BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
BÀNH THỊ HẰNG TÂM
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ
(1862 – 1945)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------
BÀNH THỊ HẰNG TÂM
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ
(1862 – 1945)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ MINH OANH
TS. LÊ HỮU PHƯỚC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và có trích dẫn nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ học vị nào.
Nghiên cứu sinh
Bành Thị Hằng Tâm
LỜI CÁM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận án này, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em và các đồng nghiệp. Với lòng
kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu, quý Thầy Cô giáo khoa Lịch sử, phòng Sau Đại học Trường Đại
học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thủ tục cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành Luận án.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thầy PGS.TS Ngô Minh Oanh và Thầy
TS Lê Hữu Phước, những người Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, góp ý, chỉnh sửa để tôi hoàn
thành được Luận án này. Sự kiên nhẫn và thẳng thắn của quý Thầy đã truyền cảm hứng cho
tôi và giúp tôi vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất.
Quý Thầy/Cô giáo trong Hội đồng chấm Luận án tiến sĩ cấp cơ sở, quý Thầy/Cô
chấm phản biện kín đã nhận xét và đóng góp những ý kiến quí báu để luận án này hoàn
chỉnh hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn thầy Nguyễn Văn Kết và các anh/chị làm việc tại Trung tâm
lưu trữ quốc gia I và Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Thư viện Quốc gia, các nhà nghiên cứu,
… đã giúp đỡ cho tôi về mặt tài liệu, tư liệu trong suốt quá trình viết Luận án.
Tôi xin cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các đồng nghiệp Trường Cao đẳng GTVT Trung
ương VI đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành Luận án.
Cuối cùng, tôi xin dành tất cả sự yêu thương và lời cảm ơn tới gia đình, bố mẹ, các
anh chị em và người thân luôn là niềm động viên mạnh mẽ giúp tôi có niềm tin và động lực
hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021
Tác giả luận án
Bành Thị Hằng Tâm
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 8
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................ 8
1.1. Lý do khoa học ................................................................................................. 8
1.2. Lý do thực tiễn ................................................................................................. 9
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...........................................................10
2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................10
2.2. Phạm vi nghiên cứu .........................................................................................11
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ..........................................................12
3.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................12
4. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU .....................................................12
4.1. Cơ sở phương pháp luận. .................................................................................12
4.2. Các phương pháp nghiên cứu. ..........................................................................13
5. NGUỒN TƯ LIỆU....................................................................................................14
5.1. Tài liệu lưu trữ trong các Trung tâm Lưu trữ quốc gia .....................................14
5.2. Các công trình nghiên cứu ...............................................................................15
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ..................................................................................16
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN ...................................................................................16
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI .................17
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ TRONG NƯỚC VỀ VÙNG
ĐẤT NAM KỲ VÀ GIAO THÔNG NAM KỲ ..............................................................17
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước về vùng đất Nam Kỳ........ 17
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước về giao thông Nam Kỳ .... 21
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI VỀ VÙNG
ĐẤT NAM KỲ VÀ GIAO THÔNG NAM KỲ ..............................................................27
1.2.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài về vùng đất Nam Kỳ ....... 27
1.2.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài về giao thông Nam Kỳ .... 31
1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG GIAO THÔNG NAM
KỲ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU .........................33
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu ...................................................................... 33
2
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu .............................................. 34
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO
THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 – 1918 .........................................................36
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT NAM KỲ VÀ HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM
KỲ TRƯỚC NĂM 1862 ................................................................................................36
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và đơn vị hành chính Nam Kỳ ....................................... 36
2.1.2. Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trước năm 1862 ......................................... 37
2.1.2.1. Giao thông đường bộ ..................................................................... 37
2.1.2.2. Giao thông đường thủy .................................................................. 39
2.2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO
THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 -1918 .............................................................41
2.2.1. Thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ ............................................................... 41
2.2.2. Thiết lập bộ máy hành chính ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1918 ................... 42
2.2.3. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ ...................... 45
2.2.3.1. Chủ trương phát triển kinh tế của thực dân Pháp ở Nam Kỳ .......... 45
2.2.3.2. Các chủ trương phát triển xã hội của thực dân Pháp ở Nam Kỳ..... 48
2.2.4. Chính sách xây dựng hệ thống giao thông của Pháp ở Nam Kỳ............................ 50
2.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG
NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 – 1918 ..............................................................................54
2.3.1. Giao thông đường thủy ................................................................................ 55
2.3.1.1. Cải tạo, đào mới kênh, rạch ở Nam Kỳ .......................................... 56
2.3.1.2. Hoạt động của hệ thống giao thông đường thủy nội địa ................. 62
2.3.1.3. Hoạt động giao thông đường biển .................................................. 63
2.3.1.4. Cơ chế quản lý giao thông đường thủy ........................................... 64
2.3.2. Giao thông đường bộ ................................................................................... 67
2.3.2.1. Xây dựng các tuyến đường bộ ........................................................ 67
2.3.2.2. Hệ thống cầu.................................................................................. 71
2.3.3. Giao thông đường sắt .................................................................................. 72
2.3.3.1. Xây dựng, quản lý, khai thác đường sắt nội đô (tramways - xe điện)
Sài Gòn – Chợ Lớn ........................................................................ 73
3
2.3.3.2. Xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho giai đoạn 1880 – 1883
.................................................................................................... 79
2.3.3.3. Xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Biên Hòa .............................. 83
2.3.4. Giao thông hàng không ............................................................................... 85
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...............................................................................................89
CHƯƠNG 3. HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945 .91
3.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO
THÔNG CỦA PHÁP Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945 ........................................91
3.1.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................................... 91
3.1.2. Chính sách xây dựng, phát triển giao thông Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 194596
3.2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919-1945 ..99
3.2.1. Giao thông đường bộ ................................................................................... 99
3.2.1.1. Xây dựng, quản lý và khai thác các tuyến giao thông đường bộ ..... 99
3.2.1.2. Phương tiện giao thông đường bộ ................................................ 102
3.2.2. Giao thông đường thủy .............................................................................. 105
3.2.2.1. Nâng cấp, cải tạo cảng Sài Gòn ................................................... 105
3.2.2.2. Nâng cấp, cải tạo hệ thông kênh, rạch ......................................... 106
3.2.3. Giao thông đường sắt ................................................................................ 109
3.2.4. Giao thông đường hàng không................................................................... 109
3.2.4.1. Sự ra đời của giao thông hàng không Nam Kỳ ............................. 110
3.2.4.2. Các quy định về tổ chức ngành hàng không ở Nam Kỳ và Đông
Dương (1919 – 1939) ................................................................... 112
3.2.4.3. Hệ thống sân bay và cơ sở phục vụ của hàng không ở Nam Kỳ .... 115
3.2.4.4. Quy chế tổ chức hoạt động hàng không........................................ 117
3.2.4.5. Tổ chức các tuyến bay .................................................................. 118
3.2.4.6. Cải tạo, nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất ..................................... 119
3.3. DIỆN MẠO GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945 .................... 121
3.3.1. Diện mạo mới của giao thông đường bộ .................................................... 122
3.3.2. Ra đời một ngành vận tải mới – vận tải hàng không .................................. 124
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 127
4
CHƯƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐẾN
ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NAM KỲ (1862 - 1945) .................................... 130
4.1. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ (1862 -
1945) ............................................................................................................................ 130
4.1.1. Hệ thống giao thông mới tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, khai thác hiệu quả
yếu tố tự nhiên để phát triển bền vững ...................................................... 130
4.1.2. Hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại hóa nhanh ..................................... 137
4.1.2.1. Tốc độ hiện đại hóa nhờ tính vượt trội ......................................... 138
4.1.2.2. Hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại hóa nhanh ...................... 144
4.1.3. Hệ thống giao thông mới liên kết nội vùng, với toàn lãnh thổ Việt Nam và
Liên bang Đông Dương ............................................................................ 147
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐẾN ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở NAM KỲ .......................................................................................................... 150
4.2.1. Tác động của hệ thống giao thông đối với sự phát triển kinh tế ................. 150
4.2.1.1. Xây dựng các công trình giao thông lớn, có tác dụng phát triển kinh
tế - xã hội ..................................................................................... 151
4.2.1.2. Tác động từ sản xuất nông nghiệp................................................ 153
4.2.1.3. Tác động từ sản xuất công nghiệp ................................................ 158
4.2.1.4. Tác động từ kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu ........................ 159
4.2.2. Tác động của hệ thống giao thông đến xã hội Nam Kỳ .............................. 163
4.3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CÓ THỂ THAM KHẢO QUA NGHIÊN
CỨU VIỆC HÌNH THÀNH VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO THÔNG NAM KỲ
THỜI THUỘC PHÁP ................................................................................................... 165
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ............................................................................................. 167
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 171
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 178
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ....................... 186
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 187
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BOC Bulletin officiel de la Cochinchine Công báo Nam Kỳ
Bulletin officiel de l’Indochine BOIF Công báo Đông Duong thuộc Pháp française
GGI Gouvernement général de Phủ Toàn quyền Đông
Dương
l’Indochine Journal officiel de la Fédération Công báo Liên bang Đông Dương JOFI indochinoise Đông Dương
JOI Journal officiel de l’Indochine Công báo Đông Dương
Journal officiel de l’Indochine JOIF Công báo Đông Dưong thuộc Pháp française
Moniteur du Protectorat de Tạp chí Người hướng dẫn xứ Trung- MPAT l’Annam et du Tonkin Bắc Kỳ
Fonds de la Résidence supérieure RST Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ du Tonkin
TTLTQG I Trung tâm Lưu trữ quốc gia I
TTLTQG II Trung tâm Lưu trữ quốc gia II
ĐHKHXH và NV Trường ĐHKHXH và NV
Nxb Nhà xuất bản
Hn Hà Nội
6
CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Bảng 2.1 - Số liệu thông kê kênh/rạch được đào mới, cải tạo (1862 -1918) ................... 59
Bảng 2.2 - Số lượng phương tiện đường thủy giai đoạn 1895 – 1898 ............................. 64
Bảng 2.3 - Tổng chiều dài của 07 đoạn đường quốc lộ ở Nam Kỳ (1895) ...................... 69
Bảng 2.4 - Số lượng đường, cầu ở Nam Kỳ (1862 – 1918) ............................................ 72
Bảng 2.5 - Giá trị lợi nhuận khai thác từ năm 1898 đến 1909 ........................................ 82
Bảng 3.1 - Phát triển đường ở Đông Dương (Indochinese Road Development) ........... 101
Bảng 3.2 - Phát triển ô tô ở Đông Dương (Indochinese Automobile Development) ..... 104
Bảng 3.3 - Số lượng xe hơi phát triển tại Nam Kỳ và Đông Dương ............................. 123
Bảng 3.4 - Số liệu thống kê số lượng xe và hãng xe tại Nam Kỳ .................................. 123
Bảng 3.5 - Tình trạng các loại đường ở Nam Kỳ và Đông Dương ................................ 124
Bảng 4.1 - Số liệu giá trị các sản phẩm xuất qua Cảng Sài Gòn (1914 – 1938) ............ 133
Bảng 4.2 - Phát triển ô tô ở Đông Dương (Indochinese Automobile Development) ..... 134
Bảng 4.3 - Tổng chiều dài đường có thể đi qua của từng xứ (1922 – 1936) .................. 139
Bảng 4.4 - Số lượng từng loại xe ô tô ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ ....................... 143
Bảng 4.5 - Số lượng cầu/đường được xây dựng ở Nam Kỳ .......................................... 146
Bảng 4.6 - Phân bố vùng và năng lực sản xuất lúa (ha) ở vùng trọng điểm Tây Nam Kỳ
giai đoạn 1873 – 1930 ................................................................................ 154
Bảng 4.7 - Số liệu thống kê Sản lượng lúa gạo, theo mùa/vụ ở các tỉnh Nam Kỳ trong 05
năm (1932 – 1937)...................................................................................... 155
Bảng 4.8 - Thống kê diện tích và sản lượng cao su ở Nam Kỳ (1920 – 1945) ........... 158
Bảng 4.9 - Khối lượng một số mặt hàng xuất khẩu của Đông Dương (1914 – 1938) .... 161
Bảng 4.10 - Giá trị hàng hóa Nam Kỳ xuất khẩu qua Cảng Sài Gòn ............................ 162
Biểu đồ 2.1 - Kết quả đào mới, nạo vét hệ thống kênh, rạch ở Nam Kỳ giai đoạn 1880 –
1929 ......................................................................................................... 61
Biểu đồ 2.2 - Tổng số km các loại đường bộ ở Nam Kỳ (1862 – 1918) ........................... 70
Biểu đồ 2.3 - Hệ thống đường bộ và cầu ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1918 ................... 72
Biểu đồ 2.4 - Hệ thống đường sắt ở Nam Kỳ giai đoạn 1880 – 1918 .............................. 85
Biểu đồ 2.5 - Số lượng km và tỉ lệ giao thông ở Nam Kỳ (1862 – 1918) ......................... 88
Biểu đồ 3.1 - Chiều dài của hệ thống kênh đào ở Nam Kỳ (1880 – 1930) .................... 108
7
Biểu đồ 3.2 - Chiều dài hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (1919 – 1945) ........................ 126
Biểu đồ 4.1 - Số km đường có thể sử dụng ở Nam Kỳ (1922 – 1936) ............................ 141
Biểu đồ 4.2 - Phát triển ô tô ở Nam Kỳ tại Việt Nam (03 kỳ), năm 1937. ..................... 144
Biểu đồ 4.3 - Diện tích và sản lượng cao su ở Nam Kỳ (1920 – 1945) ....................... 158
8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lý do khoa học
Hệ thống giao thông – cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một phần quan trọng trong cấu trúc
cơ sở hạ tầng, luôn đi trước, đồng hành trong sự hình thành, tồn tại và phát triển kinh tế -
xã hội của một vùng, khu vực và quốc gia. Nghiên cứu về hệ thống giao thông Nam Kỳ
thời thuộc Pháp là nghiên cứu về sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống này
trong quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cùng những tác động
của nó đến cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội Nam Kỳ và Việt Nam thời cận đại.
Nghiên cứu về các di sản của chế độ thuộc địa hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh
luận, nhất là về hệ quả tích cực của các di sản đó. Các nhà thực dân và các nhà nghiên
cứu tư bản cho rằng: họ đã có công trong việc khai hóa văn minh cho các nước thuộc
địa, trong đó có đánh giá thành quả của việc xây dựng và phát triển hệ thống giao thông,
nhưng bản chất hành động này chỉ nhằm một mục đích cao nhất và duy nhất là khai thác
thuộc địa phục vụ lợi ích cho chính quốc.
Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trải dài qua các địa phương, trong từng lĩnh vực và
chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, tổng thể, toàn diện. Do vậy, đây là một khó
khăn, thách thức của người thực hiện để kết quả nghiên cứu góp phần lấp khoảng trống
về mặt khoa học, nhất là với nhiệm vụ của các nhà sử học.
Sự phát triển hạ tầng kỹ thuật trong đó có giao thông vận tải hiện nay ở vùng Nam
Bộ còn chưa tương xứng với tiềm năng, đóng góp của vùng đất này khi nơi đây vẫn đang
là “vùng trũng về giao thông”. Do đó, nghiên cứu về giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp
là góp một góc nhìn so sánh về thực trạng giao thông hôm nay, gợi một cách nhìn, một
suy nghĩ về định hướng phát triển hệ thống giao thông ở Nam Bộ hiện nay.
Cũng từ kết quả nghiên cứu vấn đề trên, luận án mong muốn cung cấp nguồn tư
liệu, một cách tiếp cận mới về những nội dung khoa học cụ thể như:
- Sự kết nối liên tỉnh, liên vùng qua hệ thống đường sắt Sài Gòn - Chợ Lớn là
trung tâm chế biến và xuất khẩu của vùng với Mỹ Tho, điểm đầu của vùng chuyên canh
sản xuất lúa gạo ở Tây Nam Kỳ để phát triển sản xuất và xuất khẩu;
- Cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa hệ thống đường bộ với các loại phương tiện giao
9
thông, nhất là xe ô tô – phương tiện có năng lực vận chuyển tốt nhất phục vụ phát triển
sản xuất và đời sống xã hội;
- Tận dụng và khai thác hiệu quả hệ thống kênh rạch, sông ngòi của vùng châu thổ
sông Mekong với tác dụng kép: thủy lợi và giao thương. Đó là cơ sở để phát triển vùng
sản xuất chuyên canh lúa nước ở Tây Nam Kỳ - hệ thống giao thông thủy kết nối với
trung tâm chế biến và xuất khẩu tại Sài Gòn – Chợ Lớn, góp phần làm biến đổi kinh tế -
xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp;
- Hình thành và phát triển giao thông hàng không, góp phần hoàn chỉnh cơ cấu hệ
thống giao thông hiện đại: thủy – bộ – đường sắt và hàng không; góp phần để Nam Kỳ
và Đông Dương hội nhập quốc tế.
Việc nghiên cứu này cũng làm rõ bản chất của việc thực dân Pháp sớm thực hiện
xây dựng và phát triển hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ, đó là một phần quan trọng
của chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu những nội dung nói trên được xác định từ chủ trương và việc
ban hành chính sách và tổ chức thực thi của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương
giúp cho việc phục dụng quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ (1862 – 1945) một cách xác thực, khách quan nhất. Kết quả nghiên cứu nói trên sẽ là
cơ sở khoa học để đưa ra những đánh giá, nhận xét về tác động của hệ thống giao thông
mới với những hệ quả tích cực và tiêu cực đã làm biến đổi diện mạo của vùng đất Nam
Kỳ thời thuộc Pháp (1862 – 1945) trong lịch sử Việt Nam.
1.2. Lý do thực tiễn
Lịch sử đã ghi nhận sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế Nam Kỳ thời thuộc
Pháp gắn liền với một hệ thống giao thông là cầu nối cho các hoạt động kinh tế, xã hội,
gắn kết các thành phần kinh tế, các nguồn lực với nhau trong quá trình phát triển và hội
nhập của vùng đất này.
Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp đã để
lại một số kinh nghiệm lịch sử cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống giao
thông vùng Nam Bộ hiện nay. Một số bài toán của hiện tại rất cần tham khảo cách giải
quyết từ thực tiễn xây dựng hệ thống giao thông Nam Kỳ xưa. Một trong những kinh
nghiệm cần lưu ý từ lịch sử xây dựng giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp là:
10
- Triệt để khai thác ưu thế, thuận lợi mà điều kiện tự nhiên mang lại để phát triển
bền vững;
- Nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng
kỹ thuật để có động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội;
- Tận dụng lợi thế địa - chính trị của vùng, của khu vực Nam Kỳ, nhất là của Sài
Gòn – trung tâm giao thương, kinh tế - xã hội quan trọng.
Trong thực tế, không nhiều các công trình nghiên cứu về lịch sử giao thông Việt
Nam nói chung, nhất là nghiên cứu về hệ thống giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc dưới
góc độ lịch sử kinh tế - xã hội. Do đó, nguồn tài liệu/tư liệu được khai thác, công bố
thuộc lĩnh vực nghiên cứu này cũng không nhiều hoặc đơn lẻ. Do vậy, để thực hiện đề tài
này, nguồn sử liệu chính sẽ được khai thác là tài liệu lưu trữ của chính quyền Pháp ở
Nam Kỳ, Đông Dương và chính quốc. Như vậy, kết quả nghiên cứu sẽ có tính xác thực
cao, góp phần phục dựng chính xác lịch sử hình thành và phát triển hệ thống giao thông
Nam Kỳ đúng với bản chất vốn có của nó.
Với những lý do trên, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài Quá trình hình thành và
phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (1862 – 1945) làm đề tài nghiên cứu của
luận án.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Quá trình hình thành và phát triển hệ thống
giao thông ở Nam Kỳ từ năm 1862 đến năm 1945 dưới góc độ sử học. Các nội dung cụ
thể gồm:
- Bối cảnh lịch sử và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển
hệ thống giao thông ở Nam Kỳ;
- Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ của các loại
hình giao đường thủy, đường bộ, đường sắt và đường hàng không;
- Những thành tựu và hạn chế của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp
giai đoạn 1862 - 1945;
- Tác động của hệ thống giao thông đối với đời sống kinh tế, xã hội ở Nam Kỳ giai
đoạn 1862 - 1945.
11
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ (1862 – 1945) có phạm vi nghiên cứu được xác định cụ thể như sau:
- Phạm vi không gian: Nam Kỳ thời thuộc Pháp;
- Nội dung nghiên cứu cụ thể: Sự hình thành và xây dựng giao thông đường bộ,
đường thủy, đường sắt và đường hàng không do thực dân Pháp thực hiện ở Nam Kỳ giai
đoạn từ 1862 – 1945;
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Từ năm 1862 đến năm 1945
+ Mốc mở đầu: năm 1862, là thời điểm thực dân Pháp chính thức chiếm đóng
03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và bước đầu cải tạo, xây dựng hệ thống giao thông ở Nam
+ Mốc kết thúc: năm 1945, thời điểm chấm dứt chế độ cai trị hơn 80 năm của
Kỳ;
thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu trong Luận án này được chia hai giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1862 - 1918
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển hệ thống đường giao thông Nam Kỳ trong
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ I của thực dân Pháp. Giao thông đường bộ,
đường thủy, đường sắt ở Nam Kỳ lúc này được xây dựng một cách ồ ạt nhằm phục vụ
ngay cho yêu cầu quân sự (tiếp tục xâm lược và bình định), khai thác tài nguyên và vận
chuyển hàng hóa về chính quốc.
- Giai đoạn thứ hai: từ năm 1919 - 1945
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông
Dương tiến hành Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II (1919 - 1929) cho đến khi
Cách mạng tháng Tám thành công, xóa bỏ ách thống trị của thực dân Pháp hơn 80 năm
trên đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên trong thực tế, từ năm 1940 - 3/1945, phát xít Nhật vào Việt Nam và cùng
thực dân Pháp thực hiện chế độ “cộng trị”. Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, Việt Nam và
Đông Dương trong giai đoạn này không có những công trình xây dựng và phát triển lớn,
mà chủ yếu dùng để khai thác năng lực vận chuyển có sẵn nhằm mục đích vơ vét tài
nguyên, vật lực phục vụ cho nhu cầu của thực dân Pháp và đặc biệt là phục vụ cho phát
12
xít Nhật mặc dù trên danh nghĩa thực dân Pháp vẫn cố gắng duy trì quyền lực của mình
cho đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
(1862 – 1945), luận án nhằm phục dựng lịch sử hình thành và phát triển giao thông Nam
Kỳ - một phần lịch sử Việt Nam thời thuộc Pháp trong giai đoạn 1862-1945. Trên cơ sở
đó sẽ có những đánh giá, nhận xét khách quan và khoa học nhất, làm cơ sở để xác định
những mặt tích cực và hạn chế cùng những tác động của hệ thống giao thông mới này đối
với phát triển kinh tế, xã hội Nam Kỳ trong thời thuộc Pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ chính sách khai thác thuộc địa nói chung và những chính sách cụ thể gắn
với việc phát triển hệ thống giao thông của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trong giai đoạn
1862 - 1945;
- Phục dựng quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ thời
thuộc Pháp thông qua các hoạt động quản lý nhà nước, đầu tư xây dựng và khai thác hệ
thống giao thông mới phục vụ hoạt động khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp ở Nam
Kỳ và Đông Dương;
- Đánh giá sự tác động của hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương;
- Xác định những mặt tích cực và hạn chế từ quá trình hình thành, phát triển hệ
thống giao thông Nam Kỳ từ đó rút ra một số kinh nghiệm lịch sử cho quá trình xây dựng
và phát triển hệ thống giao thông cho vùng Nam Bộ và Việt Nam hiện nay.
4. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở phương pháp luận.
Luận án xác định Phương pháp luận nghiên cứu là phương pháp luận của Chủ nghĩa
1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là một bộ phận hợp thành của tư tưởng Hồ Chí Minh tạo thành một thể thống nhất của kinh ; tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và con người. Nguồn: https://kinhtetrunguong.vn/web/guest/
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế1 làm cơ sở của quá trình
13
nghiên cứu hệ thống giao thông ở Nam Kỳ từ năm 1862 đến 1945. Bởi khi xem xét hiện
tượng lịch sử, không chỉ đặt đối tượng nghiên cứu vào không gian và thời gian cụ thể mà
còn phải có cái nhìn biện chứng, khách quan, khoa học và kế thừa về đối tượng đó. Có
như vậy, những vấn đề đặt ra trong luận án sẽ được làm sáng tỏ trong mối liên hệ và phát
triển khách quan như nó đã tồn tại.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện luận án, các phương pháp chuyên ngành được áp dụng như: phương
pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích – tổng hợp… Các phương pháp
nghiên cứu được áp dụng cụ thể như sau:
Phương pháp chuyên ngành:
Thứ nhất, Phương pháp lịch sử
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong luận án. Để thực hiện
phương pháp này, hướng nghiên cứu chủ yếu là xác định quá trình hình thành, xây dựng
và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc thông qua các chi tiết thông
tin được ghi nhận một cách khách quan, có tính xác thực cao trong tài liệu lưu trữ do
chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ, Đông Dương và chính quốc ban hành. Từ cơ sở
dữ liệu có giá trị sử liệu đó, xác định bối cảnh hình thành, chủ trương chính sách, quá
trình triển khai thực hiện xây dựng quản lý và khai thác hệ thống giao thông Nam Kỳ
thời thuộc Pháp. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu có được sẽ góp phần phục dựng một
phần lịch sử của Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1945, xác định rõ bản chất phục vụ hoạt động
khai thác, bóc lột tài nguyên của thực dân Pháp ở Nam Kỳ thông qua hoạt động xây dựng
và phát triển hệ thống giao thông mới tại xứ thuộc địa này.
Thứ hai, Phương pháp lôgic
Phương pháp này được sử dụng trong luận án để xem xét quá trình hình thành và
phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong chính sách khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp ở Đông Dương nói chung và Nam Kỳ nói riêng; rút ra quy luật và bản chất của
quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong chính sách xâm
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho- chi-minh-ve-phat-trien-kinh-te-khong-ngung-nang-cao-doi-song-cua-nhan-dan-2091
lược của Pháp ở Việt Nam.
14
Thứ ba, Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu, phân tích các tài liệu lưu trữ của
chính quyền Pháp ở Nam Kỳ, Đông Dương và chính quốc nhằm xác định những vấn đề
có nội dung liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ; xác định cơ sở lý luận về cơ sở hạ tầng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và vai trò của hệ
thống giao thông trong việc thực hiện mục đích khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Nam Kỳ, Việt Nam. Từ những sử liệu có được qua nghiên cứu tài liệu lưu trữ, luận án có
thể phục dựng được một phần lịch sử Nam Kỳ, xác định rõ bản chất của việc thực dân
Pháp xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở vùng đất này và trên toàn cõi Đông
Dương.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác
như Kinh tế và kinh tế phát triển để xác định mối quan hệ và sự tác động của hệ thống
giao thông mới đến sự phát triển cơ sở hạ tầng, đời sống kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ thời
thuộc Pháp; Phương pháp xã hội học – kinh tế học để làm rõ mối quan hệ giữa phát triển
sản xuất với lưu thông hàng hóa, những tác động của hệ thống giao thông mới do thực
dân Pháp đến hoạt động sản xuất – phân phối – lưu thông hàng hóa trong đời sống xã hội
thuộc địa ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp.
5. NGUỒN TƯ LIỆU
Luận án được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, khai thác các nguồn tài liệu sau:
5.1. Tài liệu lưu trữ trong các Trung tâm Lưu trữ quốc gia
- Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I (Hà Nội): Bulletin official de la Cochinchine
(BOC), Journai official de l’Indochine, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF),
Phông Sở tài chính Đông Dương, Niên giám Đông Dương;
- Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (Tp. HCM): Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ,
Công báo Nam Kỳ, Sách bổ trợ, Bộ sưu tập hình ảnh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ và
Bộ sưu tập Bản đồ thời kỳ Pháp và Mỹ ngụy.
Tất cả các tài liệu lưu trữ khai thác từ các Trung tâm Lưu trữ quốc gia nói trên đều
là bản gốc văn bản hành chính (sắc lệnh của Tổng thống Pháp, nghị định, công văn…)
của các cấp chính quyền thực dân Pháp ở chính quốc, Đông Dương và Việt Nam, nhất là
ở Nam Kỳ. Các văn bản này có nội dung về chính sách quản lý, quy hoạch, tổ chức xây
15
dựng, khai thác hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không trong
thời kỳ thực dân Pháp cai trị Nam Kỳ và Đông Dương. Do vậy, những tài liệu này phản
ánh một cách chính xác nhất toàn bộ hoạt động xây dựng, khai thác, phát triển hệ thống
giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Đó là nguồn sử liệu chính dùng để nghiên cứu thực
hiện luận án. Những tài liệu lưu trữ (thông tin cấp I) có ngôn ngữ chủ yếu bằng tiếng
Pháp. Nguồn sử liệu này có độ xác thực cao về những hoạt động quản lý, điều hành của
chính quyền cai trị trong đó có hoạt động công chính sẽ góp phần tái hiện một cách chính
xác trong hoạt động xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, Việt
Nam và Đông Dương.
Những nội dung khai thác được từ nguồn sử liệu này minh chứng rõ nhất về những
hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền thực dân Pháp tại Nam Kỳ và Đông
Dương. Đó là cơ sở đảm bảo tính khoa học của thông tin về hoạt động và những chuyển
biến cụ thể của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương giai đoạn
1862 – 1945, nhất là trong thời kỳ thực dân Pháp thực hiện hai Chương trình khai thác
thuộc địa (1897 - 1914 và 1919 – 1929) mà luận án cần làm rõ.
Đặc biệt, từ việc khai thác tài liệu lưu trữ của chính quyền thực dân Pháp – đối
tượng trực tiếp thực hiện chủ trương chính sách, việc hoạch định, quản lý và điều hành
chế độ cai trị ở Nam Kỳ và Đông Dương giai đoạn này để thực hiện luận án sẽ góp phần
phản ánh một cách khách quan Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở
Nam Kỳ (1862 – 1945). Đó là một phần lịch sử quan trọng của một vùng đất có nhiều
tiềm năng phát triển ngay từ trước và sau khi thực dân Pháp xác lập Nam Kỳ thuộc địa.
5.2. Các công trình nghiên cứu
Để thực hiện luận án, nghiên cứu sinh cần tiếp cận, tiếp thu kết quả nghiên cứu từ
các công trình sau:
- Các luận án, luận văn, tham luận khoa học nghiên cứu về Nam Kỳ, Việt Nam và
Đông Dương nói chung; nghiên cứu về giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc nói riêng đã
được công bố bằng các xuất bản phẩm (in) hay đăng/công bố trên các website của các
trường đại học, học viện, viện nghiên cứu;
- Lịch sử hình thành và phát triển của các hội hay hiệp hội nghề nghiệp: Hàng
không, Kỹ thuật cầu đường, Ô tô…;
16
- Các công trình nghiên cứu chuyên ngành lịch sử, xã hội học, kinh tế phát triển…
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành (giấy hay điện tử) trong và ngoài nước;
- Các sách chuyên khảo liên quan đến lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế - xã hội có
nội dung về hoặc liên quan đến Nam Kỳ nói chung, về hệ thống giao thông ở Nam Kỳ và
Đông Dương được xuất bản trong và ngoài nước.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Thực hiện đề tài Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
(1862 – 1945), chúng tôi mong muốn đóng góp được một số kết quả cụ thể như sau:
- Trên cơ sở nguồn tư liệu mới khai thác được, luận án sẽ góp phần làm rõ chính
sách đầu tư xây dựng, quản lý và phát triển giao thông mà thực dân Pháp thực hiện ở
Nam Kỳ; Làm rõ vai trò và ảnh hưởng của hệ thống giao thông đối với quá trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương;
- Luận án có những xem xét, đánh giá mới về những hệ quả rút ra những ưu,
nhược điểm của hệ thống giao thông đối với đời sống kinh tế - xã hội Nam Kỳ trong giai
đoạn từ năm 1862 đến năm 1945;
- Luận án sẽ góp phần hệ thống hóa và cung cấp nguồn tài liệu phong phú về quá
trình xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong thời thuộc Pháp.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của
luận án được trình bày trong 04 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Chương 2. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai
đoạn 1862-1945
Chương 3. Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945
Chương 4. Đặc điểm, tác động của hệ thống giao thông đến đời sống kinh tế - xã
hội ở Nam Kỳ (1862 - 1945)
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Danh mục các công trình nghiên cứu của luận án
Phụ lục
17
CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu về vùng đất Nam Kỳ trong thời thuộc Pháp, về quá trình hình thành
và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (1862 - 1945) gắn với hai chương trình khai
thác thuộc địa (1897 – 1914 và 1919 - 1929) của thực dân Pháp thực hiện ở Nam Kỳ và
Đông Dương đã được nhiều học giả trong và ngoài nước thực hiện. Với nhiều góc độ
nghiên cứu, kết quả và nhận xét có khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó
chỉ cung cấp một phần những thông tin, những hiểu biết về vùng đất này cũng như hoạt
động cai trị, bóc lột và khai thác của thực dân Pháp ở Nam Kỳ.
Đã có một số công trình nghiên cứu về giao thông thời thuộc Pháp ở Nam Kỳ. Đặc
biệt, một số công trình nghiên cứu các vấn đề về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, về giao thông
đường sắt, đường thủy, đường bộ và đường hàng không; về kinh tế, văn hóa, xã hội của
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Nam Kỳ. Các công trình này ít nhiều đã góp
phần quan trọng để nhận thức quá khứ, cung cấp những hiểu biết khoa học về việc xây
dựng và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Tuy nhiên, hầu như
những công trình đó chỉ nghiên cứu riêng về từng loại hình giao thông hay giao thông
của từng địa phương ở Nam Kỳ. Vì vậy, cho đến nay vẫn còn thiếu đề tài nghiên cứu
chuyên sâu và có hệ thống quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ thời thuộc Pháp. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu chung về vùng đất
Nam Kỳ, về sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông nơi đây và nhất là vai
trò và tác dụng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương như sau.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ TRONG NƯỚC
VỀ VÙNG ĐẤT NAM KỲ VÀ GIAO THÔNG NAM KỲ
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước về vùng đất Nam Kỳ
Nghiên cứu về vùng đất Nam Kỳ không thể không nắm bắt những thông tin về các
mặt: địa lý – thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên, phong tục, dân cư, kinh tế – xã hội… của
vùng đất này. Đây chính là những sử liệu có tính tổng quát, nền tảng rất cần khi nghiên
cứu về một vùng đất, về cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng kỹ thuật và cụ thể hơn là về hệ
thống giao thông Nam Kỳ trước và trong thời Pháp thuộc. Các công trình nghiên cứu của
18
tác giả trong nước về vùng đất Nam Kỳ tiêu biểu như:
- Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa Chí” (1806), do Lê Quang Định, Thượng
thư Bộ Binh khởi sự biên soạn, được Phan Đăng dịch và xuất bản vào năm 2003. Đây là
bộ địa chí đầu tiên của nhà Nguyễn. Nét nổi bật nhất của bộ sách chính là việc ghi chép
một cách tường tận về hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy của nước ta vào đầu
thế kỷ XIX. Bộ sách gồm 10 quyển, ghi chép đầy đủ, chính xác về đường đi, các dịch
trạm, các địa danh, sông núi, khe suối, ngòi rạch, cửa biển, kèm theo lời chú giải mặt
mạnh mặt yếu, chỗ hiểm, chỗ thuận lợi của từng địa phương rất cụ thể với các mục:
“Đường trạm trên sông dinh Phiên trấn”, “Đường trạm trên sông dinh trấn Định”,
“Đường trạm trên sông dinh Vĩnh trấn” và các mục “Ghi chép về dinh Phiên trấn”, “Ghi
chép về dinh trấn Định”, “Ghi chép về dinh Vĩnh trấn” của nước ta vào đầu thế kỷ XIX.
Sự ra đời của “Hoàng Việt nhất thống dư địa Chí” không những giúp cho người đọc hình
dung khá toàn diện về hình thể đất nước Việt Nam trong đó có Nam Kỳ lúc bấy giờ mà
còn giúp cho người đi đường biết đến những vùng đất xa xôi tưởng như không bao giờ
biết đến. Chính vì vậy bộ sách đã trở thành công cụ tra cứu chủ yếu cho các công trình
địa chí sau này;
- Bộ địa chí Gia Định thành thông chí hay Gia Định thông chí của Trịnh Hoài
Đức (1765-1825) viết về miền đất Gia Định. Sách viết dưới thời Gia Long, hoàn thành
vào năm 1820. “Gia Định thành thông chí” là một pho sử quan trọng, được xem như một
trong những công trình nghiên cứu đặc sắc nhất dưới góc độ địa lý và lịch sử thời nhà
Nguyễn. Đây là cuốn sách đầu tiên mô tả kỹ lưỡng sông núi miền Nam đất nước, mô tả
kỹ càng các khu vực hành chính Gia Định từ trấn, phủ tới thôn, lân cùng những phong
tục tập quán, tính cách và sinh hoạt của dân cư tại vùng đất Gia Định từ thời Nguyễn
Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất này năm 1698 cho đến những năm đầu thế kỷ XIX.
Sau khi thực dân Pháp chiếm xong 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cuốn sách đã được chính
quyền thực dân dịch sang tiếng Pháp để cung cấp thông tin về tình hình thổ nhưỡng, dân
cư của địa phương nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của họ. Bản dịch
được Imprimerie Impériale xuất bản năm 1863 tại Paris với tựa đề Histoire et description
de la Basse Cochinchine. Với mục đích phục vụ cho độc giả người Pháp và chính quyền
thực dân Pháp trong việc cai trị xứ thuộc địa Nam Kỳ nên bản dịch này không theo đúng
kết cấu của nguyên tác.
19
Nhìn chung, các bộ sách nói trên là tài liệu thành văn sớm nhất, có giá trị sử liệu,
phản ảnh chân thực lịch sử, địa lý, xã hội, con người vùng đất Nam Kỳ thời nhà Nguyễn,
đáp ứng cơ bản nội dung nghiên cứu của đề tài. Thông tin trong hai cuốn sách này là cơ
sở để so sánh những thay đổi hệ thống giao thông thời Nguyễn với thời thuộc Pháp.
- Cuốn Lịch sử khẩn hoang miền Nam của tác giả Sơn Nam đi sâu vào khảo cứu
công cuộc mở rộng, phát triển xứ Đàng Trong; xác định vùng biên giới Việt – Miên;
thông tin địa lý, phong tục, dân cư ở các vùng đất Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần
Thơ. Đặc biệt, tác giả đã mô tả khá kỹ về việc đào các kênh: Bảo Định, Ruột Ngựa, Vĩnh
Tế, Thoại Hà và Long An Hà. Những thông tin nói trên rất bổ ích khi nghiên cứu về hệ
thống giao thông thủy ở miền sông nước Tây Nam Kỳ. Điểm mới trong cuốn sách khảo
cứu này là tác giả đã nêu được số liệu thống kê số làng mạc được thành lập dọc theo
kênh Vĩnh Tế, việc huy động tổ chức quản lý dân phu, dụng cụ lao động khi đào kênh
Long An Hà. Tác giả cho rằng, việc đào kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà xuất phát từ mục đích
quân sự của nhà Nguyễn. Điều này là một cứ liệu quan trọng về việc phát triển các khu
dân cư gắn với hệ thống thủy nông cũng là hệ thống giao thông thủy nội vùng.
Ngoài ra, Sơn Nam còn có hai cuốn sách khác gồm Đất Gia Định xưa (1984) và
Đồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa (1985). Hai tập sách này ghi chép về tiến
trình đào vét kênh rạch từ thời Nguyễn sang đến thời Pháp thuộc và những tác động tích
cực của hệ thống kênh rạch này về mọi mặt trong đó chủ yếu là giao thông, vận chuyển
lúa gạo, hàng hóa.
- Tác phẩm Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – những chứng tích lịch sử của GS.
Văn Tạo và GS. Furuta Motoo (2011). Nxb Tri thức thực hiện. Sách đã khái quát một
phần quan trọng những ảnh hưởng của chính sách cai trị Việt Nam dưới hình thức “cộng
trị” từ năm 1940 – 1945. Thực dân Pháp và phát xít Nhật cấu kết để bóc lột nhân dân
Việt Nam một cách triệt để nhất mà không đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn
này. Sách cũng nêu rõ nguyên nhân của nạn đói năm 1945 mà nhân dân ta phải gánh chịu
qua hoạt động xuất khẩu lúa gạo Nam Kỳ về Nhật qua Cảng Sài Gòn – một đầu mối giao
thương của Nam Kỳ và Đông Dương.
- Sách Sài Gòn năm xưa của tác giả Vương Hồng Sển (1991) do Nxb Tp. Hồ Chí
Minh thực hiện. Tác phẩm đã dựng lại hình ảnh Sài Gòn thời Pháp thuộc với nhiều khác
20
biệt so với giai đoạn trước. Một trong những thay đổi đó là hệ thống giao thông với sự có
mặt của đường sắt, các con đường bộ, các cây cầu bê tông, các hãng tàu, xe lửa… Tuy
nhiên sách chỉ mô tả Sài Gòn xưa qua thể loại truyện kể nên chỉ dùng để tham khảo khi
nghiên cứu về đời sống kinh tế - xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp.
- Cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918) (1999), của tác giả Dương
Kinh Quốc. Nxb Giáo dục ấn hành. Sách đã ghi chép một cách có hệ thống những sự
kiện từ đầu tháng 9/1858 đến cuối tháng 12/1918. Sách có những ghi chép về hoạt động
cai trị của thực dân Pháp trong các lĩnh vực: chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế, khoa
học kỹ thuật,… ở Việt Nam. Cùng những sự kiện này, sách còn có một số nội dung cơ
bản của các nghị định do chính quyền thực dân Pháp ban hành được dẫn giải để minh
chứng. Liên quan đến âm mưu xâm lược, khai thác tài nguyên của Nam Kỳ, sách đã dẫn
chứng cùng nhận xét rất rõ ràng: “Nam Kỳ là nơi thóc gạo, sản vật nhiều, tàu bè buôn
bán rất có lợi giặc Pháp biết từ lâu và cũng có ý đồ đánh chiếm đã lâu…”.
- Sách Nam Bộ Xưa và Nay (2007) của nhiều tác giả do Nxb Tp. Hồ Chí Minh –
Tạp chí Xưa & Nay thực hiện. Bộ sách chủ yếu giới thiệu về địa danh của các địa
phương, các nhân vật lịch sử, các sự kiện và truyền thống văn hóa xưa và nay ở Nam Bộ
(Nam Kỳ trước đây) qua bài viết của các nhà nghiên cứu lịch sử. Thông tin các tác giả
cung cấp phần nào cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ của Nam Kỳ thời thuộc Pháp qua sự
phát triển đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn, nhất là sự phát triển cơ sở hạ tầng mà sự hình thành
và phát triển của hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ là trọng tâm và mang tính then
chốt.
- Sách Sài Gòn – Chợ Lớn – ký ức đô thị và con người (2016) và Sài Gòn – Chợ
Lớn qua những tư liệu quý trước năm 1945 (2016) của Nguyễn Đức Hiệp. Nxb Văn hóa
– Văn nghệ ấn hành. Các cuốn sách này cung cấp thông tin về lịch sử phát triển của
thành phố Sài Gòn – Chợ lớn. Cuốn sách tập hợp bài viết của nhiều nhà nghiên cứu đăng
trên các tạp chí, tập san nghiên cứu, trên Internet và các bài của chính tác giả với chủ đề
xây dựng ký ức đô thị do các nền văn hóa khác nhau mang lại qua những di sản nổi bật
có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa xã hội. Sách đã lột tả được những đổi thay về cơ sở
hạ tầng trong đó có hoạt động giao thông vận tải, cầu đường của Sài Gòn – Chợ lớn qua
các thời kỳ.
21
Ngoài các sách, công trình nghiên cứu nói trên về lịch sử Nam Kỳ, tác giả luận án
còn sử dụng các kiến thức chung về lịch sử Việt Nam trong đó có những nội dung liên
quan đến quá trình hình thành vùng đất Nam Kỳ - một phần lãnh thổ của Việt Nam như:
Lịch sử cận đại Việt Nam tập 1,2 của các tác giả Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm,
Nguyễn Văn Sự (1960). Nxb Giáo dục, Hn; Lịch sử Việt Nam 1897-1918 (1977) và Bộ
Lịch sử Việt Nam, tập 6, 7,8,9 (2017) của Viện Sử học. Nxb KHXH, Hn; Quá trình hình
thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, tập 2 của Phan Huy Lê - chủ biên (2016). Nxb
CTQG Sự Thật, Hn; Vùng đất Nam Bộ của Đoàn Minh Huấn - chủ biên (2016). Nxb
CTQG Sự Thật, Hn.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về Nam Kỳ của các tác giả trong nước từ
thời nhà Nguyễn và trong thời thuộc Pháp đã cung cấp một cách đầy đủ thông tin về địa
lý, thổ nhưỡng, dân cư và đời sống xã hội của vùng đất mới. Thông tin từ các công trình
nghiên cứu này có giá trị sử liệu giúp cho việc hiểu rõ các điều kiện tự nhiên của vùng
châu thổ sông Mekong và vị trí địa chính trị của Sài Gòn – Chợ Lớn mà thực dân Pháp
đã tận dụng, khắc phục trong việc hình thành và phát triển hệ thống giao mới ở Nam Kỳ.
Đây là một thuận lợi cơ bản khi thực hiện luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước về giao thông Nam Kỳ
Qua khảo sát thực tế, có thể nhận thấy thực trạng các công trình nghiên cứu của các
tác giả trong nước về hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp không nhiều,
không có những nghiên cứu có tính toàn diện hoặc chuyên sâu. Có thể điểm qua một số
công trình tiêu biểu sau đây:
- Sách Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (1970) của Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã tái
hiện khá hoàn chỉnh bức tranh Việt Nam thời thực dân Pháp cai trị. Tác giả đã cung cấp
khá nhiều dữ liệu phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu về chế độ thời thuộc Pháp, từ âm
mưu xâm lược cho đến khi kết thúc chế độ thuộc địa tại Việt Nam. Trong những nội
dung đó, tác giả đã dành 10 trang đề cập đến vấn đề giao thông đường sắt, đường bộ, các
hải cảng và các công trình thủy nông. Do vậy, thông tin từ nghiên cứu này không giúp
nhiều cho chúng tôi khi thực hiện luận án.
- Cuốn Giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn 1858-1957 (1988) của Phan Văn
Liên do Nxb Giao thông vận tải thực hiện đã phác họa khá đầy đủ những thay đổi về giao
22
thông ở Việt Nam thời Pháp thuộc. Những thay đổi này được mang lại từ các công trình
giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt… Qua việc mô tả sự hình thành và xây
dựng các công trình này, tác giả đã đưa ra một số nhận xét, quan điểm khách quan về hệ
thống giao thông thời thuộc Pháp.
- Bài Hải cảng đầu tiên ở Vũng Tàu của tác giả Đinh Văn Hạnh in trong Tạp
chí Xưa & Nay, số 51B (5-1998) viết về một công trình hải quân do thực dân Pháp xây
dựng. Tuy là một hải cảng song chủ yếu chỉ nhằm mục đích quân sự. Dấu tích để lại
ngày nay là một đê đá bê tông chạy dài, dọc theo Bãi Trước mà cư dân Vũng Tàu gọi là
Cầu Đá.
- Cuốn Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam (1999), Nxb Giao thông vận tải, Hn
thực hiện. Sách gồm 1387 trang, tổng hợp quá trình hình thành hệ thống giao thông vận
tải từ buổi hoang sơ cho đến nay. Đây là một công trình khoa học có ý nghĩa văn hóa –
lịch sử và thực tiễn của ngành giao thông vận tải. Nội dung sách phản ánh khá đầy đủ
những đặc trưng chủ yếu về truyền thống xây dựng và chiến đấu của các thế hệ làm giao
thông vận tải qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc nên phần thông tin về
sự hình thành và xây dựng hệ thống giao thông thời thuộc Pháp ở Nam Kỳ không nhiều.
- Cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (2002), tập 1 của tác giả Đặng Phong, Nxb Khoa
học xã hội ấn hành. Tác phẩm đề cập đến quá trình “cộng trị” của thực dân Pháp – phát
xít Nhật ở Việt Nam trong những năm 1940 - 1945. Tác giả đề cập khá chi tiết về các
chính sách kinh tế - chính trị mà hai kẻ xâm lược đã thực hiện ở Việt Nam giai đoạn này.
Nội dung sách cho thấy, phát xít Nhật hoàn toàn không có các hoạt động đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương. Hoạt động liên quan đến cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, nhất là hệ thống giao thông với người Nhật ở giai đoạn này là khai thác
triệt để nhằm vơ vét tài nguyên phục vụ cho chiến tranh xâm lược của họ ở Nam Thái
Bình Dương, Đông Nam Á và xuất về Nhật;
- Sách Lịch sử kinh tế Việt Nam của Phạm Văn Chiến, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, 2003 là một ấn phẩm về lịch sử kinh tế nước ta từ khi lập quốc đến nay. Nội dung
sách có trình bày tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn Pháp – Nhật cai trị (1939 – 1945).
Tác phẩm góp phần cung cấp thông tin để lý giải cho những tác động phát triển kinh tế ở
Nam Kỳ ở một giai đoạn phức tạp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
23
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học đề tài Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ - Việt
Nam cận đại tổ chức tại Cần Thơ (2008) do Nxb Thế Giới ấn hành. Sách tổng hợp nhiều
bài viết về tiến trình lịch sử phát triển, các hoạt động chuyển biến kinh tế, xã hội, chính
trị, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng... ở Nam Kỳ. Tiêu biểu có các bài viết:
+ Yếu tố mới trong sự phát triển hạ tầng kinh tế - kỹ thuật ở Nam Kỳ dưới tác
động của chính sách của Pháp của Lê Huỳnh Hoa và Phan Văn Hoàng (Trường Đại học
Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh). Bài viết đề cập đến vai trò đổi mới, “hiện đại hóa” của cơ sở
hạ tầng, nhất là hạ tầng kỹ thuật trong đó có hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong chính
sách cai trị của thực dân Pháp;
+ Một số đặc điểm về kinh tế - xã hội ở vùng đất Nam Bộ trước xâm lược của
thực dân Pháp của Trần Thị Mai (Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh).
Tham luận này cung cấp những thông tin có giá trị làm cơ sở so sánh kinh tế vùng đất
Nam Bộ (xưa là Nam Kỳ) với sự biến đổi kinh tế thời thuộc Pháp;
+ Chế độ cai trị của Nhật – Pháp trên đất Nam Kỳ và tác động của nó đối với
xã hội Việt Nam 1940 – 1945 của PGS. TS. Phạm Hồng Tung đề cập đến chính sách của
thực dân Pháp – phát xít Nhật thực hiện trong quá trình cai trị vùng đất Nam Kỳ, nhất là
chính sách “kinh tế chỉ huy” trong giai đoạn 1939 – 1945. Bài viết này cung cấp những
thông tin cần thiết cho việc xác định những tác động (trong đó có một phần của giao
thông vận tải) đối với kinh tế - xã hội Nam Kỳ giai đoạn 1940 – 1945;
- Sách Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu (2012) của Trần Hữu Quang, Nxb Tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh thực hiện đã cho người đọc thấy một bức tranh gần như toàn bộ hạ
tầng đô thị thành phố Sài Gòn ở giai đoạn đầu của thời kỳ Pháp thuộc. Sách cũng trình
bày từng lĩnh vực như việc mở đường, đào kênh và lấp kênh làm đường bộ, đường sắt,
đường hàng hải, hàng không… Cuốn sách được xây dựng trên nguồn tư liệu rất phong
phú cho tới nay chưa được khai thác nhiều. Hầu hết nguồn sử liệu đó là các biên bản, báo
cáo, bản đồ, biểu đồ, hình ảnh có giá trị giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu phục vụ
cho luận án này;
2 Thực hiện theo Quyết định số 101/QĐ-TTg, ngày 22/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020
- Hồ sơ Đường sắt khu đầu mối Tp. Hồ Chí Minh của Cục Đường sắt Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải (2013)2. Phần 1. Bước quy hoạch chi tiết. Tập 1 – Thuyết
24
minh 378DS2.T1 thực hiện theo Quyết định số 101/QĐ-TTg, ngày 22/01/2007 của Thủ
tướng Chính phủ Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020. Đây là tài liệu nghiên cứu quy hoạch chuyên
ngành giao thông vận tải. Nội dung nghiên cứu riêng về đường sắt, đặc biệt là việc xây
dựng hệ thống đường sắt ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Hồ sơ đã dành một phần đáng kể để
giới thiệu chi tiết về những tuyết đường sắt ở Nam Kỳ kết nối các địa phương.Từ trung
tâm là Sài Gòn – Chợ Lớn. Các tuyến gồm: (1) Tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho dài 71km (1880
- 1884) là tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam, do thực dân Pháp xây dựng ở Nam
Kỳ; (2) Các tuyến nhánh của đường sắt khu vực Sài Gòn tới: Gò vấp - Hóc Môn – Thủ
Dầu Một (dài khoảng 14,5 km); Bến Thành - cảng Sài Gòn (dài 4,5 km); Đoạn Lục Quân
Công xưởng ra Tân cảng (dài 5,5 km); (3) Tuyến Đường sắt Xuyên Việt Hà Nội - Sài
Gòn, phần thuộc Nam Kỳ, đoạn Sài Gòn - Bảo Chánh (Long Khánh ngày nay) dài 80,7
km (1913 – 1917); (4) Tuyến Sài Gòn – Lộc Ninh dài 69 km (1933 – 1937). Phần thuyết
minh Lịch sử hình thành mạng đường sắt phía Nam của hồ sơ này là một công trình
nghiên cứu nghiêm túc về đường sắt ở Sài Gòn - Chợ Lớn và hệ thống kết nối các tỉnh ở
Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Phần phân tích của hồ sơ không chỉ cung cấp đầy đủ, chi tiết
thông tin về quá trình xây dựng (thời gian khởi công, hoàn thành và đưa vào khai thác),
độ dài từng tuyến, số lượng, tên và vị trí đặt nhà ga của từng tuyến; thông số kỹ thuật của
từng đoạn tuyến cùng những đánh giá khách quan mang tính chuyên ngành giao thông
vận tải dưới các góc độ về kinh tế giao thông vận tải, kỹ thuật xây dựng và vận hành hệ
thống giao thông… trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Nam Kỳ. Thông tin từ hồ sơ này
phần lớn được khai thác từ tài liệu trữ nên có tính xác thực cao, bổ sung một số thông tin
không thể có được do tài liệu lưu trữ của chính quyền Pháp hiện đang lưu trữ ở Việt Nam
không đầy đủ. Chính những giá trị thông tin và sử liệu này đã giúp ích rất nhiều cho việc
nghiên cứu thực hiện luận án.
- Bài Giao thông ở Mỹ Tho thời Pháp thuộc (1858 - 1945) của Nguyễn Thanh Lợi
đăng trên website Khoa Văn hóa học, Trường ĐH KHXH và NV, ĐHQG TP. HCM là
một bài viết cung cấp cái nhìn khá chi tiết về hệ thống giao thông ở tỉnh Mỹ Tho của
Nam Kỳ. Nội dung bài viết đã phác họa lại phần nào diện mạo lịch sử giao thông của
một tỉnh có tuyến đường sắt đầu tiên kết nối với Sài Gòn ở Nam Kỳ; chính sách đầu tư
cơ sở hạ tầng của thực dân Pháp nhằm khai thác tối đa các nguồn lợi kinh tế của Tây
25
Nam Kỳ - vựa lúa gạo lớn nhất Đông Dương. Đặc biệt, tác giả cho thấy việc tận dụng ưu
thế của giao thông thủy qua hệ thống sông ngòi, kênh đào, đường biển để Mỹ Tho dưới
thời Pháp thuộc thành một đầu mối giao thông quan trọng trong khu vực nối kết đô thị
Sài Gòn với các tỉnh miền Tây và Phnom Penh (Campuchia);
- Tác phẩm Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 – 1954) của tác giả
Nguyễn Đình Tư do Nxb tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh ấn hành năm 2016 là một công trình
sưu tập và giới thiệu khá nhiều các văn bản hành chính của chính quyền thực dân Pháp ở
Nam Kỳ và Đông Dương. Những tài liệu này phản ánh công tác tổ chức quản lý hành
chinh trong đó có hoạt động quản lý tổ chức, quy hoạch và xây dựng hệ thống giao thông
nhằm phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ và Đông Dương. Trong
nghiên cứu này, tác giả dành toàn bộ tập 2 của cuốn sách mô tả quá trình đầu tư và khai
thác nhiều lĩnh vực, đặc biệt là chính sách đầu tư xây dựng hệ thống giao thông rộng
khắp Việt Nam để đáp ứng cho nhu cầu vơ vét tài nguyên, khoáng sản đưa về chính quốc
bằng các loại hình giao thông như đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không.
Cuốn sách đã cung cấp nguồn tư liệu khá phong phú về thời kỳ Pháp thuộc ở Nam Kỳ và
Đông Dương nhưng không có nguồn khai thác cụ thể như quy định của Lưu trữ học,
chưa phản ánh cụ thể quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
giai đoạn 1862 – 1945.
- Sách Lịch sử 60 năm hàng không dân dụng Việt Nam do Cục Hàng không xuất
bản năm 2016 nhân kỷ niệm 60 năm thành lập ngành hàng không dân dụng Việt Nam.
Nội dung sách phác họa bức tranh về Hàng không dân dụng Việt Nam từ trước cách
mạng tháng Tám cho đến quá trình phát triển, hội nhập trên con đường đổi mới và hiện
đại hóa đất nước hiện nay. Tuy nhiên, phần thông tin về Hàng không dân dụng thời Pháp
thuộc còn khá khiêm tốn.
Ngoài các nghiên cứu được xuất bản hay công bố nói trên còn có một số công trình
nghiên cứu là các luận văn, luận án sử học có nội dung về kinh tế - xã hội và cơ sở hạ
tầng của các tỉnh Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Các công trình nghiên cứu này vừa cung cấp
thông tin có giá trị sử liệu cao, vừa có những nhận xét, đánh giá rất khoa học về hệ thống
giao thông, cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói riêng của Nam Kỳ.
Những luận văn, luận án tiêu biểu nói trên bao gồm:
26
- Luận án tiến sĩ sử học (2002) của TS Lê Huỳnh Hoa: Cảng Sài Gòn và những
biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1860 – 1939), Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh. Luận án đi sâu phân tích chủ trương của thực dân Pháp trong việc thiết lập Cảng
Sài Gòn đồng thời tìm hiểu rõ về cơ sở vật chất, quy mô phát triển và quy chế hoạt động
của Cảng này từ 1860 - 1939. Thông qua việc nghiên cứu hoạt động của Cảng, luận án
xác định Cảng Sài Gòn là một đầu mối giao thương, một cơ sở hạ tầng giao thông quan
trọng nhất trong suốt quá trình thực dân Pháp thực hiện công cuộc khai thác thuộc địa ở
Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương. Qua việc khai thác tài liệu lưu trữ của chính quyền
thực dân Pháp cho thấy, Cảng Sài Gòn – một cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng – đầu
mối giao thông xuất nhập khẩu, là công cụ thực thi hữu hiệu nhất chính sách khai thác và
bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương.
- Luận án tiến sĩ sử học (2002) của Trần Hữu Thắng: Thủy nông Tây Nam Bộ
1802-1945, Đại học Vinh, 2018 là một nghiên cứu về hệ thống thủy lợi ở vùng Tây Nam
Kỳ, vùng châu thổ sông Mekong. Nghiên cứu của tác giả đã đề cập đến công cuộc đào,
nạo vét kênh rạch của thực dân Pháp giai đoạn 1862 – 1945. Tuy nhiên, công trình
nghiên cứu này thiên về khai thác vai trò thủy nông là chủ yếu chứ không xem xét nhiều
đến vai giao thông thủy của hệ thống sông ngòi, kênh rạch ở vùng đất này.
Về kinh tế của các tỉnh Nam Kỳ, các công trình có nội dung liên quan đến nghiên
cứu của luận án gồm:
- Luận án tiến sĩ sử học của Trần Thị Mai (1998). Kinh tế Sóc Trăng thời Pháp
thuộc (1867 - 1939). Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM;
- Luận án tiến sĩ sử học của Võ Thị Hồng (1998). Kinh tế An Giang thời Pháp
thuộc (1867 – 1939). Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM;
- Luận án tiến sĩ sử học của Nguyễn Thùy Dương (1998), Kinh tế Hà Tiên – Rạch
Giá thời Pháp thuộc (1867 – 1939). Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nói trên rất có giá trị, góp phần cung cấp
sử liệu, thông tin tổng quan về địa lý, hành chính, kinh tế, xã hội ở Nam Kỳ thời nhà
Nguyễn và thời Pháp thuộc trong đó có hoạt động và vai trò của hệ thống giao thông
trong phát triển kinh tế – xã hội. Những công trình này cũng giúp chúng tôi hiểu rõ
những yếu tố, điều kiện liên quan đến quá trình xây dựng hệ thống giao thông phục vụ
27
cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân ở Nam Kỳ trong thời thuộc Pháp.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI VỀ
VÙNG ĐẤT NAM KỲ VÀ GIAO THÔNG NAM KỲ
1.2.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài về vùng đất Nam Kỳ
Nghiên cứu về Việt Nam thời thuộc Pháp nói chung và Nam Kỳ nói riêng có nhiều
công trình tập thể hay cá nhân do người Pháp hay người châu Âu thực hiện. Họ xuất phát
từ những mục đích khác nhau, bỏ nhiều công sức và thời gian để nghiên cứu khá sâu về
Nam Kỳ. Mỗi tác giả hay nhóm tác giả, tác phẩm đều có những kết quả nghiên cứu quan
trọng, có giá trị khoa học cao, đóng góp nhiều thông tin, tài liệu có giá trị đến nhiều lãnh
vực của vùng đất này. Một số công trình nghiên cứu nói trên về Nam Kỳ thời thuộc Pháp
tiêu biểu như sau:
- Tác phẩm La Cochinchine et ses habitants, provinces de I’Ouest (1899) của tác
giả Baurac J.-C, gồm 308 trang viết về địa lý, dân số, phong tục tập quán cùng 129 tấm
ảnh về các địa phương: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa.
Thông tin từ cuốn sách cung cấp những hiểu biết về cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống giao
thông Nam Kỳ trong thời kỳ đầu trở thành thuộc địa của Pháp.
- Công trình Histoire de la Cochinchine française: des origines à 1883 của
Prosper Cultru (1862 – 1917), 460 trang, có 15 chương, phần kết luận và một thư mục
với đủ các loại tài liệu gắn với nội dung từng chương. Trong 15 chương, nội dung về lịch
sử xa xưa của Nam Kỳ, những hiểu biết về Nam Kỳ của người phương Tây qua tài liệu
của các công ty hàng hải và hồi ký của các giáo sĩ, vấn đề cấm đạo dưới triều Nguyễn và
diễn biến chi tiết cuộc xâm lược Nam Kỳ của quân đội Pháp… Tác giả còn phục dựng
công cuộc bình định và xây dựng chế độ thực dân, quá trình phát triển các thể chế của
thuộc địa Nam Kỳ cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở Nam Kỳ. Đây là một
công trình khoa học nghiêm túc cho dù tác giả của nó là một học giả thực dân. Cuốn sách
này là tài liệu tham khảo quan trọng cho bất cứ công trình nào nghiên cứu về Nam Kỳ
nửa cuối thế kỷ XIX.
- Công trình nghiên cứu Documents pour servir à l’Histoire de Saigon 1859 -1865
(1927) của Jean Bouchot là một tập hợp những tư liệu về lịch sử Sài Gòn bao gồm:
những mô tả về thành phố, lưu ý về lịch sử Sài Gòn; những dự án xây dựng thành phố
28
Sài Gòn của M.Coffyn Colnel du Génie, việc thiết lập thành phố Sài Gòn mang dáng dấp
phương Tây; thống kê số lượng tàu ra vào thương cảng Sài Gòn năm 1860; về thành phố
Sài Gòn giai đoạn 1862 - 1867,… Công trình nghiên cứu này cho thấy, việc xây dựng cơ
sở hạ tầng kỹ thuật thì trước tiên cần phải xây dựng hệ thống giao thông. Không những
thế, do giá trị sử liệu của công trình này chưa từng được công bố nên rất hữu ích cho việc
bổ sung, phục dựng lịch sử Nam Kỳ, có giá trị cho việc nghiên cứu thành phố Sài Gòn
nói chung và sự hình thành hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng Nam Kỳ nói riêng giai
đoạn 1859 – 1865.
- Tác phẩm Guide historique des rues de Sai Gon (1943), được xuất bản bởi Công
ty cổ phần In và Thư viện Đông Dương. Cuốn sách được các giáo sư người Pháp chuyên
ngành lịch sử và địa lý viết về vùng đất Sài Gòn cùng quá trình xây dựng, khai thác Nam
Kỳ và thành phố Sài Gòn – Chợ lớn. Sách gồm 06 chương, thực hiện trên cơ sở tư liệu,
bản vẽ, bảng số liệu thực tế trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở ở Nam Kỳ mà chủ yếu là ở
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
- 23 cuốn chuyên khảo bằng tiếng Pháp về các tỉnh Nam Kỳ (trong đó có 14 cuốn
đánh số từ tập I đến tập XIV) của các tác giả người Pháp và người Việt lần lượt được
xuất bản như Monographie de la province de: Bien Hoa; Ha Tien; Gia Dinh; My Tho;
Ba Ria et de la ville du Cap Saint-Jacques; Chau Doc; Ben Tre; Sa Đec; Tra Vinh; Can
Tho; Soc Trang; Long Xuyen; Phu - Quoc province de Ha tien; Thu Dau Mot ; Vinh
Long ; Bien Hoa; Long Xuyen; Baclieu; Long Xuyen; Go Cong; My Tho; Ba Ria; Ha
Tien. Một số tập sách này không có tên tác giả cụ thể. Các tập có tác giả như:
Monographie de la province de Bien Hoa (M. Robert), Monographie de la province de
Long Xuyen (Victor Duvernoy), Monographie de la province de Baclieu (Louis Girerd),
Monographie de la province de Ba Ria (Lê Thành Tường), Monographie de la province
d’ Ha Tien (Nguyễn Văn Hải). Các tập còn lại đều đứng tên Société des Estudes
Indochinoises (Hội Nghiên cứu Đông Dương).
Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên còn có những chuyên khảo khác về địa
chí các tỉnh ở Nam Kỳ trong giai đoạn 1901 – 1951 được người Pháp xuất bản. Những
loại sách này nhằm hỗ trợ việc cai trị thuộc địa, cụ thể là quản lý nhà nước ở từng địa
phương. Đó là cẩm nang cho các quan đầu tỉnh cũng như bộ máy công quyền có được
những hiểu biết cơ bản về địa phương mình đang quản lý trên nhiều phương diện.
29
Cũng từ mục đích phục vụ hoạt động cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông
Dương, để phục vụ nhu cầu nghiên cứu các địa phương ở Nam Kỳ, các chuyên khảo nói
trên đều được dịch để làm tài liệu tham khảo, nhất là dùng vào việc biên soạn địa chí các
tỉnh ở Nam Kỳ. Một số ít trong những sách nói trên có bản in tiếng Việt như: Địa chí
tỉnh Biên Hòa (Lê Tùng Hiếu, Nguyễn Văn Phúc biên dịch, Nxb Đồng Nai tái bản năm
2015), Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Bà Rịa (Lê Tùng Hiếu, Nguyễn Văn Phúc biên
dịch, Nxb Đồng Nai tái bản năm 2015). Những cuốn chuyên khảo này là cẩm nang cho
các quan đầu tỉnh cũng như bộ máy công quyền để có được những hiểu biết cơ bản về
địa phương trên nhiều phương diện, trong đó có cơ sở hạ tầng là đối tượng nghiên cứu
của luận án mà hệ thống giao thông là một phần của cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Các chuyên
khảo này là tài liệu lịch sử quý, hữu ích để nghiên cứu về xã hội Nam Kỳ đầu thế kỷ XX
trên nhiều phương diện trong đó một phần cơ sở sử liệu để nghiên cứu về sự tác động của
hệ thống giao thông đến kinh tế – xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp.
- Jean – Pierre Aumiphin (1994), Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở
Đông Dương (1859 - 1939), bản dịch, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, Hn.
Sách nói rõ vai trò, tác dụng của sự hiện diện về tài chính và kinh tế của thực dân Pháp
tại Đông Dương dưới các hình thức đầu tư tài chính tư nhân và nhà nước trong việc phát
triển kinh tế. Nội dung cuốn sách gồm: Phần mở đầu: Bối cảnh của sự hiện diện; Phần
thứ nhất: Sự hiện diện tài chính Pháp: Mục 1) Sự hiện diện của tài chính tư nhân; Mục 2)
Sự hiện diện của tài chính nhà nước; Phần thứ hai: Sự hiện diện của kinh tế Pháp: Mục 1)
Sự cấu thành khu vực hiện đại; Mục 2) Những tác động của khu vực kinh tế hiện đại đến
nền kinh tế địa phương; Phần Kết luận.
Nhìn chung, tác giả trình bày những hoạt động đầu tư của tư bản Pháp ở Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Campuchia. Nhịp độ đầu tư này bao gồm hai lĩnh vực: đầu
tư nhà nước và đầu tư của các công ty vô danh vào Đông Dương trong đó có hoạt động
đầu tư xây dựng và tổ chức khai thác hệ thống đường sắt nội đô Sài Gòn – Chợ Lớn và
Sài Gòn – Mỹ Tho. Đó là những tuyến đường sắt đầu tiên ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông
Dương. Nhờ có hoạt động đầu tư này mà nền kinh tế Nam Kỳ có sự chuyển biến nhanh
chóng. Đặc biệt, trong tác phẩm này, thông qua việc khai thác các số liệu thống kê tài
chính, tác giả nêu lên sự nổi bật những biến đổi sâu sắc góp phần “hiện đại hóa” nền kinh
tế Đông Dương trong đó có sự phân bổ các dòng vốn cho việc hình thành cơ sở hạ tầng
30
kinh tế được xét cả về định lượng và định tính.
- Paul Doumer, L’Indo - Chine francaise” (Souvernir) - Xứ Đông Dương (Hồi
ký), bản dịch của Lưu Đình Tuấn, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thủy.
Nxb Thế giới ấn hành năm 2016. Nội dung cuốn sách ghi lại lịch sử những năm Paul
Doumer cai quản Đông Dương (1897-1902) về vấn đề văn hóa, xã hội. Việt Nam dưới
thời Pháp thuộc được tác giả phản ánh trong sách bao gồm sự thay đổi dáng dấp các đô
thị, về nếp sống và tập quán của tầng lớp thị dân, nông dân, đời sống chính trị và đời
sống thường nhật của những nhân vật có tầm ảnh hưởng trong vùng, những vấn đề văn
hóa, xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc.
Riêng về Nam Kỳ, Paul Doumer đã dành một chương (63 trang) viết về thời gian
ông làm Toàn quyền Đông Dương. Ông viết về sự phồn thịnh của các tỉnh miền Tây, về
đời sống của cư dân Nam Bộ, về một số nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến vùng đất
này. Ông nhận xét các tỉnh miền Đông như Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Biên Hòa lúc bấy giờ
không phát triển bằng các tỉnh miền Tây; hai thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn thực sự là
Hòn ngọc viễn đông và “Sài Gòn, thành phố hành chính, hàng hải và quân sự, do người
Pháp tạo lập; Chợ Lớn thành phố thương mại và công nghiệp đã tồn tại trước khi chúng
ta (người Pháp) tới”.
Ông cũng nhận xét Nam Kỳ “Là một xứ có hệ thống đường thủy dài nhất và tốt
nhất”, và nhận định: “Chính phù sa các sông Mê Kông, sông Đồng Nai, sông Vàm cỏ và
hàng trăm chi lưu của chúng gần đây đã tạo ra miền đất Nam Kỳ, và vẫn đang mở rộng
dần ra từ thế kỷ này sang thế kỷ khác”. Tác giả đã quan sát khá tỉ mỉ về sự vận động của
thủy triều trong vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy “lợi dụng thủy triều lên xuống để
vận tải hàng hóa mà không mất nhiều công sức. Ghe xuồng của họ xuôi dòng với sự trợ
lực của buồm hoặc mái chèo vừa đủ để có thể lái được chúng. Khi thủy triều đổi hướng
mà chưa tới được điểm đến thì họ bỏ neo hoặc buộc những chiếc tam bản vào bờ, bình
tĩnh chờ thủy triều đưa dòng nước thuận tiện đến, và cứ như thế cho cả chuyến đi và
chuyến về. Vận động thủy triều cung cấp lực miễn phí cho ngành giao thông đường
thủy”. Trong chương cuối, tác giả tổng kết sứ mệnh toàn quyền Đông Dương của mình.
Ông tự nhận đã tạo ra một “hệ thống giao thông cơ bản" ở Đông Dương trong đó có Nam
Kỳ. Ông cho rằng, các chính sách của Pháp trong thời gian này đã làm cho Việt Nam
31
chuyển sang một bước ngoặt mới, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến
thiết thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa Đông Dương nói chung và Nam Kỳ nói riêng.
Đây là nội dung có liên quan nhiều đến nội dung nghiên cứu của luận án.
Tóm lại, tác giả Paul Doumer đã dành nhiều nhiều thời gian và tâm huyết để tìm
hiểu về đời sống, văn hóa xã hội, về vùng đất, về con người và cả sự phát kinh tế của
vùng. Ông thể hiện là một người có kiến thức sâu sắc về vùng đất, về con người của Nam
Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung. Tuy nhiên Paul Doumer là nhà thực dân, suy nghĩ
và hành động cũng như kết quả phản ánh của ông đều vì lợi ích nước Pháp.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài về giao thông Nam Kỳ
Trong thực tế, qua khảo sát cho thấy, nghiên chung về Nam Kỳ được nhiều học giả
nước ngoài quan tâm thực hiện, có nhiều công trình có chất lượng cao được xuất bản hay
công bố. Ngược lại, các nghiên cứu có tính chuyên ngành, chuyên sâu về cơ sở hạ tầng,
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nhất là nghiên cứu về hệ thống giao thông Nam Kỳ thời thuộc
Pháp không nhiều. Sau đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về giao thông Nam
Kỳ, Việt Nam và Đông Dương thời thuộc Pháp:
- Sách Histoire de l'expédition de Cochinchinese en 1861 của Léopold Pallu de
Baririère xuất bản bởi Librairie Hachette (1864) đã mô tả điều kiện tự nhiên của Sài Gòn
cũng như cả Nam Kỳ nói chung. Sách có 10 chương, 03 trang hình vẽ gồm một 01 bản
đồ sáu tỉnh Nam Kỳ vào thời đó, 02 hình bố trí của đại đồn Chí Hòa, thành phố Saigon -
Cholon và hệ thống sông ngòi chung quanh; Mỹ Tho và hệ thống kênh rạch, cuối cùng là
phần phụ lục. Tác giả cho rằng: “Kênh rạch nối liền năm con sông lớn ở Nam Kỳ tạo ra
vô số đường di chuyển vô cùng hữu ích cho thương mại, cho chiến tranh mà cũng tiện lợi
cho đạo tặc nữa. Một thị trấn đúng ra phải là một trung tâm vừa quân sự vừa thương mại,
và nếu đúng như thế thì sự đánh chiếm của ta sẽ gọn gàng hơn; nhưng thật ra thì hai tính
cách này tách rời hẳn nhau: Sài Gòn là trung tâm quân sự, Mỹ Tho là trung tâm thương
mại. Sài Gòn dựa vào thành lũy và vị trí nằm chắn ngang các đường ra Huế, lên Cao
nguyên và xứ Mọi đã trở thành trung tâm quân sự và hành chính của cả sáu tỉnh. Hai
trung tâm thương mại và quân sự là Sài Gòn và Mỹ Tho dựa vào nhau bằng đường thủy
vận; đó là con kinh Tàu mà tầm quan trọng chiến lược phải kể vào bậc nhất”; “…kênh
Tàu và hai kênh phụ, mặt nước phẳng lỳ, dùng làm bến cho thuyền bè trong xứ”;
32
“…hàng ngàn ghe xuồng chen nhau ở bờ sông tạo ra một thành phố nổi nho nhỏ”.
- Cuốn Les travaux publics de L’indochine của A.A. Pouyanne (1926), ông là
Tổng Thanh tra công chính Đông Dương. A.A. Pouyanne đã có những ghi chép khá rõ
các công trình giao thông quan trọng ở Đông Dương thời thuộc Pháp. Sách dựa trên cơ
sở các báo cáo của Nha (sở) công chính của các kỳ/xứ ở Đông Dương để phân tích các
vùng đất và phân chia các công trình công chính. A.A. Pouyanne đã chia các công trình
công chính làm 03 loại rất rõ ràng, khoa học và cụ thể như sau: Loại thứ nhất là các công
trình đem lại những lợi ích trực tiếp làm tăng ngay năng suất của vùng đất được xây
dựng công trình; Loại thứ hai là các công trình đem lại những lợi ích gián tiếp gồm
những công trình giữ một vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế của Liên bang Đông
Dương ; Loại thứ ba là các công trình không đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của Liên
bang Đông Dương mà là kết quả của sự phát triển và những nghĩa vụ xã hội.
Việc phân chia này giúp chính quyền thực dân đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ
thống giao thông để khai thác nguồn lợi trên các vùng đất ở Nam Kỳ cũng như toàn
Đông Dương. Đây là một tác phẩm cung cấp sử liệu toàn diện về hệ thống giao thông ở
Đông Dương trong đó có Nam Kỳ và cũng là những thông tin quản lý của chính quyền
phục vụ cho công tác hình thành xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Đông
Dương. Đặc biệt, qua tác phẩm này, A.A. Pouyanne đã cung cấp thông tin và những
phân tích, nhận xét, đánh giá rất rõ về tiềm năng, lợi thế của hệ thống giao thông từng
vùng đất, từng xứ (nhất là Nam Kỳ), phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp ở Đông Dương. Đây là tác phẩm quan trọng, không thể thiếu trong việc nghiên
cứu về giao thông ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương.
- Albert Pouyanne (1930), Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien. Saigon hiện đang được lưu giữ tại Thư viện quốc gia3 là một công trình nghiên cứu của
Pouyanne xuất bản ở Sài Gòn vào năm 1930. Tác giả đã phản ánh khá toàn diện về các
công trình thủy lợi và cũng là hệ thống giao thông thủy ở Tây Nam Kỳ, nhất là về công
trình kênh Rạch Giá – Hà tiên với nhiều thông tin chuyên ngành. Bằng những thông tin
trong sách này cùng thông tin trong cuốn Les travaux publics de L’indochine của tác giả
3 http://sach.nlv.gov.vn/sach/cgi-bin/sach?a=d&d=NGFZJOHifg1930
xuất bản năm 1926, luận án đã xác lập được các biểu đồ về hệ thống giao thông ở Nam
33
Kỳ trong 02 giai đoạn 1862 – 1918 và 1919 – 1945.
- Công trình nghiên cứu của Ryan S. Mayfield. The Road Less Traveled
Automobiles in French Colonial Indochina đăng trên Tạp chí ASIANetwork thuộc Đại
học Ohio Wesleyan, năm 2003. Nội dung công trình nghiên cứu về phát triển giao thông
ở Đông Dương trong đó có Nam Kỳ. Nghiên cứu của Ryan S. Mayfield, là một tài liệu
đặc biệt, có nhiều thông tin vừa tổng quát, vừa chi tiết, nhất là các số liệu thống kê về hệ
thống đường bộ, số lượng và chủng loại xe ô tô (xe hơi) ở Đông Dương trong đó có Nam
Kỳ trong giai đoạn từ năm 1918 - 1937. Đây là một trong số rất ít những công trình
nghiên cứu cung cấp thông tin cụ thể nhất, tổng quát nhất về ô tô - một loại hình giao
thông mới, hiện đại cùng các thông tin về việc hình thành, xây dựng và hiện đại hóa hệ
thống đường bộ ở Nam Kỳ và Đông Dương;
- Lịch sử Hàng không (Histoire de l'Aviation) là website của một hội nghề nghiệp.
Nội dung bài viết đăng trên website này cung cấp nhiều thông tin liên quan đến sự xuất
hiện, việc hình thành và phát triển của ngành vận tải hàng không ở Đông Dương trong đó
có Nam Kỳ - nơi xuất hiện chiếc tàu bay đầu tiên ở Việt Nam và cũng là nơi đầu tiên xây
dựng sân bay vào thập niên thứ hai của thế kỷ XX.
1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG GIAO
THÔNG NAM KỲ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN
CỨU
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về hệ thống giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp của các tác giả đi
trước đã đạt được một số kết quả, có thể điểm qua một số nội dung chính sau đây:
1) Công trình của các nhà khoa học đi trước ở Việt Nam và nước ngoài có một
điểm chung là rất có giá trị về tư liệu và sử liệu, góp phần cung cấp những hiểu biết tổng
quan địa lý, hành chính, kinh tế, xã hội ở Nam Kỳ. Các công trình này cũng trình bày về
chính sách xây dựng và phát triển hệ thống giao thông như:
- Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giao thông với từng loại hình giao
thông như giao thông đường thủy, giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, giao
thông đường hàng không;
- Vốn, hạn mức và quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ
34
thuật nhất là đầu tư xây dựng hệ thống giao thông ở Nam Kỳ và cả Đông Dương.
2) Hầu hết những công trình của các học giả Việt Nam và một số học giả nước
ngoài đã cho thấy rõ dấu ấn của các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp thực hiện
ở Việt Nam và vai trò của hệ thống giao thông trong công cuộc đó;
3) Những công trình về lịch sử Nam Kỳ dưới thời Pháp thuộc của các học giả nước
ngoài – phần lớn là người Pháp đã tái hiện quá trình thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ và
phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ; mô tả sự thay đổi về diện mạo của một số
thị tứ như Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Tre và quan trọng nhất là chuỗi đô thị Sài
Gòn - Chợ Lớn, hai thành phố mang dáng dấp của một thành phố phương Tây. Các công
trình này chủ yếu là những nghiên cứu một cách riêng lẻ về từng địa phương, từng vấn
đề, từng loại hình giao thông... Nội dung được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất ở thời kỳ
này là quá trình xây dựng, kiến thiết các thành phố trong chính sách cai trị của Thực dân
Pháp.
Nhìn chung, những công trình của các học giả nước ngoài được nhìn nhận dưới ý
chí chủ quan nên có những đánh giá chưa thật khách quan đúng với điều kiện xã hội, con
người Việt Nam lúc bấy giờ; có sự kiện được ghi chép lại không trùng khớp với lịch sử
mà chúng ta đã biết, nhất là trong giai đoạn Việt Nam bị xâm lược và thực dân Pháp đô
hộ. Đối với các học giả trong nước, do một thời gian dài, đất nước ta phải trải qua chiến
tranh, các nghiên cứu về Nam Kỳ cũng chỉ tập trung về phong trào đấu tranh của nhân
dân Nam Kỳ chống thực dân Pháp xâm lược và nghiên cứu hệ thống giao thông Nam Kỳ
dưới góc độ xem xét như là di sản của chủ nghĩa thực dân nên những đánh giá, nhận xét
chưa thật cởi mở, khách quan.
Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu của đề tài, các công trình nghiên cứu này vẫn
rất có giá trị về mặt tư liệu, những nhận xét và thông tin liên quan được dùng để tham
khảo. Những công trình nói trên giúp hiểu rõ hơn về sự hình thành, tồn tại và phát triển
của hệ thống giao thông đối với kinh tế Nam Kỳ từ những góc nhìn khác nhau tạo điều
kiện để luận án phục dựng được một phần lịch sử Nam Kỳ, để có cách nhìn nhận, đánh
giá khách quan và khoa học nhất.
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Vấn đề trọng tâm mà luận án cần làm rõ chủ trương, chính sách đầu tư xây dựng,
35
quản lý và khai thác sử dụng của từng loại hình giao thông mà thực dân Pháp thực hiện ở
Nam Kỳ. Từ đó xác định được những tác động của những chủ trương, chính sách này
đến việc hình thành cơ sở hạ tầng mới, nhất là hạ tầng kỹ thuật ở Nam Kỳ đối với hai
cuộc khai thác thuộc địa mà thực dân Pháp đã thực hiện ở Nam Kỳ và Đông Dương.
Tiếp đó, luận án cần nghiên cứu một cách toàn diện về quá trình hình thành và phát
triển của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ nhằm phục dựng bức tranh về giao thông Nam
Kỳ thuộc địa với các loại hình giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng
không.
Ngoài ra, từ các kết quả nghiên cứu nói trên, luận án cũng cần làm rõ vai trò và ảnh
hưởng của hệ thống giao thông đối với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Nam Kỳ và Đông Dương; tác động của hệ thống giao thông mới được xây dựng đối với
kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ; rút ra những ưu, nhược điểm của hệ thống giao thông đối với
đời sống kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ trong giai đoạn từ 1862 – 1945.
Để thực hiện những nghiên cứu nói trên, luận án phải tập hợp, lựa chọn, xử lý các
nguồn tài liệu khác nhau, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm Lưu trữ
quốc gia và Lưu trữ hải ngoại của Cộng hòa Pháp. Trên cơ sở đó, luận án sẽ góp phần hệ
thống hóa và làm phong phú thêm khối tài liệu liên quan đến quá trình xây dựng và phát
triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong thời thuộc Pháp.
36
CHƯƠNG 2.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO
THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 – 1918
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT NAM KỲ VÀ HỆ THỐNG GIAO
THÔNG Ở NAM KỲ TRƯỚC NĂM 1862
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và đơn vị hành chính Nam Kỳ
Về địa danh “Nam Kỳ”
Địa danh “Nam Kỳ” có nhiều tên gọi khác trong quá trình lịch sử hình thành vùng
đất này như: xứ Đồng Nai, Phiên An, Nam Kỳ (1832), Cochinchine (hay Basse
Cochinchine) thời thuộc Pháp và Nam Bộ thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Quốc hội,
1946). Do vậy, để đảm bảo tính lịch sử của tên vùng đất phương Nam này, trong luận án,
chúng tôi xin sử dụng thống nhất địa danh “Nam Kỳ” cho tất cả các vấn đề, sự kiện có
liên quan đến hết thời điểm năm 1945 trước khi xuất hiện địa danh “Nam Bộ”.
Sách Đại Nam thực lục Tiền biên ghi nhận: “Mậu dần, năm thứ 7 [1698], tháng 2,
sai Cai cơ thủy quân là Nguyễn Hữu Khánh và Nguyễn Cửu Vạn giữ các cửa biển. Bắt
đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia
đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh
Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm
phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay)” (Quốc sử quán Triều Nguyễn,
2011).
Đến năm 1802 đổi thành trấn Gia Định. Năm 1808, vua Gia Long đổi trấn Gia Định
thành Gia Định Thành, bao gồm 05 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh
Thanh (sau chia thành Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường)
và Hà Tiên.
Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định; năm 1862 chiếm 03 tỉnh
miền Đông và năm 1867 thôn tính luôn 03 tỉnh miền Tây, biến toàn bộ Nam Kỳ thành
thuộc địa của Pháp. Năm 1887 Nam Kỳ thuộc Liên bang Đông Dương. Trong suốt thời
kỳ Pháp thuộc, vùng đất này vẫn sử dụng địa danh Nam Kỳ (Cochinchina).
Về điều kiện tự nhiên
37
Nam Kỳ là vùng đất được hình thành ở lưu vực sông Đồng Nai và sông Mekong.
Vùng đất Nam Kỳ do các chúa Nguyễn khai phá và xác lập chủ quyền. Cho đến đầu thế
kỷ XIX, vùng đất trù phú với nhiều tài nguyên thiên nhiên này dưới con mắt của thực
dân Pháp vẫn là một vùng nông nghiệp lạc hậu.
Vị trí địa lý: Phía Tây, Đông và Đông Nam giáp biển; Phía Bắc và Tây Bắc
giáp Campuchia và một phần phía Tây Bắc giáp Nam Trung Bộ. Đồng bằng châu thổ của
hệ thống sông Đồng Nai (miền Đông) và sông Mekong (miền Tây) hình thành nên vùng
đất Nam Kỳ.
Về địa hình: Nam Kỳ có địa hình khá bằng phẳng. Mật độ sông rạch ở nơi đây dày
đặc do hệ thống sông Đồng Nai và nhất là sông Mekong (sông Cửu Long) tạo nên. Đặc
biệt sông Mekong khi vào miền Tây Nam Kỳ chảy theo hai nhánh lớn (sông Tiền và
sông Hậu) tạo ra hệ thống phụ lưu gồm chín cửa lớn đổ ra biển. Sông tự nhiên ở Nam Kỳ
đều chảy theo hướng Đông - Tây đã chi phối đến phương thức khai thác hệ thống kênh
rạch ở vùng này nhằm tận dụng sự thuận lợi của dòng chảy tự nhiên. Việc khẩn hoang ở
địa bàn sông nước này được thực hiện bằng việc đào kênh nhằm dẫn thuỷ nhập điền và
tạo ra dòng thủy đạo phục vụ nhu cầu đi lại, giao thương.
Về kinh tế: cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược, Nam Kỳ là một vùng kinh tế
phát triển trên nền tảng nông nghiệp lúa nước, kết hợp với các nghề thủ công, nghề đánh
bắt thủy sản. Sản xuất ở Nam kỳ là một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự
cấp, chủ yếu vẫn là sản xuất lúa gạo và nông sản. Đó là nền sản xuất chưa mang tính chất
của một nền sản xuất hàng hóa.
2.1.2. Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trước năm 1862
Trước khi người Pháp đến xâm chiếm và biến nơi đây thành thuộc địa, Nam Kỳ có
một hệ thống giao thông khá khiêm tốn gồm đường bộ và đường thủy, trong đó giao
thông thủy chủ yếu là tận dụng và khai thác hệ thống kênh rạch.
2.1.2.1. Giao thông đường bộ
Khi nói về giao thông đường bộ Nam Kỳ ở thời điểm trước và ngay sau khi thực
dân Pháp xâm lược (1859), nhiều nghiên cứu có chung nhận xét là: giao thông đường bộ
ở Nam Kỳ lạc hậu, chỉ phù hợp với một nền kinh tế - xã hội phong kiến tự cung tự cấp.
Các tuyến đường hình thành từ thời nhà Nguyễn
38
Phía đông Nam Kỳ, đường bộ “xuyên Việt” - đường thiên lý nối liền từ Sài Gòn -
Gia Định ra tới Huế, bắt đầu từ phía bắc cầu Son (Gia Định), chạy ra phía Bắc ven qua
núi Châu Thới, tới bến đò Ngựa (chợ), qua Long Thành, Bà Rịa... Đường thiên lý đi tiếp
xuống huyện Long Điền, huyện Đất Đỏ, thị trấn Phước Bửu (Xuyên Mộc), rồi sang địa
phận của huyện Hàm Tân (tỉnh Bình Thuận). Từ đây, đường thiên lý chạy dọc ven biển
ra đến kinh đô Huế.
Phía tây Nam Kỳ, đường thiên lý từ cửa Tây thành đến địa giới tỉnh Gia Định, dài
5.600 trượng (khoảng 95 km). Ngược lại, con đường từ Mỹ Tho cặp theo kênh Bảo Định,
qua Tân Hương, giồng Cai Yến (Khánh Hậu), thị xã Tân An (Long An), Thủ Thừa (Bến
Lức), dọc theo sông Bến Lức về Sài Gòn qua Gò Đen, chợ Đệm, Bình Điền, An Lạc, chợ
Phú Lâm… đến cửa Tốn Thuận (góc đường Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngày
nay).
Ngoài đường thiên lý, các vua triều Nguyễn còn đặc biệt chăm lo khôi phục và mở
ruộng mạng lưới giao thông để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, nhất là ở vùng Gia
Định và đồng bằng sông Mekong. Khu vực Tây Nam Kỳ lúc ấy đã có hàng ngàn cây số
đường đất liên huyện, liên tỉnh, liên vùng, liên miền, nối thủ phủ Gia Định với các tỉnh
miền Đông và miền Trung (Lê Quốc Sử, 1994).
Hệ thống đường bộ nội vùng ở Nam Kỳ dưới thời nhà Nguyễn chủ yếu là đường
đất, nhỏ hẹp chỉ phù hợp cho người đi bộ và các phương tiện thô sơ như xe bò, xe ngựa.
Đặc biệt ở Nam Kỳ, nơi có nhiều sông, rạch cắt ngang, rất hiếm nơi có cầu, chỉ dành cho
người đi bộ hay đi ngựa, nhằm phục vụ thông tin liên lạc qua hệ thống dịch trạm nối từ
tỉnh này qua tỉnh khác. Ngay các chuyến vi hành dài ngày của các quan chức đều di
chuyển bằng thuyền. Hơn nữa, đường bộ lúc này không an toàn đối với khách bộ hành
bởi lẽ “có thể gặp ách tắc do lũ lụt đe dọa, thú dữ và trộm cướp thường xuyên” (Lê
Huỳnh Hoa, 2009).
Tuy vậy, cùng với đường thiên lý, mạng lưới đường bộ thời Nguyễn đã góp phần to
lớn trong hoạt động kinh tế và chính trị dưới thời phong kiến. Hệ thống này đã giúp các
vua triều Nguyễn trong công cuộc quản lý đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ lịch sử có
nhiều biến động. Đó cũng chính là đường giao thông phục vụ đi lại, giao lưu và buôn
bán.
39
Phương tiện giao thông đường bộ
Phương tiện lưu thông trên đường đô thị ở Nam Kỳ chủ yếu là xe kéo – loại xe có
bánh tròn to, dùng bò kéo. Các loại xe này có mái làm bằng rơm để tránh nắng. Một cặp
bò kéo có thể đi được khoảng 50km/ngày và có thể vượt qua các đoạn đường mà các loại
xe kéo khác không qua được. Bò cũng có thể được thay bằng trâu, bước đi chậm hơn,
đều hơn và dai sức hơn hoặc ngựa giống nhỏ, béo lùn và bàn chân chắc chắn.
2.1.2.2. Giao thông đường thủy
Ở Nam Kỳ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch được tạo thành bởi sông Đồng Nai và
sông Mekong - hai hệ thống sông vào loại lớn nhất Việt Nam. Sông Đồng Nai trao đổi
nước với hệ thống sông Mekong tạo thành một mạng lưới sông nước liên hoàn của vùng
đất này. Bên cạnh mạng lưới sông ngòi tự nhiên là mạng lưới kênh đào rất được quan
tâm thực hiện. Cả hai mạng lưới ấy kết hợp lại, tạo thành một hệ thống thủy vận chằng
chịt và phong phú của vùng đất được mệnh danh là vùng sông nước.
Có thể nói, người Việt đã bắt tay đào kênh, đào sông từ các thế hệ những người di
dân từ thế kỷ XVII. Nhưng để công cuộc này mang tính quy mô cấp nhà nước thì chỉ
diễn ra dưới thời các vua Nguyễn. Người Việt đến vùng đất này khai phá, họ đã gặp và
khai thác điều kiện thiên nhiên sông nước thuận lợi nên việc khẩn hoang khá hiệu quả.
Và để cho hệ thống sông ngòi đạt hiệu quả hơn, họ đã ra sức cải tạo, nạo vét, khai
mương, đào kênh, bổ sung cho những khiếm khuyết của tự nhiên. Cuốn Đại Nam Thực
Lục đã ghi chép lại những sự kiện này từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận
Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) có các ghi chép về quá trình tổ chức cải tạo và
đào đắp hệ thống kênh rạch ở Nam Kỳ (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2004). Có thể kể
đến một số kênh đào mang tính chiến lược, ảnh hưởng đến sự phát triển của một vùng
rộng lớn ở Tây Nam Kỳ như sau:
- Kênh Bảo Định (1819) còn có tên là kênh Vụng, kênh Vũng Gù, được đào lần đầu
vào năm 1705, thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1819, Gia Long cho cải tạo và trở
thành kênh đào sớm nhất ở Nam Kỳ. Người tổ chức đào kênh là Nguyễn Cửu Vân;
- Kênh Ruột Ngựa còn có tên gọi là Mã Trường Giang. Kênh được đào năm 1772
thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1766 - 1775). Người tổ chức đào kênh là Đốc chiến
Nguyễn Cửu Đàm;
40
- Kênh Phố Xếp (1778) do người Hoa tổ chức thực hiện. Kênh này nối với kênh
Ruột Ngựa, cắt ngang rạch Chợ Lớn lên hướng Bắc đến Chợ Rẫy. Đây là con kênh đào
nhỏ và ngắn nhất trong thời nhà Nguyễn;
- Kênh Rạch Chanh (1785) còn có tên là kênh mới Đặng Giang (Chanh Giang Tân
Kênh) hay gọi là kênh Bà Bèo thuộc trấn Định Tường. Vị trí kênh Rạch Chanh ngày nay
ở khu vực hai huyện Cai Lậy và Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Người tổ chức đào kênh là
đô đốc Nguyễn Trấn của quân Tây Sơn;
- Kênh Thoại Hà (1818) còn có tên là Ba Lạch hay Tam Khê. Ngày nay gọi là kênh
Rạch Giá - Long Xuyên, dân gian còn gọi là kênh Núi Sập. Người đưa ra ý tưởng và
thực hiện đào kênh Thoại Hà là trấn thủ Nguyễn Văn Thoại – Thoại Ngọc Hầu;
- Kênh An Thông (1819), tục danh là sông Sài Gòn hay kênh Thông. Phó tổng trấn
Gia Định Huỳnh Công Lý vâng lệnh vua Gia Long đứng ra tổ chức việc đào kênh này.
Kênh An Thông chính là một phần của kênh Ruột Ngựa đào từ năm 1772, đến năm
1819;
- Kênh Vĩnh Tế (1819 – 1824) được thực hiện trong 5 năm, qua hai triều vua. Tổ
chức thực hiện từ tướng Nguyễn Văn Nhơn (1819 - 1820) cho đến Lê Văn Duyệt - Tổng
trấn Gia Định Thành (1820 - 1832);
- Kênh Lợi Tế (1829) còn gọi là kênh Trà Cú. Khởi nguyên của kênh này là một
con sông tự nhiên. Tổng trấn Lê Văn Duyệt là người dâng sớ xin làm và trực tiếp thực
hiện;
- Kênh Long An (1843 – 1844) còn có tên là sông Tân Châu. Ngày nay gọi là kênh
Vĩnh An.
Với hệ thống đường thủy như trên, các kênh – rạch ở Nam Kỳ vừa làm công việc
tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, vừa là các thủy lộ thông thương nội vùng và giữa các địa
phương. Đặc biệt, một số kênh đào ở biên giới Tây Nam còn có cả chức năng hoạch định
biên giới, phòng thủ và bảo vệ cương vực, lãnh thổ.
Nhìn chung, thời kỳ nhà Nguyễn đã có ý thức trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng này chỉ có thể phục vụ cho nền kinh tế phong kiến tiểu
nông mang tính chất tự cung tự cấp và phục vụ cho chức năng quân sự, thông tin liên lạc.
Về kinh tế, cơ sở hạ tầng này chỉ phù hợp với sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là nông
41
nghiệp lúa nước và giao lưu hàng hóa nội địa. Chính vì vậy khi thực dân Pháp tiến hành
khai thác Nam Kỳ, điều quan trọng đầu tiên là phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà
trước hết là giao thông thuỷ để nhằm phục vụ cho nhu cầu tiếp tục xâm lược các phần
đất còn lại của Nam Kỳ và khai thác tài nguyên của thuộc địa này phục vụ chính quốc.
2.2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VÀ XÂY DỰNG HỆ
THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 -1918
Mục đích tối thượng của thực dân Pháp khi xâm lược và cai trị Việt Nam và Đông
Dương là khai thác thuộc địa. Do vậy, chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
được áp dụng đầu tiên ở Nam Kỳ và sau là toàn cõi Đông Dương là: Kết quả khai thác ở
Nam Kỳ và Đông Dương thuộc địa phải được đặc biệt dành riêng cho chính quốc. Sản
xuất ở xứ thuộc địa này chỉ nhằm cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay vật phẩm mà
chính quốc không có. Mọi sự phát triển kinh tế, giáo dục,… ở xứ thuộc địa này cũng chỉ
trong giới hạn phục vụ và không làm hại đến lợi ích của chính quốc.
Do vậy, để chuẩn bị cho việc thực hiện Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
nhất (1897 – 1914), chính quyền thực dân ở Nam Kỳ quyết định thực hiện sớm nhất một
loạt các chủ trương, biện pháp quan trọng như: thiết lập bộ máy cai trị (tổ chức hành
chính nhà nước); triển khai một số biện pháp, kế hoạch để phát triển kinh tế, xã hội trong
đó có hoạt động mang tính chất trọng tâm, then chốt là hình thành, xây dựng và phát
triển hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ. Những bước đi cụ thể để thực hiện chính sách
khai thác thuộc địa và xây dựng hệ thống giao thông mới của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
giai đoạn 1862 – 1918 cụ thể như sau.
2.2.1. Thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ
Sau khi không thực hiện được chính sách đánh nhanh, thắng nhanh ở Đà Nẵng và
Huế (1858), năm 1859, thực dân Pháp đã tiến quân vào Nam Kỳ đánh chiếm thành Gia
Định.
Năm 1862, triều đình Huế cắt 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và
Định Tường) nhượng cho Pháp.
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm luôn 03 tỉnh miền Tây, biến toàn bộ Nam Kỳ
thành thuộc địa. Từ đó, Nam Kỳ trực thuộc Bộ Hải quân và thuộc địa (Ministère de la
Marine et des Colonies). Người đứng đầu chính quyền ở Nam Kỳ thuộc địa là một thống
42
đốc người Pháp (Lieutenant - Gouverneur de la Cochinchine/Amiraux – Gouverneurs).
Phó đô đốc Charles Rigault de Genouilly là Thống đốc đầu tiên ở Nam Kỳ (18/02/1859 -
03/1859).
Năm 1887, Nam Kỳ chính thức trở thành lãnh thổ nằm trong Liên bang Đông
Dương.
Để thực hiện xâm chiếm lâu dài, Tổng thống Pháp ban hành nhiều sắc lệnh nhằm
thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và toàn Đông Dương (Journal officiel de la
cochinchine Française, 1887; Journal officiel de l’indochine Française, 1899; Bulletin
Administratif de la cochinchine, 1911. TTLTQG II), cụ thể:
Ngày 08/8/1861, Hoàng đế Pháp ban hành Sắc lệnh cử Chuẩn Đô đốc Alphose
Bonnard giữ chức Thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ. Trong suốt thời kỳ tồn tại gần 86
năm (từ 18/02/1859 - 09/03/1945), trước khi Nhật đảo chính, Nam Kỳ có 75 Thống đốc
(hoặc quyền Thống đốc) trong đó có 19 thống đốc võ quan và 56 thống đốc dân sự. Ngày
29/11/1861 - thời điểm đầu khi thực dân Pháp thực hiện quyền cai trị ở vùng đất này,
Phó Thuỷ sư Đô đốc Charner giao quyền cho Chuẩn đô đốc Bonnard làm đại diện toàn
quyền cho Hoàng đế Pháp kiêm Tổng Tư lệnh chỉ huy quân đội thực dân Pháp tại Nam
Kỳ (BOC, 1861. TTLTQG I).
Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh thành lập Liên bang Đông
Dương trực thuộc Bộ hải quân và Thuộc địa.
Ngày 29/10/1887, Tổng thống Pháp ban hành Sắc lệnh ấn định quyền hạn của
Thống đốc Nam Kỳ. Sắc lệnh này được Tổng thống Pháp ban hành lại ngày 20/10/1911.
Chế độ thống trị thuộc địa bao gồm bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Đông
Dương - Législation coloiale générale et régime légi – slalif, administratif et judicioire de
l’Indochine (M. L. Jean, 1939), quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống chính quyền
thực dân tại Nam Kỳ thuộc địa trải qua các thời kỳ khác nhau.
2.2.2. Thiết lập bộ máy hành chính ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1918
Nam Kỳ là nơi đầu tiên ở Đông Dương được thực dân Pháp thiết lập bộ máy hành
chính vừa để củng cố quyền kiểm soát đối với những nơi mới chiếm đóng, vừa làm bàn
đạp để mở rộng địa bàn xâm lược. Ban đầu bộ máy cai trị được thiết lập ở ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) bằng Hòa ước Nhâm Tuất vào năm
43
1862. Đến năm 1867, quyền quản lý mở rộng ra ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long,
An Giang và Hà Tiên), được hợp thức hóa bằng Hiệp ước năm 1874.
Năm 1876, thực dân Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính của nhà Nguyễn trước đây
(sáu tỉnh Nam Kỳ) và thay vào đó, Thống đốc Nam Kỳ đã ban hành Nghị định ngày
05/01/1876 chia Nam Kỳ thành 04 khu vực hành chính - Circonspections administratives (BOC, 1876. J 29. TTLTQG I) gồm:
+ Khu vực Sài Gòn: Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa;
+ Khu vực Mỹ Tho: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công và Chợ Lớn;
+ Khu vực Vĩnh Long: Vĩnh Long, Ben Tre, Trà Vinh và Sa Đéc;
+ Khu vực Bát Xát: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ và Sóc
Trăng.
Sự phân chia hành chính này chỉ kéo dài đến đầu thế kỷ XX khi Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định đổi tên gọi "hạt" thành "tỉnh" (province), đổi chức Tham biện
thành Chủ tỉnh (Chef-province hay Chef de la province). Đứng đầu mỗi tỉnh là một Quan
đầu tỉnh (Administrateur de la province). Tòa tham biện gọi là Tòa bố. Tại thời điểm này,
Nam Kỳ có tất cả 20 tỉnh gồm:
+ Miền Đông có 04 tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa;
+ Miền Trung có 09 tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Vĩnh
Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc;
+ Miền Tây có 07 tỉnh: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc
Trăng và Bạc Liêu.
Ngoài các tỉnh nói trên, Nam Kỳ còn có 03 thành phố: Sài Gòn (thành phố cấp 1),
Chợ Lớn (thành phố cấp 2) và thành phố tự trị Cap Saint Jacques (năm 1905, Pháp xóa
bỏ thành phố này chuyển thành đại lý hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa) và Côn Đảo không
thuộc tỉnh nào.
Chính quyền đầu tiên ở Nam Kỳ được đặt dưới quyền chỉ huy của Tổng Chỉ huy
quân đội viễn chinh xâm lược để thiết lập bộ máy cai trị ở những vùng mới được kiểm
soát. Khi chiếm được ba tỉnh miền Đông, văn bản đầu tiên của chế độ thuộc địa ở Nam
Kỳ là Quyết định ngày 12/8/1862 của Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp quy định
44
về việc tạm thời tổ chức hành chính của người bản xứ và người châu Á tại tỉnh Gia Định
(BOC, 1862. J 4. TTLTQG I). Đứng đầu “xứ thuộc địa” là viên Đô đốc - Toàn quyền,
chịu trách nhiệm cả về dân sự và quân sự. Chế độ “võ quan” này kéo dài đến năm 1879
sau đó chuyển sang chế độ “văn quan”. Đứng đầu xứ thuộc địa này là viên Thống đốc.
Dưới Thống đốc Nam Kỳ, 03 quan chức cao cấp nhất gồm:
+ Tổng Biện lý (Procureur général) chịu trách nhiệm về mặt pháp chế;
+ Chánh chủ trì (Ordonnateur) chịu trách nhiệm về vấn đề tài chính;
+ Giám đốc Nha Nội chính.
Thời kỳ này, Nam Kỳ được chia thành 04 khu vực hành chính (cir conscription
administrative) là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xát. Mỗi khu vực hành chính
được chia thành các tiểu khu hành chính (arron dissement administratif) gồm các tổng.
Tiểu khu được đổi và gọi là tỉnh từ năm 1900. Đứng đầu tiểu khu hành chính là viên
quan người Pháp ngạch quan cai trị (administrateur). Mỗi tiểu khu được chia thành một
số đơn vị là Trung tâm hành chính (centre administratif), đứng đầu bởi quan chức người
Việt với chức danh là Đốc phủ sứ, Tri phủ hoặc Tri huyện. Đây là đơn vị hành chính ở
Nam Kỳ tương đương cấp phủ, huyện ở Bắc và Trung Kỳ.
Bên cạnh các cơ quan kể trên, thực dân Pháp còn lập ra các Hội đồng phụ tá có
quan hệ chặt chẽ với bộ máy cai trị như:
+ Hội đồng tư mật (Conseil privé) được thành lập theo Sắc lệnh ngày 21/8/1869 của
Hoàng đế Pháp (BOC, 1869. J 17 . T T LT Q G I) ;
+ Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ (Conseil colonial de la Cochinchine) thành lập theo
Sắc lệnh ngày 08/02/1880 của Tổng thống Pháp (BOC, 1880. J 37. TTLTQG I);
+ Hội đồng tiểu khu (Conseil d’arrondissement) thành lập theo Nghị định ngày
15/5/1882 của Thống đốc Nam Kỳ. Sau là Hội đồng hàng tỉnh (Conseil provincial). Mỗi
tiểu khu hành chính được chia thành các tổng gồm nhiều xã. Chánh hay Phó chánh tổng
do các viên thanh tra chỉ định được xếp ngạch nhân viên hành chính. Xã trưởng và phó lý
là quan chức cấp xã làm trung gian giữa cấp xã và chính quyền cấp trên.
Như vậy, tổ chức bộ máy cai trị của Pháp ở Nam Kỳ được thiết lập đầu tiên trong
quá trình xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương. Tổ chức bộ máy cai trị của Pháp
ở Nam Kỳ phải trải qua một thời gian khá dài với những cơ cấu trung gian để rồi dần
45
định hình thành một cơ cấu ổn định trong Liên bang Đông Dương. Về bản chất, bộ máy
đó chỉ nhằm hiện thực hoá ý đồ trong chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp. Đó là
một bộ máy điển hình của chế độ thuộc địa với chính sách cai trị trực tiếp của thực dân
Pháp; đảm bảo kiểm soát chặt chẽ mọi mặt đời sống xã hội thuộc địa. Về hình thức,
trong cơ cấu cai trị đó, Nam Kỳ là một bộ phận trực thuộc, được vận hành theo cơ chế
địa phương phân quyền trong thể chế Liên bang Đông Dương và được dung nạp nhiều
nền văn hóa của các quốc gia trong Liên bang Đông Dương.
2.2.3. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
2.2.3.1. Chủ trương phát triển kinh tế của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
Chính quyền thực dân Pháp đã ban hành chính sách khai thác thuộc địa Đông
Dương với tinh thần: thuộc địa Đông Dương phải được đặc biệt dành riêng cho thị
trường Pháp. Sản xuất ở thuộc địa này chỉ thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc
nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà nước Pháp không có. Công nghiệp nếu cần được
khuyến khích thì cũng chỉ trong giới hạn nhằm bổ sung cho công nghiệp chính quốc,
không làm hại đến nền công nghiệp chính quốc.
Chính vì thế, sau khi bình định xong Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp ở Nam
Kỳ và chính quốc đã tạo điều kiện cho tư bản Pháp đã bỏ vốn hoặc hùn vốn để khai thác
và thành lập các công ty kinh doanh trong các ngành kinh tế mà chủ yếu nông nghiệp và
công nghiệp.
Ở Nam Kỳ, nông nghiệp là ngành được chú trọng nhiều nhất, bởi vì đầu tư ít vốn,
nhưng thu được lợi nhuận cao thông qua việc xuất cảng thóc gạo. Một trong những biện
pháp đầu tiên là thi hành lệnh cấm xuất khẩu gạo ở Nam Kỳ. Đồng thời tận dụng ưu thế
Nam Kỳ là một vùng sông nước có nhiều kênh rạch chằng chịt, có lối thông ra biển vô
cùng thuận lợi. Cảng Sài Gòn thành lập vào năm 1860 và nhanh chóng được nâng cấp để
tăng năng lực xuất khẩu hàng hóa.
Ngày 28/9/1897, Toàn quyền Đông Dương đã ban hành nghị định mở rộng diện áp
dụng quyền sử hữu cá nhân ra toàn lãnh thổ, theo đó “những công dân Pháp và những
người được nước Pháp bảo hộ có đất do được tặng hoặc mua lại của những người có
ruộng đất, đất đó sẽ thuộc toàn quyền sử hữu cá nhân của họ, miễn là họ tuân thủ những
quy định do Toàn quyền ban hành” (Paul Doumer, 1905). Điều khoản này đã tạo điều
46
kiện cho tư bản Pháp chiếm đất để mở rộng diện tích canh tác ở những vùng đất hoang.
Chính vì vậy, số vốn tư bản đã chiếm gần như tuyệt đại bộ phận trong các đồn điền ở
Nam Kỳ.
Phát triển kinh tế đồn điền
Ở Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp có chính sách phát triển đồn điền trồng cây công
nghiệp: cà phê, cao su, chè. Tính đến năm 1890 đã có 116 đồn điền của người Âu. Đến
năm 1900 ở Nam Kỳ có 78.000ha/322.000 ha tổng diện tích các đồn điền của người Pháp
ở Việt Nam (Paul Doumer, 1905; Nguyễn Văn Khánh, 1999).
Ở Tây Nam Kỳ, đồn điền của người Pháp phát triển cạnh tranh với điền chủ địa
phương. Ví dụ tại các huyện vùng ven Đồng Tháp Mười thuộc Tân An (Long An ngày
nay), tính đến năm 1893 - 1896, số chủ đất trên 50 ha có 306 người chiếm 1,1% số người
có ruộng nhưng lại chiếm hữu tới 54.377 ha (khoảng 28% toàn bộ ruộng đất ở đây).
Những đồn điền này chủ yếu trồng lúa nước. Các điền chủ người Pháp cũng phát canh
thu tô bằng cách cho nông dân cấy rẽ, nộp tô và cho thuê nông cụ, vay thóc giống với lãi
suất cao (Paul Doumer, 1905; Nguyễn Văn Khánh, 1999).
Phát triển công nghiệp chế biến
Do nắm được thế mạnh của Nam Kỳ là nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa nên thực
dân Pháp đã sớm có chính sách đầu tư xây dựng ngành công nghiệp chế biến. Các nhà
máy chế biến nông, lâm sản lần lượt được hình thành.
Năm 1870 xây dựng nhà máy xay xát đầu tiên tại Chợ Lớn. Trong công nghiệp chế
biến nông sản, ngành xay xát lúa gạo chiếm vị trí quan trọng nhất và cũng có nhà máy ra
đời sớm nhất. Đến năm 1885 Nam Kỳ đã có 200 xưởng xay xát để chế biến gạo xuất qua
Cảng Sài Gòn. Các xưởng xay xát lúa gạo ở Nam Kỳ có quy mô sản xuất lớn, nhỏ khác
nhau, hầu hết sản xuất theo phương pháp thủ công. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, ở
Sài Gòn – Chợ Lớn đã xuất hiện 02 nhà máy xay xát gạo chạy bằng máy hơi nước trong
khi ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ chưa có nhà máy nào. Bên cạnh sự hình thành hệ thống nhà
máy xay xát lúa gạo, các nhà máy dệt bao bố bằng đay để đựng gạo, sửa chữa máy móc,
xe cộ, thuyền bè… phục vụ việc vận hành các nhà máy này và vận chuyển lúa gạo cũng
phát triển theo; Năm 1874 lập hãng rượu bia ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn (Nguyễn Văn
Khánh, 1999).
47
Trong lĩnh vực thương mại xuất khẩu
Ngay từ những ngày đầu khi còn đang đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã rất
năng động và thực dụng trong hoạt động thương mại ở Nam Kỳ. Nhằm mục đích nhanh
chóng thu được lợi nhuận, họ tăng cường các hoạt động buôn bán, vơ vét các nguồn nông
sản để xuất khẩu. Tư bản Pháp đã sử dụng tư sản mại bản Hoa kiều vì họ có vốn lớn, đủ
sức mua hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam, đồng thời thu mua lúa gạo của Nam
Kỳ bán cho thực dân Pháp để đáp ứng cho yêu cầu xuất khẩu nông sản của tư bản Pháp.
Sự cấu kết của tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều nhằm hạn chế sự phát triển của giới
thương gia người Việt. Số liệu xuất lúa gạo - mặt hàng chủ lực và có sẵn qua Cảng Sài
Gòn thời kỳ này cụ thể như sau:
- Năm 1860 xuất 58.000 tấn;
- Năm 1867, xuất 98.000 tấn;
- Năm 1870 xuất 230.000 tấn.
Việc mở rộng xuất khẩu lúa gạo đã ảnh hưởng lớn trên mức độ cũng như cách thức
khai hoang và khai thác vùng đồng bằng châu thổ Nam Kỳ dưới thời thuộc Pháp. Để đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu, đồng bằng châu thổ ở Nam Kỳ đã bước sang giai đoạn sản xuất
nông sản hàng hóa (chủ yếu là lúa gạo) cho thị trường ngoài nước. Tính chung trong
vòng 10 năm (1860 -1870), số lượng gạo xuất khẩu đã tăng gấp 4 lần. Đây chính là hiệu
quả bước đầu của chính sách kinh tế xuất khẩu hàng hóa với mặt hàng chủ lực là lúa gạo
của Nam Kỳ (Nguyễn Văn Khánh, 1999).
Ngoài ra, để có thể chiếm được vị trí độc quyền trong hoạt động thương mại, năm
1873, người Pháp lập ra Ngân hàng Đông Dương (Banque de L’Indochine).
Cũng từ năm 1887, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện chính sách bảo hộ thương mại
bằng cách ban hành chính sách thuế quan. Theo các quy định về thuế, hàng của Pháp
nhập vào Việt Nam chỉ đóng thuế 2,5%, trong khi đó hàng các nước khác phải đóng 5%
giá trị hàng hoá. Đến ngày 11/01/1892, người Pháp ra đạo luật mới quy định hàng hóa
nhập vào Việt Nam, trong đó hàng của Pháp được miễn thuế, hàng các nước khác phải
đóng thuế từ 25 - 120% giá trị. Chính đạo luật này đã giúp tư bản Pháp thực hiện hiệu
quả quyền thương mại, tạo điều kiện hàng hóa của Pháp ồ ạt tràn vào thị trường Việt
Nam (Jean – Pierre Aumiphin, 1994 ; Nguyễn Văn Khánh,1999).
48
Những chính sách kinh tế của thực dân Pháp nói trên được bắt đầu ở Nam Kỳ từ rất
sớm và đạt được những hiệu quả rõ rệt. Bước đầu có thể nhìn nhận hoạt động này với
những nhận xét cụ thể như sau:
- Những chính sách này áp dụng trên hầu hết các hoạt động kinh tế ở Nam Kỳ và
Việt Nam, đồng thời đã góp tạo điều kiện và kinh nghiệm cho hoạt động khai thác thuộc
địa ở Nam Kỳ và Việt Nam sau này;
- Lần đầu tiên lương thực thực sự trở thành hàng hoá xuất khẩu chủ yếu. Lượng
gạo và nông sản xuất khẩu ngày càng tăng.
Như vậy, kinh tế nông nghiệp ở Nam Kỳ bắt đầu bị thu hút ngày càng mạnh vào
guồng máy sản xuất hàng hoá. Tầng lớp thương nhân đông hơn, có tiềm lực kinh tế mạnh
hơn và hoạt động buôn bán cũng đa dạng và sôi động hơn. Đây là một bước chuyển quan
trọng, hướng nông nghiệp vào nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Thương mại có
những bước phát triển nhanh chóng, đặc biệt là hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất, góp phần hình thành yếu tố sản xuất hàng hóa, mang tính chuyên môn
hóa, chuyên nghiệp hóa và tính thị trường – dấu hiệu kinh tế hàng hóa của tư bản chủ
nghĩa.
Nhưng điều đó không có nghĩa là nền kinh tế ở Nam Kỳ phát triển và đời sống của
nhân dân lao động được cải thiện hơn mà chính chính sách bóc lột, bòn rút và vơ vét
cùng lối độc quyền kinh doanh của thực dân đã kìm hãm nền kinh tế của Nam ỳ và Việt
Nam, làm cho nó thêm què quặt, phụ thuộc. Người nông dân, người lao động nói chung
vẫn phải sống trong cảnh thiếu thốn, bần cùng.
2.2.3.2. Các chủ trương phát triển xã hội của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
Trong lĩnh vực giáo dục
Ngay từ khi đánh chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp đã tìm cách thực hiện chính
sách ngu dân về giáo dục, nô dịch về văn hóa. Đó là một trong những biện pháp hỗ trợ
đắc lực, hữu hiệu cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam.
Khi xác lập được quyền cai trị ở Nam Kỳ, thực dân Pháp vừa ra sức xây dựng một
nền giáo dục mới, vừa tìm cách thủ tiêu vai trò của nền giáo dục cũ. Năm 1874, Pháp ban
hành quy chế giáo dục. Năm 1879, thành lập Sở học chính Nam Kỳ nhằm tổ chức lại hệ
thống học chính và bước đầu xây dựng hệ thống giáo dục công. Việc mở trường Pháp -
49
Việt, kiên quyết chỉ sử dụng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ Latin làm phương tiện giảng
dạy đã trở thành công cụ “khai hóa”, “Pháp hóa” nền giáo dục ở Nam Kỳ nhằm xóa bỏ
trường Nho học truyền thống.
Hệ thống các trường Pháp - Việt bậc tiểu học ở phủ, huyện và bậc trung học ở tỉnh
được mở rộng nhằm thay thế dần nền Hán học. Học sinh theo học trong hệ thống các bậc
học này, ngoài việc được trang bị các kiến thức khoa học phổ thông còn phải học tiếng
Pháp. Bậc học càng cao thì môn tiếng Pháp và các kiến thức về văn hoá Pháp càng trở
thành bắt buộc. Trong nội dung chương trình giảng dạy, những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam bị loại trừ, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp”
nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý
thức về số phận của người dân mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc
thống trị của thực dân. Ngoài ra, trong giai đoạn này, các cơ sở đào tạo nghề: Trường
Collège d’Adran (1861), Collège des Interprètes (1864) và Ecole Normale coloniale
(1871) cũng được mở nhằm đào tạo đội ngũ thông dịch viên và những người phục vụ
trong bộ máy chính quyền thực dân (Nguyễn Văn Khánh, 1999).
Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Nam Kỳ nhằm 03 mục đích: (1) Đào tạo
lớp người thừa hành chính sách cai trị và khai thác của Pháp ở Việt Nam và Đông
Dương; (2) Truyền bá tư tưởng, lòng biết ơn sự khai hóa của thực dân Pháp và sự trung
thành với nước đại Pháp; (3) Mị dân để người Việt tin rằng hệ thống giáo dục của thực
dân Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ.
Nhìn chung, chính sách giáo dục thực dân Pháp thực hiện ở Nam Kỳ và ở Việt Nam
ngay từ những ngày đầu đã mang tính nhồi sọ, nô dịch và ngu dân. Nội dung chương
trình làm sai lệch lịch sử dân tộc Việt Nam, tuyên truyền cho nền văn hóa Pháp, phủ
nhận sự tồn tại nền văn minh bản địa nhằm tạo ra tư tưởng lệ thuộc Pháp, khiếp sợ trước
sức mạnh vật chất của chính quốc, hàm ơn công “khai hóa” của chủ nghĩa thực dân để
biến họ thành những kẻ mất gốc, quên nguồn gốc dân tộc và lịch sử nước mình.
Trong lĩnh vực văn hóa
Thực dân Pháp cho truyền bá văn hoá Pháp để phục vụ cho chính sách thuộc địa
của mình. Mục đích của những chính sách đó là nhằm nô dịch tinh thần dân chúng, biến
họ thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh của văn minh đại Pháp, mất
50
tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, trung thành phục vụ quyền lợi của mẫu quốc.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách
đầu độc, trụy lạc hoá đối với người dân, đặc biệt là thanh niên. Những thói hư tật xấu
được chính quyền các cấp dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích bằng cách cho
mở các sòng bạc để thu thuế. Tệ uống rượu không bị hạn chế, thậm chí còn bị bắt buộc
uống loại rượu nặng do hãng rượu độc quyền của Pháp sản xuất.
Về tổ chức đời sống xã hội
Thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị tại Nam Kỳ và Việt Nam. Cơ cấu xã
hội làng xã vẫn tồn tại, thậm chí người Pháp còn duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng
bộ máy kỳ hào phong kiến để thực hiện công việc cho chính quyền thuộc địa. Toàn
quyền Paul Doumer từng nói: Theo tôi, duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường các tổ chức
cũ kỹ mà chúng ta đã thấy… Theo cách tổ chức này thì mỗi làng sẽ là một nước cộng
hoà bé nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được
tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỷ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về
những cá nhân, những thành viên của nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể
không cần biết tới; điều đó rất thuận lợi cho công việc của chính quyền (Paul Doumer,
1905).
Sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra những biến đổi về kinh tế và xã hội. Sự áp
bức tàn bạo về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế và nô dịch về văn hóa đã tạo nên sự
căm phẫn tột độ của các tầng lớp nhân dân, nhất là của quần chúng lao khổ. Mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Đó là nguyên nhân chính khiến cho các cuộc đấu
tranh tiếp bùng nổ và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
2.2.4. Chính sách xây dựng hệ thống giao thông của Pháp ở Nam Kỳ
Khác với các miền đất thuộc vương quốc An Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, Nam Kỳ là miền đất duy nhất thực hiện quản lý theo chế độ thuộc địa4. Việc đầu
4 Khi hình thành Liên bang Đông Dương Đông Dương (1887), theo quy chế chính trị chung, toàn Liên bang Đông Dương là đất thuộc địa, lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Các xứ trong Liên bang Đông Dương gồm: Lào, Campuchia và Trung Kỳ theo quy chế “bảo hộ” ; Quảng Châu Loan theo quy chế “lãnh địa thuê” ; Bắc Kỳ theo quy chế “nửa bảo hộ” ; Nam Kỳ theo quy chế “thuộc địa”
tư phát triển kinh tế - khoa học kỹ thuật giữa Nam Kỳ với bên ngoài mà chủ yếu là với
51
chính quốc thực chất là quan hệ giữa thuộc địa cung cấp tài nguyên về chính quốc, có
tính một chiều. Tất cả các khoảng chi phí khổng lồ hàng triệu Frans trong quá trình khai
thác thuộc địa ở Đông Dương đầu tư vào Nam Kỳ giành cho các hoạt động đầu tư khai
thác thuộc địa. Các hoạt động kinh tế (trao đổi hàng hóa, thương mại xuất – nhập khẩu)
hay hoạt động giao lưu khoa học kỹ thuật thông qua việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
(xây dựng bến cảng, nhà xưởng, hệ thống đường bộ và đường sắt), trang thiết bị hiện đại
với máy hơi nước, tàu điện... đều chỉ nhằm tạo ra một bộ máy và phương tiện để khai
thác, bóc lột Nam Kỳ cũng như Đông Dương một cách hiệu quả nhất.
Năm 1859, ngay khi vừa chiếm được Sài Gòn, để thực hiện mưu đồ chiếm đóng
toàn bộ lãnh thổ nước ta, tiến tới việc xác lập khu vực ảnh hưởng của đế quốc Pháp tại
Viễn Đông, các Đô đốc trực tiếp cai trị tại Nam Kỳ đã gấp rút xúc tiến việc qui hoạch
xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế,
bến cảng v.v...) với dân số dự kiến lên đến trên nửa triệu người. Mục đích chính của
những nỗ lực đó nhằm sớm biến Gia Định với Sài Gòn là trung tâm thành một thành phố
sầm uất. Ngoài những yêu cầu về lãnh thổ, yêu cầu cạnh tranh ảnh hưởng với các thế lực
đế quốc khác ở Viễn Đông, người Pháp còn muốn nhanh chóng khai thác Nam Kỳ, mà
các chuyên gia Pháp đã nhìn thấy ở đó tiềm lực kinh tế to lớn. Nguồn lợi kinh tế do Nam
Kỳ mang lại sẽ gánh bớt một phần chi phí chiếm đóng Việt Nam. Đó là mối băn khoăn
của triều đình Napoléon III ngay từ những toan tính ban đầu.
Đến năm 1862, khi Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ngày 31/5/1862,
Đô đốc Bonard đã ban hành quy định về quyền hạn của Giám đốc Nha Nội chính (BOC, 1862. J 4. TTLTQG I) với những nhiệm vụ nghiên cứu nguồn tài nguyên khu vực Nam
Kỳ Lục tỉnh cũng như nhu cầu và thị hiếu của người dân khu vực này phục vụ lợi ích
thương mại của chính quốc; lập bảng kê hàng năm về tình hình tiêu thụ sản phẩm cho
từng tỉnh theo chủng loại, chất lượng và số lượng hàng hóa.
Cùng với đó, các tổ chức hành chính tại Sài Gòn lần lượt được thành lập để điều
hành hoạt động khai thác thuộc địa, cụ thể:
- Ngày 04/4/1867, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định thành lập Uỷ ban
thành phố Sài Gòn;
- Ngày 30/9/1868, quyền Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định thành lập Phòng
52
Thương mại Sài Gòn với nhiệm vụ góp ý kiến và cung cấp thông tin về công nghiệp,
thương mại cho chính phủ, đặc biệt về các Dự án xây dựng những công trình công cộng
có liên quan đến hoạt động thương mại;
- Ngày 14/5/1872, Thống đốc Nam Kỳ tiếp tục ban hành Nghị định để thành lập
một Đại lý thành phố ở Chợ Lớn. Đại lý được quyền thảo luận các dự án xây dựng, sửa
chữa lớn, phá huỷ các công trình cầu cống... mở đường phố, quảng trường; lập dự án quy
hoạch các tuyến đường thành phố và các vấn đề liên quan đến đường sắt, đề xuất quy
hoạch các tuyến đường lớn trong nội thành cùng những thay đổi về địa giới.
Đến năm 1896, sau khi căn bản hoàn thành công cuộc xâm lược và bình định quân
sự ở Việt Nam, thực dân Pháp mới bắt tay vào khai thác thuộc địa một cách quy mô trên
toàn lãnh thổ Việt Nam và Đông Dương. Ngày 22/3/1897, Paul Doumer đã trình lên Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án gồm 07 chương trình khai thác chung cho toàn Đông
Dương gồm: (1) Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy
cai trị hành chính riêng cho từng xứ trong Liên bang Đông Dương; (2) Sửa đổi chế độ tài
chính, thiết lập hệ thống thuế mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách nhưng phải
dựa trên cơ sở xã hội cụ thể và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của người
dân Đông Dương; (3) Chú ý trang bị thiết bị kinh tế lớn cho Đông Dương như xây dựng
hệ thống đường sắt, đường bộ, kênh đào, bến cảng… cần thiết cho công cuộc khai thác;
(4) Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân hóa
của người Pháp và bằng sức lao động của người bản xứ; (5) Bảo đảm phòng thủ Đông
Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và tổ chức quân đội và hạm đội cho
thật vững mạnh; (6) Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kỳ, bảo đảm an ninh vùng
biên giới Bắc Kỳ; (7) Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của
nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận (Paul Doumer, 1905).
Chính sách khai thác thuộc địa ở Đông Dương theo chương trình này tập trung vào
hai hoạt động chính: Thứ nhất là tổ chức một nền sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp
của thuộc địa chỉ nhằm cung ứng cho chính quốc nguyên liệu, sản phẩm mà nước Pháp
không có với giá thật thấp; Thứ hai là sản xuất công nghiệp chỉ phát triển trong giới hạn
bổ sung, hỗ trợ với tư cách là công cụ, phương tiện để tiến hành khai thác thuộc địa và
mang lợi về chính quốc mà không phương hại đến công nghiệp chính quốc.
53
Chương trình khai thác của Paul Doumer tiến hành ở Đông Dương, đặc biệt ở Việt
Nam và trước hết được tiến hành ở Nam Kỳ có mục đích tối thượng là biến nơi đây
thành thuộc địa khai thác bậc nhất, lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp (Jean
Chesneaux, 1955).
Kết quả là:
- Văn hoá, khoa học và kỹ thuật phương Tây từng bước du nhập vào Đông
Dương;
- Một nền công nghiệp mới ra đời trên nguyên tắc "không phương hại đến nền
công nghiệp chính quốc";
- Nhiều trung tâm đô thị lớn, nhỏ xuất hiện, nhiều công ty tư bản khai thác, kinh
doanh được thành lập và hoạt động trong các ngành: hầm mỏ, điện - nước, cầu - cống,
giao thông vận tải, xuất - nhập khẩu, ngân hàng - tài chính, điện tín - điện thoại - bưu
điện;
- Nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học phục vụ cho chính sách khai thác được
thành lập: Sở Địa lý, Sở Địa chất, Viện Hải dương học, Viện Pastơ (Pasteur), Trường
Viễn Đông Bác cổ; cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn được củng cố và phát triển;
- Tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam xây dựng xong năm
1910. Tuyến đường sắt xuyên Đông Dương cơ bản hoàn thành, 16 tuyến đường bộ được
gọi là "đường thuộc địa" đã hoàn thành”.
Ở Nam Kỳ, hoạt động xây dựng hệ thống giao thông mà đường sắt nội đô Sài Gòn
– Chợ Lớn và sau đó là tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho được ưu tiên số một. Năm 1898, một
chương trình quy mô xây dựng đường sắt ở Đông Dương do Paul Doumer trình Quốc hội
Pháp và được thông qua trong đạo luật ngày 25/12/1898 (Paul Doumer, 1902). Do ngân
sách có hạn, đạo luật này cho phép chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phát hành quốc
trái, vay khoản tiền 200 triệu francs với lãi suất 3,5%, hoàn trả trong 75 năm. Đây là
công cụ chủ lực, chính yếu của Chương trình Paul Doumer. Việc du nhập loại hình giao
thông đường sắt vào Việt Nam thời Pháp thuộc chỉ nhằm phục vụ công cuộc khai thác,
vơ vét, bóc lột thuộc địa. Tuy nhiên, tác động khách quan về sau lại là tiền đề phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng miền ở Nam Kỳ và Đông Dương. Đến cuối Chiến
tranh thế giới lần thứ I (1914 – 1918), trong tổng số chiều dài 1.300km đường sắt được
54
xây dựng ở Việt Nam, tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho ở Nam Kỳ được xây dựng đầu tiên (dài
71 km, rộng 1m, chi phí: 11 triệu francs), sau đó tuyến Hà Nội – Đồng Đăng được xây
dựng (Ngô Đăng Trí, 1994).
Trong thời kỳ này, lượng vốn đầu tư vào hai ngành khai mỏ và giao thông vận tải
chiếm hơn ¾ (77%), trong đó vốn đầu tư cho Giao thông chiếm hơn ¼ (26%) tổng lượng
vốn. Điều này chứng minh: thực dân Pháp quan tâm triệt để đến lĩnh vực này nhằm làm
sao có thể khai thác và bóc lột tài nguyên của Đông Dương hiệu quả nhất mà trước mắt
là Việt Nam trong đó Nam Kỳ là trọng tâm.
Đặc biệt, để đẩy mạnh công cuộc xây dựng hệ thống đường sắt ở Đông Dương
(thực chất mới chỉ ở Việt Nam), ngày 09/11/1905, Toàn quyền Đông Dương ban hành
Nghị định quy định quyền hạn của Khu Khai thác đường sắt (JOIF, 1905. J1052.
TTLTQG I).
Như vậy, quá trình hình thành, xác lập phạm vi “lãnh thổ” Nam Kỳ và hệ thống bộ
máy cai trị của Nam Kỳ thuộc địa như trên đã thể hiện rõ bản chất xâm lược, khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp hòng biến Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương thành thuộc
địa khai thác chủ yếu của Đế quốc Pháp thời cận đại (Jean – Pierre Aumiphin, 1994 ;
Nguyễn Văn Khánh, 1999). Các chính sách này là điều kiện, công cụ thực hiện hình
thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1918.
2.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO
THÔNG NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1862 – 1918
Sau khi xâm chiếm và bình định Nam Kỳ về cơ bản, thực dân Pháp đã triển khai
xây dựng hệ thống đường bộ, đường sông (trong đó có cảng Sài Gòn), đường sắt để phục
vụ cho chính sách cai trị và khai thác bóc lột.
Để tiến hành tổ chức xây dựng (thiết kế, thẩm định,…) và quản lý những công trình
công chính trong đó có hệ thống đường bộ, đường thủy và đường sắt, hàng loạt các quy
định của chính quyền xứ (Nam Kỳ thuộc địa), Liên bang Đông Dương và chính quyền ở
chính quốc được ban hành. Các văn bản có liên quan gồm:
- Nghị định ngày 18/8/1879 của Thống đốc Nam Kỳ quyết định tổ chức lại Sở
Công chính Nam Kỳ (BOC, 1879. J 36 TTLTQG I);
- Nghị định ngày 09/11/1905 của Toàn quyền Đông Dương quy định quyền hạn
55
của Khu khai thác đường sắt (JOIF, 1905. J1052. TTLTQG I);
- Nghị định ngày 09/9/1898 của Toàn quyền Đông Dương thành lập Sở Công
chính Đông Dương - Service des Travaux Publies de L'Indochine (Journai official de
l’Indochine, 76/1898. TTLTQG I). Chức năng của Sở là điều hành tất cả công trình do
ngân sách của mỗi xứ thuộc Liên bang Đông Dương đài thọ. Giám đốc đầu tiên của Sở
Công chính Đông Dương là Guillemoto, kỹ sư trưởng cầu đường, kiêm phụ trách (kỹ sư
chỉ đạo) cơ quan Công chính Trung - Bắc Kỳ;
- Nghị định ngày 31/12/1911 của Toàn quyền Đông Dương thành lập Tổng Thanh
tra Công chính Đông Dương. Đây là cơ quan chỉ đạo cao nhất về công chính ở Đông
Dương với các nhiệm vụ liên quan đến hoạch định, thiết kết, xây dựng, quản lý khai thác
các công trình công chính trong đó có giao thông đường sắt ở Nam Kỳ và Đông Dương
(Journai official de l’Indochine, 105/1911. TTLTQG I).
Với hệ thống văn bản và sự ra đời của những cơ quan nói trên là hệ thống tổ chức
chuyên môn thay mặt chính quyền tham mưu về chính sách và tổ chức thực hiện quá
trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
nói riêng.
2.3.1. Giao thông đường thủy
Nam Kỳ là vùng đất được hình thành ở lưu vực sông Đồng Nai và sông Mekong.
Đồng bằng châu thổ của hai con sông này có mật độ sông ngòi, kênh rạch dày đặc do hệ
thống sông (đặc biệt là vùng châu thổ sông Mekong). Miền Tây Nam Kỳ là một vùng có
điều kiện phát triển nông nghiệp lúa nước, kênh rạch chính là mạng lưới giao thông thủy
nội vùng nhưng cũng là hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền”. Đô đốc Dupré, Thống đốc Nam Kỳ5 đã từng nhận xét: “Tại xứ này mà các con sông lại là các con đường lộ,
việc các chiếc tàu chạy bằng hơi nước sôi sẽ tạo ra một cuộc cánh mạng kinh tế giống
như cuộc cách mạng xe hỏa.” (Ngân Hàng Đông Dương, 2010).
Để đảm bảo giao thương thông suốt khắp Nam Kỳ, hệ thống kênh đào có từ thời
nhà Nguyễn được xem là cần thiết để khai thác tiềm năng nông nghiệp và chuyên chở
nông sản đến trung tâm Sài gòn – Chợ Lớn. Kế thừa những gì đã có, thực dân Pháp đã
5 Chuẩn đô đốc Marie Jules Dupré (1813-1881), Thống đốc Nam Kỳ từ tháng 4/1871 – tháng 3/1874
đẩy mạnh việc đào kênh, rạch để nối liền các rạch và sông lớn tạo thành hệ thống thủy
56
vận huyết mạch nhằm phục vụ cho việc giao thương giữa các vùng. Việc đào kênh được
thực hiện bằng cả phương pháp thủ công và hiện đại. Công việc chủ lực được thực hiện
bằng những thiết bị hiện đại nhất lúc bấy giờ là “xáng, cạp” chạy máy hơi nước. Người
dân Nam Kỳ gọi kênh đào bằng "xáng" là "kênh xáng".
2.3.1.1. Cải tạo, đào mới kênh, rạch ở Nam Kỳ
Đối với địa hình trũng thấp, sông nước như ở Nam Kỳ, việc đào kênh để làm đường
giao thông và tưới tiêu cho phát triển nông nghiệp (chủ yếu là trồng lúa) là cách đầu tư
hữu hiệu và có lợi nhất. Do vậy, ngay sau khi Nam Kỳ thành xứ thuộc địa (1867), thực
dân Pháp đã có kế hoạch tận dụng lợi thế đối với mạng lưới giao thông thủy, trước khi
tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I.
Những kênh mới đào cùng hệ thống sông ngòi chằng chịt đã góp phần tạo ra hệ
thống giao thông giải quyết việc đi lại nội vùng và chuyên chở hàng hóa đến các trung
tâm thương mại đầu mối bằng tàu thuyền nhanh chóng, tiện lợi và đỡ tốn kém hơn trước
(Lê Huỳnh Hoa, 2009). Các nhà cai trị thực dân ở Nam Kỳ và Đông Dương đều biết rõ:
việc đào vét kênh trở thành chìa khóa để mở vào vùng đất này (Trần Thị Mai, 1998).
Do Nam Kỳ có hạn chế việc xây dựng đường sắt và đường bộ, cầu cống. Vì vậy,
thực dân Pháp đã đẩy mạnh đào thêm kênh, rạch. Nhìn chung, việc đầu tư và xây dựng
hệ thống kênh đào ở Nam Kỳ đã thể hiện quyết tâm của thực dân Pháp về việc nâng cao
vai trò sử dụng mạng lưới giao thông đường thuỷ ở đây. Trên cơ sở khai thác tài liệu lưu
trữ tại hồ sơ số 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ (TTLTQG II), hoạt động đào mới, cải
tạo kênh rạch ở Nam Kỳ được tiến hành cụ thể như sau:
Ở Sài Gòn
Năm 1867, đào kênh Chợ Vải nối từ sông Sài Gòn đến giếng nước rồi rẽ phải ra
phía Nhà hát Thành Phố ngày nay nối liền với rạch Thị Nghè bằng kênh Coffin.
Năm 1875, Đào kênh Vành Đai (Canal de Ceinture) hình vòng cung bao bọc phía
Bắc của Sài Gòn – Chợ Lớn, còn gọi là Kênh Vòng Thành hay Kênh Bao Ngạn (tức “bờ
bao”). Kênh dài 7 km, rộng 10m, sâu 3m nối rạch Thị Nghè và rạch Hoa Kiều; Đào mới
kênh Cột Cờ (còn có các tên Mirador - Vọng Gác) Nước Mặn, Hiến Binh và kênh Thanh
Đa (1897 - 1898) mở rộng cho thuyền bè qua lại (kênh Thanh Đa cắt vòng từ Bình Lợi
đến An Phú, rút ngắn được 12km theo dòng chảy của sông Sài Gòn).
57
Khu vực sông Tiền và sông Hậu
Năm 1866, Đô đốc Dupré đã cho hai tàu cuốc đi theo tàu chiến đến nạo vét và mở
rộng kênh Bến Lức (Long An).
Năm 1867, tiến hành nạo vét kênh Bảo Định (công cụ nạo vét được sử dụng xáng
múc). Sau khi công việc hoàn tất, kênh có chiều dài 28 km, nối Tân An và Mỹ Tho. Con
kênh này còn được gọi là kênh Bưu Điện (Arroyo de la Poste).
Năm 1869, đào kênh Salisetti (Gò Công).
Năm 1870, đào kênh Champeaux (Gò Công).
Năm 1875, đào kênh Cột Cờ (Long An), kênh Trà Ôn (Vĩnh Long), kênh Chợ Gạo
còn gọi là Kênh Dupérré (Mỹ Tho). Đến năm 1913 kênh này được cải tạo lại bằng xáng
múc.
Năm 1876, đào kênh Trà Ôn ở Vĩnh Long, kênh Chợ Gạo ở Mỹ Tho;
Năm 1879, đào kênh Xanh Ta ở Mỹ Tho và Vĩnh Long;
Năm 1879, đào kênh Phú Túc ở Bến Tre.
Cho đến năm 1884, việc đào kênh nơi đây cũng chỉ mang tính thử nghiệm của giới
quân sự chứ chưa phải là hoạt động đầu tư của tư bản Pháp vào Nam Kỳ.
Vùng Đồng Tháp Mười
Năm 1897, Pháp cho đào kênh Bà Bèo (kênh Tổng Đốc Lộc nay là kênh Nguyễn
Văn Tiếp), dài 45 km, rộng 10 m, bắt đầu từ rạch Bà Bèo (arroyo Commercial, rạch
Thương Mại). Kênh được đào từ thời Tây Sơn, đổ ra rạch Ruộng gần Sa Đéc của Sông
Tiền.
Vào những năm 1899 – 1903, Kênh Lagrange (còn có tên kinh Ông Lớn, kênh
Cùng, nay là kênh Dương Văn Dương) được đào mới cùng với các kinh Cờ Nhíp, Đá
Biên. Đây là đường thuỷ quan trọng từ miền Đông về miền Tây qua ngõ Vàm Cỏ Tây
theo hai hướng: kênh Đông Tiến hoặc kênh Phước Xuyên. Năm 1925 - 1927, kênh được
hãng thầu Pháp là Monvéneux tổ chức nạo vét với quy mô lớn hơn.
Vùng Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau
Năm 1901 – 1903, kênh Xà No thuộc vùng đất Cần Thơ được thi công. Kênh rộng
60 m, đáy rộng 40 m, dài 32 km. Nhờ kinh Xà No và các chi lưu của nó mà vùng đất
58
Rạch Giá, Cần Thơ, Chương Thiện được vỡ hoang trên 50,000 ha chỉ trong vòng vài
năm. Kênh xáng Xà No là một trong những tuyến giao thông thủy huyết mạch nối Cần
Thơ - Hậu Giang - Kiên Giang - Bạc Liêu - Cà Mau.
Năm 1904, đào kênh Trà Ót và Saintenoy.
Từ năm 1904 – 1906, đào và mở rộng các kênh Lấp Vò (Đồng Tháp), Cổ Chiên
(Bến Tre), Cái Vồn (Vĩnh Long), cải tạo mở rộng sông Mân Thít (Vĩnh Long).
Từ 1906 – 1908, đào thêm một đoạn kênh ở Sài Gòn, song song với kênh Tàu Hủ
(thường gọi là kênh Đôi); đào kênh Hậu Giang - Long Mỹ; tiếp tục mở rộng kênh
Saintenoy; Đào các kênh: Phụng Hiệp, Cây Dương, Xẻo Vông, Carabelli, Mang Cá, Ba
Rinh, Lacoste, kênh Cái Lớn đi Trèm Trẹm.
Từ năm 1906 – 1910, đào sâu và mở rộng kênh Chợ Gạo. Đào thêm các kênh mới:
Phụng Hiệp, Phổ Dương, Xẻo Von, Carabelli, Mang Cá, Ba Rinh, Lacote.
Từ năm 1908 – 1909, đào kênh Họa Đồ, kênh xáng Lấp Vò, kênh Đốc Phủ Hiền (từ
Sa Đéc tới Tân Phú Trung vùng Nam Sông Tiền).
Từ năm 1911 – 1913, mở rộng kênh Bassac - Long Mỹ, Ba Xuyên - Ô Môn, Sóc
Trăng - Phụng Hiệp, Hậu Giang - Long Mỹ, Bạc Liêu - Cà Mau và kênh Tiếp Nhựt, đào
kênh Mỏ Cày.
Từ năm 1911 – 1917, đào kênh Cái Lớn đi Trèm Trẹm, đào xẻ cù lao May (vùng
giữa sông Tiền - sông Hậu), mở rộng kênh Cổ Chiên (Trà Vinh), đào sâu sông Mân Thít,
đào các kênh Chàng Ré, Nàng Rền, Thốt Nốt (Cái Bè).
Từ năm 1914 – 1918, đào kênh Vàm Xáng điều hòa lượng nước từ sông Tiền bổ
sung cho sông Hậu.
Từ năm 1914 – 1915, đào kênh Sóc Trăng - Bố Thảo.
Từ năm 1917 – 1918, cải tạo mở rộng kênh Ô Môn - Thị Đôi.
Số liệu thống kê hoạt động đào mới, nạo vét cải tạo hệ thống kênh ở Nam Kỳ thời
Pháp thuộc (Phan Khánh, 1981) như sau:
- Từ 1894 đến 1904, tàu cuốc được đưa vào đào kênh để đẩy nhanh tốc độ. Trung
bình hàng năm: Từ 1894 đến 1897 đào được 120.000 m3;
- Từ năm 1897 đến 1903, mỗi năm đào được 877.000 m3;
59
- Từ 1903 đến 1904 đào được 3.495.000 m3.
Các năm sau đó, kỹ thuật đào kênh áp dụng các phương pháp và công cụ ngày càng
hiện đại (xáng, cạp…). Do vậy, trong 10 năm từ 1890 đến 1900, bình quân mỗi năm đào
được 824.000 m3, chưa kể hàng triệu mét khối Pháp bắt dân ta đào bằng tay. Toàn bộ
hoạt động đào mới, cải tạo hệ thống kênh rạch do thực dân Pháp thực hiện ở Nam Kỳ
(chủ yếu là ở miền Tây Nam Kỳ) giai đoạn này được thể hiện qua bảng thông kê và
những biểu đồ cụ thể như sau:
Bảng 2.1 - Số liệu thông kê kênh/rạch được đào mới, cải tạo (1862 -1918)
Vùng/khu vực
Thời gian
Tên công trình
thực hiện
thực hiện
Kênh Chợ Vải. 1867 Vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định Kênh Vành Đai (Canal de Ceinture). 1875
1910 – 1919 kênh Tàu Hủ (thường gọi là kênh Đôi).
1866 Đào mới kênh Bến Lức (Long An).
Khu vực sông Tiền và sông Hậu 1867 Đào mới kênh Bảo Định (kênh Bưu Điện, Arroyo de la Poste).
1869 Đào mới kênh Salisetti (Gò Công).
1870 Đào mới kênh Champeaux (Gò Công).
1875
Đào mới kênh Cột Cờ (Long An), Trà Ôn (Vĩnh Long), Chợ Gạo (Dupérré, giai đoạn đầu).
1876
Đào mới kênh: Trà Ôn (Vĩnh Long), Chợ Gạo (phần ở Mỹ Tho và đào sâu và mở rộng giai đoạn 1906 – 1910, giai đoạn 2).
1878 Kênh Sét Nay (Cần Thơ).
1879
Các kênh Xanh Ta (Mỹ Tho), Phú Túc (Bến Tre).
1904 – 1906 - Đào mới các kênh Cổ Chiên (Bến Tre), Cái Vồn (Vĩnh Long);
- Cải tạo mở rộng sông Mân Thít (Vĩnh
60
Long).
1908 – 1909
Các kênh Họa Đồ, Lấp Vò, Đốc Phủ Hiền (từ Sa Đéc tới Tân Phú Trung vùng Nam Sông Tiền).
1911 – 1917 - Đào kênh Cái Lớn (đi Trèm Trẹm);
- Mở rộng kênh Cổ Chiên (Trà Vinh),
- Đào sâu sông Mân Thít;
- Đào mới các kênh: Chàng Ré, Nàng Rền, Thốt Nốt (Cái Bè).
1914 – 1918 Đào kênh Vàm Xáng (điều hòa nước từ sông Tiền và sông Hậu).
1897 Vùng Đồng Tháp Mười Các kênh: Bà Bèo (kênh Tổng Đốc Lộc nay là kênh Nguyễn Văn Tiếp), Tháp Mười (Arroyo Commercial), Cai Bắc.
1899 – 1903
Các kênh: Lagrange (kênh Ông Lớn, kênh Cùng, Dương Văn Dương), Cờ Nhíp, Đá Biên.
1898 Kênh Ba Điền.
1895 – 1899 Kênh Tổng đốc Lộc.
1900 Các kênh: Cái Tôm, Bến Kè, Năm Ngàn.
1904 – 1906 Kênh Lấp Vò (phần cải tạo, mở rộng ở Đồng Tháp);
1901 – 1903 Kênh Xà No.
1904 Đào kênh Trà Ót, Saintenoy.
Vùng Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau 1906 – 1908
Các kênh: Hậu Giang - Long Mỹ, Saintenoy, Phụng Hiệp, Cây Dương, Xẻo Vông, Carabelli, Mang Cá, Ba Rinh, Lacoste, Cái Lớn (đi Trèm Trẹm).
1906 – 1910 - Đào sâu và mở rộng kênh Chợ Gạo;
- Đào mới các kênh: Phụng Hiệp, Phổ Dương, Xẻo Von, Carabelli, Mang Cá, Ba Rinh, Lacote.
61
1911 – 1913
- Cải tạo, mở rộng các kênh: Bassac - Long Mỹ, Ba Xuyên - Ô Môn, Sóc Trăng - Phụng Hiệp, Hậu Giang - Long Mỹ, Bạc Liêu - Cà Mau, Tiếp Nhựt ;
- Đào mới kênh Mỏ Cày.
1914 – 1915 Đào kênh Sóc Trăng - Bố Thảo
1917 – 1918 Cải tạo mở rộng kênh Ô Môn - Thị Đôi.
Biểu đồ sau cho thấy diễn biến tình hình đào,cài tạo kênh, rạch ở Nam Kỳ qua số
liệu nói trên:
Biểu đồ 2.1 - Kết quả đào mới, nạo vét hệ thống kênh, rạch ở Nam Kỳ giai đoạn 1880 – 1929
(Phan Khánh, 1981; HS số 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Qua số liệu thống kê và thông tin biểu thị trên biểu đồ nói trên cho thấy:
(1) Khối lượng nạo vét, đào đắp mới, cải tạo hệ thống kênh rạch do thực dân Pháp
thực hiện ở Nam Kỳ ngày càng tăng, đặc biệt tăng vọt ở giai đoạn từ năm 1914 trở đi.
Điều này cho thấy tác động từ hiệu quả kinh tế từ hoạt động cải tạo hệ thống kênh rạch
ở Nam Kỳ mang lại;
(2) Các hoạt động nạo vét, đào đắp để đào mới, cải tạo hệ thống kênh rạch do thực
dân Pháp thực hiện chủ yếu ở Tây Nam Kỳ - nơi là vùng chuyên canh sản xuất lúa nước
- mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nam Kỳ và Đông Dương. Điều này hoàn toàn phù hợp
với thực tế hình thành vùng chuyên canh nền sản xuất hàng hóa là lúa gạo mang tính
62
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và tính thị trường.
2.3.1.2. Hoạt động của hệ thống giao thông đường thủy nội địa
Trong giai đoạn này, tàu chạy bằng hơi nước xuất hiện ở Nam Kỳ và trở thành
phương tiện giao thông thủy hiện đại và có năng lực vận chuyển cao nhất lúc bấy giờ.
Phương tiện và tổ chức các tuyến đường thủy (HS 3503, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II) cụ thể:
Tàu chạy bằng hơi nước ở Nam Kỳ thuộc hãng Messageries Maritimes. Tàu được
chính phủ hỗ trợ đảm bảo dịch vụ vận chuyển từ Mỹ Tho đi Phnom Penh qua Vĩnh Long,
Sa Đéc, Sóc Trăng, Châu Đốc và Bến Tre. Hãng hoạt động từ đầu năm 1882. Theo yêu
cầu của chính quyền, Hãng phục vụ mỗi ngày hoặc hai ngày/chuyến kết nối giao thông
giữa các chợ quan trọng ở miền Tây: Vũng Liêm, Chợ Lách, Baké đến Sài Gòn - cảng
xuất khẩu cho phép đưa các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp của Lào, Cam Bốt
qua ngả sông Mekong.
Thực dân Pháp cũng đã cho thực hiện nhiều dự án cải tạo đường sông và hệ thống
kênh được đào mới để tạo điều kiện cho các tàu hơi nước lưu thông. Kênh đào Vĩnh Tế
đã thông thương từ cảng Hà Tiên với vùng Bassac và Sài Gòn, mở một cánh cửa trên bờ
biển phía Tây mà không có con đường nào khác nối liền với nội địa (đường này cũng cho
tàu chiến sử dụng).
Trong dự án của Kỹ sư Renaud đề xuất nghiên cứu Kênh đào Cửa Tiêu kết hợp
sông Sài Gòn với sông lớn, nằm gần Mỹ Tho, không đi qua biển (chiều dài 16,7 km, rộng
60m, sâu tối thiểu 5m) và lập dự án kênh đào Mỹ Tho ở vùng Bassac cho phép chuyên
chở lúa ở Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng, đến Sài Gòn một cách nhanh nhất. Tuyến
đường này đã có từ khi đào kênh Trà Ôn năm 1876 để cho phép các tàu của hãng vận tải
đường sông phục vụ trực tiếp các điểm xung quanh các cửa sông ở Trà Vinh, Cần Thơ,
Sóc Trăng, đồng thời tránh rẽ qua Châu Đốc. Tuyến sông này tạo ra một con đường chạy
trực tiếp và thuận tiện cho các thuyền chở nặng, khó xuôi theo các dòng sông, hoặc khi
gió quá mạnh và sóng quá cao buộc phải đi vào các con rạch quanh co và khúc khuỷu.
Với hệ thống sông ngòi và kênh đào được Pháp cải tạo, xây đắp bằng sức người có
sự hỗ trợ của máy móc (xáng) đã góp phần hoàn thiện hệ thống đường sông bao phủ toàn
vùng. Giao thông vận tải cũng phát huy hiệu quả qua hệ thống đường thủy. Thuyền bè đa
63
dạng về hình dáng và kích thước lưu thông dày đặc trên kênh rạch đã tạo thành một
không gian lớn cho việc vận chuyển hàng hóa. Đó là tiền đề quan trọng giúp đẩy nhanh
tiến độ khai thác, bóc lột của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trong giai đoạn này.
2.3.1.3. Hoạt động giao thông đường biển
Các tuyến vận tải đường biển
Nam Kỳ thông thương với bên ngoài (chủ yếu với chính quốc) bằng tàu biển chạy
máy hơi nước. Tàu dùng để chở khách và vận chuyển hàng hóa. Theo tài liệu tại hồ sơ số
3503, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ (TTLTQG II), thông tin cụ thể như sau:
- Tàu vận chuyển của Nhà nước (02 tháng/1 chuyến) đi từ Sài Gòn đến Toulon;
- Tàu khách của hãng Messageries Maritimes (nửa tháng/1chuyến). Các bến quá
cảnh: Port-Said, Suez, Aden, Pointe de Galles và Singapore;
- Tàu khách của hãng vận tải Anh quốc cũng hoạt động nửa tháng/1chuyến. Khi từ
Pháp sang sẽ đậu lại ở Singapore. Thư tín chuyển đến Sài Gòn bằng tàu theo lộ trình nối
giữa hai cảng. Vào tháng 01/1882, tuyến đường biển Côn Đảo – Singapore được khánh
thành. Tàu chở thư tín của Anh và tàu chở thư tín từ Sài Gòn cũng đến Bắc Kỳ. Dịch vụ
này nhận được sự hỗ trợ của xứ Thuộc địa với giá 18fr/hải lý. Sài Gòn cũng liên kết với
các thuộc địa lân cận và các cảng sông khác qua 45 tàu chở thư tín chạy đều đặn hàng
tháng (trong nước 38 tàu, Trung Quốc 02 tàu, Singapore 04 tàu, Bắc Kỳ 01 tàu).
Hãng Messageries Maritimes có 03 tàu chở khách ở bến. Số lượng này tăng gấp đôi
theo đề nghị của Hội đồng Thuộc địa, nhất là khi bến đầu tuyến của Nhật Bản được
chuyển từ Hongkong đến Sài Gòn và quá cảnh tại Manille
Tàu từ Nam Kỳ đến Trung và Bắc Kỳ được thiết lập các loại thuế quan khác nhau
và thành lập dịch vụ vận chuyển đều đặn giữa Sài Gòn - Qui Nhơn - Đà Nẵng - Hải
Phòng.
Hoạt động của các cảng sông - biển
Ngay từ năm 1860, khi chưa hoàn toàn làm chủ vùng đất Nam Kỳ, khi đội quân
viễn chinh Pháp còn vất vả chống đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân, thực dân Pháp
đã cho xây dựng Cảng Sài Gòn. Đây là đầu mối giao thương lớn nhất ở Nam Kỳ.
Cảng Sài Gòn bắt đầu hoạt động từ ngày 22/02/1860, do một số tư sản người Hoa ở
64
Singapore đến Sài Gòn thực hiện. Ban đầu, Cảng hình thành một bến tàu dài 1.800m trên
bờ sông Sài Gòn để xuất khẩu lúa gạo.
Cảng Sài Gòn thông thương ra biển qua sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Khi đi
vào hoạt động, thuế tàu thuyền ra - vào Cảng Sài Gòn là 2fr/tonneau bao gồm thuế hải
đăng, thuế phù tiêu, thuế bến, thuế cảnh sát hải cảng, thuế bỏ neo. Số lượng tàu, ghe và
thuyền biển trong cảng này vào những năm 1895 - 1898 theo Bảng 2.2. như sau:
Bảng 2.2 - Số lượng phương tiện đường thủy giai đoạn 1895 – 1898
Năm Tàu thủy Ghe Thuyền biển
1895 497 499 34 33 1605 1554
1896 486 483 27 27 1589 1573
1897 493 497 28 31 1592 1612
23 21 1626 1631 11 tháng đầu năm 1898 508 498
(Lê Huỳnh Hoa, 2003)
Vai trò Cảng Sài Gòn
Là cảng lớn trên sông, cách đất liền 81 km, nằm ở phía Nam bán đảo Đông Dương.
Cảng Sài Gòn như một điểm hội tụ của những hệ thống thủy vận nối liền Châu Âu với
Đông Á và Trung Quốc, Nhật Bản với Đông Nam Á.
Do có vị trí quan trọng cả về quân sự lẫn kinh tế nên Cảng Sài Gòn đã được đầu tư
thành một cảng lớn về cả cơ sở vật chất lẫn trang bị kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả
xuất khẩu lúa gạo. Cảng Sài Gòn vì vậy trở thành một đầu mối giao thương, một cơ sở hạ
tầng giao thông không thể thiếu trong quá trình khai thác thuộc địa Nam Kỳ (Lê Huỳnh
Hoa, 2009).
Như vậy, nhờ có chủ trương phát triển giao thông đường thủy trong giai đoạn này,
giao thương giữa Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương với các nước cũng như với các
vùng ở trong nước phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy giao lưu buôn bán, vận chuyển
hành khách, tạo điều kiện để kinh tế của Nam Kỳ phát triển.
2.3.1.4. Cơ chế quản lý giao thông đường thủy
Để tổ chức khai thác hệ thống kênh đào, sông rạch một cách hiệu quả, Thống đốc
65
Nam Kỳ và Toàn quyền Đông Dương ban hành hàng loạt các văn bản để thành lập các tổ
chức giúp việc và thực hiện công tác quản lý hoạt động công chính, canh nông hoặc hoạt
động giao thông thủy phục vụ xuất nhập khẩu, buôn bán hàng hóa (giao thương). Những
hoạt động liên quan đến đào đắp, cải tạo, khai thác sử dụng kênh rạch ở Nam Kỳ được
quy định như sau:
Năm 1864, Thống đốc Nam Kỳ đã ban hành Quyết định ngày 9/11/1864 để thành
lập Nha Nội chính (Direction de L’Intérieur). Đây là một tổ chức chuyên nghiên cứu,
theo dõi và giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến thuộc địa ở Nam Kỳ trong đó
có hoạt động công chính do Ban Canh Nông – Thương Mại đảm trách (BOC, 1864. J 8.
TTLTQG I).
Đến năm 1867, Thống đốc Nam Kỳ tiếp tục ban hành Nghị định ngày 04/4/1867 về
việc tổ chức Ủy ban Thành phố Sài Gòn. Trên cơ sở nghị định này, phần 2 quy định về
việc quản lý thành phố. Một uỷ ban nằm trong Soái phủ Nam Kỳ nhằm nghiên cứu xác
định những kênh rạch cần nạo vét, mở rộng theo thứ tự ưu tiên phục vụ nhiều mục đích
trong đó ưu tiên thực hiện các yêu cầu của hoạt động quân sự. Hoạt động nạo vét này
thực hiện trên cơ sở các đoạn kênh rạch có sẵn (BOC, 1867. J 11. TTLTQG I).
Năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định ngày 30/9/1868 về việc thành
lập Phòng Thương mại Sài Gòn có quyền hạn quản lý các dự án xây dựng công trình
công chính liên quan đến hoạt động thương mại (BOC, 1867. J 11. TTLTQG I).
Năm 1875, Thống đốc Nam Kỳ thành lập một ủy ban thường trực lo việc hoàn
chỉnh hệ thống đường thủy từ Sài Gòn đi các tỉnh miền Tây.
Năm 1879, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định ngày 18/8/1879 về việc tổ chức
lại Sở Công chính Nam Kỳ. Nhiệm vụ: phụ trách nghiên cứu và thi công các công trình
giao thông đường thủy bộ, nạo vét sông ngòi kênh rạch, điều tiết thủy nông (BOC, 1879.
J 36. TTLTQG I).
Năm 1898, Sở Công chính Đông Dương (Service des Travaux Publies de
L'Indochine) chính thức được thành lập theo Nghị định ngày 09/9/1898 của Toàn quyền
Đông Dương. Chức năng của Sở là điều hành tất cả công trình do ngân sách của mỗi xứ
thuộc Liên bang Đông Dương đài thọ (Journai official de l’Indochine, 76/1898.
TTLTQG I). Giám đốc đầu tiên của Sở Công chính Đông Dương là Guillemoto, kỹ sư
66
trưởng cầu đường, kiêm phụ trách (kỹ sư chỉ đạo) cơ quan Công chính Trung - Bắc Kỳ.
Năm 1900, khi Paul Doumer thay De Lanessan làm Toàn quyền Đông Dương, việc
đào và cải tạo kênh rạch ở Nam Kỳ được đẩy mạnh. Ngày 08/9/1900, Hội đồng gồm các
kỹ sư công chính, các tỉnh trưởng và đại diện các điền chủ người Pháp được thành lập để
hoạch định một chương trình đào kênh cho cả vùng đồng bằng sông Mekong. Chương
trình này được duyệt vào tháng 11/1900, kế hoạch hàng năm được chi 2.000.000 francs
từ ngân sách Đông Dương và 240.000 francs trích từ ngân sách Nam Kỳ. Chương trình
được đưa ra đấu thầu ngày 06/2/1904 và tháng 3/1904 được duyệt. Công ty Kỹ nghệ
Pháp tại Viễn Đông trúng thầu (Paul Doumer, 1905).
Năm 1911, Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương được thành lập theo Nghị
định ngày 31/12/1911 của Toàn quyền Đông Dương. Đây là cơ quan chỉ đạo cao nhất về
công chính ở Đông Dương với các nhiệm vụ liên quan đến hoạch định, thiết kết, xây
dựng, quản lý khai thác các công trình công chính trong đó có giao thông đường thủy
(Journai official de l’Indochine, 105/1911. TTLTQG I).
Cũng trong năm 1911, Công ty Vận tải Đông Dương (Socie'te' Indochinnoise de
Transports) được thành lập, trụ sở đặt tại Sài Gòn. Lĩnh vực hoạt động: kinh doanh vận
tải ở Đông Dương, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào mọi hoạt động thương mại, kỹ
thuật, tài chính.
Nhìn chung, việc đầu tư và xây dựng hệ thống kênh đào ở Nam Kỳ đã thể hiện
quyết tâm của thực dân Pháp về việc xây dựng mạng lưới giao thông đường thuỷ. Với hệ
thống kênh đào ở Nam Kỳ, thực dân Pháp không chỉ làm cho giao thông thủy phát triển
mà còn làm thay đổi diện mạo nông nghiệp ở Tây Nam Kỳ. Diện tích đất canh tác được
mở rộng không ngừng, đồng nghĩa với sản lượng lúa ngày một tăng. Từ đó hình thành
nên thị trường hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp. Giao thông vận tải cũng phát huy
hiệu quả qua hệ thống giao thông thủy. Tổng thanh tra công chính Đông Dương, kỹ sư
trưởng AA.Pouyanne khẳng định giá trị các kênh đào ở Nam Kỳ đã đem lại lợi ích trực
tiếp “thặng dư về vốn gấp ba lần chi phí bỏ ra và lợi tức hằng năm thể hiện 167% chi
phí.” (A.A. Pouyanne, 1926).
67
2.3.2. Giao thông đường bộ
2.3.2.1. Xây dựng các tuyến đường bộ
Giao thông đường bộ là loại hình giao thông phổ biến nhất, được dùng hằng ngày
để giao nhận hàng hóa, vận chuyển hành khách… Đây là hình thức giao thông có sớm
nhất, đòi hỏi điều kiện để sử dụng ít nhất, đơn giản nhất nên có ưu thế sử dụng cao nhất
trong tất cả các loại hình giao thông. Ngoài ra, xét về tính kinh tế và hiệu quả sử dụng,
ưu thế của loại hình giao thông này là luôn chủ động về thời gian, đa dạng trong khi vận
chuyển các loại hàng hóa, có thể hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết khác nhau, có
khả năng đáp ứng được yêu cầu hàng hóa thị trường… Do vậy, trong cơ sở hạ tầng nói
chung, hạ tầng kỹ thuật nói riêng, giao thông đường bộ là phương thức giao thông được
coi trọng nhất, là phần quan trọng trong kế hoạch xây dựng hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ thời thuộc Pháp. Lý do: Giao thông đường bộ là phương thức phục vụ thiết thực nhất
cho nhiệm vụ trước mắt của nhu cầu khai thác thuộc địa. Song song với việc mở rộng
giao thông đường thủy, xây dựng đường sắt, thực dân pháp đã xúc tiến mạnh việc xây
dựng hệ thống giao thông đường bộ. Nó không những giúp cho yêu cầu phát triển kinh tế
để khai thác thuộc địa của tư bản Pháp mà còn giúp thực dân Pháp cơ động chuyển quân
để đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân ta. Tiến trình xây dựng hệ thống đường bộ
do chính quyền thuộc địa ở Nam Kỳ, Đông Dương và chính quốc tổ chức quy hoạch, xây
dựng, tu bổ sửa chữa và quản lý sử dụng của thực dân Pháp ở Nam Kỳ được thực hiện
từng bước như sau.
Trong giai đoạn đầu xâm chiếm Gia Định, đường bộ ở Nam Kỳ không thể sử dụng
được vào mùa mưa. Các con đường này đã biến mất một phần, các đoạn đường còn lại
không thể nối với nhau vì hệ thống cầu đã bị hư hỏng nặng. Đô đốc Ohier là người đầu
tiên muốn nâng cấp hệ thống giao thông bộ ở Nam Kỳ. Qua các nguồn tài liệu hiện có tại
Phông Thống đốc Nam Kỳ, có thể khẳng định, sự hình thành hệ thống đường bộ ở Nam
Kỳ chính thức bắt đầu từ năm 1897 nhằm phục vụ trực tiếp cho Chương trình khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) của thực dân Pháp. Điều này càng có cơ sở để
khẳng định vai trò quan trọng và trực tiếp của hệ thống giao thông nói chung, đặc biệt là
giao thông đường bộ nói riêng với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Nam Kỳ và toàn cõi Đông Dương.
68
Từ lý do nói trên, hoạt động xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng hệ thống đường bộ ở
Nam Kỳ để nâng cao năng lực khai thác sử dụng trở nên cấp thiết. Ngày 22/3/1897, một
dự án “Chương trình hành động” đã được chính quyền thực dân Pháp chính thức khởi
động với 7 điều khoản, trong đó, Điều khoản 3 (chú ý xây dựng thiết bị to lớn cho Đông
Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng… những thứ
cần thiết cho việc khai thác) được xem là một trong những điều kiện cần thiết và căn bản
khởi động việc xây dựng giao thông đường bộ ở Nam Kỳ.
Việc xây dựng giao thông đường bộ ở Nam Kỳ giai đoạn đầu tập trung vào những
công việc cụ thể gồm: Cải tạo đường (mở rộng, trải đá, tráng nhựa); Làm cầu bắc qua
kênh rạch, sông. Mô phỏng theo chính quốc, đường sá ở Nam Kỳ được chia thành 03 loại
cụ thể như sau:
(1) Đường quốc lộ để nối các trung tâm quan trọng nhất, dùng làm đoạn bắt đầu
của tỉnh lộ, hầu như sử dụng lại lộ trình đường được làm từ thời Gia Long. Chiều dài của
quốc lộ được ấn định là 939km, với giá là 30fr/m (bao gồm cả cầu), chi phí là
28.170.000fr;
(2) Đường tỉnh lộ sẽ phát triển 2.049km và có giá là 20fr/m. Tổng chi phí là 70
triệu cho một mạng lưới giao thông 3.000km.
Lẽ dĩ nhiên, chi phí thực hiện các công trình nói trên được Hội đồng Thuộc địa và
Hội đồng hàng tỉnh phân bổ trong nhiều năm.
Kết quả là, trong 02 năm (1881, 1882) ở Nam Kỳ đã mở đường, rải đá và đưa vào
sử dụng gồm:
- Quốc lộ, tỉnh lộ :1.282 km;
- Đường hàng xã lớn :965 km;
- Đường hàng xã :1.139 km.
Tổng cộng :3.396 km.
Theo Báo cáo của Hội đồng Thuộc địa tại phiên họp năm 1882: nhờ áp dụng chính
sách trợ cấp bằng hiện vật đã mở được 500 km đường, rải đá 17 km, xây 73 cây cầu dài
824 m. Những kết quả đạt được năm 1882 là đáng kể và chính quyền đã tin chắc rằng,
trong một thời hạn tối đa 10 năm, thuộc địa sẽ được trang bị một hệ thống đường hàng
xã,… tốt hơn, đi thẳng đến các ấp xa xôi nhất
69
Ở Nam Kỳ, đường bộ về các tỉnh miền Tây Nam Kỳ được xây dựng sớm nhất là
đoạn Sài Gòn - Mỹ Tho, khởi công từ năm 1866 đến năm 1880 hoàn thành. Đoạn đường
này được thiết lập gần như trùng với con đường thiên lý cũ của nhà Nguyễn. Ban đầu
đường còn hẹp, vừa đủ cho hai xe ô tô tránh nhau, rải đá xanh, còn cầu qua sông Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây được thiết kế đi chung với đường xe lửa. Con đường này nối Sài
Gòn với Mỹ Tho theo sông Bảo Định và trở thành đường huyết mạch ở Nam Kỳ. Kế đến
là đường thiên lý Bắc - Nam được xây dựng từ triều Nguyễn được người Pháp nâng cấp,
mở rộng và gọi là đường thuộc địa số 1 (HS 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG
II).
Như vậy vào thời gian này, hệ thống giao thông đường bộ ở Việt Nam đã được chia
làm 03 loại:
(1) Đường quốc lộ: loại đường rộng và dài nhất, là đường vận tải chính nối các tỉnh
lộ trong cả nước;
(2) Đường hàng tỉnh: loại đường nối các trấn, tỉnh trong cả nước;
(3) Đường hàng xã là loại đường nhỏ nối liền các thôn, xã, làng, bản với nhau hoặc
hình thành từ những con đê chạy dọc sông ngòi cả nước, các loại đường nhỏ này được
hình thành do thói quen đi lại tự nhiên của người dân.
Số liệu cụ thể về đường quốc lộ ở Nam Kỳ được phân loại theo nghị định ngày
18/11/1894 của Toàn quyền Đông Dương như sau:
Bảng 2.3 - Tổng chiều dài của 07 đoạn đường quốc lộ ở Nam Kỳ (1895)
Đơn vị tính: km
Chiều dài từng phần
Các loại quốc lộ
Đổ đất Tổng chiều dài Đã rải đá Nền đất tự nhiên
Quốc lộ 1: từ Sài Gòn đến Tây Ninh
99 99
Do sở xe ô tô công cộng đảm bảo vận chuyển, hàng ngày khởi hành từ Sài Gòn và từ Tây Ninh đi qua Trảng Bàng.
Quốc lộ 2: từ Sài Gòn đến Bà Rịa 92 92 Đi qua sông Sài Gòn và sông Đồng Nai
70
bằng phà
84 117 9 210 Quốc lộ 3: từ Sài Gòn đến Sóc Trăng, đi qua Chợ Lớn, Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh và Đại Ngải
112 127 99 338 Quốc lộ 4: từ Sài Gòn đến Hà Tiên, đi qua Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên và Châu Đốc
Quốc lộ 5: từ Thủ Đức đến Thủ Dầu Một 21 21
129 129 Quốc lộ 6: từ Thủ Dầu Một đến biên giới Camfuchia
57 Quốc lộ 7: từ Vĩnh Long đến Trà Vinh 15 42
(Báo cáo số: 871RA. Phông Nha Nông Lâm. TTLTQG I)
Ở Sài Gòn, việc xây dựng nhiều tuyến đường mới không ngừng tăng nhanh. Tính
đến năm 1865, Sài Gòn có khoảng 20 con đường mới được xây dựng. Đến năm 1878,
thành phố có thêm 28 con đường mới. Trong hai năm 1894 – 1895, địa bàn thành phố
được mở rộng lên phía Bắc và xuống phía Nam làm cho diện tích thành phố tăng thêm
gần 500 ha, đường sá lại được xây dựng thêm (Báo cáo số: 871RA. Phông Nha Nông
Lâm. TTLTQG I).
Như vậy, trong giai đoạn 1862 - 1918, hệ thống giao thông đường bộ ở Nam Kỳ đã
có: (1) Quốc lộ, tỉnh lộ: 2.516,70km; (2) Đường hàng xã lớn: 1.825,05km; (3) Đường
hàng xã: 1.133,30km. Những kết quả này được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2 - Tổng số km các loại đường bộ ở Nam Kỳ (1862 – 1918)
(A. Bouinais, 1884. NN.965. TTLTQG II)
71
Từ biểu đồ trên cho thấy một số thông tin cần chú ý sau:
(1) Số km đường quốc lộ, tỉnh lộ được xây dựng nhiều nhất, chiếm gần 46% tổng
số km đường bộ được xây dựng (1.282 km/3.396 km) đã tạo điều kiện thông thương kết
nối các địa phương, giao thông liên vùng được ưu tiên;
(2) Số km đường hàng xã cũng được chú ý xây dựng, chiếm 21% (1.139 km/3.396
km) cho thấy nhu cầu cao của giao thương nội vùng.
2.3.2.2. Hệ thống cầu
Ở Nam Kỳ còn có rất nhiều cây cầu nhỏ, người ta thường gọi đó là “các cây cầu Sài
Gòn”. Những cây cầu này, theo nhận xét của Thống đốc Le Myre de Vilers, tuổi thọ
không cao vì làm bằng gỗ, cần thay chúng bằng các cây cầu sắt. Kỹ sư Eiffel được
Thống đốc giao nghiên cứu xây dựng các cây cầu bằng thép, mang hình dáng tương tự
nhau nhưng có chiều rộng khác nhau: 6m, 9m, 12m, 27m; xe 4 tấn với 3 ngựa kéo có thể
đi qua. Một cây cầu khác bằng sắt dài 80m được xây dựng tại Sài Gòn trên Rạch Bến
Nghé dùng cho xe lớn đi qua (HS 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngoài ra, khi xây dựng tuyến đường sắt ở Nam Kỳ phải xây dựng cầu vượt sông
cho xe lửa đi qua và cũng là cầu dung cho xe cộ của đường bộ sử dụng chung. Theo tài
lưu trữ tại hồ sơ số 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. (TTLTQG II), cầu trên các
tuyến đường sắt ở Nam Kỳ gồm:
- Tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho
Trên sông Vàm Cỏ, người ta xây cầu kim loại dài từ 300 - 400m, đặt trên các trụ
bằng sắt cắm xuống nền đất. Những cầu này thay cho phà đưa xe lửa qua sông của tuyến
đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho. Cầu Bến Lức được xây ở nơi độ sâu của sông là 12m, xây
cao 10m so với mực nước và bao gồm 3 nhịp dài 60m ở giữa sông và Cầu Tân An được
làm bằng sắt, một nhịp lớn dài 80m và các nhịp 21,60m. Chiều sâu của sông Vàm Cỏ từ
20 đến 22m.
- Tuyến đường sắt Sài Gòn - Nha Trang
Do hệ thống sông, rạch đan xen kéo theo việc phải xây dựng các cầu vượt sông lớn,
đi chung với đường bộ. Cầu Cầu Bình Lợi (Sài Gòn) cầu Gềnh (Biên Hòa) là những cầu
được xây dựng trong dự án này.
Số lượng cầu xây dựng theo các tuyến đường được thống kê như sau:
72
Bảng 2.4 - Số lượng đường, cầu ở Nam Kỳ (1862 – 1918)
Loại đường Số cầu Chiều dài
Quốc lộ, tỉnh lộ 71 2.516,70km
Đường hàng xã lớn 123 1.825,05km
Đường hàng xã 85 1.133,30km
Đường sắt 18 400,00km
Tổng cộng 297 5.875,05km
(A. Bouinais, 1884. NN.965. TTLTQG II)
Số liệu trên được thể hiện qua biểu đồ:
Biểu đồ 2.3 - Hệ thống đường bộ và cầu ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1918
(Sách bổ trợ, NN. 695. TTLTQG II)
Nhìn chung, với chính sách, quá trình đầu tư và xây dựng như trên, sự phát triển hệ
thống giao thông đường bộ được phát triển khá nhanh. Để có được hệ thống đường bộ
trong giai đoạn này, chính quyền thuộc địa đã thể hiện sự nỗ lực rất cao. Nhờ vậy mà hệ
thống đường bộ không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khai thác thuộc địa, vận
chuyển hành khách mà còn rút ngắn khoảng cách giữa các xứ của Đông Dương và trong
nội bộ của các xứ, đặc biệt ở Nam Kỳ.
2.3.3. Giao thông đường sắt
Song song với việc xây dựng và phát triển hệ thống giao thông đường thủy và
73
đường bộ, chính quyền thuộc địa cũng đã chú trọng đến xây dựng và phát triển hệ thống
đường sắt.
Ban đầu, loại hình giao thông này chỉ giành cho mục đích cao nhất và duy nhất là
phục vụ công cuộc khai thác, vơ vét bóc lột thuộc địa ở Nam Kỳ và Việt Nam. Tuy
nhiên, ngoài mục đích đó, về sau loại hình này còn tạo ra những đột phá về mặt giao lưu
kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng miền. Nếu lấy mốc là cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam, sự hình thành, xây dựng và tổ chức khai thác hệ
thống đường sắt tại Nam Kỳ được thực dân Pháp được thực hiện như sau.
2.3.3.1. Xây dựng, quản lý, khai thác đường sắt nội đô (tramways - xe điện) Sài
Gòn – Chợ Lớn
Hệ thống đường sắt nội đô (tramways - xe điện) Sài Gòn – Chợ Lớn – Gò Vấp –
Hóc Môn - Thủ Dầu Một ghi nhận cụ thể trong các hồ sơ số 09, 5374, phông Phủ Thống
đốc Nam Kỳ (TTLTQG II) được thực hiện qua hai giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Xây dựng tuyến Sài Gòn – Chợ Lớn.
Quá trình đấu thầu, xây dựng
Tuyến tramways – xe điện6 Sài Gòn – Chợ Lớn được khởi công xây dựng vào năm
1880, khánh thành vào ngày 27/12/1881, chính thức đưa vào khai thác từ 01/7/1882.
Tuyến đường này có tổng chiều dài là 5 km, bắt đầu bắt đầu từ trạm chính thức trước chợ
Bến Thành, băng qua đại lộ Hàm Nghi, theo bến Chương Dương xuống Chợ Lớn, đến
đường Tản Đà là trạm cuối.
Toàn bộ hồ sơ chuẩn bị xây dựng tuyến đường xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn được
thực hiện từ tháng 01/1880 đến tháng 12/1880 là cơ sở để Thống đốc Nam Kỳ cho phép
xây dựng tuyến đường. Hồ sơ thầu về việc xây dựng và khai thác tuyến xe điện chạy
bằng hơi nước từ Sài Gòn đến Chợ Lớn của các ông Ogliastro, Blutstein, Cousin và
Desbuissons đã được thông qua tại phiên họp của Hội đồng ngày 19/01/1880. Để xây
dựng và khai thác tuyến xe điện nói trên, công ty vô danh: “Tổng Công ty xe điện chạy
bằng hơi nước Nam Kỳ” được thành lập tại Paris ngày 25/3/1880.
Ngoài ra, đề có thể xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên ở Nam Kỳ còn có các hồ sơ
6 Tùy từng giai đoạn, tuyến xe điện này lúc đầu chạy bằng đầu máy hơi nước cỡ nhỏ, sau mới chạy điện
sau:
74
- Hồ sơ đấu thầu và sơ đồ đính kèm đã trình từ ngày 09/7 đến ngày 08/8/1880 và
Biên bản của Hội đồng điều tra ngày 14/8/1880, ý kiến của kỹ sư trưởng sở Công chánh
ngày 05/10/1880;
- Hồ sơ thầu đã được Hội đồng Thuộc địa thông qua bằng nghị quyết ngày 25 -
26/10/1880.
Ngày 20/12/1880, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định chính thức cho phép
khởi công tuyến đường xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn.
Theo Báo cáo ngày 30/7/1910 của Kỹ sư trưởng Tổng Nha Công chánh thuộc Phủ
Toàn quyền Đông Dương (HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II), quá
trình xây dựng tuyến đường sắt - xe điện (tramways) Sài Gòn – Chợ Lớn này được thực
hiện như sau:
- Đầu tiên, tuyến xe điện Route Haute (đường trên) được xây dựng tại Sài Gòn –
Chợ Lớn với chiều dài ban đầu là 5.882 m. Năm 1893, chiều dài được điều chỉnh để khi
hoàn thành là 5.112 m. Tuyến xe điện này, được chuyển nhượng vào ngày 19/01/1880.
Từ năm 1881, tàu chạy ray sắt do đầu máy hơi nước loại nhỏ kéo gọi là tramways (tuyến
xe điện nhưng dùng tàu hỏa chạy bằng dầu và than). Mở cửa hoạt động vào ngày
01/01/1882.
Về cơ bản, tuyến xe điện đầu tiên này xuất phát từ cột cờ Thủ Ngữ (trên bến Bạch
Đằng bây giờ) ở Sài Gòn chạy thẳng vào Chợ Lớn. Ban đầu, do các điều kiện về cơ sở hạ
tầng chưa đầy đủ, kinh phí hạn chế nên tuyến đường săt này chạy bằng đầu kéo hơi nước
loại nhỏ, đường ray sắt nổi, khổ 0,6 m, kéo 02 toa.
Công tác quản lý, chi phí đầu tư và khai thác
Công ty Société générale des tramways à vapeur de Cochinchine (SGTVC) đường
Sài Gòn - Chợ Lớn quản lý đường trên (route haute). Công ty Compagnie des tramways
de l’Indo-Chine (CFTI) được thành lập vào năm 1890 để quản lý đường sắt Sài Gòn -
Chợ Lớn (tramways) quản lý đường dưới (route basse), khánh thành chạy rước khách
vào ngày 14/7/1891.
Theo tính toán, chi phí khai thác trung bình tại Sài Gòn trong 05 năm gồm:
+ Đường ray : 2.991fr;
+ Hệ thống kéo và hoạt động : 8.253fr;
75
+ Chi phí chung ở Sài Gòn : 12.743fr.
Tổng cộng : 23.987fr
Với số tiền như vậy, cần thêm vào chi phí chung ở Paris là 6.013fr/km, gần bằng
30.000fr cho toàn bộ hoạt động của tuyến xe điện. Số liệu 30.000fr/km là chi phí hoạt
động thực tế nên doanh thu trung bình là khoảng 84.200fr; hệ số kinh doanh là 35,5%.
Thực tế, doanh thu sau khi trừ chi phí được biểu thị qua tài khoản của công ty trong 05
năm là 223.200fr. Nếu giảm chi phí chung ở Paris để đưa đến con số gần với
30.000fr/năm, doanh thu sau khi trừ chi phí lên đến 274.00fr/năm; doanh thu ròng trong
02 năm vào khoảng 281.000fr.
Tuyến xe điện này, được chuyển nhượng vào ngày 19/01/1880, mở cửa hoạt động
ngày 01/01/1882. Ngay từ những ngày đầu, lượng hành khách đông đúc đã dẫn đến việc
công ty này đề nghị nối dài tuyến đến Bình Tây. Việc nối tuyến đường xe điện Route
Haute đến Bình Tây đã được công ty đề nghị nhiều lần. Giám đốc công ty ước tính vào
năm 1902 sẽ tăng doanh thu từ việc nối tuyến này lên 75% so với doanh thu trước đây.
Việc kéo dài tuyến đường đưa xe điện đi khắp trung tâm chính của phố thương mại Chợ
Lớn.
Thực hiện nối dài tuyến xe lửa Route Haute tới Bình Tây và trang bị hệ thống điện
cho đường ray với chi phí hoạt động, tiền lời và tiền vốn trả dần trong 20 năm sẽ làm
tăng doanh thu ròng khoảng 62.000fr. Như vậy sẽ phải thu được 264.000fr đến
326.000fr/năm. Nếu kéo dài thời gian trả tiền, thì tiền lời và tiền trả dần sẽ ít hơn. Tiền
nợ trả dần sẽ kéo dài đến 20 năm (mỗi năm trả 86.000fr), kéo dài 30 năm (mỗi năm trả
80.000fr), kéo dài 35 năm (mỗi năm trả 76.000fr) và doanh thu sau khi trừ hết chi phí
trong 03 trường hợp này có thể sẽ là 336.000fr, 342.000fr hay 348.000fr.
Giai đoạn 2: Xây dựng, mở rộng các tuyến nội đô và các tỉnh phụ cận
Việc xây dựng, mở rộng và vận hành các tuyến xe điện (tramways) nội đô Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định (Gò Vấp, Phú Nhuận, …) và các tỉnh phụ cận được tiến hành cụ
thể như sau:
Tổ chức đấu thầu và xây dựng
Từ hiệu quả của tuyến tàu điện Sài Gòn – Chợ Lớn, thực dân Pháp thấy có thể kinh
doanh tàu điện có lợi. Từ lợi nhuận đó và nhu cầu đi lại ngày càng phát triển của nhân
76
dân vùng phụ cận Sài Gòn, ngày 27/7/1889, thực dân Pháp cho thiết lập hệ thống đường
xe điện Sài Gòn – Gò Vấp, Gò Vấp – Hóc Môn.
Tiếp đó ngày 08/9/1896, Thống đốc Nam Kỳ cho mở đường thuơng mại đoạn Đa
Kao - cầu Thị nghè Gia Định (thuộc đường Sài Gòn - Gò Vấp), giao cho Compagnie des
tramways de l’Indo-Chine (CFTI) đặc quyền thiết lập và thương mại trong 20 năm. Các
tuyến xe điện (tramways) được xây dựng trong giai đoạn này gồm:
- Tuyến Sài Gòn – Phú Nhuận theo Đường Bonard (Lê Lợi), Paul Blancy (Hai Bà
Trưng), qua Cầu Kiệu, đến chợ Xã Tài (nay là chợ Phú Nhuận);
- Tuyến Sài Gòn – Lái Thiêu – chợ Búng (nay thuộc Bình Dương).
Chemin de fer de l’Indochine - Công ty (chính phủ) Hoả xa Đông Dương (CFI)
được thành lập và chia hoạt động quản lý hai nhanh: Ở phía Bắc (Réseaux Nord) và phía
Nam (Réseaux Sud) để phục vụ những tuyến đường này. Cụ thể:
- Tuyến từ chợ Bến Thành (khu Chợ Cũ ngày nay) qua đường Catinat (Đồng
Khởi), dọc theo đường route Nationale (Hai Bà Trưng) hướng về Gò Vấp;
- Tuyến từ chợ Bến Thành đi qua đường rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi), boulevard
Norodom (Lê Duẩn), rue Bangkok (Mạc Đĩnh Chi), rue des Mois (Nguyễn Đình Chiểu)
nối dài cho đến đường đi Gò Vấp;
- Tuyến từ chợ Bến Thành đi đến chợ Cầu kho và chợ Cầu Ông Lãnh theo đường
dưới (route basse) của Chợ Lớn, đến đường rue Boresse (Yersin), rue d’Ayot (Nguyễn
Thái Bình) và rue de Singapore;
- Tuyến đường nối Messageries Maritimes (bến Nhà Rồng) với chợ Sài Gòn và từ
đó nối với các đường xe lửa tramways khác. Đây là đường xe lửa chở hàng hoá và khách
từ bến tàu qua cầu Khánh Hội;
- Tuyến Sài Gòn – Phú Nhuận theo lộ trình: Đường Bonard (Lê Lợi), Paul Blancy
(Hai Bà Trưng), qua Cầu Kiệu, đến chợ Xã Tài (nay là chợ Phú Nhuận);
- Tuyến Sài Gòn – Hóc Môn qua các ga Đakao, Bà Chiểu, Bình Hòa, Gò Vấp,
Hạnh Thông tây, Chợ Cầu, Quán Tre, Trung Chánh;
- Tuyến Sài Gòn – Lái Thiêu – chợ Búng (nay thuộc Bình Dương).
Thực tế, tuyến đường Sài Gòn – Dakao - Gia Định hoạt động từ 1895 - 1896 và đến
77
Gò Vấp ngày 13/8/1897. Năm 1904, tuyến đường Sài Gòn đi Gò Vấp được kéo dài 13
km để đến Hóc Môn. Ngày 29/01/1913 đường được nối từ Gò Vấp đến Lái Thiêu.
Công tác quản lý và khai thác
Tuyến đường Tramways Sài Gòn - Chợ Lớn được gọi là Tramways Vapeur
Cochinchine ở đường dưới (route Basse) do công ty Compagnie française des tramways
de l’Indo-Chine (CFTI) điều hành.
Năm 1912, xe điện Route Haute (đường trên) Sài Gòn - Chợ Lớn tiến hành kéo dài
tuyến hiện có, từ đại lộ Jaccaréo đến chợ Bến Thành (mới), và thậm chí kéo đến cả chợ
Bình Tây. Việc nối và kéo dài tuyến này chỉ thích hợp thực hiện khi hệ thống sử dụng
đường điện trong toàn vùng Chợ Lớn.
Dự kiến, kinh phí nối dài đường xe điện đến Bình Tây (bao gồm toa xe) ước tính
550.000fr. Nếu kế hoạch nối dài tuyến đường được thực hiện thì cần phải trang bị thêm
hệ thống điện cho tuyến đường sẵn có này. Chi phí ước tính (kể cả toa xe) khoảng
300.000fr, tổng cộng là 850.000fr. Nếu tính cả chi phi mua lại vật liệu đã dự tính (xem
chương sau) khoảng 131.000fr thì tổng chi phí dự tính năm 1911 sẽ là 981.000fr. Nếu số
tiền cần thiết để chi trả cho khoảng chi phí này được một đơn vị đặc nhượng mới cung
cấp thì cần phải tăng thêm khoảng 15% để làm vốn, dự toán các chi phí phát sinh khoảng
1.100.000fr.
Đến năm 1891, tuyến xe điện mới nối Sài Gòn với Chợ Lớn qua Route Basse –
đường dưới, dọc theo kênh Bến Nghé, mở cửa hoạt động ngày 14/7/1891 đã gây ra một
sự cạnh tranh khốc liệt giữa hai công ty. Công ty Route Basse không thể đấu lại đã phá
sản và chỉ lấy lại thế mạnh của mình sau khi hoàn thành đoạn Sài Gòn – Gia Định – Gò
Vấp. Kể từ năm 1897, hai công ty đã thống nhất không cạnh tranh với nhau bằng cách hạ
giá vé và tăng thêm chuyến.
Công ty Compagnie française des tramways de l’Indo-Chine (CFTI), có trụ sở ở
Boulevard Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) do ông Ferret thành lập vào năm 1890 và
được chính quyền giao cho hoạt động thương mại hai tuyến (1) đường Sài Gòn - Chợ
Lớn - đường dưới (route basse) và (2) đường Sài Gòn – Gò Vấp (Concessionnaire des
lignes de Saigon à Cholon et de Saigon à Govap). Chỉ không đầy 02 năm sau, đường xe
tramways Sài Gòn - Chợ Lớn (đường dưới) được khánh thành chạy đón khách vào ngày
78
14/7/1891.
Mặc dù hoạt động sau SGTVC hơn 10 năm, nhưng CFTI đã tỏ ra có sức cạnh tranh
mạnh và đã làm giá vé xe lửa Sài Gòn - Chợ Lớn giảm. Tuy nhiên sau một vài năm điều
hành tuyến đường Sài Gòn - Chợ Lớn tức tramways (đường dưới - route basse) cạnh
tranh với đường Sài Gòn - Chợ Lớn (đường trên - route haute) của công ty SGTVC, công
ty CFTI đã phải chịu thua lỗ.
Sau này, đến lượt công ty SGTVC kinh doanh không hiệu quả, quyền hoạt động
thương mại tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn (đường trên - route haute) đã được trả lại cho chính
quyền và giao cho Công ty Đường sắt chính phủ. Năm 1925, công ty CFTI mua lại
quyền hoạt động xe tramways Sài Gòn - Chợ Lớn (đường trên) và thay đổi đường ray
chạy dọc theo đại lộ Avenue Galliéni (Trần Hưng Đạo ngày nay) thay vì theo đường
route Strategic (Hùng Vương - Trần Phú) như trước kia.
Đường Sài Gòn - Chợ Lớn dài hơn 05 km với khổ đường ray 0.6m. Đường hoạt
động từ 04 giờ sáng đến 21 giờ/ngày, 30 phút có một chuyến. Trong 05 năm hoạt động
(1902 – 1906), chi phí: 1235709 fr; thu vào: 2163960 fr; lãi: gần 1 triệu fr; chỉ số chi/thu:
0.58.
Đường Sài Gòn - Chợ Lớn (đường dưới) nối với đường Sài Gòn - Gò Vấp cho nên
từ Chợ Lớn có thể đi đến Gò Vấp - Hóc Môn hay đến Gò Vấp - Lái Thiêu. Đây là lợi thế
rất quan trọng cho công ty CFTI. Như thế, công ty có đường đi khắp Sài Gòn và Chợ
Lớn cho đến ngoại ô phía đông và bắc Sài Gòn.
Từ Sài Gòn đi Gò Vấp có hai đoạn trong thành phố: đoạn đi dọc theo bến Bạch
Đằng như trước kia và đoạn mới từ rue d’Alsace Lorraine (Phó Đức Chính) của đường
dưới (route basse) từ Chợ Lớn chạy dọc theo đại lộ Bonnard (Lê Lợi) qua nhà hát thành
phố lên đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), chạy đến đường rue Legrand de Liraye
(Điện Biên Phủ) nối với đường tramways trước kia ở giao lộ đường Albert 1er (Đinh
Tiên Hoàng) và đường rue Legrand de Liraye (Điện Biên Phủ).
Ngày 31/01/1891, CFTI thuộc Compagnie du tramways de Saigon à Govap (Công
ty tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp) được thành lập nhằm mục đích khai thác tuyến đường nội
thị Sài Gòn và Chợ Lớn thay cho xe ngựa kéo trước đây.
79
2.3.3.2. Xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho giai đoạn 1880 – 1883
voies ferrées de l'Ouest de la Cochinchine) được thực dân Pháp xây dựng ở Nam Kỳ
Tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho (còn gọi là tuyến miền Tây Nam Kỳ - Des
và là tuyến đường liên tỉnh hình thành và đưa vào khai thác sớm nhất ở Việt Nam và
Đông Dương. Được khởi công từ tháng 11/1881, tuyến đường này có chiều dài toàn
tuyến là 70.827 km, hoàn thành và đưa vào khai thác vào tháng 7/1885. Các ga trên
tuyến gồm: Sài Gòn - Chợ Lớn - Phú Lâm - An Lạc - Bình Chánh - Gò Đen - Thủ Thừa -
Tân An - Tân Hiệp - Mỹ Tho (Tổng Nha Công chánh, 1910. HS 5374, phông Phủ Thống
đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Năm 1880, việc hình thành tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho được dự kiến trong chương trình xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn - Vĩnh Long với các đoạn kéo dài tới
Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc và Phnom Penh. Tuy nhiên, khi trình Bộ trưởng Hải
quân, dự án chỉ được chấp thuận xây dựng đoạn Sài Gòn - Mỹ Tho (Hội đồng Thuộc địa,
1880. HS 5374, Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ban đầu, việc xây dựng tuyến đường này giao cho Compagnie des Chemins de fer
garantis des colonies française (CCGCF). Năm 1881, nhượng quyền cho Société
Genérale des Tramways à Vapeur de Cochinchine (SGTVC). Hợp đồng này hết hạn cuối
năm 1911. Quyền khai thác trực tiếp được giao cho xứ thuộc địa.
Tuyến đường nằm hoàn toàn trong khu vực đông dân cư của Nam Kỳ, nối hai thành
phố lớn là Sài Gòn và Mỹ Tho, chạy qua khu vực Chợ Lớn. Do xây dựng trên nền đất
yếu, lại bị chia cắt bởi các kênh rạch, đặc biệt là 03 con sông lớn (sông Chợ Đệm, Vàm
Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây) nên kinh phí xây dựng toàn tuyến lên đến 11.600.000 fr cho
71km đường sắt (tức khoảng 165.000 fr/km đường sắt).
Trưởng các trạm ga xe lửa tuyến đường sắt đầu tiên gồm: Pochont (Saigon-Benluc),
Orsini (Benluc-Mytho), Payet (Cholon), Nguyễn Văn Việt (Phú Lâm), Phạm Văn Vua
(Bình Điền), Nguyễn Văn Sanh (Bình-Chánh), Nguyễn Văn Tiêm (Gò Đen), Nguyễn
Văn Hương (Bến Lức), Phạm Văn Quang (Bình An), Trần Phú Hội (Tân An), Hùng (Tân
Hương), Nguyễn Văn Thạch (Tân Hiệp), Dương Văn Giàu (Lương Phú), Võ Văn Chung
(Trung Lương), Huc (Mỹ Tho) (Niên giám Đông Dương, 1897. TTLTQG II).
Về quá trình tổ chức xây dựng tuyến đường
80
Theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ngày 20/12/1880 và Báo cáo của Kỹ Sư
trưởng về tuyến đường sắt miền Tây Nam Kỳ, việc tổ chức đấu thầu xây dựng tuyến
đường được căn cứ vào đơn xin điều chỉnh sơ đồ và vật liệu xây dựng tuyến đường của
ông Blutstein tại Sài Gòn, ngày 21/6/1880. Các kết quả điều tra đơn, hồ sơ đấu thầu và sơ
đồ đính kèm trình từ ngày 9/7 đến ngày 8/8/1880. Biên bản của Hội đồng điều tra ngày
14/8 và ý kiến của kỹ sư trưởng sở Công chánh ngày 5/10/1880. Hồ sơ thầu đã được Hội
đồng Thuộc địa thông qua bằng Nghị quyết ngày 25,26/10/1880 (HS 09, 5374, phông
Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Đến ngày 22/11/1880, Hội đồng Thuộc địa quyết định xây tuyến đường sắt Sài Gòn
– Vĩnh Long, với dự tính sau này kéo dài đến Phnom Penh nhưng cuối cùng chỉ cho xây
tuyến này từ Sài Gòn đến Mỹ Tho (HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG
II).
Việc xây 03 cây cầu lớn trên tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho gồm Cầu Bình
Điền qua sông Chợ Đệm, Cầu Bến Lức qua sông Vàm Cỏ Đông và Cầu Tân An qua
sông Vàm Cỏ Tây đã được đưa vào hồ sơ thầu ký ngày 12/5/1880 với ông Eiffel. Các
phần còn lại của công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nằm trong hồ sơ thầu ký với ông
Morandière ngày 18/3/1882 (HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Theo báo cáo của Kỹ sư trưởng Tổng Nha Công chánh thuộc Phủ Toàn quyền
Đông Dương về tuyến đường sắt miền Tây Nam Kỳ ngày 30/7/1910 thuộc hồ sơ số
5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ (TTLTQG II), quá trình xây dựng các công trình
của tuyến đường sắt này được chia làm 02 phần, trong đó phần cơ sở hạ tầng do thuộc
địa phụ trách gồm: (1) Xây dựng 03 cây cầu: Bình Điền, Bến Lức, Tân An; (2) Đào đất
và các công trình hầm cầu còn lại trên toàn tuyến.
Để đưa đoàn tàu vượt các sông lớn nói trên khi cầu chưa xây dựng xong, các toa tàu
sẽ được tách rời để đưa xuống phà chạy máy hơi nước đưa qua sông rồi nối lại cho chạy
tiếp. Phà lắp đường ray và thiết bị nối với đường ray trên mặt đất, một lần chở được 10
toa. Phà và trạm trung chuyển ở Bến Lức, Tân An tồn tại khoảng 01 năm. Khi các cầu sắt
được hoàn thành, tình trạng trung chuyển này được hủy bỏ vào tháng 5/1886.
Ban đầu, việc xây dựng tuyến đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho được giao cho
CCFGCF thực hiện, khởi công năm 1881, hoàn thành vào năm 1885. Tuy nhiên, do có
81
nhiều tranh chấp trong hoạt động xây dựng và bảo hành hệ thống đường xe lửa giữa công
ty và chính quyền về các điều khoản thực hiện hợp đồng nhượng quyền doanh thương,
ngày 15/7/1889, chính quyền đã chính thức giao quyền thương mại tuyến đường
này SGTVC. Ở thời điểm đó, SGTVC đang điều hành và khai thác rất thành công tuyến
xe lửa tramways Sài Gòn - Chợ Lớn (đường trên). Chi phí toàn bộ cho công trình xây
dựng có thể được tính như sau:
- Cơ sở hạ tầng
+ Cầu Bình Điền, Bến Lức, Tân An: 2.800.000fr
(hồ sơ thầu Eiffel)
+ Phần còn lại của cơ sở hạ tầng: 2.365.500fr
(hồ sơ thầu Morandière 510.00$ với 4,65fr)
+ Chi phí bổ sung cho các phần xung quanh Cầu (194.000$ với 4,30fr)
873.000fr.
Tổng cộng: 6.038.500fr
- - Công trình mặt cầu
+ Tổng số tiền giao khoán theo Hiệp ước 4.970.000fr
ngày 18/8/1881 là 70.000fr/km đối với 71km.
Tổng cộng: 11.009.500fr
(HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Về tổ chức quản lý, chi phí và khai thác
Đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho được chính quyền giao cho SGTVC đảm nhiệm.
Công ty này cũng đã thiết lập và điều hành đường xe lửa nối Sài Gòn - Chợ Lớn (đường
trên - route haute) đi vào hoạt động từ cuối năm 1881.
Năm 1880, SGTVC được thành lập để quản lý các tuyến đường sắt khu vực Sài
Gòn - Chợ Lớn. Khi tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho được thiết lập và đưa vào khai
thác cũng thuộc quyền quản lý của SGTVC (Société genérale des tramways à vapeur et
chemin de fer de Saigon - Mytho là công ty con của SGTVC trực tiếp điều hành tuyến
đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho). Tuy nhiên, SGTVC chấm dứt hoạt động vào ngày
31/12/1911 để chuyển giao vai trò của mình cho Chemins de fer de l'Indochine – Hỏa xa
Đông Dương (CFI).
82
Để quản lý đường sắt, chính quyền thuộc địa không trực tiếp khai thác mà chuyển
tiếp cho đơn vị đang khai thác tuyến xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn thông qua hình thức đấu
thầu. Ngày 15/7/1889, ông Will, đại diện Tổng công ty xe điện Nam Kỳ đã trúng thầu
khai thác trong 10 năm, kể từ ngày 15/9/1889. Công ty này cam kết nộp tiền thuế hàng
năm là 80.105fr để trả chi phí bảo trì đường sắt. Việc chuyển nhượng này hết hạn vào
ngày 13/9/1899. Theo đề nghị của bên chuyển nhượng, vào năm 1893, hợp đồng chuyển
nhượng đã được gia hạn đến ngày 31/12/1911. Hợp đồng gia hạn và quy định: ngoài số
tổng doanh thu giao khoán được ấn định là 5.500fr/km, công ty và chính quyền sẽ chia
nhau khoản dư còn lại. Tiền thuế hàng năm được công ty nộp cho chính quyền thuộc địa
để bảo trì tuyến đường là 80.105fr (HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG
II).
Phần tham gia của chính quyền thuộc địa trên lợi nhuận khai thác tuyến đường sắt
Sài Gòn – Mỹ Tho bắt đầu vào năm 1899, giá trị hàng năm như sau:
Bảng 2.5 - Giá trị lợi nhuận khai thác từ năm 1898 đến 1909
Năm Năm Giá trị lợi nhuận khai thác (fr) Giá trị lợi nhuận khai thác (fr)
1898 1904 3.181,05 90.703,21
1899 1905 20.680,48 91.030,36
1900 1906 22.792,19 56.603,03
1901 1907 31.792,19 121.995,82
1902 1908 33.286,05 150.646,97
1903 1909 57.052,49 150.928,33
(HS 5374, phông Phủ thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Từ khi mở cửa khai thác tuyến đường, ngoài việc bảo trì, chính quyền thuộc địa có
nhiệm vụ gia cố cầu đường để làm tăng sức lực chịu cho các máy có trọng lượng 14.700t
và xây 02 trụ bằng gạch ở cầu Tân An (01 trụ chính bằng đá để chịu được chuyển động
quan trọng). Việc gia cố cầu được thực hiện vào năm 1895 có giá 347.000fr. Tổng cộng
chi phí là 164.500fr/km đường mà không được hoàn hảo.
Theo báo cáo của Kỹ sư, việc khai thác tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho được
83
quy định trong hợp đồng ngày 15/7/1889, gia hạn lại với vài nội dung thay đổi vào ngày
28/6/1893. Công ty nhận toàn bộ tiền thu được và nộp về cho Thuộc địa bao gồm tiền
thuế hàng năm được ấn định là 80.105 fr để trả chi phí bảo trì đường và một nửa số tiền
dư ra trên tổng doanh thu khai thác được giao khoán là 5.500 fr/km.
Tuy nhiên, số tiền nộp hàng năm 80.105fr không đủ để chính quyền thuộc địa trả
chi phí bảo trì đường sắt và không thể báo cáo một cách chính xác số tiền chi tiêu này.
Cụ thể:
- Dự tính chi phí để bảo trì đường sắt trong ngân sách năm 1910: chi cho tổ chức,
nhân sự là 9.040 fr; Chi phí cho vật liệu: 31.000 fr (theo tỉ giá ngân sách 2,40 fr, thì số
- Dự toán ngân sách cho năm 1911: chi cho tổ chức, nhân sự (bao gồm cả nhân sự
tiền là 96.096 fr).
đã được trả lương trước đây bằng nguồn kinh phí mua vật dụng): 18.000 fr; chi phí vật
liệu: 22.000 fr. Tổng cộng là 40.000 fr, với tỉ lệ ngân hàng 2.3fr, tương ứng với số tiền là
92.000fr.
(HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Ngoài ra, chi phí bảo trì hàng năm và dự kiến cho những năm sau này khoảng
40.000 fr. Chi phí trung bình trong 10 năm chỉ vào khoảng 1000 fr/km. Con số này khá
thấp. Người ta có thể chấp nhận rằng, chi phí bảo trì trung bình phải là 1300 fr/km, tương
ứng với kinh phí dự toán hiện nay là 40.000 fr/năm.
Do việc quản lý khai thác tốn kém, chính phủ lại giao cho Tổng công ty Tàu điện
chạy hơi nước ở Nam Kỳ nhận thầu trong 10 năm bắt đầu từ ngày 15/7/1889. Từ năm
1911, chính phủ trực tiếp đứng ra khai thác tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Tính đến
năm 1896, số lãi thu được từ tuyến đường này là 3,22 triệu francs; năm 1911 là hơn 4
triệu francs. Số lãi không lớn song sự tồn tại của tuyến đường sắt cho cho thấy tầm quan
trọng của tuyến đường này qua sự kết nối chặt chẽ giữa Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu
Long thời bấy giờ.
2.3.3.3. Xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Biên Hòa
Trên cơ sở tài liệu lưu trữ tại số sơ số 61 và 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ
(TTLTQG II), tuyến đường sắt Sài Gòn – Biên Hòa là chặng cuối phía Nam của tuyến
đường sắt xuyên Việt, sau mở rộng ra Miền Trung tới Nha Trang và điểm cuối là Hà
84
Nội. Tuyến đường được khởi công năm 1898, hoàn thành và khai thác năm 1913. Các ga
của tuyến gồm: Sài Gòn - Gò Vấp - Bình Triệu - Thủ Đức - Dĩ An - Chợ Đồn - Biên
Hòa. Đến năm 1908, tuyến đường sắt này xây dựng được 89km (từ Sài Gòn đến Bảo
Chánh thuộc Biên Hòa của Nam Kỳ). Về sau, hệ thống giao thông đường sắt kết nối đến
các khu vực khác như từ Sài Gòn đi Phan Thiết, Phan Rang và Nha Trang. Năm 1910,
hoàn thành đoạn Sông Dinh - Mường Mán - Phan Thiết dài 55km. Tiếp đó, đoạn từ Phan
Thiết - Phan Rang - Bang Hoi - Nha Trang dài 228km được xúc tiến xây dựng. Đến năm
1913 thì đường sắt Sài Gòn - Nha Trang được thông tuyến.
Việc xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Nha Trang (phần có liên quan, không
thuộc Nam Kỳ) được Toàn quyền Paul Doumer - người tích cực thúc đẩy xây dựng cơ sở
hạ tầng để phát triển kinh tế Đông Dương, nhất là tuyến đường sắt xuyên Việt kết nối
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Tuyến đường này được thực hiện từng đoạn, kéo dài
trong 13 năm (1901 – 1914). Trong phần này, liên quan đến Nam Kỳ mà địa giới hành
chính “cực Bắc” là Miền Đông, giới hạn bởi Biên Hòa (và có lúc tới Phan Thiết). Do
vậy, trong phần này chỉ giới thiệu phần có liên quan đến Nam Kỳ từ Sài Gòn đến Bảo Chánh (thuộc Biên Hòa)7. Tuyến đường được khởi công xây dựng vào năm 1901
do Chemin de fer de l’Indochine (CFI) - công ty của chính phủ xây dựng và điều hành.
Năm 1908, tuyến đường này đã thực hiện được 89km từ Sài Gòn đến Bảo Chánh.
Ngày 13/3/1905, Toàn quyền Beau, cho phép CFTI nối đường Sài Gòn – Nha Trang ở
cây số 7 đến trạm depot gần ga Gò Vấp của Compagnie des tramways de Govap (công ty
con của CFTI). Các đoạn tiếp theo được xây dựng nối Sông Dinh đến Mường Mán và
Phan Thiết dài 55km (hoàn thành ngày 15/01/1910). Tiếp đó là các đoạn từ Phan Thiết
đến Phan Rang, Bang Hoi và Nha Trang dài 228km (hoàn thành vào tháng 12/1911).
Năm 1914, tuyến đường sắt Sài Gòn - Nha Trang được khánh thành (HS 5374 phông Phủ
Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Song song với việc xây dựng các tuyến đường sắt, việc xây dựng các nhà ga cũng
thực dân Pháp chú trọng. Các nhà ga nằm rải trên các tuyến đường sắt giao nhau ở mỗi
điểm, bình quân mỗi ga cách nhau là 4,7km. Cự ly ngắn giữa các ga thể hiện tính chất
7 Nay thuộc ấp Thọ Chánh, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai.
vận tải khách ngoại ô của tuyến đường. Ga chính được đặt ở khu vực chợ Bến Thành.
85
Như vậy, toàn bộ hệ thống đường sắt nội đô và liên tỉnh về miền Tây và miền Đông
ở Nam Kỳ được xây dựng khá hoàn chỉnh với tổng số 178 km thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.4 - Hệ thống đường sắt ở Nam Kỳ giai đoạn 1880 – 1918
(HS 5374 phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Thông qua biểu đồ nói trên, có thể nhận xét như sau:
(1) Hệ thống các tuyến đường sắt nội vùng chủ yếu chỉ được xây dựng ở Sài Gòn –
Chợ Lớn – Gia Định và các tỉnh lân cận (Long An, Thủ Dầu Một…) đã giải quyết tốt nhu
cầu giao thương nội vùng ở khu vực năng động nhất của Nam Kỳ;
(2) Các tuyến đường sắt liên tỉnh được xây dựng góp phần thực hiện chức năng kết
nối vùng;
(3) Tuy số km các tuyến đường sắt nội đô thấp 18 km (chiếm 20%) so với đường
sắt liên tỉnh song lượt khách đông mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Cùng với việc xây dựng các tuyến đường sắt này, các nhà ga cũng được hình thành
nhằm phục vụ vận chuyển hành khách và hàng hóa, tạo thuận lợi cho việc đi lại của hành
khách và hoạt động lưu thông hàng hóa. Tàu về thẳng nơi buôn bán và trung tâm giao
dịch nên việc đi lại nhanh chóng, thuận tiện, do đó đã thu hút được nhiều khách đi tàu và
gửi hàng. Mặt khác, nhờ đường sắt đi vào khu vực trung tâm đã thúc đẩy sự phát triển đô
thị, mở mang phố xá. Thời Pháp thuộc, ga và tàu hỏa là bộ mặt hoạt động kinh tế của
trung tâm chợ Bến Thành (HS 09, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
2.3.4. Giao thông hàng không
Sang thế kỷ XX, máy bay đầu tiên của người Pháp xuất hiện ở Việt Nam vào ngày
10/12/1910. Đó là chiếc máy bay Farman cánh đôi – loại phương tiện giao thông mới,
86
Đây là lần đầu tiên loại phương tiện này xuất hiện ở Việt Nam, trên bầu trời Sài Gòn
thuộc Nam Kỳ.
Ngay sau đó, Thống đốc Nam Kỳ báo cáo Toàn quyền Đông Dương. Từ thông tin
này, để phục vụ cho nhiệm vụ khai thác thuộc địa và đàn áp phong trào nổi dậy của dân
chúng, chính quyền Pháp ở Đông Dương chủ trương phát triển một cách nhanh chóng
ngành giao thông hàng không.
Theo tài liệu lưu trữ trong các hồ sơ JOIF, 1917. J 1091 và DFI 8489, phông Sở Tài
chính Đông Dương (TTLTQG I), ngày 13/7/1917, Toàn quyền Đông Dương Albert
Sarraut ký nghị định thành lập Cục Hàng không Đông Dương - Service de I’Aviation de
I’Indochine. Nghị định gồm 09 điều quy định chức năng, nhiệm vụ, nhân sự, điều hành
của Cục Hàng không và các phi đội tại Đông Dương. Nội dung chính của Nghị định này
gồm:
Về vị trí, công tác tổ chức và chức năng nhiệm vụ
- Cục Hàng không Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toàn quyền.
Ban đầu, Cục Hàng không Đông Dương có một phi đội gồm đội ngũ nhân viên quân sự
ngoại hạng và nhân viên dân sự. Phi đội này do một sĩ quan với chức danh chỉ huy phi
đội Đông Dương quản lý. Ngoài ra, Cục Hàng không Đông Dương còn có trách nhiệm
tổ chức trường huấn luyện, nghiên cứu thiết lập các tuyến đường bay, xây dựng sân bay
(đường băng, nhà ga, hệ thống đèn tín hiệu), đặt quy chế về việc sử dụng máy bay trong
hoạt động dân sự, quân sự trên toàn cõi Đông Dương; xác định cách thức sử dụng dịch
vụ hàng không phục vụ nhu cầu dân sự và quân sự tại thuộc địa.
- Cục Hàng không Đông Dương tổ chức sân bay Trại Tông (Sơn Tây); Nghiên
cứu đường bay; Bố trí phi trường và xác định cách thức sử dụng dịch vụ hàng không
phục vụ nhu cầu dân sự và quân sự tại thuộc địa;
- Cục Hàng không Đông Dương có một phi đội gồm đội ngũ nhân viên quân sự
ngoại hạng và nhân viên dân sự. Phi đội này đặt dưới sự chỉ huy và quản lý cửa một sĩ
quan với chức danh chỉ huy phi đội Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo của Toàn quyền;
- Lực lượng nhân viên quân sự được phái đến từ Pháp, tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
trong ngành hàng không được xếp VCIO loại ngoại hạng do Toàn quyên sử dụng. Tính
từ ngày 01/7/1917, mọi khoản chi cho đội ngũ nhân viên và mua sắm thiêt bị trong
87
ngành hàng không đều do ngân sách chung Đông Dương đảm nhiệm;
- Phi đội Đông Dương gồm một đội bay và một đội mặt đất. Tư lệnh phi đội cũng
là người nhận, kiểm tra và chịu trách nhiệm về thiết bị đồng thời đảm bảo việc chuyển
các thiết bị này về Trại Tông. Trại Tông được chính quyền quân sự lựa chọn làm sân
bay, được duy trì như một trung tâm dịch vụ thử nghiệm. Khu doanh trại tạm thời gồm:
nhà ở cho sĩ quan, quân đội; bếp và phòng ăn; phòng kế toán; các khu nhà xưởng được
xây dựng với kết cấu nhẹ theo bản vẽ được Toàn quyền phê chuẩn. Công trình này do
đại diện của Sở Công chính tại Sơn Tây chỉ đạo, dưới sự giám sát của nhân viên phi đội
Đông Dương. Hoạt động của phi đội Đông Dương diễn ra giống như hoạt động của các
phi đội tại Pháp khi tham gia chiến dịch. Những chỉ thị đặc biệt được Toàn quyền thông
qua sẽ quy định điều kiện nhân viên được vắng mặt vì lý do cá nhân, cách thức thanh
toán chi phí cho nhân sự và các loại chi phí khác.
Về nguyên tắc hoạt động và sử dụng cơ sở hạ tầng
Các nhà ga tại cảng hàng không là nhà ga chung cho cả hàng không quân sự và
thương mại. Tất cả máy bay cho dù ở đâu đến cũng có thể đáp ở đây. Các hãng sẽ phải
trang bị các cơ sở kỹ thuật riêng, được cho mượn hoặc cho thuê hay thậm chí thuộc sở
hữu riêng của mình tại các sân bay. Các cơ sở kỹ thuật này sẽ chỉ được xây dựng khi có ý
kiến của người đứng đầu ngành hàng không.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tại Nam Kỳ chưa triển khai các hoạt động của giao
thông hàng không. Đến năm 1919, phi đội Nam Kỳ mới được thành lập và triển khai xây
dựng sân bay chỉ có một đường hạ cất/hạ cánh bằng đất, thuộc làng Tân Sơn Nhứt (Tân
Sơn Nhất), thuộc phủ Tân Bình (địa danh Tân Sơn Nhất được lấy làm tên của sân bay
sau này).
Tiếp đó, để giao thông hàng không tại Nam Kỳ và Đông Dương đi vào hoạt động
đúng quy định của chính quốc, ngày 26/5/1922, Bộ trưởng Bộ thuộc địa gửi Toàn quyền
Đông Dương quy định Mạng lưới hàng không Đông Dương gồm:
“A/ Các đường băng cứu trợ, các đường băng đơn giản cho phép máy bay đáp trong
trường hợp khẩn cấp;
B/ Các sân bay phụ bao gồm 1 khu dành cho máy bay quá cảnh, tiếp liệu, thay
phụ tùng, một trạm viễn thông và khí tượng nếu có;
88
C/ Các sân bay chính, các căn cứ hay điểm đậu lại của máy bay quân sự, điểm
khởi hành hoặc trạm cuối của các tuyến hàng không được khai thác, bao gồm việc lắp đặt
các thiết bị kỹ thuật đầy đủ: nhà ga, xưởng kho, trạm viễn thông và khí tượng.”.
Nhìn chung, mục đích của thực dân Pháp khi xây dựng ngành hàng không tại Nam
Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung không phải nhằm trang bị, khai thác phát huy kinh
tế kỹ thuật và xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật người Việt mà chỉ nhằm phục vụ
hiệu quả cho công cuộc khai thác bóc lột của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương.
Mục đích chính, cụ thể ban đầu là phục vụ cho các hoạt động quân sự, ngoại giao, nội
chính, kinh tế, thông tin liên lạc.
Tóm lại, chỉ sau 56 năm (1862 – 1918), thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã tập trung hình
thành và xây dựng được 03 loại hình giao thông gồm đường thủy, đường bộ và đường sắt
với tổng cộng là 7211 km. Những số liệu cụ thể được thống kê để biểu thị trong biểu đồ
thể hiện thể hiện qua biểu đồ sau đây:
Biểu đồ 2.5 - Số lượng km và tỉ lệ giao thông ở Nam Kỳ (1862 – 1918)
(HS 09, 5374 phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II)
Thông tin trong biểu đồ trên thể hiện một số vấn đề sau:
(1) Trong biểu đồ trên không có giao thông hàng không vì tuy Hàng không Đông
Dương được thành lập ngày 17/3/1917 nhưng đến năm 1929 mới có chuyến bay đầu tiên
nên chưa thể tính đến năng lực vận chuyển trong biểu đồ này;
(2) Biểu đồ thể hiện rõ số lượng km và tỉ lệ % của từng loại hình - biểu hiện sự
phát triển, năng lực vận tải trong “thị phần” hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn
1862 – 1918;
(3) Trong thực tế sử dụng, đường thủy nội địa tuy chiếm 16% (1.158 km), đường
89
bộ chiếm 82% cho thấy vai trò “trụ cột”, “xương sống” trong hoạt động giai thông ở
Nam Kỳ, đóng góp nhiều nhất cho việc phát triển sản xuất và giao thương mà mục đích
chính phục vụ hiệu quả nhất cho Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ I của thực dân
Pháp ở Việt Nam và Đông Dương.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Thực dân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ và biến nơi đây thành thuộc địa khai thác độc
quyền, cột chặt vào guồng máy của chủ nghĩa tư bản, đế quốc Pháp.
Trước hết, Nam Kỳ bị đặt dưới chế độ trực trị. Thực dân Pháp xác định Nam Kỳ
như một hạt hải ngoại của nước Pháp, nghĩa là phần lãnh thổ của Việt Nam này không
chịu ảnh hưởng cai trị về mặt quản lý hành chính nhà nước của triều đình phong kiến nhà
Nguyễn.
Cùng với các chính sách về chính trị, người Pháp cũng thi hành những chính sách
khai thác kinh tế ở Nam Kỳ một cách có lợi và hiệu quả nhất phục vụ cho chính quốc.
Sau khi xâm chiếm và về cơ bản bình định xong Nam Kỳ, thực dân Pháp đã triển khai
xây dựng hệ thống đường bộ, đường sông, đường sắt, Cảng Sài Gòn, hệ thống điện thoại,
điện báo, thành lập Ngân hàng Đông Dương để hoạt động trong toàn xứ Nam Kỳ nhằm
phục vụ cho chính sách cai trị và khai thác bóc lột của chúng.
Đầu tiên và trước hết là tận dụng khai thác, thúc đẩy phát triển hệ thống giao thông
thuỷ. Với hệ thống kênh rạch có sẵn vừa đáp ứng nhu cầu tưới tiêu, vừa phục vụ nhu cầu
giao thông. Mạng lưới này được phân bố đều khắp ở những vùng đất có tiềm năng phát
triển nông nghiệp lúa nước, nối liền các vùng sản xuất nông nghiệp với nhau để dễ dàng
trong lưu thông, vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra, mạng lưới này còn góp phần liên kết
các trung tâm kinh tế cũ, hình thành các trung tâm kinh tế mới. Đây là một điểm mới của
Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Ở thời phong kiến, việc trao đổi, buôn bán sản phẩm thường
diễn ra trong nội vùng, ở các chợ hay phố chợ, còn thông thương với các trung tâm kinh
tế là rất hạn chế. Trong khi đó, thời Pháp thuộc, các trung tâm này hình thành đều khắp ở
các tỉnh nhưng tập trung vào đầu mối là Mỹ Tho và Sài Gòn – Chợ Lớn. Đó là xu hướng
để phát triển ra bên ngoài hơn là trao đổi nội vùng. Ở những trung tâm thuộc dạng nói
trên, mức độ tập trung dân cư khá nhanh, sự phân công lao động theo hướng tư bản chủ
nghĩa bắt đầu xuất hiện, nhân khẩu nông nghiệp giảm, nhân khẩu công thương nghiệp và
90
dịch vụ tăng lên. Sự tách biệt giữa các địa phương ở Nam Kỳ đã dần dần khắc phục nhờ
hệ thống giao thông dù chưa có nhiều biến đổi lớn mà mới chủ yếu là khai thác một cách
tận dụng. Trong chiều hướng đó phải nhắc đến vai trò của hệ thống cầu, phà trong việc
kết nối nội vùng và liên vùng nơi nhiều sông rạch.
Bên cạnh đó, hệ thống đường sắt và đường bộ vừa được xây dựng đã đẩy mạnh tốc
độ vận chuyển hàng hóa và đáp ứng nhu cầu đi lại của dân chúng. Mặt khác chúng còn
làm nhiệm vụ liên kết các vùng lại với nhau, tạo điều kiện cho tất cả các địa phương mà
chúng đi qua cùng gia nhập vào sự vận động chung của guồng máy kinh tế Nam Kỳ.
Về cơ bản, trong giai đoạn 1862 - 1918, Nam Kỳ đã hình thành một hệ thống giao
thông với đầy đủ các loại hình: Hệ thống đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) dài hàng ngàn cây
số được xây dựng; Hệ thống đường sắt từ Sài Gòn - Mỹ Tho tạo điều kiện trung tâm chế
biến – xuất khẩu tiếp cận vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo Tây Nam Kỳ; Hệ thống
kênh đào thông thương nội vùng và liên vùng; Hệ thống bến cảng gồm hàng chục cảng
sông lớn nhỏ kết nối trong vùng, ra phía Bắc và thông thương ra quốc tế qua Cảng Sài
Gòn. Bên cạnh đó là sự manh nha hình thành và phát triển giao thông hàng không thông
ra thế giới bên ngoài...
Chính sự hình thành hệ thống giao thông mới đó đã đưa đến những hệ quả sau:
Tốc độ phát triển các vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo ở Tây Nam Kỳ và cây cao
su ở Đông Nam Kỳ trở nên mạnh mẽ theo dạng sản xuất hàng hóa nhằm tạo ra sản lượng
cao phục vụ cho thương mại xuất khẩu;
Nền kinh tế Nam Kỳ đã có những chuyển biến từ một nền sản xuất phong kiến sang
nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Điều đó đánh dấu một bước phát triển quan trọng
trong việc đưa kinh tế Nam Kỳ phát triển với dáng dấp ban đầu của một nền kinh tế hàng
hóa – điều kiện cần có để hòa nhập vào thị trường thế giới;
Và tất cả các hệ quả đó xuất hiện khi thực dân Pháp tổ chức khai thác thuộc địa ở
Nam Kỳ với sự trợ giúp, công cụ của một hệ thống giao thông mới hình thành; đó là hệ
quả của việc thực hiện mục đích khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ với mức độ cao nhất.
Song song với những thành tựu ấy là sự bần cùng hóa các tầng lớp dân chúng ở Nam Kỳ,
nhất là tầng lớp nông dân và phu đồn điền.
91
CHƯƠNG 3.
HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945
3.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG HỆ THỐNG
GIAO THÔNG CỦA PHÁP Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Đây là thời kỳ mà Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) cùng
chính sách “kinh tế chỉ huy” của thực dân Pháp ở Đông Dương và chế độ “cộng trị” Pháp
– Nhật được thực hiện ở Việt Nam. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ, phát xít Nhật
lại tìm cách hiện diện ở Nam Kỳ. Dân ta phải chịu ách thống trị “một cổ hai tròng”.
Chính sách “cộng trị” do thực dân Pháp và phát xít Nhật được thực hiện ở Việt Nam
cũng chính ở thời kỳ này. Chính những yếu tố đó đã có những tác động lớn đến lịch sử
Việt Nam và Nam Kỳ đồng thời cũng là tác nhân chia thời kỳ lịch sử này thành hai giai
đoạn rõ rệt với những tác động đến việc xây dựng hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
(tulieuvankien.dangcongsan, 2018).
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 – 1918), tình hình kinh tế, chính trị thế giới
và Đông Dương có nhiều biến động sâu sắc. Nước Pháp thuộc phe thắng trận nhưng nền
kinh tế bị tàn phá nặng nề. Kinh tế Pháp và thế giới sau năm 1918 rơi vào tình trạng kiệt
quệ dẫn đến cuộc đại suy thoái trong những năm 1929 - 1933 và kéo dài cho đến năm
1939. Để hàn gắn vết thương chiến tranh và củng cố địa vị của mình trong thế giới tư
bản, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản tài chính Pháp một mặt tăng cường bóc lột
nhân dân lao động trong nước, mặt khác đẩy mạnh đầu tư khai thác các thuộc địa, mà
Đông Dương và trọng tâm là Nam Kỳ được xem là “thuộc địa quan trọng nhất, phát triển
nhất, giàu có nhất” trong tất cả các thuộc địa của Pháp trên thế giới (Albert Pierre
Sarraut, 1923).
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai do Albert Pierre Sarraut (1872 - 1962),
Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, nguyên là Toàn quyền Đông Dương hai nhiệm kỳ (1911 – 1914
và 1917 - 1919) khởi xướng. Nội dung và định hướng của Chương trình này thể hiện đầu
tiên và sau đó được viết lại trong cuốn "La mise en valeur des colonies françaises" (Khai
khẩn các thuộc địa Pháp). Đó là cơ sở của công cuộc khai thác kinh tế nhằm định hướng
các công việc phải quan tâm trong quản lý hành chính ở chính quốc và thuộc địa (Albert
92
Pierre Sarraut, 1923). Kế hoạch này đã được Hội đồng chính phủ Đông Dương tán thành
và cho phép thực hiện bởi “xứ Đông Dương hào phóng, bằng quỹ dự trữ của mình, cấp
cho những lãnh thổ thuộc châu Đại Dương nhưng phương tiện để thoát khỏi sự uể oải và
đạt được giá trị toàn diện...” (Albert Pierre Sarraut, 1923).
Thực hiện ý đồ trên, thực dân Pháp đã đầu tư vào Đông Dương với tốc độ và quy
mô lớn gấp nhiều lần so với thời kỳ trước Chiến tranh thế giới lần thứ I. Chương trình
khai thác lần này nhằm mục đích chủ yếu là tăng cường đầu tư để bóc lột thuộc địa ở
mức cao hơn bằng cách gia tăng và tập trung vốn đầu tư, trước hết là vào nông nghiệp rồi
đến các ngành mỏ, công nghiệp chế biến, thương nghiệp và giao thông vận tải.
Điểm nổỉ bật của Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II là được tiến hành trên
quy mô lớn gấp nhiều lần so với trước chiến tranh nhưng đầu tư cho giao thông vận tải
lại ở mức thấp nhất, đặc biệt là ở Nam Kỳ.
Về mục tiêu, cuộc khai thác thuộc địa lần này vẫn theo đuổi một ý đồ duy nhất và
cao nhất là bòn rút, vơ vét tài nguyên của thuộc địa để làm giàu cho chính quốc nhưng
không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư, lần này có sự thay đổi căn bản. Nếu như trước Chiến
tranh thế giới lần thứ I, vốn của tư bản nhà nước là chủ yếu thì trong cuộc khai thác
thuộc địa lần hai, vốn đầu tư của tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
Về cường độ, Chương trình khai thác thác thuộc địa lần thứ II diễn ra rất nhanh và
mạnh mẽ. Chỉ tính riêng trong 06 năm (1924 – 1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp
vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh.
Về lĩnh vực đầu tư, cũng có sự thay đổi lớn. Nếu như trong Chương trình khai
thác thuộc địa thứ I, hoạt động khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai
thác thuộc địa lần này, vị trí đó thuộc về nông nghiệp. Dưới tác động của công cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục
có những bước chuyển biến theo hướng hiện đại. Nông nghiệp vẫn là ngành được thực
dân Pháp chủ trương đầu tư lớn, tập trung cao vào khu vực trồng và khai thác cây công
nghiệp (nhất là cao su) ở Đông Nam Kỳ. Do vậy, cơ cấu cây trồng trong giai đoạn này
ngoài trồng lúa đã xuất hiện những đồn điền trồng cao su, chè, cà phê, hạt tiêu... dẫn đến
sự ra đời và hoạt động mạnh của các Công ty đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt
93
đới và Công ty Mitsơlanh. Sản lượng mủ cao su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho
10.000 tấn.
Đối với việc phát triển của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, lý giải cho sự “im ắng”
trong giai đoạn này bởi hai nguyên nhân:
- Thực tế hệ thống giao thông Nam Kỳ đã được thực dân Pháp thực hiện khá hoàn
chỉnh ngay từ giai đoạn đầu (1862 – 1918);
- Trong chương trình khai thác lần này, Pháp chỉ chú trọng đầu tư về kỹ thuật,
hoàn tất những công trình đang dở dang và nâng cấp, trang bị một số phương tiện giao
thông vận tải mới (tàu điện, xe hơi và tàu bay) trong quá trình đô thị hóa ở miền Tây
Nam Kỳ (Mỹ Tho, Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long…) và đặc biệt là ở Sài Gòn – Chợ
Lớn. Giao thông đường sắt xuyên Việt vẫn tiếp tục được thực hiện nhưng ở phạm vi
ngoài Nam Kỳ (các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm). Đến năm 1931, đường
sắt ở Việt Nam đã xây dựng được 2389 km.
Với giao thông đường bộ, đầu tư được sử dụng cho việc tiếp tục nâng cấp hệ thống
đường xá. Nhiều đường quốc lộ và liên tỉnh đã được rải đá cấp phối và tráng nhựa, nhất
là các tuyến đường ở miền Đông Nam Kỳ nhằm phục vụ cho phát triển trồng và khai
thác cây cao su.
Về đường thủy, loại hình giao thông thông dụng ở miền sông nước vẫn đóng vai trò
chủ đạo trong kinh tế nội vùng và đối ngoại. Cảng Sài Gòn vẫn là đầu mối duy nhất ở
Việt Nam và Đông Dương giao thương với thị trường thế giới. Do vậy, Cảng và Sài Gòn
– Chợ Lớn càng được chú trọng phát triển để trở trung tâm kinh tế, thành đầu mối của
mạng lưới vận tải đường sông từ vùng châu thổ sông Mekong ra biển và từ các cảng ở
Bắc và Trung Kỳ vào để giao thương với thị trường thế giới một cách triệt để nhất
(Nguyễn Quang Ngọc, 2006).
Về hoạt động kinh tế ở Đông Dương trong đó có Nam Kỳ, từ tháng 9/1939, thực
dân Pháp bắt đầu thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy” ở Việt Nam nhằm cung cấp cho
mẫu quốc tiềm lực tối đa về quân đội, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu. Đó là
chính sách bóc lột, khai thác tài lực, vật lực của thuộc địa một cách triệt để nhất nhằm
phục vụ cho nhu cầu của chính quốc. Khi quân Nhật vào Việt Nam, tài nguyên khoảng
sản còn phải cung cấp cho đội quân phát xít để hoạt động tại Việt Nam và xuất khẩu về
94
nước. Đội quân xâm lược này đã cùng chính quyền thực dân Pháp “cộng trị” ở Nam Kỳ,
Việt Nam và Đông Dương nhằm thống trị nhân dân Việt Nam, bóc lột và khai thác tài
nguyên của Việt Nam một cách hiệu quả nhất (Phạm Hồng Tung, 2004).
Nhận xét về thời kỳ này, tác giả Nguyễn Quang Ngọc trong cuốn Tiến trình Lịch sử
Việt Nam đã nêu rõ, đó “là giai đoạn quan trọng trong hoạt động phục hồi kinh tế ở chính
quốc và cũng chính là giai đoạn của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II ở Đông Dương
trong đó Nam Kỳ là trọng tâm nhằm thực hiện công cuộc phục hồi kinh tế của Đế quốc
Pháp” (Nguyễn Quang Ngọc, 2006).
Ở châu Âu, ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới lần II nổ ra khi phát xít Đức tấn
công Ba Lan. Ngày 05/6/1939 quân đội phát xít tiến về Paris. Ngày 17/6/1939, chính phủ
Pháp do Philippe Petain đứng đầu đã đầu hàng Đức quốc xã.
Ở Nam Kỳ, chế độ cai trị và hệ thống chính quyền của thực dân Pháp trong toàn
Liên bang Đông Dương gần như không có gì thay đổi. Cuộc đảo chính của Nhật nổ ra
vào đêm ngày 09/3/1945 chỉ có tác dụng thêm một kẻ xâm lược, thêm một ách cai trị
mới đối với nhân dân Việt Nam và Nam Kỳ. Thực chất, mục tiêu chiến lược của phát xít
Nhật trong việc xâm chiếm Đông Dương chỉ nhằm khai thác tối đa nguồn tài nguyên của
xứ này mà không cần đầu tư bất cứ khoản nào, không cần xây dựng bất cứ công trình gì.
Các mặt hàng bị vơ vét, xuất về Nhật chủ yếu là cao su, than… đặc biệt là lúa gạo nhằm
phục vụ cho chiến lược xâm chiếm Đông Nam Á và châu Á. Để thực hiện ý đồ đó, Nhật
đã buộc thực dân Pháp ký nhiều điều ước “bất bình đẳng” (Dương Kinh Quốc, 2005)
gồm:
Hiệp định ngày 30/8/1940, nhằm đưa 25.000 quân Nhật vào chiếm đóng Đông
Dương, cho phép người Nhật được sử dụng các sân bay, bến cảng, đường sắt ở Đông
Dương;
Hiệp định ngày 22/9/1940, quy định thể thức quân Nhật vào chiếm Đông Dương;
Hiệp định ngày 20/1/1941, Pháp cam kết trong năm 1941, từ Đông Dương cung cấp
cho Nhật Bản 700.000 tấn gạo trắng, trong đó có 500.000 tấn gạo trắng loại 1 (25% tấm)
và 200.000 tấn gạo trắng loại 2 (40% tấm). Việc giao nộp thực hiện tại cảng Sài Gòn;
Hiệp định kinh tế ngày 06/5/1941, quy định việc tái tổ chức nền kinh tế Đông
Dương để phục vụ các mục tiêu chiến tranh của Nhật;
95
Hiệp ước ngày 29/7/1941 giữa chính phủ Nhật và chính phủ Vichy về việc phòng
thủ chung và quy định việc thực dân Pháp cống nạp tiền (mỗi tháng 4,5 triệu piastre), lúa
gạo, xăng dầu cho quân Nhật;
Hiệp định ngày 5/1/1944 về việc xuất gạo sang Nhật.
Như vậy, qua hàng loạt các hiệp định, hiệp ước nói trên, thực dân Pháp buộc phải
cung cấp nhu yếu phẩm, kinh phí và nhượng cho Nhật là quyền khai thác, sử dụng toàn
bộ tài nguyên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và quân sự, vị trí chiến lược của Đông Dương,
quyền kiểm soát tối cao đối với Nam Kỳ vào mục đích chiến tranh của Nhật.
Cũng trong giai đoạn này, chính sách “kinh tế chỉ huy” đã được chính quyền Pháp
thực hiện trước đây nay họ cùng phát xít Nhật áp dụng trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế
giới lần thứ II diễn ra. Chính sách đó không chỉ nhằm vơ vét và kiểm soát việc tận thu
lúa gạo cho Nhật mà còn mở rộng ra các loại ngũ cốc khác để không chỉ phục vụ cho
chính quốc mà còn để xuất sang Nhật theo các hiệp ước, hiệp định bất bình đẳng mà phát
xít Nhất đã buộc chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương ký kết (Văn Tạo – Furata
Moto, 2011).
Với bối cảnh và những biến cố lịch sử như vậy, tác động của nó đến việc xây dựng
cơ sở hạ tầng trong đó có hệ thống giao thông vận tải ở Nam Kỳ và Việt Nam là rất lớn.
Có thể nhận xét tổng quát về hoạt động xây dựng hệ thống giao thông ở giai đoạn này
như sau:
- Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông ở Nam Kỳ rất thấp.
Vốn của tư bản tư nhân từ Pháp chủ yếu tập trung ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặt khác, hệ
thống giao thông vận tải ở Nam Kỳ đã được thực dân Pháp tập trung đầu tư xây dựng
khá hoàn chỉnh trước năm 1918 nên ở giao đoạn này không có yêu cầu xây dựng những
công trình lớn.
- Trong giai đoạn “cộng trị”, thực dân Pháp – phát xít Nhật chỉ tập trung khai
thác năng lực vận chuyển của hệ thống giao thông sẵn có nhằm phục vụ cung ứng nhu
cầu nội địa và xuất khẩu. Do vậy, nhiệm vụ xây dựng hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
giai đoạn này là hoàn thiện, mở rộng và nâng cấp (rải đá, trải nhựa…) các tuyến đường
bộ.
- Điểm nổi bật nhất của giao thông Nam Kỳ là sự xuất hiện và đưa vào sử dụng
96
một số phương tiện giao thông vận tải mới, hiện đại như tàu bay (hàng không) và xe hơi
– Ô tô (đường bộ). Chính những yếu tố này góp phần hiện đại hóa và hoàn thiện hệ
thống giao thông Nam Kỳ trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động và phức tạp.
Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu phương Tây ở Nam Kỳ và Việt Nam với sự xuất
hiện của các phương tiện giao thông hiện đại đã trở thành một trong những yếu tố thúc
đẩy sự hình thành và tạo ra chuyển biến của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, Việt Nam
và Đông Dương thời Pháp thuộc giai đoạn 1919 – 1945. Đây cũng là cơ sở quan trọng
xác định những chuyển biến của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ trong Chương trình khai
thác thuộc địa lần thứ II.
3.1.2. Chính sách xây dựng, phát triển giao thông Nam Kỳ giai đoạn 1919 –
1945
Chính sách xây dựng và phát triển kinh tế nói chung và xây dựng cơ sở hạ tầng,
nhất là hạ tầng kỹ thuật nói riêng phụ thuộc hoàn toàn vào quyền lực của bộ máy cai trị,
nhu cầu, mục đích khai thác hệ thống giao thông đó. Ngoài ra, để có thể thực hiện được
những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật lớn đòi hỏi một tiềm lực tài chinh rất
lớn, quá trình đầu tư có tính ổn định và lâu dài.
Đặc biệt, trong giai đoạn có những tác động lớn từ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ
II đã tác động (tích cực và tiêu cực) đến sự phát triển của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ.
Trong những biến động lịch sử đó phải kể đến một yếu tố đặc biệt quan trọng, tác động
lớn đến quyền cai trị, hoạt động khai thác thuộc địa và tất nhiên là cả những hoạt động
xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn này. Đó là sự xuất hiện
của một kẻ cai trị mới đầy sức mạnh, sẵn sàng lấn lướt thực dân Pháp. Nguyên nhân này
đã sản sinh cơ cấu “cộng trị” Pháp - Nhật ở Nam Kỳ và Việt Nam. Đó là yếu tố tác động
có tính quyết định đến chính sách xây dựng và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ.
Có 03 yếu tố tác động mang tính bản chất, quyết định đến chính sách này là:
Thứ nhất. Quyền ban hành quyết định về chủ trương, chính sách
Trong giai đoạn trước năm 1940, Nam Kỳ và Đông Dương được cai quản bởi bộ
máy của chính quyền thực dân Pháp. Tất cả các hoạt động “quản lý nhà nước” đều từ
chính quốc, chính quyền Liên bang Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ. Tuy nhiên, từ
sau tháng 3/1940, trong chế độ “cộng trị”, chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ và
97
Đông Dương không còn quyền quyết định các chủ trương, chính sách nói chung trong đó
có hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống giao thông. Với người Nhật, chỉ có mục
đích khai thác để phục vụ chiến tranh mà không có thời gian và tài chính giành cho xây
dựng và phát triển bất cứ lĩnh vực nào trong đó có hệ thống giao thông.
Thứ hai. Tác động của cơ cấu vốn đầu tư và tiềm lực tài chính
Nguồn vốn và tỉ lệ vốn đầu tư ở giai đoạn này đã thay đổi. Vốn đầu tư tư nhân gấp
đôi vốn đầu tư công. Vốn đầu tư công chỉ dành cho Trung Kỳ, vốn đầu tư tư nhân thì
giành cho Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Theo số liệu thống kê, đến năm 1939, trong số vốn đầu tư
tư nhân, phần giành cho nông nghiệp chiếm 27% trong khi đó phần cho giao thông vận
tải lại ở mức thấp nhất, chỉ chiếm 11,5%. Đặc biệt, vốn đầu tư giành cho Nam Kỳ từ
nguồn vốn đầu tư tư nhân thấp hơn nhiều so với Bắc Kỳ. Điều đó không cho phép Nam
Kỳ thực hiện các công trình xây dựng và phát triển giao thông có quy mô lớn như thời kỳ
trước (Jean – Pierre Aumiphin, 1994). Đây là yếu tố tác động đến chính sách xây dựng
và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1939 - 1945.
Thứ ba. Những khó khăn về kỹ thuật trong xây dựng và phát triển hệ thống giao
thông ở Nam Kỳ
Thực tế việc xây dựng các công trình giao thông ở Nam Kỳ trước năm 1918 đã khá
hoàn chỉnh. Chủ trương tiếp theo của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương là
mở rộng mạng lưới đường sắt về các tỉnh ở Tây Nam Kỳ và kết nối sang Camphuchia.
Tuy nhiên, miền Tây Nam Kỳ là vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt, địa hình, địa
chất phức tạp rất khó giải quyết những vấn đề kỹ thuật khi xây dựng cầu, đường nơi đây.
Do đó, muốn phát triển hệ thống giao thông ở miền Tây Nam Kỳ phải khắc phục nhiều
giải pháp kỹ thuật cao hơn nhiều so với việc xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ
Tho. Điều này không cho phép chính quyền thực dân Pháp thực hiện trong giai đoạn này.
Từ những cơ sở nói trên, có thể xác định chính sách chung về xây dựng và phát
triển hệ thống giao thông Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945 là:
1) Không xây dựng những công trình giao thông mới, có quy mô lớn cần nhiều vốn
đầu tư và kỹ thuật cao như đường sắt, cầu… về các tỉnh ở Tây Nam Kỳ và sang
Camphuchia;
2) Tập trung mở rộng, nâng cấp hệ thống đường bộ hiện có để phát triển phương
98
tiện giao thông mới, hiện đại, có năng lực vận chuyển cao (ô tô);
3) Khai thác hiệu quả hệ thống giao thông đã xây dựng, nâng cấp để phục vụ cho
Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II và nhu cầu vơ vét tài nguyên phục vụ chiến
tranh của phát xít Nhật.
Chính sách cụ thể trong việc xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
với từng ngành giao thông như sau:
Đối với đường sắt: thực dân Pháp có chủ trương nâng cấp và mở thêm các tuyến
đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho về các tỉnh ở Nam Kỳ (Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ…) và
sang Camphuchia. Kế hoạch này không được Paris duyệt vì thiếu vốn và khó khăn về kỹ
thuật do Tây Nam Kỳ do quá nhiều kênh, rạch, sông lớn. Cũng trong thời kỳ này, kế
hoạch phát triển các đô thị mà Sài Gòn – Chợ lớn là một trong những thành phố trọng
tâm của vùng và Đông Dương được thực hiện qua việc mở rộng hướng tuyến, nâng cấp
và hiện đại hóa các tuyến xe điện nội đô từ Sài Gòn – Chợ Lớn đi Gia Định, Thủ Dầu
Một…
Đối với đường bộ: thực dân Pháp dự tính mở rộng, nâng cấp một số tuyến đường
quốc lộ phần đi qua Nam Kỳ (trải đá, cán nhựa…) và các tuyến tỉnh lộ để phục vụ loại
phương tiện giao thông mới: Xe hơi - Ô tô. Đây là một loại phương tiện hiện đại, có khả
năng vận chuyển nhanh, tải trọng cao có khả năng nâng cao năng lực vận chuyển hàng
hóa phục vụ hiệu quả cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Việc đưa ô tô vào sử dụng và
trở thành phương tiện vận chuyển chủ yếu của giao thông đường bộ Nam Kỳ nói riêng và
Đông Dương nói chung đã góp phần quan trọng tạo ra diện mạo mới, một biến đổi quan
trọng tác động đến phát triển kinh tế ở Nam Kỳ và Đông Dương.
Đối với đường thủy: thực dân Pháp chủ trương nâng cấp bằng cách nạo vét các
tuyến đường thủy nội địa và kết nối với Camphuchia bằng các công cụ nạo vét hiện đại
như “xáng”,”cạp” sử dụng máy hơi nước; Nâng cao năng lực của Cảng Sài Gòn phục vụ
xuất khẩu tài nguyên, nông sản về chính quốc và đáp ứng yêu cầu của phát xít Nhật.
Đối với giao thông hàng không: dù tàu bay mới xuất hiện như một hiện tượng lạ
vào năm 1910 nhưng loại phương tiện này đã gây được sự chú ý của chính quyền thực
dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương. Ngay sau đó, hàng loạt các văn bản của Toàn
quyền Đông Dương, Thống đốc Nam Kỳ và cả của chính quốc được ban hành nhằm sớm
99
nhất cho ra đời một ngành giao thông mới. So với các loại hình giao thông khác, hàng
không ở Nam Kỳ và Đông Dương hình thành và đi vào hoạt động nhanh nhất, có chính
sách phát triển rõ ràng. Đó là điều kiện cần và đủ để ngành giao thông hiện đại này
nhanh chóng giúp Nam Kỳ và Đông Dương vươn ra thế giới và góp phần tạo ra diện mạo
mới cho hệ thống giao thông của Nam Kỳ và Đông Dương giai đoạn 1919 – 1945.
Có thể thấy, chính sách xây dựng và phát triển giao thông Nam Kỳ giai đoạn này
được tiến hành rất phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế và kết quả thực tế đã hoàn
thành trong giai đoạn trước và điều kiện thiếu vốn đầu tư, quyền ra quyết định quản lý bị
chi phối. Với những chính sách phát triển như vậy, các yếu tố mới xuất hiện trong hệ
thống giao thông ở Nam Kỳ và Đông Dương là tàu bay và nhất là xe hơi – ô tô là một
trong những yếu tố tích cực đã nhanh chóng phát huy hiệu quả giúp cho thực dân Pháp
thực hiện Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II một cách hiệu quả nhất. Với việc sử
dụng ô tô làm phương tiện vận tải chính yếu trong giao thông đường bộ và máy bay của
giao thông hàng không để kết nối với thế giới bên ngoài đã góp phần hiện đại hóa hệ
thống giao thông Nam Kỳ; đưa giao thông Nam Kỳ tiệm cận với kỹ thuật hiện đại của
phương Tây, tạo ra chuyển biến quan trọng cho hệ thống giao thông ở vùng đất này, cho
cả Việt Nam và Đông Dương.
3.2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN
1919-1945
3.2.1. Giao thông đường bộ
3.2.1.1. Xây dựng, quản lý và khai thác các tuyến giao thông đường bộ
Ngày 18/6/1918, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định xếp loại các tuyến
đường bộ ở Đông Dương (A.A. Pouyanne, 1926). Theo Nghị định này, hệ thống đường
bộ ở Đông Dương được xếp loại thành đường thuộc địa và đường thuộc xứ. Riêng ở
Nam Kỳ gọi là đường hàng tỉnh (routes provinciale) và đường hàng xã.
Đường thuộc địa (Routes coloniales) gồm 17 loại, do ngân sách chung toàn Đông
Dương xây dựng, duy trì, bảo dưỡng và do Sở Công chính Đông Dương quản lý. Đường
hàng xứ (Routes local) do ngân sách từng xứ đảm nhiệm.
Ở Nam Kỳ, đường thuộc địa nối Sài Gòn với Vũng Tàu, Đà Lạt, Mỹ Tho, Vĩnh
Long, Bạc Liêu và Cà Mau. Bên cạnh hệ thống đường thuộc địa, các con đường địa
100
phương trong những vùng trù phú của Nam Kỳ cho phép các tỉnh lỵ liên kết với các
trung tâm đô thị quan trọng (Chương Thâu, 1999). Các tuyến đường hàng tỉnh chính
(Routes coloniales) ở Nam Kỳ gồm:
- Đường số 13: Sài Gòn đi Lộc Ninh, Kratíe… tới Viêng Chăn, dài 504 km;
- Đường số 14: Sài Gòn đi Lộc Ninh, Đak Lak tới Trung Kỳ, dài 646 km;
- Đường số 15: Sài Gòn đi Vũng Tàu, dài 97,8 km;
- Đường số 16: Sài Gòn đi Cà Mau, qua Cần Thơ, Sóc Trăng, dài 342 km. Năm
1921, đường thuộc địa số 16 sau là quốc lộ 4 (thời Việt Nam Cộng hòa) và quốc lộ 1A
ngày nay được hình thành trên cơ sở các đoạn đường đã có, nắn lại ở một số tuyến, nền
đường được mở rộng, trải đá. Đây là con đường nối Sài Gòn – Chợ Lớn với Tây Nam Kỳ
(Lê Hữu Phước, 2013).
Trong giai đoạn này, thực dân Pháp đã có chủ trương xây dựng mạng lưới đường
bộ ở Nam Kỳ kết nối với cả Đông Dương. Ở Nam Kỳ, số km đường rải đá đã không
ngừng tăng lên. Theo số liệu năm 1925 của Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương, số
km đường được xây dựng ở tại Nam Kỳ :
- Tổng chiều dài: 5.840 km;
- Đường rải đá: 4.783 km;
- Đường chưa rải đá: 312 km;
- Đường còn phải làm lại: 745 km.
Việc xây dựng và nâng cấp (trải đá) các tuyến đường trên đều nhằm mục đích nâng
cao năng lực vận tải, nhất là cho xe ô tô, một phương tiện mới đưa vào Nam Kỳ. Đồng
thời, hệ thống đường mới được xây dựng, nâng cấp sẽ nối liền với các cảng sông, biển và
đường sắt, nối kết các địa phương với trung tâm Sài Gòn – Chợ Lớn nhằm kích thích
việc khai thác lúa gạo thương phẩm trên quy mô lớn (A.A.Pouyanne, 1926).
Chuyển biến trong hệ thống đường bộ không chỉ là sự trải rộng nối liền các tỉnh
Nam Kỳ mà còn nối liền Nam Kỳ với các xứ ở khắp Đông Dương. Hầu hết đường hàng tỉnh được rải đá, cán nhựa8. Sự xuất hiện phương tiện giao thông hiện đại như ô tô đã
8 Cán nhựa – trải nhựa là chữ dùng của địa phương ở Nam Kỳ
làm thay đổi lớn, căn bản diện mạo giao thông đường bộ so với thời kỳ trước đó. Đây là
101
chính kết quả cho một cuộc đầu tư quy mô về cơ sở vật chất, cơ sở kỹ thuật được hoạch
định, khởi công và hoàn thành từng bộ phận trong một thời gian khá dài (từ cuối thế kỷ
XIX) nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác và bóc lột thuộc địa của chính quyền thực
dân (Trần Văn Giàu, 1993).
Số liệu thống kê về phát triển giao thông Đông Dương theo nghiên cứu của Ryan S.
Mayfield, trong công trình The Road Less Traveled Automobiles in French Colonial
Indochina được công bố năm 2003 trên trên Tạp chí ASIANetwork thuộc Đại học Ohio
Wesleyan cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3.1 - Phát triển đường ở Đông Dương (Indochinese Road Development)
Đơn vị tính: km
Đường bụi
Năm Đá cuội Tổng chiều dài Tự động sử dụng Đường nhựa Có thể sử dụng Không thể sử dụng ngay
1,489 2,856 1918 7,863 5,007 3,518
1,542 2,527 1920 8,372 5,845 4,303
1,793 2,573 1921 8,961 6,388 4,595
1,827 2,436 1922 8,988 6,552 4,725
1,787 2,300 1923 9,022 6,722 4,935
1,806 2,160 1924 9,150 6,990 5,184
1,873 1,863 1925 9,171 7,308 5,435
1,803 1,994 1926 9,500 7,506 5,703
1,613 2,059 1927 9,806 7,747 6,134
1,606 1,858 1928 9,884 8,026 6,420
1,713 1,509 1929 9,611 8,102 6,390
1,986 1,468 1930 9,757 8,289 6,303
1,768 1,282 1932 9,748 8,466 6,698
1,973 1,130 1933 9,833 8,703 6,730
1,731 958 1936 9,801 8,843 4,729 2,383
(Ryan S. Mayfield, 2003)
102
3.2.1.2. Phương tiện giao thông đường bộ
Các phương tiện lưu thông ở Nam Kỳ khá đa dạng. Tuy nhiên, có thể phân chia
thành 02 loại sau đây:
Phương tiện giao thông truyền thống
Loại phương tiện này chỉ sử dụng sức kéo và khả năng vận chuyển bằng sức người
như: xe kéo tay (pousse – pousse), xe đạp, xe xích lô, xe Thổ mộ ngựa kéo vận chuyển
khách, xe trâu, bò kéo vận chuyển hàng hóa. Các loại phương tiện này chủ yếu là tận
dụng “tài nguyên” sức kéo sẵn có ở địa phương, không đòi hỏi cao về điều kiện đường
xá, chi phí duy tu bảo dưỡng… Những phương tiện này có hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ
di chuyển chậm, tải trọng không cao nên không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội, nhất là yêu cầu của các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
và Đông Dương. Do vậy, chính quyền thực dân Pháp không quan tâm, không chủ trương
khai thác và đầu tư phát triển loại phương tiện này. Cũng vì lý do đó, luận án sẽ không đi
sâu tìm hiểu về những phương tiện nói trên.
Phương tiện giao thông mới, hiện đại
Một trong những biểu hiện rõ nhất trong việc phát triển phương tiện giao thông
đường bộ ở Nam Kỳ trong giai đoạn này là sự xuất hiện của xe ô tô (omnibus
automobile). Sản phẩm này là một trong những thành quả nổi bật của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ hai (1860). Loại phương tiện đường bộ tiên tiến này được thực dân
Pháp đưa vào Nam Kỳ và Đông Dương từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm thay
đổi diện mạo, điều kiện, định hướng xây dựng và phát triển của giao thông đường bộ ở
xứ thuộc địa này. Lý do: Loại phương tiện giao thông đường bộ mới có năng lực vận
chuyển và hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng được tốc độ phát triển của các chương trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương. Do vậy, chính quyền thực
dân Pháp tập trung đầu tư phát triển tất cả những gì liên quan đến giao thông đường bộ
để ô tô được sử dụng phổ biến nhất, hiệu quả nhất. Cũng vì lý do này, luận án chỉ tập
trung nghiên cứu những nội dung có liên quan về sự hình thành, xây dựng và phát triển
giao thông đường bộ dành cho loại phương tiện này.
103
Xe hơi9 - ô tô lần đầu tiên xuất hiện tại Nam Kỳ, vào năm 1903. Ban đầu ô tô chỉ
xuất hiện trong thành phố, các vùng lân cận, trên những con đường được trải đá hay cán
nhựa (Ryan S. Mayfield, 2003). Khi xe ô tô được sử dụng khá phổ biến, chính quyền
Nam Kỳ đã ban hành quy định về việc điều khiển xe trong nội thành như: Không được
chạy quá 12km/giờ (1903) và phải giữ tốc độ 10km/ giờ khi có người đi bộ hoặc khi đi
ngang qua các quán cà phê hay quán ăn; Cấm dùng đèn pha khi vào đường Catinat (HS
3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ban đầu, xe được nhập vào Nam Kỳ chỉ để phục vụ việc chuyên chở hàng hóa của
Bưu điện. Về sau dung để phục vụ nhu cầu đi lại của tầng lớp cầm quyền và những
người giàu có. Đến năm 1914, xuất hiện xe đò – xe vừa chở khách vừa chở hàng hóa.
Ngay sau lễ khánh thành chợ Bến Thành, chính quyền Nam Kỳ thuộc địa cho đặt 02 bến
xe đò bên hông chợ (Nguyễn Nghị, 2007) gồm: Bến xe trên đường Schroeder (đường
Phan Châu Trinh, bên trái chợ) đi các tỉnh miền Tây; Bến xe trên đường Viénot (đường
Phan Bội Châu, bên phải chợ) đi các tỉnh miền Đông. Càng về sau, loại phương tiện giao
thông hiện đại này từng bước nắm giữ vai trò chính trong hoạt động giao thông nói
chung và vận tải đường bộ nói riêng ở Nam Kỳ và Đông Dương. Theo số liệu thống kê
của Ryan S. Mayfield (Ryan S. Mayfield, 2003), năm 1922, ở Đông Dương có hơn 4.000
xe đến năm 1929, tăng lên hơn 20.000 xe. Số lượng xe một nửa tập trung ở Nam Kỳ, chủ
yếu ở Sài Gòn – Chợ Lớn.
Như vậy, kể từ lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1903, xe hơi – ô tô đã trở thành một
phương tiện giao thông mới, hiện đại xuất hiện ở Nam Kỳ với tư cách là một phương tiện
vận tải. Ban đầu xe chỉ dùng để chuyên chở bưu kiện. Đến năm 1914, từ Sài Gòn – Chợ
Lớn xuất hiện xe đò vừa chở người, vừa chở hàng hóa. Các tuyến đường cụ thể như:
Sài Gòn đi Châu Đốc, Gò Công, Phnôm Pênh, Tây Ninh;
Chợ lớn đi Sóc Trăng, Trà Vinh, Phnôm Pênh, Mỹ Tho, Hóc Môn, Lộc Giang, Tây
Ninh, Cần Giuộc, Cần Đước, Long Thượng.
Các tuyến đường được thiết lập như trên đã giúp cho việc đi lại và vận chuyển hàng
9 “xe hơi” (phương ngữ Nam Kỳ). Tên gọi ô-tô được nhập từ tiếng Pháp (automobile), xuất phát từ từ auto (tiếng Hy Lạp, nghĩa là tự thân) và từ mobilis (tiếng La Tinh, nghĩa là vận động). Chữ "xe hơi" bắt nguồn từ chữ Hoa 汽车, phát âm Hán Việt là Khí Xa. https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe_hơi
hóa từ các nơi về Sài Gòn – Chợ Lớn và ngược lại trở nên phổ biến (Lê Huỳnh Hoa,
104
2009).
Theo thống kê của Tổng Thanh tra công chính Đông Dương (A.A. Pouyanne,
1926), số lượng các loại xe ô tô ở Nam Kỳ vào thời điểm 01/5/1926 là:
- Xe du lịch: 4.374 xe (so với Bắc Kỳ: 1943; Trung Kỳ: 589);
- Xe vận chuyển hàng hóa: 768 xe (so với Bắc Kỳ: 331; Trung Kỳ: 281).
Khuynh hướng sử dụng phương tiện ô tô ngày càng tăng đã tạo nên sự ra đời và
phát triển hàng loạt của các hãng vận tải ô tô công cộng. Các hãng có xe chạy định kỳ,
một số hãng được chính phủ trợ cấp để chuyển thư. Xe thường hoạt động phục vụ các
điểm dân cư quan trọng xa đường sắt. Số lượng xe và các hãng xe đã không ngừng tăng
lên từ những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ XX trên cả Đông Dương mà cao nhất là tại
Nam Kỳ. Số liệu cụ thể (A.A. Pouyanne, 1926) như sau:
- Năm 1921: 245 hãng xe/649 xe;
- Năm 1922: 268 hãng xe/690 xe;
- Năm 1923: 319 hãng xe/777 xe;
- Năm 1924: 380 hãng xe/876 xe;
- Năm 1925: 513 hãng xe/1075 xe.
Theo nghiên cứu của Ryan S. Mayfield, kết quả thống kê số lượng xe ô tô ở Đông
Dương được thông kê trong bảng sau:
Bảng 3.2 - Phát triển ô tô ở Đông Dương (Indochinese Automobile Development)
Year Type Annam Cambodia Cochinchina Laos Tonkin Total
1922 Automobiles 308 403 2,230 21 1,126 4,088
1929 Automobiles 1,392 1,690 8,712 142 4,129 16,065
Trucks 214 302 671 129 325 1,641
Buses 495 828 643 45 390 2,401
Motorcycles 156 137 1,099 41 901 2,334
Total 2,257 2,957 11,125 357 5,745 22,441
1937 Automobiles 1,600 1,480 6,000 220 4,300 13,600
105
Trucks 300 280 620 110 440 1,750
Buses 300 340 560 50 300 1,550
Tractors 305 20 3 240 2 40 305
Motorcycles 50 50 280 40 200 620
Total 2,270 2,153 7,700 422 5,280 17,825
(Ryan S. Mayfield, 2003)
Từ những số liệu của bảng trên, có thể nhận thấy, số lượng xe hơi của Cochinchine
(Nam Kỳ) thời ấy có nhiều nhất, gấp 3 lần so với các xứ khác và hơn phân nửa tập trung
ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn và trung tâm Gia định (Statistique Générale, Moyens de
Transport et de Communication, 1994).
Với sự xuất hiện và phát triển của ô tô sau năm 1930, hệ thống giao thông đường
bộ được mở rộng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận chuyển hàng hóa phục vụ cho
mục đích khai thác, bóc lột trong Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II của thực
dân Pháp. Còn hoạt động giao thông phục vụ đời sống xã hội nói chung không được chú
trọng như nhận định: “một cảnh tượng quen thuộc ở các vùng đồng bằng Việt Nam là
hàng đoàn dài những người đàn ông và đàn bà khiêng gánh, đi chân đất, men theo những
con đường có những chiếc ô tô chạy vút qua…” (Nguyễn Khánh Toàn, 2004).
Chính sự xuất hiện của ô tô và sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của loại
phương tiện này ở Nam Kỳ và Đông Dương như trên là một phần quan trọng tạo ra sự
chuyển biến và một diện mạo mới của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ. Đặc biệt, sự phát
triển loại hình giao thông mới, hiện đại này xuất hiện và phát triển trong giai đoạn thực
dân Pháp thực hiện Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II (1919 – 1929) càng làm
cho tốc độ và cường độ bóc lột, vơ vét tài nguyên ở xứ thuộc địa này trở nên khốc liệt và
tàn bạo nhất.
3.2.2. Giao thông đường thủy
Về đường thủy, trong giai đoạn này thực dân Pháp chủ trương nâng cấp các tuyến
đường thủy nội địa và kết nối với Campuchia, nâng cao năng lực của Cảng Sài Gòn.
3.2.2.1. Nâng cấp, cải tạo cảng Sài Gòn
Bước vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, Cảng Sài Gòn trở nên chật hẹp so
106
với lưu lượng hàng hóa cần được xuất nhập khẩu. Để tạo một hải cảng có thể tiếp nhận
cùng lúc 40 tàu biển trọng tải lớn cùng nhiều tàu hàng đến từ các tỉnh Nam Kỳ và
Campuchia, ngày 28/6/1922, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định nhập cảng
sông Chợ Lớn vào thương Cảng Sài Gòn. Theo nghị định này, phạm vi hoạt động của
Cảng Sài Gòn bao gồm:
Khu vực sông Sài Gòn: từ Công trường Rigault de Genouilly (Công trường Mê
Linh), sông Đồng Nai, sông Nhà Bè, sông Lòng Tàu, sông Ngã Bảy đến tận vịnh Gành
Rái, phía phải chợ Cần Giờ;
Khu vực rạch Tàu Hũ, kênh Lò Gốm, kênh Tẻ, kênh Đôi, rạch Xóm Củi (đoạn giữa
rạch Tàu Hũ và kênh Đôi), các kênh đã đào và sẽ đào giữa rạch Tàu Hũ và kênh Lò
Gốm, kênh Tẻ và kênh Đôi, phía cuối Chợ Lớn về phía Rạch Cát từ kênh Đôi đến vàm
rạch Cầu Gia, về phía Chợ Đệm từ kênh Đôi đến cầu xe lửa tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho;
Khu vực các bến, cầu tàu và khu đất bao hai bên bờ các kênh rạch và khu vực sông
Sài Gòn nói trên.
Ngày 29/11/1922, Thống đốc Nam Kỳ cho phép Cảng Sài Gòn có quyền sử dụng
các đường Jean Caylar, La Fayette, Mousquet và khu vực đất trống giữa cảng Khánh Hội
với đường Eudel.
Cùng với việc mở rộng cảng, cơ sở hạ tầng và thiết bị kỹ thuật cũng được xây dựng
và lắp đặt tương ứng. “Ngoài các cầu tàu vững chắc, còn có 5 phao neo ở phía hữu ngạn.
Tàu thuyền neo đậu song song và cách bờ sông 80 m, có thể cất hàng cùng một lúc cả hai
bên bờ sông; phía tả có 11 phao, có thể đón những tàu lớn nhất và cũng có thể bốc dỡ
hàng ở cả hai bên bờ sông. Hệ thống cần cẩu cũng hiện đại hơn, gồm hai chiếc cố định từ
6 đến 12 tấn, một chiếc di động 5 tấn, 6 chiếc chạy di chuyển bằng điện trên đường ray
loại 1,5 tấn và một cần cẩu nổi 50 tấn.” (Nguyễn Đình Tư, 2016).
3.2.2.2. Nâng cấp, cải tạo hệ thông kênh, rạch
Hệ thống sông rạch được nạo vét, khơi thông, bao gồm: rạch Bến Nghé, rạch Thị
Nghè, rạch Lò Gốm (còn gọi là rạch Chợ Lớn, phía đầu gọi là rạch Cầu Đường, được lấp
năm 1924 - 1925 để làm đại lộ Gaudot), rạch Xóm Củi, kênh Hãng Rượu, kênh Tẽ, kênh
Xóm Củi, kênh Phố Xếp (lấp vào năm 1925 để làm đường Tổng đốc Phương)…
Trong thập niên 20, có khoảng 7.233.000 m3 đất được nạo vét (Inspection générale
107
des Travaux Publics Dragages de Cochinchme, 1930). Dọc theo các kênh rạch này, hệ
thống cảng sông được gia cố để làm đầu mối tiếp nhận ghe thuyền từ các vùng lân cận
thành phố và từ đồng bằng sông Cửu Long.
Cũng trong giai đoạn này, để khai thác vùng Tứ Giác Long Xuyên, thực dân Pháp
còn cho đào hệ thống kênh trục bao gồm Rạch Giá – Hà Tiên chạy song song với bờ biển
Tây, có 4 kênh nhánh tiêu nước ra biển (Vàm Răng, Luỳnh Quỳnh, Vàm Rầy, Kiên
Lương), và các kinh Tám Ngàn, Tri Tôn, Ba Thê, Cái Sắn, Mặc Cần Dưng.
Kênh Rạch Giá - Hà Tiên (1926 - 1930) được xem là công trình quy mô nhất trong
thập niên 20 của thế kỷ XIX, đại diện cho vùng tứ giác Long Xuyên. Kênh đi song song
với bờ biển với chiều dài 81 km, sâu 3.5 – 3.8 m, khối lượng đào đắp 7.2 triệu m3. Kênh
chính được nối thông với biển bằng 04 kênh nhánh, bề rộng mặt nước 28 m, để thoát
nước ra biển Tây. 04 kênh phụ đi sâu vào vùng trũng để tiêu úng và rửa phèn như: Kênh
Tri Tôn dài 31 km, hoàn tất năm 1928; Kênh Ba Thê dài 40 km, hoàn tất 1930; Kênh Hà
Giang; Kênh Tám Ngàn. Hệ thống kênh này thâm nhập sâu vào vùng đất hoang của khu
tứ giác Long Xuyên. Quan trọng hơn nữa đó còn là đường vận chuyển quan trọng vôi,
phốt phát, xi măng từ Hà Tiên về Sài Gòn.
Ngoài ra thực dân Pháp còn thực hiện đào các kênh:
- Kênh Bà Bèo hay kênh Tổng Đốc Lộc (nay gọi là kênh Nguyễn Văn Tiếp) dài
105 km, nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây, cắt ngang rìa phía Nam Đồng Tháp
Mười;
- Kênh Lagrange (Long An ngày nay) nối sông Vàm Cỏ Tây ở đầu phía đông và
kinh Phước Xuyên. Kênh Đông Tiến ở đầu phía Tây, dài 45 km, rộng 40m, sâu 4m đảm
bảo trọng tải trên 100 tấn.
Như vậy, tính tổng cộng chiều dài của toàn bộ các tuyến giao thông thủy (nội địa)
phát triển qua 02 đợt khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ cụ thể như sau:
- Tuyến chính kết nối Sài Gòn – Mỹ Tho: 84km;
- Tuyến đầu mối từ Mỹ Tho đi các tỉnh:
+ Mỹ Tho – Cần Thơ: 107 km;
+ Mỹ Tho – Sa Đéc: 83 km;
108
+ Mỹ Tho – Phú Vinh: 184 km.
Như vậy, tính đến hết Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, ở Nam Kỳ đã
có tổng chiều dài các tuyến đường thủy bao gồm:
- Các tuyến giao thông chính kết nối các địa phương ở Tây Nam Kỳ với Mỹ Tho,
từ Mỹ Tho nối với Sài Gòn – Chợ Lớn qua hệ thống sông Đồng Nai, Mekong, các kênh
rạch chính: 1.378 km;
- Các tuyến giao thông nội vùng qua kênh rạch nhỏ trong từng vùng: 412 km
Biểu đồ 3.1 - Chiều dài của hệ thống kênh đào ở Nam Kỳ (1880 – 1930)
(HS 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II; Phan Khánh, 1981; Phan Văn Liên, 1988)
Từ số liệu nói trên có thể khẳng định:
Khi đường bộ và đường sắt khó phát triển ở vùng châu thổ sông Mekong vì có
nhiều sông lớn (sông Tiền và sông Hậu), kênh rạch chằng chịt nên nền đất yếu thì tuyến
đường thủy nội địa của Nam Kỳ được phát triển rất mạnh và trở thành loại hình giao
thông nội vùng và liên vùng chủ yếu ở Tây Nam Kỳ;
Việc tổ chức các tuyến giao thông thủy nội vùng và liên vùng rõ ràng đã khai thác
hiệu quả vị trí địa lý của Sài Gòn – Chợ Lớn là trung tâm tài chính, chế biến và xuất
nhập khẩu với Mỹ Tho là đầu mối giao thương với các địa phương (nhất là vùng
sâu,vùng xa) ở Tây Nam Kỳ.
109
3.2.3. Giao thông đường sắt
Trong giai đoạn này, thực dân Pháp chủ trương không chú trọng phát triển rộng hơn
các tuyến đường sắt (bao gồm xe lửa và xe điện) ở Nam Kỳ vì các điều kiện về địa hình,
địa chất và kinh phí. Hoạt động đầu tư chủ yếu chỉ tiến hành “nâng cấp” để khai thác
năng lực vận chuyển những tuyến có sẵn. Ngoài ra, trong kế hoạch dài hơi, để khai thác
triệt để nguồn tài nguyên ở Nam Kỳ, thực dân Pháp duy trì hoạt động các tuyến đường đã
xây dựng trong lần khai thác thứ nhất.
Đối với tuyến xe điện (tramways) được khởi công xây dựng vào những năm 1880,
lúc đầu chạy bằng hơi nước, đến năm 1923 mới chạy bằng điện. Lộ trình gồm các tuyến
Sài Gòn - Chợ Lớn trên Đường thấp, Sài Gòn - Chợ Lớn trên Đường cao. Tuyến Sài Gòn
- Gò Vấp - Hóc Môn, Sài Gòn - Phú Nhuận và tuyến Sài Gòn - Gò Vấp - Lái Thiêu và 2
tuyến tàu hỏa (Sài Gòn - Mỹ Tho, Sài Gòn - Nha Trang) vẫn tiếp tục hoạt động bình
thường. Trên bản đồ năm 1923, tuyến đường sắt không còn đi đến tận bờ sông Sài Gòn,
vì nhà ga xe lửa đã được lập giữa đường Colonel Boudonnet (Lê Lai) và đường Colonel
Grimaud (Phạm Ngũ Lão).
Trong giai đoạn này, tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh được khởi công xây dựng
năm 1927, được đưa vào khai thác vào năm 1933 do Công ty xe điện Bến Cát – Crachie
bỏ vốn xây dựng. Tuyến này đi từ Sài Gòn - Thủ Dầu Một – Bendongso - Lộc Ninh với
chiều dài toàn tuyến 86 km. Vì ít dân nên tuyến đường sắt này chủ yếu chuyên chở mủ
cao su, lương thực, thực phẩm và chở công nhân từ đồn điền miền Đông Nam Kỳ về Sài
Gòn. Đến năm 1937 sáp nhập vào hệ thống hỏa xa Đông Dương thành tuyến đường sắt
Sài Gòn – Lộc Ninh (Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2012).
3.2.4. Giao thông đường hàng không
Mở đầu cho sự xuất hiện hình thức giao thông hoàn toàn mới - Hàng không ở Nam
Kỳ đã ghi nhận một sự kiện: lần đầu tiên, một phương tiện giao thông mới: tàu bay xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn: Ngày 10/12/1910, Charles Van den Born10, một trong số chủ
nhân của chương trình hàng không châu Âu, cùng với chiếc máy bay kiểu Farman II đã
có một chuyến bay tới Việt Nam. Chuyến bay biểu diễn tại sân vận động (trường đua
10 Người Bỉ, sinh ngày 11/7/1874. Nguồn: https://fr.wikipedia.org/wiki/Charles_Van_Den_Born
Phú Thọ) trước sự chứng kiến của 15.000 người dân Sài Gòn (flickr, 2016; hangarflying,
110
2013; fandavion, 2001).
Sau đó, Chính quyền Liên bang Đông Dương Đông Dương đã có chủ trương phát
triển ngành hàng không ở Đông Dương. Một điều cần lưu ý là, Toàn quyền Đông Dương
Albert Sarraut cũng như Chính phủ Pháp mà cụ thể là Bộ Thuộc địa ngay từ đầu đã có
chủ trương dùng máy bay vào mục đích quân sự và thương mại.
3.2.4.1. Sự ra đời của giao thông hàng không Nam Kỳ
Ngày 13/7/1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Sở Hàng không
Đông Dương (Service de l’Aviation de l’Indochine) và phi đội đầu tiên ở Bắc Kỳ. Đến
ngày 06/4/1918, thành lập Sở Hàng không dân sự Đông Dương (Service Civil de
l’Aviation de l’Indochine) và thành lập phi đội thứ hai ở Nam Kỳ. Mỗi Phi đội quản lý
và hoạt động trên phạm vi riêng biệt. Phi đội Bắc Kỳ quản lý và hoạt động không phận từ
vĩ tuyến 16 trở ra và vùng Thượng lào. Phi đội Nam Kỳ quản lý và hoạt động không
phận từ vĩ tuyến 16 trở vào qua Cam Bốt và vùng Hạ Lào.
Cùng với việc thành thành lập phi đội ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu
tìm kiếm vùng đất tốt để xây dựng sân bay lớn nhằm khuếch trương với các nước tư bản.
Đầu năm 1920, thực dân Pháp đã bước đầu xây dựng sân bay tại địa phận Tân Sơn Nhất
ở Sài Gòn. Sân bay có một đường băng, nền đất trồng cỏ, chỉ phục vụ cho mục đích quân
sự và được phép tham gia khai thác thuộc địa.
Ngày 04/7/1921, Toàn quyền Đông Dương giao cho Cục Hàng không dân dụng
Đông Dương tham gia Ban Chỉ đạo các cơ quan kinh tế Đông Dương.
Ngày 26/5/1922, Nha Quân sự (phòng 4) quy định thành lập các tổ chức và hoạt
động của các hãng vận tải hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương.
Ngày 26/9/1922, phủ Thống đốc Nam Kỳ (phòng 1) gửi Hội đồng thuộc địa báo
cáo việc mở các tuyến đường hàng không.
Ngày 5/8/1922 Toàn quyền Đông Dương đã ban hành Nghị định áp dụng Sắc lệnh
ngày 20/5/1922 sửa đổi Sắc lệnh ngày 19/01/1920 về tổ chức ngành hàng không quân sự
ở các nước thuộc địa ở Đông Dương.
Ngày 15/01/1925, Văn phòng Quân sự (Toàn quyền Đông Dương) ban hành Công
văn số 215 quy định Sở Hàng không quân sự ở Đông Dương được phép thành lập các
kho nhiên liệu và các thiết bị đặc biệt dùng cho máy bay tạm thời hoặc vĩnh viễn tại một
111
số điểm thuộc lãnh thổ các xứ trên toàn Đông Dương. Tại Nam Kỳ lập ở Biên Hòa.
Ngày 19/5/1928, Tổng thống Cộng hòa Pháp ban hành Sắc lệnh quy định về vận tải
hàng không. Ngày 03/12/1928, công bố áp dụng Luật ngày 31/5/1914 liên quan đến vận
tải hàng không tại Đông Dương.
Ngày 25/3/1929, Hãng Hàng không Pháp thành lập căn cứ thủy phi cơ tại Nhà Bè
(Sài Gòn). Toàn quyền Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier (1928 - 1934) chủ trì
buổi lễ (entreprises-coloniales, 1929). Lộ trình tuyến Sài Gòn - Phnom Penh do thủy phi
cơ Scheck của Hãng Hàng không Pháp thực hiện. Chuyến bay thường được thực hiện
vào sáng thứ Tư rời Sài Gòn lúc 8 giờ, đến Phnom Penh lúc 10 giờ và rời đi lúc 3 giờ
chiều cùng ngày, hạ cánh lúc 5 giờ chiều ở phía Nam Angkor Watt (Tạp chí kinh tế vùng
Viễn Đông, 1929). Đến ngày 13/4/1929, tuyến bay đầu tiên khởi hành từ Sài Gòn đến
Phnom Penh được thực hiện bằng thủy phi cơ Scheck theo đúng lịch trình đã được phê
duyệt. Ngày 18/5/1929, tuyến đường hàng không Sài Gòn - Hà Nội được thực hiện từ Hà
Nội cũng bằng thủy phi cơ của hãng Hàng không Pháp (entreprises-coloniales, 1929).
Một sân bay tạm ở Nam Kỳ được xây dựng từ năm 1920 trên cơ sở một đường
băng, nền đất trồng cỏ ở làng Tân Sơn Nhất. Ngày 23/9/1929, việc xây dựng sân bay đầu
tiên ở Sài Gòn thuộc Nam Kỳ được Hãng Hàng không Pháp ghi nhận trong cuộc họp của
Hội đồng thành phố Sài Gòn. Hoạt động này kéo dài đến năm 1933. Năm 1938, do nhu
cầu phát triển, chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương muốn cải tạo, nâng
cấp để mở rộng và phát triển hoạt động của vận tải hàng không sử dụng sân bay trên cạn.
Trước đó, Hàng không Pháp thực hiện các chuyến bay từ Sài Gòn đi các nơi ở Đông
Dương chủ yếu sử dụng thủy phi cơ Scheck tại căn cứ ở Nhà Bè (entreprises-coloniales,
1929).
Về địa điểm xây dựng sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo Địa bạ triều Nguyễn tỉnh Gia Định, Tân Sơn Nhứt (Tân Sơn Nhất) thôn là
01/19, thuộc Dương Hòa Thượng Tổng. Phía Đông giáp địa phận 02 thôn Phú Nhuận,
An Hội (Bình Trị Hạ); phía Tây giáp địa phận thôn Tân Sơn Nhì; phía Nam giáp địa
phận xã Phú Thọ (tổng Tân Phong Thượng, huyện Tân Long), lại giáp địa phận thôn Tân
Sơn Nhì; phía Bắc giáp địa phận 02 thôn Hanh Thông Tây, An Hội tức Bình Trị Hạ
(Nguyễn Đình Đầu, 1994).
112
Ngày 23/4/1930, Đốc lý Sài Gòn ban hành Nghị định số 152 về hoạt động của các
thiết bị bay ở phía trên vùng trời thành phố.
Ngày 5/9/1933, Công sứ tối cao ở Đông Dương (Quan cai trị vùng Sài Gòn – Chợ
Lớn) ban hành Nghị định số: 261 cấm các phi công cho máy bay hoạt động trên bầu trời
vùng Sài Gòn – Chợ Lớn ở độ cao dưới 1000m khi điều khiển máy bay đa động cơ, hoặc
ở độ cao dưới 2.000m khi điều khiển máy bay một động cơ.
Ngày 21/12/1933, Sân bay Tân Sơn Nhất được xây dựng cơ bản hoàn thành.
Chuyến bay đầu tiên của hãng Hàng không Pháp (Air France) bay tuyến Paris – Sài Gòn
– Paris đến Sài Gòn vào ngày 28/12/1933. Thực hiện huyến bay hết 50 giờ do lúc đó
chưa bay đêm được (entreprises-coloniales, 1929).
Ngày 20/10/1937, Cục Hàng không tham gia Ban Chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu
kinh tế Đông Dương (JOIF. J 1183. TTLTQG I).
Ngày 02/12/1937, Toàn quyền Đông Dương Joseph Jules Brévié cho thành lập Cục
Hàng không dân dụng Đông Dương thay thế cho Sở Hàng không dân sự lo việc khai thác
các chuyến bay.
Ngày 02/12/1938, tuyến hàng không dân dụng Sài Gòn - Hà Nội được khai thông.
Ngày 09/8/1940, Nhật đã thiết lập tuyến hàng không với Sài Gòn.
Ngày 20/3/1944, Cục Hàng không dân dụng tham gia Ban Chỉ đạo Không vận.
Ngày 08/6/1944, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định về việc xoá bỏ Sở
Hàng không dân sự.
Ngày 15/7/1944 công bố áp dụng Sắc lệnh số 2016 của Thủ tướng Pháp ngày
11/8/1944 về việc Hàng không Đông Dương tham gia Hội đồng cấp cao Đông Dương
(JOIF 1944. J1244. TTLTQG I).
3.2.4.2. Các quy định về tổ chức ngành hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương
(1919 – 1939)
Thực hiện chủ trương đưa ngành hàng không trở thành một hoạt động giao thông
vận tải ở Đông Dương, hàng loạt các văn bản của chính phủ Pháp, Toàn quyền Đông
Dương và Thống đốc Nam Kỳ được ban hành. Các văn bản này quy định việc thành lập,
chức năng – nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của giao thông hàng không tại Đông Dương.
113
Cụ thể:
Về việc thành lập ngành hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương
Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định ngày 13/7/1917 quy định việc tổ
chức hoạt động của Cục Hàng không Đông Dương - Service de l'Aviation de l'Indochine
(JOIF 1917. J 1091. TTLTQG I).
Thành lập các hãng vận tải hàng không ở Đông Dương
Theo văn bản ngày 26/5/1922, Nha Quân sự (phòng 4) Bộ Thuộc địa gửi Toàn
quyền Đông Dương (HS 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II) yêu cầu: các
điều kiện để hàng không dân sự hoạt động đồng thời với hàng không quân sự; phải áp
dụng một cách nghiêm túc các quy tắc đang được sử dụng tại Pháp; các tuyến đường
hàng không ở Đông Dương sẽ thuộc quyền quản lý của xứ thuộc địa, nhưng sẽ phục vụ
miễn phí cho Quốc gia (như lĩnh vực hàng không quân sự). Nguyên tắc này được hiểu là,
Trưởng Sở Hàng không Quân sự sẽ phụ trách tổ chức mạng lưới hàng không địa phương;
Sở Hàng không Quân sự sẽ đảm bảo việc canh gác và bảo trì sân bay, lắp đặt các trạm
điện tín không dây và trạm khí tượng cần thiết cho an toàn bay; dưới sự điều hành của
Bộ (các Nha sở Quân sự - Phòng 4) và sự kiểm soát của Toàn quyền Đông Dương, Sở
Hàng không Quân sự sẽ là cơ quan đại diện trực tiếp của Sở vận tải Hàng không
(S.N.Aé) ở Đông Dương. Với chức trách này, Sở Hàng không Quân sự đặc biệt kiểm
soát các hoạt động hàng không của các hãng tư nhân.
Mạng lưới hàng không Đông Dương
Mạng lưới này bao gồm:
- Các khu đất cứu hộ là các khu đất được cải tạo đơn giản cho phép máy bay đáp
trong trường hợp có sự cố; các sân bay phụ còn gọi là sân đậu, bao gồm một nơi dành
cho các máy bay quá cảnh, tiếp liệu, thay thế phụ tùng, một trạm điện tín không dây và
khí tượng (nếu có); các sân bay chính (còn gọi là sân ga của hàng không dân dụng) còn
là căn cứ hoặc chỗ đậu của Hàng không Quân sự. Điểm khởi hành hoặc điểm dừng cuối
cùng của các tuyến hàng không, bao gồm các cơ sở, thiết bị như: sảnh, xưởng sửa chữa,
nhà kho, trạm điện tín không dây và khí tượng. Các sân bay này, về nguyên tắc, sẽ là sân
bay chung cho quân sự và các hãng hàng không dân sự. Máy bay, cho dù từ đâu đến, đều
có thể đáp ở đây. Ngoài ra, các máy bay dân sự quá cảnh sẽ có thể nhận được một chỗ
114
đậu tạm thời, được tiếp liệu, sửa chữa nhỏ…;
- Các thiết bị đặc biệt ở các sân ga cho phép mượn hoặc thuê, các hãng không
được tự ý lắp đặt thiết bị khi không có ý kiến của Chỉ huy hàng không. Việc các hãng sử
dụng các sân bay phải trả chi phí thuê mướn, cụ thể như: sử dụng bãi đáp, điện tín,...
những khoản thu này nộp vào ngân khố công cộng, 03 tháng/lần chỉ huy hàng không sẽ
báo cáo lên Bộ tổng số thu cho ngân sách thuộc địa. Các khoản thu này không ảnh hưởng
gì đến tổng số kinh phí mà Nghị viện cấp cho ngành hàng không ở thuộc địa. Số tiền thu
này, một phần dùng vào cho tài khóa năm sau vào công tác duy tu và cải thiện cơ sở vật
chất.
Pháp tổ chức ngành hàng không ở các nước thuộc địa tại Nghị định ngày
05/8/1922, được ban hành theo Sắc lệnh ngày 20/5/1922 và theo Sắc lệnh sửa đổi ngày
19/01/1920 ở Đông Dương về tổ chức ngành hàng không (quân sự) ở các nước thuộc địa
(HS 3503, phông Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Sở Hàng không dân dụng Đông Dương được thành lập thực hiện theo Nghị định
ngày 02/12/1937 của Toàn quyền Đông Dương (JOIF, 1938. J 1186. TTLTQG I); thành
lập Ban Chỉ đạo Không vận được ban hành theo Nghị định ngày 20/3/1944 của Toàn
quyền Đông Dương (JOIF, 1944. J1241. TTLTQG I). Nội dung gồm 08 điều. Toàn
quyền Đông Dương trực tiếp quản lý trong thời gian có chiến sự. Nhiệm vụ của Ban Chỉ
đạo là điều phối các bộ phận trong vận tải hàng không, bao gồm: Các lực lượng không
quân Đông Dương hoạt động trong khuôn khổ quy định của Sắc lệnh ngày 12/10/1934;
Cục Hàng không dân dụng được tổ chức theo Nghị định ngày 02/12/1937; Hạ tầng cơ sở
theo quy định trong điện tín nhà nước số 8245-S, ngày 29/9/1941; Tướng Tư lệnh Không
lực tại Đông Dương giữ chức Giám đốc Ban Chỉ đạo Không vận. Giám đốc Ban Chỉ đạo
làm Chủ tịch ủy ban Giao thông hàng không thành lập theo điều 6 của Nghị định ngày
02/12/1937 quy định cơ cấu Cục Hàng không dân dụng; Thành viên ủy ban Giao thông
hàng không gồm: Phó giám đốc Ban Chỉ đạo Không vận; Giám đốc Nha Vô tuyến điện;
Đại diện Ban Chỉ đạo các công việc về kinh tế; Đại diện Tổng Thanh tra Công chính; Đại
diện Giám đốc Bưu điện, Điện tín và Điện thoại.
Về việc xoá bỏ Sở Hàng không dân sự được quy định tại Nghị định ngày 08/6/1944
của Toàn quyền Đông Dương (JOI1945. J1248. TTLTQG I).
115
3.2.4.3. Hệ thống sân bay và cơ sở phục vụ của hàng không ở Nam Kỳ
Để có thể tổ chức hoạt động vận tải hàng không ở Nam Kỳ, việc đầu tiên là tiến hành xây dựng phi cảng – sân bay11 bao gồm: đường cất – hạ cánh, nhà ga sân bay và các
công trình khác phục vụ cho hoạt động bay ở Sài Gòn (HS 5436, phông Phủ Thống đốc
Nam Kỳ. TTLTQG II).
Xây dựng Phi cảng Tân Sơn Nhất và các sân bay khác (nếu có) phải đảm bảo các
yêu cầu (DFI 8489, phông Sở Tài chính Đông Dương. TTLTQG I) như :
Vị trí các phi cảng
Hiệu suất thương mại của tuyến đường vận tải hàng không là kết quả của vị trí các
phi cảng phục vụ tuyến đường này. Rất có lợi khi phi cảng được đặt càng gần thành phố
càng tốt hoặc nơi có các phương tiện giao thông nối giữa trung tâm thương mại và địa
điểm sân bay được chọn (đông đúc, dễ dàng, nhanh chóng và thường xuyên).
Các sân bay cứu trợ làm nơi quá cảnh cho các tuyến đường hàng không. Để hoàn
thành tốt vai trò của mình, loại sân bay này phải được đặt trên lộ trình của các tuyến
đường hàng không và nằm cách nhau từ 40 - 50km. Khoảng cách này phải được rút ngắn
lại ở mức 20km khi lộ trình chắc chắn không đủ điều kiện để hạ cánh ngẫu nhiên, như là
ờ vùng đồng ruộng.
Vị trí của mỗi sân bay cứu trợ phải được chọn lựa gần đường lộ và gần khu dân cư
miễn là có trạm điện thoại nếu thiếu đường điện tín. Nếu nằm ở ven đường lộ, thì sân bay
cứu trợ phải được nối với đường lộ qua con đường dành cho xe có động cơ.
Khoảng cách và chất lượng của các phi cảng
Khu vực xây phi cảng phải bằng phẳng, nền đất phải thấm được nước mưa và đủ
cao để tránh ngập lụt. Đối với các phi cảng dành cho hoạt động giao thông, khu vực hạ
cánh và cất cánh phải có diện tích hình vuông mỗi cạnh tối thiểu 1.000m. Sân bay cứu
trợ phải có diện tích tối thiểu 600 x 600m hoặc lập một khu vực có diện tích 200 x 600m
cho phép hạ cánh và cất cánh từ mọi hướng. Khu vực lân cận phi cảng không được có trở
ngại về độ cao, cao nhất là 200m, tính từ mặt đất.
Đối với các phi cảng nằm gần thành phố, cần phải ấn định vùng hoạt động để sân
11 “Phi cảng” – chữ dùng trích nguyên trong các văn bản quản lý của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương
bay không bị ảnh hưởng do các tòa nhà gần đó.
116
Các đường dây điện thoại, điện tín hoặc giao thông bắt buộc nằm ở ven sân bay,
cách sân bay 200m hoặc đặt trong hệ thống ngầm.
Các tòa nhà trong phi cảng phải được xây thành từng cụm tại địa điểm không gây
cản trở hoạt động cất và hạ cánh của máy bay.
Kế hoạch xây dựng các khu nhà này phải được nghiên cứu để cho phép trong
trường hợp phát triển sau này, đáp ứng được một số công trình quan trọng hơn mà không
cần phải thay đổi một công trình hàng không nào. Cửa mở khu nhà chứa máy bay không
được đặt ngay khu vực gió mạnh.
Hệ thống cọc tiêu ban ngày
Sân bay hạ cánh phải được giới hạn bằng hệ thống cọc tiêu hai mặt nằm ngang
bằng ván, chiều dài 2m, chiều rộng 0,35m được cắm trên 2 cây cột và sơn một dải băng
đỏ trắng xen kẽ, diện tích khoảng 40cm. Hệ thống cọc tiêu này được đặt trên sân bay,
cách nhau 0,75m, hoặc ở các góc được kẻ bằng vôi tại mỗi góc sân, mỗi cạnh của một
góc dài 6m, dầy 2mm.
Chính giữa sân bay phải có hệ thống báo hiệu, bằng một hình tròn, đường kính
50m, phía bên ngoài sơn một đường màu trắng dầy 5mm. Tên của sân bay được ghi ở
chính giữa vòng tròn, hướng về phía Đông – Tây để xác định hướng Bắc.
Trên các sân bay, hướng gió phải được chỉ định bằng các ống gió có đường kính
1m, dài 5m với các đường đỏ trắng xen kẽ. Hệ thống chỉ hướng gió phải được nhìn thấy
rõ ở mọi hướng để máy bay hạ độ cao.
Xây dựng các cơ sở hỗ trợ
Để tổ chức hoạt động hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương, Toàn quyền Đông
Dương ban hành Nghị định số 215, ngày 15/01/1925 quy định Sở Hàng không quân sự ở
Đông Dương được phép thành lập các kho nhiên liệu và các thiết bị đặc biệt dùng cho
máy bay, tạm thời hoặc vĩnh viễn tại một số điểm trên lãnh thổ Đông Dương (HS 3503,
phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 28/3/1938, Sở Trưởng ty Công chánh ban hành Công văn số 265-D cho phép
phi trường Tân Sơn Nhất Lắp đặt trạm vô tuyến điện (HS 5465, phông Phủ Thống đốc
Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 28/10/1938, Văn phòng Chánh Tham biện ban hành Công văn số 3646 cho
117
phép xây trạm vô tuyến điện (HS 5465, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Như vậy, với những quy định, chỉ đạo của các cấp chính quyền ở Nam Kỳ, Đông
Dương và chính quốc cùng các hoạt động xây dựng nói trên, cơ sở hạ tầng ở mức tối
thiểu nhưng có thể đảm bảo ban đầu cho việc triển khai hoạt động của ngành giao thông
hàng không ở Nam Kỳ đã được hình thành.
3.2.4.4. Quy chế tổ chức hoạt động hàng không
Các quy định chung
Theo Nghị định số 261, ngày 5/9/1933 và Nghị định số 514, ngày 6/9/1933 của
Công sứ tối cao ở Đông Dương cai trị vùng Sài Gòn – Chợ Lớn quy định về độ cao các
hoạt động của máy bay ở vùng Sài Gòn – Chợ Lớn: Cấm các phi công cho máy bay hoạt
động trên bầu trời vùng Sài Gòn ở độ cao dưới 1000m khi điều khiển máy bay đa động
cơ, hoặc ở độ cao dưới 2.000m khi điều khiển máy bay một động cơ; Điều khoản tương
tự nói trên không áp dụng đối với vùng lãnh thổ Chợ Lớn.
Quy định về vận tải hàng không
Theo Sắc lệnh của Tổng thống nước Cộng hòa Pháp, Công ước ngày 13/10/1919
ban hành quy định về vận tải hàng không quốc tế và Luật ngày 31/5/1924 về vận tải hàng
không, đặc biệt là điều 60 (HS 5451, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II). Các
điều khoản sau được áp dụng ở các vùng lãnh thổ thuộc chính quốc kể từ ngày
01/6/1928; các điều khoản có trước, trái với sắc lệnh này, bị hủy bỏ.
Quy tắc về lưu thông phía trên các tuyến đường nội địa
Tàu bay hoạt động phía trên các tuyến đường nội địa (sông, kênh rạch, ao, hồ) phải
tuân theo các quy tắc chung về vận tải hàng không. Trường hợp hạ cánh xuống biển hoặc
cất cánh, tàu bay phải giữ độ cao để có thể hạ cánh xuống biển, ngoài đường bay và
không bị cản trở thực hiện thao tác này.
Tổ chức cảnh biển
Hoạt động của các tàu bay khi tạo thành cảnh biểu diễn trên biển khi có sự chấp
thuận của Quan cai trị vùng Sài Gòn – Chợ Lớn hoặc Chủ tỉnh.
Quy tắc về lưu thông ở phía trên khu dân cư
Các tàu bay hoạt động ở phía trên khu dân cư sẽ phải căn cứ và các quy tắc không
118
được bay ở độ cao dưới 500m. Ở các thành phố từ 10.000 đến 100.000 dân, tàu bay
không được bay dưới độ cao 500m đối với các tàu bay đa động cơ và 1.000m đối với các
tàu bay một động cơ. Ở khu dân cư vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, các tàu bay không được
bay dưới độ cao 1.000m đối với tàu bay đa động cơ và 2.000m đối với tàu bay một động
cơ (HS 5451, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
3.2.4.5. Tổ chức các tuyến bay
Theo khảo sát của người Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương, các tuyến đường hàng
không (kể cả dùng thủy phi cơ) có thể mang lại hiệu suất hoạt động và phù hợp nhu cầu
thực tế bao gồm các tuyến:
Tuyến từ Sài Gòn đến Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và Bạc Liêu;
Tuyến từ Sài Gòn đến Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ;
Tuyến từ Sài Gòn, Sa Đéc, Long Xuyên, Rạch Giá;
Tuyến từ Sài Gòn đến Phnom Penh, nối dài sang Angkor, Battambangm Bangkok;
Tuyến từ Sài Gòn đến Đà Lạt, Huế, Hà Nội;
Tuyến từ Sài Gòn – Lào.
Để tổ chức các tuyến bay, ngày 25/1/1932, Toàn quyền Đông Dương ban hành
Công văn số 292n.a về việc tổ chức các đoạn tuyến Bangkok – Hà Nội và Bangkok – Sài
Gòn thuộc tuyến đường Pháp – Đông Dương (HS 3503, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II).
Ban đầu, trong năm 1932 tuyến đường hàng không Pháp - Đông Dương phải mượn
lộ trình Marseille – Rangoon – Pitsanoulok – Vientiane – Vinh – Hà Nội. Tùy tình hình,
lộ trình này có thể kéo dài về phía Trung Quốc (Quảng Châu). Một tuyến đường phụ
được tách rời tuyến đường chính đến Pitsanoulock để phục vụ vận chuyển hành khách
cho Sài Gòn, Hà Nội. Tuyến đường phụ này mượn lộ trình Pitsanoulok - Bangkok - Sài
Gòn.
Những đường bay này khi đi vào hoạt động, đã được gắn kết với tổ chức kỹ thuật
của các đường bay và liên kết tài chính với Hàng không Đông Dương.
Về tổ chức tạm thời này, về tài chính phải chú ý đến những vấn đề sau:
Máy bay 03 động cơ bay từ Châu Âu đến Hà Nội, sau khi ghé qua Bangkok;
119
Máy bay 01 động cơ vận chuyển hành khách, thư tín và hàng hóa cho Nam Kỳ đi từ
Bangkok về Sài Gòn.
Khoảng cách Sài Gòn - Bangkok do Bộ Hàng không xác lập là 830km (1.660km
khứ hồi). Khoảng cách Bangkok – Hà Nội là 1035km (2.070km khứ hồi). Đối với
chuyến bay từ Bangkok – Sài Gòn, gian thực hiện 02 tuần/chuyến, bao gồm: 01 chuyến
khứ hồi, máy bay 03 động cơ của đường bay từ Châu Âu, tương đương 1660km; 01
chuyến khứ hồi của máy bay 01 động cơ của đường bay phụ Bangkok – Sài Gòn, tương
đương 1660km.
Như vậy, tính từ ngày 10/12/1910, máy bay kiểu Farman II của Charles Van den
Born cất cánh từ trường đua Phú Thọ (Sài Gòn, Nam Kỳ), 07 năm sau, Hàng không dân
dụng (có kết hợp phục vụ quân sự) mới được thành lập ở Nam Kỳ và Đông Dương vào
năm 1917. Ban đầu, các chuyến bay thực hiện bằng thủy phi cơ, về sau mới dùng máy
bay cất – hạ cánh trên bộ. Năm 1922 quy định thành lập các hãng vận tải hàng không ở
Đông Dương và xin mở các tuyến đường hàng không. Ngày 13/4/1929, tuyến Saigon -
Phnom Penh (thực hiện từ Sài Gòn) và ngày 18/5/1929, tuyến đường hàng không Sài
Gòn - Hà Nội (thực hiện từ Hà Nội) bằng thủy phi cơ Scheck của Công ty Hàng không
Pháp.
Việc khẳng định vị trí của Hàng không tại Nam Kỳ và Đông Dương được thể hiện
qua việc ngành giao thông này được tham gia các hoạt động quan trọng về kinh tế - quân
sự… khi được cơ cấu trong các Hội đồng chuyên trách do Toàn quyền Đông Dương thiết
lập. Mở đầu là việc Cục Hàng không dân dụng Đông Dương tham gia Ban Chỉ đạo các
cơ quan kinh tế Đông Dương (1921). Sau đó, Hàng không dân dụng Đông Dương tham
gia Ban Chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu kinh tế Đông Dương (1937), Ban Chỉ đạo
Không vận (1944)... Điều này đánh dấu sự phát triển và khẳng định vai trò của giao
thông hàng không góp phần tạo ra diện mạo mới, chuyển biến mới của giao thông ở Nam
Kỳ và toàn Đông Dương.
3.2.4.6. Cải tạo, nâng cấp sân bay Tân Sơn Nhất
Trong quá trình sử dụng, do nhu cầu phát triển nhanh chóng của vận tải hàng không
ở Nam Kỳ và Đông Dương, người Pháp đã có những đợt tổ chức cải tạo (kéo dài, mở
rộng đường băng đã có), xây dựng các công trình phụ trợ (nhà ga, hệ thống tín hiệu…),
120
trải đá, nhựa cho đường cất, hạ cánh,… Hoạt động cải tạo và mở rộng sân bay Tân Sơn
Nhất nhằm phục vụ nhu cầu khai thác thuộc địa được chính quyền Nam Kỳ và Liên bang
Đông Dương Đông Dương thực hiện từ năm 1929 trở đi.
Việc mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất lần đầu được đề cập đến trong Công văn số
28-AC, ngày 12/7/1929 (HS 5453, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II), của
Trưởng Phòng Hàng không Dân dụng Gửi Toàn quyền Đông Dương và Công văn số
3239na, ngày 6/8/1931 của Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi Thống đốc Nam Kỳ, cho
phép cải tạo và mở rộng đất Tân Sơn Nhất (HS 5462, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II).
Hãng Hàng không Air Orient đã đề nghị lắp hệ thống tín hiệu bằng ánh sáng trên
cột tháp điện tín không dây, nằm cách phía Nam khu đất 2km. Hệ thống tín hiệu này
được sử dụng trong trường hợp đáp máy bay đặc biệt vào ban đêm trong các điều kiện an
ninh.
Theo chỉ đạo này của Thống đốc Nam Kỳ và chính quyền Liên bang Đông Dương ,
đến năm 1934, Văn phòng Chánh Tham biện Tỉnh Gia Định ban hành Công văn số 2529
ngày 29/ 9/1934 về việc cải tạo phi trường Tân Sơn Nhất (HS 5462, phông Phủ Thống
đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Năm 1937, Nha Kinh tế và Hành chánh Phủ toàn quyền Đông Dương cũng ban
hành Công văn số 277 DEA/6-B, ngày 25/2/1937 về việc mở rộng phi trường Tân Sơn
Nhất (HS 5476, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Công văn số 839-D, ngày 20/3/1937 của Khu Công chánh Nam Kỳ cho phép triển
khai cải tạo và xây dựng đường băng số 2 (HS 5476, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II). Kinh phí ước tính tổng cộng khoảng 23.000fr.
Cùng với việc xây dựng này, Trưởng Sở Vô tuyến điện Đông Dương gửi Công văn
số: 17-RG, ngày 14/3/1938 tới Kỹ sư, Trưởng Ty Công chánh – Gia Định đề nghị xây
dựng hệ thống tín hiệu để nâng cao năng lực hoạt động của sân bay Tân Sơn Nhất (HS
5465, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 22/3/1938, phi trường Tân Sơn Nhất ban hành Công văn số 244-D gửi Kỹ sư
chính, Trưởng Khu phía Bắc Sài Gòn về đường vào phi trường.
Để mở rộng khả năng hoạt động của sân bay, ngày 26/7/1938, Thống đốc Nam Kỳ
121
gửi Công văn số 7703 cho Giám đốc Sở Kinh tế Phủ Toàn quyền yêu cầu mở rộng Phi
trường Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn theo đề nghị của Hãng Hàng không Pháp (HS 5476,
phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 23/8/1938, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Công văn số 8760 để thực hiện việc
nâng cấp sân bay. Ngày 16/11/1937 bắt đầu xây dựng. Việc này thực hiện trước khi có
biên bản thầu ngày 4/12/1937 (HS 5476, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 21/10/1938, Phủ Thống đốc Nam Kỳ ban hành Công văn số 1814 về cải tạo
phi trường Tân Sơn Nhất gửi Toàn quyền Đông Dương (HS 5476, phông Phủ Thống đốc
Nam Kỳ. TTLTQG II).
Ngày 20/4/1940, Sở Hàng không dân sự ban hành Công văn số 48N/AC về chương
trình tổng thể cải tạo phi trường Sài Gòn (Tân Sơn Nhất) và bản vẽ tổng thể (HS 5476,
Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG).
Với hàng loạt văn bản của các cấp thuộc chính quyền Nam Kỳ và Đông Dương,
cho thấy những chính sách và bước đi rất cụ thể để hàng không - một loại hình, phương
tiện giao thông mới nhanh chóng hình thành và phát triển mạnh mẽ nhất so với các loại
hình giao thông khác.
3.3. DIỆN MẠO GIAO THÔNG Ở NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1919 – 1945
Nói đến diện mạo giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945, là nói đến một hệ
thống giao thông hiện đại với những thay đổi căn bản trong giao thông đường thủy,
đường bộ với xe hơi và đường hàng không với tàu bay cùng hệ thống cơ sở hạ tầng mới:
đường lộ trải đá, cán nhựa; sân bay, nhà ga, đèn tín hiệu… hiện đại. Hệ thống giao thông
mới, hoàn toàn khác biệt so với giao thông thời nhà Nguyễn và cũng có nhiều khác biệt
so với chính hệ thống giao thông mà người Pháp đã xây dựng trong giai đoạn đầu khi
mới thiết lập chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ.
Trong hơn 55 năm (1862 – 1918), ở giai đoạn đầu của quá trình cai trị Việt Nam
của thực dân Pháp, diện mạo của hệ thống giao thông Nam Kỳ xuất hiện một hệ thống
đường sắt nội đô và liên vùng, hệ thống đường bộ liên tỉnh, đường xuyên Việt hình
thành, được trải đá, cán nhựa... Tàu chạy máy hơi nước (sau này là tàu điện ở nội đô)
thay cho sức kéo của súc vật trong giao thông đường bộ, thay cho sức người, sức gió
trong đường thủy nội địa và viễn dương. Tuy nhiên, chỉ trong hơn 25 năm sau (1919 –
122
1945), chưa bằng phân nửa số thời gian của giai đoạn trước, một diện mạo giao thông
hiện đại hơn, năng lực vận chuyển cao hơn đã hình thành bằng sự xuất hiện của xe hơi
trong vận tải đường bộ và tàu bay trong vận tải hàng không. Đó là những loại hình giao
thông hoàn toàn mới, trình độ kỹ thuật cao được duy trì và phát triển cho đến ngày nay.
Sự xuất hiện của 02 loại hình phương tiện giao thông mới này đã kéo theo sự hình thành
một cơ sở hạ tầng mới, hiện đại hơn so với giai đoạn trước. Đó là các tuyến đường bộ trải
đá và trải nhựa nhiều hơn, liên kết với các vùng và xuyên Việt, xuyên Đông Dương. Đó
còn là một hệ thống nhà xưởng bảo hành, sửa chữa xe hơi (ô tô) và hệ thống sân bay, đèn
tín hiệu cùng các cơ sở vật chất khác phục vụ cho hoạt động vận tải hàng không. Do vậy,
xác định diện mạo của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 - 1945 phải gắn
liền với sự xuất hiện và phát triển của tàu bay và nhất là xe hơi (ô tô) đã từng bước trở
thành phương tiện vận tải thông dụng và chủ lực trong hệ thống giao thông đường bộ ở
Nam Kỳ và Đông Dương kể từ giai đoạn này. Diện mạo hệ thống giao thông Nam Kỳ thể
hiện thông qua diện mạo tiêu biểu của giao thông đường bộ và giao thông hàng không
giai đoạn này cụ thể như sau.
3.3.1. Diện mạo mới của giao thông đường bộ
Ở Việt Nam, xe hơi xuất hiện lần đầu ở Nam Kỳ vào năm 1903. Đến năm 1907,
một tài phú ở Sài Gòn trở thành chủ sở hữu đầu tiên của một chiếc xe hơi được bán đầu
tiên ở Việt Nam và Đông Dương. Kể từ đây, nhiều xe hơi được nhập vào Nam Kỳ và các
xứ khác ở Đông Dương và dần trở thành phương tiện đi lại chính của giới chức cầm
quyền và những người giàu có.
Tiếp sau đó, xe hơi được sử dụng để vận chuyển thư tín của bưu điện. Đây là bước
đi đầu tiên để xe hơi trở thành một phương tiện vận tải chủ lực trong giao thông đường
bộ. Đó là bước đầu cho việc hình thành một diện mạo mới trong giao thông đường bộ ở
giai đoạn này.
Đến năm 1914, ở Nam Kỳ, xe hơi bắt đầu được sử dụng để vận chuyển người và
hàng hóa nên được gọi là “xe đò”. Loại xe này nhanh chóng trở thành phương tiện vận
tải phổ biến và chính yếu trong giao thông đường bộ ở Nam Kỳ, thay thế các loại xe
dùng sức kéo của súc vật và cả các loại xe chạy bằng máy hơi nước đã được thực dân
Pháp nhập vào Việt Nam ở giai đoạn 1862 - 1918. Điều này đã làm thay đổi căn bản và
123
hoàn toàn bộ mặt giao thông đường bộ ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 - 1945. Đó là một yếu
tố quan trọng làm nên diện mạo của một hệ thống giao thông mới, hiện đại, năng lực vận
chuyển cao. Kể từ đây, giao thông đường bộ Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ với các loại xe
hơi và một hệ thống đường bộ được mở rộng, nâng cấp. Sự xuất hiện và trở thành
phương tiện vận chuyển chính yếu thể hiện qua năng lực vận chuyển được nâng cao về
thời gian và tải trọng giúp ô tô nhanh chóng chiếm vị trí chủ lực và quan trọng nhất trong
hệ thống giao thông nói chung và đường bộ nói riêng. Chính từ sự phát triển đó của xe
hơi đã kéo theo sự nâng cấp đường bộ: đường được mở rộng, kéo dài và trải đá, trải nhựa
nhiều hơn, đặc biệt là ở Nam Kỳ. Trong nhiều năm sau, số xe hơi tại Nam Kỳ tăng tỉ lệ
thuận với sự phát triển và nâng cấp đường trải đá, trải nhựa. Tỉ lệ phát triển đó của Nam
Kỳ cao nhất Đông Dương là nét nổi bật tạo nên đặc trưng diện mạo mới của hệ thống
giao thông ở xứ thuộc địa này trong giai đoạn 1919 - 1945. Các số liệu thống kê về sự
phát triển của ô tô cùng hệ thống giao thông đường bộ ở Nam Kỳ so sánh với các xứ còn
lại của Đông Dương đã khắc họa chính xác tính tiêu biểu của diện mạo giao thông Nam
Kỳ ở thời kỳ này như sau:
1) Số liệu phát triển xe hơi ở Nam Kỳ so với Đông Dương
Bảng 3.3 - Số lượng xe hơi phát triển tại Nam Kỳ và Đông Dương
Năm Số lượng xe hơi ở Nam Kỳ Số lượng xe hơi ở Đông Dương
1922 2.230 xe 4.088 xe
1929 8.712 xe 16.065 xe
1937 6.000 xe 13.600 xe
(Ryan S. Mayfield, 2003)
Bảng 3.4 - Số liệu thống kê số lượng xe và hãng xe tại Nam Kỳ
Năm Số lượng hãng xe Tỉ lệ tăng
1921 245 hãng/649 xe
1925 513 hãng/1.075 xe Sau 05 năm: - Số hãng xe tăng 109%; - Số xe của các hãng tăng 106, 5%.
(A.A. Pouyanne, 1926)
124
Bảng trên cho thấy chỉ số phát triển các hãng xe (công ty vận tải)/số lượng xe.
Trong 05 năm (1921 – 1925), số lượng xe và hãng xe tại Nam Kỳ luôn tăng trên 100 %.
Tỉ lệ tăng này cao nhất Đông Dương (A.A.Pouyanne, 1926).
2) Số km đường bộ được xây dựng và trải đá tại Nam Kỳ và Đông Dương
Bảng 3.5 - Tình trạng các loại đường ở Nam Kỳ và Đông Dương
Năm Tỉ lệ % Số km và loại đường bộ ở Nam Kỳ Số km và loại đường bộ ở Đông Dương
5.840 km 9.171 km Chiếm 59,5% 1925 Đường rải đá:4.783 km Đường rải đá: 5.435 km Chiếm 88%
(A.A.Pouyanne, 1926)
Qua số liệu nói trên, tỉ lệ % phát triển đường giao thông bộ ở Nam Kỳ cao nhất
trong tổng số km đường của toàn Đông Dương.
3) Hệ thống nhà xưởng, trình độ kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa xe hơi hình thành và
phát triển
Ở một góc nhìn rộng hơn, bổ sung quan trọng góp phần tạo nên diện mạo giao
thông đường bộ Nam Kỳ giai đoạn này là sự xuất hiện và phát triển một hệ thống nhà
xưởng bảo dưỡng, sửa chữa xe ô tô nhập khẩu từ châu Âu. Cùng với đó là đội ngũ công
nhân, kỹ thuật sửa chữa phương tiện vận tải hiện đại - một phần hoàn chỉnh của cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, góp phần hoàn chỉnh cho diện mạo của giao thông đường bộ hiện đại của
Nam Kỳ và Đông Dương giai đoạn 1919 – 1945.
3.3.2. Ra đời một ngành vận tải mới – vận tải hàng không
Loại hình giao thông này là một phương thức vận chuyển hoàn toàn mới, mang tính
thời đại, đòi hỏi nhiều yêu cầu về cơ sở vật chất hiện đại, năng lực tài chính, nhân lực
trình có trình độ kỹ thuật và quản lý rất cao. Đó là loại hình phương tiện vận chuyển có
nhiều ưu thế về thời gian phục vụ (nhanh nhất), về phạm vi và tầm hoạt động (liên vùng,
xuyên Việt và vươn ra thế giới). Việc xuất hiện và trở thành một loại hình giao thông khả
dụng trong lĩnh vực dân sự và quân sự của vận tải hàng không ở Nam Kỳ và Đông
Dương ở giai đoạn này là một bước thúc đẩy sự phát triển và tiến tới hoàn chỉnh thành
phần của cấu thúc một hệ thống giao thông hiện đại, có khả năng phục vụ hiệu quả sự
125
phát triển kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ và Đông Dương. Tuy nhiên, bản chất của động cơ
này là nhằm phục vụ ở mức cao nhất cho công cuộc khai thác ở xứ thuộc địa này. Cụ thể
là phục vụ trực tiếp cho các hoạt động quân sự và Chương trình khai thác thuộc địa lần
thứ II của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương. Loại hình này phát triển đầu tiên và
mạnh nhất ở Nam Kỳ đã góp phần quan trọng tạo ra một diện mạo hoàn mới của giao
thông Nam Kỳ và Đông Dương thời thuộc Pháp.
Ngay từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp tại Nam Kỳ,
Đông Dương và chính quốc đã thực hiện những bước đi rất cụ thể nhằm hình thành và
phát triển nhanh chóng hoạt động vận tải hàng không ở Nam Kỳ.
Năm 1917, Hãng Hàng không dân dụng (có kết hợp phục vụ hoạt động quân sự)
được thành lập đầu tiên ở Đông Dương (JOIF, 1917. J 1091. TTLTQG I).
Năm 1922 vận tải hàng không ở Đông Dương được thành lập và xin mở các tuyến
bay. Ngày 13/4/1929, tuyến Saigon - Phnom Penh và ngày 18/5/1929, tuyến đường hàng
không Sài Gòn – Hà Nội được thực hiện từ Hà Nội, bằng thủy phi cơ Scheck của Công
ty Hàng không Pháp (entreprises-coloniales, 1929; Tạp chí kinh tế vùng Viễn Đông,
1929).
Từ những hoạt động tiêu biểu nói trên, Vận tải hàng không ở Nam Kỳ và Đông
Dương hình thành và phát triển tạo ra một diện mạo mới cho giao thông Nam Kỳ giai
đoạn này. Diện mạo của giao thông hàng không thể hiện những nét cụ thể như sau:
- Một tổ chức giao thông hàng không hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức, nhân sự; về
quy chế hoạt động và chính sách phát triển... để phục vụ hiệu quả nhất nhu cầu dân sự và
quân sự của chính quyền thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương;
- Một hệ thống đường bay xuyên Việt, xuyên Đông Dương, kết nối Nam Kỳ với
các trung tâm ở Việt Nam, Đông Dương với Đông Nam Á và chính quốc được hình
thành và đi vào hoạt động;
- Một hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ bay: sân bay, nhà ga, đèn tín hiệu,… được
xây dựng, góp phần hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của ngành giao thông vận tải.
Tất cả những yếu tố đó là dấu hiệu, điều kiện cần và đủ để tồn tại và phát triển
ngành giao thông hàng không hiện đại này ở Việt Nam cho đến ngày nay.
Tóm lại, sang giai đoạn mới, ngoài đường sắt, đường bộ và đường thủy nội địa
126
cùng hàng loạt các cảng sông – biển mà thực dân Pháp đã xây dựng từ 1862 – 1918, đã
tạo ra một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1919 – 1945,
hai phương tiện vận tải mới hiện đại, năng lực vận chuyển cao với hệ thống đường bộ
trải đá, cán nhựa phát triển, hệ thống sân bay, cảng hàng không được xây dựng mới tạo
nên một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, là bước cuối cùng góp phần hoàn chỉnh cơ cấu
một hệ thống giao thông quốc gia (thủy – bộ - đường sắt và hàng không). Cũng chính hai
loại phương tiện này là động lực và công cụ phát triển kinh tế thuộc địa ở Nam Kỳ và
Đông Dương, góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II
của thực dân Pháp ở Việt Nam. Biểu đồ sau đây sẽ cho thấy một phần diện mạo của giao
thông Nam Kỳ giao đoạn 1919 – 1945:
Biểu đồ 3.2 - Chiều dài hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (1919 – 1945)
(HS 3503, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II; A.A.Pouyanne, 1926; Ryan S. Mayfield, 2003; Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2012)
Từ biểu đồ trên cho phép một số nhận xét như sau:
Diện mạo giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945 được bổ sung hoàn chỉnh
với 04 thành phần của một hệ thống giao thông hiện đại với năng lực vận chuyển cao
góp phần tạo nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật;
Chỉ với một số tuyến bay chính ban đầu nhưng số km/tuyến của loại hình giao
thông hàng không đã chiếm tỉ lệ tới 18,5%, cao hơn giao thông thủy 16% trong biểu đồ
do khả năng khắc phục khoảng cách địa lý chỉ loại hình giao thông này có được. Tuy
127
nhiên, loại hình giao thông này chỉ vận chuyển hành khách và hàng hóa có trọng lượng
nhỏ mà không có năng lực và hiệu quả như giao thông thủy;
Trong thực tế, hai loại hình giao thông thủy (nội địa) 16% và đường bộ 64,5% vẫn
là động lực phát triển kinh tế và phục vụ đắc lực cho hai chương trình khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam.
Hệ thống giao thông đó đã góp phần quan trọng hình thành hoàn chỉnh giao thông
thời thuộc Pháp ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương trước năm 1945. Và quan trọng
hơn, đó là nền móng cho sự tồn tại và phát triển giao thông ở Việt Nam cho đến ngày
nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Từ những kết quả nghiên cứu nói trên, hoạt động của hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ giai đoạn 1919 – 1945 có những điểm nổi bật. Cụ thể như:
Do nhiều biến cố lớn chi phối, Nam Kỳ không có những công trình xây dựng và
phát triển giao thông lớn như đã từng thực hiện trong giai đoạn trước năm 1919;
Nhằm phục vụ hiệu quả cho hoạt động vơ vét tài nguyên, của cải, thực dân Pháp ở
chính quốc và tại Việt Nam đã ưu tiên đầu tư có tính trọng tâm, trọng điểm nhằm phát
triển và hiện đại hóa giao thông ở Nam Kỳ và Đông Dương;
Nhờ việc đầu tư và phát triển hệ thống giao thông có tính tập trung, trọng điểm vào
những phương tiện và cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiến bộ, đã xuất hiện các phương tiện giao
thông mới, hiện đại: ô tô – phương tiện vận tải chủ lực trong giao thông đường bộ và tàu
bay – phương tiện trong giao thông hàng không. Chính hai yếu tố này đã góp phần hiện
đại hóa hệ thống giao thông Nam Kỳ. Đó là hệ thống giao thông với đầy đủ thành phần
các loại hình: thủy - bộ - đường sắt và hàng không;
Năng lực vận chuyển của các loại hình giao thông ở Nam Kỳ được nâng cao nhờ
đầu tư phương tiện và cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông, đáp ứng được yêu cầu phục vụ
cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II của thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông
Dương.
Như vậy, dù mức đầu tư thấp nhưng giao thông Nam Kỳ đã phát triển mạnh để đáp
ứng công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II của thực dân Pháp, thu về nhiều lợi cho tư
128
bản Pháp không kém đợt khai thác thuộc địa lần thứ I. Chính sự phát triển và sử dụng
hiệu quả hai loại phương tiện giao thông mới (nhất là ô tô trong giao thông đường bộ) đã
tạo ra chuyển biến quan trọng của giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945.
Điều đáng lưu ý là mặc dù thực dân Pháp đầu tư khai thác thuộc địa lần thứ hai
với quy mô tốc độ, cường độ lớn, nhưng trong lĩnh vực giao thông vận tải chỉ chú trọng
tiếp tục đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa các công trình giao thông đã có từ trước chứ
không mở rộng xây dựng những công trình mới.
Việc thực dân Pháp thực hiện một cách hợp lý, hiệu quả các nguồn lực (có trọng
tâm, trọng điểm), nhất là sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả đã mang lại một diện
mạo mới cho giao thông Nam Kỳ. Giao thông đường bộ với xe ô tô và giao thông hàng
không mới ra đời là các loại phương giao thông hiện đại của phương Tây xuất hiện trong
giao thông Nam Kỳ giai đoạn này đã tạo ra chuyển biến quan trọng cho hệ thống giao
thông ở vùng đất này, cho cả Việt Nam và Đông Dương.
Kết quả cụ thể của hoạt động xây dựng và phát triển giao thông Nam Kỳ giai đoạn
1919 – 1945 là:
Giao thông đường bộ ở Nam Kỳ được mở rộng, nâng cấp (trải đá, cán nhựa…) để
khai thác năng lực vận chuyển nhằm phục vụ cho loại hình vận chuyển hiện đại mới xuất
hiện là xe hơi – ô tô. Nhờ đó, khả năng vận tải đường bộ được tăng cường và nâng cao
đã phục vụ hiệu quả cao nhất yêu cầu của Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ II. Do
đó, số lượng xe hơi các loại ở Nam Kỳ phát triển cao nhất Đông Dương là minh chứng
cho hiệu quả tạo ra chuyển biến rõ rệt của giao thông đường bộ ở Nam Kỳ trước năm
1945;
Hệ thống giao thông đường thủy trong giai đoạn này cũng được tập trung đầu tư
vào hai trọng điểm: (1) Mở rộng Cảng Sài Gòn (sáp nhập cảng sông Chợ Lớn vào
thương cảng Sài Gòn), nâng cấp cơ sở hạ tầng và thiết bị kỹ thuật để có thể tiếp nhận
cùng lúc 40 tàu biển trọng tải lớn và tàu hàng đến từ các tỉnh Nam Kỳ và Camphuchia;
(2) Tăng cường nạo vét kênh rạch đảm bảo thông thương liên vùng và kết nối với
Campuchia; hình thành hệ thống cảng sông ở Sài Gòn – Chợ Lớn làm đầu mối tiếp nhận
ghe thuyền từ các vùng lân cận và từ Tây Nam Kỳ về; thực hiện đào kênh Rạch Giá - Hà
Tiên (1926-1930) nhằm khai thác vùng tứ giác Long Xuyên;
129
Với giao thông đường sắt, do giai đoạn này vốn đầu tư hạn chế và khả năng khắc
phục các yếu tố kỹ thuật về địa hình, địa chất ở vùng sông nước Tây Nam Kỳ nên không
thể thực hiện chủ trương và kế hoạch phát triển đường sắt đến các tỉnh Tây Nam Kỳ và
Camphuchia như đã hoạch định.
Giao thông hàng không là loại hình giao thông mới xuất hiện. Nam Kỳ là xứ phát
triển ngành giao thông này đầu tiên, nhanh và mạnh nhất ở Đông Dương. Việc thiết lập
các tuyến đường bay từ Sài Gòn đi Bangkok, Phnom Penh, Đà Lạt, Hà Nội và xa hơn là
Paris đã cho thấy yếu tố quan trọng không chỉ về địa chính trị mà còn thể hiện nhu cầu
phát triển (vận chuyển hành khách, hàng hóa…) của ngành giao thông mới này. Sự thỏa
mãn các điều kiện kỹ thuật cao của Hàng không dân dụng ở Đông Dương giúp cho
ngành này hoạt động nhanh chóng, hiệu quả; khẳng định sự hiện diện của một ngành
giao thông hiện đại mới, tạo nên sự chuyển biến quan trọng của hệ thống giao thông ở
Nam Kỳ trong giai đoạn này.
Như vậy, hoạt động xây dựng và phát triển giao thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1919 –
1945 đã có nhiều thay đổi về cơ sở hạ tầng nói chung, nhất là hạ tầng kỹ thuật. Sự biến
đổi lớn nhất, có tính bước ngoặt là sự có mặt của một hệ thống giao thông hiện đại với đủ
thành phần thủy – bộ - đường sắt và hàng không trong đó giao thông đường bộ có năng
lực vận chuyển cao nhất đã tạo điều kiện kết nối giữa các tỉnh Nam Kỳ, giữa Nam Kỳ
với các vùng miền, xứ khác ở Đông Dương và quốc tế. Đây là điều kiện cần và đủ để
phát triển một nền sản xuất hàng hóa, góp phần từng bước hình thành cơ sở hạ tầng hiện
đại cho Nam Kỳ.
130
CHƯƠNG 4.
ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐẾN ĐỜI
SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NAM KỲ (1862 - 1945)
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển với nhiều bước thăng trầm, đạt được
nhiều thành quả đáng ghi nhận cùng với không ít hạn chế và bất cập, hệ thống giao
thông ở Nam Kỳ giai đoạn 1862 - 1945 đã thực sự trở thành một di sản của quá khứ. Do
vậy, việc nghiên cứu phục dựng lịch sử giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp là để di sản
đó không “ngủ yên” mà vẫn được khai thác những yếu tố tích cực và tiêu cực nhằm phục
vụ cho đời sống kinh tế - xã hội; phục vụ công cuộc bảo vệ quốc phòng - an ninh của đất
nước nói chung, của khu vực Nam Bộ nói riêng ngày nay. Chính vì vậy, xác định đặc
điểm, tác động và ảnh hưởng của hệ thống giao thông Nam Kỳ để đúc kết những vấn đề
hữu ích cho hôm nay là điều hết sức cần thiết.
4.1. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM
KỲ (1862 - 1945)
Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc được xây dựng trong 83 năm
(1862 – 1945) đã giúp cho xứ thuộc địa này hình thành một hệ thống giao thông hoàn
chỉnh, hiện đại như thể hiện trong Biểu đồ 3.2. Chiều dài hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
(1919 – 1945). Trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa do thực dân Pháp tiến hành ở Đông
Dương (1897 – 1914 và 1919 – 1929), hệ thống giao thông này thực sự là công cụ,
phương tiện quan trọng để thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa một cách hiệu
quả nhất. Do những biến động của lịch sử với hai cuộc chiến tranh thế giới nên việc hình
thành và phát triển giao thông ở Nam Kỳ và Đông Dương cũng chia thành hai giai đoạn
cụ thể với những đặc điểm riêng biệt. Đặc điểm hình thành và phát triển của hệ thống
giao thông ở xứ thuộc địa này trong 02 giai đoạn (1862 – 1918 và 1919 – 1945) có
những điểm nổi bật sau.
4.1.1. Hệ thống giao thông mới tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, khai thác hiệu
quả yếu tố tự nhiên để phát triển bền vững
Khác với thời nhà Nguyễn, hệ thống giao thông chỉ có đường bộ và đường thủy,
hình thành chủ yếu từ khai thác những điều kiện tự nhiên. Trong thời Pháp thuộc, một hệ
thống giao thông khá đồng bộ (thủy – bộ - đường sắt – hàng không) dần được hình thành
131
với những biến đổi lớn và yếu tố mới. Nhận xét chung về đặc điểm này, có thể tóm lược
như sau: Giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc, trong từng thời kỳ đã được xây dựng
tương đối đồng bộ, gồm cả đường thủy, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Do
đặc điểm địa hình và điều kiện tự nhiên, đường thủy luôn được chú trọng nhất; đường bộ
phát triển chậm hơn nhưng tạo ra đột biến; đường sắt có tác dụng thấp; đường hàng
không đầu tư muộn nhưng phát triển với tốc độ nhanh. Cụ thể:
1) Giao thông đường thủy
Thực dân Pháp khi xâm lược Nam Kỳ đã xác định: không có kênh giao thông thì
không có thuộc địa vì an ninh đi đôi với giao thông thủy. Giao thông thủy ở Nam Kỳ,
đặc biệt là ở Tây Nam Kỳ trước tiên là phục vụ hoạt động tác chiến và sau là giao
thương và thủy lợi.
Để phát triển một hệ thống giao thông thủy mới, ngoài việc khai thác yếu tố thiên
nhiên và phương tiện truyền thống (ghe, thuyền), thực dân Pháp đã sử dụng các loại máy
móc hiện đại như tàu cuốc, xáng, cạp là phương tiện di chuyển dưới nước, dùng để đào
kênh, vét bùn (Huỳnh Công Tín, 2007) để cải tạo, đào mới kênh rạch nhằm khai thác tối
đa ưu thế của miền sông nước nhằm vừa sử dụng phương tiện truyền thống (ghe, thuyền)
trong giao thông nội vùng, vừa sử dụng tàu chạy máy hơi nước với năng lực vận chuyển
lớn. Do vậy, hệ thống sông ngòi, kênh rạch này là hệ thống giao thông - thủy lợi hiệu
quả nhất ở Đông Dương. Nhờ phát triển và khai thác một các hợp lý, hệ thống sông
ngòi, kênh rạch chằng chịt ở Nam Kỳ không chỉ là thủy lộ mà còn giúp hình thành vùng
chuyên canh lúa nước phát triển mạnh, mang tính sản xuất hàng hóa. Cũng nhờ hệ thống
giao thông thủy này, lúa gạo được vận chuyển về Sài Gòn - Chợ Lớn, trung tâm xay xát
để xuất khẩu qua Cảng Sài Gòn.
Thống kê qua 02 cuộc khai thác thuộc địa, khoảng kinh phí đầu tư cho kế hoạch
đào, nạo vét kênh rạch nhằm tạo ra hệ thống thủy lộ ở Nam Kỳ hàng năm là 2.000.000
francs từ ngân sách Đông Dương và 240.000 francs từ ngân sách Nam Kỳ, lợi ích trực
tiếp thặng dư về vốn gấp ba lần chi phí bỏ ra và lợi tức hằng năm thể hiện 167% chi phí
(A.A Pouyanne, 1926).
Nhìn chung, giao thông thủy ở Nam Kỳ rất thuận lợi. Với mạng lưới lan rộng toàn
vùng châu thổ sông Mekong và sông Đồng Nai, cộng với chế độ nhật triều là một thuận
132
lợi cơ bản để hệ thống sông ngòi, kênh rạch ở Nam Kỳ thực hiện hiệu quả chức năng
kép: giao thương và thủy lợi. Chính điều kiện này đã giúp giao thông thủy ở Nam Kỳ
phát triển hơn so với Bắc và Trung Kỳ với lý do: thứ nhất, ở Bắc Kỳ, mạng lưới sông
ngòi lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình tương đối hẹp, chế độ dòng chảy không
thuần (nhất là vào mùa lũ), có nhiều cồn cát vào mùa cạn cản trở lưu thông nên lộ trình
chỉ kéo dài độ 700km cho tàu hơi nước; thứ hai, ở Trung Kỳ, các sông ngắn, lưu vực
không rộng lại bị chia cắt bởi các dãy núi chạy từ Trường Sơn ra biển nên giao thông
thủy hạn chế hơn so với Bắc Kỳ và nhất là với Nam Kỳ (A.A Pouyanne, 1926).
Về hoạt động của các cảng sông, biển.
Ở Đông Dương có hai cảng chính là Cảng Sài Gòn và Cảng Hải Phòng. Do vị trí
địa lý, Cảng Sài Gòn trở thành một đầu mối giao thương, cơ sở hạ tầng giao thông phục
vụ khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ và Đông Dương hiệu quả nhất.
Từ ngày 22/02/1860, Cảng Sài Gòn bắt đầu hoạt động giao thương quốc tế. Là
điểm hội tụ của những hệ thống thủy vận nối liền Châu Âu với Đông Á; giữa Trung
Quốc, Nhật Bản với Đông Nam Á. Thước đo về sự phát triển và hiệu quả của hệ thống
giao thông nói chung và giao thông thủy ở Nam Kỳ (đặc biệt là hoạt động phục vụ
thương mại tế) thể hiện rõ nhất qua khối lượng và chủng loại hàng hóa xuất qua Cảng
Sài Gòn.
Tính từ khi thành lập, hoạt động xuất khẩu của cảng Sài Gòn luôn tăng mạnh và
tăng nhanh. Khối lượng hàng hóa (chủ yếu là nông sản) xuất qua Cảng Sài Gòn ở thời
điểm cuối hai cuộc khai thác thuộc địa thể hiện qua số liệu thống kê sau:
Giai đoạn 1914 – 1918, nhất là giai đoạn cuối của cuộc khai thác thuộc địa lần I,
khối lượng lúa gạo đạt 1.264.200 tấn trên tổng khối lượng xuất khẩu 1.309.505 tấn;
Giai đoạn 1934 – 1938, nhất là giai đoạn cuối của cuộc khai thác thuộc địa lần II,
khối lượng lúa gạo đạt 1.526.400 tấn trên tổng khối lượng xuất khẩu 2.062.160 tấn.
(Lê Huỳnh Hoa, 2003)
Hàng hóa xuất qua Cảng Sài Gòn tập trung chủ yếu vào 03 mặt hàng chủ lực gồm
lúa gạo, ngô và cao su. Số liệu thống kê sau đây cho thấy tỉ lệ giá trị lúa gạo và các sản
phẩm từ gạo của Nam Kỳ xuất qua Cảng Sài Gòn trong giai đoạn 1914 – 1938 cụ thể
như sau:
133
Bảng 4.1 - Số liệu giá trị các sản phẩm xuất qua Cảng Sài Gòn (1914 – 1938)
(tính theo tấn)
Năm Gạo Ngô Cao su Chè Cà phê
1914 – 1918 1.264.200 43.700 520 850 235
1919 – 1923 1.123.000 27.700 4.010 560 649
1924 – 1928 1.387.000 69.135 8.600 934 465
1929 – 1933 1.134.800 166.600 13.400 691 258
1934 – 1938 1.526.400 495.000 38.800 1.560 400
(Lê Huỳnh Hoa, 2003)
Như vậy, có thể khẳng định, đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu vẫn là lúa gạo.
Lượng gạo xuất khẩu của Đông Dương nói chung và Nam Kỳ nói riêng luôn gia tăng,
vượt qua mức 1.000.000 tấn/năm. Trong thời kỳ 1899 – 1903, Đông Dương xuất khẩu
trung bình mỗi năm 809.000 tấn gạo và các sản phẩm phụ từ gạo; thời kỳ 1919 –1923
tăng lên 1.331.000 tấn. Đến những năm 1933 – 1937 đã là 1.582.000 tấn đã minh chứng
cho năng lực xuất khẩu của Cảng Sài Gòn và năng lực vận chuyển của hệ thống giao
thông ở Nam Kỳ (Nguyễn Văn Khánh, 2004).
Trong khi đó, Cảng Hải Phòng ở Bắc Kỳ (1874), nơi được sử dụng để đổ bộ và tiếp
tế cho quân đội viễn chinh. Hoạt động của Cảng chỉ thực sự “khởi sắc” khi thương cảng
này được nối liền với Vân Nam, Trung Quốc bằng đường xe lửa. Đến năm 1939, Cảng
chỉ thực hiện thực hiện được 23% khối lượng vận chuyển xuất nhập khẩu của cả xứ, thấp
hơn nhiều so với Cảng Sài Gòn (A.A Pouyanne, 1926).
2) Giao thông đường bộ
Giao thông đường bộ là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch xây dựng hạ tầng
vì nó phục vụ thiết thực nhất cho nhu cầu vận chuyển hang hóa, hành khách của đời
sống xã hội. Ngay từ những ngày đầu cai trị Nam Kỳ, thực dân pháp đã xúc tiến mạnh
việc xây dựng hệ thống giao thông đường bộ ở xứ thuộc địa này.
Việc xây dựng giao thông đường bộ ở Nam Kỳ bao gồm xây dựng đường và cầu
(bắc qua kênh rạch, sông). Mô phỏng theo chính quốc, đường sá Nam Kỳ được chia
thành 03 loại: (1) Quốc lộ (để nối các trung tâm quan trọng nhất và dùng làm đoạn bắt
134
đầu của tỉnh lộ, hầu như sử dụng lại lộ trình đường được làm từ thời Gia Long); (2) Tỉnh
lộ; (3) Đường hàng xã. Thông tin số liệu cụ thể là: quốc lộ và tỉnh lộ: 1.282 km; đường
hàng xã lớn: 965 km; đường hàng xã: 1.139 km; Tổng cộng:3.396 km. (A.Bouinais,
1884. NN.965. TTLTQG II).
Ở Nam Kỳ, đường bộ được xây dựng sớm nhất về các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long là đoạn Sài Gòn - Mỹ Tho (1866 – 1880). Đây là con đường huyết mạch nối Sài
Gòn tới Mỹ Tho và đi đến các tỉnh khác ở Tây Nam Kỳ.
Đường thiên lý Bắc - Nam được xây dựng dưới triều Nguyễn được người Pháp
nâng cấp, mở rộng và gọi là đường thuộc địa số 1.
Như vậy trong thời gian này, giao thông đường bộ ở Việt Nam được chia làm ba
loại đường: (1) Đường quốc lộ: loại đường rộng và dài nhất, là đường vận tải chính nối
các tỉnh, lộ trong cả nước; (2) Đường hàng tỉnh: loại đường nối các trấn, tỉnh trong cả
nước; (3) Đường hàng xã là loại đường nhỏ nối liền các thôn, xã, làng, bản với nhau
hoặc hình thành theo thói quen đi lại tự nhiên của người dân.
Trong giai đoạn 1919 – 1945, giao thông đường bộ chủ yếu chỉ tiến hành mở rộng,
nâng cấp và trải đá, cán nhựa nhằm nâng cao năng lực vận chuyển của loại hình vận
chuyển mới, hiện đại là xe ô tô - phương tiện giao thông đường bộ tiêu biểu thời bấy giờ.
Số liệu thống kê về sự phát triển của loại hình này cùng hệ thống giao thông đường bộ ở
Nam Kỳ so với các xứ còn lại của Đông Dương cho thấy diện mạo phát triển vượt bậc
của hệ thống giao thông đường bộ của Nam Kỳ ở thời kỳ này như sau:
Bảng 4.2 - Phát triển ô tô ở Đông Dương (Indochinese Automobile Development)
Year Type Annam Cambodia Cochinchina Laos Tonkin Total
1922 Automobiles 308 403 21 1,126 4,088 2,230
1929 Automobiles 1,392 1,690 142 4,129 16,065 8,712
Trucks 214 302 129 325 1,641 671
Buses 495 828 45 390 2,401 643
Motorcycles 156 137 41 901 2,334 1,099
Total 2,257 2,957 357 5,745 22,441 11,125
135
1937 Automobiles 1,600 1,480 220 4,300 13,600 6,000
Trucks 300 280 110 440 1,750 620
Buses 300 340 50 300 1,550 560
Tractors 305 20 3 2 40 305 240
Motorcycles 50 50 40 200 620 280
Total 2,270 2,153 422 5,280 17,825 7,700
(Ryan S. Mayfield, 2003)
3) Giao thông đường sắt
Trong giai đoạn đầu (1862 – 1918), ngay khi vừa hoàn tất việc xâm chiếm Nam
Kỳ, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng đường sắt nội đô và liên vùng (Sài Gòn – Chợ
Lớn nối đến Mỹ Tho). Đó là biểu tượng của một loại hình giao thông mới, hiện đại của
phương Tây mang đến, có vốn đầu tư lớn, lần đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ và Đông
Dương. Loại hình giao thông mới này đã được nhanh chóng xây dựng và đưa vào sử
dụng đã tạo ra một diện mạo mới hoàn toàn khác biệt so với các loại hình giao thông có
từ thời Nguyễn ở Nam Kỳ.
Tuyến đường sắt nội đô Sài Gòn - Chợ Lớn (tramways - xe điện) khởi công tháng
1/1880, khai thác từ 01/7/1882. Tổng chiều dài ban đầu là 5 km sau kéo dài đến Bình
Tây, Gia Định (Gò Vấp, Phú Nhận, Hóc Môn). Đến năm 1913, tổng chiều dài phát triển
thêm dài hơn 13 km và sau này kéo dài đến Lái Thiêu,… nên tổng chiều dài gần 30km.
Vốn đầu tư ban đầu tại Sài Gòn khoảng 12.743fr.
Tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho khởi công tháng 01/1881, khai thác từ tháng 7/1885.
Chiều dài toàn tuyến: 70.827 km. Vốn đầu tư ban đầu: 11.009.500fr chưa kể kinh phí
xây 03 cầu lớn vượt sông sông Chợ Đệm, Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
Tuyến đường sắt xuyên Việt, đoạn Sài Gòn – Nha Trang khởi công năm 1898.
Năm 1908 xây dựng được 89km, đoạn Sài Gòn – Bảo Chánh (Biên Hòa). Hoàn thành và
khai thác năm 1913. Đây là đoạn đầu phía Nam thuộc Nam Kỳ của tuyến đường sắt
xuyên Việt từ Sài Gòn xây dựng đến Biên Hòa và sau mở rộng ra tới Nha Trang (miền
Trung) và điểm cuối là Hà Nội (miền Bắc).
Sự phát triển và khai thác đường sắt ở Nam Kỳ có khác với ở Trung và Bắc Kỳ
136
biểu hiện qua các số liệu chi phí đầu tư xây dựng. Đường sắt ở Nam Kỳ có chi phí đầu
tư thấp nhất 150.400fr/km (80.600fr/536km) nhưng có số km khai thác cao nhất so với
Bắc Kỳ 175.000fr/km (88.300.000fr /505km) và Trung Kỳ 181.500fr/km
(31.800.000fr/175km). Lợi nhuận thu về của đường sắt ở Nam Kỳ cũng cao hơn so với
đường sắt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (A.A Pouyanne, 1926). Số liệu thống kê hệ số khai
thác đường sắt trong hai năm 1924, 1925 về hệ số khai thác:
- Ở Nam Kỳ
+ Năm 1924: hệ số khai thác 101,44/536 km khai thác;
+ Năm 1925: hệ số khai thác 105,55/536 km khai thác.
- Ở Trung Kỳ
+ Năm 1924: hệ số khai thác 105/175 km khai thác;
+ Năm 1925: hệ số khai thác 116,16/175 km khai thác.
- Ở Bắc Kỳ:
+ Năm 1924: hệ số khai thác 80,68/505 km khai thác;
+ Năm 1925: hệ số khai thác 90,54/505 km khai thác.
Nhìn chung, từ số liệu trên cho thấy, đường sắt ở Nam Kỳ khai thác hiệu quả nhất;
các tuyến đường sắt ở cả 03 xứ và toàn Đông Dương đã tạo điều kiện vận chuyển hàng
hóa một cách rộng rãi, qua đó khuyến khích phát triển kinh tế ở các xứ bằng cách gia
tăng hoạt động kinh tế do việc vận chuyển của đường sắt tạo ra.
4) Giao thông hàng không
Loại hình giao thông ra đời muộn nhất ở Nam Kỳ và Đông Dương, góp phần hoàn
chỉnh cơ cấu thành phần của một hệ thống giao thông hiện đại (thủy – bộ - đường sắt và
hàng không), góp phần đưa Nam Kỳ và Đông Dương hội nhập quốc tế.
Quá trình hình thành giao thông hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương được tiến
hành như sau:
Ngày 13/7/1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Sở Hàng không
Đông Dương. Ngày 06/4/1918, thành lập Sở Hàng không dân sự Đông Dương và một
phi đội ở Nam Kỳ.
Ngày 25/3/1929, tại Sài Gòn, căn cứ thủy phi cơ được thành lập tại Nhà Bè và sân
bay cũng được tiến hành xây dựng tại làng Tân Sơn Nhất (1929 – 1933).
137
Năm 1929, những tuyến bay đầu tiên trong khu vực (Liên bang Đông Dương
Đông Dương và Đông Nam Á) được thực hiện:
- Ngày 13/4/1929, tuyến Sài Gòn – Phnom Penh;
- Ngày 18/5/1929, tuyến Sài Gòn - Hà Nội;
- Ngày 28/12/1933 tiến hành tuyến bay Paris – Sài Gòn – Paris. Đây là tuyến bay
quốc tế đầu tiên được thực hiện, nối Nam Kỳ với chính quốc.
Với các hoạt động nói trên, ngành hàng không ở Nam Kỳ và Đông Dương đã góp
phần hoàn chỉnh một cơ cấu đủ các thành phần của một hệ thống giao thông thời hiện
đại. Sự hoàn chỉnh các thành phần của hệ thống giao thông hiện đại trong giai đoạn này
làm thay đổi diện mạo lớn nhất, triệt để nhất của giao thông Nam Kỳ nói riêng, Việt
Nam và Đông Dương nói chung (entreprises-coloniales, 1929; Tạp chí kinh tế vùng
Viễn Đông, 1929).
Nếu như trước năm 1862, giao thông thời Nguyễn chỉ có hai loại phương tiện
đường bộ và đường thủy. Giai đoạn 1862 – 1918, thời kỳ đầu Pháp thuộc, ở Nam Kỳ,
ngoài giao thông thủy đã có sự xuất hiện thêm đường sắt. Sự biến đổi này giúp gia tăng
thành phần hệ thống giao thông lên ba loại hình. Đến giai đoạn 1919 – 1945, với sự xuất
hiện của tàu bay, vận tải hàng không chính thức hiện diện và đi vào hoạt động (1917 –
1933). Đến giai đoạn này, hệ thống giao thông đã gồm bốn loại hình gồm: đường thủy,
đường bộ, đường sắt và nhất là đường Hàng không. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
giao thông ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng đã hình thành một hệ thống giao
thông hoàn chỉnh cơ cấu thành phần của hệ thống giao thông hiện đại, là nền tảng, cơ sở
tồn tại và phát triển hệ thống giao thông quốc gia cho đến ngày nay. Hệ thống giao thông
này đã tạo điều kiện kết nối các vùng, miền ở Nam Kỳ, Việt Nam và toàn xứ Đông
Dương, với khu vực và thế giới; là công cụ trợ lực quan trọng, không thể thiếu trong
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhất là tại Nam Kỳ.
4.1.2. Hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại hóa nhanh
Giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc là một hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại
hóa nhanh nhờ sự vượt trội về các mặt quy hoạch, kỹ thuật và công năng khai thác, sử
dụng.
138
4.1.2.1. Tốc độ hiện đại hóa nhờ tính vượt trội
Sự vượt trội thể hiện qua tính khoa học và đồng bộ của hệ thống giao thông mới ở
Nam Kỳ cụ thể như sau:
1) Trong xây dựng và phát triển giao thông đường thủy, đường bộ
Giao thông đường thủy
Một trong những thành công của các nhà hoạch định hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ thời thuộc Pháp là việc xây dựng và phát triển một hệ thống giao thông thủy nội
vùng có kết nối từ vùng sản xuất đến trung tâm chế biến và xuất khẩu một cách khá hoàn
chỉnh, “thuận thiên”. Trước thời Pháp thuộc, giao thông thủy tuy là hình thức vận
chuyển chủ lực ở miền sông nước và kênh rạch chằng chịt nhưng vẫn trong tình trạng lạc
hậu, manh mún, thiếu phương tiện hiện đại như tàu vận tải, tàu cuốc, xáng cạp cùng
những thiết bị kỹ thuật cần thiết phục vụ hoạt động giao thông như bến bãi, kè đập, kho
hàng, xưởng sửa chữa… Người Pháp đã quy hoạch và xây dựng hệ thống đường thủy
tương đối hoàn chỉnh và khai thác được nhiều nhất lợi thế tự nhiên (nhất là các cảng
biển, cảng sông, chế độ thủy triều...) để tạo nên một hệ thống giao thông thủy liên vùng
vượt trội nhất Đông Dương. Cụ thể:
Với hệ thống giao thông thủy nội vùng
Cải tạo kênh rạch: Dùng các công cụ hiện đại như tàu cuốc, xáng cạp thay thế cách
đào bằng sức người để cải tạo kênh rạch cũ nhằm nâng cao năng lực lưu thông. Theo
Albert Pouyanne trong cuốn Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien (Albert
Pouyanne, 1930), kết quả cụ thể như sau:
+ Từ năm 1894 - 1897 nạo vét được 120.000 m3;
+ Từ năm 1897 - 1903, mỗi năm đào được 877.000 m3;
+ Từ năm 1903 - 1904 đào được 3.495.000 m3
+ Trong thập niên 20, có khoảng 7.233.000 m3 đất được nạo vét.
Đào mới hàng loạt kênh, rạch lớn nhỏ tùy theo nhu cầu và địa hình. Tiêu biểu như
kênh Rạch Giá - Hà Tiên (1926 - 1930) để khai thác tiềm năng vùng tứ giác Long
Xuyên. Những năm sau đó, kỹ thuật đào kênh được áp dụng các phương pháp và công
cụ ngày càng hiện đại (xáng, cạp…). Do vậy, trong 10 năm đầu (1890 - 1900), bình quân
139
mỗi năm đào được 824.000 m3 chưa kể hàng triệu mét khối thực dân Pháp bắt dân ta đào
bằng tay (Phan Khánh, 1981).
Với hệ thống cảng sông, biển
Cảng Sài Gòn được thành lập từ rất sớm (1860) đã nhanh chóng trở thành đầu mối
giao thương của Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương. Bước vào công cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai, Cảng Sài Gòn không đáp ứng được lưu lượng hàng hóa cần được
xuất nhập khẩu. Để có thể tiếp nhận nhiều tàu biển trọng tải lớn và tàu hàng đến từ các
tỉnh Nam Kỳ và Camphuchia,
Toàn quyền Đông Dương cho nhập cảng sông Chợ Lớn vào thương cảng Sài Gòn.
Cùng với việc mở rộng cảng, cơ sở hạ tầng và thiết bị kỹ thuật cũng được xây dựng và
lắp đặt tương ứng (Lê Huỳnh Hoa, 2002). Hệ thống cảng sông dọc theo các kênh rạch
vùng Sài Gòn – Chợ lớn được nạo vét làm luồng giao thương, gia cố để làm đầu mối tiếp
nhận ghe thuyền đến từ các vùng lân cận và từ miền Tây Nam Kỳ (Inspection générale
des Travaux Publics Dragages de Cochinchme, 1930). Trong vòng 80 năm, Cảng Sài
Gòn đã trở thành cảng lớn nhất ở Đông Dương.
Giao thông đường bộ
Được quy hoạch bài bản, có phân cấp quản lý và tỏa đều về các trung tâm hành
chính địa phương. Mặc dù tổng chiều dài các loại đường bộ (bao gồm đường thuộc địa
tức quốc lộ và đường hàng xứ) không bằng Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng chiều dài đường
rải đá, cán nhựa ở Nam Kỳ lại chiếm tỷ lệ cao hơn. Với 02 loại đường bộ là Quốc lộ và
tỉnh lộ có khả năng kết nối liên vùng, liên tỉnh; Đường hàng xã kết nối nội vùng.
Bảng 4.3 - Tổng chiều dài đường có thể đi qua của từng xứ (1922 – 1936)
(tính theo km)
Xứ Năm Địa phương Tổng
Đường thuộc địa có thể đi qua (đường sỏi, trải nhựa, đất)
1922 2,849 5,233 2,384
Annam 1929 3,492 6,260 2,768
1930 3,077 5,986 2,909
140
3,159 6,146 1933 2,987
3,462 6,536 1936 3,074
1,219 2,364 1922 1,145
1,199 2,604 1929 1,405
1,227 2,739 1930 Cambodia 1,512
2,243 4,012 1933 1,769
1,820 3,488 1936 1,668
3,482 4,259 1922 777 Cochinchina
5,092 6,066 1929 974
*Local Includes: 5,742 6,418 1930 676
5,514 6,163 1933 649
local, provincial, and comuna 6,583 7,233 1936 650
656 1,455 1922 799
964 2,328 1929 1,364
913 2,366 1930 Laos 1,453
1,343 2,921 1933 1,578
1,505 3,259 1936 1,754
5,406 6,853 1922 1,447
5,154 6,715 1929 1,561
5,488 7,227 1930 Tonkin 1,739
4,117 5,837 1933 1,720
4,005 5,702 1936 1,697
(Ryan S. Mayfield, 2003)
đoạn 1922 – 1936 theo biểu đồ 4.2. như sau:
Trên cơ sở bảng 4.3. có thể thấy rõ số km của hệ thống đường bộ ở Nam Kỳ giai
141
Biểu đồ 4.1 - Số km đường có thể sử dụng ở Nam Kỳ (1922 – 1936)
(Ryan S. Mayfield, 2003)
Bảng thống kê trên đã cho thấy số km của các tuyến đường bộ của Nam Kỳ luôn
cao hơn các xứ khác trong Liên bang Đông Dương. Điều đó cho thấy sự phát triển vượt
trội của giao thông đường bộ ở Nam Kỳ.
2) Sự vượt trội về kỹ thuật xây dựng
Xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ là một thách thức nhiều mặt
với các nhà kỹ thuật xây dựng giao thông. Địa hình địa chất Nam Kỳ là vùng sông nước,
nhiều kênh rạch, nền đất yếu đã gây nhiều khó khăn cho việc xây dựng và phát triển giao
thông thủy – bộ - đường sắt.
- Với đường thủy
Việc nạo vét, thường xuyên nâng cấp, mở rộng với nhiều thiết bị hiện đại. Về kỹ
thuật thi công thủy lợi, trong thực tế, loại hình giao thông thủy nội vùng được cho là có
nhiều thuận lợi song cũng gặp phải không ít khó khăn. Chỉ khi đưa tàu cuốc, xáng cạp –
công cụ thi công thủy tiến bộ vượt trội so với phương pháp thủ công trước đó mới có thể
tạo bước đột phá về tốc độ cải tạo và đào mới kênh rạch ở vùng châu thổ này. Đến năm
1914, ở Nam Kỳ đã có 1.745 km đường thủy để tàu chạy hơi nước có thể hoạt động.
Việc mở mang cảng Sài Gòn và lập thêm cảng mới (cảng Hà Tiên) cùng với việc
xây dựng hải đăng ở Côn Đảo… cũng cho thấy sự phát triển ở một tầm vóc mới của hệ
thống giao thông đường thủy ở Nam Kỳ.
- Với đường bộ
142
Trước đây chỉ là những con đường mòn, dành cho người đi bộ và cho xe súc vật
kéo, nay được mở rộng, rải đá, cán nhựa để phù hợp với xe ô tô có năng lực và tốc độ
vận chuyển cao. Cầu cống trên hệ thống đường bộ được xây dựng kiên cố bằng sắt hay
bê tông hóa.
- Với đường sắt
Để xây dựng đường sắt cần vận dụng kỹ thuật làm đường, cầu trên nền đất yếu, địa
hình – địa chất phức tạp, cho phà vận chuyển tàu hỏa qua sông… Muốn thực hiện được
yêu cầu đó, việc áp dụng các kỹ thuật giao thông nói trên là một sự vượt trội trong thi
công, giải quyết các bài toán về địa hình địa chất, địa lý và nhất việc vận hành khai thác
hệ thống giao thông đường sắt vừa được xây dựng. Việc áp dụng các kỹ thuật giao thông
trong những lĩnh vực chuyên môn đó là một bước hiện đại hóa trong việc xây dựng và
phát triển giao thông ở Nam Kỳ.
- Với đường hàng không
Việc tổ chức các tuyến bay cùng hệ thống phục vụ bay như sân bay, dẫn đường,
thông tin liên lạc,… với kỹ thuật rất cao được mang đến từ phương Tây.
Đó là những dẫn chứng tiêu biểu cho sự vượt trội về kỹ thuật hiện đại, uy lực của
văn minh phương Tây.
3) Sự vượt trội về công năng sử dụng
Tất cả các loại hình giao thông ở Nam Kỳ đều phát huy tác dụng trên nhiều phương
diện để vận chuyển hành khách, hàng hóa, tài nguyên... phục vụ đắc lực cho công cuộc
khai thác của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông Dương. Có hai loại hình tiêu biểu:
- Giao thông đường thủy và Cảng Sài Gòn
Nhờ vị trí địa lý, cảng Sài Gòn được khai thác vô cùng hiệu quả để trở đầu mối
giao thương, một cơ sở hạ tầng quan trọng nhất trong suốt quá trình thực dân Pháp thực
hiện hai cuộc khai thác thuộc địa ở Nam Kỳ, góp phần làm biến đổi kinh tế Nam Kỳ,
làm thay đổi cán cân ngoại thương của Nam Kỳ nghiêng về phía xuất khẩu, chủ yếu là
sản phẩm nông nghiệp như lúa, gạo, ngô, hạt tiêu và một loại cây trồng mới là cao su.
Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi, kênh rạch ở miên đất này có công năng kép giao
thương và thủy lợi. Nam Kỳ, nhất là miền Tây là vùng châu thổ kênh rạch chằng chịt.
Với giao thông đường bộ và đường sắt là những trở ngại lớn về mặt kỹ thuật xây dựng
143
công trình nhưng với giao thương thủy, các tuyến đường vận chuyển cũng là các công
trình dẫn thủy nhập điền góp phần hình thành vùng chuyên canh lúa nước dưới rạng sản
xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu. Sự khai thác công năng sử dụng trong giao thông thủy
ở Nam Kỳ trong trường hợp này thể hiện qua yếu tố thuận thiên – phát triển bền vững
theo các điều kiện thiên nhiên có sẵn chỉ đào đắp, nạo vét để nâng cao năng lực vận
chuyển.
- Giao thông đường bộ và xe ô tô
Từ năm 1914, phương tiện này trở thành phương tiện vận chuyển chính yếu của
giao thông đường bộ. Từ giai đoạn này, xe ô tô trở thành loại hình vận chuyển chính yếu
với năng lực vận chuyển cao, hiệu quả đã đảm nhận thị phần vận tải rất lớn để chuyên
chở người và hàng hóa trong hệ thống giao thông nói chung.
Thống kê về số lượng theo từng loại xe ô tô ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ của
Ryan S. Mayfield vào năm 1937 – giai đoạn cuối của cuộc khai thác thuộc địa lần II
cũng cho thấy sự phát triển vượt trội của xe ô tô ở Nam Kỳ:
Bảng 4.4 - Số lượng từng loại xe ô tô ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ
XỨ NĂM TRUNG KỲ NAM KỲ BẮC KỲ LOẠI XE
1937 Automobiles 1,600 6,000 4,300
Trucks 300 620 440
Buses 300 560 300
Tractors 20 240 40
Motorcycles 50 280 200
Total 2,270 7,700 5,280
(Ryan S. Mayfield, 2003)
Cơ sở dữ liệu được thể hiện qua bảng trên là một phần thể hiện sự phát triển giao
thông đường bộ thông qua biểu đồ sau:
144
Biểu đồ 4.2 - Phát triển ô tô ở Nam Kỳ tại Việt Nam (03 kỳ), năm 1937.
(Ryan S. Mayfield, 2003)
Từ những số liệu trên cho thấy sự phát triển mạnh nhất của phương tiện giao thông
chủ lực (ô tô) thuộc hệ thống đường bộ ở Nam Kỳ so với các thành phần khác của Việt
Nam trong Liên bang Đông Dương. Sự phát triển đó cũng một phần cho thấy hệ thống
đường bộ Nam Kỳ phát triển mạnh nhất ở Đông Dương thời thuộc Pháp.
4.1.2.2. Hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại hóa nhanh
Tính hiện đại hóa thể hiện ở sự vượt trội về công năng sử dụng của các phương tiện
giao thông mới, tập trung vào hai phương tiện ở hai loại hình: ô tô trong giao thông
đường bộ và tàu bay trong giao thông hàng không. Tính vượt trội của tất cả các loại hình
giao thông hiện đại này đã phát huy tác dụng trên nhiều phương diện: (1) nâng cao năng
xuất và hiệu quả kinh tế vận chuyển hành khách, hàng hóa, nguyên vật liệu... trong cả
hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1897 – 1914 và 1919 – 1929); (2) Tạo
điều kiện tốt nhất cho việc liên kết nội vùng và liên vùng ở Nam Kỳ và Nam Kỳ với các
xứ khác ở Đông Dương và chính quốc. Cụ thể:
- Giao thông đường bộ
Năm 1903, lần đầu tiên xe hơi xuất hiện ở Nam Kỳ. Ngay sau đó, xe hơi dần trở
thành phương tiện di chuyển cá nhân. Đến năm 1914, xuất hiện xe đò (loại xe vừa chở
khách, vừa chở hàng), nhanh chóng trở thành loại hình phương tiện vận tải đường bộ
chính yếu, có năng lực vận chuyển cao. Tốc độ phát triển của xe hơi cùng hệ thống
145
đường bộ được mở rộng, trải đá, cán nhựa ở Nam Kỳ chính là biểu hiện tốc độ hiện đại
hóa của loại hình giao thông nà. Biểu hiện rõ nhất của tốc độ phát triển này là sự tăng
trưởng của giao thông đường bộ Nam Kỳ cao nhất Đông Dương. Nhờ đó, giao thông
đường bộ ở Nam Kỳ thay đổi diện mạo một cách triệt để, nâng cao khả năng liên kết nội
vùng và liên vùng, đặc biệt là phục vụ cho việc khai thác và vận chuyển hàng hóa xuất
nhập khẩu.
- Giao thông hàng không
Cũng trong thời kỳ này, tàu bay – loại hình phương tiện giao thông hiện đại nhất
xuất hiện lần đầu tiên ở Nam Kỳ vào năm 1903. Đó là mốc khởi đầu để ngành hàng
không phát triển nhanh chóng ở xứ thuộc địa này. Chỉ trong vòng 16 năm (tính từ năm
1917), Hàng không Đông Dương được thành lập, đến năm 1933 có chuyến bay đầu tiên
nối Paris – Sài Gòn – Hà Nội. Một ngành giao thông mới hình thành và đi vào hoạt động
với các tuyến bay xuyên Việt, liên Đông Dương, kết nối với khu vực và thế giới. Đi kèm
theo hoạt động đó là một cơ sở hạ tầng (sân bay, nhà ga, hệ thống đèn tín hiệu…) phục
vụ đảm bảo, an toàn cho loại hình giao thông hiện đại nhất này hoạt động. Sự hình thành
và phát triển nhanh chóng của loại hình giao thông đòi hỏi kỹ thuật cao nhất trong các
loại hình giao thông là một minh chứng cho tốc độ hiện đại hóa rất cao của hệ thống
giao thông ở Nam Kỳ và Đông Dương (entreprises-coloniales, 1929; Tạp chí kinh tế
vùng Viễn Đông, 1929; JOIF, 1917. J 1091. TTLTQG I).
- Giao thông đường thủy
Ở Nam Kỳ hệ thống sông ngòi, kênh rạch vừa là các tuyến giao thông thủy nội
vùng đồng thời còn là những công trình thủy nông rất hữu hiệu - công năng kép. Ngay
khi người Pháp đặt chân đến Nam Kỳ đã chủ trương khai thác triệt để yếu tố này. Hệ
thống giao thông này đã góp phần quan trọng tạo ra vùng chuyên canh sản xuất lúa nước
và vận chuyển về Sài Gòn – Chợ Lớn để xay xát rồi xuất khẩu qua Cảng Sài Gòn.
Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, vào năm 1922, Cảng Sài Gòn được hiện
đại hóa để nâng cao năng lực xuất – nhập cảng. Thiết bị kỹ thuật cũng được xây dựng và
lắp đặt tương ứng: “Ngoài các cầu tàu vững chắc, còn có 5 phao neo ở phía hữu ngạn.
Tàu thuyền neo đậu song song và cách bờ sông 80 m, có thể cất hàng cùng một lúc cả
hai bên bờ sông; phía tả có 11 phao, có thể đón những tàu lớn nhất và cũng có thể bốc
146
dỡ hàng ở cả hai bên bờ sông. Hệ thống cần cẩu cũng hiện đại hơn, gồm hai chiếc cố
định từ 6 đến 12 tấn, một chiếc di động 5 tấn, 6 chiếc chạy di chuyển bằng điện trên
đường ray loại 1,5 tấn và một cần cẩu nổi 50 tấn” (Nguyễn Đình Tư, 2016).
Từ những thông tin về xây dựng, phát triển và khai thác hệ thống giao thông thủy
như vậy, có thể khẳng định sự vượt trội về kỹ thuật trong cải tạo, xây dựng và khai thác
bằng cách hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, công cụ, phương tiện (thi công và vận chuyển).
Đặc biệt, việc khai thác ưu thế thuận thiên của mạng lưới sông ngòi, kênh rạch tạo ra
công năng kép theo hướng phát triển bền vững nhằm phục vụ hiệu quả nhất cho công
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ.
- Giao thông đường sắt
Đây là loại hình giao thông mới hoàn oàn ở Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu,
một hệ thống giao thông đường sắt nội đô và liên tỉnh, chạy bằng đầu máy hơi nước (về
sau nội đô chạy bằng tàu điện) được hình thành. Yếu tố hiện đại hóa trong xây dựng và
phát triển đường sắt (HS 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II) thể hiện
qua hai lĩnh vực sau:
Việc xây dựng hệ thống đường sắt nội đô, đặc biệt là đường sắt liên tỉnh tại (Sài
Gòn – Mỹ Tho) ở Nam Kỳ thực sự một thách thức về mặt kỹ thuật cầu đường. Trên các
tuyến đường sắt này, kỹ thuật làm đường phải khắc phục vấn đề nền đất yếu của miền
châu thổ nhiều sông, rạch. Trên toàn tuyến phải xây cầu vượt ba con sông: cầu Bình
Điền (qua sông Chợ Đệm), cầu Bến Lức (qua sông Vàm Cỏ Đông) và cầu Tân An (qua
sông Vàm Cỏ Tây). Trước khi xây cầu, toàn bộ đoàn tầu được vận chuyển bằng phà qua
các con sông trên. Tất cả những biện pháp thi công, trang thiết bị, phương tiện giao
thông… để xây dựng và vận hành tuyến đường sắt này đều sử dụng những kỹ thuật và
phương tiện vượt trội nhất, hiện đại nhất thời bấy giờ ở Nam Kỳ, Đông Dương và cả ở
chính quốc. Kết quả cụ thể:
Bảng 4.5 - Số lượng cầu/đường được xây dựng ở Nam Kỳ
Loại đường Số cầu Chiều dài
Quốc lộ, tỉnh lộ 71 2.516,70km
Đường hàng xã lớn 123 1.825,05km
147
Đường hàng xã 85 1.133,30km
Đường sắt 18 400,00km
Tổng cộng 297 5.875,05km
(Sách bổ trợ, NN. 695. TTLTQG II)
Sử dụng đầu máy hơi nước – sức kéo chủ lực của đường sắt, phương tiện biểu
tượng kỹ thuật hiện đại phương Tây thay sức kéo súc vật – phương thức vận tải lạc hậu.
Đây là lần đầu tiên một loại hình giao thông hiện đại, kỹ thuật cao của châu Âu xuất hiện
ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương. Đô đốc Dupré, Thống đốc Nam Kỳ đã từng nhận
xét: “Tại xứ này mà các con sông lại là các con đường lộ, việc các chiếc tàu chạy bằng
hơi nước sôi sẽ tạo ra một cuộc cánh mạng kinh tế giống như cuộc cách mạng xe hỏa.”
(Ngân Hàng Đông Dương, 2010).
Từ thông tin nói trên cho thấy, những yếu tố hiện đại hóa mang tính vượt trội trong
việc xây dựng và phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ đã có mặt ở cả 04 loại hình
giao thông. Và điều này gần như trở thành yếu tố đặc trưng của vùng đất này trong quá
trình hình thành và phát triển.
4.1.3. Hệ thống giao thông mới liên kết nội vùng, với toàn lãnh thổ Việt Nam
và Liên bang Đông Dương
Giao thông ở Nam Kỳ có sự liên thông mật thiết với hệ thống giao thông ở Trung
Kỳ, Bắc Kỳ, Campuchia và toàn Liên bang Đông Dương Đông Dương.
Giao thông đường bộ
Một hệ thống đường bộ kết nối từ Sài Gòn – trung tâm thương mại, sản xuất chế
biến đến các địa phương ở Đông và Tây Nam Kỳ (Báo cáo số: 871RA. Phông Nha Nông
lâm. TTLTQG I).
Trước hết là hệ thống đường quốc lộ bao gồm:
- Quốc lộ 1: từ Sài Gòn đến Tây Ninh (99 km);
- Quốc lộ 2: từ Sài Gòn đến Bà Rịa Đi qua sông Sài Gòn và sông Đồng Nai bằng
phà (92 km);
- Quốc lộ 3: từ Sài Gòn đến Sóc Trăng, đi qua Chợ Lớn, Gò Công, Mỹ Tho, Bến
Tre, Trà Vinh và Dai Ngai (210km);
148
- Quốc lộ 4: từ Sài Gòn đến Hà Tiên, đi qua Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh
Long, Sa Đéc, Long Xuyên và Châu Đốc (338km);
- Quốc lộ 5: từ Thủ Đức đến Thủ Dầu Một (21km);
- Quốc lộ 6: từ Thủ Dầu Một đến biên giới (129 km);
- Quốc lộ 7: từ Vĩnh Long đến Trà Vinh (57 km).
Các loại đường thuộc địa khác cũng đều kết nối từ Sài Gòn đến các địa phương của
Nam Kỳ và Đông Dương:
- Đường số 13 (dài 504 km) từ Sài Gòn đi Viêng Chăn, qua Lộc Ninh, Kratíe…;
- Đường số 14 (dài 646 km) từ Sài Gòn đi miền biển Trung Kỳ qua Lộc Ninh,
Đak Lak;
- Đường số 15 (dài 97,8 km) từ Sài Gòn đi Cap Saint Jacques (Vũng Tàu);
- Đường số 16 (dài 342 km) từ Sài Gòn đi Cà Mau, qua Cần Thơ, Sóc Trăng.
Bên cạnh đó, những tuyến đường hàng xứ nối các tỉnh với nhau. Riêng tại Nam Kỳ
còn có thêm các đường tỉnh, đường huyện, xã (tỉnh lộ, hương lộ…) (A.A.Pouyanne,
1926).
Giao thông đường thủy
Gần như tất cả hệ thống sông ngòi, kênh rạch được đào từ thời nhà Nguyễn đến
thời Nam Kỳ thuộc địa đều có ba hướng tuyến: (1) Hướng tuyến từ Sài Gòn đi các tỉnh
miền Đông, nhất là Tây Nam Kỳ và ngược lại; (2) Hướng từ các tỉnh Nam Kỳ, các xứ
của Đông Dương về Sài Gòn – Chợ Lớn qua cảng Sài Gòn để xuất ra nước ngoài; (3)
Hướng từ Đông Nam Kỳ, Sài Gòn – Chợ Lớn theo sông Mekong đi Camphuchia.
Các tuyến giao thông đường sông được phân loại thành những tuyến thuộc lợi ích
chung phục vụ khối lượng vận chuyển lớn và những tuyến phụ thuộc lợi ích địa phương
(A.A.Pouyanne, 1926). Theo phân loại như vậy, Nam Kỳ có 06 tuyến: (1) Mekong và
Bassac từ biên giới Campuchia ra tới biển; (2) Tuyến sông từ Sài Gòn, Thủ Dầu Một ra
biển; (3) Tuyến sông Vàm Cỏ Đông; tuyến nối sông Sài Gòn với sông Mekong; (4)
Tuyến Sài Gòn – Hà Tiên; tuyến Sài Gòn – vịnh Rạch Giá; tuyến Sài Gòn – Cà Mau; (5)
Tuyến Sài Gòn – Bạc Liêu; (6) Tuyến Rạch Giá – Cần Thơ.
Giao thông hàng không
149
Sau một thời gian chuẩn bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật, ngày 13/4/1929, tuyến bay đầu
tiên khởi hành từ Sài Gòn đến Phnom Penh. Đây là tuyến bay đầu tiên trong khu vực.
Sau đó, tuyến bay Sài Gòn - Hà Nội thực hiện vào ngày 18/5/1929.
Đến ngày 28/12/1933, tuyến bay Paris – Sài Gòn – Paris đến Sài Gòn. Đây là tuyến
bay quốc tế đầu tiên được thực hiện, nối Nam Kỳ với chính quốc.
Các hoạt động nói trên đã kết nối Nam Kỳ với các xứ trong Liên bang Đông
Dương, Đông Dương với khu vực, chính quốc và châu Âu (entreprises-coloniales, 1929;
Tạp chí kinh tế vùng Viễn Đông, 1929).
Giao thông đường sắt
Do điều kiện về địa hình và vốn đầu tư, qua 02 giai đoạn, thành tựu lớn nhất của
đường sắt là
Kết nối nội vùng (Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định);
Kết nối liên vùng (Sài Gòn - Mỹ Tho, Sài Gòn – Biên Hòa và Sài Gòn – Lộc
Ninh);
Kết nối liên vùng, xuyên Việt trong phạm vi 03 xứ của Việt Nam (Sài Gòn – Hà
Nội).
Do có đường sắt xuyên Việt, khả năng kết nối liên vùng của đường sắt cao hơn
đường thủy. Tuy nhiên do chỉ có những tuyến độc đạo nên khả năng kết nối nội vùng thì
kém hơn. Với giao thông đường bộ cũng gần như vậy. Song do mạng lưới đường bộ có
khả năng kết nối nội vùng, liên vùng và với các thành phần khác của Liên bang Đông
Dương linh hoạt hơn. Do vậy cần có sự kết hợp trong quy hoạch để các loại hình này
phối hợp với nhau tạo nên một thể thống nhất để kết nối nội vùng, liên vùng, trong nước
với nước ngoài một cách hiệu quả. 02 trung tâm điển hình ở Nam Kỳ là những ví dụ khá
điển hình:
Sài Gòn – Chợ Lớn kết nối miền Đông và miền Tây qua cả 04 loại hình giao thông
(đường sắt – thủy – bộ -hàng không);
Mỹ Tho, đầu mối của Tây Nam Kỳ kết nối với Sài Gòn – Chợ Lớn qua đường
thủy, đường sắt và đường bộ.
Với những đặc điểm nên trên, hệ thống giao thông ở Nam Kỳ đã tác động và ảnh
150
hưởng lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng - đối ngoại, không
chỉ ở Nam Kỳ mà trên phạm vi toàn quốc trong thời Pháp thuộc và cho đến ngày nay.
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐẾN ĐỜI SỐNG KINH
TẾ - XÃ HỘI Ở NAM KỲ
Cơ sở hạ tầng của một quốc gia được phân chia thành hai loại cơ bản là Cơ sở hạ
tầng kinh tế và Cơ sở hạ tầng xã hội. Trong đó, Cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm các công
trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống
và các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy,
đường hàng không), bưu chính - viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp… được gọi là hạ tầng kỹ thuật. Như vậy, Cơ sở hạ tầng kinh tế
- trong đó có hệ thống giao thông (một phần trong hạ tầng kỹ thuật) là cơ sở đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển nhanh
hơn, tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư.
4.2.1. Tác động của hệ thống giao thông đối với sự phát triển kinh tế
Theo góc nhìn của Kinh tế học phát triển, hệ thống giao thông là công cụ hoạt động
sản xuất của một ngành dịch vụ, tham gia vào việc cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên
liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản phẩm đến thị trường tiêu thụ, giúp
cho các quá trình sản xuất xã hội diễn ra liên tục. Hệ thống giao thông phục vụ nhu cầu
đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được thuận tiện (Phan Thúc Huân,
2006).
Các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện nhờ mạng lưới
giao thông vận tải. Vì thế, những nơi nằm gần các tuyến vận tải lớn hoặc các đầu mối
giao thông cũng là những nơi tập trung các ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư. Nhờ hoàn
thiện kỹ thuật, mở rộng cự li vận tải, tăng tốc độ vận chuyển mà các vùng xa xôi về mặt
địa lý cũng trở nên gần nhau. Những tiến bộ của ngành vận tải đã có tác động to lớn làm
thay đổi sự phân bố sản xuất và dân cư.
Hoạt động giao thông vận tải phát triển góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn
hoá, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất
nước và tạo nên mối giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền và các nước trên thế giới.
Như vậy, về cơ bản, cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Nam Kỳ thông qua việc hình thành và
151
phát triển hệ thống giao thông kết hợp với hoạt động đô thị hóa ở Nam Kỳ như Sài Gòn,
Chợ Lớn, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một,… đã góp phần đắc lực cho việc hình thành, phát triển
kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu của Nam Kỳ và Đông Dương. Hệ thống giao thông
Nam Kỳ thời thuộc Pháp có những tác động quan trọng hình thành một nền sản xuất
hàng hóa mang tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa, mang tính thị trường – dấu
hiệu của nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Cụ thể:
4.2.1.1. Xây dựng các công trình giao thông lớn, có tác dụng phát triển kinh tế -
xã hội
Xây dựng Cảng Sài Gòn năm 1860;
Xây dựng gần 5.000 km đường sắt bao gồm hệ thống đường sắt nội đô Sài Gòn –
Chợ Lớn – Gò Vấp – Lái Thiêu (tramways) (1880 – 1913), có tổng chiều dài hơn gần
30km; tuyến xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho dài gần 71km (1880 - 1883); tuyến Sài Gòn – Lộc
Ninh (1927- 1933) dài 86 km; Tuyến Sài Gòn – Biên Hòa 89km;
Nâng cấp và hình thành mới hệ thống đường bộ với 07 quốc lộ, được phân bố ở
khắp lục tỉnh Nam Kỳ có chiều dài 946 km, trong đó có 423km rải đá còn lại là đổ đất và
nền đất tự nhiên;
Nâng cao năng lực vận chuyển và phục vụ canh tác lúa nước bằng việc cải tạo và
đào mới hệ thống kênh – rạch ở Tây Nam Kỳ, tạo điều kiện nối trung tâm sản xuất lúa
nước lớn nhất với Sài Gòn – Chợ lớn là trung tâm xay xát và xuất khẩu. Việc đào mới hệ
thống kênh – rạch bằng xáng vận hành máy hơi nước tạo đã năng xuất đào đắp cao gấp
nhiều lần so với phương pháp thủ công thời phong kiến là chìa khóa để mở đường vào
vùng đất này. Từ đó, tạo ra một cuộc cách mạng kinh tế giống như cuộc cách mạng xe
hỏa khi đưa vào sử dụng các chiếc tàu chạy bằng hơi nước sôi (Ngân Hàng Đông
Dương, 2010). Về lĩnh vực này, A.A Pouyanne - Tổng Thanh tra Công chính Đông
Dương đã đánh giá: các công trình thủy nông đem lại thặng dư đáng kể cho vùng đất
được xây dựng công trình, nhất là với kênh rạch ở Nam Kỳ. Con số thống kê ấn tượng
trong gần 40 năm (1886 – 1925) về lợi ích trực tiếp từ hệ thông kênh đào mà người đứng
đầu ngành công chính ở xứ thuộc địa này đưa ra là: Diện tích khai hoang đưa vào sử
dụng 1.200.000 ha đất trồng lúa góp phần tăng nhanh lượng lúa xuất khẩu 20.000 tấn
mỗi năm. Điều này đã tạo ra giá trị lớn từ giá đất (160 triệu francs với sản lượng lúa
152
800.000 tấn/năm) và thặng dư về vốn đem lại cho đất hơn ba lần chi phí bỏ ra và lợi tức
hàng năm lên tới 167% chi phí (A.A Pouyanne, 1926).
Khi nhận xét về vai trò của kênh rạch ở Nam Kỳ, Đô đốc Dupré, Thống đốc Nam Kỳ12 đã từng nhận xét: “Tại xứ này mà các con sông lại là các con đường lộ, việc các
chiếc tàu chạy bằng hơi nước sôi sẽ tạo ra một cuộc cánh mạng kinh tế giống như cuộc
cách mạng xe hỏa” (Ngân Hàng Đông Dương, 2010). Do vậy, kênh đào ở miền Tây
Nam Kỳ vừa nhằm mở rộng giao thông, vừa nhằm mục đích thủy lợi, đẩy mạnh khai
hoang, là biện pháp tốt nhất để mở mang vùng đất Tây Nam Kỳ. Năm 1876 trong tờ
trình lên Thống đốc Nam Kỳ, Kỹ sư Bernabeng đã viết: “Không có kênh giao thông thì
không có thuộc địa vì an ninh đi đôi với giao thông thuỷ”.
Trong hoạt động quản lý các công trình giao thông công chính ở Đông Dương,
A.A Pouyanne đã phân chia các công trình công chính làm 03 loại rất rõ ràng, khoa học
cụ thể như sau:
Loại thứ nhất, các công trình đem lại những lợi ích trực tiếp làm tăng ngay năng
xuất của vùng đất được xây dựng công trình;
Loại thứ hai, các công trình đem lại những lợi ích gián tiếp. Nó gồm những công
trình giữ một vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế của Liên bang Đông Dương ;
Loại thứ ba, là các công trình không đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của Liên bang
Đông Dương mà là kết quả của sự phát triển và những nghĩa vụ xã hội.
Từ cách phân chia này cho thấy, tất cả các công trình giao thông đều tập trung giải
quyết hay thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế thương mại. Do vậy, trên cơ sở kết quả
của sự hình thành và phát triển hệ thống giao thông – một phần kết cấu hạ tầng thương
mại ở Nam Kỳ thuộc địa giai đoạn trước 1945 như trên đã cho thấy:
1) Ngay từ đầu, khi chưa hoàn thành việc chiếm đóng hoàn toàn Nam Kỳ, thực dân
Pháp đã thực hiện các bước đi ban đầu mang tính tiên quyết, “đi trước một bước” khi
xây dựng và đưa vào khai thác Cảng Sài Gòn – đầu mối giao thương …;
2) Việc hình thành sớm nhất, nhanh nhất với những khoản đầu tư lớn của tư bản ở
chính quốc cho hệ thống đường sắt từ Sài Gòn nối với Chợ Lớn (vùng xay xát, lúa gạo)
12 Chuẩn đô đốc Marie Jules Dupré (1813-1881), Thống đốc Nam Kỳ từ tháng 4/1871 – tháng 3/1874
và với Mỹ Tho – điểm đầu và cũng là trung tâm trung chuyển thủy - bộ giữa vùng sản
153
xuất lúa gạo ở Tây Nam Kỳ với khu vực chế biến và xuất khẩu.
Chính từ những tác động của hệ thống giao thông mới nói trên đã làm biến đổi cơ
cấu kinh tế Nam Kỳ trong thời kỳ này. Có thể xem xét những tác động nói trên qua các
hoạt động chủ yếu gồm: Sản xuất nông nghiệp; Sản xuất công nghiệp; Kinh tế thương
mại xuất – nhập khẩu.
4.2.1.2. Tác động từ sản xuất nông nghiệp
Trong Thông tư gửi Toàn quyền các thuộc địa năm 1894, Delcassel, Bộ trưởng Bộ
Thuộc Địa đã chỉ thị: “Khai thác những vùng lãnh thổ rộng lớn mà chúng ta đã chiếm
được, thiết lập ở đó các đồn điền, phát triển sức sản xuất của thuộc địa bằng chính con
đường đó phát triển mối quan hệ thương mại với chính quốc...” (Cahier des colons de
lndochine, 1907).
Thực tế, thực dân Pháp đã biến Nam Kỳ thành vùng nguyên liệu - sản xuất lúa gạo,
mặt hàng chủ yếu nhất của kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu phục vụ nhu cầu kiếm
lời của cả Đông Dương.
- Đối với Nông nghiệp lúa nước.
Hoạt động kinh tế nông nghiệp ở Nam Kỳ phát triển mạnh nên sản lượng lúa xuất
khẩu gia tăng đáng kể. Năm 1870 diện tích canh tác ở Nam Kỳ là 522.000 ha, sản lượng
gạo xuất khẩu là 229.000 tấn; Năm 1910 (sau 40 năm), diện tích canh tác đã tăng gần
gấp ba lần (1.528.000 ha), sản lượng gạo xuất khẩu tăng gần năm lần (1.109.000 tấn).
Xét trên tổng thể, mặt hàng lúa gạo xuất khẩu ở Đông Dương cho thấy, Nam Kỳ
luôn sản xuất trung bình trên dưới một nửa tổng sản lượng lúa trong toàn Liên bang
Đông Dương (Jean – Pierre Aumiphin, 1994). Số liệu mà J.P. Aumiphin trong tác
phẩm Sự hiện diện tài chính và kinh tế Pháp ở Đông Dương (1859 - 1939) đã thống kê
được: Năm 1900, sản lượng lúa ở Nam Kỳ là 1.500.000 tấn trên tổng số 4.300.000 tấn
của toàn Đông Dương (chiếm 35%) thì đến năm 1913 con số này tăng lên 1.993.000
tấn trên tổng số 4.718.000 tấn (chiếm 42%). Trong số liệu trên, các tỉnh Rạch Giá,
Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh giữ vai trò quan trọng tạo nên vựa lúa Nam
Kỳ.
Điều này cho thấy, gắn liền với tốc độ gia tăng diện tích canh tác và sản lượng
lúa gạo là sự hình thành các công trình thủy nông (kênh đào) ở Nam Kỳ, vừa phục vụ
154
cho sản xuất nông nghiệp, vừa cho giao thông. Do đó, sản xuất lúa gạo là nguồn chính
yếu mang lại nhiều lợi ích cho tư bản Pháp mà vốn đầu tư ít.
Bảng 4.6 - Phân bố vùng và năng lực sản xuất lúa (ha) ở vùng trọng điểm Tây
Nam Kỳ giai đoạn 1873 – 1930
Tỉnh 1873 1880 1890 1900 1910 1920 1930
Bà Rịa 9.100 7.131 7.165 7.863 11.938 12.929 13.748
Biên Hòa 2.525 27.362 27.466 25.177 26.317 31.144 34.000
Thủ Dầu Một 806 11.027 12.047 13.972 13.110
Tây Ninh 904 11.726 11.587 1.046 26.533 30.200 45.000
Bến Tre 23.670 72.502 73.687 84.225 104.237 100.500 110.203
Chợ Lớn 37.340 56.114 56.614 68.231 82.103 93.923 91.083
Gia Định 9.110 39.697 39.845 63.641 65.662 56.227 58.085
Gò Công 28.146 37.041 37.118 56.950 43.016 46.523 49.860
Mỹ Tho 34.238 84.751 84.804 91.748 126.648 139.255 154.662
Trà Vinh 20.086 84.751 84.804 91.748 126.648 139.255 154.662
Vĩnh Long 28.784 70.111 70.138 77.631 89.937 85.507 90.074
Châu Đốc 2.963 10.313 10.183 19.139 55.967 111.637 114.925
Long Xuyên 10.414 40.812 41.860 45.371 70.715 131.442 186.049
Tân An 23.858 35.172 39.278 50.649 46.700 60.857 114.000
Hà Tiên 152 309 1.182 1.434 2.500 3.987
Sa Đéc 17.000 48.715 50.657 75.840 86.345 92.700 95.355
Cần Thơ 19.432 82.393 83.880 124.588 132.102 202.117 205.000
Sóc Trăng 4.368 74.156 87.117 158.439 176.560 188.131 212.909
Bạc Liêu 18.983 23.830 51.538 79.993 176.778 330.030
Rạch Giá 1.501 1.849 84.813 185.079 228.478 358.900
(Trần Thị Mai, 1998)
155
Bảng 4.7 - Số liệu thống kê Sản lượng lúa gạo, theo mùa/vụ ở các tỉnh Nam Kỳ
trong 05 năm (1932 – 1937)
Tỉnh Mùa vụ 1932 -1933 Mùa vụ 1933 -1934 Mùa vụ 1934 -1935 Mùa vụ 1935 -1936 Mùa vụ 1936 -1937
Bạc Liêu 172.700 210.000 244.000 206.837 207.171
Bà Rịa 7.822 8.400 8.607 8.210 9.800
Bến Tre 142.481 135.136 140.000 156.572 141.579
Biên Hòa 20.147 21.104 23.380 14.642 20.050
Cần Thơ 250.000 237.622 200.000 252.379 247.096
Châu Đốc 120.300 85.011 110.000 107.000 132.166
Chợ Lớn 83.000 156.120 105.420 110.640 101.155
Gia Định 51.547 65.275 66.769 58.376 63.258
Gò Công 36.322 70.000 52.000 71.027 63.072
Hà Tiên 1.643 2.887 3.091 3.708 3.678
Long Xuyên 156.007 167.349 210.000 232.000 241.774
Mỹ Tho 152.000 181.000 145.387 177.614 230.000
Rạch Giá 150.000 192.222 247.000 279.600 252.460
Sa Đéc 106.000 97.300 82.500 97.283 105.785
Sóc Trăng 122.064 179.188 204.886 242.483 176.995
Tân An 70.340 87.376 73.630 85.000 80.537
Tây Ninh 34.000 45.000 40.000 36.000 37.000
Thủ Dầu Một 13.000 15.170 14.250 12.790 10.930
Trà Vinh 170.251 180.000 218.000 203.000 175.565
Vĩnh Long 90.000 111.000 100.000 92.745 113.699
(Dư địa chí các tỉnh Miền Tây năm 1937s, hồ sơ số E.02-74. TTLTQG II); Jean – Pierre Aumiphin, 1994)
156
Tất cả số lúa được sản xuất nói trên phải nhờ đến hệ thống giao thông (chủ yếu
là giao thông thủy) vận chuyển từ Tây Nam Kỳ về Sài Gòn – Chợ Lớn xay xát, chế
biến thành gạo xuất khẩu. Cảng Sài Gòn là đầu mối duy nhất ở Nam Kỳ xuất khẩu
loại hàng hóa này. Điều đó cho thấy vai trò của hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng
kỹ thuật của nó trong việc phát triển kinh tế Nam Kỳ và Đông Dương. Các số liệu sản
xuất lúa nước nói trên ở Tây Nam Kỳ cho thấy năng lực vận chuyển của hệ thống giao
thông Nam Kỳ. Đó là mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa sản lượng lúa nước với năng lực và
sự phát triển của hệ thống giao thông Nam Kỳ.
- Phát triển cây cao su
Trong hoạt động phát triển cây công nghiệp, hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (nhất
là đường sắt và đường bộ) cũng có vai trò quan trọng.
Cây cao su là một trong những loại cây được thực dân Pháp chú trọng để phát triển
vì lợi nhuận cao, chỉ sau lúa gạo. Các đồn điền trồng loại cây này nằm ở sâu trong những
vùng rừng núi của Đông Nam Bộ. Muốn hình thành, hoạt động và vận chuyển thành
phẩm mủ cao su để xuất khẩu, các đồn điền cao su tại vùng này phải sử dụng đến hệ
thống giao thông, trước là ô tô của giao thông đường bộ và sau là đường sắt tuyến Sài
Gòn – Lộc Ninh.
Cũng từ kết quả nói trên đã góp phần nâng cao vai trò của hệ thống giao thông ở
Đông Nam Kỳ như:
- Với đường bộ
Để tạo điều kiện cho tư bản Pháp vào khai thác vùng đất Bazan khu vực miền
Đông Nam Bộ. Ngoài những con đường nhỏ có sẵn, thực dân Pháp đã cho mở thêm
Quốc lộ 1: từ Sài Gòn đến Tây Ninh (99 km); Quốc lộ 6: từ Thủ Dầu Một đến biên giới
(129 km) Đường số 13 (dài 504 km) từ Sài Gòn đi Viêng Chăn, qua Lộc Ninh; Đường số
14 (dài 646 km) từ Sài Gòn qua Lộc Ninh, Đak Lak ra Trung Kỳ (A.A.Pouyanne, 1926).
- Với đường thủy
Gần như tất cả hệ thống sông ngòi, kênh rạch kênh rạch được đào từ thời nhà
Nguyễn đến thời Nam Kỳ thuộc địa đều có ba hướng tuyến: Hướng tuyến từ Sài Gòn đi
các tỉnh Đông và nhất là Tây Nam Kỳ và ngược lại; Hướng tuyến từ các tỉnh Nam Kỳ,
các xứ của Đông Dương về Sài Gòn – Chợ Lớn qua cảng Sài Gòn để xuất ra nước ngoài;
157
Hướng tuyến từ Đông Nam Kỳ, Sài Gòn – Chợ Lớn theo sông Mekong đi Camphuchia.
Các tuyến giao thông đường sông được phân loại: những tuyến thuộc lợi ích chung
phục vụ khối lượng vận chuyển lớn và những tuyến phụ thuộc lợi ích địa phương
(A.A.Pouyanne, 1926). Nam Kỳ có các tuyến Mékong và Bassac từ biên giới
Campuchia ra tới biển; tuyến sông từ Sài Gòn, Thủ Dầu Một ra biển; tuyến sông Vàm
Cỏ Đông; tuyến nối sông Sài Gòn với sông Mékong; tuyến Sài Gòn – Hà Tiên; tuyến Sài
Gòn – vịnh Rạch Giá; tuyến Sài Gòn – Cà Mau; tuyến Sài Gòn – Bạc Liêu; tuyến Rạch
Giá – Cần Thơ.
- Với đường sắt
Tuyến Sài Gòn - Lộc Ninh (1927- 1933) đi từ Sài Gòn - Thủ Dầu Một –
Bendongso - Lộc Ninh với chiều dài toàn tuyến 86km. Tuyến đường sắt này chủ yếu
cũng chỉ chuyên chở mủ cao su, lương thực, thực phẩm và chở công nhân từ đồn điền
miền Đông Nam Kỳ về Sài Gòn và ngược lại. Đến năm 1937, sáp nhập vào hệ thống hỏa
xa Đông Dương thành tuyến đường sắt Sài Gòn – Lộc Ninh (Nguyễn Thị Thanh Tâm,
2012).
Với sự hỗ trợ quan trọng của hệ thống giao thông, các đồn điền cao su ở Nam Kỳ
phát triển nhanh chóng đã tạo ra một giá trị kinh tế xuất khẩu lớn. Giá trị hàng cao su
xuất khẩu ngày càng chiếm tỉ trọng lớn bên cạnh tỉ trọng của mặt hàng lúa gạo trong
tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Đông Dương: năm 1936 chiếm 14,3%; năm 1937:
18%. Giá trị xuất khẩu của ngành cao su năm 1929 là 11.000.000 Francs đến năm 1939
tăng lên 96.000.000 Francs (Tập san cao su Việt Nam, số 58-59, tháng 9/10/1997).
Tính từ khi cây cao su được đưa vào miền Đông Nam Kỳ (năm 1911) đến năm
1945, diện tích cây cao su được trồng trên 140.000 hecta và 80.000 tấn sản lượng (Tập
san cao su Việt Nam, số 58-59, tháng 9/10/1997) và năm 1939, 19 công ty cao su Đông
Dương thu được 309.000.000 francs tiền lãi, trong khi đó tổng số tiền lương của công
nhân trong 19 công ty không đến 40.000.000 francs (Huỳnh Lứa, 1993).
Sự phát triển nhanh chóng của các đồn điền cao su ở Nam Kỳ đã tạo ra một giá
trị kinh tế xuất khẩu lớn sau xuất khẩu lúa gạo trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu
của Đông Dương. Bảng 4.8 và Biểu đồ 4.1. thể hiện rõ nhưng kết quả này:
158
Bảng 4.8 - Thống kê diện tích và sản lượng cao su ở Nam Kỳ (1920 – 1945)
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năm
70.007 1920 3.000
73.100 1925 8.000
80.000 1930 14.000
97.300 1935 35.000
104.100 1940 58.000
138.400 1945 77.400
(Tập san cao su Việt Nam, số 58-59, tháng 9/10/1997)
Biểu đồ 4.3 - Diện tích và sản lượng cao su ở Nam Kỳ (1920 – 1945)
(Tập san cao su Việt Nam, số 58-59, tháng 9/10/1997)
4.2.1.3. Tác động từ sản xuất công nghiệp
Ngày 22/3/1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã trình một chương trình
hành động lên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp nhằm mục đích tối thượng là khai thác
thuộc địa ở Việt Nam nhằm bảo đảm thu được lợi ích cao nhất cho thực dân Pháp cả ở
mẫu quốc lẫn ở thuộc địa (Paul Doumer, 1905). Chính sách khai thác thuộc địa ở Đông
Dương theo chương trình này tập trung vào hai hoạt động chính là Tổ chức một nền sản
xuất (công nghiệp, nông lâm nghiệp) của thuộc địa chỉ nhằm cung ứng cho chính quốc
nguyên liệu, sản phẩm mà nước Pháp không có với giá thật thấp và sản xuất công nghiệp
chỉ phát triển trong giới hạn bổ sung, hỗ trợ với tư cách là công cụ, phương tiện để tiến
159
hành khai thác thuộc địa và mang lợi về chính quốc mà không phương hại đến công
nghiệp chính quốc. Do vậy, ở Nam Kỳ, sản xuất công nghiệp tập trung vào các lĩnh vực:
Duy tu, bảo trì, sửa chữa các phương tiện, cơ sở hạ tầng đường sắt và cảng biển, giao
thông phục vụ hoạt động vận chuyển hàng hóa của kinh tế thương mại xuất - nhập khẩu;
Các cơ sở chế biến nông hải sản: xay xát lúa, sơ chế cao su, tiêu… phục vụ xuất khẩu;
Các cơ sở phục vụ hoạt động sản xuất mang tính dịch vụ: nhà máy điện (thắp sáng, vận
hành tàu điện, sơ chế nông hải sản…).
Với các cơ sở chế biến
Thống kê theo Annuaire général de l'Indo-Chine française (Niên giám Đông Pháp),
vào năm 1914 có 09 nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước. Tất cả các nhà máy trên nằm
ở dọc theo bến sông và kênh để dễ dàng tiếp nhận tàu mang lúa từ miền Tây,
Camphuchia. Sau khi xay xát xong, gạo được đóng vào bao và mang xuống tàu chở ra
cảng Sài Gòn để xuất khẩu đến các thị trường như Trung Quốc, Singapore, Java và
Manila... hoặc mang đi phân phối bán trong toàn Đông Dương (Annuaire général de
l'Indo-Chine française, 1918).
Các cơ sở sản xuất và phục vụ sản xuất
Công nghiệp phục vụ nhu cầu hoạt động sản xuất, chế biến như: cung cấp điện
cho các nhà máy xay xát lúa gạo, sơ chế mủ cao su… và các hoạt động khác liên quan
đến việc khai thác xuất khẩu cao su, tiêu… Các cơ sở phục vụ các nhu cầu vận hành
(xe điện tramwas), bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện giao thông như tàu hỏa, ô tô, tàu
thuyền… và vận hành xe điện (tramways).
Các cơ sở công nghiệp này quy mô đều dưới dạng nhỏ lẻ, sản xuất dạng tiểu thủ
công nghiệp, không có khả năng cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại nhập từ
chính quốc. Tuy nhiên, dù nhỏ lẻ, thủ công, lạc hậu, các cơ sở này cũng có mối quan
hệ mật thiết, không thể thiếu được với hệ thống giao thông ở Nam Kỳ. Mối quan hệ
này có tác dụng tương hỗ để cùng phát triển và có tác động quan trọng đến sự biến đổi
và tăng trưởng kinh tế của Nam Kỳ và Đông Dương.
4.2.1.4. Tác động từ kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu
Một trong những công cụ chủ yếu và cũng là hoạt động thể hiện rõ nhất bản chất và
sự hiện diện của thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Việt Nam là hoạt động vơ vét tài nguyên
160
của thuộc địa mang về hoặc bán đi để thu lợi cho chính quốc. Hoạt động kinh tế thương
mại xuất – nhập khẩu là sự cụ thể hóa mục đích thực dân ấy. Hoạt động này phát triển
được bắt buộc phải nhờ đến hệ thống giao thông ở Nam Kỳ. Có lẽ, hoạt động này chính
là yếu tố “mới” nhất, yếu tố làm thay đổi cơ cấu kinh tế, tính chất thị trường, vượt khỏi
cái áo của nền kinh tế tự cung tự cấp trước đây của Nam Kỳ và Việt Nam thời nhà
Nguyễn với chủ trương “ức thương”, “bế quan tỏa cảng”. Cũng chính hoạt động này đã
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ mà việc thành
lập Cảng Sài Gòn (1860) và việc cải tạo giao thông thủy ở Tây Nam Kỳ ngay khi chưa
hoàn tất việc xâm chiếm vùng đất này là một ví dụ điển hình.
Ở giai đoạn đầu và cả một phần về sau, hoạt động kinh tế thương mại xuất – nhập
khẩu ở Nam Kỳ phát triển đầu tiên và trước hết nhờ sự hình thành và hoạt động hiệu quả
của hệ thống giao thông thủy - bộ, nhất là cảng biển (Cảng Sài Gòn). Có thể xem hoạt
động kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp trước năm 1945
chịu tác động trực tiếp và lớn nhất từ hệ thống giao thông mới của Nam Kỳ là yếu tố
quan trọng làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở Nam Kỳ giai đoạn này. Chính thực dân Pháp đã
thể hiện rất rõ điểu này khi họ cho thấy muốn dùng lợi nhuận từ Nam Kỳ để tài trợ
kinh phí cai trị Bắc và Trung Kỳ thay vì chính quốc phải chi thêm để trang trải
(PierreBrocheux – Daniel Hémery, 2009).
Đầu mối và cũng là một yếu tố quan trọng quyết định vai trò và vị trí của Nam Kỳ
trong hoạt động kinh tế thương mại xuất - nhập khẩu nói trên là Cảng Sài Gòn - cảng lớn
trên sông thông ra biển (cách đất liền 81 km). Nằm ở phía Nam bán đảo Đông Dương,
cảng Sài Gòn như một điểm hội tụ của những hệ thống thủy vận nối Đông Dương với
Đông Á, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á và Châu Âu. Do vậy, Cảng Sài Gòn trở
thành đầu mối giao thương cho cả Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương.
Cũng từ những lợi thế trên, hoạt động kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu qua
Cảng Sài Gòn đã mang lại những hiệu quả làm biến đổi kinh tế Nam Kỳ, cụ thể như sau:
- Làm thay đổi cán cân ngoại thương của Nam Kỳ nghiêng về phía xuất khẩu, chủ
yếu là sản phẩm như lúa, gạo, ngô, hạt tiêu và một loại cây trồng mới là cao su;
- Hòa nhập vào thị trường thế giới, riêng Nam Kỳ đã trở thành nơi xuất khẩu gạo
161
vào hàng nhất nhì thế giới lúc bấy giờ13;
- Phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và công nghiệp đều bị thu hút mạnh vào nhu cầu xuất khẩu cho thị trường bên ngoài và
chính quốc. Luồng hàng hóa xuất - nhập qua cảng Sài Gòn ra, vào Nam kỳ cho thấy:
nông nghiệp bị thu hút mạnh vào sản xuất mang tính hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu.
Thông qua hệ thống giao thông thủy - bộ mới với năng lực vận chuyển cao hoạt
động kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu và thông qua hoạt động đầu tư, khai thác của
thực dân Pháp ở thời kỳ này, yếu tố tư bản chủ nghĩa đã bước đầu du nhập vào Nam Kỳ.
Đó là quỹ đạo sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất tiến bộ của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về các mặt hàng xuất khẩu, có thể khẳng định, đứng đầu trong các mặt hàng xuất
khẩu vẫn là lúa gạo. Lượng gạo xuất khẩu của Đông Dương nói chung và Nam Kỳ nói
riêng đã tăng lên rất nhiều và đã vượt qua mức 1.000.000 tấn/năm. Trong thời kỳ từ năm
1899 – 1903, Đông Dương xuất khẩu trung bình mỗi năm 809.000 tấn gạo và các sản
phẩm phụ từ gạo; thời kỳ từ năm 1919 –1923 tăng lên 1.331.000 tấn. Đến những năm
1933 – 1937 đã là 1.582.000 tấn là một minh chứng cho năng lực xuất khẩu của Cảng
Sài Gòn và năng lực vận chuyển của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (Nguyễn Văn
Khánh, 2004). Số lượng gạo và các loại mặt hàng khác xuất qua Cảng Sài Gòn được ghi
nhận như sau:
Bảng 4.9 - Khối lượng một số mặt hàng xuất khẩu của Đông Dương (1914 – 1938)
(tính theo tấn)
Năm Gạo Ngô Cao su Chè Cà phê
1914 – 1918 1.264.200 43.700 520 850 235
1919 – 1923 1.123.000 27.700 4.010 560 649
1924 – 1928 1.387.000 69.135 8.600 934 465
1929 – 1933 1.134.800 166.600 13.400 691 258
1934 – 1938 1.526.400 495.000 38.800 1.560 400
13 Địa vị Việt Nam trong xuất khẩu thóc gạo (chủ yếu là của Nam Kỳ) là đứng hàng thứ nhì thế giới, sau Miến Điện và trên Thái Lan
(Lê Huỳnh Hoa, 2003)
162
Bảng 4.10 - Giá trị hàng hóa Nam Kỳ xuất khẩu qua Cảng Sài Gòn
Tên mặt hàng xuất khẩu 1913 – 1917 1932 – 1936
Gạo và các sản phẩm từ gạo 65,3 49,2
2,9 14,0 Ngô
0,8 8,4 Cao su
2,1 5,6 Than
3,7 4,7 Cá khô
1,0 1,4 Hạt tiêu
1,2 1,0 Da khô
(Phạm Quang Nghị, số 6/1985 ; Nguyễn Văn Khánh, 1999)
Qua bảng và biểu đồ trên cho thấy, khối lượng mặt hàng chủ lực xuất khẩu nói trên
qua Cảng Sài Gòn cho thấy, việc thu gom lúa gạo ở Nam Kỳ để xuất khẩu được tư bản
Pháp thực hiện với cường độ ngày càng cao. Lúa gạo Nam Kỳ không chỉ có mặt ở Pháp
và các nước châu Âu, mà còn xuất sang cả châu Mỹ và một loạt nước châu Á như Trung
Hoa, Nhật Bản, Singapore, Ân Độ. Từ năm 1886, trung bình mỗi năm Nam Kỳ xuất hơn
nửa triệu tấn gạo, chiếm 75% tổng giá trị xuất khẩu (Lê Hữu Phước, 2013). Điều đó
càng minh chứng vai trò quan trọng của hệ thống giao thông Nam Kỳ và Cảng Sài Gòn.
Từ các hoạt động xuất khẩu trên cho thấy, cán cân thương mại xuất khẩu của Nam
Kỳ lúc này nghiêng hẳn về phía xuất khẩu; sản phẩm chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp
như lúa, gạo, ngô, hạt tiêu và một loại cây trồng mới là cao su. Việt Nam bắt đầu hòa
nhập vào thị trường thế giới, riêng Nam Kỳ đã trở thành nơi xuất khẩu gạo lớn của thế
giới lúc bấy giờ với quan hệ bạn hàng rộng rãi không chỉ với nước Pháp mà với cả các
nước trong và ngoài khu vực.
Thông qua các mặt hàng xuất khẩu, thông qua hoạt động đầu tư, khai thác của thực
dân Pháp, hoạt động kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu như trên cho thấy, yếu tố tư
bản chủ nghĩa đã bước đầu du nhập vào Nam Kỳ. Đó là những yếu tố ban đầu của một
nền sản xuất hàng hóa manh nha hình thành và phát triển mà “chìa khóa”, công cụ có
tính tiên quyết là hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng kỹ thuật – Cảng Sài Gòn và hệ
163
thống cảng ven kênh rạch vùng Sài Gòn – Chợ Lớn. Tuy quy mô, mức độ và phạm vi
ảnh hưởng chưa lớn nhưng ít nhiều đã có sự chuyển biến theo xu hướng mới, hướng nền
kinh tế Nam Kỳ vào một quỹ đạo sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Điều đó là những
điều kiện thuận lợi để Nam Kỳ có thể du nhập và phát triển phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn mang tính khách quan, nằm ngoài ý muốn chủ quan của
thực dân Pháp.
4.2.2. Tác động của hệ thống giao thông đến xã hội Nam Kỳ
Khi nói đến những biến đổi của cơ cấu xã hội Nam Kỳ thuộc địa trước năm 1945,
trước hết phải nói đến những tác động làm biến đổi các giai tầng của xã hội, quan hệ sản
xuất và các mối quan hệ xã hội, chính trị, đạo đức, pháp lý của xã hội Nam Kỳ giai đoạn
này. Cơ sở hạ tầng (trong đó có cơ sở hạ tầng giao thông, một phần của cơ sở hạ tầng kỹ
thuật) có vai trò quan trọng trong việc làm biến đổi cơ cấu xã hội trong đó có những tác
động của hệ thống giao thông mới làm thay đổi cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp, thương
mại xuất – nhập khẩu của Nam Kỳ giai đoạn 1919 – 1945. Ngay Toàn quyền Paul
Doumer và Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương A.A.Pouyanne cũng đã khẳng định
tác động của phát triển kinh tế thông qua sự đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ở
Nam Kỳ và Việt Nam đã “…mang lại cho Đông Dương một công cụ lớn về kinh tế,
đường sắt, cầu đường, cảng phục vụ cho việc khai khẩn” và “…lợi nhuận thu được ít
trên hệ thống đường sắt Đông Dương về phương diện tài chính không phải do xứ này
nghèo và không đủ hàng hóa để chở, cũng không phải do việc khai thác tốn kém mà
chính bởi giá cước rất hạ, …các khoản thu không trực tiếp vào quỹ của đường sắt, trong
khi ấy lại vào các khoảng mục khác của các ngân sách bằng một sự việc độc nhất là gia
tăng hoạt động kinh tế do việc vận chuyển của đường sắt tạo ra.” (Paul Doumer, 1905 ;
A.A.Pouyanne, 1926).
Chính từ luận điểm nói trên, thực tế lịch sử được ghi nhận qua tài liệu lưu trữ của
Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Toàn quyền Đông Dương và của chính phủ Pháp14 ở chính quốc
đã cho thấy một số vấn đề sau:
- Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông mới, hiện đại chỉ nhằm để phục
14 Kho Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại Pháp thuộc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại Pháp (Archives nationales d’Outre- mer, ANOM) trong dự án thuộc đại học Aix-en-Provence (thường gọi là Lưu trữ Aix-en-Provence)
vụ khai thác và xuất khẩu kiếm lời của tư bản Pháp. Những tác động đó trực tiếp và rõ
164
nhất, tạo ra những thay đổi lớn nhằm phát triển vùng sản xuất tạo nguồn cung hàng hóa
xuất - nhập khẩu. Những tác động trực tiếp này làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở Nam Kỳ, làm
giàu cho tư bản Pháp, giới điền chủ và thương nhân hợp tác với chính quyền thực dân. Mặt
trái của sự thay đổi và phát triển của cơ cấu kinh tế như vậy sẽ làm sâu hơn ranh giới giàu
nghèo trong xã hội Nam Kỳ thời Pháp thuộc;
- Những tác động của hệ thống giao thông mới mà thực dân Pháp hình thành và
phát triển ở Nam Kỳ trước năm 1945 có những tác động gián tiếp vào đời sống xã hội ở
nơi đây. Lúa gạo càng được xuất khẩu, việc vận chuyển càng tăng sẽ thúc đẩy mở rộng
vùng sản xuất chuyên canh sản xuất lúa gạo ở miền Tây Nam Kỳ. Và mâu thuẫn giữa nông
dân và điền chủ càng trở nên gay gắt. Điền chủ và tư bản Pháp càng thu nhiều lợi nhuận thì
nông dân càng nghèo đói. Đó là cội nguồn góp phần bần cùng hóa người nông dân ở Nam
Kỳ.
Những tác động của sự hình thành và phát triển hệ thống giao thông tới xã hội Nam
Kỳ trước năm 1945 cụ thể là:
(1) Sự phát triển hệ thống giao thông với những loại hình, phương tiện hiện đại sẽ
rút ngắn khoảng cách vùng miền, tạo điều kiện quản lý xã hội một cách hiệu quả, tạo
điều kiện để kết nối, giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, tạo nên sự gần gũi, hiểu biết
hơn về các phong tục của nhau, tạo nên sự gắn kết giữa các vùng, miền trong khu vực và
cả nước. Chính sự hình thành và phát triển hệ thống giao thông vận tải này đã giúp nhân
dân Nam Kỳ đi lại bằng các loại phương tiện giao thông vận tải mới vừa nhanh vừa tiện
lợi, vừa hiện đại đã tạo nên một văn hóa đi lại mới chưa từng có trong văn hóa đi lại của
Việt Nam;
(2) Việc phát triển hệ thống giao thông Nam Kỳ đã sử dụng một đội ngũ công
nhân có trình độ kỹ thuật để xây dựng, vận hành, phục vụ, quản lý và bảo dưỡng các
phương tiện giao thông. Chính đội ngũ lao động này góp phần hình thành nên đội ngũ
công nhân Việt Nam – một thành phần mới có trình độ sẽ góp phần làm biến đổi cơ cấu
giai cấp, xã hội Việt Nam;
(3) Sự hình thành và phát triển hệ thống hệ thống giao thông mới đã có những tác
động không nhỏ đến văn hóa, giáo dục ở Nam Kỳ
Hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ có những tác động gián tiếp đến văn hóa, giáo
dục ở vùng đất này. Về mặt tích cực, nhờ sự hình thành và phát triển của hệ thống giao
165
thông mới, người dân có điều kiện đi lại giao thương, học hành. Đó là sự khắc phục trở
ngại kết nối nội vùng ở miền sông nước nhiều kênh rạch như châu thổ sông Mekong.
Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ, nhất là giao thông
thủy - bộ nội vùng đã kết nối những vùng hẻo lánh ở Tây Nam Kỳ với các trung tâm: Sài
Gòn - Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trăng nơi được thực dân Pháp cho
mở trường tiểu học từ năm 1864. Nhất là đến Mỹ Tho, nơi duy nhất ở Tây Nam Kỳ có
trường bậc trung học Collège de Mytho (nay là trường phổ thông trung học Nguyễn
Đình Chiểu), thành lập năm 1879.
Nói chung, mục đích của nền giáo dục do thực dân Pháp xác lập tại Nam Kỳ nhằm
tạo nên một tầng lớp trí thức mới, một nền học vấn Tây học sử dụng tiếng Pháp và chữ
quốc ngữ. Đó là một tầng lớp “vong quốc nô”, tay sai, công cụ phục vụ chính quốc.
Song, ngoài mong muốn đó, về mặt tích cực khách quan, nền giáo dục này đã tạo ra một
tầng lớp trí thức có trình độ, nắm vững tri thức khoa học, kỹ thuật tiên tiến, tinh hoa của
nhân loại nhưng không quên cội nguồn; một sự phát triển mạnh mẽ của chữ quốc ngữ
Latin trong giáo dục và hành chính mà nhiều quốc gia sử dụng văn tự như Trung Quốc,
Nhận Bản, Triều Tiên mơ ước mà không có được. Từ nền học vấn đó, nhiều trí thức trở
thành chiến sĩ cách mạng ưu tú như Phạm Hùng, Huỳnh Tấn Phát, Trần Đại Nghĩa... Sau
Cách mạng tháng 8/1945, họ trở thành những chính khách, nhà khoa học có nhiều đóng
góp cho sự hình thành, tồn tại và phát triển mạnh mẽ một nước Việt Nam độc lập, tự do.
Đó là hệ quả mà những nhà tư bản thực dân không mong muốn. Đây có lẽ là điểm nổi
bật nhất, có tính tích cực nhất, mang tính khách quan hình thành từ sự tác động gián tiếp,
ngoài dự liệu của các nhà thực dân khi xây dựng và phát triển hệ thống giao thông mới ở
Nam Kỳ.
4.3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CÓ THỂ THAM KHẢO QUA
NGHIÊN CỨU VIỆC HÌNH THÀNH VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIAO
THÔNG NAM KỲ THỜI THUỘC PHÁP
Từ quá trình hình thành và xây dựng hệ thống giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc
chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho sự phát triển hiện nay của vùng Nam Bộ
như sau:
1. Bài học về xây dựng hệ thống giao thông vận tải gắn với việc phát triển kinh
tế
166
Mục đích xâm chiếm thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ, Việt Nam và Đông
Dương là nhằm bóc lột tài nguyên, của cải vật chất để phục vụ chính quốc. Do vậy, Phát
triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ có tính định hướng như vậy đã thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp và thương mại xuất nhập khẩu. Giao thông
Nam Kỳ, nhất là giao thông thủy vùng Tây Nam Kỳ kết nối với Sài Gòn – Chợ Lớn và
cảng Sài Gòn tạo thành chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng hàng hóa tới trung tâm chế
biến nông sản để tạo thành hàng hóa thương mại xuất – nhập khẩu. Chính vì nhưng điều
này mà Thực dân Pháp đã khai thác triệt để hệ thống giao thông mới được xây dựng để
tiến hành có hiệu quả các chính sách kinh tế ở Nam Kỳ.
2. Bài học xây dựng hệ thống giao thông vận tải gắn với điều kiện tự nhiên và
phát huy các yếu tố tự nhiên
Một trong những thành công của việc xây dựng và phát triển hệ thống giao thông
thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ, nhất là giao thông đường thủy khi:
- Sử dụng hiệu quả hay cải tạo mạng lưới kênh rạch, sông ngòi làm mạng lưới
giao thương rộng khắp nhằm khắc phục hay thay thế giao thông đường bộ, đường sắt
chưa xây dựng được ở vùng nhiều sông ngòi, kênh rạch, vùng đất yếu;
- Tận dụng dòng chảy tự nhiên và chế độ nhật triều để nâng cao năng lực và hiệu
quả vận chuyển, tiết kiệm chi phí sức kéo, nhân công…;
- Sử dụng đồng thời, hợp lý phương tiện vận tải truyền thống (ghe, thuyền…) và
phương tiện hiện đại: tàu thủy, phà chạy máy hơi nước… để nâng cao hiệu quả vận
chuyển của cả hệ thống giao thông.
3. Bài học về tận dụng khai thác các yếu tố đến từ thiên nhiên ở vùng châu thổ
nhiều sông ngòi, kênh rạch chằng chịt để hình thành một hệ thống giao thông thủy
có tác dụng kép
Hệ thống giáo thông thời Pháp thuộc vừa là các tuyến giao thương, vừa là hệ thống
thủy lợi dẫn thủy nhập điền. Yếu tố thuận thiên được khai thác trong giao thông thủy để
phát triển bền vững chính là việc sử dụng một cách triệt để nhưng hợp lý những thuận
lợi của thiên nhiên mang lại để hệ thống kênh rạch, sông ngòi tạo nên một hệ thống thủy
lộ có tính liên kết cao: có chiều sâu đến tới từng vùng sâu, vùng xa; có phạm vi rộng trải
khắp vùng; tận dụng dòng chảy tự nhiên, chế độ nhật triều để tiết giảm chi phí cho sức
167
kéo.
Những kinh nghiệm nói trên, nhất là việc khai thác yếu tố thuận thiên để phát triển
hệ thống giao thông thủy thời Pháp thuộc cũng chính là yếu tố góp phần phát triển bền
vững không chỉ của hệ thống giao thông mà cả sự tồn tại và phát triển năng động của
vùng đất này.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Lịch sử là những gì đã xuất hiện, xảy ra trong quá khứ, gắn liền với một hoàn
cảnh, một đời sống xã hội cụ thể. Nhận xét, đánh giá những vấn đề lịch sử là để tìm ra
những bài học cần khắc phục hay phát huy là một việc luôn được chú trọng. Do vậy,
những bài học lịch sử về sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông Nam Kỳ
thời Pháp thuộc rất cần cho hiện tại và tương lai để vùng đất phương Nam và đất nước
Việt Nam phát triển tốt hơn.
Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời
thuộc Pháp giai đoạn 1862 – 1945 đã tạo ra một công cụ hữu hiệu trong tay thực dân
Pháp nhằm khai thác thuộc địa ở Đông Dương trong đó có Nam Kỳ một cách triệt để
nhất. Từ quá trình hình thành và phát triển này sẽ có một số kinh nghiệm cho sự phát
triển hệ thống giao thông ở vùng Nam Bộ, nhất là với vùng đồng bằng sông Mekong vốn
là vùng Tây Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Từ những nghiên cứu đã trình bày, có thể rút ra
một số điểm nổi bật như sau:
Triệt để khai thác ưu thế, thuận lợi mà điều kiện thiên nhiên mang lại: Một trong
những đặc trưng về điều kiện tự nhiên, nhất là điều kiện về địa lý, địa hình của Nam Kỳ
trước đây và vùng Nam Bộ hiện nay luôn được nhắc đến đó là một miền sông nước, một
miền đất có hệ thống kênh rạch chằng chịt. Chính yếu tố đó vừa là khó khăn nhưng cũng
là điều kiện thuận lợi trong quá trình hình thành hệ thống giao thông thủy trước đây và
hiện nay. Ngay từ nửa sau những năm 80 của thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp còn đang
từng bước thôn tính Nam Kỳ, bước đi đầu tiên của họ là tận dụng hệ thống kênh rạch,
sông ngòi ở vùng đất này với 02 mục đích: giao thương trong vận tải, thương mại và
tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Có thể đánh giá việc chú trọng hình thành hệ thống
giao thông thủy qua hoạt động nạo vét, đào mới kênh rạch ở Tây Nam Kỳ qua các số
liệu tiêu biểu của hai giai đoạn như sau:
168
Từ năm 1882 cải tạo đường thủy qua việc nạo vét 341.000 m3 khối bùn đất (A. Bouinais,1884. NN.965. TTLTQG II). Trong thập niên 20, có khoảng 7.233.000 m3 bùn
đất được nạo vét (Inspection générale des Travaux Publics Dragages de Cochinchme,
1930).
Đặc biệt, trong tình hình biến đổi khí hậu ở Việt Nam và thế giới đang diễn biến
bất lợi cho đồng bằng sông Mekong, việc khai thác có hiệu quả, tận dụng các ưu thế do
thiên nhiên mang lại sẽ là một phương pháp khoa học, thuận thiên để phát triển bền vững
vùng đất này.
Nhanh chóng áp dụng tiến bộ kỹ thuật để hiện đại hóa: Đây là một ưu điểm lớn và
cũng là thế mạnh của thực dân Pháp trong xây dựng và phát triển giao thông ở Nam Kỳ.
Để có được một hệ thống giao thông mới, hiện đại, các sản phẩm của văn minh phương
Tây như các công cụ và phương tiện xây dựng hiện đại, các loại hình vận tải mới đã
nhanh chóng được đưa vào Nam Kỳ và Đông Dương. Cụ thể như:
Về sử dụng công cụ và phương tiện hiện đại, kỹ thuật xây dựng tiên tiến, sử dụng
phương tiện thi công hiện đại như tàu cuốc, xáng cạp để nâng cao năng xuất và hiệu quả
nạo vét, đào mới kênh rạch nhằm tạo nên một hệ thống giao thông thủy nội địa có năng
lực vận chuyển cao;
Áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong việc xây dựng đường sắt nội đô và liên vùng –
loại hình giao thông hiện đại được xây dựng ở Sài Gòn – Chợ Lớn và vùng phụ cận. Sau
đó là tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho. Kỹ thuật tiến bộ trong giao thông vận tải được áp dụng
triệt để trong quá trình hình thành nhữ tuyến đường sắt nói trên, nhất là tuyến Sài Gòn –
Mỹ Tho. Kỹ thuật cầu đường hiện đại đã khắc phục được những khó khăn ở vùng sông
nước, nhiều kênh rạch, nền đất yếu trong khi vận tải đường sắt đòi hỏi nền đường, cầu
cống phải thật vững chắc, chịu được trọng lực lớn.
Về sử dụng loại hình giao thông hiện đại, kỹ thuật cao: Một trong những điểm nổi
bật của hệ thống giao thông Nam Kỳ thời Pháp thuộc trước năm 1945 là: ở từng giai
đoạn luôn tạo ra diện mạo mới bằng việc đưa vào sử dụng những loại hình giao thông
hiện đại, năng lực vận chuyển cao góp phần tạo ra sự chuyển biến thực chất trong hệ
thống giao thông Nam Kỳ. Ngay thời gian đầu khi thiết lập được chế độ cai trị, việc đưa
tàu cuốc, xáng cạp vào việc nạo vét, đào kênh đã nâng cao hiệu xuất đào đắp, cải tạo
169
kênh rạch là một chuyển biến lớn tạo ra năng xuất lao động rất cao (so với đào đắp thủ
công thời Nguyễn). Việc làm này nhằm nhanh chóng phát huy hiệu quả của giao thông
thủy nội địa và phát triển vùng sản xuất lúa ở Tây Nam Kỳ.
Song song với hoạt động đó là việc hình thành giao thông đường sắt nội đô và liên
tỉnh chạy bằng đầu máy hơi nước (về sau chạy bằng tàu điện). Hoạt động xây dựng loại
hình giao thông này được tiến hành một cách nhanh chóng để đưa phương tiện vận tải
tiên tiến, lần đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ và Đông Dương vào hoạt động. Việc sử dụng
đầu máy hơi nước – sức kéo chủ lực của đường sắt, phương tiện biểu tượng kỹ thuật
hiện đại phương Tây vào sử dụng thay ra sức kéo súc vật – phương thức vận tải lạc hậu
là một tiến bộ vượt bậc. Đây là lần đầu tiên một loại hình giao thông mới xuất hiện ở
Nam Kỳ, Việt Nam và Đông Dương.
Tận dụng tối đa lợi thế địa - chính trị: Nam Kỳ, nhất là của Sài Gòn – Chợ Lớn là
trung tâm của miền Đông và miền Tây Nam Kỳ nên có điều kiện trở thành đầu mối giao
thương, kinh tế - xã hội quan trọng của cả vùng.
Ngay sau khi biến Nam Kỳ thành thuộc địa khai thác trực thuộc Bộ thuộc địa, thực
dân Pháp đã tiến hành đầu tư lớn để nhanh chóng xây dựng thành phố Sài Gòn – Chợ
Lớn thành hạt nhân phát triển cho toàn vùng. Trong những đầu tư đó, việc xây dựng hệ
thống giao thông nội đô và liên vùng được chú trọng tiến hành, bước đầu góp phần quan
trọng biến Sài Gòn – Chợ Lớn thành trung tâm của Nam Kỳ, biến Nam Kỳ thành trung
tâm giao thương kết nối Đông Dương với khu vực và chính quốc.
Trước hết, đó là việc xây dựng đường sắt. Các tuyến đường nội đô nối Sài Gòn –
Chợ Lớn, Gia Định và tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho có kế hoạch mở rộng ra các tỉnh ở Tây
Nam Kỳ, sang tới Campuchia được tiến hành rất sớm (1880 - 1883). Tuy tuyến đường
sắt liên tỉnh đầu tiên này chỉ được xây dựng từ Sài Gòn đến Mỹ Tho nhưng đã góp phần
quan trọng kết nối các tỉnh miền Tây Nam Kỳ với Sài Gòn – Chợ Lớn.
Cùng với hoạt động phát triển đường sắt, việc khai thác giao thông thủy cũng được
chú trọng. Ngay từ năm 1860, Cảng Sài Gòn đã được xây dựng. Tiếp đó là các hoạt
động cải tạo, đào mới kênh rạch để kết nối Sài Gòn – Chợ Lớn với các tỉnh ở miền Tây
Nam Kỳ. Chính hệ thống giao thông thủy này đã trở thành tuyến vận tải chính đưa lúa
gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác sản xuất ở Tây Nam Kỳ về chế biến ở Sài Gòn –
170
Chợ Lớn và xuất khẩu qua Cảng Sài Gòn.
Ngoài ra, do nằm ở phía Nam Đông Dương, Nam Kỳ có vị trí địa lý tiếp giáp với
biển Đông nơi có các tuyến giao thông viễn dương kết nối với thế giới; là vị trí gần nhất
tiếp cận với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đó là một lợi thế của vùng đất này để
trở thành trung tâm giao thương và phát triển kinh tế của Việt Nam và Đông Dương.
Từ những thông tin địa lý và kinh tế như vậy, từ các kế hoạch và hoạt động xây
dựng thành công hệ thống giao thông ở Nam Kỳ của thực dân Pháp thời Pháp thuộc,
những kinh nghiệm rất quý nói trên sẽ là kho tài nguyên rất hữu ích cho việc hoạch định
phát triển vùng Nam Bộ trong hiện tại và tương lai.
171
KẾT LUẬN
Nam Kỳ có một vị trí quan trọng trong công cuộc xâm chiếm và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp tại Việt Nam, mà trước hết, thực dân Pháp muốn dùng lợi nhuận
từ Nam Kỳ để tài trợ kinh phí cai trị Bắc và Trung Kỳ thay vì chính quốc
(PierreBrocheux – Daniel Hémery, 2009). Để thực hiện hiệu quả mục đích đó, các cuộc
khai thác thuộc địa ở Đông Dương nói chung, Nam Kỳ nói riêng được tiến hành. Do
vậy, việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ (1862 – 1945) có vai
trò quan trọng, là “chìa khóa”, là “động lực”, là công cụ và phương tiện thiết yếu để thực
hiện mục đích sâu xa đó. Đúng như nhận định của Jean – Pierre Aumiphin: “Không có
những đường bộ, những đường sắt và những kênh đào, các doanh nghiệp chắc sẽ không
tiến hành được hoạt động sản xuất và người dân bản xứ chắc sẽ gặp nhiều vấn đề về con
người và kinh tế” (Jean – Pierre Aumiphin, 1994).
Có thể nói, thực dân Pháp đã xây dựng khá thành công một hệ thống giao thông
mới, góp phần quan trọng phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa của họ tại Nam Kỳ và
Đông Dương. Đặc biệt, một trong những thành công của việc xây dựng và phát triển hệ
thống giao thông thủy ở Nam Kỳ là hình thành công dụng kép (thủy lộ và giao thương)
cùng việc khai thác được yếu tố thuận thiên để phát triển bền vững. Hệ thống giao thông
ở Nam Kỳ đã góp phần tạo được một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Đó là cơ sở vững
chắc cho sự phát triển năng động và bền vững của vùng đất Nam Kỳ. Tuy nhiên, những
thay đổi nói trên không làm khác đi bản chất của chủ nghĩa thực dân bởi lẽ ngay từ đầu
việc xây dựng hạ tầng giao thông, chủ yếu và chính yếu là để phục vụ cho nhu cầu khai
thác bóc lột thuộc địa. Lợi nhuận có được từ sự phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ
thuộc về tư bản thực dân Pháp, còn nhân dân thuộc địa vẫn là những người bị bóc lột.
Xét về góc độ kinh tế phát triển, có thể nói, thực dân Pháp ở Nam Kỳ và Đông
Dương đã xây dựng thành công một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh với đầy đủ
thành phần của một ngành giao thông hiện đại (thủy – bộ – đường sắt – hàng không), có
năng lực vận chuyển nhanh và khai thác được các yếu tố tự nhiên và vị trí địa chính trị
mang lại tạo điều kiện để phát triển bền vững. Đó còn là một hệ thống giao thông được
hiện đại hóa nhanh nhất, tốc độ tăng trưởng cao nhất trên toàn cõi Đông Dương. Giai
đoạn 1862 – 1945 đã khởi đầu và hoàn chỉnh quá trình hình thành, xây dựng và phát
172
triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ, đặt nền móng phát triển cho hệ thống giao thông
Việt Nam thời hiện đại.
Cũng từ sự xác định một cách rõ ràng và đầy đủ quá trình hình thành và phát triển
của hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc nên luận án có cơ sở khoa học và sử
liệu mang tính xác thực cao, có đủ điều kiện để khẳng định: hệ thống giao thông ở Nam
Kỳ thuộc một cơ sở hạ tầng mới đã có những tác động quan trọng đến sự phát triển kinh
tế - xã hội ở Nam Kỳ đương thời và sau này. Chính những tác động quan trọng này đã
góp phần giúp cho Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành trung tâm phát triển kinh tế - thương
mại của Nam Kỳ, giúp biến Nam Kỳ dần trở thành trung tâm phát triển của Việt Nam và
Đông Dương.
Chính vì vậy, khi xác định Nam Kỳ là một “thuộc địa khai thác”, việc đầu tiên và
trước hết của thực dân Pháp tại Nam Kỳ là xây dựng một hệ thống giao thông mới, mang
đầy đủ các yếu tố: kỹ thuật hiện đại, năng lực vận chuyển và hiệu quả kinh tế cao, hình
thức tổ chức và quản lý tiên tiến như đang áp dụng tại Pháp và châu Âu. Do vậy, bản
chất của hệ thống giao thông mới là công cụ thiết yếu phục vụ đắc lực và hiệu quả 02
cuộc khai thác thuộc địa (1987 – 1914 và 1919 – 1929) của thực dân Pháp tại Nam Kỳ
và Việt Nam.
Trên những cơ sở đó, có thể xác định một số đặc điểm chính của hệ thống giao
thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp như sau:
1) Hệ thống giao thông mới tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, khai thác hiệu quả yếu
tố tự nhiên để phát triển bền vững;
2) Hệ thống giao thông có tốc độ hiện đại hóa nhanh;
3) Hệ thống giao thông mới liên kết nội vùng, với toàn lãnh thổ Việt Nam và Liên
bang Đông Dương.
Từ nhưng kết quả và đặc điểm nói trên, có thể xác định hệ quả “tích cực” của sự
hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thuộc Pháp trước năm 1945 như
sau:
Thông qua hệ thống giao thông mới được xây dựng, cơ sở hạ tầng kinh tế mới (chủ
yếu là hạ tầng kỹ thuật) hiện đại được thiết lập và không ngừng phát triển đã góp phần
quan trọng làm thay đổi cơ cấu kinh tế của Nam Kỳ;
173
Hoạt động của hệ thống giao thông mới ở Nam Kỳ thời thuộc Pháp trong đó nổi
bật là Cảng Sài Gòn đã cho thấy sự khởi sắc của kinh tế thương mại xuất – nhập khẩu ở
Nam Kỳ và Đông Dương. Đó là biểu hiện ban đầu của nền kinh tế hàng hóa theo phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa;
Các tuyến đường sắt nội đô Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định… và liên tỉnh Sài Gòn
– Mỹ Tho, Sài Gòn – Lộc Ninh… và hệ thống đường bộ rộng khắp với sự xuất hiện của
xe ô tô – phương tiện có năng lực vận tải cao, hệ thống kênh rạch được cải tạo và đào
mới với tàu chạy máy hơi nước và vận tải hàng không mới được hình thành, chủ yếu trở
khách đã đem lại hiệu quả có tính bước ngoặt để hình thành một hệ thống giao thông
hiện đại, đủ cơ cấu thành phần (thủy – bộ – hàng không và đường sắt), có năng lực và
tốc độ vận chuyển cao, góp phần quan trọng cho phát triển sản xuất công – nông nghiệp
và thương mại xuất - nhập khẩu;
Hệ thống giao thông mới với khả năng vận chuyển hiệu quả chứng tỏ sự vượt trội
so với giao thông thời Nguyễn, là yếu tố làm thay đổi tư duy giao thông của người Việt
từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ, Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung. Đó là
một trong những yếu tố mới đánh dấu sự chuyển động của nền kinh tế theo hướng hiện
đại hóa.
Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ là bước đầu hình
thành cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật hiện đại của Nam Kỳ thuộc địa. Những tác động
của hệ thống giao thông đến kinh tế - xã hội Nam Kỳ thuộc địa (1862 – 1945) cụ thể như
sau:
(1) Tạo ra mối quan hệ giữa hạ tầng kinh tế – kỹ thuật với sự hình thành và phát
triển của Nam Kỳ. Đặc biệt là Sài Gòn – Chợ Lớn thời Pháp thuộc – trung tâm hành
chính, chế biến nông sản, thương mại – xuất nhập khẩu đã trở thành một trong những
biểu hiện đặc trưng nhất của việc xác lập chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế Nam Kỳ
thời Pháp thuộc;
(2) Sự ra đời và tồn tại của một số ngành kinh tế mới nhờ sự phát triển của hệ
thống giao thông thời thuộc Pháp đã làm xuất hiện và phát triển các lực lượng sản xuất
và giai cấp mới, góp phần tạo nên cơ cấu giai cấp xã hội thuộc địa;
(3) Hệ thống giao thông đã thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách làm gia tăng giá
174
trị sản phẩm, kích thích hoạt động sản xuất, tạo ra thị trường trao đổi hàng hóa, mở rộng
thị trường nội vùng và giao thương quốc tế;
(4) Hệ thống giao thống giao thông mới với hiệu quả kinh tế cao đã góp phần tạo
nên sự cân đối giữa kinh doanh và phục vụ của cấu trúc hạ tầng. Về mặt này, ở Nam Kỳ
thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã tận dụng triệt để cơ sở hạ tầng để phục vụ sản
xuất, kinh doanh;
(5) Với việc áp dụng các phương pháp, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình tổ chức xây
dựng, vận hành và khai thác hệ thống giao thông mới, hiện đại theo tiêu chuẩn châu Âu,
các nhà quản lý và chuyên môn ngành giao thông thời thuộc Pháp đã thực sự xác lập một
nền tảng chuẩn mực chuyên ngành giao thông về kỹ thuật, kinh tế, quản lý và điều hành
hệ thống giao thông hiện đại, là kho tri thức kỹ thuật truyền lại về sau.
Từ kết quả nghiên cứu quá trình hình thành và phất triển hệ thống giao thông Nam
Kỳ thời thuộc Pháp, có thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Nam Kỳ chiếm một vị trí quan trọng trong công cuộc khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp tại Việt Nam trước đây và trong phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Do
đó muốn phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội ở Nam Bộ hiện nay, trước hết phải đầu tư
xây dựng hệ thống giao thông, vận tải. Giao thông vận tải phải đi trước một bước, trên
cơ sở đó mới đề ra những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, thực dân Pháp đã tiến hành cải tạo và xây dựng mới hệ thống giao thông ở
Nam Kỳ để các hoạt động giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường hàng
không với các phương tiện kỹ thuật hiện đại đến từ châu Âu trở nên hiệu quả, thể hiện
tiến trình hiện đại hóa trong hoạt động giao thông rất mạnh mẽ. Các thay đổi lớn từ
những tiến bộ về phương tiện và kỹ thuật giao thông đã mang đến một diện mạo mới,
năng lực mới cho hệ thống giao thông Nam Kỳ thời thuộc Pháp. Chính nhờ vào hệ thống
giao thông vận tải này mà Thực dân Pháp đã khai thác khá hiệu quả vùng đất Nam Kỳ,
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu lúa, gạo.
Thứ ba, việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông “hiện đại”, có ưu thế và
năng lực cao đã cho thấy sự vượt trội so với hệ thống giao thông hình thành trong nền
kinh tế phong kiến trước đây. Đó là một trong những công cụ đắc lực nhất để hình thành
cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện mục đích khai thác
175
thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhất là ở Việt Nam, đặc biệt là ở Nam Kỳ.
Đó là một hệ thống giao thông hiện đại, đồng bộ với nhiều lĩnh vực đã phục vụ đắc lực
cho quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Thứ tư, việc tận dụng khai thác các yếu tố từ thiên nhiên ở vùng châu thổ nhiều
sông ngòi, kênh rạch chằng chịt để hình thành một hệ thống giao thông thủy có tác dụng
kép (vừa là các tuyến đường giao thương, vừa là hệ thống thủy lợi dẫn thủy nhập điền)
đã góp phần để Nam Kỳ thành nơi sản xuất hàng hóa, Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành
trung tâm chế biến nông hải sản và là đầu mối xuất – nhập khẩu để phát triển kinh tế
thương mại. Và điều quan trọng hơn, việc khai thác yếu tố thuận thiên để phát triển hệ
thống giao thông thủy thời Pháp thuộc cũng chính là yếu tố phát triển bền vững không
chỉ của hệ thống giao thông mà cả sự tồn tại và phát triển năng động của vùng đất này;
Thứ năm, những tác động và hệ quả của sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà hệ
thống giao thông là “chìa khóa”, là “động lực” đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội
Nam Kỳ thuộc địa trong giai đoạn 1862 – 1945. Do tác động của nhu cầu của hoạt động
ngoại thương, cán cân thương mại của Nam Kỳ nghiêng hẳn về xuất khẩu, chủ yếu là
nông sản. Nam Kỳ đã hình thành các vùng nguyên liệu chính phục vụ cho xuất khẩu qua
Cảng Sài Gòn. Sự xuất hiện những vùng chuyên môn hóa sản xuất là nét mới của kinh tế
Nam Kỳ và cũng là những vùng sản xuất hàng hóa nông sản lớn nhất nhì thế giới thời
bấy giờ, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động ngoại thương của Nam Kỳ thời Pháp thuộc, giúp
cho Nam Kỳ từng bước hòa nhập để rồi trở thành một vòng khâu của thị trường tư bản
chủ nghĩa lúc bấy giờ.
Thứ sáu, xác định đúng vai trò của cơ sở hạng tầng kỹ thuật mà hệ thống giao
thông là trọng tâm, then chốt, động lực thúc đẩy trong hoạt động kinh tế. Thực tế cho
thấy, hệ thống giao thông ở Nam Kỳ vừa là một ngành sản xuất vật chất vừa là phương
tiện, công cụ, phương tiện gia tăng giá trị hàng hóa nhờ lưu thông, có tính chất động lực
thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Do vậy, hệ thống giao thông ở Nam Kỳ đóng
vai trò quan trọng đối với mọi ngành kinh tế.
Thứ bảy, góp phần thay đổi nhận thức về việc xác định hạ tầng cơ sở phải đi trước
một bước, trong đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật có tính quyết định, then chốt
và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động sản xuất của các ngành
176
kinh tếkhác, nhất là những ngành kinh tế gắn liền với hoạt động xuất – nhập khẩu, tăng
cường giao thương hàng hóa.
Có thể nói, chính sự đầu tư mạnh mẽ của thực dân Pháp, hệ thống giao thông ở
Nam Kỳ đã có thay đổi lớn, mang một diện mạo mới, năng lực mới với những tiến bộ về
phương tiện kỹ thuật giao thông, áp dụng những thành tựu của ngành vận tải hiện đại
đến từ Châu Âu. Thực tế đó đã mang lại những kinh nghiệm không chỉ cho sự phát triển
giao thông mà cả cho sự phát triển bền vững của vùng đất này và Việt Nam nói chung.
Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông hiện đại, có ưu thế và năng lực
vượt trội là một trong những công cụ đắc lực nhất của thực dân Pháp trong công cuộc
khai thác thuộc địa ở Đông Dương, nhất là ở Việt Nam mà đặc biệt là ở Nam Kỳ. Điều
đó càng làm rõ hơn bản chất của thực dân Pháp trong hơn 80 đô hộ Việt Nam. Cũng từ
nhận định đó, lịch sử đã ghi nhận sự tồn tại và phát triển của một khu vực kinh tế Nam
Kỳ rất năng động với một hệ thống giao thông làm cầu nối, động lực cho các hoạt động
kinh tế, xã hội thời Pháp thuộc.
Việc hình thành và phát triển hệ thống giao thông ở Nam Kỳ là một minh chứng
cho thấy hiệu quả của hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đi trước một bước. Chính quyền thực
dân ở Nam Kỳ và Đông Dương đã tận dụng triệt để cơ sở hạ tầng kỹ thuật (chủ yếu là hệ
thống giao thông và cảng sông, biển) để phát triển các hoạt động kinh tế thương mại
xuất – nhập khẩu ở mức độ cao. Vì thế, bước đầu đã tạo ra những yếu tố tiến bộ của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa: vùng sản xuất chuyên canh, sản xuất mang tính hàng hóa
phục vụ xuất nhập khẩu.
Xét về phương diện giao thông thuần túy, từ một phần của một quốc gia phong
kiến lạc hậu, vào thời thuộc Pháp, Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung đã có một
giai đoạn phát triển toàn diện và cơ bản nhất về hạ tầng kỹ thuật giao thông. Đó là một
hệ thống giao thông mới, đủ thành phần của một hệ thống giao thông hiện đại với các
loại hình: đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không phục vụ các hoạt động giao
thương cho tới những năm sau này ở Việt Nam.
Tuy nhiên, mặt trái của sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông mới tác
động vào đời sống kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ cũng không nhỏ như:
Hệ thống giao thông mới thúc đẩy phát triển thương mại xuất khẩu làm cho tài
177
nguyên của Nam Kỳ và Việt Nam cạn kiệt. Thương mại xuất khẩu ở Nam Kỳ (nhất là lúa
gạo và cao su) đòi hỏi vùng sản xuất tạo nguồn cung cấp hàng hóa tăng cao. Điều này này
làm cho tư bản Pháp và giới điền chủ, thương nhân hợp tác với chính quyền thực dân
trong sản xuất, kinh doanh lúa gạo và cao su ngày càng giàu, người nông dân mất ruộng
đất, bị bóc lột cùng cực trong các đồn điền và nhà máy ngày càng nghèo đói. Xã hội bị
phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội nhất là giữa nông dân và điền chủ
ngày càng trở nên gay gắt;
Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc chỉ được xây dựng ở những vùng
thuận lợi, ít tốn kém và đặc biệt là tập trung ở những nơi có tài nguyên để khai thác và
vơ vét của cải vật chất, còn những vùng sâu vùng xa ít tài nguyên thì sống trong cảnh
thiếu thốn đường giao thông, hay nếu có thì cũng chỉ là những đường bộ, đường sông
truyền thống.
Việc sử dụng các loại phương tiện hiện đại trong hệ thống giao thông mới như tàu
hỏa, tàu chạy máy hơi nước trên sông, xe ô tô, xe máy thải ra khói đốt khá nhiều đã phần
nào làm ô nhiễm môi trường trong lành trước đây.
Tóm lại, từ những kết quả nghiên cứu nói trên, có thể khẳng định rằng, việc hình
thành và phát triển hệ thống giao thông hiện đại, có ưu thế và năng lực vượt trội so với
hệ thống giao thông hình thành trong nền kinh tế phong kiến trước đây. Đó là một trong
những công cụ đắc lực nhất của thực dân Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa ở
Đông Dương, nhất là ở Việt Nam mà đặc biệt là ở Nam Kỳ. Lịch sử đã ghi nhận sự tồn
tại và phát triển của một khu vực kinh tế Nam Kỳ với một hệ thống giao thông thời Pháp
thuộc hiện đại, có năng lực và hiệu quả kinh tế cao làm cầu nối cho các hoạt động kinh
tế, xã hội gắn kết với nhau trong quá trình phát triển và hội nhập của vùng đất này./.
178
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu lưu trữ gốc (tiếng Pháp) khai thác từ các Trung tâm Lưu trữ quốc
gia
Tài liệu do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I (Hà Nội) quản lý
1. Arrêté du 13 juillet 1917 du Gouverneur général de l’Indochine déterminant
l’organisation du Service de rAviation en Indochine. J 1091, Journal officiel de l’Indochine
française (JOIF - Công báo Đông Dưong thuộc Pháp) 1917, pp. 1043-1044. TTLTQG I
2. Arrêté du 13 juillet 1917 du Gouverneur général de l’Indochine déterminant
l’organisation du Service de rAviation en Indochine. J 1186, Journal officiel de l’Indochine
française (JOIF) 1938, pp. 180-185. TTLTQG I
3. Arrêté du 20 mars 1944 du Gouverneur general de l’lndochine portant creation
d’une Direction des Transports aériens. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. J1241, Journal
officiel de l’Indochine française (JOIF) 1944, pp. 763-764
4. Arrêté du 8 juin 1944 du Gouverneur général de l’Indochine portant
suppression du Service de l’Aéronautique civile. J1248, Journal officiel de l’Indochine
(JOI - Công báo Đông Dương) 1945, pp.62. TTLTQG I
5. Bulletin official de la Cochinchine (BOC- Công báo Nam Kỳ) 1861, N01, pp. 2.
TTLTQG I
6. J 1091, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF) 1917, pp.1043-1044. Trung
tâm Lưu trữ quốc gia I
7. J 11, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1867, pp. 103-111. TTLTQGI
8. J 1183, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF) 1937, pp. 3206 – 3208.
TTLTQG I
9. J 29, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1876, pp. 4-5. TTLTQG I
10. J 36, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1879, pp. 316-318. TTLTQGI
11. J 37, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1880, pp. 228-235. TTLTQGI
12. J 4, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1862, pp. 160-162. TTLTQG I
13. J 4, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1862, pp. 210-216. TTLTQG I
14. J 8, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1864, pp. 142-143. TTLTQG I
15. J1052, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF) 1905, pp. 1512. TTLTQGI
179
16. J1052, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF) 1905, pp. 216, 512.
TTLTQG I
17. J1244, Journal officiel de l’Indochine française (JOIF) 1944, pp. 1816. TTLTQGI
18. J 1 7, Bulletin official de la Cochinchine (BOC) 1869, pp. 408-410. TTLTQGI
19. Journai official de l’Indochine số 76, năm 1898, pp. 756. TTLTQG I
20. Journai official de l’Indochine, số 105, năm 1911, pp. 2757. TTLTQG I
21. Niên giám Đông Dương, 1897. TTLTQG I
22. Báo cáo số: 871RA của Nha Công chánh, Sở Cầu đường. Phông Nông lâm.
TTLTQG I
23. Phông Sở Tài chính Đông Dương. DFI 8489. TTLTQG I
Tài liệu do Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (Tp. Hồ Chí Minh) quản lý
24. Bouinais. La cochinchine contempraine. Paris, năm 1884. Ký hiệu NN.965.
TTLTQG II
25. Báo cáo của kỹ sư trưởng (Tổng Nha Công chánh thuộc Phủ Toàn quyền Đông
Dương), ngày 30/7/1910. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ số 5374. TTLTQG II
26. Báo cáo gửi hội đồng thuộc địa, của Thống đốc Nam Kỳ, ngày 26/9/1922, v/v:
mở các tuyến đường hàng không và trường đào tạo phi công. Phông Phủ Thống đốc Nam
Kỳ, hồ sơ số 3503. TTLTQG II
27. Biên bản của Hội đồng Thuộc địa ngày 22/11/1880, đã quyết định xây tuyến
đường sắt Sài Gòn – Vĩnh Long, với dự tính sau này kéo dài đến Phnom Penh. Cuối
cùng, quyết định chỉ xây tuyến Sài Gòn – Mỹ Tho. Nguồn: Dossier relatif à l'historique,
la concession et l'exploitation des voies ferrées de l'Ouest de la Cochinchine et
Tramways de Saigon à Cholon (route haute) années 1889 – 1910. Phông Phủ Thống đốc
Nam Kỳ, hồ sơ số 5374. TTLTQG II
28. Dossier relatif à l'historique, la concession et l'exploitation des voies ferrées de
l'Ouest de la Cochinchine et Tramways de Saigon à Cholon (route haute) années 1889 –
1910. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, hồ sơ số 5374. TTLTQG II
29. Dư địa chí các tỉnh Miền Tây năm 1937s , hồ sơ số E.02-74. TTLTQG II
30. Hồ sơ số 09. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
31. Hồ sơ số 3503. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
32. Hồ sơ số 5374. Phông Phủ thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
180
33. Hồ sơ số 5436. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
34. Hồ sơ số 5451. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
35. Hồ sơ số 5453. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
36. Hồ sơ số 5462. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
37. Hồ sơ số 5465. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
38. Hồ sơ số 5476. Phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
39. Journal officiel de la cochinchine Française 1887, pp. 1185 – 1186; Journal
officiel de l’indochine Française 1899, pp. 192 – 193; Bulletin Administratif de la
cochinchine 1911, pp. 3208 – 3210. TTLTQG II
40. Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ngày 20/12/1880. Hồ sơ số 09, phông Phủ
Thống đốc Nam Kỳ. TTLTQG II
41. Nghị định ngày 18/3/1882 của Thống đốc Nam Kỳ về đấu thầu xây dựng hạ
tầng tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho. Hồ sơ số 5374, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II
42. Nghị định ngày 20/12/1880. Hồ sơ số 09, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
TTLTQG II
43. Sách bổ trợ, NN. 695. TTLTQG II
2. Sách, luận văn, luận án
2.1. Tiếng Việt
44. A.A.Pouyanne (1926). Các công trình giao thông công chính Đông Dương (Les
travaux publics de L’indochine). Nxb GTVT, Hn 1998, tr. 67, 88, 89, 94, 216
45. Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hòa, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm.
Lịch sử Việt Nam (1897-1918), Nxb. Khoa học xã hội, Hn, 1999, tr 47
46. Cục Đường sắt Việt Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải (2013), Đường sắt khu
đầu mối Tp. Hồ Chí Minh - Bước quy hoạch chi tiết (hồ sơ). Tập 1 – Thuyết minh
378DS2.T1 thực hiện theo Quyết định số 101/QĐ-TTg, ngày 22/01/2007 của Thủ tướng
Chính phủ Quy hoạch phát triển giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020 và tầm nhìn sau năm 2020
47. Dương Kinh Quốc. Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám 1945. Nxb Khoa học xã hội, 2005, tr. 328
48. Đặng Phong (2002), Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 1 của tác giả, Nxb Khoa học
181
xã hội
49. Huỳnh Lứa (chủ biên), Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam (1906-
1990). Nxb Trẻ, 1993, tr 81
50. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ. Nxb KHXH, Hn
51. Jean – Pierre Aumiphin (J.P. Aumiphin), Sự hiện diện tài chính và kinh tế của
Pháp ở Đông Dương (1859 - 1939), bản dịch, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản,
HN, 1994, tr 72, 146-147
52. Jean Chesneaux (1955), Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam
53. Lê Huỳnh Hoa (2002), Cảng Sài gòn và biến đổi kinh tế Nam kỳ thời Pháp
thuộc, giai đoạn 1860-1939, luận án Tiến sĩ khoa học Lịch sử. Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh
54. Lê Quốc Sử (1994), Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam. Nxb Chính trị
quốc gia, tr.213
55. Lê Thành Tường (1950), Monographie de la province de Ba Ria
56. Lịch sử đường sắt Việt Nam (1994). Nxb Lao Động, tr 13-14
57. Ngô Minh Oanh (2016), Một hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử Nam Bộ. Nxb
Khoa học Xã hội, Hn.
58. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn (Gia Định). Nxb
Tp. HCM, tr 211, 321
59. Nguyễn Đình Tư (2016), Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ - 1859-1954.
Nxb Tổng hợp Tp.HCM. Tập 2, tr. 263
60. Nguyễn Khánh Toàn (1989), Lịch sử Việt Nam. Tập II. Nxb Khoa học xã hội,
Hn, tr 157
61. Nguyễn Khánh Toàn_chủ biên (2004), Lịch sử Việt Nam 1858 - 1945. Tập 2.
Nxb. Khoa học xã hội. Hn, tr 210-211
62. Nguyễn Nghị (2007), Lịch sử Gia Định – Sài Gòn thời kỳ 1862-1945. Nxb.
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr.84, 93
63. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình Lịch sử Việt Nam. Nxb Giáo Dục, Hn,
tr.246 – 254
64. Nguyễn Thùy Dương (1998), “Kinh tế Hà Tiên – Rạch Giá thời Pháp thuộc
(1867 – 1939)”, luận án tiến sĩ sử học. Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM
182
65. Nguyễn Trọng Hoài (2007), Kinh tế học và Kinh tế học phát triển. ĐHKT Tp.
HCM. Nxb Lao Động, tr 12-13, 26
66. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858 - 1945). Nxb. Đại học quốc gia, Hn, tr 4, tr 11 - 12, tr 3 – 4, tr 76
67. Phan Khánh (1981), Sơ thảo lịch sử Thủy lợi Việt Nam. Tập I. Nxb Khoa học
xã hội, tr. 117
68. Phan Thúc Huân (2006), Giáo trình Kinh tế học phát triển. Nxb Thống kê. Tp.
HCM
69. Phan Văn Liên (1988), Giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn 1858 – 1957.
Nxb Giao thông vận tải. Hn, tr 140
70. Phùng Hữu Phú, Trần Kim Đỉnh, Ngô Đăng Trí (1994), Lịch sử đường sắt Việt
Nam. Nxb Lao Động. Hn, tr 13-14
71. Quốc Hội (1946), Hiến pháp, Điều 57
72. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục, tập 2. Nxb Giáo dục, Hn,
2004, tr.97
73. Trần Hữu Thắng (2018), Thủy nông Tây Nam Bộ 1802-1945, luận án tiến sĩ sử
học (2002). Đại học Vinh, 2018
74. Trần Thị Mai (1998), Kinh tế Sóc Trăng thời Pháp thuộc (1867 - 1939), luận án
Tiến sĩ Sử học. Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM, tr.78, 124
75. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám. Tập 2, Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm
vụ lịch sử. Nxb Tp. Hồ Chí Minh, tr.15, 18
76. Văn Tạo – Furata Moto (2011), Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam những chứng
tích lịch sử. Nxb Tri Thức, tr. 580
77. Võ Thị Hồng (1998). “Kinh tế An Giang thời Pháp thuộc (1867 – 1939)”, luận
án tiến sĩ sử học. Trường ĐH KHXH và NV Tp. HCM
2.2. Tiếng nước ngoài
78. Albert Pierre Sarraut (1923), La mise en valeur des colonies francaises (Việc
khai thác thuộc địa của nước Pháp). Payot, Paris, tr 20, 463
79. Albert Pouyanne (1930), Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien.
Saigon
183
80. Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher :
Hanoi, 1905, 1906, 1907, 1910 (pp. 583), 1914 (pp. 453-455), 1918
81. Cahier des colons de lndochine. Imprimerie “L'Avenir du Tonkin”, Hanoi,
1907, tr 3
82. Cesar Calderon và Luis Serven. The Effects of Infrastructure Development on
Growth and Income Distribution. Draft for Discussion, March, 2004
83. Chesneaux. Contribution à l’histoire de la nation Viêtnamienne, Editions
Sociales. Paris, 1955, tr, 159
84. Eugene Teston, Maurice Percheron, L’Indochine modern, Librairie de France.
Paris
85. Inspection générale des Travaux Publics Dragages de Cochinchme. Saigon,
1930, tr. 82
86. La mise Mvaleur de l’Indochine francaise… p. 11, 12.
87. M. L. Jean. Imprimerie du Nord – Annam. Vinh, 01/7/1939
88. M. Robert. Monographie de la province de Bienhoa, Imprimerie du Centre
Louis Minh. Saigon, 1924
89. Monographie de la province de Thu Dau Mot, 1910
90. Paul Doumer. L’Indochine francaise (Souvenirs). Paris, Vuibert et Nony, 1905,
tr 286
91. PierreBrocheux – Daniel Hémery, Indochina: An Ambiguous Colonization,
1858-1954, Berkeley: University of California Press, 2009, pp.78-79
92. Prosper Cultru (1862-1917). Histoire de la Cochinchine française: des origines
à 1883. Paris Augustin Challamel, Editeur, 1910
93. Situation économique de l’Indochine, 1942. CAOM, Nouveau Fonds (NF),
Carton 471, D.4905, p 22 – 23
3. Các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học
94. Bành Thị Hằng Tâm. Hệ thống kênh đào ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1867 -
1945). Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam. Số tháng 9, 10/2016
95. Lê Hữu Phước. Diễn tiến và hệ quả của chính sách khai thác thuộc địa ở miền
Đông Nam Kỳ dưới thời Pháp thuộc (1862-1945). Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu
Một. Số 2(33)-2017, tr 19
184
96. Lê Hữu Phước. Nhận diện di sản kinh tế thời thuộc địa ở Nam Kỳ. Tạp chí Phát
triển KH & CN, Tập 16, Số X3- 2013
97. Phạm Hồng Tung. Về mối quan hệ cộng tác – cộng trị Nhật – Pháp ở Việt Nam
trong thế chiến II và nguyên nhân của cuộc đảo chính ngày 9/3/1945. Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 2,3, 2004
98. Phạm Quang Nghị. Thanh niên trí thức và phong trào cộng sản ở Việt Nam tr-
ước năm 1930. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 6/1985
99. Quá trình hình thành và phát triển ngành cao su Việt Nam, Tập san cao su Việt
Nam. Số 58-59, tháng 9/10/1997, tr50
4. Tham luận công bố tại các hội thảo khoa học
100. Lê Huỳnh Hoa. Yếu tố mới trong sự phát triển hạ tầng kinh tế - kỹ thuật ở
Nam Kỳ dưới tác động của chính sách của Pháp. Một số vấn đề về lịch sử vùng đất Nam
Bộ Việt Nam thời kỳ cận đại. Hội thảo khoa học Nam Bộ thời cận đại tháng 3/2008. Nxb
Thế Giới. Hn, tr.136, 145
101. Phạm Hồng Tung. Chế độ cai trị của Nhật – Pháp trên đất Nam Kỳ và tác
động của nó đối với xã hội Việt Nam 1940 – 1945. Một số vấn đề về lịch sử vùng đất
Nam Bộ Việt Nam thời kỳ cận đại, hội thảo khoa học Nam Bộ thời cận đại tháng 3/2008.
Nxb Thế Giới. Hn
5. Nguồn từ Internet
102. bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/
103. bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/
104. http://fandavion.free.fr/brevet_Charles%20VAN%20DEN%20BORN.htm
105. http://dl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/9814/1/
106. http://fandavion.free.fr/brevet_Charles%20VAN%20DEN%20BORN.htm
107. https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/30234286925/in/photostream
/
108. http://www.hangarflying.eu/nl/content/joseph-christiaens-vliegenier-en-
autocoureur
109. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-
nhan- chung/chien-tranh-the-gioi-thu-hai-1939-1945-3354
110. http://www.departments.bucknell.edu/history/projects/BeaucarnotDiary
185
/documents/Ryan_Mayfield_Paper.pdf
111. http://www.entreprises-coloniales.fr/inde-indochine/Cie_aerienne_frse-IC.pdf
112. loigiaihay.com/tai-sao-viec-phat-trien-co-so-ha-tang-c95a10087.htm
113. Ngân Hàng Đông Dương - WordPress.com. renengocnhan. files.wordpress.
com /2010/08/nhdd.doc
114. http://danangtimes.vn/Portals/
115. Paul Doumer, Situation de l’Indochine de 1897 à 1901, Hà Nội 1902, tr 42.
https://luutru.gov.vn/he-thong-duong-sat-viet-nam-thoi-ky-thuoc-dia-qua-tai-lieu-luu-tru-
85-vtlt.htm
116. Paul Doumer. L'Indochine Francaise (Souvenirs), Paris, Vuibert & Nony,
1903, pp. 352 -359; Hoàng Anh – Ngọc Nhàn (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I). Lịch sử
Đường sắt Đông Dương qua tài liệu lưu trữ. luutru.gov.vn/lich-su-duong-sat-dong-
duong-qua-tai-lieu-luu-tru-256-vtlt.htm
117. Ryan S. Mayfield (2003), The Road Less Traveled Automobiles in French
Colonial Indochina được công bố trên Tạp chí ASIANetwork thuộc Đại học Ohio
Wesleyan. Ryan S. Mayfield, The Road Less Traveled Automobiles in French Colonial
Indochina. http://www.departments.bucknell.edu/history.
118. Statistique Générale, Moyens de Transport et de Communication (Averages of
Transportation and Communication), 1936-37, p. 115
119. Tạp chí kinh tế vùng Viễn Đông , ngày 20/4/1929. http://www.entreprises-
coloniales.fr/inde-indochine/Cie_aerienne_frse-IC.pdf
120. Les entreprises coloniales françaiseS Proche Orient. http://www.entreprises-
coloniales.fr/inde-indochine/Cie_aerienne_frse-IC.pdf
186
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. “HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở NAM KỲ THỜI PHÁP THUỘC (1860-1945).
Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ số ISN 1859-
3100. Số 10 (76) - 2015;F
2. “HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở NAM KỲ THỜI PHÁP THUỘC (1867-1945)”. Tạp
chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội vụ). Chỉ số
ISSN-0866-7365. Số 9/2016, số 10/2016;
3. “QUAN HỆ GIAO LƯU VỚI NƯỚC NGOÀI VỀ KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA
VÙNG ĐẤT NAM KỲ GIAI ĐOẠN 1860-1945”. Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam
(Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội vụ). Chỉ số ISSN-0866-7365. Số 5/2017, số
6/2017;
4. “QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG Ở
NAM KỲ TRONG CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN
PHÁP (1897 -1918). Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà
nước, Bộ Nội vụ). Chỉ số ISSN-0866-7365. Số 7/2018, số 8/2018, số 9/2018, số 10/2018;
5. “GIAO THÔNG NAM KỲ (1862 – 1945) - MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TRONG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ HIỆN NAY”. Hội thảo Quốc tế Viễn cảnh Đông Nam
Bộ - lần 2, năm 2020, chủ đề “Liên kết phát triển vùng đô thị động lực thành phố Hồ
Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai: Lý luận và thực tiễn ” do Trường Đại học Thủ Dầu
Một, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển, Viện Qụy hoạch Đô thị và Nông thôn
Quốc gia, Trường Đại học Binh Đông - Đài Loan tổ chức.
187
PHỤ LỤC
1. TÀI LIỆU LƯU TRỮ
(Trung tâm Lưu trữ quốc gia)
188
1.1. Công văn số 1814 ngày 21/10/1038 của Kỹ sư công chánh phụ trách cải tạo phi
trường Tân Sơn Nhất gửi toàn quyền Đông Dương (Nha Kinh tê) – Hà Nội về việc
cải tạo phi trường Tân Sơn Nhất
189
190
1.2. Báo cáo của Khu Công chánh ngày 16/8/1938 về việc xây dựng và cải tạo
phi trường Tân Sơn Nhất như dự toán đã được thông qua ngày 16/8/1938
191
192
1.3. Công văn số 7703 ngày 26/7/1938 của Thống đốc Nam Kỳ gửi Giám đốc Sở
Kinh tế PPhur Toàn quyền - Hà Nội về việc cải tạo phi trường Tâm Sơn Nhất
...
193
194
1.4. Báo cáo của Kỹ sư - Khu Công chánh số 612D ngày 18/7/1938 về việc nối dài
đường băng số 2 và cải tạo vùng xung quanh
195
196
1.5. Công văn số 839-D ngày 20/3/1937 của Khu Công chánh nam Kỳ về việc
xây đường băng số 2 Tân Sơn Nhứt
197
198
1.6. Công văn số 277 DEA/6-B ngày 25/2/1937 của Toàn Quyền Đông Dương
gửi Thống đốc Nam Kỳ - Sài gòn về việc mở rộng phi trường Tân Sơn Nhứt. Trưng
dụng đất.
…
199
200
2. BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
201
Nguồn: Hồ sơ số 2482, Sưu tập Bản đồ thời kỳ Pháp và Mỹ ngụy, TTLTII
2.1. Bản đồ chung về Nam Kỳ
Bản đồ Nam Kỳ giai đoạn 1862 – 1867
Bản đồ Nam Kỳ giai đoạn 1881
202
2.2. Bản đồ, sơ đồ về đường bộ, đường sắt ở Nam Kỳ
Bản đồ đường bộ vùng phụ cận Sài Gòn năm 1922
Bản đồ Sài Gòn năm 1926 cùng danh sách đường phố
Bản đồ Đường bộ và Đường sắt ở Đông Dương năm 1926
203
Bản đồ đường ở Chợ Lớn
Bản đồ Sài Gòn 1896 có đường tramways Sài Gòn - Chợ Lớn có hai đường route Haute (đường trên) và route Basse (đường dưới), Bartholomew
204
Tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho và vị trí 15 ga trên tuyến
Bản đồ hình thành mạng lưới đường sắt khu vực Sài Gòn và phụ cận (1890 – 1936)
Bản đồ đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho (1875 – 1888)
Nguồn: Hồ sơ số 2482, Sưu tập Bản đồ thời kỳ Pháp và Mỹ ngụy, TTLTII
Nguồn: Albert Pouyanne. Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien. Saigon, 1930
205
2.3. Bản đồ kênh rạch, thủy lộ ở Nam Kỳ từ 1888 - 1933
Bản đồ hệ thống kênh, rạch tạo nên hệ thống thủy lộ - thủy lợi ở Nam Kỳ
Biểu đồ thủy lực của hệ thống giao thông thủy ở Nam Kỳ
206
207
Hệ thống bản đồ kênh, rạch tạo nên giao thông thủy, thủy lợi và phân vùng trồng
Bản đồ, bản vẽ thiết kế và ảnh phương tiện đào kênh Rạch Giá - Hà Tiên
lúa nước ở Nam Kỳ từ năm 1880 - 1930
Nguồn: Albert Pouyanne. Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien. Saigon, 1930
208
3. HÌNH ẢNH VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ TRANG THIẾT BỊ
DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG, CẢI TẠO CƠ SỞ HẠ TẦNG Ở
NAM KỲ
209
Không ảnh đường băng và khu vực sân bay Tân Sơn Nhất chụp năm 1936.
Bản đồ sân bay Tân Sơn Nhất năm 1938.
3.1. Sân bay Tân Sơn Nhất
210
Hình ảnh chiếc máy bay và nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất.
Nguồn: Hồ sơ số 2482, Sưu tập Bản đồ thời kỳ Pháp và Mỹ ngụy, TTLTII
3.2. Công cụ đào, nạo vét kênh rạch ở Nam Kỳ
211
212
Nguồn: Albert Pouyanne. Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien. Saigon, 1930
3.3. Hệ thống cảng sông, biển ở Nam Kỳ
Cảng Sài Gòn, 1860
Các hạm tàu trên cảng Sài Gòn (năm 1890).
213
Tàu thuyền làm thủ tục nhập cảng (năm 1890).
Cảng dành cho các tàu buôn (năm 1866).
Bến Bình Đông (Chợ Lớn)
214
Chợ trên bến Bình Đông (Chợ Lớn)
Cảng sông ở Chợ Lớn nhập lúa từ miền Tây Nam Kỳ, xuất gạo đến cảng Saigon để xuất khẩu
215
Bến Ninh Kiều (Cần Thơ)
Cảng Mỹ Tho với tàu chạy máy hơi nước
Nguồn: Bộ sưu tập hình ảnh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ
216
3.4. Cầu, đường ở Nam Kỳ
Cầu đường sắt Bến Lức trên tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho
Cầu sắt - Tân An
217
Tàu lửa tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho phải dùng phà qua sông lúc 2 cây cầu sắt Tân An và Bến Lức chưa xây xong.
Xe lửa chạy trên cầu Bình Lợi trên tuyến đường sắt xuyên Việt
218
Xe lửa chạy trong các cánh rừng cao su
Cầu sắt Lái Thiêu (cầu Phú Long cũ), Năm 1913 tuyến đường sắt Sài Gòn – Lái Thiêu
(chợ Búng), sau đó kéo dài đến Thủ Dầu Một.
Cầu Nghềnh (Cầu Gành), Biên Hòa (1902) trên tuyến đường sắt xuyên Việt
219
Cầu sơn
Cầu quay Khánh Hội
Cầu Móng ngày xưa có ô tô lưu thông
220
Cầu chữ Y (1938 – 1941)
Nguồn: Bộ sưu tập hình ảnh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTII
Cầu ba cẳng (Chợ Lớn)
221
3.5. Tàu – ga (tàu điện nội đô và tàu hơi nước liên tỉnh)
Trụ sở Công ty Đường sắt Đông Dương ở Sài Gòn
Đầu máy xe lửa Vaico (Vàm Cỏ) do CTy Alsacienne chế tạo năm 1895
(đường ray rộng 1m)
222
Một trong ba đầu máy hợp nhất Borsig 2-8-0 và hợp nhất (số 300-302) được CVFLNCI mua để vận hành dây chuyền
Tuyến tramways đường dưới (route basse), đi từ chợ Bến Thành đến Gò Vấp
223
Tramways chạy bằng đầu máy hơi nước loại nhỏ trên đường de La Somme (Hàm Nghi ngày nay)
Trạm xe điện Sài Gòn vào những năm 1890
224
Một tuyến xe điện Galliéni ở Chợ Lớn vào những năm 1940
Ga Sài Gòn (cũ), hiện là công viên 23/9 ngày nay. Đây là một trong 2 ga đầu - cuối của đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho
Xe điện chạy dọc theo đường Bùi Hữu Nghĩa (Gia Định cũ)
225
Ga Mỹ Tho Ga Lộc Ninh, 1940
Nguồn: Bộ sưu tập hình ảnh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTII
Ga Bà Chiểu năm 1913
3.6. Xe ô tô ở Nam Kỳ
Công Ty Garage Citroen
Quảng cáo Garage Citroen
226
Renault Monasix model RY2 -1930
Công ty Saigon Garage thành lập năm 1936, góc đường Nguyễn Huệ và Công
trường Garnier (công trường Lam Sơn thời VNCH-công viên nằm đối diện với
Nguồn: Bộ sưu tập hình ảnh, phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ. TTLTII
Hạ Viện-bây giờ Nhà Hát Thành Phố)
227
3.7. Tàu bay của Hàng không Nam Kỳ, Đông Dương
Van Den Born trên chiếc máy bay Farman IV ở Saigon, 1910
Máy bay Pháp hạ cánh xuống Sài Gòn năm 1925.
Nguồn: http://fandavion.free.fr/brevet_Charles%20VAN%20DEN%20BORN.htm
3.8. Thuyền, ghe trên sông, kênh rạch ở Nam Kỳ
228
Nguồn: Albert Pouyanne. Dragages de Cochinchine Canal RachGia – HaTien. Saigon, 1930