập trung vào quy định về sự đối xử công bằng

của tất cả các cổ đông, trách nhiệm quản lý tốt hơn cho các cổ đông; ghi nhận đăng

ký quyền sở hữu chứng khoán độc lập nhằm tránh sự thao túng và các gian lận bởi

quản lý hoặc trong nội bộ (Blommestein, 1997; Impavido, Musalem & Tresselt,

2003; Hryckiewicz, 2009; Franzen, 2010).

Thêm vào đó, quy định định lượng cho việc nắm giữ danh mục đầu tư được

áp dụng cho quỹ hưu trí nhằm bảo vệ người thụ hưởng hay công ty bảo hiểm thụ

hưởng từ quỹ hưu trí và góp phần tạo ra nhu cầu ổn định cho các TPCP ở một số

49

quốc gia. Các giới hạn này thường được áp đặt đối với việc nắm giữ các cổ phiếu,

bất động sản và tài sản nước ngoài vốn có suất sinh lời kỳ vọng cao nhưng thường

biến động hơn so với TPCP. Bên cạnh đó, giới hạn về tự đầu tư cũng thường được

áp dụng nhằm bảo vệ trước rủi ro mất khả năng thanh toán của nhà tài trợ. Một số

quốc gia không áp đặt giới hạn định lượng nhưng lại áp đặt quy tắc cẩn trọng trong

quyết định đầu tư nhằm thực hiện việc đầu tư một cách thận trọng, chuyên nghiệp,

giàu kinh nghiệm và được đào tạo bài bản về các vấn đề tài chính và tín thác. Theo

đó, việc đầu tư không chỉ quan tâm đến tỷ suất sinh lời của danh mục để gia tăng

giá trị tài sản của quỹ mà cần khuyến khích đầu tư vào các công ty chú trọng đến

trách nhiệm với tính bền vững của xã hội và môi trường, cũng như tăng cường tính

minh bạch trong quá trình hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện.

Đồng thời, việc quy định mức tài trợ tối thiểu cũng được thực thi nhằm bảo

vệ người thụ hưởng trước rủi ro vỡ nợ của công ty do mức tài trợ quá thấp, dẫn đến

tình trạng quỹ có giá trị ít hơn hiện giá của lợi ích được hứa hẹn. Quy tắc tài trợ này

là khía cạnh chính yếu trong quy định của quỹ hưu trí theo mô hình DB. Riêng quỹ

hưu trí theo mô hình DC thì luôn được cấp vốn hoàn toàn từ người đóng góp. Tuy

nhiên, với chương trình theo mô hình DB cần phải thực hiện sự phân biệt giữa

chương trình hưu trí (nghĩa là các quyền xác định theo hợp đồng của các bên) và

quỹ hưu trí (nghĩa là tập hợp tài sản đóng góp để cung cấp sự bảo đảm cho những

lợi ích được hứa hẹn) (Blommestein, 1997).

Đối với các quốc gia phát triển, tình trạng già hóa dân số nhanh chóng thúc

đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống hưu trí được tài trợ và tạo động lực tìm

kiếm lợi nhuận tối đa thông qua việc đa dạng hóa mang tính toàn cầu đối với tài sản

của các quỹ hưu trí, đồng thời đáp ứng lợi ích tương hỗ khi đầu tư vào các TTCK

mới nổi của các nước đang phát triển có nhu cầu về vốn. Do đó, tại các quốc gia

phát triển, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải dỡ bỏ các quy định pháp lý quan

trọng cùng với những rào cản thị trường để giải phóng tài sản của quỹ hưu trí được

tự do hóa hơn nhằm hướng tới việc tìm kiếm sự kết hợp tốt nhất giữa rủi ro và lợi

nhuận. Cụ thể là bãi bỏ các quy định hạn chế đầu tư, đặc biệt đối với những quy

định cản trở việc đầu tư vào các quốc gia có xu hướng nhân khẩu học thuận lợi hơn.

50

Sau đó, các nhà quản lý quỹ sẽ gia tăng phần đầu tư vào thị trường mới nổi trong

danh mục, trong đó tập trung vào các thị trường có chỉ số P/E còn thấp (hàm ý về

các cơ hội chưa được khai thác). Điều này sẽ đòi hỏi một sự đại diện đầy đủ của các

TTCK mới nổi trong bảng đối sánh hiệu quả hoạt động liên quan đến lĩnh vực thu

nhập hưu trí (Fischer & Reisen, 1994).

Đối với các quốc gia đang phát triển, việc tập trung vào các quy định bảo

đảm quyền tài sản (tính vẹn toàn của tài sản) và tính thanh khoản của TTCK là cần

thiết nhằm thu hút mối quan tâm đầu tư từ quỹ hưu trí, đặc biệt là từ các nhà đầu tư

tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, quá trình cổ phần hóa hóa các doanh nghiệp thuộc

sở hữu Nhà nước và niêm yết trên TTCK nhằm tạo độ sâu của TTCK của các quốc

gia đang phát triển cũng được thúc đẩy mạnh mẽ.

2.4.6 Xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới

Các quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải cách hệ thống hưu trí của mình

theo thời gian. Trong đó, các quốc gia tiến hành cải cách hệ thống hưu trí theo mô

hình đa trụ cột (WB 2008; Holzmann, Hinz & Dorfman, 2008; Holzmann, 2012;

Khuất Thị Kiều Vân, 2013) và có xu hướng gia tăng việc cung cấp thu nhập hưu trí

theo mô hình DC (WB, 1994; Blommestein, 1997; OECD, 2004; WB, 2008; Hinz,

Rudolph, Antolín & Yermo, 2010; OECD, 2011; Holzmann, 2012; Mishkin, 2012).

Nguyên nhân của xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới là do trong

tình trạng dân số già, hệ thống hưu trí công thuộc hệ thống hưu trí không được tài

trợ (public unfunded pension system) và hoạt động theo cơ chế PAYG với mô hình

tài chính DB vốn dĩ có chi phí chi trả lương hưu cao, dự kiến sẽ còn gia tăng đáng

kể khiến cho áp lực chi trả thu nhập hưu trí ngày càng nặng nề đối với NSNN trong

những thập kỷ tới. Điều này sẽ làm thâm hụt NSNN, từ đó dẫn tới tác động tiêu cực

đến tổng thể tài chính công. Hình 2.2 cho thấy trong năm 2015, tỷ lệ chi phí trả cho

thu nhập hưu trí của một số khu vực trên thế giới chiếm tỷ trọng đáng kể so với

GDP, trong đó, tỷ lệ chi trả cho thu nhập hưu trí ở khu vực Châu Âu là cao hơn so

với khu vực Châu Mỹ và Châu Á. Tỷ lệ này dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên theo thời

gian (Allianz, 2016).

51

Hình 2.2 Chi phí trả cho thu nhập hưu trí của một số quốc gia theo các khu

vực trên thế giới năm 2015 và và dự báo năm 2050.

(Đvt: % GDP).

Nguồn: Allianz (2016).

Xu hướng cải cách thu nhập hưu trí trên thế giới có thể được thực hiện theo

ba hình thức khác nhau, đó là (i) cải cách các tham số; (ii) cải cách theo kế hoạch có

mức đóng góp xác định danh nghĩa (Notional Defined Contribution - NDC); (iii) và

cải cách toàn hệ thống. Cụ thể như sau:

 Cải cách các tham số

Cải cách này tập trung vào các tiêu chuẩn, tiêu chí của yếu tố cấu thành trong

kế hoạch hưu trí, chẳng hạn như tăng tuổi nghỉ hưu bình thường, thắt chặt điều kiện

hưu trí đối với việc về hưu sớm và trợ cấp an sinh xã hội (bệnh tật, tai nạn lao động

…), hạ thấp các tỷ lệ lợi ích, gia tăng thuế thu nhập cá nhân, chống trốn thuế thu

nhập cá nhân, và nâng cao hiệu quả quản lý của các tổ chức an sinh xã hội, nhằm

mục đích ngăn chặn sự sụp đổ tài chính của hệ thống an sinh xã hội truyền thống

không được tài trợ.

Trong hai thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã thực hiện cải cách các tham số cho

hệ thống hưu trí. Trong đó, việc tăng tuổi nghỉ hưu là một tham số thường được

xem xét phổ biến do tính đơn giản trong việc thiết kế giải pháp. Ngoài việc tăng

tuổi nghỉ hưu, các quốc gia thiết kế các biện pháp để giảm tỷ lệ thay thế (ví dụ như

thay đổi cách tính lương hưu, mở rộng cơ sở đánh giá, việc thay đổi cơ chế điều

52

chỉnh). Bằng cách này, các quốc gia đã tìm cách cải thiện tính bền vững lâu dài của

hệ thống hưu trí. Tuy nhiên, việc làm giảm tỷ lệ thay thế cũng mang lại mặt tiêu cực

là đói nghèo lúc già trong khi thu nhập hưu trí quá thấp. Lúc này, việc tài trợ cho

các chương trình phúc lợi có thể sẽ gây áp lực nhiều hơn lên tài chính công nếu

quốc gia đó không có hệ thống hưu trí được tài trợ bổ sung nhằm củng cố tỷ lệ thay

thế rất thấp của chính quốc gia mình. Từ đó cho thấy cách thức cải cách các tham số

có thể áp dụng chủ yếu để đối phó với sự mất cân bằng tài khóa trong ngắn hạn mà

không chỉ ra được những méo mó trong động cơ kinh tế từ hệ thống hưu trí có mối

liên kết yếu giữa sự đóng góp và lợi ích.

 Cải cách theo kế hoạch có mức đóng góp xác định danh nghĩa (NDC)

Cải cách này được tiến hành nhằm để loại bỏ các biến dạng của thị trường

lao động do trốn thuế thu nhập cao và sự phát triển của thị trường lao động không

chính thức. Mô hình NDC được tài trợ trên cơ sở PAYG là một trong những cách

tiếp cận mới và thay thế chính cho chương trình PAYG truyền thống với mô hình

DB (và không được tài trợ). So với các chương trình PAYG theo mô hình DB, mô

hình NDC tạo ra một liên kết rõ ràng hơn giữa đóng góp và trợ cấp cho thu nhập

hưu trí cuối cùng. Nhưng mặt trái của vấn đề này là nó cung cấp lợi ích đối với thu

nhập hưu trí ít đầy đủ hơn cho người lao động có mức lương thấp do thiếu phân

phối lại thu nhập. Bên cạnh đó, mặc dù gánh nặng tài khóa của quá trình chuyển đổi

là ít hơn nhưng chương trình hưu trí theo mô hình NDC thiếu rất nhiều những lợi

ích kinh tế tiềm năng nếu so sánh với chương trình theo mô hình DC, chẳng hạn

như đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

 Cải cách toàn hệ thống

Cải cách các tham số và cải cách theo mô hình NDC đều không tạo ra được

tiết kiệm dài hạn hoặc có bất kỳ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thị trường

tài chính. Chỉ có cải cách toàn hệ thống liên quan đến việc tạo lập các chương trình

hưu trí được tài trợ (funded pension) mới đem lại các hiệu ứng này. Trong điều kiện

được hậu thuẫn bởi hệ thống ngân hàng và TTCK phát triển tốt hơn, cải cách toàn

hệ thống hưu trí sẽ tạo nên sự đóng góp độc lập và bổ sung đối với tăng trưởng kinh

tế cao hơn, đến lượt mình, cải cách toàn hệ thống hưu trí sẽ thúc đẩy tăng trưởng

53

kinh tế bằng cách giảm thiểu quy mô kích thước của thị trường lao động không

chính thức.

Dù áp dụng hình thức nào, xu hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới

đều nhằm hướng tới ba mục tiêu sau:

 Mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của việc cải cách hệ thống hưu trí chính

là nhằm cung cấp các lợi ích đầy đủ, có giá cả hợp lý và bền vững trong vấn

đề bảo đảm toàn diện an sinh xã hội. Đây cũng là lý do chính yếu để các

quốc gia tiến hành cải cách hệ thống hưu trí. Để đạt được mục tiêu này, các

kế hoạch hưu trí được điều hành bởi khu vực tư nhân và được tài trợ từ sự

đóng góp của người lao động có vai trò ảnh hưởng sâu rộng đến hiệu quả của

thị trường tài chính. Từ những tác động này có thể đem lại những lợi ích

tiềm năng rộng lớn hơn, bao hàm cả tăng trưởng kinh tế về sau.

 Mục tiêu thứ hai của cải cách hệ thống hưu trí là tạo ra một liên kết mạnh mẽ

giữa đóng góp và lợi ích để giảm thiểu bất kỳ sự thay đổi trên thị trường lao

động và tránh phân phối lại một cách thất thường và khác biệt do sự biến

động từ lạm phát. Để đạt được mục tiêu này, chỉ cần tạo lập các quỹ hưu trí

tự nguyện theo mô hình DC hoặc điều chỉnh việc áp dụng thu nhập suốt đời,

giảm đi bớt các lợi ích được tính vào giai đoạn cuối thời kỳ lao động, và trao

quyền đầy đủ và tính di động trong trường hợp của kế hoạch theo mô hình

DB.

 Mục tiêu thứ ba là tạo ra hoạt động tiết kiệm dài hạn nhằm kích thích sự phát

triển của thị trường vốn. Việc sử dụng kế hoạch hưu trí được tài trợ góp phần

làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước, làm thay đổi các thành phần của tài

sản tài chính và gia tăng cung về tập hợp hợp đồng tiết kiệm dài hạn.

Do đó, phát triển hệ thống hưu trí được tài trợ thông qua khuyến khích phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC đang được các quốc gia trên thế giới

hướng đến nhằm bổ sung hoàn thiện hệ thống hưu trí của mình bên cạnh hệ thống

hưu trí công. Trong đó, quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC gồm có hai dạng cơ

bản là (i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ là dạng quỹ

hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử dụng lao

54

động đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng, người lao

động không bắt buộc phải tham gia; và (ii) Quỹ hưu trí cá nhân theo mô hình DC

được thành lập bởi các tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm nhân thọ) áp

dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ thống quy định của pháp

luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị trường và được khuyến

khích bởi chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Nhà nước (WB, 2008).

2.4.7 Vấn đề về môi trường

Bên cạnh các hành vi gây nguy hiểm cho sức khỏe (hút thuốc lá, sử dụng quá

nhiều chất cồn, không vận động thể lực), tình trạng ô nhiễm môi trường gây ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người. Theo thời gian, người lao động

còn có thể phải đối mặt với nhiều bệnh mạn tính gây ra khuyết tật đáng kể khiến

cho người lao động không thể duy trì hoạt động trong lực lượng lao động lâu dài và

phải sống trong với nhiều hỗ trợ chăm sóc sức khỏe hoặc can thiệp y tế thường

xuyên (UN, 2015). Điều này sẽ làm gia tăng gánh nặng tài chính cho việc chăm sóc

y tế của cá nhân, gia đình, gia tăng chi phí an sinh xã hội, đặc biệt là khi về già. Do

đó, nhu cầu cho sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi về già,

dịch vụ bảo hiểm hưu trí là rất lớn và góp phần làm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trong nền kinh tế.

2.4.8 Các vấn đề về nhân khẩu học

Về mặt nhân khẩu học, tình trạng già hóa dân số phản ánh sự kết hợp của tỷ

lệ sinh sản thấp và đang giảm dần cùng với việc gia tăng tuổi thọ. Tiêu chuẩn sinh

hoạt cao hơn và các điều kiện xã hội thay đổi nhanh chóng (ví dụ như đô thị hóa,

chăm sóc y tế …) cho phép mọi người sống lâu hơn và các gia đình có ít con hơn.

Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, sự giảm sút số lượng người tham gia lao

động sẽ dẫn đến một sản lượng đầu ra thấp hơn. Đến một mức độ nào đó, các chính

sách như (i) cho phép nhập cư, (ii) khuyến khích nữ giới tham gia nhiều hơn vào

lực lượng lao động và (iii) nâng cao tuổi nghỉ hưu có thể bù đắp cho sự suy giảm

tiềm năng trong lực lượng lao động, nhưng tình trạng già hóa dân số vẫn sẽ có tác

động bất lợi về cung lao động (OECD, 2014). Đồng thời, tình trạng già hóa theo

thời gian sẽ (i) làm giảm đi các khoản tiết kiệm hoặc (ii) việc nắm giữ trái phiếu

55

được áp dụng thay cho việc nắm giữ cổ phiếu khi tỷ lệ dân số trên 65 tuổi trở nên

cao hơn (Kim, 2010; Raisa, 2012).

Sự gia tăng tuổi thọ tính tại thời điểm sinh và thời điểm đạt 65 tuổi ở một số

quốc gia trên thế giới giai đoạn 1950 - 2012 cho thấy dân số có xu hướng sống lâu

hơn và xu hướng này ngày càng gia tăng với độ tuổi trung bình trong quãng thời

gian sống đạt tới mức 80 - 85 tuổi trong khi việc nghỉ hưu theo quy định hay thực

thi trung bình trên thế giới vào khoảng 55 đến 65 tuổi (OECD, 2014). Với tình trạng

già hóa này, mỗi người lao động sẽ phải hỗ trợ ngày càng nhiều người nghỉ hưu

dưới hệ thống hưu trí và chăm sóc sức khỏe công và khó tạo ra sự thuận lợi từ xu

hướng nhân khẩu học đến tăng trưởng kinh tế được như trong quá khứ.

Theo hình 2.3, mặc dù dân số già là hiện tượng trên toàn thế giới, nhưng tình

trạng và tốc độ già hóa dân số ở các nước khác nhau cũng khác nhau đáng kể. Sự

thay đổi này có thể được phân tích bằng tỷ lệ dân số già hóa (thường được tính toán

từ số người già từ trên 65 tuổi trở lên so với 100 người thuộc độ tuổi lao động). Tỷ

lệ dân số già hóa là khá cao tại các quốc gia Châu Âu, và thấp hơn tại các quốc gia

thuộc khu vực dân số trẻ hơn (Châu Mỹ Latin và Châu Á) cũng như Châu Phi.

Hình 2.3 Tỷ lệ dân số già hóa theo khu vực năm 2015 và dự báo năm 2050.

(Đvt: %).

Nguồn: Allianz (2016).

56

Kết luận Chương 2

Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của Chương 2, luận án đã hệ thống

hóa cơ sở lý luận về quỹ hưu trí tự nguyện và vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ

thống hưu trí của quốc gia cũng như phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.

Theo đó, quỹ hưu trí tự nguyện góp phần hoàn thiện hệ thống hưu trí của quốc gia

hướng tới mục tiêu an sinh xã hội cho người già khi về hưu. Đồng thời, luận án

cũng đã cho thấy sự cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là nhằm

(i) đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường; (ii) phát triển cơ sở nhà đầu tư

tổ chức; (iii) tạo nguồn cung ứng vốn ổn định và dài hạn; và (iv) góp phần phát triển

TTCK.

Quỹ hưu trí tự nguyện gồm hai dạng cơ bản là (i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do

người sử dụng lao động tài trợ và (ii) Quỹ hưu trí cá nhân theo mô hình DC được

thành lập bởi các tổ chức tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm nhân thọ) (WB,

2008).

Quỹ hưu trí tự nguyện có tập hợp tài sản được hình thành từ nguồn tiết kiệm

theo hợp đồng thỏa thuận của người tham gia các chương trình hưu trí tư nhân, cụ

thể là từ các chương trình hưu trí nghề nghiệp tự nguyện hay các kế hoạch hưu trí cá

nhân tự nguyện. Các chương trình hưu trí tự nguyện được áp dụng theo mô hình DB

hay mô hình DC đều có sự khác biệt nhau rõ rệt trong mức chi trả và người gánh

chịu rủi ro đầu tư tài chính. Tuy nhiên, trong mô hình DC, người đóng góp sẽ là

người gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính và mức chi trả phụ thuộc không những vào

mức đóng góp mà còn phụ thuộc cả vào lợi nhuận đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.

Điều này sẽ làm giảm gánh nặng tài chính của người chủ lao động, thậm chí đối với

cả Chính phủ khi hệ thống hưu trí công PAYG hiện tại là theo mô hình DB và

không được tài trợ. Chính vì vậy mà các chương trình hưu trí tự nguyện theo mô

hình DC ngày càng được khuyến khích phát triển.

Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của chương 2, luận án cũng đã giới

thiệu tiêu chí được các nhà nghiên cứu sử dụng nhằm làm cơ sở để đánh giá sự phát

triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK. Theo đó, tiêu chí thường được dùng để

phân tích chính là quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện. Tuy nhiên, tùy thuộc

57

vào mục tiêu nghiên cứu mà quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện có thể được

tính toán và biểu hiện dưới các hình thức biến số đa dạng, ví dụ như tỷ lệ tài sản tài

chính của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP hoặc là tỷ lệ tài sản tài chính của quỹ

hưu trí tự nguyện so với tổng tài sản tài chính trong nền kinh tế.

Theo lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan cũng đều cho thấy

quỹ hưu trí tự nguyện có vai trò tích cực trong sự phát triển của TTCK. Việc phát

triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện và phát

triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư chính trên TTCK là một trong những giải

pháp quan trọng hướng tới việc làm gia tăng số lượng nhà đầu tư tổ chức, từ đó tạo

thêm nguồn cầu đáng kể đối với các sản phẩm đầu tư tài chính trên TTCK và góp

phần làm gia tăng thu nhập hưu trí đối với người nghỉ hưu khi về già. Như vậy,

việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là cần thiết, không những góp phần

đáp ứng nhu cầu của xã hội và thị trường, mà còn góp phần phát triển TTCK, tăng

trưởng kinh tế.

Trong khuôn khổ nội dung Chương 2, các điều kiện để phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện cũng được phân tích và tổng hợp theo mô hình PESTLIED. Trong đó, các

yếu tố vĩ mô (external macro-economic factors), bao gồm (i) yếu tố lạm phát và tính

ổn định của kinh tế vĩ mô; (ii) hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK; (iii) quy định

pháp lý về hoạt động đầu tư và phân bổ tài sản là các điều kiện kiểm soát được các

nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK tại các quốc

gia trên thế giới thừa nhận đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện trên TTCK (Fischer & Reisen, 1994; Blommestein, 1997; Vittas, 2000;

Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl &

Niggemann, 2010; Raisa, 2012).

58

CHƯƠNG 3. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN: BÀI HỌC KINH

NGHIỆM TỪ CÁC NỀN KINH TẾ APEC

Trong chương 3, luận án tiến hành thống kê mô tả dữ liệu và phương pháp

nghiên cứu xử lý dữ liệu có cấu trúc bảng không cân bằng (unbalanced data) bằng

mô hình định lượng nhằm đánh giá mức độ tác động của quỹ hưu trí tự nguyện đến

TTCK tại các nền kinh tế thuộc APEC. Qua đó, luận án trình bày các kết quả

nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển

TTCK nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam.

3.1 Giới thiệu tổng quan

3.1.1 Các nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific - APAC) bao gồm các

quốc gia có vị trí địa lý nằm gần phía Tây của Thái Bình Dương, hay mở rộng ra

đối với phần lớn Châu Á và các quốc gia nằm trong vành đai Thái Bình Dương. Tên

gọi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương được biết đến phổ biến thông qua giao

thương quốc tế, hợp tác kinh tế quốc tế, trong đó, nổi bật là tổ chức Diễn đàn hợp

tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation -

APEC) được thành lập từ năm 1989. Quá trình hợp tác APEC chủ yếu quan tâm đến

các vấn đề kinh tế và thương mại và hiện có 212 thành viên tham gia với nhau như

những thực thể kinh tế.

Vào năm 2015, tổng dân số của các nền kinh tế APEC chiếm 39% dân số thế

2 Các nền kinh tế thành viên xếp theo thứ tự bảng chữ cái: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile,

People's Republic of China, Hong Kong, Indonesia, Japan, Republic of Korea, Malaysia, Mexico, New

Zealand, Papua New Guinea, Peru, The Philippines, Russia, Singapore, Chinese Taipei, Thailand, The United

States, Việt Nam.

giới, trong đó China chiếm tỷ lệ lớn nhất với 19% dân số, theo sau là US với 4% và

59

Indonesia với 3%; các nền kinh tế APEC chiếm 59% GDP danh nghĩa, tương đương

giá trị 43 nghìn tỉ USD, trong đó riêng The United States (US) và China đã chiếm

39% tổng GDP toàn cầu của thế giới; giao thương hàng hóa và dịch vụ thương mại

của các nền kinh tế APEC đạt 20 nghìn tỷ USD, gần một nửa (48%) tổng thương

mại thế giới, trong đó China, Japan và US chiếm 26% thương mại toàn cầu (APEC,

2016).

Sự phát triển của thị trường tài chính của các nền kinh tế thuộc APEC theo

bảng xếp hạng của WEF (2008 - 2016) có sự phân hóa rõ rệt về sự phát triển của thị

trường tài chính. Việt Nam là nền kinh tế thành viên của APEC từ năm 1998 nhưng

thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn trong nhóm cuối của bảng xếp hạng chỉ số

cạnh tranh toàn cầu và còn cách biệt rất xa so với các nền kinh tế còn lại của APEC

cũng như trên thế giới.

hết sức quan trọng đối với Việt Nam, là cơ chế hợp tác kinh tế đầu tiên ở tầm Châu Á -

Thái Bình Dương mà Việt Nam tham gia kể từ khi bước vào công cuộc Đổi mới, là minh

chứng về chủ trương hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện của đất nước.

Nhiều nền kinh tế thành viên của APEC là những hình mẫu của thế giới về liên kết và tăng

trưởng kinh tế. Do đó, tham gia hợp tác APEC, Việt Nam có điều kiện học tập kinh

nghiệm, góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, làm tốt

hơn quá trình chuẩn bị trong nước để tận dụng cơ hội của các liên kết kinh tế quốc tế thế hệ

mới mà Việt Nam là thành viên. Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm từ phát triển quỹ

Là Diễn đàn hợp tác phát triển năng động nhất trên thế giới, APEC có ý nghĩa

hưu trí tự nguyện trên TTCK tại các nền kinh tế APEC là một trong những cơ sở để

tác giả đề xuất khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

3.1.2 Sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và thị trường cổ phiếu

nội địa tại các nền kinh tế APEC

Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành cải cách hệ thống hưu trí và đang

trong quá trình chuyển đổi hệ thống hưu trí. Các nền kinh tế APEC cũng thực hiện

việc cải cách hệ thống hưu trí dựa trên nhu cầu, sự ưu tiên và khả năng của mình và

hầu hết đều hướng tới mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, trong đó, thúc đẩy sự

phát triển của trụ cột III là hệ thống hưu trí theo mô hình DC (được tài trợ và mang

60

tính chất tự nguyện đóng góp), đồng thời góp phần tác động mạnh mẽ đến sự phát

triển của các quỹ hưu trí tự nguyện trong các nền kinh tế APEC theo thời gian (WB,

1994, Willmore, 2000; Holzmann & Hinz, 2005; OECD, 2007; WB, 2008; OECD,

2009; Park & Estrada, 2013; Howell, Wang & Shand, 2014, 2014; Alllianz, 2016).

Cùng với sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, việc quản lý tài

sản của các quỹ hưu trí tự nguyện cũng thay đổi tùy theo quy định của nền kinh tế

APEC áp dụng đối với quỹ hưu trí tự nguyện, cơ cấu ngành của lĩnh vực quản lý tài

sản và nhu cầu đối với chứng khoán. Ngoài ra, các quỹ hưu trí tự nguyện ở các nền

kinh tế APEC cũng có thể đầu tư theo cách khác nhau do sự khác biệt trong hệ

thống tài chính về việc thực hiện các chức năng như thanh toán, tập hợp tài sản vào

quỹ, phân bổ các nguồn lực giữa các thời điểm và các lĩnh vực khác nhau, phối hợp

việc ra quyết định phân quyền thông qua phát hiện và báo hiệu giá.... Chính vì vậy,

các quỹ hưu trí tự nguyện của các nền kinh tế APEC cũng có sự khác biệt về đặc

*RUS: Russia (2009 - 2015), CHN: China (2004 - 2015), SGN: Singapore (2000 - 2014), PHL: Philippines

(2014 - 2015), VNM: Việt Nam (n/a), PNG: Papua New Guinea (n/a), TAI: Taipei (n/a), BRN: Brunei (n/a).

điểm hành vi và danh mục đầu tư (OECD, 2007; Alllianz, 2016).

Hình 3.1 Tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với quy mô vốn hóa thị

trường cổ phiếu nội địa tại các nền kinh tế APEC năm 2000 và 2015.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ WB (2000 - 2017).

61

Thông qua hình 3.1 cho thấy tỷ lệ quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so

với quy mô vốn hóa TTCK niêm yết nội địa trung bình trên toàn thế giới đã có sự

gia tăng đáng kể từ 17% vào năm 2000 lên đến 24% vào năm 2015. Trong khi đó, ở

các nền kinh tế APEC được mô tả, tỷ lệ này đều có sự tăng trưởng nhanh chóng

đáng kể qua giai đoạn 2000 đến năm 2015. Các nền kinh tế có quy mô tài sản quỹ

hưu trí tự nguyện chiếm tương ứng trên 24% so với quy mô vốn hóa thị trường

niêm yết nội địa vào năm 2015 là các nền kinh tế Australia, Chile, Peru, US, New

Zealand, Mexico và Japan.

(2014 - 2015), VNM: Việt Nam (n/a), PNG: Papua New Guinea (n/a), TAI: Taipei (n/a), BRN: Brunei (n/a).

*RUS: Russia (2009 - 2015), CHN: China (2004 - 2015), SGN: Singapore (2000 - 2014), PHL: Philippines

Hình 3.2 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu

trí tự nguyện và của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa tại các nền

kinh tế APEC giai đoạn năm 2000 đến 2015.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ WB (2000 - 2017).

Hình 3.2 cho thấy trong giai đoạn 2000 - 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân

hàng năm của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện trung bình trên thế giới vào

khoảng 8%/năm, tăng gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm

của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa trung bình trên thế giới. Tại các nền

kinh tế APEC được mô tả, trong giai đoạn 2000 - 2015, tốc độ tăng trưởng bình

quân của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện hàng năm đều cao hơn tốc độ tăng

trưởng bình quân hàng năm của quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa, ngoại

62

trừ tại Thailand, Singapore, Philippines, Indonesia. Như vậy, qua số liệu mô tả giai

đoạn 2000 - 2015 đã cho thấy sự tăng trưởng ngoạn mục của các quỹ hưu trí tự

nguyện trên thế giới nói chung và tại các nền kinh tế APEC nói riêng. Các quỹ hưu

trí tự nguyện đã tăng trung bình 5,5%/năm trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm

2015 về quy mô tài sản, trong khi vốn hóa TTCK tại các nền kinh tế APEC được

mô tả tăng trung bình khoảng 3%/năm.

Vậy, liệu tăng trưởng về quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện đã góp

phần dẫn đến sự phát triển của TTCK tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn

2000 – 2015? Có thể đề xuất khuyến nghị nào cho sự phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện tại Việt Nam? Vấn đề này đưa tới nhiệm vụ tìm kiếm lời giải đáp thông qua

quá trình tiến hành nghiên cứu thực nghiệm của đề tài.

Đồng thời, trong hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phát triển quỹ hưu

trí tự nguyện trên TTCK, bên cạnh tiêu chí quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện là

biến đại diện cho sự phát triển quỹ hưu trí tự nguyện thì các yếu tố lượng hóa, cụ

thể hóa các điều kiện có tác động đến sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện cũng

như sự phát triển của TTCK thường được lựa chọn và sử dụng để phân tích và xây

dựng mô hình hồi quy nhằm phân tích đánh giá tác động của phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK là (i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn

trên thị trường TPCP; (iii) GDP bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v)

tỷ lệ người già trên 100 người trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem &

Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa,

2012).

3.2 Mô tả dữ liệu

3.2.1 Về không gian nghiên cứu

Đề tài đo lường tác động tài sản tài chính của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự

phát triển của thị trường vốn bằng phương pháp nghiên cứu định lượng với các yếu

tố vĩ mô đóng vai trò là các biến kiểm soát trong mô hình hồi quy bộ dữ liệu cho 21

nền kinh tế thuộc APEC. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bộ dữ liệu của 21 nền

kinh tế nhằm loại bỏ các giá trị bị thiếu vắng thông qua công cụ Stata 11, bộ dữ liệu

chỉ cỏn lại 17 nền kinh tế thành viên là Autralia, Canada, Chile, China, Korea, US,

63

New Zealand, Mexico, Japan, Russia, Indonesia, Peru, Malaysia, Philippines,

Singpapore, Thailand, Hong Kong) là có dữ liệu đáp ứng đầy đủ và thuận lợi để

phục vụ nghiên cứu. Theo đó các nền kinh tế thuộc APEC bao gồm Việt Nam,

Papua New Guinea, Taipei, Brunei vẫn chưa được mở rộng nghiên cứu đến do hạn

chế về mặt số liệu. Ngoài ra, đối với trường hợp Hồng Kông, nền kinh tế có TTCK

đã phát triển mạnh mẽ thể hiện qua quy mô vốn hóa có giá trị cao vượt trội trong

mối tương quan so với các nền kinh tế còn lại, đồng thời giá trị tài sản quỹ hưu trí tự

nguyện tại nền kinh tế này là chiếm tỷ trọng đóng góp ít so với quy mô vốn hóa thị

trường nên bộ dữ liệu tiếp tục được xử lý nhằm loại bỏ giá trị ngoại lai để hạn chế

những ảnh hưởng thiên lệch đối với kết quả của nghiên cứu (PHỤ LỤC 5).

3.2.2 Về thời gian nghiên cứu

Kể từ cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, trên thị

trường tài chính vẫn tồn tại tâm trạng lo lắng về khủng hoảng tài chính lan tỏa ở quy

mô toàn cầu trong 2 năm tiếp theo sau đó. Vào thời điểm 1997, cuộc khủng hoảng

tài chính tiền tệ của Thailand đã sớm lan sang các nước Đông Nam Á khác bao gồm

Malaysia, Indonesia và Philippines. Vào mùa thu năm 1997, khủng hoảng tài chính

đã lan rộng đến Korea, Hong Kong và China. Vào năm 1998, Russia và Brazil đã

chứng kiến nền kinh tế của họ sa vào tình trạng rơi tự do, và các TTCK quốc tế, từ

New York đến Tokyo, đã đạt mức thấp kỷ lục do sự tự tin của các nhà đầu tư bị

lung lay bởi sự biến động và không thể đoán trước được trên thị trường tài chính thế

giới. Trong khi đó, những nền kinh tế không tự do hóa thị trường vốn là những nền

kinh tế ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính như China, India. Và

trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, nền kinh tế khống chế tốt nhất

những tác động của cuộc khủng hoảng, là nền kinh tế có hệ thống luật pháp tốt nhất,

Singapore.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 ở Đông Á đã nhấn mạnh mối quan hệ

chặt chẽ giữa doanh nghiệp và Chính phủ, theo đó các quỹ hưu trí và quỹ dự phòng

đã được sử dụng cho nhiều sáng kiến của Chính phủ như tư nhân hóa cùng với các

dự án được ủng hộ chính thức ở một số nền kinh tế trong khu vực Châu Á Thái

Bình Dương. Trong một số trường hợp, việc áp dụng các sáng kiến này không đáp

64

ứng được các tiêu chí về lợi tức kinh tế, do đó có khả năng tạo ra chi phí tài chính

cho Chính phủ, nhất là khi các quỹ dự phòng và quỹ hưu trí yêu cầu Chính phủ

cung cấp sự bảo đảm đối với hoạt động cho vay chính thức được khuyến khích.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 cũng đã làm cho vấn đề nợ nần càng thêm

quan trọng, việc không thu được những đóng góp hiệu quả cũng có thể gây ra

những chi phí tài chính lớn cho Chính phủ, đặc biệt là khi lương hưu tối thiểu thì

được bảo đảm. Sau năm 2000, từ bài học này, hiện nay luồng vốn đầu tư từ nước

ngoài vào thị trường Châu Á phần lớn là đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và

đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FPI) với các quỹ đầu tư tài hạn, chứ không phải là

đầu tư ngắn hạn, trong sự giám sát và điều tiết cẩn trọng của Chính phủ các nền

kinh tế Châu Á. Trong đó, các khuyến nghị chính sách nhằm bảo đảm sự cân bằng

đối với dòng vốn đầu tư và cơ cấu kinh tế đối với các nền kinh tế Đông Á là (i) tiến

hành tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp, (ii) phát triển các tổ chức

đầu tư dài hạn và thị trường cho trái phiếu bằng đồng nội tệ, (iii) giảm sự phụ thuộc

vào xuất khẩu như lĩnh vực dẫn đầu đối với phát triển kinh tế (Crockett, 2002;

McCauley, 2003; IDEAs, 2017).

Bên cạnh đó, trong năm 2014, khu vực Châu Á Thái Bình Dương có 4,3 tỷ

dân, chiếm 60% tổng số thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số khu vực Châu Á Thái

Bình Dương có xu hướng giảm dần theo thời gian, cụ thể trong giai giai đoạn 1990 -

2000 là 1,4%/năm, đến giai đoạn 2000 - 2010 là 1,2%/năm, đến năm 2015 là

1,0%/năm (thực sự thấp hơn tốc độ tăng trưởng dân số 1,2%/năm của toàn cầu).

Tuy nhiên, trong điều kiện tuyệt đối, sự tăng trưởng dân số của khu vực vẫn có ý

nghĩa rất quan trọng với 676 triệu người được bổ sung vào khoảng thời gian từ năm

2000 đến 2015 và sự gia tăng dân số trong khu vực vẫn còn được mô tả như là một

vụ bùng nổ dân số (UN-Habitat, 2015). Như vậy, tuy tốc độ tăng trưởng dân số

giảm dần nhưng so với toàn cầu, thì khu vực này vẫn có sự gia tăng đáng kể về dân

số. Thực tế cũng cho thấy tình trạng dân số đang có xu hướng già hóa tại các nền

kinh tế APEC khi tỷ lệ người già tăng theo thời gian, sống lâu hơn trong tình trạng

khỏe mạnh và có khuynh hướng tiết kiệm nhiều cho tuổi già (WB, 2016).

65

Tài sản hưu trí tự nguyện đã có sự tăng trưởng nhanh chóng trên toàn thế

giới trong những thập kỷ qua, mặc dù các quỹ hưu trí tự nguyện cũng đã phải chịu

tổn thất lớn trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 - 2008. Do vậy,

đây cũng là cơ hội để xem xét và đánh giá tác động của quỹ hưu trí tự nguyện trong

việc góp phần phát triển thị trường vốn, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế.

3.2.3 Các biến số được lựa chọn và nguồn dữ liệu

Từ việc tham khảo các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu của nước ngoài, đề

tài cũng đã lựa chọn những biến số có số lần được sử dụng phổ biến, có số lần

được đề cập nhiều nhất, trong đó có bao gồm các biến số kiểm soát được lượng

hóa, cụ thể hóa các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK để xây

dựng mô hình hồi quy nhằm phân tích đánh giá tác động của phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK, bao gồm 7 biến số cụ thể như sau (Bảng

3.1).

Bảng 3.1. Tổng hợp các biến số được sử dụng phổ biến, có số lần được đề cập

nhiều nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm liên quan.

Tỷ lệ

Giá trị

Vốn hóa thị

Chỉ

người

GDP

tài sản

trường của

Tỷ

Lãi

số

già trên

bình

quỹ hưu

các công ty

lệ

suất

tự

100

quân

trí tự

nội địa

lạm

dài

do

người

đầu

nguyện

niêm yết so

phát

hạn

kinh

thuộc độ

người

so với

với GDP

tế

tuổi lao

GDP

động

x

x

Catalan, Impavido và Musalem

(2000)

x

x

x

x

x

Impavido và Musalem (2000)

x

x

x

Walker và Lefort (2002)

x

x

x

x

x

Impavido, Musalem và Tresselt

(2003)

x

x

Davis và Hu (2008).

66

Raddatz và Schmukler (2008)

x

x

x

x

x

Hryckiewicz (2009)

x

x

x

x

x

x

Kim (2010)

x

x

x

x

x

Meng và Pfau (2010)

x

Liang và Bing (2010)

x

x

x

x

Rocholl và Niggemann (2010)

x

x

x

x

x

x

x

Raisa (2012)

x

x

x

x

x

Hu (2012)

x

x

x

Zandberg và Spierdijk (2013)

x

x

x

x

Sun và Hu (2014)

Tổng số trích dẫn

9

6

4

11

10

3

15

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ các nghiên cứu trước.

Như vậy, để góp phần thấy được vai trò và đánh giá ảnh hưởng tổ chức đầu

tư dài hạn, cụ thể là quỹ hưu trí tự nguyện, đến sự phát triển của TTCK, nghiên cứu

này tập trung phạm vi không gian khảo sát là các nền kinh tế thành viên thuộc

APEC trong thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2015 với số liệu thứ cấp

được tiếp cận và sử dụng được truy cập từ nguồn dữ liệu mở của các tổ chức quốc

tế như APEC, OECD, WB, WEF. Bộ dữ liệu này là dữ liệu bảng ngắn (short panel

data) do và có cấu trúc bảng không cân bằng (unbalanced data) do những số

liệu không được công bố nên bị thiếu số quan sát nền kinh tế - năm (missing value)

dẫn đến các đơn vị chéo không có cùng số quan sát theo thời gian.

3.3 Mô hình thực nghiệm

Để xây dựng mô hình hồi quy kiểm định ảnh hưởng của phát triển quỹ hưu

trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK, nghiên cứu này dựa trên những

nghiên cứu thực nghiệm trước đây để lựa chọn mô hình và các biến phù hợp. Qua

đó cho thấy, các kỹ thuật áp dụng trong phân tích dữ liệu bảng là phương pháp phổ

biến để điều tra mối quan hệ kinh tế giữa các biến trong mô hình hồi quy. Mô hình

hồi quy dữ liệu bảng dựa trên sự kết hợp của dữ liệu chéo và chuỗi thời gian nên

67

cung cấp được nhiều “thông tin hữu ích hơn, tính biến thiên nhiều hơn, ít hiện tượng

đa cộng tuyến giữa các biến số, bậc tự do cao hơn và hiệu quả hơn”.

Mô hình hồi quy dữ liệu bảng tuyến tính đơn giản có dạng:

Trong đó và đều có chỉ số dưới dòng và với quan sát

chéo và thời kỳ. Các hệ số và đều không có chỉ số dưới dòng như

và hàm ý rằng chúng là như nhau đối với các đơn vị chéo và như nhau cho tất

cả các thời kỳ.

Giả định đề xuất tồn tại mức độ không đồng nhất trong dữ liệu bảng thay vì

hệ số nên là như nhau đối với tất cả các quan sát chéo, cụ thể trong trường hợp

các nhà nghiên cứu kỳ vọng sự khác biệt trong hành vi của các nền kinh tế khác

nhau (tùy theo phương pháp tiếp cận để phân loại, ví dụ theo sự phát triển cao hay

thấp của nền kinh tế, theo tổ chức quốc tế mà nền kinh tế đó là thành viên hay

không …), mô hình trên sẽ trở thành:

Trong đó hệ số có thể không giống nhau giữa các nền kinh tế có trong

mẫu.

Trường hợp hệ số có nên thay đổi giữa các nền kinh tế khác nhau hay

không thì lại đòi hỏi một phân tích riêng rẽ cho từng đơn vị trong quan sát chéo.

Do đó, hệ số là như nhau đối với tất cả các quan sát chéo được xem như là giả

định gộp chung của ước lượng dữ liệu bảng.

Như vậy, mô hình hồi quy tổng thể trên dữ liệu bảng xem xét tác động của

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển của TTCK được mô tả như sau:

Trong đó,

đại diện cho sự phát triển của TTCK với vai trò là biến số phụ thuộc

và được tính bằng quy mô vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết (%

so với GDP) của nền kinh tế tại thời điểm năm ;

68

đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò là biến

số độc lập, được tính bằng giá trị tài sản quỹ hưu trí tự nguyện (% so với

GDP) của nền kinh tế tại thời điểm ;

Ngoài ra, để kiểm soát biến giải thích có thể có ảnh hưởng đến sự phát triển

của thị trường vốn nội địa, tác giả tập trung vào các biến số sau, bao gồm:

là biến giải thích tỷ lệ lạm phát (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;

là biến giải thích tỷ suất yêu cầu của thị trường liên quan đến TPCP có

thời gian đáo hạn trong 10 năm (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;

là biến giải thích thu nhập bình quân đầu người (USD) của nền kinh

tế tại thời điểm ;

là biến giải thích chỉ số tự do kinh tế (điểm) của nền kinh tế tại thời

điểm ;

là biến tỷ lệ số người già phụ thuộc từ 65 tuổi trở lên trên 100 người

trong độ tuổi lao động (%) của nền kinh tế tại thời điểm ;

là các tác động cố định đặc thù không được quan sát của nền kinh tế ;

là sai số ngẫu nhiên với và đại diện cho nền kinh tế và chiều thời gian

tương ứng.

3.4 Ý nghĩa của các biến số trong mô hình

Mối quan hệ giữa TTCK và quỹ hưu trí tự nguyện là mối quan hệ song hành.

Một TTCK vững chắc sẽ tạo điều kiện cho quỹ hưu trí tự nguyện phát triển và sự

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện cũng góp phần vào sự tăng trưởng của TTCK. Do

đó các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK cũng sẽ có ảnh hưởng đến sự

phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và ngược lại. Từ việc lựa chọn các

yếu tố làm biến kiểm soát để xem xét tác động của chúng đến sự phát triển của

TTCK, nghiên cứu trình bày ý nghĩa và cách đo lường của từng biến số trong mô

hình hồi quy như sau:

(i) : Vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết (% so với GDP)

69

Giá trị vốn hóa thị trường (còn gọi là giá trị thị trường) là giá hiện tại của cổ

phiếu thường nhân với số cổ phiếu thường đang lưu hành. Dữ liệu có giá trị được

ghi nhận vào cuối năm và được thu thập từ các công ty nội địa niêm yết. Số liệu của

các quỹ đầu tư, quỹ ủy thác và các công ty chỉ có mục tiêu kinh doanh là nắm giữ

cổ phiếu của các công ty niêm yết khác thì bị loại trừ. Tiêu chí này đại diện cho độ

sâu của TTCK (Catalan, Impavido & Musalem, 2000; Impavido, Musalem &

Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa,

2012).

(ii) : Tỷ lệ lạm phát (%/năm)

Tỷ lệ lạm phát được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng phản ánh tỷ lệ phần trăm

thay đổi hàng năm trong chi phí đối với người tiêu dùng trung bình mua rổ hàng hoá

và dịch vụ có thể được cố định hoặc thay đổi theo khoảng thời gian nhất định, như

là hàng năm. Theo đó, công thức Laspeyres thường được sử dụng phổ biến và cũng

áp dụng đối với số liệu về tỷ lệ lạm phát được thu thập trong nghiên cứu này.

Impavido, Musalem và Tresselt (2003) kỳ vọng mối quan hệ tích cực giữa

biến giải thích với biến phụ thuộc khi nhu cầu của cổ phiếu tăng lên do kỳ

vọng lạm phát. Boyd, Levine và Smith (2001) cũng cho rằng tăng kỳ vọng cũng

ảnh hưởng đến khả năng phân bổ nguồn lực của khu vực tài chính, nhưng khi lạm

phát vượt quá mức độ nghiêm trọng, dấu hiệu dự kiến sẽ là mối quan hệ tiêu cực

(tác động âm), do kết quả của một hệ thống tài chính xấu đi, đặc biệt đối với sự phát

triển của ngân hàng và hoạt động của TTCK (Kim, 2010).

(iii) : Lãi suất dài hạn trên thị trường giao dịch TPCP có thời gian đáo

hạn trong 10 năm (%/năm)

chủ yếu được xác định bởi (i) giá do bên cho vay tính toán, (ii) rủi ro từ

người đi vay và (iii) sự giảm sút giá trị vốn. Số liệu thu thập về lãi suất dài hạn được

tính là trung bình của các mức lãi suất hàng ngày, và đo lường đơn vị tính bằng

phần trăm (%). này được hiểu là lãi suất mà tại đó giá TPCP được giao dịch

trên thị trường tài chính chứ không phải là lãi suất mà tại đó các khoản vay đã được

phát hành. Trong tất cả các trường hợp, liên quan đến các trái phiếu có khoản

hoàn vốn được bảo đảm bởi Chính phủ. là một trong những yếu tố quyết định

70

đầu tư kinh doanh. Lãi suất thấp sẽ tác động và tạo áp lực lên giá cổ phiếu vì hai lý

do: (i) nhà đầu tư trái phiếu sẽ nhận được một mức lãi suất thấp hơn, và do đó có tỷ

suất lợi tức sẽ thấp hơn, nên buộc họ phải cân nhắc mua cổ phiếu có rủi ro cao hơn

để có được tỷ suất lợi nhuận cao hơn; (ii) lãi suất thấp làm cho việc đi vay ít tốn

kém, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dẫn đến thu nhập doanh nghiệp cao hơn

và giá cổ phiếu cao hơn. Hay nói cách khác, thấp sẽ khuyến khích đầu tư vào

trang thiết bị mới và ngược lại, đến lượt đầu tư là nguồn đóng góp chính vào tăng

trưởng kinh tế.

Trong thực tế, giá trái phiếu thay đổi khi chính sách tiền tệ thay đổi, cụ thể

như khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ làm giảm giá

trái phiếu, tăng (tỷ suất sinh lời yêu cầu của thị trường đối với việc nắm giữ

TPCP có thời hạn 10 năm). Điều này dẫn đến hành vi hạn chế đầu tư của các cá

nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là trong trường

hợp Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt thì lại có tác động ngược lại

đến giá trái phiếu trên thị trường. Theo đó, nếu Chính phủ thắt chặt tài chính, ví dụ

như để nhằm mục đích giảm thâm hụt NSNN, thì các yêu cầu tài chính sẽ làm tăng

giá trái phiếu trên thị trường và giảm .

Do đó được dùng để đo lường việc kiểm soát ảnh hưởng của sự thay đổi

trong tỷ suất sinh lời yêu cầu của thị trường đối với việc nắm giữ trái phiếu (các

công cụ tài chính thay thế so với cổ phiếu trên thị trường).

(iv) : GDP bình quân đầu người (USD hiện hành)

Số liệu thu thập về được WB tính là GDP chia cho dân số giữa năm.

Trong đó, GDP là tổng giá trị gia tăng của tất cả các nhà sản xuất cư trú trong nền

kinh tế cộng với thuế sản phẩm và trừ đi các khoản trợ cấp không bao gồm trong giá

trị của sản phẩm. Ngoài ra, một điểm cần lưu ý là GDP được tính toán mà không có

thực hiện khấu trừ đối với khấu hao tài sản cố định hoặc đối với việc cạn kiệt và suy

thoái tài nguyên thiên nhiên. Số liệu thu thập về được tính bằng đơn vị tiền tệ

là USD hiện hành. Biến này đại diện cho mức độ phát triển chung của quốc

gia, giải thích cho ảnh hưởng của năng suất khu vực thực tế đối với sự phát triển

của TTCK. Thông thường, các nền kinh tế có thu nhập cao hơn cũng có khuynh

71

hướng có thị trường vốn hoạt động tốt hơn và sâu hơn, điều này cũng có nghĩa là

có tác động tích cực (tác động dương) đến sự tăng trưởng của TTCK. Tuy

nhiên, tác động của đến TTCK cũng có thể trở nên tiêu cực (tác động âm)

khi mà quy mô vốn hóa thị trường tăng chậm chạp so với sự tăng trưởng của GDP

(Kim, 2010).

(v) : Chỉ số tự do kinh tế

Tự do kinh tế là quyền cơ bản của mỗi người nhằm kiểm soát lao động và tài

sản của riêng mình. Trong một xã hội tự do kinh tế, mọi cá nhân được tự do làm

việc, sản xuất, tiêu thụ và đầu tư theo bất kỳ cách nào họ muốn, với sự tự do đó

được bảo vệ bởi Nhà nước và không bị giới hạn bởi Nhà nước. Trong các xã hội tự

do kinh tế, các Chính phủ cho phép lao động, vốn và hàng hoá di chuyển tự do, và

ngăn/dừng việc hạn chế hoặc ép buộc tự do vượt quá mức cần thiết để bảo vệ và

duy trì tự do đó.

Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, bao

gồm tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, chi tiêu của Chính phủ, tự

do tiền tệ, tự do đầu tư, tự do tài chính, quyền sở hữu, tự do không bị ảnh hưởng từ

tham nhũng, tự do lao động. Với điểm số 100 là sự tự do tối đa cho mỗi yếu tố được

đánh giá, điểm số 100 mang hàm ý về một môi trường kinh tế hay chính sách kinh

tế có lợi nhất dẫn đến tự do kinh tế.

Nghiên cứu của Hryckiewicz (2009) tập trung xem xét khía cạnh tự do

thương mại khi phân tích cải cách hưu trí, sự phát triển của các nhà đầu tư tổ chức,

cụ thể là các quỹ hưu trí tự nguyện, ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Trong

khi đó, Rocholl và Niggemann (2010) lựa chọn khía cạnh tự do đầu tư, độ mở

thương mại khi nghiên cứu về việc huy động vốn thông qua quỹ hưu trí tự nguyện

đối với sự phát triển của thị trường vốn. Trong nghiên cứu này, mức độ tự do kinh

tế chung được tính đơn giản từ điểm trung bình của 10 yếu tố cơ bản và được lựa

chọn để trở thành giá trị của biến giải thích .

(vi) : Tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao động

Chỉ số được hiểu là tỷ lệ dân số già hóa (the ratio of population

aging) này được tính dựa trên tỷ số giữa số người từ 65 tuổi trở lên (độ tuổi chung

72

mà ở đó người lao động không hoạt động về mặt kinh tế) so với số người trong độ

tuổi từ 15 tuổi đến 64 tuổi. Giá trị số liệu thu thập được thể hiện qua đơn vị tính trên

100 người trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi).

Chỉ số này kiểm soát tác động của sự già hóa dân số đối với sự phát

triển của thị trường cổ phiếu liên quan đến mô hình tiết kiệm và đầu tư trong nền

kinh tế. Với giả định về giới hạn duy lý, khi xem xét những người có hành vi kinh

tế hợp lý tương tự, chuẩn bị nghỉ hưu bằng cách tích lũy tài chính và tài sản thực,

đặc biệt là ở độ tuổi trung niên, khi họ có khả năng đầu tư vào những tài sản đó và

đang ở những năm đỉnh cao về thu nhập, do đó sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tích

cực lên thị trường tài chính trong nước. Còn khi đến độ tuổi 40 - 64, nhóm tiết kiệm

dự kiến sẽ giảm phần tích lũy, tương ứng với sự gia tăng của nhóm người không tiết

kiệm, theo quá trình lão hóa, sẽ dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường tài

chính trong nước, thông qua kênh nhu cầu biên thấp hơn đối với tài sản tài chính

(Raisa, 2012).

Tỷ lệ dân số già hóa được dự kiến có tác động âm (ảnh hưởng tiêu

cực) đến sự tăng trưởng của TTCK do (i) sự già hóa theo thời gian sẽ làm giảm đi

các khoản tiết kiệm hoặc (ii) nếu việc nắm giữ trái phiếu được áp dụng thay cho

việc nắm giữ cổ phiếu khi tỷ lệ dân số trên 65 tuổi trở nên cao hơn. Tuy nhiên, trong

trường hợp (i) quy mô tài sản tiết kiệm của những người thuộc nhóm dân số trên 65

tuổi trong nền kinh tế là vô cùng lớn so với nhóm dân số có độ tuổi từ 15 đến 64

tuổi hoặc (ii) sự khuyến khích tăng cường việc dự phòng tiết kiệm là rất lớn thì tỷ lệ

dân số già hóa sẽ có dấu hiệu tích cực (tác động dương) đến sự phát triển của

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK và sự tăng trưởng của TTCK (Kim, 2010).

(vii) : Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP

Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện được định nghĩa là tài sản được mua

kèm với các khoản đóng góp vào chương trình hưu trí tự nguyện với mục đích duy

nhất là để tài trợ cho các khoản trợ cấp của chương trình hưu trí tự nguyện. Trong

đó, quỹ hưu trí tự nguyện là một tập hợp các tài sản tạo thành một thực thể

pháp lý độc lập. Chỉ số này được tính bằng đơn vị tiền tệ là triệu USD hoặc

theo tỷ lệ phần trăm so với GDP. Biến được sử dụng phổ biến trong các nghiên

73

cứu về quỹ hưu trí tự nguyện, làm đại diện cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK. Theo đó, được xem xét như là một nhân tố thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế thông qua sự phát triển của TTCK. Việc tăng trưởng của các quỹ hưu

trí tự nguyện có tác động làm cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn, qua đó, góp phần

tăng trưởng GDP của quốc gia (Davis và Hu, 2005; Meng và Pfau, 2010).

3.5 Phương pháp xử lý số liệu

Việc ước lượng các mô hình hồi quy dữ liệu bảng tuyến tính đơn giản có thể

được tiến hành thông qua việc sử dụng ba phương pháp: (i) với hằng số chung trong

phương trình hồi quy; (ii) cho phép có các tác động cố định; (iii) cho phép có các

tác động ngẫu nhiên. Trong đó:

 Mô hình có sử dụng hằng số chung trong phương trình hồi quy (The

common constant method) còn được gọi là phương pháp hồi quy OLS gộp

chung tất cả các quan sát (Pooled OLS method) của ước lượng thể hiện các

kết quả với giả định chủ yếu rằng không có sự khác biệt trong các ma trận dữ

liệu của kích thước mẫu ( ). Nghĩa là mô hình ước lượng một hệ số chặn

(tung độ gốc) là một hằng số chung cho tất cả các quan sát chéo và

phương pháp này hữu ích trong trường hợp bộ dữ liệu được tiên nghiệm là

đồng nhất (ví dụ mẫu chỉ toàn các nền kinh tế có thu nhập cao, hoặc chỉ xem

xét các nền kinh tế thuộc Liên minh Châu Âu …). Tuy nhiên, phương pháp

này được sử dụng khá hạn chế so với phương pháp cho phép sự bao hàm của

tác động cố định và tác động ngẫu nhiên.

 Phương pháp xem xét các tác động cố định (Fixed effects method) cho phép

hằng số là đặc thù của nhóm quan sát chéo, hàm ý rằng mỗi nhóm quan

sát có hằng số là khác nhau. Phương pháp này còn có tên gọi khác là ước

lượng LSDV (least squared dummy variables) vì để cho phép hằng số là

khác nhau cho từng nhóm quan sát chéo khác nhau thì cần phải có một biến

giả cho từng nhóm quan sát chéo này. Mô hình có dạng như sau:

Trước khi kiểm tra tính tin cậy của phương pháp xem xét các tác động cố

định so với phương pháp OLS có hằng số chung trong mô hình hồi quy, kiểm định

74

F-test được sử dụng với giả thuyết rằng tất cả các hằng số đều bằng nhau (sự đồng

nhất) .

Mô hình xem xét các tác động cố định (Fixed effects method) cho phép nắm

bắt được tất cả các tác động mang đặc thù đối với từng cá thể riêng biệt và không

thay đổi theo thời gian. Do đó, với dữ liệu bảng bao gồm các nền kinh tế, mô hình

này xem xét tất cả các vấn đề như những nhân tố địa lý, các tài nguyên thiên nhiên

cũng như tất cả các nhân tố cơ bản khác có sự đa dạng giữa các nền kinh tế nhưng

lại không thay đổi theo thời gian. Điều này cũng có nghĩa rằng không thể thêm vào

các biến không có thay đổi theo thời gian (ví dụ như kích cỡ nền kinh tế) vì chúng

sẽ đồng tuyến tính hoàn hảo với tác động cố định. Trong một số trường hợp, việc sử

dụng biến giả sẽ làm giảm bậc tự do của dữ liệu, gia tăng nguy cơ đa cộng tuyến vì

có quá nhiều biến. Nếu dữ liệu có là rất lớn thì việc tính toán hàng ngàn hằng số

khác nhau cũng khó khả thi.

Ngoài ra, việc sử dụng bộ biến giả theo thời gian cũng có thể được áp dụng

trong mô hình xem xét các tác động cố định. Phương pháp này còn được biết đến

với tên gọi mô hình xem xét các tác động cố định hai chiều (two-way FEM). Trong

đó, các đặc điểm riêng biệt có tác động thay đổi theo thời gian nhưng là giống nhau

cho toàn bộ dữ liệu bảng.

 Phương pháp xem xét các tác động ngẫu nhiên (Random effects method)

khác biệt với phương pháp xem xét các tác động cố định (Fixed effects

method) ở chỗ các hằng số cho mỗi nhóm quan sát không phải là các tham số

cố định mà là các tham số ngẫu nhiên. Lúc này sự biến động của hằng số cho

mỗi nhóm quan sát là , trong đó zero mean standard random

variable.

Mô hình xem xét các tác động ngẫu nhiên có dạng như sau:

Kiểm định Hausman được dùng để so sánh hiệu quả giữa phương pháp ước

lượng hiệu ứng ngẫu nhiên FEM và phương pháp ước lượng hiệu ứng cố định

75

REM. Thực chất kiểm định Hausman để xem xét có tồn tại tự tương quan giữa các

sai số và các biến độc lập trong mô hình hay không. Nếu P-value > 05% thì kết

luận rằng chưa đủ cơ sở để bác bỏ , hay nói cách khác là không có sự khác biệt

giữa FEM và REM một cách có ý nghĩa thống kê. Kết quả này còn cho thấy các sai

số không có tương quan với các biến độc lập trong mô hình và sử dụng mô hình

các ảnh hưởng ngẫu nhiên sẽ có hiệu quả hơn. Còn nếu P-value < 5%, bác bỏ ,

thường thì REM không hợp lý, nên sử dụng FEM.

3.6 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm

3.6.1 Thống kê mô tả

Thống kê mô tả các biến số trong mẫu giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015

được trình bày cụ thể trong bảng 3.2 như sau:

Bảng 3.2 Thống kê các biến số trong mẫu giai đoạn 2000 - 2015.

Variable

Obs

Mean

Std. Dev.

Min

Max

151

65,64896

29,70931

14,01656

118,1327

151

3,125655

2,426735

-1,346719

15,52533

151

5,246457

2,77952

0,3466667

15,68075

151

19.9947,82

17.387,59

958,0116

67.652,68

151

68,15533

9,995838

50,3

87,4

151

15,83827

7,939747

5,598219

43,32391

151

23,93331

27,71412

0,305036

118,7

Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.

Bảng 3.2 tóm tắt kết quả thống kê của tất cả các biến số được sử dụng trong

mô hình hồi quy. Từ kết quả thống kê cho thấy giá trị trung bình của vốn hóa thị

trường của các công ty nội địa niêm yết là 65,64% so với GDP và giá trị trung bình

tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện vào khoảng 23,93% so với GDP. Tỷ lệ này cho

thấy giá trị đóng góp trong sự tăng trưởng của TTCK nói riêng và nền kinh tế của

quỹ hưu trí tự nguyện có tiềm năng phát triển hơn nữa đối với các nền kinh tế thuộc

APEC trong giai đoạn 2000 - 2015.

Bên cạnh đó, giá trị trung bình của tỷ lệ dân số già hóa vào khoảng 15,83%

cho thấy các nền kinh tế thuộc APEC đang trong thời kỳ đối mặt với tình trạng dân

số già; giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế vào khoảng 68,15% cho thấy các

76

nền kinh tế thuộc APEC vẫn còn cần mở rộng cánh cửa tự do hóa đến từ môi trường

kinh tế hay chính sách kinh tế hiệu quả dẫn đến tự do kinh tế; giá trị trung bình của

GDP bình quân đầu người vào khoảng 19.947,82 USD/năm; giá trị trung bình của

lãi suất dài hạn trên thị trường giao dịch TPCP có thời gian đáo hạn trong 10 năm

vào khoảng 5,25%/năm; giá trị trung bình của tỷ lệ lạm phát là 3,13%/năm tại các

nền kinh tế thuộc APEC trong giai đoạn 2000 - 2015.

1,000

-0,3751

1,000

0,0000

-0,5244

0,6834

1,000

0,0000

0,0000

0,4202

-0,4623

-0,5767

1,000

0,0000

0,0000

0,0000

0,4231

-0,4602

-0,3826

0,7164

1,0000

0,0000

0,0000

0,0000

0,0000

0,3434

-0,4615

-0,6610

0,7611

0,4631

1,0000

0,0000

0,0000

0,0000

0,0000

0,0000

0,6217

-0,2472

-0,3381

0,6956

0,7037

0,3906

1,0000

0,0000

0,0022

0,0000

0,0000

0,0000

0,0000

Bảng 3.3 Ma trận tương quan giữa các biến số.

Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.

Kết quả ma trận tương quan trình bày ở bảng 3.3 được sử dụng để tìm hiểu

mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện (thông qua biến đại diện là tài sản của quỹ

hưu trí tự nguyện so với GDP) đối với sự phát triển TTCK (thông qua biến đại diện

là vốn hóa thị trường của các công ty nội địa niêm yết so với GDP). Qua đó cũng

cho thấy xét trong mối tương quan lần lượt với từng biến số khác, giá trị vốn hóa thị

trường của các công ty nội địa niêm yết so với GDP ( ) và giá trị tài sản quỹ hưu

trí tự nguyện so với GDP ( ) đều có (i) mối tương quan thuận lần lượt với giá trị

tài sản quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP ( ), GDP bình quân đầu người

( ) và chỉ số tự do kinh tế ( ) cũng như tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100

người thuộc độ tuổi lao động ( ); (ii) đều có mối tương quan nghịch lần lượt

với tỷ lệ lạm phát ( ) và lãi suất dài hạn ( ).

77

Ma trận hệ số tương quan từng đôi được trình bày trong bảng 3.3 cho thấy

mối tương quan Pearson giữa các cặp biến số được sử dụng trong mô hình hồi quy

thông qua hệ số tương quan và mức ý nghĩa tương quan của kiểm định Pearson

(significant). Mức ý nghĩa tương quan sig của kiểm định Pearson của các cặp biến

điều nhỏ hơn 5% chứng tỏ các cặp biến có tương quan với nhau. Nhìn chung, hệ số

tương quan càng lớn thì tương quan càng chặt, hầu hết giá trị hệ số tương quan giữa

các cặp biến số là dưới 60%. Hệ số cao nhất (0,7611; 0,7164; 0,7037) thể hiện lần

lượt mối quan hệ giữa (i) tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao

động ( ) với GDP bình quân đầu người ( ), (ii) chỉ số tự do kinh tế

( ) với GDP bình quân đầu người ( ), (iii) tỷ lệ người già phụ thuộc trên

100 người thuộc độ tuổi lao động ( ) với chỉ số tự do kinh tế ( ).

Hơn nữa, để xác định liệu rằng hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến có

tồn tại hay không, việc kiểm định hệ số phóng đại phương sai (Variance Inflation

Factor - VIF) được tiến hành để kiểm tra cho dữ liệu bảng thông qua lệnh Collin

trong Stata 11. Kết quả của kiểm định VIF (kiểm định sự tương quan giữa các biến

độc lập trong mô hình) cho thấy tất cả các hệ số đều nhỏ hơn 10 (Mean VIF = 3,22),

điều này nghĩa là hiện tượng đa cộng tuyến không xảy ra trong bộ số nghiên cứu

(Kennedy, 1992).

3.6.2 Kết quả hồi quy

Đầu tiên, phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng thể (hồi quy OLS

dữ liệu bảng) được thực hiện để phân tích mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện

(thông qua biến đại diện là tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP) đối với sự

phát triển TTCK (thông qua biến đại diện là vốn hóa thị trường của các công ty nội

địa niêm yết so với GDP). Kết quả hồi quy OLS dữ liệu bảng cho thấy quỹ hưu trí

tự nguyện có tác động quan trọng đối với sự phát triển TTCK. Cụ thể, hệ số hồi quy

của biến tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP có dấu dương (0,7826) và có

ý nghĩa ở mức 1%.

Bên cạnh đó, hệ số R-squared của mô hình hồi quy ở mức là 54,72%. Điều

này có nghĩa mô hình này giải thích được tương đối kết quả về mối quan hệ giữa

78

quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển TTCK. Bên cạnh đó, kiểm định F với giá trị p

dưới 0,01 cũng cho thấy mô hình phù hợp với tập dữ liệu và sử dụng được.

Kiểm tra hettest (kiểm định Breusch - Pagan/Cook - Weisberg đối với hiện

tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy) cho thấy P-value > 5% (Prob >

chi2 = 0,7800), do đó không đủ cơ sở để bác bỏ , hay nói cách khác, không có

hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy.

Kiểm định Wooldridge đối với hiện tượng tự tương quan cho bộ dữ liệu bảng

cho thấy P-value > 5% (Prob > F = 0,0870), do đó không đủ cơ sở để bác bỏ ,

hay nói cách khác, không có sự tự tương quan trong mô hình ước lượng dữ liệu

bảng.

Qua quá trình kiểm định từng phần ở trên, mô hình có hiện tượng đa cộng

tuyến được đánh giá là không nghiêm trọng, mô hình không có hiện tượng phương

sai của sai số thay đổi, mô hình không có hiện tượng tự tương quan. Do đó, kết quả

mô hình nghiên cứu theo phương pháp OLS là tin cậy.

Tuy nhiên, độ vững và tính hiệu quả của các hệ số trong phân tích dữ liệu

bảng dựa trên phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất tổng thể (Pooled OLS)

có thể bị nghi ngờ vì mô hình OLS tổng thể không cần quan tâm đến các yếu tố

không thể thu thập được hoặc ảnh hưởng riêng lẻ, đặc thù từng doanh nghiệp, trong

khi vấn đề ảnh hưởng riêng lẻ là một trong những hiện tượng xảy ra thường xuyên ở

những nghiên cứu thực nghiệm (Baltagi, 2005). Do đó, để xử lý vấn đề về các yếu

tố không quan sát được (unobserved heterogeneity), mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên

(RE) và ảnh hưởng cố định (FE) được sử dụng. Sau đó, việc kiểm định sự tồn tại

của các ảnh hưởng cố định được tiến hành để làm cơ sở lựa chọn giữa mô hình hồi

quy OLS và FE, kiểm định về sự tương quan chéo giữa giữa các đơn vị bảng được

triển khai để làm cơ sở lựa chọn giữa mô hình hồi quy OLS và RE. Tiếp đến, kiểm

định Hausman sẽ được thực hiện để kiểm tra sự tương quan giữa các ảnh hưởng cố

định với các biến giải thích hay lựa chọn giữa mô hình FE và RE.

Cả hai mô hình này đều đưa các kết quả về dấu của hệ số hồi quy của biến

quỹ hưu trí tự nguyện, chỉ khác nhau ở mức độ ý nghĩa thống kê. Để xác định mô

hình nào tốt hơn, nghiên cứu này thực hiện kiểm định F cho mô hình FE, kiểm định

79

Breusch and Pargan Lagrange Multiplier (LM) cho mô hình RE và kiểm định

Hausman để chọn lựa giữa mô hình RE và FE. Một cách chi tiết, kiểm định ý nghĩa

thống kê F cho thấy mô hình EF tốt hơn mô hình OLS, nghĩa là có ảnh hưởng cố

định trong mô hình ước lượng với P-value < 5% (Prob > F = 0,0000). Kết quả kiểm

định xttest0 (kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian) đối với mô hình RE cho

thấy P-value < 5% (Prob > chi2 = 0,0000) nghĩa là giả thiết bị bác bỏ, điều này

chứng tỏ có ảnh hưởng ngẫu nhiên trong mô hình ước lượng. Chính vì vậy mô hình

RE tốt hơn mô hình OLS, hay nói cách khác, mô hình RE là mô hình phù hợp hơn

mô hình OLS.

Trong khi đó, với giả định về sự khác biệt ảnh hưởng của các biến là

không mang tính hệ thống, nếu nếu giả thiết này không có đủ cơ sở để bị bác bỏ, thì

việc ước lượng của 2 mô hình FE và RE là tương đương về kết quả. Đối chiếu với

kết quả kiểm định Hausman có P-value > 5% (Prob > Chi2 = 0,0636) cho thấy

không đủ cơ sở bác bỏ , trong trường hợp này nghiên cứu lựa chọn sử dụng mô

hình RE hợp lý hơn FE. Điều này hàm ý rằng mô hình FE có thể bị chệch (biased)

và hệ số không vững chắc (inconsistent); ngược lại, mô hình RE sẽ duy trì được tính

không chệch (unbiased) và hệ số vững chắc.

Như vậy, trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn mô hình RE do mô hình RE

tốt hơn mô hình OLS và mô hình EF trong việc thể hiện tác động của phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện đến sự tăng trưởng của TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC

trong giai đoạn 2000 đến 2015. Từ đó, tác giả lựa chọn kết quả hồi quy theo REM

để làm kết quả cho kết luận của nghiên cứu. Kết quả hệ số ước lượng trong mô hình

RE cho thấy hệ số hồi quy của biến quỹ hưu trí tự nguyện thì dương và có ý nghĩa

thống kê tại mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này nằm

trong kỳ vọng của giả thuyết đặt ra ban đầu của nghiên cứu (PHỤ LỤC 6).

Hơn nữa, để tăng tính hiệu quả của mô hình RE, kiểm định phương sai thay

đổi và kiểm định tự tương quan trong dữ liệu bảng được thực hiện. Kết quả kiểm

định xttest3 đối với mô hình FE (kiểm định Modified Wald) chứng minh có xảy ra

hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình ước lượng ban đầu do P-value < 5%

(Prob > chi2 = 0,0000). Nhưng kiểm định Wooldridge cho thấy không xuất hiện

80

hiện tượng tự tương quan trong tất cả các phương trình hồi quy. Ngoài ra, để xử lý

vấn đề phương sai thay đổi trong mô hình EF, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy

FE với điều chỉnh sai số chuẩn (FE - robust standard errors) dành cho nhỏ, lớn

(FE - cluster).

Bảng 3.4 Bảng tổng hợp các kết quả ước lượng ảnh hưởng của phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện đến TTCK và các kết quả kiểm định với các mô hình OLS,

FEM

Variable

OLS

FEM-cluster

REM

-0,8813978

-2,155102**

-2,155102*

-1,778959**

0,011

0,387

0,055

0,031

0,839

1,016

1,035

0,826

-4,598254***

-4,785188***

-4,785188***

-4,578459***

0,000

0,000

0,000

0,000

0,904

0,993

0,734

0,882

-0,0006348***

-0,0006722***

-0,0006722*

-0,0009343***

0,009

0,003

0,060

0,000

0,000

0,000

0,000

0,000

-0,1277528

-0,7771847

-0,7771847

0,1497132

0,319

0,649

0,342

0,750

0,777

0,279

0,792

0,469

0,1637325

2,098729***

2,098729***

1,20526**

0,001

0,661

0,008

0,019

0,646

0,372

0,680

0,513

0,7826034***

0,0114778

0,0114778

0,551053***

0,963

0,000

0,970

0,001

0,249

0,097

0,299

0,171

Constant

92,57421***

130,3531**

130,3531**

72,71303**

0,000

0,017

0,010

0,011

18,755

30,334

49,588

45,257

R-squared

R-squared 0,5472

within = 0,3518

within = 0,3518

within = 0,3188

Adj R-squared

between = 0,0071

between = 0,0071

between = 0,6337

0,5284

overall = 0,0877

overall = 0,0877

overall = 0,4709

151

Observations

151

151

151

F test that all β=0

F( 6, 144) = 29,01

F(6,129) = 11,67

F(6,15) = 34,68

Prob>F

Prob>F = 0,0000

Prob>F = 0,0000

Prob>F = 0,0000

FE, FE-cluster và RE.

81

Wald (chi2) Prob>

Wald chi2(6) =

Chi2

82,31

Prob > chi2 =

0,0000

Breusch

and

chi2(1) = 192,56

Pagan test Prob>

Prob > chi2 =

Chi2

0,0000

F

test

that all

F(15, 129) = 11,76

u_i=0

Prob > F = 0,0000

Prob>F

Hausman

test

chi2(5) = (b-

Chi2 Prob>Chi2

B)[(V_b-V_B)^(-

1)](b-B) = 10,45

Prob>chi2 = 0,0636

Wald

test

for

chi2 (16) = 390,65

heteroskedasticity

Prob>chi2 =

Chi2 Prob>Chi2

0,0000

Wooldridge

test

F( 1, 13) = 3,428

for autocorrelation

Prob > F = 0,0870

Kết quả được trình bày ở mỗi biến số trong mỗi mô hình theo thứ tự lần lượt là (i) giá trị trung bình của hệ số

hồi quy (Coeficient); (ii) mức ý nghĩa thống kê (P-value) và (iii) sai số chuẩn (Standard error);

* Có ý nghĩa thống kê tại mức 10%; ** Có ý nghĩa thống kê tại mức 5%; *** Có ý nghĩa thống kê tại mức

1%.

Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Stata 11.

Qua bảng 3.4 cho thấy mặc dù tiếp cận ở các phương pháp khác nhau, nhưng

tất cả các kết quả của các mô hình đều đồng nhất và cùng kết quả như kỳ vọng về

mối quan hệ tích cực giữa sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự tăng

trưởng của TTCK. Các kết quả tìm được từ các mô hình OLS, FE, FE-cluster và RE

đã ủng hộ giả thuyết đó là sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện có mối tương

quan dương với sự phát triển của TTCK, trong đó kết quả này từ các mô hình OLS

và RE cho thấy tác động sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện đến tăng trưởng

của TTCK là ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Cụ thể, trong

mô hình RE, với mỗi phần trăm tăng lên của quy mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện

) thì kỳ vọng sẽ góp phần làm tăng trưởng TTCK ( ) lên trung bình vào (

khoảng 0,55% tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến 2015, với điều

82

kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này đồng nhất với hầu hết tất cả các nghiên

cứu trước đây (Catalan, Impavido & Musalem, 2000; Impavido, Musalem &

Tresselt, 2003; Hryckiewicz, 2009; Meng & Pfau, 2010; Kim, 2010; Rocholl &

Niggemann, 2010; Raisa, 2012).

Điều thú vị là dấu hiệu của hệ số hồi quy thu được cho biến tự do kinh tế

( ) như là một yếu tố quyết định cho sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK và sự tăng trưởng của TTCK, trong mô hình OLS và FE, FE - cluster khi

xem xét các tác động cố định đặc thù thì lại mang dấu âm, tuy nhiên độ tin cậy là

thấp. Vì nghiên cứu đã xem xét một chỉ số tổng hợp về tự do kinh tế được đề xuất

như nghiên cứu của Raisa (2012) bao trùm cả 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế

(trong đó gồm tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, chi tiêu của

Chính phủ, tự do tiền tệ, tự do đầu tư, tự do tài chính, quyền sở hữu, tự do không bị

ảnh hưởng từ tham nhũng, tự do lao động) nên thật khó để có thể kết luận yếu tố

nào trong số 10 yếu tố trên đã tạo ra dấu hiệu tiêu cực này. Raisa (2012) giải thích

rằng tự do hoá tài chính và mở cửa thị trường vốn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến

hoạt động của thị trường vốn nội địa do dòng vốn đầu tư di chuyển ra nước ngoài,

nói cách khác, sự di chuyển của hoạt động kinh doanh vốn sang TTCK quốc tế làm

giảm hoạt động của thị trường vốn trong nước.

Còn trong mô hình hồi quy RE khi xem xét đến các tác động ngẫu nhiên,

ngoại trừ chỉ số tự do kinh tế ( ) có tác động tích cực đến sự phát triển của TTCK

nhưng ảnh hưởng này lại có độ tin cậy là thấp, thì tất cả các chỉ tiêu còn lại đều có

tác động có ý nghĩa thống kê đến sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

và sự tăng trưởng của TTCK. Cụ thể như sau:

Tỷ lệ lạm phát ( ) có ảnh hưởng bất lợi (tác động âm) đến sự phát triển của

TTCK ( ) tại mức ý nghĩa thống kê 5% cho thấy tại các nền kinh tế APEC trong

giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015, cứ mỗi phần trăm tăng lên của tỷ lệ lạm phát

( ) làm giảm sự tăng trưởng của TTCK ( ) trung bình vào khoảng -1,77% trong

điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này phù hợp với Boyd, Levine &

Smith (2001), Raisa (2012) cho thấy mức lạm phát cao hơn có liên quan đến một

quy mô TTCK nhỏ hơn, ít hoạt động hơn và kém hiệu quả hơn.

83

Lãi suất dài hạn ( ) tại các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến

2015 cho thấy sự thay đổi về lãi suất của các công cụ nợ dài hạn có tác động tiêu

cực và có ý nghĩa thống kê tại mức 1% đến sự tăng trưởng của TTCK ( ), theo

đó cứ mỗi phần trăm tăng lên của lãi suất dài hạn ( ) làm giảm sự tăng trưởng

của TTCK ( ) trung bình vào khoảng -4,57% trong điều kiện các yếu tố khác

không đổi.

) tại các nền kinh tế APEC trong giai

Thu nhập bình quân đầu người (

đoạn 2000 đến 2015 có tác động tiêu cực đến sự phát triển của TTCK ( ). Mặc

dù kết nối này dường như là rất yếu nhưng kết quả hồi quy là có ý nghĩa thống kê

tại mức 1%. Theo đó cứ mỗi phần trăm tăng lên của thu nhập bình quân đầu người

) làm sự tăng trưởng của TTCK (

( ) thiên về khuynh hướng giảm trung

bình vào khoảng -0,00% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Điều này đã

được lưu ý trong nghiên cứu của Kim (2010) khi mà quy mô vốn hóa thị trường

tăng trưởng chậm hơn so với sự phát triển của GDP thì có thể mang đến ảnh

hưởng tiêu cực (tác động âm) đến sự phát triển của TTCK.

Tỷ lệ người già phụ thuộc trên 100 người thuộc độ tuổi lao động ( ) tại

các nền kinh tế APEC trong giai đoạn 2000 đến 2015 có mối tương quan thuận và

có ý nghĩa thống kê tại mức 5% với sự phát triển của TTCK nội địa được đại diện

bởi biến quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu nội địa ( ), theo đó cứ mỗi phần

trăm tăng lên của tỷ lệ dân số già hóa ( ) được kỳ vọng làm cho sự phát triển

của TTCK ( ) tăng trung bình vào khoảng 1,20% trong điều kiện các yếu tố khác

không đổi.

3.6.3 Bài học kinh nghiệm

Qua đó, nghiên cứu cho thấy bài học kinh nghiệm để phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK Việt Nam từ các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK nói riêng, phát triển TTCK nói chung tại các nền kinh tế APEC là:

 Cần duy trì ổn định các yếu tố kinh tế vĩ mô, đặc biệt là tỷ lệ lạm phát;

84

 Chú trọng mức độ phát triển tài chính trong nền kinh tế thông qua hiện đại

hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, đa dạng hóa các sản phẩm tài chính trên

TTCK;

 Thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của quy mô vốn hóa của tài sản quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK cũng như quy mô vốn hóa TTCK nhanh hơn so với tốc độ

tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người;

 Quan tâm đến các cải cách toàn hệ thống hưu trí, thực hiện theo hướng mô

hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, trong đó chú trọng phát triển các quỹ hưu

trí tự nguyện theo mô hình DC. Đồng thời, khuyến khích tăng cường dự

phòng tiết kiệm trong dân cư nhằm góp phần gia tăng quy mô tài sản của

quỹ hưu trí tự nguyện bên cạnh nguồn lợi tức có được từ việc đầu tư các tài

sản của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK.

Kết luận Chương 3

Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của Chương 3, luận án đã tập trung

phân tích thị trường hưu trí của các quốc gia thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương. Nhìn chung, các kết quả từ phân tích định lượng mô hình hồi quy của

nghiên cứu cũng đã xác nhận những phát hiện từ các tài liệu nghiên cứu trước về

mối liên quan tích cực giữa sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện với sự phát

triển của TTCK. Sự gia tăng hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện dẫn đến sự

tăng trưởng tài sản tài chính của các quỹ này có tương quan dương với sự phát triển

của quy mô vốn hóa thị trường với hệ số hồi quy là dương và có ý nghĩa thống kê ở

mức 1% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi tại các nền kinh tế thuộc APEC

trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015.

Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu cũng đồng nhất quan điểm của Hu

(2012) khi cho rằng sự tăng trưởng tài sản hưu trí có những tác động tích cực đến

phát triển tài chính, ví dụ như lãi suất thấp hơn và mức vốn hóa TTCK cao hơn và

các Chính phủ của các nền kinh tế thuộc AEPC nên tiếp tục cải cách hệ thống hưu

trí của mình hướng tới việc tạo ra các nguồn tài chính trang trải cho các nghĩa vụ nợ

phải trả trong tương lai thông qua việc thiết lập các chương trình hưu trí tự nguyện.

Từ đó, nghiên cứu góp phần bổ sung thêm kết quả chứng minh từ khu vực Châu Á -

85

Thái Bình Dương, góp phần chứng minh tác động tích cực của tăng trưởng quỹ hưu

trí tự nguyện đến sự phát triển của thị trường vốn một cách toàn diện trên toàn thế

giới.

Nghiên cứu cũng đã xem xét các yếu tố lượng hóa, cụ thể hóa các điều kiện

kiểm soát sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK thường được lựa chọn

phân tích như (i) tỷ lệ lạm phát; (ii) lãi suất dài hạn trên thị trường TPCP; (iii) GDP

bình quân đầu người; (iv) chỉ số tự do kinh tế; (v) tỷ lệ người già trên 100 người

trong độ tuổi lao động … (Impavido, Musalem & Tresselt, 2003; Hryckiewicz,

2009; Kim, 2010; Rocholl & Niggemann, 2010; Raisa, 2012). Bài học kinh nghiệm

từ kết quả nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền

kinh tế thuộc APEC của luận án là một trong các cơ sở để tác giả đề xuất các

khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

86

CHƯƠNG 4. PHÁT TRIỂN QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Trong chương 4, luận án giới thiệu tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong

hệ thống hưu trí Việt Nam thông qua việc trình bày quá trình hình thành và phát

triển hệ thống hưu trí tại Việt Nam bao gồm (i) quá trình hình thành và phát triển hệ

thống hưu trí Việt Nam (ii) vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí

Việt Nam; (iii) Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung. Luận án

trình bày về thực trạng phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam thông qua các

khía cạnh sau: (i) cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện; (ii) thực trạng phát

triển các chương trình hưu trí tự nguyện; (iii) hoạt động của các quỹ hưu trí tự

nguyện tại Việt Nam. Luận án cũng trình bày các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện tại Việt Nam bằng mô hình PESTLIED và xem xét triển vọng phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam và đánh giá triển vọng phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện trên TTCK Việt Nam từ sự lựa chọn của cá nhân là công dân Việt Nam.

4.1 Tổng quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt

Nam

4.1.1 Quá trình hình thành và phát triển hệ thống hưu trí Việt Nam

BHXH ở Việt Nam bao gồm BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,

trợ cấp xã hội và các chương trình việc làm. BHXH ở Việt Nam bao gồm lương hưu

và trợ cấp ngắn hạn (bao gồm thai sản và hỗ trợ cho sự thay đổi thu nhập trong

trường hợp sinh con, nghỉ ốm, thất nghiệp, tai nạn lao động, người già, người tàn tật

và đủ sống). Hệ thống hưu trí là một bộ phận của hệ thống BHXH Việt Nam, do đó

quá trình hình thành của hệ thống hưu trí gắn liền với các giai đoạn phát triển của hệ

thống BHXH Việt Nam. Về mặt xã hội, chế độ hưu trí dành cho những người không

còn tham gia vào quan hệ lao động nữa. Vì vậy, chế độ này rất cần thiết và không

thể thiếu được vì đến lúc hết tuổi lao động thì người lao động vẫn có nhu cầu bảo

đảm cuộc sống. Lúc này, lương hưu là nguồn thu nhập chính của họ nên được

87

hưởng trợ cấp lương hưu là nguồn động lực cơ bản để người lao động tham gia vào

quan hệ BHXH (Bảng 4.1).

Bảng 4.1 Quá trình phát triển hệ thống BHXH của Việt Nam.

Thời gian

Sự kiện đối với hệ thống BHXH Việt Nam

8/1945

Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời.

12/1946

Hiến pháp đầu tiên đã xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già.

12/3/1947

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký 02 sắc lệnh số 76 và 77/SL vào ngày 20/5/1950, trong

đó quy định về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công

nhân viên chức.

27/12/1961 Điều lệ tạm thời về BHXH được ban hành ở miền Bắc. Đây là văn bản gốc về

BHXH đối với cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước, gồm có 6 chế độ và quy

định Quỹ BHXH nằm trong NSNN, do các cơ quan, đơn vị đóng góp. Năm 1964,

điều lệ đãi ngộ đối với quân nhân được ban hành.

Tại miền Nam, BHXH cũng được thực hiện đối với người làm công, hưởng lương

và binh lính làm việc cho chính thể chính quyền cũ.

Từ

1975

BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Đối tượng chủ yếu là cán bộ, công

đến

nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang.

trước 1995

01/01/1995 Bộ Luật Lao động được ban hành, quy định về hình thành Quỹ BHXH độc lập với

NSNN, do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ

của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện

các chế độ BHXH, quy định thêm thành phần kinh tế tư nhân tham gia BHXH.

29/6/2006 Quốc hội thông qua Luật BHXH, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH

bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện; từ 01/01/2009 đối với

BHTN.

20/11/2014 Quốc hội thông qua Luật BHXH năm 2014 với những bổ sung, sửa đổi quan trọng

so với luật BHXH năm 2006.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Giang Thanh Long (2004), Điều Bá Dược (2013).

Qua bảng 4.1 cho thấy hệ thống BHXH của Việt Nam có sự hình thành, sửa

đổi bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do đó, hệ thống

hưu trí của Việt Nam cũng có những thay đổi quan trọng trong quá trình hình thành

và phát triển của mình như sau:

 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1995

88

Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1954, do đất nước còn đang trong giai

đoạn kháng chiến, nên việc thực hiện chế độ BHXH còn gặp nhiều khó khăn và hạn

chế, nhưng cũng đã tạo nền móng cho quá trình phát triển của BHXH sau này.

Đến giai đoạn từ năm 1954 đến trước năm 1975, miền Bắc đã được giải

phóng, các văn bản pháp lý và chính sách về BHXH được hình thành và phát triển

nhanh, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Khi Nghị định 218/CP được ký ngày

27/12/1961 về ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân

viên chức Nhà nước được thực thi ở miền Bắc vào cuối năm 1961 thì hệ thống hưu

trí cũng bắt đầu hoạt động từ năm 1962.

Từ năm 1975 đến trước năm 1995, BHXH được thực hiện thống nhất trong

cả nước. Khoản hưởng lợi được chi trả từ quỹ BHXH - quỹ được hình thành từ

khoản đóng góp của người sử dụng lao động (một phần quỹ lương) và từ trợ cấp của

Chính phủ. Quỹ BHXH do Chính phủ quản lý và bảo trợ và là một bộ phận của

NSNN.

Do đó, đặc điểm BHXH của Việt Nam giai đoạn này gắn với nền kinh tế tập

trung, bao cấp; đối tượng chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và lực

lượng vũ trang; nguồn chi trả các chế độ từ NSNN thường chậm, thiếu chủ động, tổ

chức bộ máy thực hiện phân tán. Trong đó, chế độ BHXH đối với công nhân viên

chức Nhà nước là chế độ PAYG theo kế hoạch có mức hưởng được xác định trước

(DB) (Giang Thanh Long, 2004; Điều Bá Dược, 2013).

Nhìn chung, trước năm 1995, hệ thống hưu trí của Việt Nam là hệ thống có

mức hưởng được xác định trước (DB), chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức

năng dưới sự giám sát của Chính phủ và chỉ có lao động của khu vực công tham gia

vào hệ thống. Trong đó, mức hưởng hưu trí được xác định căn cứ vào số năm đóng

góp và thu nhập cơ sở (thường là mức lương vào thời điểm nghỉ hưu) và được chi

trả từ Quỹ BHXH. Quỹ BHXH này do Nhà nước quản lý và bảo trợ, là một bộ phận

89

của NSNN, quỹ được hình thành từ các khoản đóng góp của người sử dụng lao

động, người lao động và trợ cấp từ Nhà nước3.

 Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2007

Từ năm 1995 đến trước năm 2007, chiến lược phát triển Việt Nam theo nền

kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội đã tạo điều kiện cho thành phần kinh

tế tư nhân phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng làm phát sinh những vẫn đề phức

tạp khó khăn trong việc quản lý hành chính, tài chính và đặc biệt bảo vệ quyền lợi

cho người lao động. Chính vì vậy, Bộ Luật Lao động số 35-L/CTN được Chính phủ

ban hành ngày 23/6/1994, có hiệu lực thực hiện từ 01/01/1995, dành một chương về

BHXH, quy định về đối tượng được mở rộng; hình thành Quỹ BHXH độc lập với

NSNN, do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ

của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện

các chế độ BHXH.

Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH

Việt Nam (Vietnam Social Insurance - VSI), trên cơ sở thống nhất chức năng,

nhiệm vụ về BHXH của Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (MOLISA) và Tổng

Liên đoàn Lao động Việt Nam. Về chính sách BHXH, Chính phủ ban hành Nghị

định số 12/CP kèm theo Điều lệ BHXH áp dụng cho cán bộ, công nhân viên chức

và người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế.

Ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP kèm theo Điều lệ

BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân

dân và công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu.

Như vậy, từ năm 1995 trở đi, hệ thống hưu trí của Việt Nam được quản lý

bởi BHXH Việt Nam (VSI). Hệ thống hưu trí chủ yếu là hệ thống hưu trí công vận

toàn bộ cho số người được hưởng lợi của hệ thống trước năm 1995 và sau đó nhận khoản thanh toán từ Chính

phủ thông qua Bộ Tài chính. Điều này nghĩa là lương hưu cho các cá nhân nghỉ hưu trước năm 1995 được

thanh toán từ ngân sách nhà nước. Các đối tượng này đã được tích hợp vào hệ thống mới, nhưng Chính phủ

ghi nhận rằng các quyền lợi lương hưu có trước năm 1995 vẫn nên do Nhà nước chi trả để chi phí không

đánh vào những người đóng góp hiện tại. Điều này dẫn tới việc tồn tại hai hệ thống chồng chéo và vướng víu

(WB, 2012).

3 Trên thực tế, từ sau năm 1995, BHXH Việt Nam (Vietnam Social Insurance - VSI) nhận trách nhiệm chi trả

90

hành theo cơ chế PAYG có mức hưởng được xác định trước (DB) nhưng trong đó

có sự quy định thêm sự tham gia của cả thành phần kinh tế tư nhân.

 Giai đoạn từ năm 2007 đến trước 2014

Luật BHXH được thông qua vào năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ

01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện;

từ 01/01/2009 đối với Bảo hiểm thất nghiệp. Các quy định của Luật BHXH về chế

độ hưu trí được kế thừa từ các quy định trước đây; có phát triển, mở rộng về đối

tượng, loại hình BHXH tự nguyện. Các chế độ BHXH được quy định cụ thể có lợi

hơn cho người lao động như quy định chặt chẽ về quản lý, sử dụng, đầu tư tăng

trưởng Quỹ BHXH, trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, quản lý, giám sát

việc quản lý và Quỹ BHXH công khai, minh bạch, góp phần bảo đảm an sinh xã

hội.

Hệ thống hưu trí của Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm chế độ

hưu trí nằm trong BHXH theo các quy định pháp luật về BHXH và bảo hiểm hưu trí

(niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp.

Tóm lại, từ năm 2007 trở đi, cùng với sự ra đời của luật BHXH, hệ thống

hưu trí của Việt Nam chủ yếu vẫn là hệ thống hưu trí công theo cơ chế PAYG có

mức hưởng được xác định trước (DB) nhằm bảo đảm an sinh xã hội với chương

trình bảo hiểm hưu trí bắt buộc. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí đã có sự phát triển mở

rộng thêm về đối tượng áp dụng, chương trình bảo hiểm hưu trí tự nguyện theo mô

hình DC, trong đó người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và

phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. Đây cũng

chính là cơ sở phát triển đối với quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của

Việt Nam trong tương lai.

 Giai đoạn từ năm 2014 đến nay

Theo hình 4.1, bên cạnh hệ thống hưu trí BHXH mang tính chất bắt buộc

theo cơ chế PAYG với mô hình DB, cùng với chương trình bảo hiểm hưu trí tự

nguyện theo mô hình DC, Luật BHXH năm 2014 đề cập đến chương trình bảo hiểm

hưu trí bổ sung mang tính chất tự nguyện nhằm hướng tới mô hình hệ thống hưu trí

91

đa trụ cột. Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển quỹ hưu trí bổ sung và quỹ hưu

Hệ thống hưu trí Việt Nam

Chính sách bảo

Chương trình bảo hiểm

Đề án BH hưu

hiểm hưu trí bổ

trí và quỹ hưu

hưu trí tự nguyện

Chế độ BHXH hiện hành

sung

trí tự nguyện

(Cục giám sát

BH trình

Quỹ hưu trí

Sản phẩm hưu

trí tự nguyện vẫn đang trong giai đoạn sơ khởi.

BTC),

bổ sung

Quỹ hưu trí tự nguyện

trí tự nguyện

Thông tư

115/2013 ban

hành ngày

20/8/2013

Đề án thí điểm Chính sách bảo hiểm hưu

Đề án hình thành và phát triển

trí bổ sung (Bộ LĐ - TB&XH trình

Chương trình hưu trí tự nguyện

Chính phủ), Nghị định số 88/2016/NĐ-

theo Quyết định số 144/2014/QĐ-

CP ngày 01/7/2016, Thông tư số

TTg ngày 20/01/2014

86/2017/TT-BTC ban hành ngày

15/8/2017

*Việt Nam hiện vẫn chưa hình thành quỹ hưu trí bổ sung và quỹ hưu trí tự nguyện.

Quỹ BHXH

Hình 4.1 Hệ thống hưu trí Việt Nam từ năm 2014.

Nguồn: Bùi Cẩm Hường (2014); Thùy Dương (2017); các văn bản pháp luật liên

quan.

Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2016 với bổ sung và sửa

đổi các nội dung quan trọng về cách tính mức lương hưu, tuổi nghỉ hưu, chế độ tử

tuất, mức đóng BHXH, phương thức đóng BHXH, sửa đổi bổ sung chính sách hỗ

trợ của Nhà nước đối với người tham gia BHXH tự nguyện cũng như mở rộng đối

tượng áp dụng BHXH bắt buộc.

Trong đó, người lao động trong Doanh nghiệp Nhà nước, hưởng lương theo

hệ số theo Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 24/12/2004, trước năm 2016 đang

đóng, hưởng BHXH theo hệ số, thì từ ngày 01/01/2016 trở đi tính đóng BHXH theo

tiền lương ghi trong hợp đồng lao động như những người lao động làm việc trong

92

doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước nhằm tạo sự bình đẳng giữa khu vực Doanh

nghiệp Nhà nước và Doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Ngoài ra, tiền lương đóng

BHXH từ 01/01/2016 là tiền lương ghi trong hợp đồng lao động, gồm thêm phụ cấp

lương, và từ 01/01/2018 còn có thêm cả các khoản phụ cấp khác (MOLISA, 2015).

Cũng trong nội dung luật BHXH 2014, bảo hiểm hưu trí bổ sung lần đầu tiên

được đề cập đến với ý nghĩa là chính sách BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm

mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ

sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, dưới hình thức tài

khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tư theo

quy định pháp luật.

4.1.2 Vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí Việt Nam

Theo WB, một hệ thống bảo hiểm hưu trí phát triển toàn diện có kết cấu 3

tầng bảo vệ. Trong đó, tầng 1 là bảo hiểm hưu trí cơ bản với vai trò nền tảng nhằm

bảo đảm mức thu nhập tối thiểu cho người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu. Hưu trí

cơ bản được Nhà nước bảo hộ cả về ngân sách lẫn chính sách. Còn tầng 2 là bảo

hiểm hưu trí bổ sung, đóng vai trò hỗ trợ thêm cho người nghỉ hưu và cũng nằm

trong chính sách an sinh xã hội do Nhà nước quản lý và điều tiết. Tầng 3 là bảo

hiểm hưu trí tự nguyện, nhằm phủ lấp những phần mà 2 tầng hưu trí trước chưa bao

trùm hết. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí của Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn bao gồm

(i) chế độ hưu trí nằm trong BHXH theo các quy định pháp luật về BHXH và (ii)

bảo hiểm hưu trí (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Trong đó,

bảo hiểm niên kim mang tính chất tự nguyện, tiết kiệm cá nhân, đóng góp không

đáng kể trong hệ thống hưu trí của Việt Nam.

Bảng 4.2 Hệ thống hưu trí Việt Nam xét theo mô hình đa trụ cột của WB.

Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank

Trụ cột 0

Trụ cột I

Trụ cột II

Trụ cột III

Trụ cột 4

(A non-

(A mandatory

(A mandatory

(“A voluntary

(A non-

contributory

“first pillar”)

“second pillar”)

“third-pillar”)

financial

Quỹ hưu trí bắt

Quỹ hưu trí bổ

Quỹ hưu trí tự nguyện

“zero pillar”)

“fourth

Quỹ trợ cấp

buộc (Mandatory

sung/Quỹ hưu trí nghề

(Voluntary pension)

pillar”)

Chính phủ

publicly managed

nghiệp (Mandatory

Quỹ hỗ trợ tự

93

pension)

privately managed

nguyện

pension)

(Voluntary

non-pension)

Hệ thống hưu trí Việt Nam

Không có hệ

BHXH

BHHT bắt buộc

BHHT tự nguyện

Sức khỏe và

Chưa có trụ cột này

Chủ yếu là BH niêm

thống phúc

Đối tượng tham

nhà ở

gia: Người lao

kim và BHHT tự

Chưa có trụ cột

lợi toàn dân

Đối tượng tham gia:

động (NLĐ)

NLĐ

nguyện mới triển khai

này

Bắt buộc: Đóng

Bắt buộc: Đóng góp

từ 15/10/2013

góp bởi NLĐ và

bởi NLĐ và NSDLĐ

Đối tượng tham gia:

Người sử dụng lao

Hình thức: DC

NLĐ

động (NSDLĐ)

Tự nguyện: Đóng

Hình thức: DB -

góp bởi NLĐ và

PAYG

NSDLĐ

Hình thức: DB, DC

Nguồn: Nguyễn Thị Lê Thu (2014), Lưu Hải Vân (2014).

Do vậy, Bảng 4.2 cho thấy nếu áp dụng mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột

do WB xây dựng thì hệ thống hưu trí Việt Nam vẫn là hệ thống đơn tầng (chủ yếu

là trụ cột I - BHXH bắt buộc), chưa có hệ thống phúc lợi xã hội toàn dân, trụ cột III

- bảo hiểm hưu trí tự nguyện - đang được hình thành và đóng góp chưa đáng kể, còn

trụ cột II - bảo hiểm hưu trí bổ sung thì vẫn chưa được triển khai.

4.1.3 Phân biệt quỹ hưu trí tự nguyện với quỹ hưu trí bổ sung trong hệ

thống hưu trí Việt Nam

Quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ bảo hiểm hưu trí bổ sung đều là một

phần nguồn thu nhập của người đến tuổi nghỉ hưu. Mỗi người đều có tài khoản hưu

trí riêng biệt. Tài sản tích lũy và hình thành trong tài khoản hưu trí thuộc quyền sở

hữu của người tham gia bảo hiểm và được quyền sử dụng khi đến tuổi nghỉ hưu.

Bảng 4.3 Phân biệt bảo hiểm hưu trí bổ sung và bảo hiểm hưu trí tự nguyện.

Tiêu chí

Bảo hiểm hưu trí bổ sung

Bảo hiểm hưu trí tự nguyện

Là sản phẩm thương mại, sản phẩm bảo

Nguyên

tắc

thực

Không phải là một sản phẩm thương mại,

hiểm nhân thọ, do các công ty bảo hiểm

hiện

mà là một chính sách BHXH.

nhân thọ cung cấp.

Theo hình thức tự nguyện (trong giai

Hình thức đóng góp

đoạn đầu) và bắt buộc (trong giai đoạn

Theo hình thức tự nguyện.

sau).

94

Cá nhân người lao động, hoặc nhóm

Người lao động và người sử dụng lao

người lao động (bảo hiểm hưu trí nhóm

Đối tượng tham gia

động đang tham gia BHXH bắt buộc.

do chủ sử dụng lao động mua).

Tỷ lệ đóng góp quy định trong hợp đồng

lao động/thỏa ước lao động tập thể, trích

Phụ thuộc vào ý chí cá nhân hoặc người

Mức đóng góp

từ tiền lương hàng tháng của người lao

sử dụng lao động.

động, có quy định mức đóng góp tối

thiểu và mức đóng góp tối đa.

Công ty bảo hiểm nhân thọ cam kết lãi

Quyền lợi chi trả

Toàn bộ lợi nhuận thu được từ đầu tư sẽ

suất đầu tư tối thiểu tại hợp đồng bảo

cho người tham gia

chi trả cho người tham gia.

hiểm, có thể chia thêm lãi tùy thuộc vào

kết quả kinh doanh.

Quyền

lợi

cho

Áp dụng khi người được bảo hiểm suy

người tham gia khi

Toàn bộ các khoản đóng góp của người

giảm khả năng lao động 61% trở lên

rút tài khoản trước

lao động được hoàn lại

hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.

hạn

Tuân thủ theo quy định về danh mục và

hạn mức đầu tư tài sản của quỹ tại

Nhà nước quy định hoạt động đầu tư của

Thông tư 115/2013/TT-BTC. Tài sản

Danh mục đầu tư

quỹ, bao gồm danh mục đầu tư và các

của quỹ không được đầu tư trực tiếp

của quỹ

loại tài sản đầu tư.

vào bất động sản, vàng, bạc, …, cổ

phiếu CTCK, công ty tài chính, công ty

cho thuê tài chính.

Công ty quản lý quỹ, ngân hàng lưu ký,

Tổ chức tài chính

các tổ chức và các định chế tài chính

Công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty

trung gian tham gia

trung gian khác (tổ chức quản trị dịch vụ

quản lý quỹ.

thành viên, tổ chức dịch vụ quản trị quỹ).

Phí quản lý quỹ <2% giá trị tài sản đầu

tư, phí chuyển khoản tài khoản, phí

Phí

Chưa đề cập đến phí trong đề án.

quản lý hợp đồng bảo hiểm, phí bảo

hiểm rủi ro.

Quy định thời gian

tối thiểu (sau khi ký

Quy định cụ thể trong hợp đồng bảo

hợp đồng làm việc

Thời gian làm việc tối thiểu 5 năm để

hiểm hưu trí của công ty bảo hiểm nhân

tối thiểu) để được

nhận được 100% hưu trí bổ sung.

thọ.

hưởng khoản hưu

trí

Ưu đãi

thuế

thu

Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương

Có ưu đãi thuế thu nhập cho người lao

nhập

binh và Xã hội, ưu đãi thuế thu nhập

động và người sử dụng lao động.

95

(dành cho người lao động và người sử

dụng lao động) của bảo hiểm hưu trí bổ

sung nên cao hơn mức ưu đãi thuế thu

nhập của bảo hiểm hưu trí tự nguyện.

- Theo bộ Luật Lao động, Luật BHXH

- Đề án thí điểm Chính sách bảo hiểm

- Theo Luật kinh doanh bảo hiểm

hưu trí bổ sung do Bộ Lao động -

(2000) và Luật sửa đổi kinh doanh bảo

Thương binh và Xã hội trình Chính phủ

hiểm (2010).

- Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày

- Đề án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí

Văn bản pháp luật

01/7/2016 của Chính phủ về chương

tự nguyện do Cục giám sát Bảo hiểm

liên quan

trình hưu trí bổ sung tự nguyện

trình Bộ Tài chính

- Thông tư số 86/2017/TT-BTC ban hành

- Thông tư số 115/2013/TT-BTC hướng

ngày 15/8/2017 hướng dẫn thực hiện một

dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự

số điều của Nghị định số 88/2016/NĐ-

nguyện ban hành ngày 20/8/2013

CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về

chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện

Nguồn: Bùi Cẩm Hường (2013), các văn bản pháp luật liên quan.

Tuy nhiên, quỹ hưu trí tự nguyện là trụ cột III. Trong khi đó, quỹ hưu trí bổ

sung là trụ cột II trong hệ thống hưu trí đa trụ cột. Bảng 4.3 cho thấy theo các đề án

liên quan đến bảo hiểm hưu trí tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ sung của Việt

Nam, hai loại sản phẩm này có các điểm khác nhau cơ bản.

Quỹ hưu trí tự nguyện là một mô hình mà các quốc gia đều triển khai và có

thể áp dụng tại Việt Nam hiện nay. Trong đó, việc triển khai và áp dụng chương

trình hưu trí tự nguyện nhằm hướng đến 3 mục tiêu mà Chính phủ đặt ra, bao gồm:

(i) khuyến khích và cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính để người lao động gia tăng

tiết kiệm cho tương lai khi kết thúc tuổi lao động; (ii) đa dạng hóa các chương trình

an sinh xã hội, giúp hình thành đồng bộ hệ thống hưu trí đa trụ cột tại Việt Nam,

giảm gánh nặng an sinh xã hội cho Nhà nước trong dài hạn; (iii) phát triển thị

trường vốn thông qua việc củng cố cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn.

Khác với bảo hiểm hưu trí tự nguyện là loại hình sản phẩm thương mại, bảo

hiểm hưu trí bổ sung là một chính sách được Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội

đề xuất triển khai nhằm đối phó với thực tế lương hưu thấp trong xu hướng già hóa

dân số nhưng vẫn muốn hướng tới mục tiêu hình thành hệ thống hưu trí đa trụ cột.

Theo đó, lộ trình được thực hiện theo 3 giai đoạn:

96

 Giai đoạn 1 (2012 - 2015): hình thành khung pháp lý, tổ chức thí điểm đối

với một số tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Giám sát quá

trình hoạt động và thực hiện các cải tiến cần thiết để hoàn thiện hệ thống.

 Giai đoạn 2 (2015 - 2020): hoàn thiện khung pháp lý và mở rộng đối tượng

tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí bổ sung.

 Giai đoạn 3 (sau 2020): nghiên cứu chuyển đổi mô hình quỹ hưu trí bổ sung

từ hình thức tự nguyện sang hình thức bắt buộc.

Từ đó cho thấy bảo hiểm hưu trí bổ sung cũng bao gồm bảo hiểm hưu trí bổ

sung tự nguyện và bảo hiểm hưu trí bổ sung bắt buộc. Do trong bối cảnh ở Việt

Nam hiện nay chưa có đủ điều kiện để triển khai được các chương trình bảo hiểm

hưu trí bổ sung bắt buộc do thu nhập của người dân phần lớn còn ở mức độ trung

bình thấp nên hiện tại, Việt Nam đang tập trung hoàn thiện khung pháp lý nhằm

hình thành và phát triển mô hình bảo hiểm hưu trí bổ sung tự nguyện thông qua

Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về chương trình hưu

trí bổ sung tự nguyện và Thông tư số 86/2017/TT-BTC ban hành ngày 15/8/2017

hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016

của Chính phủ về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện.

4.2 Tổng quan về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán Việt Nam

4.2.1 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng

khoán Việt Nam

Kể từ sau năm 2013, TTCK Việt Nam được tập trung tái cấu trúc với nhiều

chính sách mang tính đổi mới. Trong đó, TTCK Việt Nam chào đón sự hình thành

của bảo hiểm hưu trí tự nguyện nguyện (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân

thọ cung cấp và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam từ cuối năm 2013 dựa trên Đề

án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện của Cục Giám sát Bảo hiểm trực

thuộc Bộ Tài chính. Sự phát triển của bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự

nguyện được kỳ vọng giúp tạo lập và làm đa dạng cơ sở nhà đầu tư tổ chức bên

cạnh ngân hàng thương mại và các tổ chức trung gian khác trên TTCK Việt Nam và

góp phần phát triển TTCK Việt Nam.

97

Bộ Tài chính

Đại lý hưu trí 1

Công ty bảo hiểm nhân thọ

Đại lý hưu trí 2

Tổ chức lưu ký

Đại lý hưu trí 3

Công ty quản lý quỹ

Ngân hàng giám sát

Đại lý hưu trí n

Quỹ hưu trí tự nguyện

Tài khoản hưu trí cá nhân 3

Tài khoản hưu trí cá nhân 1

Tài khoản hưu trí cá nhân 2

Tài khoản hưu trí cá nhân n

Chương trình hưu trí tự nguyện dành cho nhóm/cá nhân

Hình 4.2 Cơ chế hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BTC.

Theo hình 4.2, trong chương trình hưu trí tự nguyện, mỗi người lao

động/thành viên sẽ có một tài khoản hưu trí cá nhân thông qua việc ký kết hợp đồng

bảo hiểm hưu trí tự nguyện do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Tập hợp tất

cả các tài khoản hưu trí cá nhân của người lao động/thành viên từ các nhóm hưu trí

của doanh nghiệp/cá nhân hình thành nên quỹ hưu trí tự nguyện (private individual

voluntary funded pension funds).

Tại Việt Nam, bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện đã bắt đầu được

triển khai sau khi thông tư số 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn

bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện có hiệu lực từ 15/10/2013. Theo đó:

Quỹ hưu trí tự nguyện là loại hình quỹ đầu tư, được quản lý bởi công ty quản

lý quỹ được ủy thác hoặc được thuê bởi công ty bảo hiểm nhân thọ dưới sự giám sát

của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính thông qua các quy định nhằm bảo đảm tính an

toàn và thận trọng trong hoạt động của quỹ để bảo vệ quyền lợi của khách hàng.

Công ty quản lý quỹ dạng mở, quản lý tách biệt các tài sản đầu tư từ quỹ hưu trí tự

nguyện của công ty bảo hiểm với các quỹ khác của công ty bảo hiểm và của các

khách hàng khác.

98

 Về phía Bộ Tài chính: Quy định việc thiết lập và quản lý quỹ hưu trí thông

qua qua các Hướng dẫn, Thông tư, Nghị định, văn bản Luật liên quan, bao gồm:

(i) Quy định về việc thiết lập và sử dụng quỹ hưu trí tự nguyện;

(ii) Các quy định chặt chẽ về hoạt động đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện nhằm

hạn chế các rủi ro về đầu tư, bảo đảm tính an toàn và hiệu quả. Hàng năm, công ty

bảo hiểm phải có báo cáo tình hình hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện cho Bộ Tài

chính, sau khi được công ty kiểm toán độc lập xác nhận và sẽ thông báo về tình

hình đầu tư từ quỹ hưu trí tự nguyện đến với người lao động/thành viên;

(iii) Các yêu cầu tối thiểu về vốn để triển khai sản phẩm hưu trí tự nguyện cũng

như các yêu cầu về vốn tối thiểu tương ứng với các mức cam kết với khách hàng.

Yêu cầu về vốn tối thiểu có tác dụng như một quỹ dự phòng nhằm bảo đảm khả

năng thanh toán của công ty bảo hiểm với các cam kết thực hiện với khách hàng.

 Về phía công ty bảo hiểm nhân thọ: ủy thác/thuê công ty quản lý quỹ để

quản lý danh mục đầu tư tài sản của quỹ theo đúng mục tiêu, chiến lược, hạn mức

đầu tư và quy định của pháp luật nhằm cung cấp quyền lợi bảo đảm tối thiểu cho

người mua bảo hiểm, nghĩa là trong mọi trường hợp, bất kể tình hình đầu tư của quỹ

hưu trí tự nguyện, công ty bảo hiểm nhân thọ đều cam kết một mức lợi suất đầu tư

tối thiểu cho người mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện. Cơ quan quản lý cũng giám sát

và kiểm tra chặt chẽ các cam kết này của công ty bảo hiểm nhân thọ với khách hàng

thông qua các báo cáo và các kỳ kiểm tra định kỳ.

 Về phía công ty quản lý quỹ: Hiện tại công ty quản lý quỹ được hướng dẫn

thành lập và tổ chức hoạt động theo Thông tư Số 212/2012/TT-BTC hướng dẫn về

thành lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý quỹ ban hành ngày 5/12/2012 của

Bộ Tài chính.

4.2.2 Thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt

Nam

Đối với các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực

hiện theo quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự

nguyện (niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Mục đích hướng đến

việc hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc, nhằm góp phần tạo nên một hệ

99

thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu

bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời,

nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua việc huy động nguồn phí bảo

hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư,

tăng trưởng kinh tế - xã hội. Trên phương diện là một công cụ hoạch định kế hoạch

tài chính cho tuổi nghỉ hưu, sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện đem lại những lợi

ích thiết thực đối với người tham gia (Lương Xuân Trường, 2014).

Bảng 4.4 biểu hiện 6 công ty trong 18 công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt

Nam có đủ điều kiện triển khai bảo hiểm hưu trí tự nguyện theo luật định là

Prudential Việt Nam, Bảo Việt Nhân thọ, Manulife, AIA Việt Nam, Dai-ichi Việt

Nam, PVI Sun Life.

Bảng 4.4 Các công ty bảo hiểm nhân thọ đủ điều kiện triển khai sản phẩm bảo

hiểm hưu trí trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Sản phẩm bảo hiểm hưu trí

Công ty bảo hiểm

STT

Năm công bố

nhân thọ

Dành cho Doanh nghiệp

Dành cho Cá nhân

1

Dai-ichi Life VN

Hưng nghiệp hưu trí

An nhàn hưu trí

2013

2 Manulife

Manulife - Điểm tựa hưu trí

2013

PVI Sunlife

Hưu trí PVI Sunlife

3

2013

AIA VN

An nghiệp hưu trí

4

2014

Phú - An thịnh hưu

Prudential VN

5

2015

trí

6

Bảo Việt Nhân thọ

Hưu trí vững nghiệp

Hưu trí An Khang

2015

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016), trang tin điện

tử chính thức của các công ty trên.

Dai-ichi Life Việt Nam là công ty bảo hiểm nhân thọ đã đưa ra sản phẩm

Bảo hiểm hưu trí tự nguyện đầu tiên trên thị trường từ ngày 15/10/2013. Sau đó,

Manulife, AIA Việt Nam và PVI Sunlife cũng công bố đưa sản phẩm bảo hiểm hưu

trí tự nguyện ra thị trường. Trong đó, có Dai-ichi Life VN và Bảo Việt Nhân thọ

phát triển dòng sản phẩm hưu trí tự nguyện dành cho nhóm lẫn cá nhân có thể tham

gia, 4 công ty bảo hiểm nhân thọ gồm Manulife, PVI Sunlife, AIA VN tập trung

100

triển khai dòng sản phẩm bảo hiểm hưu trí dành cho nhóm người lao động làm việc

tại doanh nghiệp, riêng Prudential VN phát triển dòng sản phẩm bảo hiểm hưu trí

dành cho cá nhân.

Bảng 4.5 Tình hình khai thác mới của các hợp đồng chính trên thị trường bảo

hiểm nhân thọ Việt Nam năm 2013 - 2015.

Hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng)

Số tiền bảo hiểm (tỷ đồng)

Phí bảo hiểm (tỷ đồng)

Loại hình

2013

2014

2015

2013

2014

2015

2013

2014

2015

bảo hiểm

Trọn đời

748

1.057

1.635

103

98

174

5

8

Sinh kỳ

-

-

-

-

-

-

-

-

-

Tử kỳ

474.884

258.945

273,940

31.271

29.947

35,189

430

252

373

Hỗn hợp

395,477

399,712

545,238

46,204

64,877

3.109

3.906

5.739

Trả tiền

1.862

32.736

4.274

63

101

19,6

49

77

định kỳ

Liên kết

305.392

361.252

460.763

142.499

205.115

3.647

3.735

5.772

đầu tư*

Hưu trí

74

10.912

8.121

7

1.089

844

0,334

208

206

1.178.437 1.064.614

1.293.971 31.381 219.900 306.300

7.216

8.155

12.175

Tổng cộng

* Nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư gồm bảo hiểm liên kết đơn vị và bảo hiểm liên kết chung.

Nguồn: ISA - MOF (2015); ISA - MOF (2016).

Bảng 4.5 cho thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn khá khiêm tốn

về số lượng và quy mô giá trị hợp đồng bảo hiểm. Trong đó, thị trường bảo hiểm

hưu trí tự nguyện Việt Nam chỉ ghi nhận vài hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện

khi loại hình bảo hiểm này được giới thiệu vào tháng 10/2013, trong đó, chủ thể

tham gia đóng góp chủ yếu đến từ chính các nhân viên các doanh nghiệp bảo hiểm

và một số khách hàng doanh nghiệp đồng ý về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên chỉ trong

thời gian ngắn, từ 74 hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện với tổng giá trị chỉ ở

mức 7 tỷ đồng vào năm 2013 thì tổng số hợp đồng được khai thác mới đã tăng

trưởng lên đến 19.107 hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện có giá trị 1.940 tỷ theo

số liệu tích lũy hàng năm từ năm 2013 cho đến cuối năm 2015 (ISA - MOF, 2015;

ISA - MOF, 2016). Sau 3 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hưu trí tự nguyện, kết

quả tăng trưởng của bảo hiểm hưu trí tự nguyện khá ấn tượng trong thời gian ngắn

101

cho thấy tiềm năng phát triển khả quan của bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ hưu

trí tự nguyện trong tương lai tại Việt Nam.

4.2.3 Hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam

Hoạt động của bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện

nay vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, do đó thông tin số liệu còn hạn chế trên thị trường.

Điều này cũng làm hạn chế việc nghiên cứu trực tiếp hiệu quả hoạt động của các

quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam. Tuy nhiên, do đặc thù về nguồn hình thành tài

sản của quỹ và đặc điểm đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ nên việc tiếp cận

hoạt động của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam

trở nên thuận lợi hơn xét về góc độ giá trị tài sản và phân bổ cơ cấu tài sản phù hợp

với chiến lược đầu tư và mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện. Theo đó, đầu tư

tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện phải tuân thủ quy định pháp luật, tự chịu trách

nhiệm về hoạt động đầu tư, bảo đảm tính an toàn, hiệu quả, phân tán rủi ro, thanh

khoản, giá trị tài sản đầu tư tương xứng với trách nhiệm và đặc thù rủi ro của sản

phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện.

 Về giá trị tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện

Quỹ hưu trí tự nguyện là quỹ được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm từ các

hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện và là một phần của quỹ chủ hợp đồng bảo

hiểm. Tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện không phân chia mà xác định chung cho tất

cả các hợp đồng bảo hiểm thuộc quỹ hưu trí tự nguyện.

Tại Việt Nam, các công ty bảo hiểm nhân thọ đáp ứng điều kiện để thành lập

và quản lý quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam bắt buộc phải đóng góp và duy trì tối

thiểu 200 tỷ đồng từ vốn chủ sở hữu vào quỹ hưu trí tự nguyện theo luật định. Như

vậy, tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện hoạt động tại Việt Nam bao gồm tài sản hình

thành từ (i) nguồn phí bảo hiểm, (ii) nguồn đóng góp của công ty bảo hiểm nhân thọ

theo quy định của pháp luật và (iii) tài sản hình thành từ lợi nhuận đầu tư của các

nguồn trên. Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, tổng doanh thu phí bảo

hiểm của các hợp đồng khai thác mới của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính

đạt 8.155 tỷ đồng vào năm 2014 và 12,175 tỷ đồng vào năm 2015, tốc độ tăng

trưởng vào năm 2014 so với năm 2013 là 13,17%, năm 2015 so với năm 2014 là

102

49,29%. Điều này cho thấy thị trường bảo hiểm nhân thọ đang có sự phát triển

mạnh mẽ tại Việt Nam trong những năm gần đây.

Bảng 4.6 Tỷ trọng khai thác mới hợp đồng bảo hiểm hưu trí trên thị trường

bảo hiểm nhân thọ giai đoạn 2013 - 2015.

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

% so thị

% so thị

% so thị

BHHT

BHHT

BHHT

trường

trường

trường

Hợp đồng bảo hiểm (hợp đồng)

0,01%

10.912

1,02%

8.121

74

0,63%

Số tiền bảo hiểm (tỷ đồng)

0,02%

189

0,50%

844

7

0,28%

Phí bảo hiểm (tỷ đồng)

0,334

0,00%

208

2,55%

206

1,69%

Nguồn: ISA - MOF (2015); ISA - MOF (2016).

Bảng 4.6 cho thấy mặc dù sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện mới xuất

hiện trên thị trường bảo hiểm vào tháng 10/2013, đồng thời quy định pháp lý vẫn

đang được xây dựng để hoàn thiện, nhưng phí bảo hiểm khai thác mới từ hợp đồng

bảo hiểm hưu trí tự nguyện của các tài khoản hưu trí cá nhân này cũng đã tăng

trưởng đáng kể. Từ 74 hợp đồng bảo hiểm với doanh thu từ phí bảo hiểm khai thác

mới chỉ đạt 0,334 tỷ đồng vào năm 2013, bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho thấy triển

vọng tích cực với doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới năm 2014 lên hơn 208 tỷ

đồng, chiếm 2,55% tổng phí khai thác mới của toàn thị trường bảo hiểm nhân thọ

tính đến năm 2014; còn trong năm 2015 là 206 tỷ đồng, chiếm 1,69% tổng phí khai

thác mới của toàn thị trường bảo hiểm nhân thọ (ISA - MOF, 2015; ISA - MOF,

2016).

 Về phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư

Cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ mang tính biến

động mức sinh lời thấp, do đó chủ yếu tập trung phần lớn vào TPCP và tiền gửi tại

các tổ chức tín dụng. Các hạng mục đầu tư rủi ro cao như cổ phiếu, trái phiếu doanh

nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản đầu tư

(ISA - MOF, 2015; ISA - MOF, 2016). Theo quy định hiện hành, tài sản của quỹ

hưu trí tự nguyện không được trực tiếp đầu tư vào bất động sản, vàng, bạc, kim loại

quý, đá quý; không được đầu tư vào cổ phiếu của các công ty chứng khoán

(CTCK), công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính (Bảng 4.7).

103

Bảng 4.7 Phân bổ tài sản trong cơ cấu danh mục đầu tư của các công ty bảo

hiểm nhân thọ tại Việt Nam năm 2014 và 2015.

Năm 2014 (Đvt: %)

Năm 2015 (Đvt: %)

Tài sản

Trái phiếu Chính phủ

62,88

69,94

Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

25,72

18,64

Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh

0,8

0,75

Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh

4,26

4,27

Góp vốn vào các doanh nghiệp khác

0,38

0,27

Kinh doanh bất động sản

0,04

0,00

Cho vay

5,63

5,16

Ủy thác đầu tư

0,07

0,13

Khác

0,22

0,83

100

100

Cộng

Nguồn: ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016).

Hiện tại, do các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trực thuộc và được quản

lý bởi các công ty bảo hiểm nhân thọ, do đó cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ hưu trí

tự nguyện cũng tương tự cơ cấu danh mục chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ

với tính chất an toàn và tập trung chủ yếu vào tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và

TPCP theo quy định về tỷ trọng phân bổ tài sản.

Tuy nhiên, tùy vào sự thay đổi của thị trường tài chính và hoạt động đầu tư,

Bộ Tài chính có thể điều chỉnh danh mục và hạn mức đầu tư của quỹ hưu trí tự

nguyện theo Thông tư 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính (Bảng 4.8).

Bảng 4.8 Quy định đầu tư tài sản quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.

Tài sản

Tỷ trọng phân bổ tài sản

Tiền gửi tại tổ chức tín dụng

Mua không hạn chế, nhưng không quá 20% tổng giá trị tài sản

đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện vào một tổ chức tín dụng.

Trái phiếu Chính phủ

Mua không hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài

sản đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.

Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh và

Mua không vượt quá 25% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ

trái phiếu chính quyền địa phương

hưu trí tự nguyện.

Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không

Mua tối đa không quá 20% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ

có bảo lãnh, góp vốn vào doanh nghiệp

hưu trí tự nguyện.

104

khác

Việc đầu tư vào cổ phiếu đã phát hành của một doanh nghiệp,

trái phiếu doanh nghiệp không được vượt quá 5% khối lượng

mỗi lần phát hành và không được vượt quá 5% tổng giá trị tài

sản đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BTC.

 Về doanh thu và chi phí hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện

Doanh thu của các quỹ hưu trí tự nguyện được ghi nhận khi tiền lãi phát sinh

theo cơ sở dồn tích dựa trên các lợi ích kinh tế có thể xác định được một cách chắc

chắn do các tài sản của quỹ đem lại. Doanh thu trong kỳ của các quỹ hưu trí tự

nguyện trên thị trường hiện nay chủ yếu đến từ (i) nguồn phí bảo hiểm niên kim và

(ii) nguồn lãi từ các khoản đầu tư, bao gồm đầu tư vào tiền gửi không kỳ hạn, tiền

gửi có kỳ hạn, trái phiếu và cổ phiếu theo quy định.

Chi phí trong kỳ của các quỹ hưu trí tự nguyện được ghi nhận phát sinh dựa

trên cơ sở dồn tích, chủ yếu bao gồm các loại phí như sau (i) phí ban đầu; (ii) phí

bảo hiểm rủi ro; (iii) phí quản lý hợp đồng bảo hiểm; (iv) phí quản lý quỹ; (v) phí

chuyển giao tài khoản hưu trí; (vi) chi trích lập dự phòng nghiệp vụ và (vii) chi

phân bổ cho phần tương ứng của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong quỹ (ISA -

MOF, 2015; ISA - MOF, 2016).

 Về lãi suất đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện

Quỹ hưu trí tự nguyện được đầu tư một cách chuyên nghiệp để có thể mang

lại hiệu quả đầu tư trong dài hạn với chiến lược đầu tư an toàn, thận trọng. Theo đó,

lãi suất đầu tư được các quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện công bố công khai qua

hàng tháng, được ghi nhận theo giá trị danh nghĩa và có sự điều chỉnh phù hợp với

định hướng đầu tư của quỹ trước tình hình chung của nền kinh tế. Khi tiến hành

hoạt động đầu tư của quỹ, do lãi suất đầu tư thực tế có thể biến động so với lãi suất

đầu tư công bố tùy theo mức độ thuận lợi của thị trường, từ đó dẫn tới lãi suất tích

lũy vào giá trị tài khoản có thể tăng hoặc giảm. Tuy nhiên, các quỹ hưu trí tự

nguyện cũng công khai cụ thể lãi suất cam kết tích lũy tối thiểu vào tài khoản hưu

trí cá nhân nhằm bảo đảm quyền lợi bảo hiểm hưu trí tự nguyện của bên mua bảo

hiểm theo luật định.

105

Bảng 4.9 Tỷ suất sinh lời của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam giai đoạn

2013 - 2015.

(Đvt: %/năm).

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Công ty bảo hiểm

STT

nhân thọ

(i)

(ii)

(i)

(ii)

(i)

(ii)

Dai-ichi Life VN

10,75%

8,78%

10,49%

8,98%

8,55%

8,06%

1

n/a

4%*

n/a

4%*

7,12%

4%*

2

Manulife

n/a

n/a

5,89%

8 %

7,32%

7,51%

3

PVI Sunlife

8,13%

6%

8,12%

5,5%

4

AIA VN

3,55%

4%

5

Prudential VN

n/a

n/a

6

Bảo Việt Nhân thọ

(i) Lãi suất đầu tư thực tế

(ii) Lãi suất thanh toán cho bên mua bảo hiểm

* Lãi suất cam kết chi trả (lãi suất tích lũy tối thiểu vào tài khoản cho bên mua).

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ ISA - MOF (2015), ISA - MOF (2016), trang tin điện

tử chính thức của các công ty trên.

Cụ thể theo bảng 4.9, đối với Dai-ichi Life VN, tỷ suất đầu tư thanh toán cho

bên mua luôn cao hơn hoặc bằng mức lãi suất cam kết tối thiểu là 5%/năm cho 10

năm đầu của hợp đồng bảo hiểm và 3%/năm cho những năm hợp đồng tiếp theo cho

cả loại hình sản phẩm hưu trí nhóm dành cho doanh nghiệp và dành cho cá nhân.

Lãi suất đầu tư thực tế của Dai-ichi Life VN trong giai đoạn 2013 - 2015 đều cao

hơn mức lãi suất đầu tư công bố (cụ thể là 10,75%/năm so với công bố là 9%/năm

trong năm 2013, năm 2014 là 10,49%/năm so với 9%/năm và năm 2015 là

8,55%/năm so với 8%/năm), do đó tỷ suất đầu tư thanh toán cho khách hàng cao

hơn mức lãi suất cam kết chi trả (cụ thể năm 2013 là 8,78%/năm so với 5%/năm,

năm 2014 là 8,98%/năm so với 5%/năm và năm 2015 là 8,06%/năm so với

5%/năm).

Đối với Manulife, quyền lợi hưởng lãi từ kết quả đầu tư của quỹ hưu trí tự

nguyện được cam kết tích lũy tối thiểu 4%/năm trên giá trị tài khoản hợp đồng trong

5 năm hợp đồng đầu tiên, 3%/năm cho năm hợp đồng thứ 6 đến năm hợp đồng thứ

106

10 và 2%/năm cho những năm hợp đồng tiếp theo. Lãi suất đầu tư thực tế trung

bình trong năm 2015 là 7,12%/năm.

Đối với PVI Sunlife, lãi suất đầu tư công bố trung bình trong năm 2014 là

8%/năm, lãi suất đầu tư thực tế là 5,89%/năm và lãi suất tích lũy hàng tháng được

ghi nhận chi trả cho bên mua bảo hiểm là 8%. Số liệu này trong năm 2015 lần lượt

là 7,58%/năm, 7,32%/năm và 7,51%/năm.

Đối với AIA VN, lãi suất đầu tư thực tế trung bình trong năm 2014 là

8,13%/năm, năm 2015 là 8,12%/năm. Lãi suất tích lũy vào tài khoản của khách

hàng được bảo đảm sẽ không thấp hơn mức lãi suất cam kết, trong đó, lãi suất cam

kết của quỹ hưu trí tự nguyện là 6%/năm trong năm 2014, 5,5%/năm trong năm

2015, 5%/năm vào năm 2016, 4,5%/năm vào năm 2017, 4%/năm vào năm 2018 và

1%/năm trong những năm tiếp theo.

Đối với Prudential VN, lãi suất đầu tư thực tế theo giá trị sổ sách trung bình

trong năm 2015 là 3,55%/năm, tỷ suất đầu tư công bố cho bên mua bảo hiểm sau

khi đã trừ chi phí quản lý quỹ là 4%/năm.

Đối với Bảo Việt Life, khoản đóng góp của bên mua bảo hiểm sẽ được đầu

tư vào quỹ hưu trí tự nguyện và được hưởng lãi từ kết quả đầu tư của quỹ này sau

khi đã trừ chi phí hợp lý có liên quan với lãi suất cam kết tối thiếu quỹ hưu trí tự

nguyện trong năm thứ 1 của hợp đồng bảo hiểm hưu trí tự nguyện là 5,5%/năm,

năm thứ 2 là 5%/năm, năm thứ 3 là 4,5%/năm, năm thứ 4 đến năm thứ 10 là

3%/năm, mỗi năm còn lại sau đó là 1,5%/năm.

4.3 Thực trạng các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị

trường chứng khoán Việt Nam

4.3.1 Quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập

Theo quy định tại Thông tư 115/2013/TT-BTC, người tham gia được hưởng

ưu đãi nhất định về thuế thu nhập cá nhân như được miễn một phần thuế thu nhập

cá nhân đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, trì hoãn thu thuế thu nhập cá

nhân đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân

đối với tiền hưu trí được nhận. Tại Việt Nam, theo quy định hiện nay thì khoản tiền

đóng bảo hiểm hưu trí tự nguyện do người sử dụng lao động đóng cho người lao

107

động được trì hoãn đóng thuế thu nhập cá nhân và khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí

do cá nhân tự đóng sẽ được khấu trừ trước khi tính thu nhập chịu thuế với mức khấu

trừ tối đa 1 triệu đồng/tháng. Đây cũng chính là sự khác biệt cơ bản của bảo hiểm

hưu trí tự nguyện so với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác tại Việt Nam.

4.3.2 Tình hình về tính ổn định của kinh tế vĩ mô

Hình 4.3 cho thấy tình hình tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt Nam biến động

thăng trầm qua các năm. Đối với quỹ hưu trí tự nguyện, hoạt động đầu tư của quỹ

hưu trí tự nguyện hướng tới mục tiêu đạt được mức sinh lời nhất định trong khi vẫn

phải bảo đảm an toàn vốn. Đồng thời, với đặc thù của quỹ tự nguyện, nhất là khi có

thể dự đoán được số tiền hưu trí phải chi trả hàng năm nên quỹ hưu trí tự nguyện

thường định hướng đầu tư vào các tài sản tài chính dài hạn và có rủi ro biến động

mức sinh lời thấp. Do những đặc thù của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện, việc ổn định

kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế với lạm phát thấp là điều cần thiết và cũng

là thách thức đối với Việt Nam để tạo môi trường hoạt động hiệu quả cho phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK, phát triển TTCK cũng như các nhà đầu tư tham

gia trên TTCK Việt Nam.

Hình 4.3 Tình hình tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát cơ bản của Việt

Nam giai đoạn 2000 - 2015.

(Đvt: %/năm)

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ SBV, GSO và WB (2000 - 2015).

108

4.3.3 Thực trạng các vấn đề xã hội học

 Thiếu bền vững về mặt tài chính trong dài hạn

Hệ thống hưu trí công Việt Nam trực thuộc hệ thống BHXH Việt Nam, hoạt

động trên cơ sở đóng góp trong quá trình lao động và theo cơ chế PAYG với mức

hưởng xác định trước (DB). Chính vì vậy, hệ thống hưu trí Việt Nam đối mặt với

thách thức về thiếu tính bền vững tài chính trong dài hạn.

Hình 4.4 cho thấy tổng thu NSNN Việt Nam hàng năm đều không đủ bảo

đảm cho hoạt động chi NSNN, dẫn tới NSNN hàng năm đều bội chi. Trong đó, tỷ lệ

chi trả lương hưu và bảo đảm xã hội của Việt Nam chiếm trung bình 8,49% so với

tổng chi trong cùng kỳ và mức chi ước thực hiện cho khoản mục này cũng gia tăng

theo thời gian. Trong chi sự nghiệp xã hội của NSNN Việt Nam, chi trả lương hưu

và bảo đảm xã hội là một khoản chi thường xuyên và lớn sau khoản chi cho giáo

dục - đào tạo, dạy nghề. Mặt khác, việc điều chỉnh lương hưu theo tỷ lệ tăng của

lương tối thiểu của khu vực công làm cho hệ thống hưu trí công đối mặt với áp lực

chi trả và khả năng chi trả trong tương lai, góp phần làm gia tăng thâm hụt NSNN

Từ năm 2011 đến 2015: Số liệu ước thực hiện.

Việt Nam (Hình 4.4).

Hình 4.4 Tình hình thực hiện thu chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015.

Nguồn: MOF (2015a).

Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 1995 cho

đến 2011, hàng năm số thu cho Quỹ hưu trí công đều lớn hơn số chi (tỷ lệ sử dụng

109

chi/thu là 76,3%; ước năm 2011 cân đối thu - chi trong năm còn dư là 11.551 tỷ

đồng, tỷ lệ sử dụng chi/thu là 77%), nên bảo đảm chi trả và có kết dư. Tuy nhiên,

trong tương lai dự báo với mức đóng góp và mức hưởng chế độ như quy định hiện

hành thì Quỹ BHXH sẽ đứng trước nguy cơ mất cân đối nghiêm trọng. Dự kiến đến

năm 2023 số thu cho Quỹ hưu trí công sẽ bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi để bảo

đảm chi chế độ hưu trí, tử tuất, ngoài số thu trong năm cho Quỹ hưu trí công phải

trích sử dụng thêm kết dư của thu các năm trước mới bảo đảm đủ chi. Đến năm

2037, nếu không có chính sách hoặc biện pháp tăng thu hoặc giảm chi thì số thu

BHXH trong năm và số tồn tích bắt đầu không bảo đảm khả năng chi trả. Các năm

sau đó số chi lớn hơn rất nhiều so với số thu trong năm (Lưu Hải Vân, 2014).

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ hưởng lương hưu khá cao (75% mức bình quân

tiền lương tháng đóng BHXH) so với mức tối thiểu quy định trong công ước An

sinh xã hội của ILO vốn quy định hệ thống hưu trí chỉ cho phép một tỷ lệ hưởng

trong khoảng trên 40% đến 60% và tỷ lệ hưởng lương hưu nên trên 40% nhằm bảo

đảm cuộc sống đầy đủ cho người nghỉ hưu. Điều này đe dọa tính bền vững về tài

chính của quỹ hưu trí công PAYG. Do đó, công thức tính thu nhập hưu trí tại Việt

Nam cũng cần được điều chỉnh.

Như vậy, sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam chịu

tác động của rất nhiều nhân tố. Thứ nhất, tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ thống đang

có xu hướng gia tăng nhanh. Thứ hai, tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ lệ

đóng góp bền vững - hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG - và vì thế mà quỹ có thể bị

cạn kiệt. Thứ ba, tỷ lệ tham gia có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của khu

vực Nhà nước, đặc biệt là các Doanh nghiệp Nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của các

đối tượng lao động sắp xếp lại từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại

không đăng ký tham gia vào hệ thống BHXH, và (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư

nhân còn quá thấp. Thứ tư, mức hưởng được chỉ số hóa theo mức lương tối thiểu

vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và

tuổi thọ có xu hướng tăng lên. Tất cả những nhân tố kể trên khiến cho hệ thống hưu

trí Việt Nam đối mặt với nhiều vấn đề và có thể rơi vào khủng hoảng trong tương

lai. Việc ổn định tài chính và duy trì sự công bằng giữa các thế hệ trong hệ thống

110

hưu trí PAYG trước sức ép dân số già hoá nhanh chóng là những câu hỏi chính sách

hóc búa nhất đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Do vậy, Việt Nam cần nhanh chóng có

những chính sách phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm chủ động đối

phó với những thách thức của hệ thống hưu trí trong dài hạn.

 Bất công bằng giữa các thế hệ

Bất công bằng giữa các thế hệ xảy ra do các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai

sẽ phải chịu gánh nặng lớn hơn mới có thể trang trải được chi phí cho hệ thống hưu

trí công theo cơ chế PAYG với mức hưởng được xác định trước (DB) trong điều

kiện dân số già hoá và tỉ lệ tham gia hệ thống chưa cao ở thời điểm này. Gánh nặng

lớn hơn này có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ đóng

góp tăng lên liên tục, độ tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nguy cơ vỡ quỹ BHXH khiến

quyền lợi hưu trí trong tương lai của lực lượng lao động hiện tại và tương lai không

được bảo đảm (Giang Thanh Long, 2004; Điền Bá Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê

Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD, 2014).

 Bất bình đẳng giữa các nhóm lao động

Sự bất bình đẳng xảy ra khi có sự khác nhau về tỷ lệ hưởng so với mức đóng

góp thực tế giữa các nhóm lao động khác nhau (như khối quân nhân, công chức,

viên chức, và khối lao động tư nhân). Đây là một vấn đề khác đáng lo ngại của hệ

thống hưu trí. Việc đối xử không công bằng sẽ tiềm ẩn hai vấn đề sau: (i) sự khác

biệt nhau về thu nhập hưu trí; và (ii) động cơ trốn tránh và không tham gia hệ thống

BHXH. Do đó hệ thống hưu trí hiện tại vẫn chưa thu hút được sự tham gia rộng

khắp của người lao động trong khu vực tư nhân (Giang Thanh Long, 2004; Điền Bá

Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD, 2014). .

 Mức độ bao phủ còn thấp

Tính đến hết năm 2017, số liệu của BHXH Việt Nam cho thấy có gần 14

triệu người tham gia BHXH bắt buộc, tăng hơn 6 triệu người so với năm 2007 (là

năm đầu thực hiện Luật BHXH), chiếm khoảng 24% lực lượng lao động (khoảng

28% lực lượng lao động trong độ tuổi). Diện bao phủ BHXH theo quy định của

pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến

bao phủ toàn dân, do đó chưa đạt được sự kỳ vọng của chính sách và còn một

111

khoảng cách rất xa so với mục tiêu Nghị quyết của Bộ Chính trị số 21/NQ-TW về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, bảo hiểm y tế giai đoãn

2012 - 2020 ban hành ngày 22/11/2012 đặt ra là đến năm 2020 có 50% lực lượng

lao động tham gia BHXH (Lan Vũ, 2017).

 Tính hiệu quả về mặt thực thi và công nghệ quản lý chưa cao

BHXH Việt Nam được tổ chức theo cơ cấu chiều dọc với các chi nhánh ở

cấp huyện và các chi nhánh ở địa phương chịu trách nhiệm cả thu và chi. Việc phân

cấp quản lý theo hình thức này giúp việc tiếp cận người tham gia hệ thống ở địa

phương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, hình thức này cũng dẫn đến sự gia tăng chi

phí hành chính và có thể dẫn đến những vấn đề tiêu cực trong quá trình thu, chi thực

hiện phân tán tại địa phương. Hơn nữa, sự hợp tác trong quản lý giữa BHXH Việt

Nam và các Bộ khác, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng quản lý các

loại hình doanh nghiệp trong cả nước, vẫn chưa thực sự chặt chẽ nên việc nợ

BHXH vẫn còn phổ biến, đặc biệt là khu vực tư nhân (Giang Thanh Long, 2004;

Điền Bá Dược, 2013; Nguyễn Thị Lê Thu, 2014; Lưu Hải Vân, 2014; TTBD,

2014). Để khắc phục các vấn đề phát sinh trong quá trình chi trả lương hưu, từ năm

2013, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho BHXH Việt Nam thực hiện mở rộng chi

trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng qua bưu điện trên phạm vi cả nước.

BHXH Việt Nam đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công

trực tuyến mức độ 4; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH

với các hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính

sách và nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng như tiếp tục hiện đại hóa quản lý

BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức

thực hiện.

4.3.4 Tình hình về mức độ phát triển của thị trường tài chính

Theo Báo cáo đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu4 của WEF

(2015), từ quốc gia được đánh giá có nền kinh tế phát triển dựa vào các yếu tố cơ

vào năm 2005 và hiện được công bố hàng năm qua Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh

4 Chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) bao gồm 12 trụ cột với 113 chỉ tiêu, được khởi xướng

112

bản, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2015 của Việt Nam được đánh giá ở

mức xếp hạng 56 so với 140 nền kinh tế trên thế giới được xếp hạng. Điều này đã

ghi nhận nền kinh tế Việt Nam đang ở bước chuyển tiếp sang giai đoạn phát triển

dựa trên tính hiệu quả. Trong đó, mức độ phát triển thị trường tài chính Việt Nam

nói chung, TTCK Việt Nam nói riêng dù vẫn còn xếp hạng thấp ở mức 84/140

nhưng đã có những cải thiện đáng kể (WEF, 2015) (PHỤ LỤC 7).

Nghiên cứu của WEF (2015) cho thấy mức độ phát triển TTCK Việt Nam

được đánh giá cao ở các chỉ tiêu về (i) mức độ dễ dàng huy động vốn thông qua thị

trường cổ phiếu (xếp thứ 48/140); (ii) mức độ hiện hữu nguồn vốn đầu tư mạo hiểm

trên thị trường (xếp thứ 46/140); và (iii) mức độ bảo vệ các quyền hợp pháp theo

pháp luật (xếp thứ 24/140). Tuy nhiên, các chỉ tiêu về (i) các quy chế hoạt động

giao dịch và giám sát trên TTCK chưa thực sự hiệu quả (xếp thứ 108/140); (ii) mức

độ đa dạng và phong phú của các sản phẩm dịch vụ tài chính vẫn còn thấp (xếp thứ

103/140); (iii) tính cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính trên

TTCK được đánh giá thấp nên các dịch vụ tài chính được cung cấp trên TTCK vẫn

còn có mức chi phí cao (xếp thứ 115/140).

Đặc biệt, năm 2015 là một năm đáng nhớ đối với TTCK Việt Nam với nhiều

chính sách, quy định điều chỉnh mang tính đổi mới được ban hành nhằm phát triển

thị trường theo chiều sâu, tiến gần hơn đến thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, TTCK Việt

Nam chỉ mới phục vụ chủ yếu với vai trò là kênh huy động vốn thông qua tiến trình

cổ phần hóa các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, cơ sở các nhà đầu tư trên

TTCK vẫn chưa được đa dạng, khối nhà đầu tư chủ đạo là ngân hàng thương mại

vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Chính vì vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh

hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các tổ chức trung gian thuộc ngân hàng trên

TTCK, qua đó tác động đến sự phát triển của TTCK Việt Nam.

TTCK Việt Nam còn chứa đựng nhiều tiềm năng và triển vọng để phát huy

tối đa vai trò của mình trong tương lai gần hướng đến các mục tiêu (i) một TTCK

ổn định, vững chắc, cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều cấp độ, đồng bộ về các yếu tố

quốc gia.

tế thế giới (WEF) nhằm đánh giá nền tảng kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô tạo nên năng lực cạnh tranh của

113

cung - cầu; tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm,

nghiệp vụ, bảo đảm thị trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn

trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế; (ii) bảo đảm tính công khai, minh bạch,

các tiêu chuẩn và thông lệ quản trị công ty, tăng cường năng lực quản lý, giám sát

và cưỡng chế thực thi, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và lòng tin của thị trường; (iii)

chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, từng bước tiếp cận với các chuẩn

mực chung và thông lệ quốc tế (SSC, 2012).

4.3.5 Thực trạng về khung các quy định pháp lý

Ngày 20/8/2013, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư 115/2013/TT-BTC

hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện có hiệu lực từ ngày

15/10/2013. Do đó, bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam mới

được hình thành từ cuối năm 2013 dựa trên Đề án Bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí

Luật Tổ chức Chính phủ 25/12/2001

Luật kinh doanh bảo hiểm 9/12/2000

Bộ Luật dân sự 14/6/2005

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm 24/11/2010

Luật Chứng khoán 12/7/2006

QUỸ HƯU TRÍ TỰ NGUYỆN

Luật Phá sản 19/6/2014

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán 14/11/2010

Luật Bảo hiểm xã hội 20/11/2014

Bộ Luật lao động 18/6/2012

Luật Doanh nghiệp 26/11/2014

tự nguyện của Cục Giám sát Bảo hiểm trực thuộc Bộ Tài chính.

Hình 4.5 Khung pháp lý quy định quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tư 115/2013/TT-BT.

Hình 4.5 cho thấy khung pháp lý đối với hoạt động của quỹ hưu trí tự

nguyện tại Việt Nam. Theo các quy định pháp lý liên quan, quỹ hưu trí tự nguyện

tại Việt Nam được định nghĩa là quỹ hưu trí được tài trợ (có tài sản được tích lũy từ

sự đóng góp của các thành viên nguyện do được hình thành từ phí bảo hiểm và là

114

tập hợp các tài khoản bảo hiểm hưu trí của người được bảo hiểm), là quỹ hưu trí do

tư nhân điều hành và là quỹ hưu trí có sự cam kết bảo đảm cho đối với các kế hoạch

hưu trí (về tỷ suất sinh lời, về niên kim sẽ được chi trả trong tương lai).

Ngày 20/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

144/2014/QĐ-TTg về Đề án hình thành và phát triển Chương trình hưu trí tự

nguyện do Bộ Tài chính xây dựng nhằm xây dựng hệ thống hưu trí đa trụ cột tại

Việt Nam, đồng thời khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn

trên thị trường vốn theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020.

Vào tháng 12/2015, dự thảo Nghị định về quy định quỹ hưu trí tự nguyện đã

được Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ, hiện vẫn đang trong giai đoạn hoàn

thiện.

4.3.6 Cải cách hệ thống hưu trí của Việt Nam so với thế giới

Trên thế giới, sự thay đổi trong nhân khẩu học và những vấn đề phát sinh đối

với hệ thống hưu trí theo cơ chế PAYG đã buộc Chính phủ các quốc gia phải cải

cách hưu trí. Theo xu hướng cải cách hưu trí, hệ thống hưu trí được tài trợ được

khuyến nghị thực thi nhằm bổ sung và hoàn thiện bên cạnh hệ thống hưu trí theo cơ

chế PAYG.

Trong bối cảnh tốc độ già hóa nhanh của dân số Việt Nam và những bất cập

trong hệ thống hưu trí hiện nay như tỷ lệ tham gia thấp, gia tăng đối tượng hưởng

hưu trí, mất cân bằng giữa mức đóng và mức hưởng…, yêu cầu cải cách hệ thống

hưu trí Việt Nam theo hướng bảo đảm sự bền vững của hệ thống càng trở nên cấp

thiết. Hệ thống hưu trí Việt Nam cũng đã có những cải cách tập trung vào các tham

số như tiêu chuẩn, tiêu chí của yếu tố cấu thành trong kế hoạch hưu trí, chẳng hạn

như là (i) tăng tuổi nghỉ hưu đối với những trường hợp suy giảm khả năng lao động

từ 61% trở lên; (ii) tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% với mỗi

năm nghỉ hưu trước tuổi; (iii) quy định các chế độ hưu trí đối với người bị phạt tù

giam, ra nước ngoài để định cư; (iv) tăng thời gian đóng BHXH … từ đó thắt chặt

điều kiện hưu trí đối với việc về hưu sớm và trợ cấp khuyết tật, hạ thấp các tỷ lệ lợi

ích, gia tăng thuế thu nhập, chống trốn thuế, và nâng cao hiệu quả quản lý của các

tổ chức an sinh xã hội, nhằm mục đích ngăn chặn sự sụp đổ tài chính của hệ thống

115

hưu trí truyền thống PAYG theo mô hình DB không được tài trợ. Tuy nhiên, những

cải cách trong hệ thống hưu trí tại Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu vẫn là các

cải cách tham số. Nghiên cứu của Giang Thanh Long (2004) khuyến nghị Việt Nam

cần nỗ lực tiến hành cải cách hệ thống hưu trí hướng đến một hệ thống tài khoản

tích lũy cá nhân theo mô hình tài chính có mức đóng góp được xác định trước

(fully/partially funded defined contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng

về tác động kinh tế - xã hội để có thể tránh được sự bất ổn về mặt tài chính của hệ

thống và sự bất công bằng giữa các thế hệ).

Do đó, để có thể phát triển bền vững hệ thống hưu trí, Chính phủ cần quan

tâm hơn đến các hình thức cải cách NDC và cải cách hệ thống, chuyển từ hệ thống

hưu trí PAYG không được tài trợ sang hệ thống hưu trí được tài trợ có lộ trình.

Trong đó, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là xu hướng tất yếu

trong bối cảnh dân số già hóa và gánh nặng tài chính của quỹ hưu trí công. Vì vậy,

có thể nói quỹ hưu trí tự nguyện là một trụ cột không thể thiếu để nâng đỡ các trụ

cột khác, tạo nên thế kiềng ba chân vững vàng cho hệ thống hưu trí.

4.3.7 Tình hình về vấn đề môi trường

Trước tình trạng già hóa dân số, tỷ lệ người đóng BHXH trên số người

hưởng lương hưu đang có xu hướng giảm nghiêm trọng, từ 21,7 người đóng cho 1

người hưởng lương hưu vào năm 1996 thì đến năm 2010 chỉ còn 10,7 người đóng

cho 1 người hưởng (MOLISA, 2015). Trong khi đó, tuổi nghỉ hưu thực tế bình quân

chỉ là 53,2 tuổi. Theo tính toán, mỗi cá nhân có 31 năm đóng BHXH và chỉ đủ để

quỹ bảo hiểm trả lương hưu trong vòng gần 13 năm. Song tuổi thọ bình quân của

người Việt Nam ngày càng cao và độ dài thời gian hưởng thu nhập hưu trí bình

quân hiện nay là 19,5 năm. Thực trạng cho thấy người cao tuổi có chi phí điều trị

thường cao gấp từ tám đến mười lần so với người trẻ; hiện nay tỷ lệ người cao tuổi

chiếm hơn 10% số dân và sử dụng tới hơn 50% chi phí điều trị mỗi năm do bệnh tật

ở người cao tuổi xuất hiện ngày càng nhiều hơn và việc chữa trị, phục hồi sức khỏe

của người cao tuổi cũng trở nên khó khăn hơn. Trong khi đó, thu nhập của người

cao tuổi còn rất thấp, hầu như không có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ khỏe

hơn. Do vậy, nhằm hướng tới già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam đòi hỏi phải có những

116

thay đổi cơ bản về cách thức tổ chức và vận hành của toàn bộ hệ thống cung cấp các

dịch vụ chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng, bao gồm (i) can thiệp

dịch vụ y tế; (ii) can thiệp chăm sóc dài hạn; (iii) can thiệp vào môi trường văn hóa

xã hội (Bộ Y tế Việt Nam, 2016).

4.3.8 Vấn đề nhân khẩu học trong bối cảnh dân số già hoá

Theo định nghĩa của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA), dân số vàng là

giai đoạn dân số cứ có 2 người trong độ tuổi lao động mới có 1 người trong độ tuổi

phụ thuộc (dưới 15 tuổi và trên 60 tuổi). Còn cơ cấu dân số già (còn gọi là già hóa

dân số) được chia thành hai giai đoạn: khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 10%

hoặc người từ 65 tuổi trở lên đạt 7% thì gọi là dân số đang già. Còn khi tỷ lệ này lần

lượt đạt 20% và 14% thì là giai đoạn dân số đã già. Theo WB, tỷ lệ dân số già hóa

(hay tỷ lệ phụ thuộc tuổi già) được tính dựa trên số người tuổi từ 65 trở lên so với số

người trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi.

Tháp dân số của Việt Nam theo nhóm tuổi và giới tính vào năm 2016, qua đó

cho thấy tỷ lệ sinh và tử vong ở mức khá thấp, tuổi thọ trung bình tăng lên đã làm

thay đổi đáng kể cấu trúc dân số của Việt Nam, khiến cho tháp tuổi của dân số Việt

Nam thu hẹp dần về phía đáy tháp (CIA, 2016; CEFR, 2014). Việt Nam đã chính

thức bước vào thời kỳ già hóa dân số khi tỷ lệ người già của Việt Nam đang chiếm

tỷ trọng xấp xỉ 10% so với tổng số dân ở Việt Nam và đang có xu hướng gia tăng

trong tương lai (WB, 2015).

Tính đến hết quý 2 năm 2016, dân số Việt Nam đã vượt mốc 92 triệu người,

tốc độ tăng dân số đã xuống mức thấp vào khoảng 1,05%/năm. Trong đó, nhóm dân

số từ 60 tuổi trở lên ở Việt Nam tăng trung bình mỗi năm khoảng 400,000 người,

tốc độ tăng 4,43%/năm. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2016 là 73,4

năm, trong đó nam là 70,8 năm và nữ là 76,1 năm (GSO, 2015; GSO, 2016). Do đó,

những thay đổi về nhân khẩu học này đòi hỏi phải có những chính sách phù hợp để

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ và bảo

đảm an sinh xã hội cho người già. Sự già hoá dân số có ảnh hưởng rất lớn đến quỹ

BHXH Việt Nam, cụ thể thông qua (i) tỷ lệ giữa số người đóng BHXH trên số

người hưởng hưu giảm đi, khiến cho quỹ BHXH đối mặt với những vấn đề nghiêm

117

trọng trong tương lai nếu không cải cách hệ thống hưu trí; (ii) các chi phí BHXH

tăng lên, theo đó số người đóng BHXH giảm đi, số người hưởng BHXH tăng lên thì

nguồn thu của quỹ BHXH sẽ có xu hướng giảm đi và nguồn chi có xu hướng tăng

lên; (iii) ảnh hưởng đến cân đối thu - chi và tăng trưởng quỹ BHXH vì đối với

những nước có dân số già thì xu hướng chi BHXH tăng nhanh hơn so với xu hướng

thu, nên mức độ tăng trưởng của quỹ nhỏ đi dẫn đến khả năng chi trả, khả năng an

toàn của quỹ sẽ bị giảm đi. Chính vì vậy, nếu không có sự điều chỉnh kịp thời về

chính sách hoặc sự hỗ trợ của Nhà nước, nguy cơ vỡ quỹ BHXH là rất cao.

4.4 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng

khoán Việt Nam nhìn từ sự lựa chọn của các cá nhân

4.4.1 Mức độ tự đánh giá của cá nhân về các vấn đề liên quan đến tài

chính

Để phân tích rõ hơn về thái độ chấp nhận rủi ro đối với thu nhập hưu trí,

nghiên cứu tiến hành kế thừa và xây dựng các tiêu chí đánh giá sự ưu tiên lựa chọn

trong điều kiện có rủi ro đối với người tham gia khảo sát dựa vào hai cách tiếp cận

là (i) cá nhân chủ động tự đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro của mình và (ii) đánh

giá mức độ chấp nhận rủi ro của cá nhân theo lý thuyết và các nghiên cứu thực

nghiệm của Barsky et al. (1997), Kapteyn và Teppa (2002) và Rooij et al. (2007).

(thang đo 7 mức độ từ thấp đến cao dần).

*1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội

Hình 4.6 Mức độ tự đánh giá thái độ về tài chính của cá nhân.

(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

118

Theo hình 4.6, phần lớn người khảo sát (130 người, chiếm 60,47% mẫu

) đánh giá mức độ am hiểu về tài chính của mình ở 3 mức cao nhất của

thang đo (mức 5, mức 6, mức 7) và do đó, có thể xem những người khảo sát này là

những người thực hiện quyết định tài chính có kỹ năng. Có 40 người khảo sát

(chiếm 18,60% mẫu) lựa chọn ở 3 mức thấp nhất của thang đo (mức 1, mức 2, mức

3), do đó những người trả lời này được xem là có sự hiểu biết nhất định khi đánh

giá mức độ am hiểu về tài chính của mình. Mức độ chấp nhận rủi ro chung trong

các vấn đề tài chính và trong lĩnh vực thu nhập hưu trí có điểm trung bình theo

thang đo lần lượt là 4,71 điểm (mức độ chuyên môn của cá nhân về các quyết định

tài chính); 5,05 điểm (thái độ chung trong cuộc sống); 4,75 điểm (thái độ trong các

vấn đề tài chính); 4,49 điểm (thái độ về thu nhập hưu trí của bản thân).

Nhìn chung, việc tự đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro cho thấy hầu hết

người tham gia khảo sát đều có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp

nhận rủi ro. Thái độ về thu nhập hưu trí của người tham gia khảo sát cũng có xu

hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp nhận rủi ro, tuy nhiên điều thú vị là

nó lại có mức độ chấp nhận rủi ro trung bình thấp hơn so với thái độ chung trong

cuộc sống cũng như trong các vấn đề tài chính nói chung. Điều này thể hiện thái độ

dè dặt hơn của người trả lời trong việc chấp nhận rủi ro đối với thu nhập hưu trí.

năng đem lại thu nhập tương đương 25% thu nhập hiện tại, mức 1 tương ứng với công việc bảo đảm thu nhập

hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời (thang đo 6 mức độ từ mức hoàn toàn e ngại rủi ro cho đến chấp nhận

rủi ro cao).

*Mức 6 tương ứng với công việc có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại và 50% khả

Hình 4.7 Khả năng chịu rủi ro trên thu nhập trọn đời của cá nhân.

(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

119

Còn trong hình 4.7, nghiên cứu đo lường khả năng chịu đựng rủi ro trên thu

nhập trọn đời theo lý thuyết với 6 mức độ tử hoàn toàn e ngại rủi ro cho đến chấp

nhận rủi ro ở mức cao. Kết quả về khả năng chịu đựng rủi ro cũng cho thấy hầu hết

người tham gia khảo sát đều có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần với sự chấp

nhận rủi ro.

4.4.2 Thái độ của cá nhân về các vấn đề thu nhập hưu trí

Để làm sáng tỏ thái độ của cá nhân đối với tiết kiệm hưu trí bắt buộc, nghiên

cứu khảo sát sự hài lòng của người trả lời đối với một chương trình hưu trí bắt

buộc và lý do nếu có. Đa số người được hỏi (129 người trả lời, chiếm 60,00% mẫu)

ủng hộ tiết kiệm lương hưu bắt buộc, 53 người trả lời (chiếm 24,65% mẫu) cho rằng

nghĩa vụ tiết kiệm lương hưu bắt buộc là một bất lợi, 19 người (chiếm 8,84% mẫu)

bàng quan và 14 người (6,51% mẫu) phản hồi là không biết. Khoảng 112 (62+50)

người trả lời (chiếm 52,09% mẫu) ủng hộ một chương trình hưu trí bắt buộc cho

biết chi phí của kế hoạch nghỉ hưu xét cả về thời gian và công sức là lý do quan

trọng nhất (vì (i) nếu không nhờ có tiết kiệm hưu trí bắt buộc thì cá nhân sẽ bị cám

dỗ không tiết kiệm đủ để nghỉ hưu và (ii) cá nhân không muốn suy nghĩ về việc tiết

kiệm bao nhiêu cho nghỉ hưu). Có 62 người trả lời (chiếm 28,84% mẫu) nếu không

có tiết kiệm hưu trí bắt buộc thì sẽ không tiết kiệm đủ tiền cho nghỉ hưu, điều này

làm dấy lên sự nhận thức về vấn đề tự kiểm soát của cá nhân. Có 47 người trả lời

(chiếm 21,86% mẫu) cho rằng nghĩa vụ tiết kiệm hưu trí bắt buộc là một bất lợi vì

cá nhân muốn có quyền quyết định có tiết kiệm không và tiết kiệm bao nhiêu bao

nhiêu cho nghỉ hưu.

Thông qua câu hỏi khảo sát, nghiên cứu có đề nghị người trả lời về tỷ lệ phần trăm

thu nhập tiền lương mà cá nhân đó muốn được bảo đảm là thu nhập hưu trí. Theo

bảng 4.10 thống kê kết quả khảo sát từ 215 người tham gia trả lời, tỷ lệ bảo đảm thu

nhập hưu trí trung bình là 54,22% thu nhập từ tiền lương, có 120 người trả lời

(chiếm 55,81% mẫu) chọn tỷ lệ bảo đảm thu nhập hưu trí là thấp hơn hoặc bằng

50% thu nhập từ tiền lương và có 37 người trả lời (chiếm 17,21% mẫu) chọn tỷ lệ

bảo đảm thu nhập hưu trí phải cao hơn 70% thu nhập từ tiền lương. Kết quả cũng

cho thấy sự lựa chọn đối với tỷ lệ bảo đảm thu nhập ở một mức cao (hoặc thấp) có

120

mối tương quan tích cực với hệ thống hưu trí DB (hoặc DC). Trong 97 người trả lời

chọn hệ thống hưu trí DB, có 20,62% (8,25%+11,34%+1,03%) muốn bảo đảm thu

nhập hưu trí là trên 70% thu nhập từ tiền lương và có 51,55% trong nhóm này hài

lòng với tỷ lệ bảo đảm thu nhập hưu trí là thấp hơn hoặc bằng 50% thu nhập từ tiền

lương. Mặt khác, chỉ có 14,28% (9,09%+5,09%+0,00%) trong số 77 người lựa chọn

hệ thống hưu trí theo mô hình DC muốn bảo đảm thu nhập hưu trí là trên 70% thu

nhập từ tiền lương và có đến 61,04% trong nhóm này thỏa mãn với thu nhập hưu trí

là thấp hơn hoặc bằng 50% thu nhập từ tiền lương.

Bảng 4.10 Sự ưa thích của cá nhân về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ

thống hưu trí được ưu tiên.

Sự ưa thích về mức độ bảo đảm thu nhập trong hệ thống hưu trí được ưu tiên

Hệ thống hưu trí được cá nhân ưu tiên (đvt: Tỷ lệ phần trăm người trả lời trong mẫu

)

Hệ thống hưu trí được ưa

Mức độ bảo đảm thu nhập được ưa thích

thích (số người chọn)

(Tỷ lệ phần trăm của thu nhập thuần cuối cùng)

Đến

Trên 50%

Trên 60%

Trên 70%

Trên 80%

Trên 90%

50%

đến 60%

đến 70%

đến 80%

đến 90%

đến 100%

DB (97 người chọn)

51,55%

11,34%

16,49%

8,25%

11,34%

1,03%

DC (77 người chọn)

61,04%

12,99%

11,69%

9,09%

5,19%

0,00%

Bàng quan (20 người chọn)

60,00%

20,00%

15,00%

5,00%

0,00%

0,00%

Không biết (21 người chọn)

52,38%

4,76%

19,05%

9,52%

14,29%

0,00%

*Tỷ lệ phầm trăm khi cộng theo dòng hàng ngang có thể không bằng 100% do việc làm tròn số.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

Để đánh giá mức độ ưa thích của cá nhân về tính tự chủ đối với danh mục

đầu tư, nghiên cứu đặt ra câu hỏi trong tình huống giả định về một chương trình

hưu trí theo mô hình DC để xem người trả lời muốn đầu tư thu nhập hưu trí theo

danh mục được cung cấp bởi quỹ hưu trí của mình hay theo sự lựa chọn đầu tư của

cá nhân mình. Kết quả từ bảng 4.12 cho thấy có 95 người trả lời (chiếm 44,19%

mẫu) chọn đầu tư theo danh mục đầu tư do quỹ hưu trí đề xuất, 77 người trả lời

(chiếm 35,81% mẫu) chọn việc tự chủ trong quyết định đầu tư, 24 người trả lời

(chiếm 11,16% mẫu) bàng quan và 19 người trả lời (chiếm 8,84% mẫu) không

biết/không trả lời. Bảng 4.11 tổng hợp sự liên kết giữa mức độ ưa thích của cá nhân

về tính tự chủ đối với danh mục đầu tư và các ưu tiên về hệ thống hưu trí một lần

121

nữa cho thấy sự phân đôi giữa những người ủng hộ hệ thống hưu trí theo mô hình

DC so với mô hình DB càng trở nên rõ ràng khi một lượng lớn người trả lời thích để

quỹ hưu trí quyết định đầu tư trong khi một lượng người tương ứng thì muốn có sự

tự chủ cá nhân trong việc tạo ảnh hưởng lên danh mục đầu tư.

Bảng 4.11 Sự ưa thích của cá nhân về việc tự đầu tư trong hệ thống hưu trí

được ưu tiên.

Sự ưa thích về việc cá nhân tự đầu tư trong hệ thống hưu trí được ưu tiên

Hệ thống hưu trí được cá nhân ưu tiên (đvt: Tỷ lệ phần trăm người trả lời trong mẫu

)

Hệ thống hưu trí được ưa thích

Mức độ ưa thích của cá nhân về tính tự chủ trong quyết

(số người chọn)

định đối với danh mục đầu tư

Quỹ hưu trí

Tự đầu tư Bàng quan Không biết

DB (97 người chọn)

45,36%

35,05%

10,31%

9,28%

DC (77 người chọn)

42,86%

35,06%

11,69%

10,39%

Bàng quan (20 người chọn)

45,00%

40,00%

10,00%

5,00%

Không biết/không trả lời (21 người chọn)

42,86%

38,10%

14,29%

4,76%

*Tỷ lệ phầm trăm khi cộng theo dòng hàng ngang có thể không bằng 100% do việc làm tròn số.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

Để xem xét việc gia tăng về chuyên môn tài chính ảnh hưởng đến sự thay đổi

sở thích tự chủ đầu tư của cá nhân, người trả lời đã được hỏi rằng liệu cơ hội tham

gia một khóa học (miễn phí) nâng cao chuyên môn tài chính sẽ giúp họ sẵn sàng tận

dụng sự tự chủ nhiều hơn đến việc đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí hay không. Kết quả

khảo sát cho thấy 178 người trả lời (chiếm 82,79% mẫu) trả lời rằng việc được đào

tạo nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn tài chính sẽ làm cho họ nghiêng về hướng

kiểm soát danh mục hưu trí của mình; 37 người trả lời (chiếm 17,21% mẫu) việc gia

tăng về chuyên môn tài chính không làm ảnh hưởng đến sự thay đổi sở thích tự chủ

đầu tư của cá nhân. Sự phản hồi cũng tương quan với việc ưa thích hệ thống hưu trí

theo mô hình DC của người trả lời: 65 trong số 77 người trả lời thích hệ thống hưu

trí theo mô hình DC tin rằng họ tận dụng ảnh hưởng nhiều hơn đến việc đầu tư tiền

bảo hiểm hưu trí khi được cung cấp khả năng nâng cao kiến thức tài chính của

mình.

Tóm lại, mặc dù số lượng người trả lời ưa thích hệ thống hưu trí theo mô

hình DC khá cao nhưng số lượng người trả lời ưa thích hệ thống hưu trí theo mô

122

hình DB vẫn nhiều hơn là DC, vẫn ưa thích một tỷ lệ cao bảo đảm cho thu nhập

hưu trí từ thu nhập tiền lương và vẫn ưa thích quỹ hưu trí chuyên nghiệp thực hiện

quyết định đầu tư. Ngoài ra, người trả lời có xu hướng nắm bắt cơ hội và càng gần

với sự chấp nhận rủi ro. Phần lớn người trả lời là những người có trình độ và có sự

am hiểu về tài chính nhất định. Những người trả lời có xu hướng nghiêng về chấp

nhận rủi ro và có sự am hiểu nhất định về tài chính thì có xu hướng ưa thích một

chương trình hưu trí theo mô hình DC, ưa thích lựa chọn một tỷ lệ thấp đối với việc

bảo đảm cho thu nhập hưu trí từ thu nhập tiền lương và có nhiều khả năng ưa thích

sự tự chủ đầu tư. Từ đó cho thấy, các thái độ tự đánh giá và việc đo lường khả năng

chấp nhận rủi ro rủi ro cũng như sự tự đánh giá chuyên môn tài chính của cá nhân

có vai trò đáng kể trong việc giải thích các ưu tiên của cá nhân đối với chương

trình hưu trí.

4.4.3 Tính ưu tiên của cá nhân về vấn đề liên quan đến danh mục đầu tư

Trong trường hợp tự chủ đầu tư đối với danh mục đầu tư giả định bao gồm

cổ phiếu và trái phiếu, người trả lời được khảo sát về tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ

phiếu từ 0% (danh mục đầu tư hoàn toàn vào trái phiếu) đến 100% (danh mục đầu

tư hoàn toàn vào cổ phiếu).

Hình 4.8 Thành phần của khoản tiết kiệm hưu trí ưa thích: Tỷ lệ phần trăm cổ

phiếu trong danh mục đầu tư cá nhân.

(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

123

Hình 4.8 cho thấy đối với những người ưu tiên hệ thống hưu trí theo mô hình

DC (77 người trong 215 người trả lời) trung bình ưa thích việc nắm giữ một lượng

lớn cổ phiếu trong danh mục đầu tư của mình (trung bình 54,29% giá trị danh mục

đầu tư) trong khi những người ưu tiên hệ thống hưu trí DB (97 người trong 215

người trả lời) trung bình ưa thích việc nắm giữ một tỷ trọng cổ phiếu thấp hơn trong

danh mục đầu tư của mình (trung bình 38,20% giá trị danh mục đầu tư).

Tiếp theo, người trả lời cũng được hỏi về các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa

chọn ban đầu và các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn thay đổi về tỷ lệ phần trăm

cổ phiếu trong danh mục đầu tư trong tương lai.

Theo Bảng 4.12, có khoảng 86,98% người được hỏi cho biết rằng các hoàn

cảnh cá nhân (tuổi tác, thành phần gia đình, tình trạng tài chính cá nhân hoặc các

khoản tiền cấp dưỡng hưu trí tích luỹ) hoặc các điều kiện kinh tế chung và các kỳ

vọng của TTCK có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn danh mục ưu tiên và sẽ

tiếp tục ảnh hưởng đến các quyết định điều chỉnh trong tương lai. Khoảng 13,02%

người được hỏi cho biết những yếu tố này không có liên quan đến sự lựa chọn thành

phần danh mục đầu tư ban đầu hoặc sự điều chỉnh thành phần danh mục đầu tư

trong tương lai. Các yếu tố quyết định lựa chọn ban đầu của danh mục đầu tư và các

yếu tố quyết định sau này có sự thay đổi nhiều hoặc ít giống nhau là ở tình hình tài

chính cá nhân (33,49% với 54,42%), tài sản hưu trí tích lũy (21,40% với 87,91%),

tình hình kinh tế chung (25,12% với 53,49%) và kỳ vọng về TTCK (46,05% với

51,16%). Đây cũng là các yếu tố chứa đựng sự thay đổi khó có thể dự đoán tính

chắc chắn như các yếu tố về tuổi tác, tình hình gia đình nhưng lại là động lực mạnh

mẽ của các quyết định đầu tư trong tương lai của cá nhân khi hơn một nửa số người

trả lời cho rằng sẽ xem xét việc thay đổi danh mục đầu tư của họ trong trường hợp

có sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào trong bốn yếu tố này.

Bảng 4.12 Các yếu tố quyết định cơ bản của sự lựa chọn ban đầu và những

thay đổi kế tiếp trong thành phần của các danh mục đầu tư hưu trí.

(Đvt: Tỷ lệ phần trăm số người trả lời trong mẫu ).

Tỷ lệ phần trăm người trả lời theo khoản mục

Yếu tố quyết định

Thành phần ban đầu

Các lý do thay đổi

124

Không có

6,98%

7,91%

Tuổi tác của cá nhân

26,98%

23,72%

Tình hình gia đình

26,05%

26,98%

Tình hình tài chính cá nhân

33,49%

54,42%

Tài sản hưu trí tích lũy

21,40%

87,91%

Tình hình kinh tế chung

25,12%

53,49%

Kỳ vọng về thị trường tài chính

46,05%

51,16%

Các hoàn cảnh khác

6,05%

3,72%

*Tỷ lệ phần trăm không cộng dồn thành 100% do người khảo sát có thể trả lời nhiều hơn một lựa chọn.

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

4.4.4 Đánh giá của cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị

trường chứng khoán Việt Nam

Thứ nhất, kết quả khảo sát cho thấy hầu hết người trả lời đều đánh giá tích

cực về sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhất là TTCK Việt Nam

trong những năm gần đây. Theo đó, TTCK Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh,

tốt nhưng còn nhiều biến động. Đồng thời, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK Việt Nam được đánh giá là phù hợp (183 ý kiến, chiếm 85,12% mẫu

(=11,163%+33,953%+40%)).

Thứ hai, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam được

đánh giá sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của TTCK trong việc (i)

cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK (117 ý kiến, chiếm 54,42%

mẫu); (ii) gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường

(122 ý kiến, chiếm 56,74% mẫu); (iii) phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên

TTCK (91 ý kiến, chiếm 42,33% mẫu); (iv) tăng cường chiều sâu và tính thanh

khoản của TTCK (66 ý kiến, chiếm 30,7% mẫu).

Thứ ba, thông qua kết quả khảo sát các điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến

phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam cũng cho thấy các điều kiện phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam còn nhiều thách thức. Theo đó, kết quả

khảo sát cho thấty có 111 ý kiến (chiếm 51,63% mẫu) đồng ý cơ sở hạ tầng của

TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa, có 141 ý kiến (chiếm 65,58% mẫu) cho

rằng khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân

bổ tài sản, có 149 ý kiến (chiếm 69,30% mẫu) nhận định yếu tố lạm phát và tính ổn

125

định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các năm. Riêng việc chính sách ưu

đãi về thuế thu nhập chưa đủ hấp dẫn chỉ nhận được 81 ý kiến (chiếm 37,67% mẫu)

cho rằng đây là thách thức quan trọng đối với sự phát triển của quỹ hưu trí trên

TTCK. Các ý kiến chung và phổ biến của các cá nhân được khảo sát về các điểm

mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện được

tổng hợp trong Bảng 4.13.

Bảng 4.13 Tổng hợp ý kiến của các cá nhân về phát triển quỹ hưu trí tự

S1: Nguồn vốn dùng để đầu tư là lớn và ổn định dài hạn

nguyện trên TTCK Việt Nam

Strengths

- Các

S2: Có hiệu quả về lợi ích kinh tế và cả lợi ích xã hội

điểm mạnh đến từ

S3: Tính minh bạch và an toàn

các yếu tố bên trong

W1: Sản phẩm mới ít người biết, chưa phổ biến, ít thông tin truyền thông, có độ rủi

Weaknesses - Các

ro cao hơn loại hình hưu trí công

điểm yếu đến từ các

W2: Chậm tiếp cận với những người chưa có nhiều kiến thức chuyên sâu, khó tiếp

yếu tố bên trong

cận đối với đa số lao động phổ thông do ít người am hiểu về lĩnh vực này tại Việt

Nam

W3: Năng lực quản lý quỹ (uy tín, kinh nghiệm, tầm nhìn và sự liêm chính)

O1: Kinh tế Việt Nam, TTCK Việt Nam đang phát triển và hội nhập, trong khi thị

Opportunities - Các

trường thu nhập hưu trí tự nguyện còn ở giai đoạn sơ khai nên còn nhiều tiềm năng

cơ hội đến từ các

để phát triển

yếu tố bên ngoài quỹ

O2: Tỷ lệ người già trong xã hội đang dần tăng lên, quỹ hưu trí công đang có vấn

hưu trí tự nguyện

đề, sự quan tâm ủng hộ của Nhà nước trong việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

O3: Tầng lớp trí thức, trung lưu ở Việt Nam đang tăng nhanh

T1: Yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các

Threats - Các thách

năm

thức đến từ các yếu

T2: Cơ sở hạ tầng của TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa

tố bên ngoài quỹ

T3: Khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân

hưu trí tự nguyện

bổ tài sản

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ thông tin khảo sát.

Kết luận Chương 4

Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của luận án, tác giả đã phân tích tổng

quan về quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của Việt Nam, qua đó cho thấy

vị trí của quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III trong mô hình hưu trí đa trụ cột

với vai trò góp phần hoàn thiện hệ thống hưu trí của quốc gia hướng tới mục tiêu an

sinh xã hội cho người già khi về hưu. Đồng thời, nghiên cứu nhận định thực trạng

126

cải cách hệ thống hưu trí tại Việt Nam chủ yếu vẫn là những cải cách tham số. Năm

2013 là năm đánh dấu bước ngoặt lớn khi Việt Nam triển khai bảo hiểm hưu trí tự

nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là các sản phẩm thương mại, cũng

như bảo hiểm hưu trí bổ sung trong vai trò là một chính sách bảo hiểm xã hội. Đồng

thời, luận án cũng trình bày tổng quan phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Việt Nam và các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

theo mô hình PESTLIED cũng như xem xét triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK từ sự lựa chọn của các cá nhân là các công dân Việt Nam.

