ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HÀ
QUAN HỆ INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965:
NHỮNG BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60220311
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Thủy
HÀ NỘI – 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................ Error! Bookmark not defined.
1.Lý do chọn đề tài ......................................... Error! Bookmark not defined.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................... Error! Bookmark not defined.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .......... Error! Bookmark not defined.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................ Error! Bookmark not defined.
6. Đóng góp của đề tài .................................... Error! Bookmark not defined.
7. Bố cục của luận văn ................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 1:NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965 ... Error! Bookmark not defined.
1.1. Bối cảnh quốc tế .................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.1.Chiến tranh lạnh và sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu ........ Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Mối quan hệ của Indonesia và Malaysia với hai khối Error! Bookmark not defined.
1.2. Bối cảnh khu vực .................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập ở Đông Nam Á ................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Hội nghị Bandung năm 1955 .................. Error! Bookmark not defined.
1.3. Tình hình chính trị của Indonesia và Malaysia .... Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Tình hình chính trị của Indonesia .......... Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Tình hình chính trị của Malaysia ........... Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Singapore, Sabah và Sarawak gia nhập Liên bang Malaysia ..... Error! Bookmark not defined.
1.4. Khái quát về mối quan hệ Indonesia và Malaysia trước năm 1957 ............................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 2: NHỮNG BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ GIỮA INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957 - 1965 ............ Error! Bookmark not defined.
2.1. Những bất đồng chính trị giữa Indonesia và Malaysia giai đoạn 1957 - 1962 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Những bất đồng trong chính sách đối nội và đối ngoại của Indonesia và Malaysia ................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Những bất đồng quan điểm giữa Indonesia và Malaysia về vai trò lãnh đạo khu vực .......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Sự căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia thông qua các cuộc nổi dậy ở Brunei, Sarawak. ......................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Cuộc đối đầu quân sự giai đoạn 1963 – 1965 . Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Những diễn biến chính của cuộc đối đầu quân sự ................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Kết quả của cuộc đối đầu quân sự Indonesia và Malaysia ... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Sự can thiệp từ bên ngoài trong cuộc đối đầu giữa Indonesia và Malaysia ....................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Bình thường hóa quan hệ Indonesia và Malaysia... Error! Bookmark not defined.
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA BẤT ĐỒNG CHÍNH TRỊ GIỮA INDONESIA - MALAYSIA ĐỐI VỚI BẢN THÂN MỖI QUỐC GIA VÀ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á………………………………………….. Error! Bookmark not defined.
3.1. Đối với Indonesia ..................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Về kinh tế - xã hội .............................. Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Về an ninh - chính trị ........................ Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Về đối ngoại ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.2. Đối với Malaysia ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Về kinh tế - xã hội .............................. Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Về an ninh - chính trị ........................ Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Về đối ngoại ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.3. Đối với Đông Nam Á ............................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ........................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC ........................................................... Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Indonesia và Malaysia là hai quốc gia lớn và đông dân, lại nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á.1 Chính vì vậy, hai quốc gia này có vị trí quan trọng
không chỉ trong ASEAN mà còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Bất cứ sự
biến động nào ở Indonesia và Malaysia đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới
an ninh của cả khu vực. Có thể nói, chính sự thay đổi trong chính sách đối ngoại
của Indonesia và Malaysia, cụ thể là đối với các nước láng giềng Đông Nam Á, là
một nhân tố quan trọng dẫn đến việc thành lập ASEAN vào cuối những năm 60
của thế kỷ XX. Hai quốc gia này đã đóng vai trò tích cực nếu không muốn nói là
trụ cột trong sự lớn mạnh của ASEAN về các mặt kinh tế, chính trị trong hơn ba
thập kỷ qua. Ngược lại, sự lớn mạnh của ASEAN là nhân tố giúp Indonesia và
Malaysia tăng cường vị thế của mình trên trường quốc tế. Xét trên khía cạnh đó,
chúng ta thấy được mối quan hệ khăng khít về kinh tế, chính trị giữa Indonesia,
Malaysia với các quốc gia của tổ chức ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là một thành viên tích cực của ASEAN; và hơn hết Việt Nam có mối
liên hệ lâu dài về mặt lịch sử với cả Indonesia và Malaysia. Nhiều vấn đề mà hai
quốc gia này đã và đang gặp phải cũng là những thách thức đối với Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu lịch sử Indonesia và Malaysia cũng như mối quan
hệ giữa hai quốc gia này, cả trong quá khứ và hiện tại, có ý nghĩa thực tiễn to lớn,
có thể gợi mở những bài học kinh nghiệm quý báu và giúp định hình, điều chỉnh
chính sách đối ngoại hợp lý với các quốc gia này.
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa hai quốc gia Indonesia và
1Theo cống kê năm 2015, Indonesia là quốc gia có số dân đông nhất Đông Nam Á, cũng trong năm 2015 Malaysia giữ vai trò là chủ tịch hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
5
Malaysia trong giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1965. Đây được xem là giai đoạn
hai nước có những bất đồng chính trị sâu sắc mà nguyên nhân trực tiếp được bắt
nguồn từ việc Indonesia phản đối thành lập Liên bang Malaysia. Đỉnh điểm của
mâu thuẫn là cuộc đối đầu quân sự giữa hai nước trong các năm 1963-1965 dưới
tên gọi “Confrontasi” (Đối đầu). Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Indonesia và
Malaysia, vốn là hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về lịch sử - văn hóa, đều
bị thực dân Phương Tây đô hộ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở hai nước
có mối liên hệ khăng khít, nhưng khi Malaysia tuyên bố độc lập thì Indonesia lại
cực lực phản đối? Tại sao Indonesia và một số quốc gia ở Đông Nam Á lại có sự
ngờ vực và phản đối việc thành lập Liên bang Malaysia? Cuộc đối đầu quân sự
giữa Indonesia và Malaysia diễn ra như thế nào? Đặt trong bối cảnh của cuộc
Chiến tranh lạnh cuối những năm 50 đầu những năm 60, các nước lớn có tác động
như thế nào tới quan hệ giữa Indonesia và Malaysia? Hệ quả của mối quan hệ đối
đầu giữa Indonesia và Malaysia đối với tình hình chính trị, kinh tế của mỗi nước
cũng như của khu vực Đông Nam Á như thế nào?
Trên cơ sở phân tích bối cảnh chính trị của khu vực và thế giới thời Chiến tranh
lạnh tác động đến mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia, Luận văn sẽ làm rõ
thực chất của những bất đồng chính trị giữa hai quốc gia trong giai đoạn 1957 -
1965 là gì. Việc hiểu những bất đồng này không chỉ giúp lật lại trang sử bang giao
của hai nước Indonesia và Malaysia mà còn góp phần làm rõ mối quan hệ quốc tế
của khu vực Đông Nam Á cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỉ XX.
Kinh nghiệm từ việc giải quyết những bất đồng chính trị giữa Indonesia và
Malaysia trong giai đoạn này sẽ là một bài học kinh nghiệm quý giá cho việc giải
quyết các xung đột trong khu vực, quốc tế hiện nay. Trên tinh thần đó, việc lựa
chọn đề tài “Quan hệ Indonesia và Malaysia giai đoạn 1957 – 1965: Những bất
6
đồng chính trị” vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu quốc tế
Là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lịch sử khu vực Đông Nam Á
nói chung và lịch sử quan hệ bang giao giữa hai nước nói riêng nên vấn đề bất
đồng chính trị giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 1957-1966 nhận được sự
quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Công trình quan trọng nhất đề cập trực
tiếp đến vấn đề này là “Konfrontasi: The Indonesia – Malaysia dispute, 1963-
1966” của J.A.C. Mackie, xuất bản vào năm 1974. Công trình đã phân tích các sự
kiện cụ thể của cuộc đối đầu quân sự giữa Indonesia và Malaysia diễn ra trong giai
đoạn 1963-1965; chế độ chính trị của Indonesia dưới thời Sukarno cũng như các
chính sách cụ thể của Indonesia đối với Malaysia. Tuy nhiên, việc tập trung quá
sâu vào chế độ chính trị của Tổng thống Sukarno đã khiến công trình không làm rõ
được bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến mối quan hệ đối đầu này. Hơn nữa,
tác giả cũng không làm rõ các chính sách đối phó của Malaysia trước các chính
sách và hành động thù địch từ phía Indonesia.
Ngoài công trình của Mackie kể trên, quan hệ giữa Indonesia và Malaysia
trong giai đoạn 1957-1965 còn được đề cập đến trong các công trình về lịch sử
ngoại giao giữa hai quốc gia. Cuốn “The politics of Indonesia-Malaysia relations:
One kin two nations” của tác giả Liow Joseph Chingnyong xuất bản năm 2005 đã
khái lược mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia từ năm 1949 khi Indonesia
giành được độc lập hoàn toàn từ Hà Lan cho đến năm 2000. Tác giả đã đưa ra lập
luận rằng mối quan hệ chính trị giữa hai nước được xác định chủ yếu dựa trên sự
cạnh tranh. Đồng thời công trình cũng cung cấp những nền tảng lý thuyết về sự
tương đồng giữa hai quốc gia đứng từ góc độ dân tộc, ngôn ngữ và chủ nghĩa dân
tộc. Đặc biệt công trình còn nghiên cứu mối quan hệ của hai quốc gia này trong bối
7
cảnh quan hệ với các quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á.
Viết về quan hệ Indonesia – Malaysia vào thời điểm đỉnh cao của mối quan hệ
đối đầu là công trình “Indonesian Intentions towards Malaysia”, xuất bản năm
1964 bởi Bộ Thông tin truyền thông Malaysia. Công trình này tổng hợp các văn
kiện của chính phủ Malaysia trong việc đối phó lại chính sách đối đầu của
Indonesia. Nội dung chính của công trình này là khái quát các chính sách của
Indonesia với Malaysia; quá trình chuẩn bị xâm lược của Indonesia đối với
Malaysia vào năm 1958 và sự chuẩn bị đối phó của Malaysia.
Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên sâu, mối quan hệ ngoại giao giữa
Indonesia - Malaysia trong giai đoạn 1957-1965 còn được thể hiện ở một số công
trình viết riêng về quan hệ ngoại giao của từng nước, hay những công trình đề cập
đến tình hình chính trị của các quốc gia giai đoạn này. Tiêu biểu trong số đó là
công trình “Foreign policy and national integration: The case of Indonesia” của
tác giả Jon M.Reinhardt xuất bản vào năm 1971. Công trình đề cập đến chính sách
đối ngoại, chủ nghĩa dân tộc, con đường giành độc lập của Indonesia. Cuốn
“Indonesian foreign policy and the dilemma of dependence, from Sukarno to
Soeharto”, tác giả Franklin B. Weinstein, xuất bản năm 1976, phân tích các chính
sách ngoại giao của Indonesia từ khi giành được độc lập năm 1945 đến thời kì cầm
quyền Suharto. Tuy công trình có đề cập đến mối quan hệ với quốc gia láng giềng
Malaysia, nhưng trọng tâm của cuốn sách là các chính sách của Indonesia với các
cường quốc lớn trên thế giới.
Từ những nghiên cứu điền dã, tác giả Noboru Ishisawa tìm hiểu nguyên nhân
của những bất đồng về biên giới giữa Indonesia và Malaysia trong cuốn “Between
frontiers: Nation and identity in a Southeast Asia borderland”, xuất bản năm 2010.
Công trình đã dựa trên những nghiên cứu tại vùng biên giới giữa tỉnh Sarawak của
Malaysia và tỉnh Borneo của Indonesia để tìm hiểu những vấn đề xung quanh việc
phân chia lãnh thổ, việc duy trì lãnh thổ quốc gia và quan điểm của người dân địa
8
phương và khái niệm lãnh thổ quốc gia. Qua đó, tác giả mô tả phép biện chứng xã
hội – nhà nước và quan điểm của hai quốc gia về đường biên giới của lịch sử và
hiện tại.
Ngoài tài liệu sách còn có nguồn tài liệu bằng tạp chí như bài phân tích
“Indonesia’s Confrontation with Malaysia: a seach for motives”, của Donal
Hindley, đăng trên Asian Survey, năm 1962. Bài viết phân tích chủ nghĩa dân tộc
và sự phát triển kinh tế không đồng đều của hai nước và khẳng định chính đây là
những yếu tố khiến cho Indonesia và Malaysia có những bất đồng và tranh chấp.
Bên cạnh đó là hàng loạt các bài viết đăng trên Asian Survey trong những năm
diễn ra cuộc đối đầu Indonesia – Malaysia như “The Indonesian Image of West
Irian , Asian Survey Berkeley, 1961, Vol.I, No. 5; Pauker, Guy J., “Indonesia
Internal Development or External Expansion?” Asian Survey, Berkeley, 1963.-
Vol.III.- No. 2; Butwell, Richard, “Malaysia and Its Impact on the International
Relations of Southeast Asia”, Asian Survey.- Berkeley, 1964, Vol.IV, No. 7;
Mohammad Hatta, “One Indonesian View of the Malaysia Issue”, Asian Survey,
Berkeley, 1965, Vol.V, No. 3; Sutter, John O, “Two Faces of Konfrontasi : "Crush
Malaysia" and the gestapu”, Asian Survey, Berkeley, 1966, Vol.VI, No. 10.
Mặc dù nguồn tài liệu tiếng Anh phong phú bao gồm sách tham khảo, sách
chuyên sâu, các bài tạp chí… Tuy nhiên những nguồn tài liệu trên mới chỉ khái
quát bối cảnh hai nước Indonesia và Malaysia tác động đến chính sách đối ngoại
của hai nước mà chưa đi sâu phân tích bối cảnh quốc tế có tác động sâu sắc đến
những bất đồng của hai nước. Đặc biệt, nguồn tài liệu tiếng Anh chưa làm rõ
những mâu thuẫn thù địch giữa Indonesia và Malaysia xuất phát từ quan điểm
chính trị khác nhau của hai nhà lãnh đạo Sukarno và Abdul Rahman. Nguồn tài
liệu tiếng Anh cũng chưa đi sâu phân tích, đánh giá hệ quả của những bất đồng
chính trị giữa Indonesia đối với bản thân mỗi nước và khu vực. Tuy nhiên, nguồn
9
tài liệu tiếng Anh trên là tiền đề và cơ sở để tôi thực hiện Đề tài của mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia cũng được đề cập
trong một số công trình nghiên cứu của các học giả trong nước. Trong công trình
“Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN” do Nguyễn Xuân Sơn và Thái Văn
Long chủ biên, Nxb. chính trị quốc gia (1997), đã khái lược mối quan hệ đối ngoại
giữa các nước ASEAN. Trong đó, tác giả đã nêu ra một số chính sách đối ngoại
của hai nước ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa hai quốc gia trong giai
đoạn 1957-1965.
Mối quan hệ giữa Malaysia và Indonesia còn được thể hiện trong những công
trình viết riêng về mỗi nước như công trình của Viện nghiên cứu Đông Nam Á với
tiêu đề “Liên bang Malaysia – Lịch sử, văn hóa và những vấn đề hiện đại”, Nxb.
Khoa học Xã hội (1998) với nội dung đề cập đến quá trình lịch sử, những đặc trưng
văn hóa, xã hội tôn giáo của Malaysia. Tác giả Ngô Văn Doanh với công trình
“Indonesia- những chặng đường lịch sử”, Nxb. Chính trị quốc gia, (1995) với nội
dung giới thiệu về đất nước Indonesia, những vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao.
Ngoài ra còn có các công trình của Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử Indonesia (từ thế
XV-XVI đến những năm 1950), Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992); Huỳnh Văn Tòng,
Lịch sử Malaysia, Singapore và Brunei từ thế kỉ XVI đến đầu thập niên 80, