
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4 (CMCN 4.0) đã tác động và
tạo ra sự thay đổi to lớn đối với đời sống, kinh tế, xã hội, giáo dục của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi ngành giáo dục cần áp dụng
CNTT vào quá trình giáo dục, thay đổi tư duy và cách tiếp cận, phương pháp, phương
tiện dạy và học theo hướng giáo dục 4.0 (chuyển đổi cách thức giáo dục từ truyền thụ
kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh) nhằm thích nghi với
những thay đổi của thực tiễn xã hội.
Nền giáo dục Việt Nam trước thời đại 4.0, đứng trước yêu cầu phải đổi mới
đây được coi là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục. Nghị quyết TW II, khóa VIII
khẳng định: "Đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều
kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh...". Định hướng chung của việc
đổi mới phương pháp dạy học là việc sử dụng đa dạng, hợp lí các phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, chuyển hình
thức dạy học truyền đạt kiến thức sang hình thức giáo viên tổ chức các hoạt động để
học sinh nhận thức độc lập, tích cực.
Những năm gần đây giáo dục Việt Nam đã có những bước phát triển song
còn nhiều hạn chế nhất định, đặc biệt là giáo dục lịch sử. Chất lượng môn Lịch sử
giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế xã hội. Trước tình hình đó, bộ môn Lịch
sử tiếp tục nghiên cứu lí luận và thực tiễn để đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả bài
học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh góp phần đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Cùng với sự phát triển khoa học việc chuyển hóa phương pháp khoa học
thành phương pháp dạy học là một hướng đi mới có nhiều triển vọng. Sơ đồ đã và
đang là phương tiện dạy học tối ưu của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực giáo dục ở Việt
Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng phần lớn
giáo viên mới sử dụng sơ đồ như một phương tiện trực quan nhằm hỗ trợ cho quá trình
giảng dạy chứ chưa sử dụng như một phương pháp dạy học tích cực. Đặc biệt, quá
trình thiết kế và sử dụng sơ đồ chủ yếu theo hướng một chiều, GV là người xây dựng
và sử dụng các loại sơ đồ theo kinh nghiệm của cá nhân, học sinh chỉ là đối tượng tiếp
nhận các dạng mô hình sơ đồ một cách thụ động. Bên cạnh đó, việc sử dụng sơ đồ của
giáo viên trong dạy học chưa theo một nguyên tắc nhất định nên chưa phát huy tối đa
tính tích cực, chủ động nên các kỹ năng thiết kế, đọc hiểu và kỹ năng sử dụng sơ đồ
của học sinh chưa thành thạo trong quá trình học tập ở trường phổ thông.
Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1975 ở trường THPT là nội dung
trọng tâm với nhiều biến cố và sự kiện quan trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
năm 1930; Cách mạng tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (1945); Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc với chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954); Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi
trong niềm vui hân hoan của mùa Xuân năm 1975. Với bốn thời kì lịch sử, lượng kiến
thức dài, nhiều sự kiện học sinh khó học, khó nhớ, đây là thách thức đối với GV và
HS. Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức để giảng dạy phần này, góp phần hạn