Thông qua sự lựa chọn của mình, các cá nhân ảnh hưởng đến phát triển quỹ hưu trí

tự nguyện trên TTCK dựa trên (i) mức độ hiểu biết về tài chính và thái độ với rủi ro;

(ii) sở thích và hành vi cá nhân trong vấn đề thu nhập hưu trí. Theo đó, sự lựa chọn

đầu tư từ phía cá nhân tham gia đóng góp sẽ quyết định sự tham gia vào chương

trình hưu trí theo mô hình tài chính DC cũng như sự tự do lựa chọn danh mục đầu

tư và sở thích rõ ràng về khẩu vị rủi ro đối với các khoản đầu tư dựa trên tài sản

đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện.

Nhìn chung, sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong thực tế mang tính

bảo hiểm nhiều hơn và do có việc bảo hiểm trong quá trình đóng góp nên khiến phí

cao hơn, dẫn đến thu nhập ít hơn cho người hưởng thụ. Trong khi đó, hoạt động

của quỹ hưu trí tự nguyện sẽ hướng tới việc tập trung vào mục tiêu tối đa hóa giá trị

tài sản của quỹ nên hứa hẹn đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất sinh lời kỳ vọng cao

hơn. Việc phân tích tình hình phát triển của hoạt động bảo hiểm hưu trí tự nguyện

và quỹ hưu trí tự nguyện, các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

theo mô hình PESTLIED cũng như thu thập ý kiến sự lựa chọn của cá nhân về thu

nhập hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam đã cho thấy hoạt động của các

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam vẫn còn mới mẻ nhưng cũng đã nhận

được sự quan tâm từ những cá nhân có trình độ đại học trở lên, có hiểu biết chuyên

môn về tài chính. Kết quả khảo sát này là cơ sở tham khảo quan trọng để góp phần

xác lập các đối tượng khách hàng mục tiêu của quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam.

127

CHƯƠNG 5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

Trong chương 5, luận án trình bày những điểm chính trong định hướng về

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Đồng thời luận án đề xuất

một số khuyến nghị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam

căn cứ từ (i) định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam; (ii)

kết quả nghiên cứu thực nghiệm và bài học kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc khối APEC; (iii) các điều kiện phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam và (iv) thông tin thu thập từ quá

trình khảo sát sự lựa chọn của các cá nhân là công dân Việt Nam về các vấn đề liên

quan đến quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt

Nam. Cuối cùng, luận án tiến hành tóm tắt các kết luận chính của nghiên cứu về quỹ

hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK nói chung, TTCK

Việt Nam nói riêng.

5.1 Định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng

khoán Việt Nam đến năm 2020

Theo Quyết định số 252/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK

Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành ngày 01/03/2012, mục tiêu cụ thể

để phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2020, việc phát triển các nhà đầu tư có tổ

chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí và phát triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư

chính trên TTCK là một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện và phát

triển TTCK nhằm hướng tới gia tăng quy mô, độ sâu và tính thanh khoản của TTCK

Việt Nam. Trong đó có quỹ hưu trí tự nguyện sẽ làm gia tăng thêm cơ sở các nhà

đầu tư tổ chức, tạo thêm nguồn cầu đáng kể đối với các sản phẩm đầu tư tài chính

trên thị trường tài chính, từ đó thúc đẩy và phát triển TTCK trong tương lai để

TTCK có thể trở thành kênh huy động vốn quan trọng đối với nền kinh tế Việt

Nam.

Theo Quyết định số 144/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án hình thành và phát

triển chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam được ban hành ngày 20/01/2014,

128

mục tiêu hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện là nhằm xây dựng

hệ thống hưu trí đa trụ cột tại Việt Nam, góp phần bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị

quyết số 21-NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ Chính trị; đồng thời

khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn trên thị trường vốn

theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu cụ thể được kỳ

vọng là (i) đến năm 2020, có khoảng 400 - 500 doanh nghiệp với khoảng 150 nghìn

người tham gia mua sản phẩm bảo hiểm hưu trí hoặc đóng góp vào các quỹ hưu trí

tự nguyện theo hình thức ủy thác đầu tư và (ii) đến năm 2020, doanh số tích lũy của

các quỹ hưu trí tự nguyện để đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có thị trường vốn,

TTCK khoảng 10 - 12 nghìn tỷ đồng.

5.2 Đề xuất một số khuyến nghị phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị đến Chính phủ Việt Nam, Bộ Tài

Chính dựa trên những căn cứ từ (i) định hướng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam, (ii) bài học kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, (iii) các điều kiện phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên TTCK cũng như (iv) từ các ý kiến được tổng hợp của các cá nhân là

công dân Việt Nam về các vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí và phát triển quỹ hưu trí

trên TTCK Việt Nam. Theo đó, Chính phủ Việt Nam cần chú trọng việc thực hiện

và đáp ứng của các điều kiện sau để có thể phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam:

5.2.1 Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát

Theo bộ dữ liệu thống kê từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam trong giai đoạn từ

năm 2000 đến 2015, các số liệu kinh tế vĩ mô như (i) tự do kinh tế, (ii) thu nhập

bình quân đầu người và (iii) quy mô vốn hóa thị trường nội địa có sự tăng trưởng

đáng kể theo thời gian; trong khi đó (iv) lãi suất dài hạn và (v) tỷ lệ lạm phát trong

giai đoạn này có những biến động thăng trầm và có xu hướng giảm; còn (vi) tỷ lệ

dân số già hóa xấp xỉ 10% qua các năm so với tổng dân số cũng báo hiệu tình trạng

dân số đang có xu hướng già hóa theo thời gian tại Việt Nam.

129

Trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển nói chung cũng như ở Việt

Nam, việc thiết kế quỹ hưu trí tự nguyện cũng phải đáp ứng được ba vấn đề đặc biệt

có liên quan mật thiết đến yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô, bao

gồm (i) thành phần của danh mục đầu tư vào các tài sản đem lại thu nhập cố định

(fixed - incomes porfolios); (ii) thành phần của danh mục cổ phần (equity

porfolios), và (iii) chiến lược phòng ngừa đối với những biến động liên quan đến

tiền tệ (currency hedging) (Valdés-Prieto, 2008; Viceira, 2010; Falkenheim, 2015).

Trong thực tế, hầu hết các lựa chọn đầu tư trong chương trình hưu trí theo mô hình

DC tại các nền kinh tế đang phát triển đều hoạt động tuân theo những quy định ràng

buộc chặt chẽ về luật pháp, nên có xu hướng đầu tư với tỷ trọng cao vào các tài sản

đem lại thu nhập cố định. Hơn nữa, sự phân bổ đầu tư cho các tài sản đem thu nhập

cố định này có xu hướng tập trung cao vào TPCP trong nước và các công cụ tiền

mặt (TPCP ngắn hạn, các công cụ trên thị trường tiền tệ và tiền gửi). Tương tự tại

Việt Nam, theo mục tiêu cụ thể để phát triển TTCK đến năm 2020 thì việc phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện cũng được định hướng phát triển thị trường TPCP nhằm

góp phần giảm bớt tỷ trọng đầu tư vào TPCP của các ngân hàng thương mại. Do đó,

việc nhận diện ưu điểm và rủi ro của sự phân bổ đầu tư cao vào TPCP cần được chú

trọng xem xét điều chỉnh theo thời gian.

Sự phân bổ đầu tư cao vào các công cụ tiền mặt, TPCP có thể đến từ hai yếu

tố chính là (i) các công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định thường là những tài

sản an toàn nhất bắt nguồn từ sự khôn ngoan thông thường trong đầu tư; (ii) việc

xem xét sự tài trợ cho vấn đề thâm hụt tài chính cũng góp phần giải thích cho quyết

định phân bổ đầu tư vào TPCP trong nước. Tuy nhiên, lý thuyết hiện đại về phân bổ

tài sản dài hạn cho thấy thực tiễn chung về việc yêu cầu các quỹ hưu trí tự nguyện

nắm giữ số lượng lớn các TPCP dài hạn trong nước và các khoản tiền gửi hoặc các

công cụ tương tự tiền mặt lại không có lợi nhất cho người tham gia chương trình

hưu trí và cần phải được xem xét lại, ngay cả khi mục tiêu cuối cùng là cung cấp

cho những người tham gia chương trình hưu trí những lựa chọn đầu tư an toàn. Các

công cụ tiền mặt và các quỹ có giá trị ổn định không phải là tài sản an toàn cho các

nhà đầu tư dài hạn và việc đầu tư và các loại tài sản này còn được xem như là chiến

130

lược mạo hiểm vì chúng chịu rủi ro tái đầu tư do thời hạn đáo hạn của chúng là

ngắn so với đặc thù mang tính chất dài hạn của mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự

nguyện cũng như sự tìm kiếm sự đầu tư dài hạn của hầu hết những người tham gia

chương trình hưu trí. Trái phiếu dài hạn bảo vệ các nhà đầu tư khỏi nguy cơ tái đầu

tư, bởi vì sự sụt giảm lãi suất được bù đắp bằng việc tăng vốn (capital gain) trong

giá trị trái phiếu. Nhưng TPCP dài hạn thường là các công cụ có các khoản lãi

cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá được cố định theo giá trị danh nghĩa. Chính

điều này làm cho trái phiếu dài hạn trở thành những khoản đầu tư rủi ro đối với các

nhà đầu tư dài hạn bởi vì rủi ro lạm phát trong dài hạn (nếu lạm phát kỳ vọng trong

tương lai thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát kỳ vọng đã được tính vào giá trái phiếu tại

thời điểm mua lại, sức mua của các khoản lãi cuống phiếu và vốn gốc theo mệnh giá

của trái phiếu sẽ bị xói mòn, và việc đầu tư vào trái phiếu cũng đối mặt với các

khoản lỗ vốn) (Campbell & Viceira, 2001; Campbell & Viceira, 2002).

5.2.2 Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam

Việt Nam cần chú trọng mức độ phát triển tài chính trong nền kinh tế thông

qua hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK. Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK,

trong đó bao gồm (i) sự phát triển của ngành quản lý tài sản; (ii) các thỏa thuận giao

dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh vi; (iii) có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin

cậy và hiệu quả, bao gồm một trung tâm lưu ký hoạt động tốt; (iv) có hệ thống

thanh toán liên ngân hàng có giá trị lớn, hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin

cậy; (v) và có một hệ thống ngân hàng vững chắc.

Trong đó, TTCK Việt Nam cần hoàn thiện về (i) các quy chế hoạt động giao

dịch và giám sát trên TTCK; (ii) mức độ đa dạng và phong phú của các sản phẩm

dịch vụ tài chính; (iii) tính cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính

trên TTCK để cung cấp các dịch vụ tài chính được trên TTCK với mức chi phí hợp

lý. Ngoài ra, để tạo điều kiện phát triển cho các loại hình quỹ đầu tư nói chung, quỹ

hưu trí tự nguyện nói riêng, TTCK Việt Nam cần chú trọng phát triển ngành quản lý

gia sản và và chấp nhận sự đa dạng của các nhà đầu tư tổ chức.

Với những đặc thù của tài sản quỹ hưu trí tự nguyện và với mục tiêu phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam đến năm 2020, Việt Nam nhìn

131

nhận việc phát triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí và

phát triển các quỹ này trở thành nhà đầu tư chính trên TTCK là một trong những

giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường TPCP, từ đó nhằm

tăng cường sự ổn định của TTCK và hệ thống tài chính Việt Nam. Việc phát triển

các nhà đầu tư tổ chức với sự phát triển của thị trường tài chính cũng có mối quan

hệ tác động hai chiều. Sự phát triển của một cơ sở nhà đầu tư tổ chức trong nước

khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn hiện đại, và ngược lại, việc mở rộng

khu vực nhà đầu tư tổ chức đòi hỏi sự tồn tại của một cơ sở hạ tầng thị trường tài

chính phức tạp. Do đó, bên cạnh việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện, các giải pháp

hiện đại hóa cơ sở thị trường tài chính để phát triển đồng đều các bộ phận của thị

trường TTCK nói riêng, thị trường tài chính nói chung cần được triển khai thực hiện

đồng bộ và toàn diện.

So với các TTCK lớn trên thế giới đã được vận hành lâu đời thì TTCK Việt

Nam chỉ mới hoạt động từ năm 2000. Vì vậy, TTCK Việt Nam còn trong giai đoạn

đầu của quá trình phát triển và vẫn cần sự nỗ lực hoàn thiện không ngừng, kế thừa

kinh nghiệm của thế giới để phát triển phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xu hướng

quốc tế. Bên cạnh sự kết hợp các tiềm năng phát triển tự nhiên của ngành và loại bỏ

các trở ngại trong chính sách, việc hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thị trường tài chính

cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức đầu tư trong nước, nhất là

tại các thị trường mới nổi. Như vậy, song song với việc phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện, các giải pháp hiện đại hóa cơ sở thị trường tài chính để phát triển TTCK

nói riêng, thị trường tài chính nói chung cần được triển khai thực hiện đồng bộ và

toàn diện.

5.2.3 Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và

phân bổ tài sản

Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là quy định pháp lý về hoạt động đầu tư

và phân bổ tài sản đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK và cần được quy định đầy đủ và thích hợp, tập trung vào quy định về sự

đối xử công bằng của tất cả các cổ đông, trách nhiệm quản lý tốt hơn cho các cổ

đông; ghi nhận đăng ký quyền sở hữu chứng khoán độc lập nhằm tránh sự thao túng

132

và các gian lận bởi quản lý hoặc trong nội bộ (bao gồm cả những vấn đề liên quan

đến năng lực và đạo đức của người đại diện quản lý tài sản quỹ hưu trí tự nguyện

khi có sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu dẫn đến sự xung đột về lợi

ích tiềm tàng khi tồn tại thông tin bất cân xứng giữa các bên liên quan.

Tại Việt Nam hiện nay, dự thảo Nghị định về quy định quỹ hưu trí tự nguyện

đã được Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ, hiện vẫn đang trong giai đoạn hoàn

thiện, nên việc dự thảo Nghị định này cần được đẩy nhanh tiến độ sẽ hoàn thiện

khung pháp lý quy định về hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt

Nam theo mô hình ủy thác với hướng quy định rõ cơ chế đăng ký thành lập quỹ;

những quy định khung về mô hình tổ chức và hoạt động; cơ chế đóng góp, chi trả,

giới hạn đầu tư của quỹ, bảo đảm an toàn của quỹ hưu trí tự nguyện; và cơ chế

thông tin, báo cáo, giám sát quỹ.

Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quỹ đầu tư chứng

khoán, ủy thác đầu tư trên TTCK theo hướng mở rộng, đa dạng hóa các loại sản

phẩm đầu tư trên thị trường vốn, củng cố hệ thống nhà đầu tư có tổ chức trên TTCK

theo Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt. Bên cạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước và

niêm yết trên TTCK sẽ góp phần tạo độ sâu của TTCK thì việc tập trung vào các

quy định bảo đảm quyền tài sản (tính vẹn toàn của tài sản) và tính thanh khoản của

TTCK là cần thiết, qua đó cũng sẽ góp phần thu hút mối quan tâm đầu tư từ quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK, đặc biệt là từ các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.

Việt Nam cần tiếp tục xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn

các Luật thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cụ thể

hóa những chính sách ưu đãi đối với chương trình hưu trí tự nguyện đã được quy

định tại luật. Trong đó, các văn bản hướng dẫn cần quy định rõ đối tượng, mức và

điều kiện được tính vào chi phí, được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế hoặc miễn/giảm

thuế đối với các khoản đóng góp vào, lợi nhuận đầu tư và các khoản chi trả từ

chương trình hưu trí tự nguyện. Tuy nhiên, do đặc thù về nguồn hình thành tài sản

của quỹ và đặc điểm đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ nên việc tiếp cận hoạt

động của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trở

133

nên thuận lợi hơn về góc độ giá trị tài sản của quỹ và phân bổ cơ cấu tài sản của quỹ

phù hợp với chiến lược đầu tư và mục tiêu đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện. Theo

đó, việc đầu tư tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện phải tuân thủ quy định pháp luật,

tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư, bảo đảm tính an toàn, hiệu quả, phân tán

rủi ro, thanh khoản, giá trị tài sản đầu tư tương xứng với trách nhiệm và đặc thù rủi

ro của sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện (chẳng hạn như tỷ suất sinh lời cam kết

công bố công khai theo đặc thù của bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam là phải công bố dự

kiến cho giai đoạn 5 năm tới kể từ thời điểm hiện tại).

Như vậy, có thể thấy việc hoàn thiện hành lang pháp lý với các quy định, văn

bản hướng dẫn, phối hợp cụ thể đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền

tảng vững chắc cho việc tích lũy và bảo đảm kỷ luật thị trường trong quản lý quy

mô tài sản quỹ hưu trí tự nguyện, hướng tới sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện

bền vững trong dài hạn.

5.2.4 Tiếp tục cải cách hưu trí theo định hướng mô hình hệ thống hưu trí

đa trụ cột

Việt Nam cần tiếp tục tiến hành cải cách toàn hệ thống hưu trí theo hướng

mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột vì một hệ thống hưu trí đa trụ cột sẽ giúp khắc

phục những bất cập của hệ thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí

bắt buộc PAYG do Nhà nước quản lý. Trong đó, Việt Nam cũng cần chú trọng phát

triển bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC vì những

lợi ích mà quỹ hưu trí tự nguyện có thể đem lại cho người tham gia, cho xã hội và

cho nền kinh tế. Trong đó về phía người tham gia, (i) họ có thể thực hiện hoạch

định kế hoạch tài chính và chi tiêu một cách kỷ luật, hiệu quả và chắc chắn cho tuổi

nghỉ hưu. Khi được kết hợp với các trụ cột tài chính khác, bảo hiểm hưu trí tự

nguyện góp phần bảo đảm cuộc sống sau nghỉ hưu, vượt qua được rủi ro thiếu hụt

tài chính trong giai đoạn nghỉ hưu, đặc biệt là khi sống thọ; (ii) họ không phải tự

mình thực hiện việc quản lý và đầu tư tài sản, do đó có thể trút bỏ những lo lắng, vất

vả khi phải tự thực hiện quản lý và đầu tư tài sản phục vụ cho cuộc sống hưu trí, từ

đó yên tâm hưởng thụ cuộc sống sau nghỉ hưu; (iii) họ có thể được hưởng giá trị

đầu tư lớn hơn so với việc tự đầu tư do các tổ chức cung cấp bảo hiểm hưu trí tự

134

nguyện có chuyên môn cao và có nhiều thông tin hơn cá nhân trong quản lý, đầu tư

đồng thời các tổ chức này quản lý quỹ đầu tư lớn nên có thể đạt được hiệu quả đầu

tư cao hơn. Thêm vào đó, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

cũng đem lại quyền lợi, dịch vụ tốt hơn cho khách hàng; (iv) họ được hưởng ưu đãi

nhất định về thuế thu nhập cá nhân như được miễn một phần thuế thu nhập cá nhân

đối với khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, trì hoãn thu thuế thu nhập cá nhân đối với

khoản tiền đóng bảo hiểm hưu trí, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với tiền

hưu trí được nhận.

5.2.5 Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cá nhân về

quỹ hưu trí tự nguyện và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên thị

trường chứng khoán Việt Nam

Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP ổn định qua các năm gần đây song Việt

Nam vẫn là một quốc gia có thu nhập bình quân của mỗi người dân còn thấp so với

các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, tỷ lệ dân số già hóa ở

Việt Nam đang ngày càng tăng và có thể dẫn tới hiện trạng “già trước khi kịp giàu”.

Chính vì vậy, việc khuyến khích người lao động có kế hoạch tài chính cho tuổi già

càng sớm là nhằm nâng cao ý thức quản lý tài chính cá nhân và chủ động với các kế

hoạch tài chính với các khoản tiết kiệm về già dành cho bản thân mình ngay khi còn

trẻ. Nhà nước khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia chương trình

hưu trí tự nguyện theo các hình thức sản phẩm của chương trình và có các chính

sách ưu đãi về thuế đối với các khoản đóng góp, lợi nhuận đầu tư và các khoản chi

trả cho người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu với các điều kiện được hưởng và mức

ưu đãi thuế cụ thể thực hiện theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,

Luật thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn.

Chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực hiện theo

quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện (niên

kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp với mục đích hướng đến việc (i)

hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc, nhằm góp phần tạo nên một hệ

thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu

bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như (ii)

135

nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua việc huy động nguồn phí bảo

hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư,

tăng trưởng kinh tế - xã hội. Với sự thuận lợi đến từ các điều kiện bao gồm (i) xu

hướng cải cách hệ thống hưu trí trên thế giới; (ii) các vấn đề về nhân khẩu học; (iii)

các vấn đề về xã hội học cũng như (iv) tiềm năng phát triển của TTCK Việt Nam đã

và đang góp phần phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Trong khi

đó hoạt động của bảo hiểm hưu trí tự nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam

hiện nay vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, do đó thông tin số liệu còn hạn chế trên thị

trường.

Chính vì vậy, việc tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các cá

nhân về bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí tự nguyện và tham gia quỹ hưu trí

tự nguyện cần được chú trọng nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia của các cá

nhân vào các chương trình hưu trí tự nguyện. Qua đó, dự phòng tiết kiệm trong dân

cư được kỳ vọng tăng cường, góp phần làm nền tảng cung cấp nguồn tiết kiệm hưu

trí vào tài khoản cá nhân, hình thành nên tài sản quỹ hưu trí tự nguyện bên cạnh

nguồn lợi tức có được từ việc đầu tư các tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK, góp phần gia tăng quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện.

Đặc biệt, để thu hút đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện, quỹ hưu

trí tự nguyện trên TTCK, kết quả khảo sát của luận án cũng đề xuất (i) việc tăng

cường tiếp cận với các đối tượng khách hàng tiềm năng là các cá nhân có trình độ,

có hiểu biết nhất định về tài chính và (ii) nội dung tuyên truyền cần gắn liền với lợi

ích của quỹ hưu trí tự nguyện cũng như tính minh bạch và an toàn trong hoạt động

của quỹ hưu trí tự nguyện.

5.2.6 Đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trong vai trò là nhà

đầu tư tổ chức lớn trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển quỹ hưu trí trên TTCK Việt Nam trong

vai trò là nhà đầu tư tổ chức lớn, cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên

TTCK, từ đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của quy mô vốn hóa của tài sản quỹ hưu

trí tự nguyện trên TTCK cũng như quy mô vốn hóa TTCK nhanh hơn so với tốc độ

tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Với việc cung ứng nguồn vốn dài hạn và

136

ổn định trên TTCK, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện sẽ thể hiện vai trò tích cực

của mình đến sự phát triển của TTCK nói riêng, nền kinh tế nói chung.

Tại Việt Nam, theo mục tiêu cụ thể để phát triển TTCK Việt Nam đến năm

2020, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện có mối quan hệ mật thiết với việc thúc

đẩy và phát triển thị trường TPCP trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam. Giải pháp

này kỳ vọng nguồn tiền đầu tư vào quỹ hưu trí tự nguyện sẽ trở thành nguồn tiền

lớn đầu tư vào TPCP và góp phần làm giảm bớt tỷ trọng đầu tư vào TPCP của các

ngân hàng thương mại.

5.2.7 Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn trong hoạt động

của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Củng cố và tăng cường tính minh bạch và an toàn, năng lực quản lý quỹ về

các mặt như uy tín, kinh nghiệm, tầm nhìn và sự liêm chính cũng như tăng cường

công tác truyền thông … trong hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện trong điều kiện

khuôn khổ pháp lý vẫn đang hoàn thiện với các quy định về đầu tư và phân bổ tài

sản, nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên liên quan (stake holders) để thiết lập các

kế hoạch chủ động trước những thách thức nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên

liên quan (stake holders) và tránh bị tác động nặng nề bởi các rủi ro đến từ môi

trường bên ngoài.

5.3 Kết luận chung

Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quỹ hưu trí tự nguyện, vị trí của

quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí quốc gia theo mô hình đa trụ cột cũng

như tiêu chí đánh giá và các điều kiện cần thiết phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK. Trong bối cảnh dân số già hóa, nhiều quốc gia đã áp dụng các hệ thống hưu

trí khác nhau và hệ thống hưu trí làm thay đổi sự phát triển tài chính. Sự gia tăng giá

trị của các quỹ hưu trí tự nguyện không chỉ cung cấp cho thị trường tài chính nhiều

vốn mà còn tạo ra những đổi mới trong sản phẩm tài chính, cải thiện quản trị doanh

nghiệp và cải thiện hệ thống giám sát và điều tiết, tất cả đều tốt cho phát triển tài

chính trong nền kinh tế, đặc biệt đối với EMEs (Rocholl & Niggemann, 2010). Việc

tăng cường các kế hoạch hưu trí tự nguyện từ khu vực tư nhân được tài trợ đầy đủ

có thể là một phản ứng chính sách hiệu quả đối với việc thiếu vắng sự đón nhận rủi

137

ro của các nhà đầu tư; còn việc áp dụng quỹ hưu trí bắt buộc khi đã hoàn thành các

điều kiện tiên quyết có thể cứu thoát nền kinh tế ra khỏi bẫy tăng trưởng thấp vì lúc

này đã có sự gia tăng trong việc đón nhận rủi ro của các nhà đầu tư với các tài sản

đang được đa dạng hóa hiệu quả sẽ nâng cao tỷ suất lợi nhuận đã được điều chỉnh

theo rủi ro cho cả nền kinh tế (Kim, 2010). Ngoài ra, Hryckiewicz (2009) cũng thừa

nhận chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng của các nhà đầu tư tổ chức là vấn đề quan

trọng, chỉ cần sự gia tăng thuần của các nhà đầu tư tổ chức trong tài sản là đủ để

thúc đẩy tăng trưởng thị trường vốn. Do đó, các nhà hoạch định chính sách, bằng

cách thông qua luật và cải cách thích hợp, có thể thu hút sự phát triển của các nhà

đầu tư tổ chức và từ đó hỗ trợ tăng trưởng TTCK ở các nước đang phát triển, trong

đó có Việt Nam.

Hệ thống hưu trí Việt Nam đang đối mặt với những thách thức về (i) thiếu

bền vững về mặt tài chính trong dài hạn; (ii) bất công bằng giữa các thế hệ; (iii) bất

bình đẳng giữa các nhóm lao động; (iv) mức độ bao phủ còn thấp; và (v) tính hiệu

quả về mặt thực thi và công nghệ quản lý chưa cao thì việc hình thành các quỹ hưu

trí tự nguyện là cần thiết và đáp ứng nhu cầu của xã hội trong điều kiện dân số già

hóa. Theo đó, càng nhiều người có thể tiếp cận tốt hơn đối với sản phẩm chất lượng

cũng như các sản phẩm bảo hiểm hưu trí và gia tăng nguồn cung tài sản của các nhà

đầu tư tổ chức để có thể đầu tư lâu dài một cách an toàn, bao gồm thông qua các

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK (WB, 2018). Từ đó, luận án cũng cho thấy xu

hướng cải cách hệ thống hưu trí tại Việt Nam, thực trạng phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện tại Việt Nam thông qua thực trạng phát triển các chương trình hưu trí tự

nguyện, hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện có tài sản hưu trí được tập hợp từ

các hợp đồng bảo hiểm hưu trí. Đồng thời, luận án cũng cho thấy triển vọng phát

triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam thông qua phân tích kết quả sự

lựa chọn của các cá nhân.

Theo Quyết định số 252/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK

Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 vào ngày 01/03/2012 và Quyết định số 144/QĐ-

TTg về Phê duyệt Đề án hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện tại

Việt Nam vào ngày 20/01/2014, việc phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK là

138

một trong những giải pháp quan trọng nhằm mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn

để hoàn thiện và phát triển TTCK và góp phần bảo đảm an sinh xã hội. TTCK Việt

Nam đã và đang tích cực đón nhận sự tham gia của quỹ hưu trí tự nguyện với vai trò

là nhà đầu tư tổ chức trên TTCK, trong đó tài sản quỹ hưu trí tự nguyện được tập

hợp từ các khoản đóng góp thông qua các hợp đồng bảo hiểm hưu trí. Hiện tại, do

các quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam trực thuộc và được quản lý bởi các công ty

bảo hiểm nhân thọ, do đó cơ cấu danh mục đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện cũng

tương tự cơ cấu danh mục chung của các công ty bảo hiểm nhân thọ với tính chất an

toàn và tập trung chủ yếu vào tiền gửi tại các tổ chức tín dụng và TPCP theo quy

định về tỷ trọng phân bổ tài sản.

Đồng thời, việc phân tích tình hình phát triển của hoạt động bảo hiểm hưu trí

tự nguyện và quỹ hưu trí tự nguyện cũng như thu thập ý kiến sự lựa chọn của cá

nhân đã cho thấy hoạt động của các quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam vẫn

còn mới mẻ nhưng cũng đã nhận được sự quan tâm từ những cá nhân có trình độ đại

học trở lên, có hiểu biết chuyên môn về tài chính. Kết quả khảo sát này là cơ sở

tham khảo quan trọng để góp phần xác lập các đối tượng khách hàng mục tiêu của

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Vì vậy, có thể thấy việc phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam là phù hợp và có triển vọng lớn lao về tiềm

năng kinh tế và lợi ích kinh tế.

Luận án cũng tiến hành nghiên cứu mức độ tác động của quỹ hưu trí tự

nguyện đến TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC. Từ kết quả nghiên cứu cho

thấy (i) duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và tính ổn định của kinh tế vĩ mô; (ii) hiện

đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK; (iii) hoàn thiện khung pháp lý với các quy định về

hoạt động đầu tư và phân bổ tài sản là các điều kiện quyết định để phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK của các nền kinh tế thuộc APEC, từ đó rút ra bài học

kinh nghiệp để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam.

Đồng thời, Việt Nam cần (i) tiếp tục thực hiện các cải cách hưu trí hướng tới

hệ thống hưu trí đa trụ cột và phát triển quỹ hưu trí tự nguyện theo mô hình DC trên

TTCK; (ii) tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các cá nhân

về quỹ hưu trí tự nguyện và tham gia quỹ hưu trí tự nguyện; (iii) nâng cao năng lực

139

quản lý quỹ về mọi mặt (tài chính và phi tài chính) cũng như củng cố tính minh

bạch và an toàn trong hoạt động của quỹ hưu trí tự nguyện; (iv) đẩy mạnh phát triển

quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam (trong đó bao gồm tiếp cận các cá nhân

có trình độ, có hiểu biết nhất định về tài chính).

Tuy còn một số hạn chế nhưng luận án vẫn đạt được những thành tựu và bảo

đảm nội dung nghiên cứu đã đề ra. Đối với tác giả, đây là một chủ đề nghiên cứu

thú vị và ý nghĩa, đóng góp giá trị cả về kinh tế lẫn xã hội. Vì vậy, tác giả sẽ tiếp tục

theo đuổi chủ đề này trong các nghiên cứu tiếp theo. Trong đó, đề tài sẽ mở rộng

đối tượng và phạm vi nghiên cứu, hoàn thiện phương pháp xử lý số liệu nhằm tìm ra

được những đánh giá chính xác hơn về mối quan hệ giữa phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện với sự tăng trưởng của TTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển quỹ

hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Theo quan điểm của kiến trúc hệ thống hưu

trí và mức độ phát triển của thị trường vốn trong nước, việc xem xét vai trò của hệ

thống hưu trí đối với sự thay đổi trong phát triển thị trường vốn và các điều kiện

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK đến từ bên trong tổ chức của quỹ hưu trí

tự nguyện được kỳ vọng là hướng nghiên cứu sâu hơn trong tương lai của luận án.

Trên cơ sở đánh giá đó, tác giả có thể đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng

của TTCK Việt Nam, tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

140

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ

Trong quá trình thực hiện luận án, một phần của luận án đã được sử dụng để

công bố trên các tạp chí và hội thảo khoa học chuyên ngành về lĩnh vực Kinh tế -

Tài chính - Ngân hàng để gia tăng độ tin cậy của luận án khi nhận được các phản

biện của Quý chuyên gia và Quý độc giả có uy tín.

Các bài viết cụ thể như sau:

Trần Nguyễn Minh Hải (2016). Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện trên Thị trường

chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài chính - Tiền tệ, số 22 (463),

tháng 11/2016, tr. 21 - 27.

Trần Nguyễn Minh Hải (2017). Cải cách hệ thống hưu trí: Xu hướng thế giới và

thực trạng Việt Nam. Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 34 (44), tháng 05 -

06/2017, tr. 88 - 93.

Trần Nguyễn Minh Hải (2018). The impact of voluntary funded pension funds on

stock market: the case of APEC economies. Proceedings of the first

international conference on Vietnam’s Business & Economics Research

2018 (VBER 2018), July 22 - 24, 2018, Ho Chi Minh City. Retrieved from

http://vber.ou.edu.vn/speakers-slides/.

141

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

Bộ Y tế Việt Nam (2016). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2016. Tham

khảo từ http://jahr.org.vn/downloads/JAHR2016/JAHR2016_full_VN.pdf.

Bùi Cẩm Hường (2014). Thế nào là hưu trí tự nguyện và hưu trí bổ sung?. Tham

khảo từ http://tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem/the-nao-la-huu-tri-tu-

nguyen-va-huu-tri-tu-nguyen-bo-sung-96633.html.

Chí Tín (2014). Hệ thống bảo hiểm hưu trí: Ngôi nhà bị rỗng tầng. Tham khảo từ

http://baodautu.vn/he-thong-bao-hiem-huu-tri-ngoi-nha-bi-rong-tang-

d6603.html.

Điều Bá Dược (2013). Bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam: Thực trạng và thách thức.

Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-

luan/bao-hiem-huu-tri-o-viet-nam-thuc-trang-va-thach-thuc-47050.html.

GSO (2015). Tình hình kinh tế - xã hội. Tham khảo tại:

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621.

GSO (2016). Tình hình kinh tế - xã hội. Tham khảo từ

http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=16174.

HOSE (2015a). Lịch sử hình thành và phát triển của Sở GDCK TP.HCM. Tham

khảo từ

http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vigioithieu/lichsuphatt

rien?_adf.ctrl-state=osdfqxzsh_4&_afrLoop=12207819721107812.

HOSE (2015b). Quy mô niêm yết. Tham khảo tại:

https://www.hsx.vn/Modules/Listed/Web/ListingSummary/153?fid=a1b2850

9a59441f28d508074c0a72aad (Truy cập ngày 31/5/2016).

HNX (2016a). Lịch sử phát triển. Tham khảo từ http://hnx.vn/web/guest/lich-su-

phat-trien.

HNX (2016b). Dữ liệu thị trường. Tham khảo từ

http://www.hnx.vn/web/guest/128.

142

ISA - MOF (2015). Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2014. Tham khảo từ

http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh/ngttbh_chitiet?

dDocName=BTC074126&_afrLoop=15537987276787259#!%40%40%3F_a

frLoop%3D15537987276787259%26dDocName%3DBTC074126%26_adf.c

trl-state%3Dbl8jmolkk_9.

ISA - MOF (2016). Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2015. Tham khảo từ

http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh/ngttbh_chitiet?

dDocName=MOFUCM094528&_afrLoop=4261724373023002#!%40%40%

3F_afrLoop%3D4261724373023002%26dDocName%3DMOFUCM094528

%26_adf.ctrl-state%3D1bs3o1eim5_84.

Khuất Thị Kiều Vân (2013). Vai trò của quỹ hưu trí đối với TTCK và hệ thống hưu

trí đa trụ cột. Vụ Quản lý Các CtyQLQ và Quỹ ĐTCK. Tham khảo từ

http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/oracle/webcenter/portalapp/pages/vi/aptcn

oidungchitiet.jspx?id=350&_afrLoop=68478244087000&_afrWindowMode

=0#%40%3F_afrLoop%3D68478244087000%26id%3D350%26_afrWindo

wMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3Dq42yncjmg_9.

Lan Vũ (2017). Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội. Tham khảo từ

http://nhandan.com.vn/xahoi/item/34049602-mo-rong-do-bao-phu-bao-hiem-

xa-hoi.html.

Lương Xuân Trường (2014). Bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong hoạch định kế hoạch

tài chính hưu trí. Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-

doi/trao-doi-binh-luan/bao-hiem-huu-tri-tu-nguyen-trong-hoach-dinh-ke-

hoach-tai-chinh-huu-tri-39678.html.

Lưu Hải Vân (2014). Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và thách thức. Tham

khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/he-

thong-huu-tri-viet-nam-hien-trang-va-thach-thuc-39543.html.

MOF (2015a). Ngân sách nhà nước. Tham khảo từ

http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/slnsnn/slqt/slqt_chitiet?d

DocName=BTC217451&_afrLoop=8652831456479737#!%40%40%3F_afr

143

Loop%3D8652831456479737%26dDocName%3DBTC217451%26_adf.ctrl

-state%3D4tat6pzpt_238.

MOF (2015b). Thị trường trái phiếu. Tham khảo từ

http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tpcp/r/m/tb6/tb_chitiet4?dDocNam

e=BTC209073&_afrLoop=21341644962901417#!%40%40%3F_afrLoop%3

D21341644962901417%26dDocName%3DBTC209073%26_adf.ctrl-

state%3Dwwba39v5h_9.

MOLISA (2015). Một số thay đổi về lương hưu và tuổi nghỉ hưu từ ngày 1/1/2016.

Tham khảo từ

http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/ChiTiet.aspx?IDNews=22724.

NECIF (2015). Phát triển thị trường chứng khoán phái sinh - công cụ phòng ngừa

rủi ro cho nhà đầu tư chứng khoán tại Việt Nam. Tham khảo từ

http://www.ncseif.gov.vn/sites/vie/Pages/phattrienthitruongchungkhoan-nd-

17228.html.

Nguyễn Thị Lê Thu (2014). An toàn Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tham khảo từ

http://www.mof.gov.vn/webcenter/contentattachfile/idcplg?dID=81076&dD

ocName=BTC264044&filename=1728290.PDF.

SSC (2012). Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn

2011-2020. Tham khảo từ

http://ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vilinks/videtail/vichitietthongtinthitruong/vids

thongtintrenhnx/vidstintuchnx/vichitiet119;jsessionid=56h0Xvlp5btJjDH2Q

qXDMPy1rhDTkMTSnHvJKqf1fHDGyNSQL5hn!-1545660682!-

1340227069?dDocName=APPSSCGOVVN162075828&_afrLoop=1380804

5845582812&_afrWindowMode=0&_afrWindowId=null#%40%3F_afrWin

dowId%3Dnull%26_afrLoop%3D13808045845582812%26dDocName%3D

APPSSCGOVVN162075828%26_afrWindowMode%3D0%26_adf.ctrl-

state%3D4f3y8mji6_4.

SSC (2016a). Trang công bố thông tin. Tham khảo từ

http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/cbtt/cbttmenu/cbttpages_cbttthongtincong

144

bo/cbtt_ctyquanlyquy_ttcb?_adf.ctrl-

state=kla3e0zqn_31&_afrLoop=13475559318403812.

SSC (2016b). Quỹ đầu tư chứng khoán. Tham khảo từ

http://www.ssc.gov.vn/ubck/faces/vi/vimenu/vipages_vicsdlcty/ctyquydautuc

k/quyetf?_adf.ctrl-state=s1iqut4mo_4&_afrLoop=11434010914322812.

Thùy Dương (2017). Quỹ hưu trí tại Việt Nam: Xu thế tất yếu của phát triển. Tạp

chí Tài chính. Tham khảo từ http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-

doi/trao-doi-binh-luan/quy-huu-tri-tai-viet-nam-xu-the-tat-yeu-cua-phat-

trien-102967.html.

Trần Phương Thảo & Nguyễn Anh Tuấn (2014). Hệ thống hưu trí trên thế giới:

Kinh nghiệm quốc tế và xu hướng cải cách. Tạp chí Tài chính. Tham khảo từ

http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/trao-doi---binh-luan/he-thong-

huu-tri-tren-the-gioi-kinh-nghiem-quoc-te-va-xu-huong-cai-cach-

39531.html.

VSD (2015). Thông tin số lượng tài khoản giao dịch trong nước và ngoài nước tại

ngày 31/12/2015. Tham khảo từ http://www.vsd.vn/38-p4c22-

30901/0/Thong-tin-so-luong-tai-khoan-giao-dich-trong-nuoc-va-ngoai-nuoc-

tai-ngay-31122015.htm

WB (2012). Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những

thách thức hiện tại và các phương án lựa chọn cho cải cách trong tương lai.

Tham khảo từ http://www-

wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/WDSP/IB/2013/06/

10/000445729_20130610130833/Rendered/PDF/782820WP0Vietn00Box37

7335B00PUBLIC0.pdf.

WB (2015). Việt Nam. Retrieved from

http://data.worldbank.org/country/vietnam/vietnamese#cp_surv.

145

Tiếng Anh

ADB (2016). Size of LCY Bond Market. Retrieved from

https://asianbondsonline.adb.org/vietnam/data/bondmarket.php?code=LCY_

Bond_Market_USD.

Adjasi, C. K., & Biekpe, N. B. (2006). Stock market development and economic

growth: the case of selected African countries. African Development

Review, 18(1), 144-161.

Akerlof, G. (1970). The market for lemons: quality uncertainty and the market

Mechanism. Quarterly Journal of Economics 48, 488-500.

Alllianz (2016). 2016 Pension Sustainability Index. Retrieved from http://projectm-

online.com/app/uploads/Allianz_2016_Pension_Sustainability_Index.pdf.

Andrieş, A. M. (2009). Heories regarding financial intermediation and financial

intermediaries - a survey. Retrieved from

http://www.seap.usv.ro/annals/ojs/index.php/annals/article/download/229/22

7.

Barsky, R. B., Juster, F. T., Kimball, M. S., Shapiro, M. D. (1997). Preference

Parameters and Behavioral Heterogeneity: An Experimental approach in the

health and retimrement study. Quarterly Journal of Economics 112, 729 –

758. Retrieved from

http://darp.lse.ac.uk/papersdb/Barsky_et_al_(QJE_97).pdf.

Bellù, L. G. (2011). Development and Development Paradigms A (Reasoned)

Review of Prevailing Visions. Retrieved from

http://www.fao.org/docs/up/easypol/882/defining_development_paradigms_

102en.pdf.

Benston, G. W. & Smith, C. W. (1976). A transaction cost approach to the theory of

financial intermediation. The Journal of Finance, Vol. XXXI (1), pp. 215-

231.

Blommestein, H. J. (1997). Institutional Investors, Pension Reform, and Emerging

Securities Markets. Retrieved from

http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1815985.

146

Boubakari, A. (2010). The Role of Stock Market Development in Economic

Growth: Evidence from Some Euronext Countries. International Journal of

Financial Research, ISSN 1923-4023 (Print), ISSN 1923-4031 (Online).

DOI: https://doi.org/10.5430/ijfr.v1n1p14.

Boyd, J. H., Levine, R., & Smith, B. D. (2001). The Impact of Inflation on Financial

Sector Performance. Journal of Monetary Economics, Vol. 47 pp. 221-248.

Buchholz, R. A. (2004). The natural environment: Does it count?. Academy of

Management Executive, 18 (2):130-133.

Byrne, A. (2007). Employee Saving and Investment Decisions in Defined

Contribution Pension Plans: Survey Evidence from the UK. Financial

Services Review, Vol. 16, No. 1, 2007. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1012855.

Campbell, J. Y., & Viceira, L. M. (2001). “Who Should Buy Long-Term Bonds?.

The American Economic Review, Vol. 91, No. 1:99-127.

Campbell, J. Y., & Viceira, L. M. (2002), Strategic Asset Allocation: Portfolio

Choice for Long-Term Investors. Oxford University Press.

Caporale, G. M., Howells, P. G., & Soliman, A. M. (2004). Stock market

development and economic growth: the causal linkage. Journal of Economic

Development, 29(1), 33-50.

Catalan, M., Impavido, G., & Musalem, A. R. (2000). Contractual savings or stock

market development, which leads? (Vol. 2421). World Bank Publications.

Retrieved from http://elibrary.worldbank.org/doi/abs/10.1596/1813-9450-

2421.

CEFR (2014). Dữ liệu về dân số. Tham khảo từ

http://cefr.uel.edu.vn/ArticleId/409b807f-9ab0-4243-b65b-

9082153c944c/dan-so-xa-hoi-kinh-te-nang-luong.

CIA (2016). The world factbook. Tham khảo từ

https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html.

Claus, I. & Grimes, A. (2003). Asymmetric Information, Financial Intermediation

and the Monetary Transmission Mechanism: A Critical Review. New

147

Zealand Treasury Working Paper 03/19. Retrieved from

http://www.treasury.govt.nz/publications/research-policy/wp/2003/03-

19/04.htm.

Collins (2012). A retirement pension. Collins English Dictionary - Complete &

Unabridged 2012 Digital Edition, William Collins Sons & Co. Ltd. 1979,

1986. Harper Collins Publishers 1998, 2000, 2003, 2005, 2006, 2007, 2009,

2012.

Crockett, A. (2002). Capital flows in East Asia since the crisis. Retrieved from

http://www.bis.org/speeches/sp021011.htm.

DANIDA (2016). Private Capital for Sustainable Development: Concepts, Issues

and Options for Engagement in Impact Investing and Innovative Finance.

Retrieved from http://um.dk/~/media/UM/Danish-

site/Documents/Danida/Resultater/Eval/201602StudyPrivateCapital.pdf?la=e

n.

Davis, E. P. (1998). Pension funds: retirement-income security and capital markets:

an international perspective. OUP Catalogue from Oxford University Press

1998 (paperback edition), ISBN 0-19-829304-6. Retrieved from

https://ideas.repec.org/b/oxp/obooks/9780198293040.html.

Davis, E. P (2000). Pension Funds, Financial Intermediation and the New

Financial Landscape. Retrieved from https://www.pensions-

institute.org/workingpapers/wp0010.pdf.

Davis, E. P. (2005). The role of pension funds as institutional investors in emerging

markets. Retrieved from http://bura.brunel.ac.uk/handle/2438/979.

Davis, E. P., & Hu, Y. W. (2005). Is there a link between pension-fund assets and

economic growth?-A cross-country study. Retrieved from

http://bura.brunel.ac.uk/handle/2438/978.

Davis, E. P., & Hu, Y. W. (2008). Does funding of pensions stimulate economic

growth?. Journal of Pension Economics and Finance, 7(02), 221-249.

Retrieved from http://dx.doi.org/10.1017/S1474747208003545.

148

DESA (2013). Sustainable Development Challenges. Retrieved from

https://sustainabledevelopment.un.org/content/documents/2843WESS2013.p

df.

Diamond, D. (1984). Financial Intermediation and Delegated Monitoring. Review of

Economic Studies 51, pp. 393-414.

Economicshelp (2016). The impact of an ageing population on the economy.

Retrieved from http://www.economicshelp.org/blog/8950/society/impact-

ageing-population-economy/.

Enache, C., Miloş, L. R. & Miloş, M. C. (2013). Pension reform and capital market

development in Central and Eastern European countries. Retrieved from

http://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/1331677X.2015.1022388.

EU (2013). Sustainable Development. Retrieved from

http://ec.europa.eu/environment/eussd/.

EUROPARL (2014). Pension Schemes. Online available at:

http://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/STUD/2014/536281/IPOL_S

TU(2014)536281_EN.pdf.

EUROPE (2018). Pension taxation. Taxation and Customs Union. Retrieved from

https://ec.europa.eu/taxation_customs/individuals/personal-taxation/pension-

taxation_en.

Falkenheim, M, (2015). Optimal pension funding strategy and pension insurance

reform. Retrieved from https://www.brookings.edu/wp-

content/uploads/2016/07/Falkenheim-WP-17-2.pdf.

Fama, E. F. (1980). Fama Banking in the theory of finance. Journal of Monetary

Economics, 6 (1), pp. 39-57.

Feldstein, M., & Samwick, A. (2001). Potential paths of social security reform (No.

w8592). National Bureau of Economic Research. Retrieved from

http://www.nber.org/papers/w8592.pdf.

Fischer, B., & Reisen, H. (1994). Pension fund investment from ageing to emerging

markets. OECD. Retrieved from http://www.oecd-

ilibrary.org/development/pension-fund.

149

Franzen, D. (2010). Managing Investment Risk in Defined Benefit Pension Funds.

OECD working paper on insurance and private pensions. No. 38. Retrieved

from http://www.oecd.org/finance/private-pensions/44899253.pdf.

Freeman, R. E., Wicks, A. C. & Parmar, B. (2004). Stakeholder Theory and ‘The

Corporate Objective Revisited. Organization Science, 15 (3): 364-369.

Giang Thanh Long (2004). HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: Hiện trạng và

những thách thức trong điều kiện dân số già hoá. Tham khảo từ

http://www.grips.ac.jp/vietnam/VDFTokyo/Temp/Doc/2003-2004/DP02V-

GTLongJun04.pdf.

GoC - Government of The Republic of Croatia (1999). Compulsory and voluntary

pension funds Act. Retrieved from

http://www.regos.hr/UserDocsImages/dokumenti/WBFOND5.pdf.

Gordon, M. S., Mitchell, O. S. & Twinney, M. M (1997). Positioning Pensions for

the Twenty-First Century. ISBN 0-8122-3391-3 (acid-free paper). USA:

University of Pennsylvania Press.

Guttentag, J. M. & Linsay, R. (1968). The uniqueness of commercial banks.

Journal of Political Economy, Vol. 71, 991-1014.

Hinz, R., Rudolph, H. P., Antolín, P., Levine, R., & Zervos, S. (1996). Stock market

development and long-run growth. The World Bank Economic Review, 10(2),

323-339.

Hinz, R., Rudolph, H. P., Antolín, P. & Yermo, J. (2010). Evaluating the financial

performance of pension funds. World Bank Publications. Retrieved from

http://www.apapr.ro/images/BIBLIOTECA/investitiirandamente/wb%20201

0%20evaluating%20financial%20performance.pdf.

Heinz, R. & Hinz, R. (2010). Evaluating the Financial Performance of Pension

Funds. Retrieved from

http://www.worldbank.org/en/topic/financialsector/publication/evaluating-

the-financial-performance-of-pension-funds.

Holzmann R., Hinz R. P. & Dorfman M. (2008). Pension Systems and Reform

Conceptual Framework. Retrieved from

150

http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-

Discussion-papers/Pensions-DP/0824.pdf.

Holzmann, R. (2012). Global Pension System and Their Reform, World Drivers,

Trends, and Challenges. Social Protection & Labor Disscussion Paper N.

1213, The World Bank. Retrieved from

http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-

Discussion-papers/Pensions-DP/1213.pdf.

Howell, T., Wang, P., Zhang, M., & Shand, R. (2014). Retirement systems and

pension reform: A Malaysian perspective. International Labour

Review, 153(3), 489-502. Retrieved from

https://www.researchgate.net/publication/267457342_Retirement_systems_a

nd_pension_reform_A_Malaysian_perspective.

Hryckiewicz, A. (2009). Pension Reform, Insitutional Investors' Growth and Stock

Market Development in the Developing Countries? Does it Function?.

Retrieved from http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1370886.

Hu, Y. W. (2012). Growth of Asian Pension Assets: Implications for Financial and

Capital Markets. ADBI Working Paper Series. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2071134.

IDEAs (2017). Twenty Years after The Asian Financial Crisis. Retrieved from

http://www.networkideas.org/news-analysis/2017/08/twenty-years-after-the-

asian-financial-crisis/.

IISD (2013). What is Sustainable Development. Retrieved from

http://www.iisd.org/sd/.

Impavido, G., & Musalem, A. R. (2000). Contractual savings, stock, and asset

markets (Vol. 2490). World Bank Publications.

Impavido, G., Musalem, A. R., & Tresselt, T. (2003). The impact of contractual

savings institutions on securities markets. World Bank Policy Research

Working Paper, (2948). Retrieved from

http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=636310.

151

JPS (2017). National Pension System. Retrieved from

http://www.nenkin.go.jp/international/english/nationalpension/nationalpensio

n.html.

Kapteyn, A., Teppa, F. (2002). Subjective Measures of Risk Aversion and Portfolio

Choice. Center/RAND. Retrieved from

http://www.dartmouth.edu/~lusardiworkshop/Papers/RiskAversion.pdf.

Kahneman, D. & Tversky, A. (1979). Prospect theory: An analysis of decision

under risk daniel kahneman; amos tversky. Econometrica (pre-1986); Mar

1979; 47, 2; ABI/INFORM Global, pg. 263. Retrieved from

https://www.princeton.edu/~kahneman/docs/Publications/prospect_theory.pd

f.

Katuse, P., Aiyabei, J. K., Karanja, P. K. & Waititu, G. A. (2013). Does the size of

pension’s funds influence the adoption of risk management strategies among

the pension schemes?. Retrieved from

http://erepo.usiu.ac.ke/handle/11732/426.

Kim, H. S. (2010). Spillover effects of pension funds on capital markets: the

mechanisms and preconditions. Bank of Korea. Retrieved from

http://growth-institutions.ec.unipi.it/pages/Pension_system/spillover.pdf.

Liang, R., & Bing, L. (2010). Management of UK pension funds and financial

market development: 1970-2008. In 2010 3rd International Conference on

Information Management, Innovation Management and Industrial

Engineering (Vol. 4, pp. 594-598). IEEE. Retrieved from

http://ieeexplore.ieee.org/document/5694978/.

Lakonishok, J., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1992). The impact of institutional

trading on stock prices. Journal of financial economics, 32(1), 23-43.

Lee, S. H., Mason, A. W., & Park, D. (2011). Why Does Population Aging Matter

So Much for Asia? Population Aging, Economic Growth, and Economic

Security in Asia (October 1, 2011). Asian Development Bank Economics

Working Paper Series, (284).

152

Leland, H. & Pyle, D. (1977). Informational Asymmetries, Financial Structure and

Financial Intermediation. Journal of Finance, Vol. 32, pp. 371 – 387.

McCauley, N. R. (2003). Capital flows in East Asia since the 1997 crisis.

Retrieved from http://www.bis.org/publ/qtrpdf/r_qt0306e.pdf.

Meng, C., & Pfau, W. D. (2010). The role of pension funds in capital market

development. GRIPS Discussion Papers, (10-17). Retrieved from

http://www.grips.ac.jp/r-center/wp-content/uploads/10-17.pdf.

Merton, R. C. (1995). Financial Innovation and the Management and Regulation of

Financial Institutions. Journal of Banking and Finance (July), 461-482.

Miles, D. (1993). Testing for short termism in the UK stock market. The Economic

Journal, 103(421), 1379-1396.

Mishkin, F. S. (2012). Economics of Money, Banking, and Financial Markets. The

10th Edition. USA: Published by Prentice Hall, Jan 6, 2012. Retrieved from

http://www.cwu.edu/~saunders/ec330/ec330ppt.html.

Mohieldin, M. (2017). The Sustainable Development Goals and Private Sector

Opportunities. Retrieved from

http://pubdocs.worldbank.org/en/394231501877501769/The-Sustainable-

Development-Goals-and-Private-Sector-Opportunities.pdf.

Muliati, I. (2013). Pension reform experience in Indonesia. IMF Conference

“Designing Sustainable and Equitable Pension Systems in Asia in the Post

Crisis World”. World Bank. Retrieved from www. imf.

org/external/np/seminars/eng/2013/oapfad/pdf/muliati_ppr.

NBS - National Bank of Serbia (2011). Law on voluntary pension funds and

pension schemes. Retrieved from

http://www.nbs.rs/export/sites/default/internet/english/20/laws/law_pension_

funds.pdf.

Njuguna, A. G. & Otsola, J. K. (2011) Predictors of Pension Finance Literacy: A

Survey of Members of Occupational Pension Schemes in Kenya. Retrieved

from http://erepo.usiu.ac.ke/handle/11732/505.

153

OECD (2004). Private Pensions Series Pension Reform in the Baltic Countries.

Retrieved from http://www.oecd-ilibrary.org/finance-and-

investment/pension-reform-in-the-baltic-countries_9789264021068-en.

OECD (2005). EET system. Retrieved from

https://stats.oecd.org/glossary/detail.asp?ID=5225.

OECD (2008). OECD-IOPS Guidelines on the Licensing of Pension Entities.

Retrieved from http://www.oecd.org/finance/private-pensions/oecd-

iopsguidelinesonthelicensingofpensionentities.htm.

OECD (2011). Chile review of the private pesion fund. Retrieved from

http://www.oecd.org/finance/private-pensions/49497472.pdf.

OECD (2007). Survey of Investment Choice by Pension Fund Members. Retrieved

from https://www.oecd.org/finance/insurance/37977416.pdf.

OECD (2014). OECD Pensions Outlook. OECD Publishing. Retrieved from

http://www.oecd-ilibrary.org/finance-and-investment/oecd-pensions-

outlook_23137649.

OECD (2015). The tax treatment of unded rivate pension plans: OECD AND EU

COUNTRY PROFILES. Retrieved from

https://www.oecd.org/daf/fin/private-pensions/tax-treatment-pension-plans-

country-profiles.pdf.

OECD (2016). OECD Pensions Outlook. OECD Publishing. Retrieved from

https://pensjonskasseforeningencms.nordiskbedriftsutvikling.com/PKF_Dok

umenter/Opne_sider/OECD%202016%20Pensions%20Outlook.pdf.

OECD (2018). Sustainable Development: Critical Issues - free overview of the

report.

Retrieved

from

http://www.oecd.org/greengrowth/sustainabledevelopmentcriticalissues-

freeoverviewofthereport.htm.

Park, D., & Estrada, G. B. (2013). Emerging Asia’s Public Pension Systems:

Challenges and Reform Efforts. Retrieved from

https://www.imf.org/external/np/seminars/eng/2013/oapfad/pdf/park_ppr.pdf

.

154

Phillips, R. A. and Reichart, J. (2000). The Environment as a Stakeholder? A

Fairness-Based Approach. Journal of Business Ethics, 23 (2): 185-197.

Raddatz, C. E., & Schmukler, S. L. (2008). Pension funds and capital market

development. World Bank Policy Research Working Paper Series, Vol.

Retrieved from

https://www.researchgate.net/profile/Sergio_Schmukler/publication/2397020

9_PENSION_FUNDS_AND_CAPITAL_MARKET_DEVELOPMENTHO

W_MUCH_BANG_FOR_THE_BUCK/links/0912f50b587fe91026000000.p

df.

Raisa, M. L. (2012). Spillover effects of pension funds on capital markets. The EU-

15 countries case. Annals-Economy Series, 4, 164-170. Retrieved from

http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2012-

04.I/27_MILOS%20Laura%20Raisa.pdf

Rastog, N. & Trivedi, M. K. (2016). Pestle technique – A tool to identify external

risk in construction projects. International Research Journal of Engineering

and Technology (IRJET), Volume: 03 Issue: 01 | Jan-2016. Retrieved from

https://irjet.net/archives/V3/i1/IRJET-V3I165.pdf.

Rocholl, J., & Niggemann, T. (2010). Pension funding and capital market

development. Available at SSRN 1571126. Retrieved from

http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1571126.

Rooij, M. C. J., Kool, C. J. M & Prast, H. M (2007). Risk-return preferences in the

pension domain: Are people able to choose?. Journal of Public Economics,

Volume 91, Issues 3–4, April 2007, Pages 701-722. Retrieved from

https://doi.org/10.1016/j.jpubeco.2006.08.003.

Sun, S., & Hu, J. (2014). The Impact of Pension Systems on Financial

Development: An Empirical Study. Available at SSRN 2481749.

Thaler, R. H, & Benartzi, S. (2004). Save more tomorrow: Using behavioral

economics to increase employee saving. Journal of Political Economy, 112,

164-187, doi: 10.1086/380085.

155

Thomas, A., & Spataro, L. (2014). The Effects of Pension Funds on Markets

Performance: A Review. Journal of Economic Surveys. Retrieved from

http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/joes.12085/full.

Towerswatson (2015). Indonesia: New Social Security System Has Defined Benefit

Feature. Retrieved from

https://www.towerswatson.com/en/Insights/Newsletters/Global/global-news-

briefs/2015/08/indonesia-new-social-security-system-has-defined-benefit-

feature.

Towerswatson (2016). Global Pensions Asset Study – 2016. Retrieved from

https://www.willistowerswatson.com/~/media/WTW/PDF/Insights/2016/02/G

lobal-Pensions-Asset-Study-2016.pdf?la=en.

TTBD (2014). Đánh giá thực trạng hệ thống bảo hiểm hưu ở Việt Nam. Tham khảo

từ http://tailieu.ttbd.gov.vn:8080/index.php/tai-lieu/chuyen-de-chuyen-

sau/item/361-danh-gia-thuc-trang-he-thong-bao-hiem-huu-tri-o-viet-nam.

UN (2010). Sustainable Development: From Brundtland to Rio 2012. Retrieved

from

http://www.un.org/wcm/webdav/site/climatechange/shared/gsp/docs/GSP1-

6_Background%20on%20Sustainable%20Devt.pdf.

UN (2013). Chapter 3: Challenges in raising private sector resources for financing

sustainable development. UNTT Working Group on Sustainable

Development Financing. Retrieved from

https://sustainabledevelopment.un.org/content/documents/2106Chapter%203

-challenges%20in%20raising%20private%20sector%20resources.pdf.

UN (2015). World population ageing report. Retrieved from

http://www.un.org/en/development/desa/population/publications/pdf/ageing/

WPA2015_Report.pdf.

Valdés-Prieto, S. (2008). A Theory of Contribution Density and Implications for

Pension Design. Retrieved from

http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-

Discussion-papers/Pensions-DP/0828.pdf.

156

Viceira, L. M. (2010). Pension Fund Design in Developing Economies. Retrieved

from

http://www.people.hbs.edu/lviceira/Optimal%20Portfolios%20in%20Mandat

ory%20Defined%20Contribution%20Pension%20Funds.pdf.

Vittas, D. (2000). Pension Reform and Capital Market Development:" Feasibility"

and" Impact" Preconditions (Vol. 2414). World Bank Publications.

Zandberg, E., & Spierdijk, L. (2013). Funding of pensions and economic growth:

are they really related?. Journal of Pension Economics and Finance,12(02),

151-167. Retrieved from http://dx.doi.org/10.1017/S1474747212000224.

Walker, E. & Lefort, F. (2002). Pension reform and capital markets: are there any

(hard) links? (Social Protection Discussion Paper 0201). Washington DC:

The World Bank. Retrieved from

http://siteresources.worldbank.org/SOCIALPROTECTION/Resources/SP-

Discussion-papers/Pensions-DP/0201.pdf.

WB (1994). Averting the old age crisis: policies to protect the old and promote

growth (English). Retrieved from

http://documents.worldbank.org/curated/en/1994/09/698030/averting-old-

age-crisis-policies-protect-old-promote-growth.

WB (2001). World Bank Pension Reform Primer: Notional defined contribution

plans as a pension reform strategy. Retrieved from

http://siteresources.worldbank.org/INTPENSIONS/Resources/395443-

1121194657824/PRPNoteNotionalAccts.pdf.

WB (2008). The World Bank pension conceptual framework. World Bank pension

reform primer series. Washington, DC: World Bank. Retrieved from

http://documents.worldbank.org/curated/en/2008/09/9898950/world-bank-

pension-conceptual-framework.

WB (2018). Pension Funds, Insurance & Investment Funds. Retrieved from

http://www.worldbank.org/en/topic/financialsector/brief/pension-funds.

157

WEF - World Economic Forum (2015). The Global Competitiveness Report 2015 -

2016. Retrieved from https://www.weforum.org/reports/global-

competitiveness-report-2015.

WEF (2008 - 2016). Global Competitiveness Report 2008-2016. World Economic

Forum. Retrieved from

https://www.weforum.org/search?utf8=%E2%9C%93&query=Global+compet

itiveness+report&cx=005374784487575532108%3Azwr8u4lxoba&cof=FORI

D%3A11&op.x=0&op.y=0&op=Search.

WEF (2017). Case Studies in Retirement System Reform. Retrieved from

https://www.mercer.com/content/dam/mercer/attachments/global/gl-2017-

wef-retirement-handbook.pdf.

Whitehouse, E. (2005). Taxation: The tax treatment of funded pensions. World

Bank Pension Reform Primer Series. World Bank, Washington, DC.

Retrieved from https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/11211.

Williams, C. (2018). The Difference Between a Pension & Retirement. Retrieved

from https://budgeting.thenest.com/difference-between-pension-retirement-

20451.html.

Willmore, L. (2000). Three pillars of pensions? A proposal to end mandatory

contributions. United Nations. Retrieved from

https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=233586.

158

PHỤ LỤC 1: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT

Kính thưa Quý Anh/Chị,

Tôi tên là Trần Nguyễn Minh Hải, công tác tại Khoa Tài chính, Trường Đại

học Ngân hàng TP.HCM. Hiện tôi đang nghiên cứu đề tài “Phát triển quỹ hưu trí tự

nguyện trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.

Nghiên cứu của tôi hướng vào những cá nhân đang hoặc sẽ sớm trở thành

người tham gia vào chương trình hưu trí được tài trợ tư nhân (private funded

pension schemes), bao gồm chương trình hưu trí nghề nghiệp (private

occupational/employee funded pension schemes) và chương trình kế hoạch hưu trí

cá nhân (private individual/personal funded pension schemes) bên cạnh hệ thống

hưu trí công (public unfunded pension system - Pay as You Go defined benefit

system) tại Việt Nam. Do đó, các cá nhân được lựa chọn khảo sát là từ 18 tuổi trở

lên đã có công việc được trả lương, đang tìm kiếm việc làm hoặc đã liệt kê công

việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo đúng chuyên ngành học tập của mình.

Kính nhờ Quý Anh/Chị dành chút thời gian quý báu trả lời giúp các câu hỏi

sau với mục đích khảo sát sự lựa chọn của cá nhân trong thực tế để có cơ sở đề xuất

quan trọng và ý nghĩa đối với các giải pháp phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam. Nội dung khảo sát được cấu trúc thành 4 phần

Phần 1: Thông tin cá nhân (gồm 7 câu hỏi)

Phần 2: Mức độ hiểu biết về tài chính và đánh giá rủi ro (gồm 9 câu hỏi)

Phần 3: Hành vi và sở thích cá nhân đối với thu nhập hưu trí (gồm 8 câu hỏi)

Phần 4: Thực tiễn Việt Nam (bao gồm 8 câu hỏi)

Những thông tin khảo sát từ Quý Anh/Chị sẽ chỉ được dùng cho mục đích

nghiên cứu của đề tài và được bảo mật thông tin của người trả lời.

Xin chân thành cảm ơn và xin trân trọng kính chào.

159

PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN (bao gồm 7 câu hỏi)

Anh/Chị vui lòng điền các thông tin sau

1. Độ tuổi: ………Tuổi

2. Cấp bậc giáo dục cao nhất mà Anh/Chị đã hoàn thành?

[] Trung học phổ thông

[] Cao Đẳng [] Đại học [] Sau Đại học

3. Tình trạng hôn nhân [] Chưa có bạn đời [] Đã có bạn đời

4. Giới tính [] Nam [] Nữ

5. Thu nhập thường xuyên trung bình theo tháng dùng để tính thuế thu nhập cá nhân

của Anh/Chị?

(Anh/Chị đánh dấu vào một lựa chọn)

[] Nhỏ hơn hoặc bằng 5 triệu đồng/tháng [] Trên 5 - 10 triệu đồng/tháng

[] Trên 10 - 18 triệu đồng/tháng [] Trên 18 - 32 triệu đồng/tháng

[] Trên 32 - 52 triệu đồng/tháng [] Trên 52 - 80 triệu đồng/tháng

[] Trên 80 triệu đồng/tháng

6. Tình trạng công việc hiện nay của Anh/Chị?

[] Đã có việc làm được trả lương

[] Đang tìm kiếm việc làm hoặc dự kiến việc làm đầu tiên sẽ theo đúng chuyên

ngành học tập của mình

7. Anh/Chị đã làm việc bao lâu? ……. năm ….. tháng

(Nếu đang tìm kiếm việc làm hoặc dự kiến công việc đầu tiên khi đi làm sẽ theo

đúng chuyên ngành học tập của mình, xin vui lòng ghi “0”)

160

PHẦN 2: MỨC ĐỘ HIỂU BIỂT CHUYÊN MÔN VỀ TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH

GIÁ RỦI RO (bao gồm 9 câu hỏi)

1. Anh/Chị đánh giá chuyên môn của mình về các quyết định tài chính (ví dụ như

về quyết định đầu tư) ở mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa

là "Tôi cố gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm

bắt cơ hội")?

2. Anh/Chị mô tả chính xác nhất về thái độ chung của Anh/Chị trong cuộc sống ở

mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh

rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?

3. Anh/Chị mô tả chính xác nhất thái độ của Anh/Chị trong các vấn đề tài chính ở

mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố gắng tránh

rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?

4. Anh/Chị mô tả chính xác nhất thái độ của Anh/Chị về thu nhập hưu trí của

Anh/Chị ở mức bao nhiêu điểm theo thang điểm 7 (trong đó 1 có nghĩa là "Tôi cố

gắng tránh rủi ro càng nhiều càng tốt" và 7 có nghĩa là "Tôi muốn nắm bắt cơ hội")?

Giả định Anh/Chị hiện đang có việc làm. Bác sĩ của Anh/Chị khuyên Anh/Chị nên

chuyển nhà vì lý do về sức khỏe (bị dị ứng). Anh/Chị làm theo lời khuyên của bác sĩ.

Ngôi nhà mới của Anh/Chị thì xa nơi làm việc (việc đi làm rồi trở về nhà với quãng

đường xa không phải là một sự lựa chọn). Trong thành phố mới, Anh/Chị được đề

nghị lựa chọn một trong hai công việc thích hợp và đều đòi hỏi như nhau về mô tả

và khối lượng công việc, nhưng có một công việc có thu nhập chắc chắn hơn so với

công việc còn lại (áp dụng giả định chung cho câu 5, 6, 7, 8, 9).

5. Công việc (5.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời

Anh/Chị. Công việc (5.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và

với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 30% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời còn lại

của Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại

và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 70% thu nhập hiện tại). Anh/Chị

chọn công việc nào?

[] Công việc (5.1) (chuyển tiếp đến câu 8)

[] Công việc (5.2) (chuyển tiếp đến câu 6)

161

6. Công việc (6.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời

Anh/Chị. Công việc (6.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và

với 50% cơ hội thu nhập tương đương 50% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời

còn lại của Anh/Chị). Anh/Chị chọn công việc nào?

[] Công việc (6.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)

[] Công việc (6.2) (chuyển tiếp đến câu 7)

7. Công việc (7.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời

Anh/Chị. Công việc (7.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và

với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 75% thu nhập hiện tại trong suốt phần đời còn lại

của Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại

và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 25% thu nhập hiện tại). Anh/Chị

chọn công việc nào?

[] Công việc (7.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)

[] Công việc (7.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)

8. Công việc (8.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời

Anh/Chị. Công việc (8.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và

với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 20% thu nhập hiện tại trong suốt phần còn lại của

cuộc đời Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập

hiện tại và 50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 80% thu nhập hiện tại).

Anh/Chị chọn công việc nào?

[] Công việc (8.1) (chuyển tiếp đến câu 9)

[] Công việc (8.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)

9. Công việc (9.1) bảo đảm thu nhập hiện tại cho phần còn lại của cuộc đời

Anh/Chị. Công việc (9.2) được chi trả với 50% cơ hội gấp đôi thu nhập hiện tại và

với 50% cơ hội thu nhập thấp hơn 10% so với thu nhập hiện tại phần đời còn lại của

Anh/Chị (nghĩa là có 50% khả năng đem lại thu nhập gấp đôi thu nhập hiện tại và

50% khả năng đem lại thu nhập tương đương 90% thu nhập hiện tại). Anh/Chị chọn

công việc nào?

[] Công việc (9.1) (chuyển tiếp đến Phần 3)

[] Công việc (9.2) (chuyển tiếp đến Phần 3)

162

PHẦN 3: HÀNH VI VÀ SỰ ƯU TIÊN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP

HƯU TRÍ (bao gồm 8 câu hỏi)

Phần này cung cấp cho người được phỏng vấn sự mô tả các khái niệm quan trọng

nhất có liên quan.

Hệ thống hưu trí có thể được tài trợ hoàn toàn (fully funded), không được tài trợ

(unfunded) hoặc chỉ có được tài trợ một phần (partly funded). Với tình trạng dân số

già hoá và gánh nặng chi trả thu nhập hưu trí, hệ thống hưu trí không được tài trợ

(unfunded) đang dần được thay thế bằng hệ thống hưu trí được tài trợ (funded).

Một hệ thống hưu trí không được tài trợ (unfunded) thì được gọi là hệ thống hưu trí

công (public compulsory pension system) theo cơ chế PAYG và được vận hành theo

mô hình DB, do trong cơ cấu quỹ này không có nguồn dành riêng để chi trả cho thế

hệ hưu trí trong hiện tại và tương lai mà được trích từ các khoản đóng góp của

những người đang lao động.

Ngược lại, trong một hệ thống hưu trí được tài trợ (funded), quỹ hưu trí tự nguyện

(private voluntary funded pension funds) mang hàm ý về loại hình quỹ hưu trí được

tài trợ hoàn toàn dựa vào các khoản đóng góp tự nguyện của người tham gia vào

các chương trình hưu trí tư nhân trong mối tương quan với quỹ hưu trí bắt buộc.

Với sự hiện hữu của một tập hợp các tài sản hưu trí đến từ sự đóng góp của người

lao động vào quỹ hưu trí (thông qua tài khoản hưu trí cá nhân), người lao động khi

nghỉ hưu sẽ nhận được lợi ích hưu trí đến từ lợi nhuận tích lũy của quá trình đầu tư

tài sản của quỹ hưu trí. Quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột III trong hệ thống

hưu trí đa trụ cột được WB giới thiệu vào năm 1994, bao gồm:

(i) Quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private

employee/occupational voluntary funded pension) có thể theo mô hình tài chính có

mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hay theo mô hình có mức đóng

góp xác định trước (Defined Contribution - DC): Quỹ hưu trí nghề nghiệp tự

nguyện có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao động và là dạng quỹ hưu

trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử dụng lao động

đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng, nhưng người lao

163

động có quyền không tham gia và không có nghĩa vụ bắt buộc phải tham gia dạng

hợp đồng này.

(ii) Quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private personal/individual

voluntary funded pension) theo mô hình DC: Quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện được

thành lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo hiểm

nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ thống quy

định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị trường và

được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế của Nhà nước.

Tại một số quốc gia trên thế giới, ví dụ ở Netherlands, các khoản phí bảo hiểm của

những người tham gia vào các thỏa thuận hưu trí cụ thể của doanh nghiệp được tập

hợp đầu tư bởi quỹ hưu trí hoặc công ty bảo hiểm nhưng tiết kiệm cho nghỉ hưu là

bắt buộc với đa số người lao động (quỹ hưu trí nghề nghiệp/quỹ hưu trí bổ sung

mang tính chất bắt buộc - private employee/occupational compulsory funded

pension funds). Các chương trình hưu trí tại Netherlands chủ yếu thuộc về loại hình

có mức hưởng được xác định (defined benefit - DB). Do đó, đây là hình thức quỹ

hưu trí bổ sung bắt buộc nhằm gia tăng thêm thu nhập hưu trí cho người lao động

bên cạnh quỹ hưu trí công, và vì vậy chúng không phải là một sản phẩm bảo hiểm

thương mại mà là một chính sách BHXH.

Tại US, người lao động được phép lựa chọn tỷ lệ tiết kiệm của họ về hưu trí. Hơn

nữa, theo nguyên tắc, họ được phép lựa chọn trong số các danh mục có mức lợi

nhuận - rủi ro khác nhau cho việc đầu tư các khoản đóng góp của họ. Người lao

động không bị bắt buộc phải tham gia quỹ hưu trí nghề nghiệp (quỹ hưu trí bổ sung

tự nguyện - private employee/occupational voluntary funded pension funds) và có

thể chọn đầu tư tiền tiết kiệm để nghỉ hưu theo một cách nào đó, ví dụ như tham gia

quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện (individual private pension funds). Do đó, tại US,

phổ biến nhất là phải đóng phí bảo hiểm vào các tài khoản cá nhân với nhiều sự tự

do lựa chọn hơn vào trong việc đầu tư các tài sản hưu trí như cổ phiếu và trái phiếu

theo hệ thống hưu trí theo mô hình DC. Theo đó, trợ cấp hưu trí trong hệ thống có

mức đóng góp xác định trước (DC) không được bảo đảm mức hưởng được xác định

trước (defined benefit - DB) mà phụ thuộc vào lợi tức đầu tư từ tiền phí đóng bảo

164

hiểm. Đầu tư nhiều hơn vào cổ phiếu có thể đem đến mức hưởng lợi cao hơn nhưng

sự không chắc chắn về mức trợ cấp hưu trí được hưởng cũng tăng lên. Do đó, thu

nhập hưu trí cũng có thể lên cao cũng như xuống thấp.

Còn trong hệ thống bảo hiểm hưu trí hiện tại của Việt Nam, chủ yếu vẫn là hệ thống

hưu trí công theo cơ chế PAYG có mức hưởng được xác định trước (DB) nhằm bảo

đảm an sinh xã hội với chương trình bảo hiểm hưu trí bắt buộc. Tuy nhiên, trong

tình trạng tỷ lệ dân số già hoá đang tăng theo thời gian, hệ thống hưu trí công Việt

Nam đối mặt với áp lực chi trả thu nhập hưu trí nên tiềm ẩn sự bất ổn về mặt tài

chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ. Do đó, hệ thống hưu trí Việt Nam đã có

sự phát triển mở rộng thêm về đối tượng áp dụng, chương trình bảo hiểm hưu trí tự

nguyện theo mô hình DC, trong đó người lao động tự nguyện tham gia, được lựa

chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng

BHXH. Các chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam hiện nay được thực hiện

theo quy định của Chính phủ thông qua các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện

(niên kim) do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp. Mục đích hướng đến việc

hoàn thiện thêm cho bảo hiểm hưu trí bắt buộc trong hệ thống hưu trí đa trụ cột,

nhằm góp phần tạo nên một hệ thống an sinh xã hội tương đối toàn diện, đầy đủ, đa

dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu bảo hiểm hưu trí của người lao động thuộc mọi

thành phần kinh tế. Đồng thời, nguồn vốn lớn và dài hạn sẽ được tập hợp thông qua

việc huy động nguồn phí bảo hiểm từ người lao động và chủ sử dụng lao động, từ

đó góp phần thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế - xã hội. Đây cũng chính là cơ sở

phát triển đối với quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí của Việt Nam.

1. Giả sử người sử dụng lao động gửi tiền đóng góp hưu trí vào tài khoản hưu trí cá

nhân của Anh/Chị. Phí đóng bảo hiểm được quỹ hưu trí của Anh/Chị đầu tư đầu tư

vào cổ phiếu và trái phiếu. Anh/Chị phải tự quyết định xem phần nào được đầu tư

vào cổ phiếu và phần nào được đầu tư vào trái phiếu. Tỷ lệ phần trăm Anh/Chị sẽ

đầu tư vào cổ phiếu là bao nhiêu?

2. Anh/Chị đã lựa chọn tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ phiếu từ phí bảo hiểm hưu trí

được nộp vào tài khoản hưu trí cá nhân do quỹ hưu trí quản lý. Hoàn cảnh nào sau

đây phù hợp với sự lựa chọn của Anh/Chị?

165

(Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).

[ ] Không có

[ ] Tuổi tác của tôi

[] Tình hình gia đình

[] Tình hình tài chính cá nhân của tôi

[] Tài sản hưu trí tích lũy

[] Tình hình kinh tế chung

[] Kỳ vọng của tôi về thị trường tài chính

[] Các hoàn cảnh khác

3. Anh/Chị đã lựa chọn tỷ lệ phần trăm đầu tư vào cổ phiếu. Các tình huống có thể

thay đổi theo thời gian và Anh/Chị có thể sẵn sàng điều chỉnh tỷ lệ phần trăm đầu tư

vào cổ phiếu. Hoàn cảnh nào có thể thúc giục Anh/Chị có sự thay đổi tỷ lệ đầu tư

vào cổ phiếu? (Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).

[ ] Không có

[] Thay đổi về độ tuổi

[] Thay đổi trong tình hình gia đình

[] Thay đổi về tình hình tài chính cá nhân của tôi

[] Thay đổi về tài sản hưu trí dồn tích

[] Thay đổi trong tình hình kinh tế tổng thể

[] Những thay đổi trong kỳ vọng của tôi về thị trường tài chính

[] Những thay đổi trong các hoàn cảnh khác

4. Giả sử Anh/Chị có sự lựa chọn giữa hai chương trình hưu trí: (i) theo mô hình có

mức hưởng xác định trước (DB) hoặc (ii) theo mô hình có mức đóng góp xác định

trước (DC).

Chương trình theo mô hình DB dựa trên mức thu nhập tiền lương của Anh/Chị

trong những năm làm việc với sự bảo đảm về mức phúc lợi danh nghĩa. Tiền phí

đóng bảo hiểm phải trả thì dao động. Hệ thống hưu trí theo mô hình DB phần lớn

tương đương với hệ thống hiện tại ở Netherlands với lợi tức hưu trí tổng cộng bằng

70% tổng thu nhập tiền lương (tương ứng với 90% thu nhập tiền lương thuần). Việt

Nam cũng là quốc gia có tỷ lệ hưởng lương hưu hào phóng (75% mức bình quân

166

tiền lương tháng đóng BHXH) so với mức tối thiểu quy định trong công ước An sinh

xã hội của ILO vốn quy định hệ thống hưu trí công chỉ cho phép một tỷ lệ hưởng

lương hưu trong khoảng trên 40% đến 60% và tỷ lệ hưởng lương hưu nên trên 40%

nhằm bảo đảm cuộc sống đầy đủ cho người nghỉ hưu.

Còn trong hệ thống hưu trí theo mô hình DC, tiền phí đóng bảo hiểm hưu trí được

gửi vào tài khoản đầu tư cá nhân. Phí bảo hiểm hưu trí được ấn định nhưng mức

thu nhập hưu trí là không chắc chắn vì có thể thấp hơn hoặc cao hơn tùy theo lợi

tức đầu tư.

Anh/Chị thích chương trình hưu trí nào hơn?

[] Chương trình hưu trí có mức hưởng được xác định trước (DB)

[] Chương trình hưu trí có mức đóng góp được xác định trước (DC)

[] Không có ưu tiên nào

[] Không biết / không trả lời

5. Anh/Chị hãy tưởng tượng một chương trình hưu trí kết hợp giữa hệ thống có mức

hưởng xác định trước (DB) và hệ thống có mức đóng góp xác định trước (DC). Một

phần của thu nhập hưu trí được bảo đảm thông qua hình thức tập thể, nhưng phí bảo

hiểm có thể dao động và một phần của mức thu nhập hưu trí phụ thuộc vào sự phát

triển của thị trường cổ phiếu và trái phiếu mặc dù phí bảo hiểm phải trả đã được ấn

định. Nếu Anh/Chị phải chọn một sự kết hợp của hai hệ thống này, tỷ lệ phần trăm

thu nhập tiền lương Anh/Chị muốn được bảo đảm là thu nhập hưu trí sẽ là bao

nhiêu?

(Câu trả lời của Anh/Chị có thể thay đổi từ 0% đến 90% thu nhập tiền lương ròng.

Trong đó 0% có nghĩa là Anh/Chị muốn lợi ích hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả

đầu tư; còn 90% có nghĩa là Anh/Chị chọn bảo đảm đầy đủ 90% thu nhập ròng từ

tiền lương của mình và cho cả việc phí bảo hiểm thay đổi trong những năm làm

việc).

6. Giả sử hệ thống hưu trí được thay đổi thành hệ thống trong đó tiền đóng bảo hiểm

của quỹ hưu trí nghề nghiệp sẽ được gửi vào các tài khoản cá nhân và được sử dụng

tự động để mua hợp đồng bảo hiểm niên kim sẽ bắt đầu được chi trả ở tuổi 65.

Ngoài ra, Anh/Chị không có quyền truy cập vào tài khoản hưu trí của mình nhưng

167

(i) có cơ hội đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí của mình theo danh mục quỹ hưu trí của

Anh/Chị cung cấp hoặc (ii) đầu tư tiền bảo hiểm hưu trí theo lựa chọn đầu tư của

mình. Anh/Chị chọn cái nào?

[] Đầu tư theo danh mục đầu tư của quỹ hưu trí

[] Tận dụng ảnh hưởng của mình lên danh mục đầu tư

[] Không có ưu tiên nào

[] Không biết / không trả lời

7. Ảnh hưởng mà Anh/Chị muốn áp dụng đối với các khoản đầu tư hưu trí của

Anh/Chị có thể phụ thuộc vào chuyên môn tài chính, kiến thức và những mong đợi

của Anh/Chị đối với thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Giả sử Anh/Chị có cơ hội

nâng cao kiến thức chuyên môn bằng cách nhận thông tin và / hoặc tham dự khóa

học chất lượng cao do các chuyên gia hưu trí độc lập cung cấp miễn phí. Anh/Chị

có mong muốn rằng mình sẵn sàng tận dụng ảnh hưởng nhiều hơn đến việc đầu tư

tiền bảo hiểm hưu trí của mình?

8. Người lao động ở Netherlands tiết kiệm bắt buộc đối với thu nhập hưu trí trong

quỹ hưu trí nghề nghiệp (là hình thức của chương trình hưu trí bổ sung bắt buộc

bên cạnh quỹ hưu trí công nhằm gia tăng thêm thu nhập hưu trí cho người lao

động, và vì vậy chúng không phải là một sản phẩm bảo hiểm thương mại mà là một

chính sách BHXH).

Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 88/2016 về chương trình hưu trí bổ sung tự

nguyện (dự kiến sẽ chuyển thành chương trình hưu trí bổ sung bắt buộc sau năm

2020) và chuẩn bị cho việc hình thành quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện trên TTCK.

Câu nào sau đây mô tả chặt chẽ nhất ý kiến của Anh/Chị về nghĩa vụ tiết kiệm

lương hưu là bắt buộc?

[] Đây là một lợi thế, vì nếu không tôi sẽ bị cám dỗ không tiết kiệm đủ để nghỉ hưu

[] Đây là một lợi thế, vì tôi không muốn suy nghĩ về việc tiết kiệm bao nhiêu cho

nghỉ hưu

[] Đây là một lợi thế vì những lý do khác

[] Đây là một bất lợi vì tôi muốn mình có thể quyết định có tiết kiệm không và bao

nhiêu cho nghỉ hưu

168

[] Đây là một bất lợi vì những lý do khác

[] Tôi không quan tâm đến việc tiết kiệm lương hưu là bắt buộc hay không

[] Không biết / không trả lời

PHẦN 4: THỰC TIỄN VIỆT NAM (bao gồm 8 câu hỏi)

1. Anh/Chị đánh giá gì về sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhất là

TTCK Việt Nam trong những năm gần đây? ….

2. Anh/Chị nhận định về sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường

chứng khoán (Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).

[] Gia tăng tổng tiết kiệm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường

[] Phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức trên TTCK

[] Cung ứng nguồn vốn ổn định và dài hạn trên TTCK

[] Tăng cường chiều sâu và tính thanh khoản của TTCK

Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")

…..

3. Theo Anh/Chị, 3 điểm mạnh nào nổi bật để phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam (Strengths - Các điểm mạnh đến từ các yếu tố bên trong quỹ hưu

trí tự nguyện)

(i) …

(ii) …

(iii) …

4. Theo Anh/Chị, 3 điểm yếu nhất khi phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK

Việt Nam (Weaknesses - Các điểm yếu đến từ các yếu tố bên trong quỹ hưu trí tự

nguyện)

(i) …

(ii) …

(iii) …

5. Theo Anh/Chị, 3 cơ hội đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt

Nam là (Opportunities - Các cơ hội đến từ các yếu tố bên ngoài quỹ hưu trí tự

nguyện)

169

(i) …

(ii) …

(iii) …

6. Theo Anh/Chị, các thách thức chính đối với phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK Việt Nam là (Threats- Các thách thức đến từ các yếu tố bên ngoài quỹ hưu

trí tự nguyện)

(Anh/Chị có thể đánh dấu nhiều hơn 1 hoặc tất cả các lựa chọn sau).

[] Yếu tố lạm phát và tính ổn định của kinh tế vĩ mô biến động thăng trầm qua các

năm

[] Cơ sở hạ tầng của TTCK Việt Nam chưa được hiện đại hóa

[] Khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với các quy định hoạt động đầu tư và phân bổ

tài sản

[] Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập chưa đủ hấp dẫn

Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")

…..

7. Đây là những khuyến nghị đề xuất chính dự kiến của đề tài nghiên cứu nhằm phát

triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt Nam. Anh/Chị vui lòng cho biết mình

có đồng ý với những giải pháp này không?

Có Không

[] []

[] Ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là yếu tố lạm phát

[] Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của TTCK, trong đó bao gồm (i) sự phát triển của

ngành quản lý tài sản; (ii) các thỏa thuận giao dịch hiện đại và kỹ thuật đầu tư tinh

vi; (iii) có hệ thống thanh toán bù trừ đáng tin cậy và hiệu quả, bao gồm một trung

tâm lưu ký hoạt động tốt; (iv) có hệ thống thanh toán liên ngân hàng có giá trị lớn,

hiệu quả, vận hành mạnh mẽ và đáng tin cậy; (v) và có một hệ thống ngân hàng

vững chắc.

[] Hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là các quy định về đầu tư và phân bổ tài sản

[] Chính sách hấp dẫn về ưu đãi thuế thu nhập

170

Xin ghi rõ ý kiến đề xuất khác của Anh/Chị nhằm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện

trên TTCK Việt Nam

8. Anh/Chị đánh giá triển vọng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK Việt

Nam ra sao?

(Anh/Chị đánh dấu vào một lựa chọn)

[] Không hề thích hợp

[] Không thích hợp lắm

[] Thích hợp vừa phải

[] Tương đối thích hợp

[] Rất thích hợp

Trường hợp Anh/Chị có ý kiến bổ sung, xin ghi rõ (Nếu không, xin ghi "không")

…..

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác khảo sát của Quý Anh/Chị. Kính chúc Quý

Anh/Chị sức khỏe, hạnh phúc và thành công.

Trân trọng.

Trần Nguyễn Minh Hải.

Link khảo sát trực tuyến

https://docs.google.com/forms/d/12lBEvGKjtQO74nPp7Vrf5TEGyWjkXkloAMY

B4mek1Lc/edit

Link rút gọn

goo.gl/PsEzXV

Link tổng hợp thông tin trả lời khảo sát

https://docs.google.com/spreadsheets/d/1BGtqDVWON6OJ7lu87WlAE8PhCaDwu

0Sj6lRWWJ5l0-g/edit?usp=forms_web_b#gid=1681080345

171

PHỤ LỤC 2

Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện

Nghỉ hưu và Thu nhập hưu trí

Nghỉ hưu (retirement) là khi người lao động chọn ngừng làm việc. Tuy

nhiên, do thu nhập khi nghỉ hưu không được bảo đảm, có những người lao động vẫn

chọn làm việc sau khi nghỉ hưu như là một cơ hội để tiếp tục kiếm được thu nhập,

theo kịp tư duy hiện tại và duy trì hoạt động (Viceira, 2010; Williams, 2018).

OECD (2014) định nghĩa thu nhập hưu trí (pension) như là khoản thanh toán

cho một cá nhân hoặc những người phụ thuộc của cá nhân đó sau khi cá nhân đó

nghỉ hưu. Thu nhập hưu trí cũng có thể được bổ sung bởi của cải hộ gia đình, tài sản

tài chính cá nhân, và các dịch vụ được cung cấp công khai.

Williams (2018) mô tả thu nhập hưu trí là khoản tiền được xác định cho

người lao động khi nghỉ hưu mà người lao động kiếm được bằng cách làm việc

trong một khoảng thời gian cụ thể. Thu nhập hưu trí thường được cung cấp theo các

công việc cụ thể và người lao động có thể rút ra một lần (a lump sum) hoặc được

thanh toán hàng tháng (monthly payments) sau khi nghỉ hưu.

Collins (2012) ghi nhận thu nhập hưu trí là khoản tiền được trao cho người

lao động khi nghỉ hưu, thường được chi trả bởi Nhà nước, phát sinh từ công việc

của người lao động trước khi nghỉ hưu hoặc từ các sản phẩm của việc đầu tư vào

chương trình hưu trí cá nhân hay có các bên liên quan tham gia.

Williams (2018) chỉ ra rằng thu nhập hưu trí này có thể là khoản thu nhập có

mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB) hoặc là khoản thu nhập có mức

đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC). Viceira (2010) lập luận theo

truyền thống, hệ thống an sinh xã hội và các chương trình hưu trí tự nguyện hoặc

bắt buộc có mức hưởng xác định (DB) cung cấp cho người lao động một dòng thu

nhập hưu trí ổn định và hào phóng khi nghỉ hưu. Trong những năm gần đây, các

quốc gia đang phát triển trên thế giới đang thử nghiệm những thay đổi về cấu trúc

đối với việc cung cấp thu nhập hưu trí và hệ thống theo mô hình DB đang dần được

172

thay thế bằng một hệ thống theo mô hình DC. Theo đó người lao động đóng góp để

tự tài trợ cho kế hoạch tài chính khi nghỉ hưu từ tài sản tích lũy trong tài khoản hưu

trí trong quá trình làm việc. Quy mô của các tài sản này phụ thuộc vào sự đóng góp

theo thời gian của người lao động và các quyết định đầu tư.

Chương trình hưu trí

Chương trình hưu trí là một thỏa thuận mang tính pháp lý về thu nhập hưu trí

dựa trên hình thức tiết kiệm theo hợp đồng (contractual savings). Trong đó, thỏa

thuận hưu trí có thể là (i) một phần của thỏa thuận lao động giữa người sử dụng lao

động với người lao động thông qua việc chuyển một phần dòng thu nhập hiện tại

của người lao động vào trong thu nhập hưu trí dành cho người lao động đó hoặc là

(ii) một thỏa thuận riêng được xác lập theo quy định của pháp luật.

Chương trình hưu trí thường gắn với các ưu đãi đặc biệt về thuế thu nhập

nhằm bảo đảm thu nhập cho các thành viên tham gia khi đến tuổi về hưu, ngoài ra

còn có thể bao gồm các điều khoản chi trả thu nhập trong các trường hợp người

tham gia mất khả năng lao động hay gặp tai nạn, bệnh tật (Trần Phương Thảo &

Nguyễn Anh Tuấn, 2014).

Trong thực tế, các chương trình hưu trí còn được phân chia thành nhiều loại

khá đa dạng và phong phú hơn, nhưng mô hình tài chính mà các chương trình hưu

trí này áp dụng mới là vấn đề quan trọng hơn hết. Theo đó, về cơ bản, có hai loại

mô hình tài chính của chương trình hưu trí, bao gồm kế hoạch hưu trí theo mô hình

tài chính DB hay kế hoạch hưu trí theo mô hình DC. Hai loại mô hình tài chính này

luôn được tập trung xem xét vì chúng xác định rõ ràng hai nội dung quan trọng về

mặt tài chính trong chương trình hưu trí, đó là mức chi trả và người sẽ gánh chịu rủi

ro tài chính được thể hiện trong bảng 2.1.

Bảng 2.1 Phân biệt giữa chương trình có mức hưởng xác định (DB) và chương

trình có mức đóng góp xác định (DC).

Chương trình DB

Chương trình DC

Mức chi trả được xác định dựa trên phần đóng góp

Mức chi trả Mức chi trả được xác định theo

công thức cho trước với các yếu tố

thực tế của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu

đầu vào là thời gian đóng góp và

tư. Kế hoạch hưu trí theo mô hình DC thiết lập mối

thu nhập của người đóng góp. Lợi

liên hệ rõ ràng giữa các khoản đóng góp, hiệu suất

173

ích được hưởng không nhất thiết

đầu tư và lợi ích, ủng hộ thực thi quyền sở hữu; và

phải có liên kết trực tiếp với khoản

có thể hỗ trợ phát triển thị trường tài chính.

đóng góp (danh nghĩa).

Tùy

theo mô hình mà Chính

Người đóng góp là người gánh chịu rủi ro đầu tư tài

Người gánh

phủ/người sử dụng lao động/đơn vị

chính từ quỹ trong kế hoạch hưu trí theo mô hình

chịu rủi ro

cung cấp kế hoạch hưu trí sẽ phải

DC vì khoản thu nhập hưu trí định kỳ nhận được từ

đầu tư tài

gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính

kế hoạch hưu trí theo mô hình DC rất có thể không

chính

của quỹ đối với các khoản chi trả

bảo đảm mức sống đối với những người có thu nhập

bảo đảm cho người được hưởng,

thấp và mức đóng góp thấp, hoặc do lợi nhuận đầu

như là rủi ro về nhân khẩu học, rủi

tư thấp vì các nguyên nhân như khủng hoảng kinh tế

ro chính trị.

kéo dài, khủng hoảng tài chính làm thất thoát các

khoản đầu tư. Ngoài ra còn có các rủi ro liên quan

đến vấn đề người đại diện trong quá trình quản lý tài

sản cá nhân, rủi ro chi phí giao dịch và chi phí quản

trị cao, rủi ro trường thọ.

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

Dựa vào nền tảng mô hình tài chính làm chủ đạo, cách thức phân loại các

chương trình hưu trí cũng trở nên dễ dàng hơn với ba loại hình cơ bản sau:

(i) Chương trình hưu trí được điều hành bởi Chính phủ với kế hoạch hưu trí

có mức hưởng xác định trước dựa trên thu nhập (Defined Benefits - DB) và bảo

đảm thanh toán quyền lợi khi nghỉ hưu cho các thành viên/đối tượng tham gia

chương trình hưu trí công (cơ chế thực thu thực chi - Pay as You Go - PAYG),

mang tính chất bắt buộc đối với người lao động được bảo hiểm. Trong cơ chế thực

thu thực chi PAYG, nguồn thanh toán lương hưu được trích từ các khoản đóng góp

của những người đang lao động. Có nghĩa là thế hệ người lao động hiện tại thanh

toán trợ cấp hưu trí hiện tại cho người đang được hưởng quyền lợi từ kế hoạch hưu

trí. Như vậy, trong cơ cấu quỹ này, không có nguồn dành riêng để chi trả cho thế hệ

hưu trí trong tương lai, nói cách khác, đây là loại hình quỹ không được tài trợ

(unfunded funds).

(ii) Chương trình hưu trí nghề nghiệp được tổ chức tại nơi làm việc của

người lao động và do người sử dụng lao động cung cấp cho người lao động với kế

hoạch hưu trí có mức hưởng xác định trước dựa trên thu nhập (Defined Benefits -

DB) hoặc kế hoạch có mức đóng góp xác định trước (Defined Contribution - DC).

Chương trình hưu trí nghề nghiệp này do khu vực tư nhân cung cấp có thể được sử

174

dụng như giải pháp bổ sung hoặc thay thế cho chương trình hưu trí do Chính phủ

cung cấp.

(iii) Kế hoạch hưu trí cá nhân trong hình thức hợp đồng tiết kiệm và thường

là kế hoạch có mức đóng góp xác định trước (DC). Do đó, các quỹ hưu trí cá nhân

dựa trên các kế hoạch hưu trí cá nhân là loại hình quỹ được cấp vốn hoàn toàn bằng

việc tự nguyện đóng góp đầy đủ của người tham gia. Theo đó, mức chi trả được tính

dựa trên phần đóng góp của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu tư. Người đóng

góp là người gánh chịu rủi ro đầu tư tài chính từ quỹ trong kế hoạch hưu trí theo mô

hình có mức đóng góp xác định trước (DC). Các kế hoạch hưu trí cá nhân này

thường được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập, nhờ vào lợi thế này, các kế hoạch hưu

trí cá nhân ngày càng phát triển và có xu hướng chuyển dần từ mô hình có mức

hưởng xác định trước (DB) sang mô hình có mức đóng góp xác định trước (DC).

Một số quốc gia trên thế giới đã và đang tiến hành thực hiện kế hoạch hưu trí

cá nhân có mức đóng góp xác định danh nghĩa (Notional Defined Contribution -

NDC). Đây là một dạng thức mới của chương trình hưu trí công và được tạo ra với

mục tiêu giải quyết sự bất ổn tài chính của kế hoạch truyền thống PAYG theo mô

hình DB (và không được tài trợ) và bắt chước các đặc điểm của kế hoạch DC trong

khi vẫn giữ việc trợ cấp theo chương trình PAYG. Theo đó, các khoản đóng góp tạo

ra quyền cho bên đóng góp và nghĩa vụ nợ được xác định của bên tổ chức điều hành

nhằm có thể tách biệt rủi ro đầu tư và rủi ro bảo đảm chi trả đầy đủ lợi ích thu nhập

hưu trí cam kết, nhưng nguồn gốc lợi ích chủ yếu vẫn là dựa vào ưu đãi về thuế thu

nhập.

Mức chi trả trong kế hoạch hưu trí theo mô hình NDC được tính dựa trên

phần đóng góp của người tham gia cộng với lợi nhuận đầu tư tính trên một mức lãi

suất do tổ chức điều hành quy định. Tuy nhiên, lợi nhuận trên khoản đóng góp kiếm

được chỉ là danh nghĩa được thiết lập bởi tổ chức điều hành chứ không phải là kết

quả của việc đầu tư trên thị trường. Chính phủ/người sử dụng lao động/đơn vị cung

cấp kế hoạch hưu trí vẫn sẽ phải gánh chịu rủi ro tài chính trong kế hoạch hưu trí

theo mô hình NDC (Blommestein, 1997; WB, 2001).

175

Hệ thống hưu trí

Hệ thống hưu trí là bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội của quốc

gia, tham gia thực hiện các chức năng (i) tiết kiệm, (ii) tái phân phối thu nhập, (iii)

bảo hiểm, nhằm hướng tới bảo đảm nhu cầu và quyền lợi cho người cao tuổi thông

qua việc cung cấp toàn diện các kế hoạch hưu trí linh hoạt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào

trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu dân số xã hội mà hệ thống hưu trí được xây

dựng tương đối khác biệt ở từng quốc gia.

Hệ thống hưu trí có thể được tài trợ (fully funded), không được tài trợ

(unfunded) hoặc chỉ có được tài trợ một phần (partly funded). Một hệ thống hưu trí

không được tài trợ (unfunded) thì được gọi là hệ thống hưu trí công theo cơ chế

thực thu thực chi PAYG, do trong cơ cấu quỹ này không có nguồn dành riêng để chi

trả cho thế hệ hưu trí trong tương lai. Theo đó, nguồn thanh toán lương hưu được

trích từ các khoản đóng góp của những người đang lao động. Có nghĩa là thế hệ

người lao động hiện tại thanh toán trợ cấp hưu trí hiện tại cho người đang được

hưởng quyền lợi từ kế hoạch hưu trí. Hay nói cách khác, trong hệ thống PAYG

không tồn tại các tài sản như của quỹ hưu trí vì các khoản đóng góp dành cho hưu

trí được dùng để chi trả ngay cho các lợi ích hưu trí đến hạn ở hiện tại. Ngược lại,

trong một hệ thống hưu trí được tài trợ (funded), với sự hiện hữu của một tập hợp

các tài sản hưu trí đến từ sự đóng góp của người lao động vào quỹ hưu trí (thông

qua tài khoản hưu trí cá nhân), người lao động khi nghỉ hưu sẽ nhận được lợi ích

hưu trí đến từ lợi nhuận tích lũy của quá trình đầu tư tài sản của quỹ hưu trí.

Như vậy, quỹ hưu trí công PAYG (Pay as You Go) là loại quỹ được vận

hành theo mô hình tài chính có mức hưởng xác định trước (Defined Benefit - DB)

và thuộc hệ thống hưu trí không được tài trợ (public unfunded pension system) nên

phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực lao động mới gia nhập trên thị trường lao động

chính thức và rủi ro trường thọ sau khi người lao động nghỉ hưu, điều này dẫn tới áp

lực chi trả tài chính của quỹ hưu trí công PAYG. Trong mối tương quan đó, quỹ

hưu trí tự nguyện là loại quỹ thuộc hệ thống hưu trí tư nhân được tài trợ (private

funded pension system) và được vận hành theo mô hình tài chính DC làm chuyển

giao rủi ro tài chính sang cho người lao động tham gia đóng góp vào quỹ, đồng thời

176

chủ động hơn với vai trò nhà đầu tư tổ chức trên TTCK trong việc tìm kiếm các cơ

hội sinh lời và phân tán rủi ro theo danh mục đầu tư của quỹ.

Hệ thống hưu trí ở mỗi quốc gia là rất khác nhau, nhưng thường có sự kết

hợp hệ thống hưu trí công và hệ thống hưu trí được tài trợ nhằm tạo nên hệ thống

hưu trí đa trụ cột. Trong đó, các chương trình hưu trí công mang tính pháp lý, dựa

trên cơ sở PAYG (với những khoản đóng góp hiện hành được dùng để chi trả cho

các lợi ích hưu trí hiện hành) và được quản lý bởi các tổ chức công. Các chương

trình hưu trí tư nhân trong một số trường hợp là bắt buộc, nhưng thông thường và

phổ biến là theo dạng tự nguyện, được tài trợ, và là chương trình hưu trí nghề

nghiệp hoặc là kế hoạch tiết kiệm hưu trí cá nhân (OECD, 2014; EUROPARL,

2014).

Bảng 2.2 khái quát mô hình hệ thống hưu trí năm trụ cột được WB giới thiệu

vào năm 1994. Trong đó, có thể thấy rõ mục đích của hệ thống hưu trí năm trụ cột

này chính là nhằm tách bạch các mục tiêu chính của kế hoạch hưu trí, hỗ trợ cho

việc xác định các yếu tố quyết định đến thể thức hệ thống hưu trí và các lựa chọn

cải cách hưu trí phù hợp với các điều kiện cụ thể ở mỗi quốc gia.

Bảng 2.2 Mô hình hệ thống hưu trí của World Bank.

Nội dung

Đặc điểm

Mục tiêu

Áp dụng

Bao gồm các quỹ trợ

Được hỗ trợ từ NSNN

Hướng tới mục tiêu

Tính chất

Trụ cột 0

cấp xã hội.

(chính

quyền

địa

xóa đói giảm nghèo

cấp phát,

(A non-

phương, khu vực, quốc

và tái phân phối thu

áp dụng

contributory

gia).

nhập nhằm bảo đảm

đối

với

“zero pillar”)

Quỹ trợ cấp

mức trợ cấp tối thiểu

toàn

bộ

Chính phủ

cho người cao tuổi.

cư dân.

Là quỹ hưu trí mang

Hình thành chủ yếu từ

Thường vận hành

Tính chất

Trụ cột I

tính chất bắt buộc,

nguồn đóng góp của

theo cơ chế PAYG.

bắt buộc

(A mandatory

có mức hưởng lợi

người sử dụng lao động,

Phân phối

lại

thu

đóng góp,

“first pillar”)

Quỹ hưu trí bắt

xác định dựa trên

người lao động và có thể

nhập nhằm bảo đảm

áp dụng

buộc

thu nhập (DB).

được bổ sung thêm từ

trợ cấp tối thiểu cho

đối

với

(Mandatory

Quỹ do Nhà nước

NSNN.

người có thu nhập

người lao

publicly

quản

lý và điều

thấp,

trợ cấp

thất

động.

managed

hành.

nghiệp, mất sức.

pension)

Thường là Quỹ có Quỹ được hình thành từ Không có chức năng Tính chất

Trụ cột II

177

mức đóng góp xác

nguồn đóng góp của

phân phối

lại

thu

bắt buộc

(A mandatory

định trước (DC), do

người sử dụng lao động

nhập, khoản thu nhập

đóng góp,

“second pillar”)

Quỹ hưu trí bổ

khu vực tư nhân tự

và từ người lao động,

hưu trí nhận được

áp dụng

sung/Quỹ hưu trí

quản lý (thông qua

góp phần gia tăng thu

phụ thuộc vào mức

đối

với

nghề nghiệp

các Công ty quản lý

nhập, hỗ trợ thêm cho

đóng góp và

lợi

người lao

(Mandatory

quỹ) và chịu sự điều

người hưởng lương hưu

nhuận đầu tư, được

động.

privately

chỉnh, giám sát chặt

bên cạnh khoản lương

hạch toán riêng biệt

managed

chẽ bởi cơ quan

nhận từ Quỹ hưu trí bắt

vào tài khoản lương

pension)

quản lý Nhà nước.

buộc tại trụ cột I.

hưu của từng người

tham gia.

Hình thức đa dạng

Do người lao động quyết

Cùng với trụ cột I và

Tính chất

Trụ cột III

(tiết kiệm cá nhân

định mức đóng góp,

trụ cột II, trụ cột III

tự

(“A voluntary

cho hưu trí, bệnh tật,

cũng có thể có đóng góp

góp phần làm giảm

nguyện,

“third-pillar”)

Quỹ hưu trí tự

tử tuất; chủ lao động

thêm từ người sử dụng

gánh nặng của Nhà

áp dụng

nguyện

tài trợ, DB, DC …),

lao động, được khuyến

nước trong việc bảo

đối

với

(Voluntary

được quản lý bởi các

khích bởi chính sách ưu

đảm an sinh xã hội.

người lao

pension)

Công

ty quản

đãi về thuế thu nhập của

động.

quỹ, chịu sự điều

nhà nước.

chỉnh bởi hệ thống

quy định pháp luật,

cơ quan quản

giống như các quỹ

đầu tư.

Bao gồm việc tiếp

Là các khoản đóng góp

Góp phần trong việc

Tính chất

Trụ cột IV

cận hỗ

trợ chính

tự nguyện, trợ cấp không

bảo đảm an sinh xã

tự

(A non-

thức

(hỗ

trợ gia

hình thành Quỹ hưu trí,

hội.

nguyện,

financial

đình), chăm sóc y tế

ví dụ như các hình thức

áp dụng

“fourth pillar”)

Quỹ hỗ trợ tự

và/hoặc nhà ở …

viện trợ, các Quỹ từ

đối

với

thiện...

nguyện

toàn

bộ

(Voluntary non-

cư dân.

pension)

Nguồn: WB (1994); WB (2008).

Trụ cột 0 và trụ cột I được xây dựng nhằm bảo đảm mức sinh hoạt phí và xoá

đói giảm nghèo khi tuổi về già, trụ cột II và II được xây dựng nhằm duy trì mức

sống, trụ cột IV được hình thành nhằm bảo đảm duy trì sự chăm sóc xã hội. Mô

hình hệ thống năm trụ cột này được WB xây dựng và giới thiệu từ năm 1994 dựa

trên quan điểm rằng so với việc chỉ dựa vào một trụ cột duy nhất, thì một hệ thống

178

đa dạng các trụ cột có thể cung cấp thu nhập hưu trí hiệu quả hơn, thiết kế đa trụ cột

cũng linh hoạt hơn, xác định cụ thể hơn nhu cầu của những nhóm đối tượng chính

trong dân số và bảo đảm an sinh xã hội hơn và tăng cường an toàn đối với hệ thống

hưu trí trước những rủi ro về nhân khẩu học, rủi ro chính trị.

Nhìn chung, mỗi trụ cột có những ưu điểm và hạn chế riêng, tuy nhiên, một

hệ thống an sinh xã hội được coi là hoàn chỉnh khi nó dựa trên tất cả các trụ cột này,

và các trụ cột này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao mức

sống của người hưởng lương hưu, giảm gánh nặng cho NSNN. Trụ cột đầu tiên (trụ

cột 0) trong hệ thống hưu trí đa trụ cột được dùng để phục vụ xóa đói giảm nghèo

khi tuổi già, vì vậy trụ cột này cũng được xem như là một trụ cột hưu trí công cộng

nói chung, được cung cấp trên cơ sở phổ cập (universal basis) mà không đặt ra bất

kỳ yêu cầu, điều kiện về thu nhập hay công việc làm nào liên quan. WB đã và đang

nỗ lực quảng bá, hỗ trợ nhiều quốc gia cải cách hệ thống an sinh xã hội, cải cách hệ

thống hưu trí của quốc gia mình theo hướng dựa trên tối thiểu ba trụ cột căn bản,

bao gồm quỹ hưu trí bắt buộc (trụ cột I), quỹ hưu trí bổ sung (trụ cột II) và quỹ hưu

trí tự nguyện (trụ cột III).

ILO cũng đã đề xuất một quy tắc phối hợp của hệ thống hưu trí ba tầng (3

tiers) với tầng đầu tiên nhằm ngăn chặn sự đói nghèo, tầng thứ hai hướng về một hệ

thống hưu trí công PAYG mang tính chất bắt buộc và tầng thứ ba hướng về chương

trình hưu trí theo mô hình DC được tài trợ đầy đủ nhằm bổ sung cho hai tầng đầu

tiên.

OECD cũng sử dụng hệ thống hưu trí đa tầng. Trong đó tầng thứ nhất tập

trung vào việc bảo đảm ngăn chặn đói nghèo khi cao tuổi (PAYG bắt buộc), tầng

thứ hai cũng mang tính chất bắt buộc, bao gồm những chương trình hưu trí liên

quan đến PAYG và các chương trình được tài trợ. Tầng thứ ba được xác định là các

khoản tiết kiệm tự nguyện dành cho hưu trí nhằm giúp các cá nhân cải thiện các tỷ

lệ thay thế (replacement rate) khi nghỉ hưu. Trong đó, tỷ lệ thay thế này là tỷ lệ

phần trăm của mức thu nhập hưu trí so với thu nhập kiếm được khi còn làm việc.

Trong các hệ thống hưu trí mà người lao động nhận được khoản chi trả khác nhau

đáng kể do thu nhập khác nhau của họ thì tỷ lệ thay thế là một phép đo phổ biến

179

được sử dụng để xác định tính hiệu quả của hệ thống hưu trí. Trong một số trường

hợp, người lao động có thể sử dụng tỷ lệ thay thế để đánh giá thu nhập hưu trí của

họ có thể có từ chương trình hưu trí (EUROPAL, 2014).

Trong khi mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột của WB cung cấp giải pháp về

nhận thức cho vấn đề cải cách hệ thống hưu trí thì mô hình hệ thống hưu trí đa tầng

của OECD thay thế các trụ cột bằng các tầng thu nhập hưu trí và làm nổi bật tính

chất bắt buộc hơn là tính chất quản lý trong các chương trình hưu trí. Tuy nhiên,

trong cách phân loại của cả WB lẫn OECD đều hướng tới việc làm rõ tính chất bắt

buộc hay tự nguyện cũng như bản chất tài trợ của các thành tố trong hệ thống hưu

trí (PAYG hay là được tài trợ). Đồng thời, cả WB lẫn OECD đều nhấn mạnh sự tái

phân phối và bản chất tiết kiệm của các hệ thống khác nhau, mặc dù cách phân loại

của WB dựa và nguồn gốc tài trợ nhiều hơn là của OECD. Bảng 2.3 chỉ ra sự tương

đồng trong phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD.

Bảng 2.3 Sự tương đồng về phân loại hệ thống hưu trí của WB và OECD.

Trụ cột 1

Trụ cột 2

Trụ cột 3

Công cộng

Nghề nghiệp (Công cộng/Tư nhân)

Cá nhân

OECD Tầng 1

OECD Tầng 2

OECD Tầng 3

WB Trụ cột 0

WB Trụ cột I

WB Trụ cột II

WB Trụ cột III

Phổ cập,

Thu nhập có liên quan

Được tài trợ, DC

Tiết kiệm hưu trí

Cơ bản/Mục tiêu/Tối thiểu

đến DB, PAYG

tự nguyện

Nguồn: EUROPAL (2014).

Hầu hết các nước hiện nay đều tiến hành cải cách hệ thống hưu trí từ chỗ dựa

vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Lý do là vì việc dựa vào duy nhất một trụ

cột có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:

 Thứ nhất, hệ thống an sinh xã hội dựa trên duy nhất một trụ cột là quỹ hưu trí

bắt buộc do Nhà nước quản lý (trụ cột I) khó có thể thực hiện được tốt cả 3 chức

năng (i) tiết kiệm, (ii) tái phân phối và (iii) bảo hiểm, đặc biệt trong điều kiện dân số

đang già hóa với tốc độ nhanh. Khi dân số trẻ, hệ thống thường đòi hỏi mức đóng

góp thấp bởi số thành viên đóng góp nhiều hơn số thành viên nhận lợi ích. Tuy

180

nhiên việc quỹ đã ấn định mức chi trả cho người hưởng lương hưu sẽ gặp khó khăn

trong việc bảo đảm lợi ích thu nhập hưu trí khi dân số già hóa và số thành viên đóng

góp bị giảm sút. Lúc này, hoặc là hệ thống cần phải được đáp ứng bởi một tỷ lệ

đóng góp cao hơn, hoặc là Chính phủ phải gánh vác một phần trách nhiệm trợ cấp

do quỹ bị thâm hụt. Nhưng việc tăng mức đóng góp hoặc tăng thuế để hỗ trợ quỹ

hưu trí có thể sẽ gây ra những phản ứng xã hội tiêu cực.

 Thứ hai, hệ thống quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản lý dựa trên cơ chế

thực thu thực chi (PAYG) sẽ không hỗ trợ nhiều cho sự phát triển của thị trường

vốn. Các khoản đóng góp của người lao động hiện tại được dùng để chi trả trực tiếp

lương hưu cho những người về hưu, nên sẽ không có cơ hội và thời gian để tái đầu

tư sinh lợi nhuận và cũng không mang tính chất của một khoản tiết kiệm cho việc

nghỉ hưu của người lao động. Như vậy, hệ thống các quỹ này đã không thực hiện tốt

chức năng tiết kiệm, chưa tạo ra lợi thế để tích lũy nguồn vốn vừa phục vụ cho phát

triển kinh tế, vừa bảo đảm an sinh xã hội.

Tóm lại, hệ thống hưu trí đa trụ cột giúp khắc phục những bất cập của hệ

thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí bắt buộc do Nhà nước quản

lý. Thông qua mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, WB cũng chú trọng đến việc tăng

cường bảo hiểm xã hội (BHXH) và hệ thống tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm

nhằm hỗ trợ thu nhập khi về già tại các quốc gia đang phát triển (WB 2008;

Holzmann, Hinz & Dorfman, 2008; Holzmann, 2012; Khuất Thị Kiều Vân, 2013).

Vị trí quỹ hưu trí tự nguyện trong hệ thống hưu trí đa trụ cột

Từ mô hình hệ thống hưu trí đa trụ cột, quỹ hưu trí tự nguyện chính là trụ cột

III, bao gồm (i) quỹ hưu trí nghề nghiệp do người sử dụng lao động tài trợ (private

occupational voluntary funded pension funds) có thể theo mô hình DB hay DC và

(ii) quỹ hưu trí cá nhân do người tham gia đóng góp (private personal voluntary

funded pension funds) theo mô hình DC. Trong đó, quỹ hưu trí cá nhân tự nguyện

được thành lập bởi các tổ chức tài chính (chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo

hiểm nhân thọ) áp dụng cho tất cả các cá nhân, hoạt động trong khuôn khổ hệ

thống quy định của pháp luật và cơ quan quản lý giống như các quỹ đầu tư trên thị

181

trường và được khuyến khích bởi chính sách ưu đãi về thuế thu nhập của Nhà nước

(WB, 1994; WB, 2008).

Các quốc gia thuộc OECD cũng xem xét quỹ hưu trí tự nguyện trong vị trí

trụ cột III của mô hình hệ thống hưu trí đa tầng. Quỹ hưu trí tự nguyện là những

pháp nhân được thành lập một cách riêng biệt và được quản lý bởi các công ty được

cấp phép. Quỹ hưu trí tự nguyện thu thập các khoản đóng góp và chi trả quyền lợi

về thu nhập hưu trí. Mục đích của quỹ hưu trí tự nguyện là để cung cấp cho nhân

viên và người lao động tự do, hoặc bên thụ hưởng của quỹ hưu trí tự nguyện các lợi

ích về thu nhập hưu trí bổ sung thêm vào an sinh xã hội bắt buộc. Qua đó, quỹ hưu

trí tự nguyện được xem như là một phương tiện đầu tư mang tính tập hợp được

thành lập để thu thập và đầu tư các khoản đóng góp cho thu nhập hưu trí vào các

loại tài sản nhằm tạo ra lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro đầu tư, từ đó làm gia tăng giá

trị tài sản của quỹ để bảo đảm trách nhiệm chi trả cho các thành viên của quỹ. Quỹ

hưu trí tự nguyện cũng có thể có sự đóng góp từ phía người sử dụng lao động và là

dạng quỹ hưu trí theo hợp đồng được ký kết bởi công ty quản lý quỹ với người sử

dụng lao động đứng ra đại diện cho những người lao động tham gia hợp đồng,

nhưng người lao động có quyền không tham gia và không có nghĩa vụ bắt buộc phải

tham gia dạng hợp đồng này (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).

Mặc dù quỹ hưu trí tự nguyện dễ dàng được nhận diện thông qua mô tả trên

lý thuyết, nhưng trong thực tế của quá trình phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại một

số quốc gia trên thế giới cho thấy việc so sánh các quỹ hưu trí tự nguyện giữa các

quốc gia là một nhiệm vụ không hề đơn giản bởi các vấn đề sau đây:

 Về chương trình hưu trí nghề nghiệp và kế hoạch hưu trí cá nhân

Ở một số nước như Đan Mạch và Latvia, các chương trình hưu trí nghề

nghiệp là theo mô hình DC với sự đóng góp hoàn toàn tự nguyện, và do đó chúng

thuộc về trụ cột III theo như mô hình thu nhập hưu trí đa trụ cột, nhưng chúng lại

được các quốc gia này xếp vào trụ cột II. Do đó, việc so sánh các chương trình hưu

trí giữa các quốc gia và phân biệt rõ ràng các tỷ lệ thay thế giữa các trụ cột I, trụ cột

II và trụ cột III trở nên khó khăn (GoC, 1999; OECD, 2004; NBS, 2011; OECD,

2011).

182

 Về chương trình hưu trí bắt buộc và chương trình hưu trí bán bắt buộc

Ở một số nước, tính chất bắt buộc hay tự nguyện của một chương trình hưu

trí khó có thể xác định được rõ ràng. Do đó, việc phát sinh hiện trạng các chương

trình hưu trí bán bắt buộc cũng khiến cho việc phân tách rõ ràng giữa các chương

trình hưu trí trở nên khó khăn hơn khi một phần đặc tính của chúng thuộc về trụ cột

II và cả trụ cột III. Ví dụ, tại Portugal và Slovenia, chương trình hưu trí nghề nghiệp

được tài trợ bằng sự đóng góp của người tham gia lại mang tính chất bắt buộc đối

với một số ngành nghề. Tại Spain, Ireland và Cyprus, tất cả nhân viên khu vực công

tham gia vào một chương trình nghề nghiệp bắt buộc.

Ở các nước khác, mặc dù tính chất tự nguyện (trên danh nghĩa) của chương

trình/hệ thống hưu trí được tài trợ bởi các khoản đóng góp, nhưng việc rút các

khoản đóng góp cho các chương trình hưu trí nghề nghiệp là không thể nếu công ty

hoặc lĩnh vực này là một phần của một thỏa thuận về thu nhập hưu trí nghề nghiệp.

Thậm chí trong trường hợp của Belgium, mặc dù (về nguyên tắc) chương trình hưu

trí nghề nghiệp là mang tính chất tự nguyện nhưng công ty phải cung cấp các

chương trình hưu trí nghề nghiệp tương đồng cho tất cả nhân viên, nên các nhân

viên không được tự do để quyết định thích hay không thích một chương trình hưu

trí nghề nghiệp nếu các nhân viên khác của công ty đã tham gia vào đó (GoC, 1999;

OECD, 2004; NBS, 2011; OECD, 2011).

183

PHỤ LỤC 3

Các nghiên cứu thực nghiệm của nước ngoài

Trong lĩnh vực nghiên cứu về quỹ hưu trí và phát triển quỹ hưu trí trên các

thị trường tài chính, ấn phẩm sách về quỹ hưu trí của Davis (1998) có thể được xem

như là công trình nghiên cứu nền tảng cung cấp chi tiết và cụ thể những vấn đề liên

quan đến quỹ hưu trí tự nguyện, bao gồm biểu hiện của các quỹ hưu trí tự nguyện

trên thị trường tài chính, ảnh hưởng của điều kiện tài khóa và các quy định pháp lý;

mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển của thị trường vốn, tài

chính doanh nghiệp và đầu tư quốc tế; các mối quan hệ với an sinh xã hội, lợi thế

cạnh tranh của quỹ hưu trí tư nhân theo mô hình DB và quỹ hưu trí tư nhân theo mô

hình DC; và vai trò của quỹ hưu trí tự nguyện trong các nước đang phát triển cũng

được đề cập đến. Dựa vào cơ sở lý luận này, Davis và Hu (2005) và Davis và Hu

(2008) chỉ ra rằng phát triển quỹ hưu trí tự nguyện (thông qua việc tài trợ cho quỹ

hưu trí tự nguyện sẽ làm gia tăng quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện) có tác

động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế thông qua thị trường vốn tại 38 quốc gia phát

triển và thị trường mới nổi trong giai đoạn 1980 đến 2003. Tuy nhiên, nghiên cứu

của Zandberg và Spierdijk (2013) lại cho rằng bên cạnh (i) việc huy động các khoản

đóng góp vào quỹ hưu trí tự nguyện là yếu tố làm gia tăng quy mô tài sản của quỹ,

thì hai yếu tố quan trọng không kém khiến quy mô tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện

gia tăng là (ii) lợi nhuận từ việc đầu tư của quỹ hưu trí tự nguyện trên thị trường vốn

và (iii) những thay đổi về nhân khẩu học, và chúng cũng chính là các yếu tố tác

động đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia thuộc OECD hay không thuộc OECD.

Bên cạnh đó, một số nghiên cứu gần đây xem xét quỹ hưu trí tự nguyện với

vai trò là tổ chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm và tiến hành phân tích cùng với loại

hình công ty bảo hiểm nhân thọ trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển TTCK.

Chẳng hạn như Catalan, Impavido và Musalem (2000) dựa trên dữ liệu của 14 quốc

gia OECD và 5 nước đang phát triển từ năm 1997 đến 1998 và cho thấy rằng các tổ

chức tập hợp hợp đồng tiết kiệm (contractual savings institutions) bao gồm các quỹ

184

hưu trí tự nguyện có mối quan hệ nhân quả (Granger causality) chính yếu đến sự

phát triển của TTCK cả về vốn hóa và giá trị giao dịch. Tuy nhiên, ước lượng của

nghiên cứu này cũng có hạn chế về số lượng quan sát theo thời gian, cụ thể là số

lượng biến quan sát chỉ có 6 đối với Austria, 8 cho Portugal và 9 cho Australia.

Trong cùng năm 2000, Impavido và Musalem (2000) tìm thấy tác động đáng

kể mang ý nghĩa thống kê của tài sản tài chính thuộc các tổ chức tập hợp hợp đồng

tiết kiệm bao gồm các quỹ hưu trí tự nguyện đối với sự phát triển của TTCK, nhưng

chỉ là đối với vốn hóa của TTCK mà không phải đối với giá trị được giao dịch. Các

tác giả cũng nhìn nhận vai trò quan trọng của các tổ chức này đối với sự gia tăng

cung các quỹ dài hạn trong nền kinh tế thông qua việc sử dụng ước lượng bình

phương nhỏ nhất (OLS), Error Component (EC), và Error Component Two Stage

Least squares (EC2SLS) ước lượng trên một dữ liệu bảng của 26 quốc gia OECD, 5

trong số đó là các nước đang phát triển.

Walker và Lefort (2002) sử dụng Generalized Least squares (GLS) cho dữ

liệu bảng để ước lượng tập trung cho 33 thị trường mới nổi và tìm các liên kết tích

cực giữa cải cách thu nhập hưu trí và thị trường vốn trong giai đoạn từ năm 1981

đến năm 2000. Nghiên cứu nhận thấy rằng tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện làm

giảm suất sinh lợi đòi hỏi từ cổ tức và tăng chỉ số giá thị trường so với giá trị sổ

sách, do đó hàm ý giảm chi phí vốn. Đồng thời, tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện

giúp làm giảm biến động giá chứng khoán và gia tăng quy mô giao dịch chứng

khoán, góp phần gián tiếp đến sự sự tăng trưởng kinh tế và năng suất của nền kinh

tế thông qua kênh thị trường vốn. Tuy nhiên, các kết quả ước lượng của nghiên cứu

gặp hạn chế do vấn đề sai số đo lường, và các kết luận mới chỉ mang tính sơ bộ cần

được kiểm định lại khi có thời kỳ đủ dài đối với số quan sát.

Impavido, Musalem và Tresselt (2003) sử dụng GMM sai phân ước lượng

trên bảng dữ liệu bảng động từ 32 quốc gia phát triển và đang phát triển và nhận

thấy việc gia tăng tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện liên quan đến tài sản tài chính

trong nước có tác động tích cực đến độ sâu và tính thanh khoản của TTCK, tuy

nhiên tác động này thể hiện rõ nét ở các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển

dựa vào thị trường và có thông tin công ty minh bạch hơn. Nhưng nghiên cứu này

185

cũng gặp vấn đề với số lượng nhỏ của mẫu quan sát trong thời gian ngắn (thời gian

trung bình là 6 năm).

Nghiên cứu của Raddatz và Schmukler (2008) về các chiến lược đầu tư và

cấu trúc của quỹ hưu trí tự nguyện là một trong những nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu

về mối quan hệ giữa quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển của thị trường vốn thông

qua cách tiếp cận kinh tế vi mô. Với bộ dữ liệu về sự phân bổ danh mục tài sản

hàng tháng của các quỹ hưu trí tự nguyện tại Chile5 trong giai đoạn 1995 đến 2005,

kết quả nghiên cứu cho thấy các quỹ hưu trí tự nguyện có xu hướng nắm giữ các

danh mục đầu tư tương tự nhau và theo hiệu ứng đám đông trong các quyết định

đầu tư. Hơn nữa, các quỹ hưu trí tự nguyện giao dịch khá ít, không thường xuyên

thay đổi vị thế của mình và nắm giữ tài sản đến khi đáo hạn. Raddatz và Schmukler

(2008) cho rằng những mô hình đầu tư này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến

tín thanh khoản của thị trường vốn nhưng mặt khác, quỹ hưu trí tự nguyện lại hấp

thụ một lượng lớn trái phiếu tư nhân, cho phép các công ty phát hành các dạng trái

phiếu và hỗ trợ hữu hiệu đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu.

Hryckiewicz (2009) đánh giá sự liên kết thực nghiệm giữa tăng trưởng tài

sản và hành vi đầu tư của nhà đầu tư tổ chức với hiệu quả hoạt động của TTCK tại

các quốc gia đang phát triển thuộc Châu Âu và đã thấy rằng các nhà đầu tư tổ chức

đóng góp cho giao dịch lớn trên các thị trường vốn, đặc biệt thông qua nhu cầu cao

đối với chứng khoán địa phương. Ngoài ra, Hryckiewicz (2009) cho rằng tại các

quốc gia có các nhà đầu tư tổ chức tích cực tham gia vào quản trị công ty thì sự hiện

diện của họ có thể làm giảm chi phí sử dụng vốn của công ty cũng như có ảnh

hưởng tích cực đến giá trị vốn hóa của TTCK. Với việc sử dụng GMM để ước

lượng cho dữ liệu bảng bao gồm 8 quốc gia đang phát triển thuộc Trung và Đông

Âu trong giai đoạn từ 1995 đến 2006, nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển của các

nhà đầu tư tổ chức, và đặc biệt là sự hiện diện của quỹ hưu trí tự nguyện được hỗ

trợ bởi những cải cách hưu trí, đã tạo nên một tác động mạnh mẽ và đáng kể đến sự

tăng trưởng của TTCK.

tư nhân hóa (quỹ hưu trí được tài trợ/quỹ hưu trí tự nguyện).

5 Chile là hình mẫu của quốc gia thành công trên thế giới với công cuộc cải cách hệ thống hưu trí theo hướng

186

Kim (2010) sử dụng dữ liệu bảng động không cân bằng từ 16 quốc gia thuộc

OECD cho thấy sự phát triển của quỹ hưu trí tự nguyện có ảnh hưởng tích cực có ý

nghĩa đối với các khoản đầu tư dài hạn vào các hoạt động sáng tạo cũng như cho sự

phát triển của thị trường vốn thông qua các điều kiện tiên quyết về quy mô và thể

chế áp dụng đối với quỹ hưu trí tự nguyện. Các kết quả cho thấy sự tăng trưởng của

quỹ hưu trí tự nguyện có thể làm cho thị trường vốn (thêm) biến động theo thời

gian, kích thích sự phát triển của cả thị trường vốn và nền kinh tế trong dài hạn.

Meng và Pfau (2010) trong nghiên cứu đang còn thảo luận đã sử dụng ước

lượng biased-corrected Squared Variable Dummy (LSDVC) cho dữ liệu bảng động

không cân bằng từ 32 quốc gia, đồng thời cũng sử dụng cả GMM dạng sai phân để

làm ước lượng ban đầu, qua đó đều cho thấy tác động đáng kể của các quỹ hưu trí

tự nguyện đến sự phát triển TTCK cả về chiều sâu và tính thanh khoản, tuy nhiên

tác động này là khác nhau tùy theo mức độ phát triển tài chính của một quốc gia.

Đối với các nước có sự phát triển tài chính thấp, quỹ hưu trí tự nguyện không cho

thấy một tác động đáng kể, các hành vi đầu tư và phân bổ tài sản của quỹ hưu trí tự

nguyện cũng khác biệt với các nước có sự phát triển tài chính cao. Kết quả này ủng

hộ nghiên cứu của Vittas (2000) khi cho thấy rằng các quốc gia có mức độ phát

triển tài chính thấp phải hành động nhiều hơn nữa để tạo điều kiện cho các quỹ hưu

trí tự nguyện tác động tích cực phát triển thị trường vốn. Trong đó, cần chú ý đến

môi trường tài chính vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò và hoạt động của các

quỹ hưu trí tự nguyện, bao gồm (i) các quy định đối với quỹ hưu trí, (ii) tính hiệu

quả của thị trường, (iii) tính minh bạch, (iv) khuôn khổ pháp lý, (v) hoạt động thị

trường và (vi) điều kiện kinh tế vĩ mô và tài chính.

Liang và Bing (2010) sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ năm 1970 đến 2008

để tiến hành phân tích thực nghiệm mối quan hệ Granger - nhân quả giữa phát triển

thị trường tài chính và quản lý của quỹ hưu trí tự nguyện tại Vương quốc Anh. Các

kết quả thử nghiệm cho thấy rằng sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện có tác

động tích cực đến độ sâu của sự phát triển thị trường tài chính. Hơn nữa, các kiểm

định co-integration cho thấy rằng có một mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa tăng

187

trưởng quỹ hưu trí tự nguyện và sự phát triển thị trường tài chính và chúng đều

mang lại những tác động tích cực cho nhau.

Rocholl và Niggemann (2010) nhấn mạnh thực tế rằng cấu trúc của hệ thống

hưu trí là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển của thị trường vốn thông qua

việc sử dụng GLS ước lượng trên bộ dữ liệu của 87 cải cách về tài trợ quỹ hưu trí

hưu trí ở 57 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến 2007. Theo đó,

những cải cách về tài trợ (chuyển đổi từ cơ chế PAYG truyền thống sang hệ thống

hưu trí được tài trợ) đã dẫn đến thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu công ty

lớn hơn so với thời điểm trước khi những cải cách này được khởi xướng, đặc biệt ở

các quốc gia mới nổi trong khi các nước OECD chỉ có thị trường trái phiếu doanh

nghiệp mới chịu tác động này.

Nghiên cứu của Raisa (2012) sử dụng EGLS ước lượng cho dữ liệu bảng

động từ 15 quốc gia thuộc EU trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2011 để đánh giá

mối quan hệ giữa tỷ lệ quy mô vốn hóa TTCK so với GDP (đại diện cho sự phát

triển TTCK) và tỷ lệ tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện so với GDP. Kết quả cho

thấy một mối quan hệ tích cực giữa sự tăng trưởng của quỹ hưu trí tự nguyện và

phát triển thị trường vốn tại mức ý nghĩa 10%, đồng thời thừa nhận các quốc gia có

thu nhập cao hơn cũng có xu hướng có thị trường vốn hoạt động sâu hơn và tốt hơn.

Nghiên cứu của Hu (2012) sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số cho dữ liệu

bảng (PECM) cho 10 nền kinh tế thuộc khu vực Châu Á và Thái Bình Dương trong

giai đoạn từ năm 2001 đến 2010 cho thấy sự tăng trưởng tài sản hưu trí có những

tác động tích cực đến phát triển tài chính, ví dụ như lãi suất thấp hơn và mức vốn

hóa TTCK cao hơn. Do đó, các Chính phủ của các nền kinh tế ở khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương nên tiếp tục cải cách hưu trí của mình hướng tới việc tạo ra các

nguồn tài chính trang trải cho các nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai thông qua

việc thiết lập các chương trình hưu trí tự nguyện.

Sun và Hu (2014) kiểm định các giả thuyết khác nhau bằng cách mô phỏng

các tác động của quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển tài chính sử dụng dữ liệu

chéo, dữ liệu bảng và dữ liệu chuỗi thời gian với tổng cộng 55 quốc gia và vùng

lãnh thổ trong mô hình hồi quy. Kết quả cho thấy hệ thống hưu trí và giá trị của nó

188

có thể giải thích sự khác biệt giữa các quốc gia liên quan đến phát triển tài chính, cụ

thể hơn, sự khác biệt trong TTCK. Đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét nguồn gốc

pháp lý, các khoản quyên trợ và các hệ thống hưu trí pháp lý tại cùng một thời gian

để phân tích ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển tài chính. Tiếp theo, các mô

hình hồi quy dữ liệu bảng điều tra sự phát triển tài chính theo các mô hình hưu trí

khác nhau cho thấy quy mô của các quỹ hưu trí tự nguyện biểu thị một sự gia tăng

lớn hơn trong sự phát triển của thị trường tài chính ở các quốc gia không theo hệ

thống thông luật (i.e. không theo cách tổ chức pháp lý dành vị trí ưu tiên cho các

tiền án lệ) với hệ thống tài chính và kinh tế kém phát triển. Nghiên cứu cũng đã sử

dụng đồng liên kết (co-integration) và VAR để phân tích trường hợp Chile với dữ

liệu chuỗi thời gian từ năm 1981 đến 2009. Kết quả cũng xác nhận tác động tích cực

của các quỹ hưu trí tự nguyện đến sự phát triển tài chính, một hệ thống hưu trí được

tài trợ cũng có lợi cho sự tích tụ của các quỹ hưu trí tự nguyện, kích thích thị trường

tài chính và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.

189

PHỤ LỤC 4

Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước

Trong đó, Giang Thanh Long (2004) sử dụng các mô hình thống kê của ILO

và chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit pension debt - IPD) của hệ thống

là rất cao so với GDP của năm 2000 - năm cơ sở được dùng để dự báo. Xét về mặt

xã hội, điều này hàm ý việc gánh nặng nợ sẽ do các thế hệ hiện tại và tương lai chi

trả nếu Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng xác

định trước (DB). Chính vì thế, hệ thống hưu trí Việt Nam không những đối mặt với

các bất ổn về mặt tài chính, mà còn dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ. Do

đó, Giang Thanh Long (2004) và Nguyễn Thị Lê Thu (2014) cho rằng hệ thống hưu

trí Việt Nam cần phải được cải cách, cụ thể là chuyển sang một hệ thống tài khoản

cá nhân một phần với mức hưởng xác định dựa trên mức đóng góp (partially -

funded defined - contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng về tác động

kinh tế và xã hội để từ đó có thể tránh được cả sự bất ổn về mặt tài chính của hệ

thống hưu trí và sự bất công bằng giữa các thế hệ nhằm bảo đảm bền vững về mặt

tài chính của hệ thống hưu trí trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu quả

động.

Cùng quan điểm với Giang Thanh Long (2004), Điều Bá Dược (2013),

Nguyễn Thị Lê Thu (2014), Lưu Hải Vân (2014) và TTBD (2014) thừa nhận hệ

thống hưu trí PAYG với mức hưởng xác định trong điều kiện dân số già hóa và tỷ lệ

tham gia hệ thống chưa cao cũng có nghĩa là các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai sẽ

phải chịu gánh nặng lớn hơn mới có thể trang trải được chi phí cho hệ thống. Gánh

nặng lớn hơn này có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ

đóng góp tăng lên liên tục, độ tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nguy cơ vỡ quỹ BHXH

khiến quyền lợi hưu trí trong tương lai của lực lượng lao động hiện tại và tương lai

không được bảo đảm. Sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt Nam

chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó bao gồm (i) tỷ lệ phụ thuộc dân số của hệ

thống đang có xu hướng tăng nhanh; (ii) tỷ lệ đóng góp hiện tại thấp hơn so với tỷ

190

lệ đóng góp bền vững - hay còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG nên quỹ có thể bị cạn

kiệt; (iii) tỷ lệ tham gia có xu hướng giảm xuống do sự thu hẹp của khu vực Nhà

nước (đặc biệt là các Doanh nghiệp Nhà nước), sự dịch chuyển của các đối tượng

lao động sắp xếp lại từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không

đăng ký tham gia vào hệ thống BHXH và tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn

quá thấp, mức hưởng được chỉ số hóa theo mức lương tối thiểu vẫn còn lớn, gắn

liền với thời gian hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi thọ có xu

hướng tăng lên. Do vậy, Việt Nam cần nhanh chóng có những chính sách phù hợp

với những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm chủ động đối phó với những thách thức

của hệ thống hưu trí trong dài hạn.

Khuất Thị Kiều Vân (2013) phân tích vai trò của quỹ hưu trí đối với TTCK

và hệ thống hưu trí đa trụ cột và ghi nhận rằng các quỹ hưu trí đã phát triển rất

mạnh mẽ trong những năm gần đây ở nhiều nước, cả về quy mô so với GDP và so

với hệ thống ngân hàng. Do các khoản đóng góp vào Quỹ thường không được phép

rút ra sớm, nên Quỹ hưu trí luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các

tài sản tài chính, kể cả những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Thông

thường, tài sản của các Quỹ hưu trí được dùng để đầu tư vào cổ phiếu, TPCP, bất

động sản, tài sản nước ngoài, các công cụ trên thị trường tiền tệ và các khoản tiền

gửi. Xu hướng hiện nay cho thấy, hầu hết các nước đều tiến hành cải cách hệ thống

hưu trí từ chỗ dựa vào một trụ cột thành hệ thống đa trụ cột. Lý do là vì việc dựa

vào duy nhất một trụ cột có những hạn chế nhất định. Hệ thống đa trụ cột giúp khắc

phục những bất cập của hệ thống an sinh xã hội dựa trên một trụ cột là quỹ hưu trí

bắt buộc do Nhà nước quản lý. Tuy nhiên, nếu hệ thống an sinh xã hội chỉ dựa trên

trụ cột là các quỹ hưu trí bổ sung, quỹ hưu trí tự nguyện cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro,

đặc biệt khi chúng làm mất đi chức năng bảo hiểm, gây phân hóa xã hội, khoảng

cách giàu nghèo và không bảo đảm được thu nhập sau khi nghỉ hưu khi phụ thuộc

vào lợi nhuận đầu tư và hiệu quả đầu tư của các công ty quản lý quỹ.

Bên cạnh đó, Chí Tín (2014) cũng cho thấy hệ thống bảo hiểm hưu trí đang

phát triển theo kiểu một ngôi nhà bị rỗng tầng. Hệ thống bảo hiểm hưu trí phát triển

toàn diện giống như một ngôi nhà có 3 tầng, bao gồm (i) bảo hiểm hưu trí cơ bản

191

giống như tầng 1 của ngôi nhà, được Nhà nước bảo hộ cả về ngân sách lẫn chính

sách với vai trò nền tảng, bảo đảm mức thu nhập tối thiểu cho người lao động khi

đến tuổi nghỉ hưu; (ii) bảo hiểm hưu trí bổ sung giống như tầng 2, với vai trò hỗ trợ

thêm cho người nghỉ hưu và cũng nằm trong chính sách an sinh xã hội do Nhà nước

quản lý và điều tiết và (iii) bảo hiểm hưu trí tự nguyện giống như tầng 3, với vai trò

lấp nốt những phần mà hai tầng hưu trí trước chưa phủ hết. Ở Việt Nam trong một

thời gian dài chỉ có 1 tầng bảo hiểm hưu trí cơ bản. Mãi cho đến cuối năm 2013,

Thông tư số 115/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và

quỹ hưu trí tự nguyện bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên, hệ thống bảo hiểm hưu trí

Việt Nam vẫn còn tình trạng trống rỗng khoảng giữa, do đó tiềm ẩn sự thiếu vững

vàng trong kết cấu tổng thể của toàn bộ hệ thống bảo hiểm hưu trí.

Trần Phương Thảo và Nguyễn Anh Tuấn (2014) thừa nhận hệ thống hưu

trí là bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội tại bất kỳ quốc gia nào trên thế

giới. Xu hướng già hóa dân số diễn ra nhanh chóng cộng với những thay đổi về mặt

kinh tế xã hội lao động đang đặt ra những thách thức về tính đầy đủ (Adequacy) và

đặc biệt là tính bền vững (Sustainability) cho hệ thông hưu trí hầu hết các quốc gia.

Hưu trí là vấn đề xã hội không mới nhưng đã không nhận được sự quan tâm đúng

mức của Chính phủ và công chúng cho đến thời gian gần đây khi các tài sản hưu trí

bị ảnh hưởng nặng nề do tác động từ các cuộc khủng hoảng tài chính. Nếu không có

những cải cách kịp thời, các thách thức hệ thống hưu trí sẽ không chỉ còn là vấn đề

bảo đảm về tài chính mà có thể dẫn đến nguy cơ mất ổn định đời sống kinh tế - xã

hội. Nhận thức được các vấn đề phải đối mặt, nhiều quốc gia đã tiến hành cải cách

hệ thống hưu trí với mục tiêu xây dựng hệ thống hưu trí có tính ổn định và bền vững

hơn trong dài hạn. Mặc dù các chính sách cải cách tiến hành rất đa dạng, phụ thuộc

nhiều vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể mỗi quốc gia, xu hướng cải cách vẫn

mang nhiều nét tương đồng. Theo đó, hệ thống hưu trí thông thường được xây dựng

gồm ba tầng (phúc lợi xã hội, hưu trí bắt buộc, hưu trí tự nguyện) nhằm bảo đảm

diện bao phủ rộng và cung cấp sản phẩm hưu trí linh hoạt, bảo đảm nhu cầu và

quyền lợi cho người cao tuổi. Cụ thể (i) về hệ thống, các chương trình hưu trí bắt

buộc chuyển dịch dần từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân, các chương trình

192

hưu trí tự nguyện được xây dựng hoặc chú ý phát triển hơn; (ii) về tính chất, các

chương trình hưu trí có xu hướng chuyển đổi từ phương thức DB định trước sang

DC. Đồng thời, xu hướng hệ thống hưu trí cho phép sự tham gia của nhiều đơn vị

trung gian như như đơn vị giám sát, đơn vị quản lý tài sản, tổ chức đầu tư (ngân

hàng, công ty bảo hiểm, CTCK, tổ chức tín dụng…), đơn vị quản trị chương trình

hưu trí cũng ngày càng trở nên phổ biến.

Lương Xuân Trường (2014) cho rằng bảo hiểm hưu trí tự nguyện đóng vai

trò quan trọng trong hoạch định kế hoạch tài chính hưu trí. Theo đó, việc chuẩn bị

tài chính cho giai đoạn nghỉ hưu cần được thực hiện càng sớm càng tốt, và bảo hiểm

hưu trí tự nguyện là một trong những công cụ hữu hiệu, thiết thực để mỗi người

chuẩn bị nguồn tài chính cho tuổi nghỉ hưu.

Bùi Cẩm Hường (2014) phân tích sự khác biệt giữa hưu trí tự nguyện và hưu

trí bổ sung, đồng thời đánh giá nỗ lực cải cách hệ thống hưu trí Việt Nam của Chính

phủ đã bước đầu ghi nhận một số bước tiến đáng kể với sự xuất hiện thêm các sản

phẩm bảo hiểm hưu trí mới, khuôn khổ pháp lý đã và đang được hoàn thiện, người

dân và doanh nghiệp được khuyến khích tham gia các đề án bảo hiểm hưu trí. Vai

trò của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội, Bộ Tài chính là rất lớn

trong việc thiết kế chương trình cải cách tổng thể, hoạch định chính sách, tạo hành

lang pháp lý và đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhận thức cộng đồng về việc

tham gia các chương trình hưu trí. Quá trình này sẽ còn rất nhiều khó khăn và thách

thức trong thời gian tới, cần phải có sự góp sức của toàn bộ xã hội, đặc biệt là từ

phía người lao động, người sử dụng lao động và cả các bên trung gian cung cấp dịch

vụ vận hành hệ thống.

Thùy Dương (2017) nhìn nhận việc phát triển quỹ hưu trí tại Việt Nam cả về

quy mô cũng như nguồn vốn mà loại hình quỹ này đang đầu tư vào TTCK tại các

quốc gia là xu thế tất yếu của sự phát triển. Thị trường vốn tại Việt Nam đã và đang

phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây. Tuy tăng trưởng mạnh về quy

mô, nhưng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư tổ chức có vốn dài hạn còn rất

khiêm tốn. Với thị trường trái phiếu, vẫn chủ yếu là các tổ chức tín dụng nắm giữ

dư nợ TPCP. Sự tham gia của các quỹ đầu tư, trong đó có các quỹ hưu trí tự nguyện

193

còn rất hạn chế. Với cơ cấu cơ sở nhà đầu tư như hiện nay, thị trường trái phiếu và

cổ phiếu còn rất thiếu các nguồn vốn đầu tư dài hạn, đặc biệt là nguồn vốn để đầu tư

phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội. Vấn đề quan trọng hiện nay là cần thực

hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư, đặc biệt là

nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn. Từ kinh nghiệm phát triển thành công hệ

thống quỹ hưu trí tự nguyện trên thế giới cho thấy, trong giai đoạn ban đầu, các

nước đều có cơ chế khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia thông

qua các chính sách ưu đãi về phí, thuế thu nhập đối với khoản đóng góp vào quỹ

hưu trí tự nguyện, cũng như khoản tiền mà họ nhận được từ quỹ. Cùng với đó là các

cơ chế bảo vệ bảo đảm tính an toàn cao cho đồng vốn của doanh nghiệp và người

lao động góp vào quỹ, vì đây là loại hình quỹ hoạt động lâu dài gắn chặt với người

lao động trong suốt độ tuổi lao động cho đến khi về hưu và còn sống. Đồng thời,

phát huy vai trò tổ chức trung gian tài chính của quỹ hưu trí là trong việc huy động

nguồn vốn dài hạn từ người dân để đầu tư trên thị trường tài chính, góp phần quan

trọng vào phát triển thị trường này tại Việt Nam.

194

PHỤ LỤC 5

Bộ dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu về phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên

TTCK: trường hợp các nền kinh tế APEC

t

i

MK

INF

LTR

GDPP

EF

OADR

PFA

1

2000 AUS

89,84

4,48

6,31

21665,12

77,1

18,49

61,75

2

2001 AUS

99,12

4,38

5,62

19495,15

77,4

18,59

62,5

3

2002 AUS

96,42

3

5,84

20059,45

77,3

18,7

58,6

4

2005 AUS

116,01

2,67

5,34

33982,95

79

19,19

80,3

5

2008 AUS

64,85

4,35

5,82

49628,12

82,2

19,45

76,03

6

2011 AUS

86,21

3,3

4,88

62216,55

82,5

20,41

83,56

7

2012 AUS

90,2

1,76

3,38

67646,1

83,1

20,92

93,45

8

2013 AUS

87,34

2,45

3,7

67652,68

82,6

21,51

102,31

9

2014 AUS

88,59

2,49

3,66

61995,83

82,03

22,12

109,52

10

2015 AUS

88,65

1,51

2,71

56310,96

81,39

22,71

118,69

11

2000 CAN

103,85

2,72

5,93

24124,17

70,5

18,38

54,29

12

2001 CAN

83,55

2,53

5,48

23691,59

71,2

18,47

51,28

13

2002 CAN

117,25

2,26

5,29

24167,8

74,6

18,56

47,03

14

2003 CAN

102

2,76

4,81

28172,15

74,8

18,65

50,31

15

2004 CAN

115,08

1,86

4,58

31979,87

75,3

18,77

52,4

16

2008 CAN

66,72

2,37

3,61

46596,34

80,2

19,6

50,12

17

2011 CAN

106,94

2,91

2,78

52083,83

80,8

20,91

61,46

18

2012 CAN

112,92

1,52

1,87

52495,29

79,9

21,52

65,21

19

2013 CAN

115,04

0,94

2,26

52266,18

79,4

22,22

70,7

20

2014 CAN

117,47

1,91

2,23

50185,48

80,17

22,98

76,29

21

2015 CAN

102,76

1,13

1,52

43248,53

79,06

23,77

83,44

22

2004 CHL

116,19

1,05

6,31

6323,76

76,9

12,46

55,97

23

2005 CHL

109,72

3,05

6,05

7728,61

77,8

12,67

55,62

24

2006 CHL

112,77

3,39

6,16

9500,84

78

12,91

57,53

25

2008 CHL

73,38

8,72

7,1

10791,02

78,6

13,49

49,82

26

2011 CHL

107,76

3,34

6,03

14582,17

77,4

14,46

58,01

27

2012 CHL

118,13

3,01

5,47

15253,33

78,3

14,79

60,1

28

2013 CHL

95,69

1,79

5,35

15764,76

79

15,15

62,3

29

2014 CHL

90,15

4,4

4,69

14566,15

78,73

15,54

68,27

30

2015 CHL

79,05

4,35

4,42

13416,23

78,46

15,98

69,64

31

2004 CHN

22,9

3,88

4,4

1508,67

52,5

10,25

0,31

32

2005 CHN

17,58

1,82

3,85

1753,42

53,7

10,35

0,37

33

2006 CHN

41,62

1,46

3,11

2099,23

53,6

10,46

0,42

34

2008 CHN

38,68

5,86

3,91

3471,25

53,1

10,71

0,58

195

35

2009 CHN

3,36

-0,7

69,93

3838,43

53,2

10,87

0,73

36

2010 CHN

3,5

3,31

66,02

4560,51

51

11,09

0,71

37

2011 CHN

3,86

5,41

45,06

5633,8

52

11,36

0,76

38

2012 CHN

3,49

2,62

43,19

6337,88

51,2

11,66

0,9

39

2013 CHN

3,84

2,63

41,11

7077,77

51,9

12,02

1,02

40

2014 CHN

4,13

2

57,29

7683,5

52,46

12,47

1,2

41

2015 CHN

3,36

1,44

74,38

8027,68

52,74

13,05

1,39

42

2008

IDN

12,77

9,78

19,36

2167,86

53,2

7,48

1,6

43

2009

IDN

11,12

4,81

39,83

2262,72

53,4

7,49

1,8

44

2010

IDN

8,42

5,13

47,73

3125,22

55,5

7,46

1,83

45

2011

IDN

7,37

5,36

43,69

3647,63

56

7,51

1,69

46

2012

IDN

5,81

4,28

46,65

3700,52

56,4

7,55

1,78

47

2013

IDN

7,04

6,41

37,99

3631,67

56,9

7,59

1,65

48

2014

IDN

8,14

6,39

47,4

3499,59

58,5

7,64

1,76

3346,49

58,13

49

2015

IDN

8,24

6,36

40,99

7,71

1,73

64,6

-0,65

50

2000

JPN

1,74

38532,04

70,7

25,19

18,17

51

2001

JPN

1,32

-0,8

52,62

33846,47

70,9

26,09

18,19

52

2002

JPN

1,26

-1,31

50,29

32289,35

66,7

26,99

25,04

53

2003

JPN

1

0,17

66,43

34808,39

67,6

27,93

27,46

54

2004

JPN

1,49

-0,01

73,89

37688,72

64,3

28,9

24,93

55

2005

JPN

1,35

-0,27

96,16

37217,65

67,3

29,91

27,13

56

1,74

0,24

2006

JPN

101,85

35433,99

73,3

30,93

26,16

57

2007

JPN

1,67

0,06

95,92

35275,23

72,7

32,01

25,64

58

2008

JPN

1,47

1,37

61,85

39339,3

73

33,19

23,11

59

2009

JPN

1,33

-1,35

63,2

40855,18

72,8

34,5

26,69

60

2010

JPN

1,15

-0,72

67,15

44507,66

72,9

35,98

25,31

61

2011

JPN

1,1

-0,28

54,01

48173,93

72,8

37,33

25,16

62

2012

JPN

0,84

-0,03

56,08

48629,2

71,6

38,81

26,36

63

2013

JPN

0,69

0,36

88,12

40488,24

71,8

40,37

29,2

64

2014

JPN

0,52

2,75

90,29

41,9

30,2

38139,42

72,37

65

0,35

0,79

43,32

32,03

2015

JPN

111,68

34523,7

73,33

66

2002 KOR

6,59

2,76

41,17

12788,58

69,5

11,3

1,46

67

2003 KOR

5,05

3,51

48,41

14219,19

68,3

11,8

1,45

68

2004 KOR

4,73

3,59

56

15921,94

67,8

12,27

1,67

69

2005 KOR

4,95

2,75

79,94

18657,52

66,4

12,72

1,65

70

2006 KOR

5,15

2,24

82,47

20917,03

67,5

13,25

2,69

71

2007 KOR

5,35

2,53

99,99

23101,51

67,8

13,78

2,63

72

2008 KOR

5,57

4,67

46,98

20474,89

68,6

14,3

2,42

73

2009 KOR

5,17

2,76

92,53

18338,71

68,1

14,79

3,6

196

74

2010 KOR

4,77

2,96

99,76

22151,21

69,9

15,26

3,73

75

2011 KOR

4,2

4

82,84

24155,83

69,8

15,73

3,98

76

2012 KOR

3,45

2,19

96,45

24453,97

69,9

16,23

5,2

77

2013 KOR

3,28

1,31

94,56

25997,88

70,3

16,77

6,25

78

2014 KOR

3,19

1,27

85,93

27989,35

71,2

17,36

7,45

79

2015 KOR

2,31

0,71

89,36

27221,52

71,54

18,01

8,76

80

2002 MEX

5,03

14,02

10,13

7023,79

63

8,37

4,51

81

2003 MEX

8,98

4,55

17,18

6673,17

65,3

8,42

5,23

82

2004 MEX

9,54

4,69

22,25

7115,12

66

8,49

5,51

83

2005 MEX

9,42

3,99

27,6

7893,96

65,2

8,58

8,83

84

2006 MEX

8,39

3,63

36,09

8666,34

64,7

8,68

10

85

2007 MEX

7,79

3,97

38,12

9222,88

66

8,8

9,88

86

2008 MEX

8,31

5,12

21,25

9578,57

66,2

8,92

10,03

87

2009 MEX

7,96

5,3

39,34

7661,21

65,8

9,05

11,66

88

2010 MEX

6,9

4,16

43,22

8861,49

68,3

9,16

12,55

89

2011 MEX

6,67

3,41

34,9

9730,28

67,8

9,26

12,75

90

2012 MEX

5,6

4,11

44,25

9720,56

65,3

9,36

14,06

91

2013 MEX

5,68

3,81

41,68

67

10198,65

9,47

14,74

92

2014 MEX

6,01

4,02

36,99

10353,45

66,77

9,61

15,55

93

2015 MEX

5,93

2,72

35,17

9005,02

66,43

9,81

15,61

94

2008 MYS

4,1

5,44

81,99

8486,6

63,9

7,16

44,95

95

2001 NZL

6,39

2,51

33,08

13882,86

81,1

17,94

13,76

96

2002 NZL

6,53

2,66

32,66

16874,31

80,7

17,95

11,85

97

2003 NZL

5,87

1,12

37,45

21913,71

81,1

17,97

10,28

98

2004 NZL

6,07

2,29

42,09

25420,23

81,5

18,02

10,77

99

2005 NZL

5,88

3,04

35,38

27750,9

82,3

18,09

10,89

100

2006 NZL

5,78

3,37

40,16

26670,86

82

18,3

11,13

101

2007 NZL

6,27

2,38

34,58

32509,73

81,4

18,52

10,31

102

2008 NZL

6,08

3,96

18,16

31287,61

80,7

18,78

11,66

103

2009 NZL

5,46

2,12

29,26

28200,94

82

19,12

10,27

104

2012 NZL

3,69

0,88

29,93

40066,56

82,1

20,65

16,28

105

2013 NZL

4,09

1,3

34,59

42928,1

81,4

21,37

17,93

106

2014 NZL

4,3

0,91

37,18

44380,43

81,19

22,13

19,87

107

2015 NZL

3,42

0,23

42,79

37807,97

82,07

22,89

22,22

108

2010 PER

5,55

1,53

70,07

5021,25

67,6

9,62

20,58

109

2012 PER

4,5

3,65

53,28

6386,37

68,7

9,9

19,06

110

2013 PER

4,97

2,82

40,26

6580,98

68,2

10,06

18,66

111

2014 PER

5,57

3,23

39,22

6490,18

67,45

10,25

19,91

112

2015 PER

6,26

3,56

29,91

6027,13

67,71

10,46

20,28

197

2001 PHL

27,86

15,68

5,35

113

958,01

60,9

5,6

4,19

2002 PHL

22,75

13,21

2,72

114

1000,78

60,7

5,64

3,87

2003 PHL

27,62

12,02

2,29

115

1011,29

61,3

5,68

3,76

2004 PHL

31,3

12,97

4,83

116

1080,09

59,1

5,72

3,5

2005 PHL

38,61

11,88

6,52

117

1196,54

54,7

5,75

3,52

2006 PHL

55,52

8,55

5,49

118

1395,21

56,3

5,95

3,64

2007 PHL

68,86

7,15

2,9

119

1678,85

56

6,13

3,59

2008 PHL

29,87

8,3

8,26

120

1929,13

56

6,3

3,02

2009 PHL

51,3

7,99

4,22

121

1836,87

56,8

6,48

3,4

2010 PHL

78,82

7,25

3,79

122

2145,24

56,3

6,67

3,31

2011 PHL

73,64

6,42

4,65

123

2371,85

56,2

6,76

3,32

2012 PHL

91,69

5,31

3,17

124

2604,66

57,1

6,87

3,44

2013 PHL

79,95

3,78

3

125

2786,01

58,2

6,98

3,33

2873,09

60,07

2014 PHL

91,93

4,28

4,1

126

7,1

3,51

2009 RUS

62,3

11,67

9,87

127

8562,81

50,8

18,33

1,86

2010 RUS

62,38

7,83

6,84

128

10674,99

50,3

18,17

1,92

2011 RUS

38,52

8,06

8,43

129

14227,72

50,5

18,24

2,12

2012 RUS

38,32

8,15

5,08

130

15042,19

50,5

18,38

2,46

2013 RUS

34,53

7,33

6,78

131

15552,05

51,1

18,55

5,4

2014 RUS

18,8

8,46

7,81

132

14051,6

51,9

18,79

5,12

133

19,13

5,96

2015 RUS

29,54

15,53

10,89

9092,58

52,09

3,51

134

87,4

10,69

2002 SGN

110,38

-0,39

22016,83

59,41

2005 THA

65,44

4,97

4,54

135

2874,39

62,5

10,99

4,87

2006 THA

63,2

5,37

4,64

136

3351,12

63,3

11,25

4,98

2007 THA

74,97

4,58

2,24

137

3962,75

63,5

11,5

5,18

2008 THA

35,39

4,46

5,47

138

4384,78

62,3

11,76

5,13

2009 THA

62,85

3,93

-0,85

139

4231,14

63

12,04

5,69

2010 THA

81,46

3,53

3,27

140

5111,91

64,1

12,38

5,67

2011 THA

72,45

3,7

3,81

141

5539,49

64,7

12,72

5,84

2012 THA

98,1

3,55

3,02

142

5915,22

64,9

13,1

6,12

2013 THA

84,4

3,82

2,18

143

6225,05

64,1

13,52

6,29

2014 THA

106,46

3,51

1,89

144

5969,94

63,35

14,02

6,89

2015 THA

88,27

2,75

-0,9

145

5814,77

62,43

14,58

6,24

2002 USA

100,7

4,61

1,59

146

38166,04

78,4

18,39

62,47

2008 USA

78,75

3,67

3,84

147

48401,43

81

18,74

59,56

2009 USA

104,57

-0,36

3,26

148

47001,56

80,7

19

70,04

2010 USA

115,5

3,21

1,64

149

48374,09

78

19,35

74,65

2011 USA

100,79

2,79

3,16

150

49781,8

77,8

19,79

71,84

2012 USA

115,56

1,8

2,07

151

51433,05

76,3

20,33

74,7

198

PHỤ LỤC 6

Các bước thực hiện phân tích định lượng bằng Stata 11 trong nghiên cứu về

phát triển quỹ hưu trí tự nguyện trên TTCK: trường hợp các nền kinh tế

APEC

egen economy = group( i)

list i economy in 1/10, sepby ( i)

xtset economy

xtset economy t,yearly

Bước 1. Thống kê mô tả các biến số

summarize mk inf ltr gdpp ef oadr pfa

Bước 2. Ma trận tương quan giữa các biến số

pwcorr mk inf ltr gdpp ef oadr pfa

Bước 3. Kiểm định sự tương quan giữa các biến số

vif

199

Bước 4. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp Pooled OLS

reg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa

Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi

hettest

P-value >5%: Chấp nhận (i.e. không có đủ cơ sở để bác bỏ ) Không có hiện

tượng phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy

Kiểm định Wooldridge hiện tượng tự tương quan

xtserial mk inf ltr gdpp ef oadr pfa

200

P-value >5%, chấp nhận , không có sự tự tương quan trong mô hình hồi quy

Bước 5. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp xem xét các tác động cố

định (FEM)

xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,fe

F test that all u_i=0: F(15, 129) = 11.76 Prob > F = 0.0000

Giả thiết bị bác bỏ, chứng tỏ có ảnh hưởng cố định trong mô hình ước lượng.

Kiểm định Modified Wald trong FEM

Modified Wald test for groupwise heteroskedasticity in fixed effect regression

model

xttest3

201

P-value <5%, Giả thiết bị bác bỏ, chứng tỏ có hiện tượng phương sai thay đổi

trong mô hình ước lượng ban đầu, chạy vce(cluster economy) dành cho nhỏ,

lớn

xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,fe vce(cluster economy)

Bước 6. Ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp xem xét các tác động

ngẫu nhiên (REM)

xtreg mk inf ltr gdpp ef oadr pfa,re

202

Kiểm định ảnh hưởng ngẫu nhiên

xttest0

P-value <5%: Giả thiết bị bác bỏ chứng tỏ có ảnh hưởng ngẫu nhiên trong mô

hình ước lượng  REM là mô hình phù hợp hơn OLS

Kiểm định Hausman

estimates store fixed

estimates store random

hausman fixed random

203

: Sự khác biệt ảnh hưởng của các biến không mang tính hệ thống

P-value > 5%, không đủ cơ sở bác bỏ , REM hợp lý hơn FEM  nên sử dụng

REM.

204

PHỤ LỤC 7

Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

giai đoạn 2000 - 2015

Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, từ đầu những

năm thập niên 90, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước nghiên

cứu đề án xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam. Trên cơ sở đề án của các Bộ,

Ngành, ngày 28//11/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/1998/NĐ-CP về

việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (State Securities Commission of VN

- SSC) và giao cho đơn vị này chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời

TTCK. Ngày 11/07/1998, với Nghị định số 48/CP về Chứng khoán và TTCK,

TTCK Việt Nam chính thức được khai sinh. Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ cũng

ký Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán

TP.HCM. Hai năm sau, vào ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên đã chính

thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, đánh dấu một

bước ngoặt lịch sử của TTCK Việt Nam (HOSE, 2015a). Ngày 07/07/2006, Trung

tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (Viet Nam Securities Depository - VSD) chính

thức khai trương hoạt động, hỗ trợ cho hoạt động của cả TTCK Việt Nam (VSD,

2016).

TTCK Việt Nam được quản lý, tổ chức và điều hành thông qua 02 Sở giao

dịch chứng khoán TP.HCM (HoChiMinh Stock Exchange - HOSE)6 và Sở giao

dịch chứng khoán Hà Nội (HaNoi Stock Exchange - HNX)7. Hai Sở giao dịch

chứng khoán đều hoạt động dưới mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

khoán TP.HCM (HOSE) theo Quyết định 599/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (HOSE, 2015a).

7 Ngày 24/06/2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết định số

01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch chứng

khoán Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và khai trương hoạt động vào ngày

08/03/2005) (HNX, 2016a).

viên, thuộc quyền quản lý của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, trực thuộc Bộ Tài 6 Ngày 11/05/2007, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM chuyển đổi thành Sở Giao dịch chứng

205

chính. Hiện nay, việc niêm yết chéo trên cả hai Sở giao dịch là không được phép.

Tuy nhiên, trong tương lai gần, hai Sở giao dịch này được định hướng sáp nhập để

trở thành một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất quản lý và vận hành TTCK Việt

Nam.

Trong đó, HOSE là nơi tập trung các công ty niêm yết có quy mô vốn lớn và

có ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam, là thị trường cổ phiếu có quy mô lớn

nhất, đóng vai trò đại diện cho TTCK Việt Nam với chất lượng của các công ty

niêm yết và quy mô vốn hóa không ngừng gia tăng theo thời gian. Bên cạnh 306 cổ

phiếu, HOSE hiện còn niêm yết và giao dịch 01 chứng chỉ quỹ hoán đổi danh mục

(ETF), 39 trái phiếu công ty và chính quyền địa phương. Có 03 nhóm ngành chiếm

tỷ trọng lớn nhất trên thị trường là (i) Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; (ii) Công

nghiệp chế biến chế tạo; (iii) Sản xuất và phân phối điện (HOSE, 2015b). Còn HNX

là nơi tập trung tổ chức hoạt động đấu giá cổ phần, tổ chức đấu thầu TPCP, huy

động vốn cho NSNN và vận hành 3 thị trường giao dịch thứ cấp, bao gồm (i) thị

trường cổ phiếu niêm yết có quy mô vốn vừa và nhỏ, (ii) thị trường TPCP chuyên

biệt và (iii) thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết

(UPCoM). Hiện nay tại HNX, có 377 mã cổ phiếu và 01 chứng chỉ quỹ hoán đổi

danh mục (ETF) được niêm yết và giao dịch trên thị trường cổ phiếu niêm yết, có

299 mã cổ phiếu đăng ký giao dịch trên thị trường UPCoM. Đối với thị trường

TPCP, hoạt động phát hành TPCP được khởi động từ ngày 19/4/2005 tại HNX và

HOSE, nhưng đến tháng 6/2006 Bộ Tài chính đã quyết định đưa hoạt động đấu thầu

TPCP về tập trung, duy nhất tại HNX. Ngày 24/9/2009, hệ thống TPCP chuyên biệt

chính thức được vận hành trên HNX, đánh dấu giai đoạn hình thành và phát triển thị

trường TPCP. Đến năm 2012, tín phiếu được đưa vào giao dịch tại hoạt đông tại hệ

thống giao dịch thứ cấp TPCP; hệ thống đấu thầu điện tử cũng được HNX đưa vào

vận hành. Hàng hóa giao dịch trên thị trường giao dịch TPCP bao gồm các loại

TPCP, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và

tín phiếu (HNX, 2016b).

Về cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015

 Thị trường cổ phiếu

206

Thị trường cổ phiếu tại Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015 đã trải qua những

thăng trầm nhất định, trong đó, thị trường giao dịch cổ phiếu của các công ty lớn

niêm yết trên HOSE là thị trường cổ phiếu có quy mô lớn nhất, đóng vai trò đại diện

cho TTCK Việt Nam. Mặc dù số lượng công ty niêm yết có tốc độ tăng chậm,

nhưng quy mô thị trường đã tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2015, quy mô vốn

hóa thị trường cổ phiếu đạt hơn 1,2 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 30% so với GDP,

trong đó chủ yếu từ quy mô vốn hóa cổ phần của các công ty lớn niêm yết trên

HOSE (HOSE, 2015b). Như vậy, tuy thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có một lượng

lớn các công ty niêm yết trên các Sở giao dịch chứng khoán nhưng quy mô vốn hóa

thị trường trung bình còn thấp trong giai đoạn 2000 - 2015.

 Về thị trường trái phiếu

Thời gian qua, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPCP nói riêng

đã có những bước tiến mạnh về quy mô và chất lượng, trở thành kênh quan trọng

trong việc huy động vốn cho NSNN. Trong đó, trên thị trường trái phiếu, TPCP8

(trái phiếu và tín phiếu kho bạc, TPCP bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương)

là hàng hóa cơ bản nhất với tỷ trọng lớn nhất, trong khi trái phiếu doanh nghiệp9

chiếm tỷ trọng vô cùng khiêm tốn, phần lớn đến từ các công ty thuộc ngành bất

động sản và sản xuất.

Kể từ sau năm 2013, trong khi thị trường cổ phiếu Việt Nam tăng trưởng

chậm chạp thì thị trường trái phiếu Việt Nam, đặc biệt là thị trường TPCP lại có sự

phát triển mạnh mẽ. Tính đến cuối năm 2015, quy mô vốn hóa thị trường trái phiếu

đạt gần 1 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 25% so với GDP (ADB, 2016). Không những

có sự phát triển nhanh chóng, thị trường trái phiếu Việt Nam cũng ghi nhận sự thay

đổi trong cơ cấu danh mục kỳ hạn của TPCP. Trong đó, kể từ sau năm 2013, trái

phiếu có kỳ hạn từ 3 - 5 năm có xu hướng gia tăng và chiếm tỷ trọng lớn trên thị

trường trái phiếu, tỷ trọng trái phiếu kỳ hạn dài tăng đã góp phần giúp thị trường

ương.

9 Các doanh nghiệp bao gồm cả công ty đại chúng và tư nhân, bao gồm cả các tổ chức tài chính. Trong đó, tổ

chức tài chính bao gồm cả các ngân hàng khu vực tư nhân và khu vực công, và các tổ chức tài chính khác.

8 TPCP bao gồm các nghĩa vụ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, và ngân hàng trung

207

tăng trưởng khá bền vững (ADB, 2016). Trong đó, sản phẩm trên thị trường TPCP

cũng dần được đa dạng, ngoài loại trái phiếu chuẩn đã được phát hành thường

xuyên trên thị trường (trái phiếu được thanh toán lãi định kỳ 1 năm/1 lần, thanh toán

gốc 1 lần khi đến hạn); tính đến năm 2015, thị trường TPCP có thêm 03 sản phẩm

mới là trái phiếu kỳ hạn 20 năm, trái phiếu long - coupon (trái phiếu có kỳ lĩnh lãi

đầu tiên dài hơn kỳ hạn chuẩn) và trái phiếu zero coupon (trái phiếu không thanh

toán lãi định kỳ).

Kể từ sau năm 2013 và với những điểm sáng trong năm 2015, thị trường

TPCP Việt Nam tiếp tục hướng tới sự đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm giao dịch,

tạo cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các chủ chủ thể đầu tư và hỗ trợ nghiệp vụ phòng

ngừa rủi ro. Trong tương lai, khi những yếu tố này được cải thiện, sẽ gia tăng sự

tham gia tích cực của các nhà đầu tư trên thị trường TPCP, đặc biệt đối với quỹ bảo

hiểm và quỹ hưu trí, vốn là hai nhà đầu tư tiềm năng đối với thị trường trái phiếu

(MOF, 2015b).

 Về TTCK phái sinh

Tại Việt Nam, chứng khoán phái sinh được quy định trong Nghị định

42/2015/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành vào ngày 5/5/2015, theo đó chứng

khoán phái sinh và TTCK phái sinh bao gồm hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp

đồng kỳ hạn và các chứng khoán khác theo hướng dẫn của Bộ Tài chính (MOF).

Như vậy, TTCK phái sinh Việt Nam đang trong giai đoạn cuối của quá trình xây

dựng khung pháp lý, hoàn thiện hạ tầng cơ sở vật chất, công nghệ bao gồm hệ thống

giao dịch, thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh, hệ thống giam sát và công bố

thông tin tại các Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán (VSD)

và thành viên thị trường, bảo đảm phù hợp với các sản phẩm phái sinh cơ bản và

chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết (NECIF, 2015) để chính thức đưa TTCK phái sinh

Việt Nam đi vào hoạt động vào ngày 10/8/2017 (SSC, 2017).

Hợp đồng tương lai là sản phẩm chứng khoán phái sinh đầu tiên được niêm

yết và giao dịch trên TTCK phái sinh Việt Nam, cụ thể là Hợp đồng tương lai trên

chỉ số cổ phiếu (VN30 và HNX30) và Hợp đồng tương lai trên TPCP (kỳ hạn 5

năm). Do TTCK phái sinh Việt Nam là thị trường mới, cần hạn chế rủi ro và có

208

bước thử nghiệm nên Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu VN30 được áp dụng

trước, sau đó là Hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu HNX30 và tiếp theo mới là

Hợp đồng tương lai trên trái phiếu (SSC, 2017).

Về cơ sở các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015

 Số lượng tài khoản giao dịch và cơ sở các nhà đầu tư

Số lượng tài khoản giao dịch trên TTCK Việt Nam có sự tăng trưởng đáng

kể. Từ con số 2.007 tài khoản vào năm 2000, tính đến cuối năm 2015, số lượng tài

khoản giao dịch đã đạt 1.569.792 tài khoản (VSD, 2015). Trong đó, số lượng tài

khoản giao dịch của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tại ngày 31/12/2015 theo

quản lý trên hệ thống VSD (2015) cho thấy phần lớn số tài khoản giao dịch hoạt

động của các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam đều là tài khoản của các nhà đầu tư

cá nhân. So với tổng số tài khoản giao dịch hoạt động của nhà đầu tư trên TTCK

tính đến cuối năm 2015 thì số tài khoản giao dịch hoạt động của nhà đầu tư nước

ngoài chiếm tỷ trọng khiêm tốn tại mức 1,13%, số tài khoản giao dịch hoạt động

của nhà đầu tư tổ chức chỉ chiếm tỷ trọng 0,57%. Nhìn chung, nếu so với quy mô

dân số Việt Nam, thì tỷ lệ số lượng tài khoản chứng khoán so với dân số xấp xỉ

1,8%, qua đó cho thấy mức độ hấp dẫn của kênh đầu tư chứng khoán vẫn còn khá

thấp và triển vọng củng cố phát triển cơ sở các nhà đầu tư nhà đầu tư trên TTCK cả

về số lượng lẫn chất lượng vẫn còn rất lớn.

 Về các tổ chức trung gian trên TTCK Việt Nam

Tái cấu trúc TTCK Việt Nam là việc đã được cơ quan quản lý tập trung đẩy

mạnh trong năm 2013 và 2014, theo đó các CTCK, các công ty quản lý quỹ cũng

được điều chỉnh lại theo hướng giảm số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động. Tính

đến hết năm 2015, TTCK Việt Nam có 80 CTCK, 45 công ty quản lý quỹ đang hoạt

động; trong đó các ngân hàng cũng tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ

trên TTCK Việt Nam thông qua các CTCK và các công ty quản lý quỹ thuộc ngân

hàng như CTCK Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS), CTCK Ngân

hàng TMCP Công thương Việt Nam (CTS), CTCK Ngân hàng TMCP Đầu tư và

Phát triển Việt Nam (BSC), CTCK Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn

Việt Nam (AGR), CTCK Ngân hàng TMCP Á Châu (ACBS)… đã được thành lập

209

và đồng hành cùng với sự phát triển của TTCK Việt Nam từ lúc sơ khởi (SSC,

2016a). Các CTCK thuộc các ngân hàng này và các CTCK khác hoạt động trên

TTCK Việt Nam như Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI), Công ty cổ phần

chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt

(VCSC), Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cũng là các CTCK chiếm

lĩnh thị phần hoạt động lớn trên TTCK Việt Nam. Kể cả đối với thị trường trái

phiếu Việt Nam, đặc biệt là TPCP, thành viên tham gia chủ yếu vẫn là ngân hàng và

các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm khả năng thanh khoản và công cụ trong giao

dịch với Ngân hàng Nhà nước; ngoài ra còn các CTCK cũng tham gia nhằm mục

đích đầu tư tài chính.

Như vậy, cơ sở các nhà đầu tư trên thị trường chưa được đa dạng, khối nhà

đầu tư chủ đạo là ngân hàng thương mại vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Do đó, tình trạng

hoạt động của các tổ chức trung gian (CTCK, công ty quản lý quỹ) thuộc ngân hàng

cũng không thoát khỏi ảnh hưởng về uy tín và tiềm lực tài chính, thuận lợi cũng như

khó khăn đến từ hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, nếu hệ

thống ngân hàng thương mại nội địa có biểu hiện hoạt động yếu kém với hàng loạt

rủi ro tác nghiệp sẽ dẫn tới tác động tiêu cực đến hoạt động của các tổ chức trung

gian thuộc ngân hàng thương mại trên TTCK Việt Nam và sự phát triển của TTCK

Việt Nam.

 Hoạt động quỹ đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam

Trong giai đoạn phát triển 2000 - 2015 của TTCK Việt Nam, thế hệ các quỹ

đóng và các quỹ thành viên được thay thế dần bằng hệ thống các quỹ đầu tư dạng

mở (các quỹ đầu tư tương hỗ - mutual funds) hoạt động linh hoạt và minh bạch hơn

và có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn. Các quỹ đầu tư chứng khoán trên TTCK

Việt Nam đang hoạt động hiện nay bao gồm 02 quỹ hoán đổi danh mục đầu tư, 9

quỹ thành viên đang hoạt động, và 15 quỹ mở, ngoài ra còn có 5 quỹ đóng đang

trong tiến trình giải thể (SSC, 2016b). Ngoại trừ VFMVF1 và VFMVF4 đã có thời

gian hoạt động dài trên TTCK Việt Nam, các quỹ mở còn lại đều được cấp phép

hoạt động trong giai đoạn 2013 - 2014. Như vậy, có thể thấy mặc dù phần lớn các

quỹ mở được cấp phép thành lập trong những năm gần đây, nhưng các quỹ mở này

210

hoạt động trên TTCK Việt Nam khá ấn tượng khi quy mô giá trị tài sản ròng có xu

hướng ngày càng tăng. Trong số các quỹ mở đang hoạt động trên TTCK Việt Nam,

các quỹ mở chuyên đầu tư vào cổ phiếu có số lượng áp đảo so với các quỹ mở

chuyên đầu tư vào trái phiếu và quỹ mở cân bằng. Chính vì vậy, việc phân bổ tỷ

trọng tài sản của các hình thức quỹ mở cũng có sự khác biệt và biến động đáng kể

do phụ thuộc vào mục tiêu đầu tư của quỹ.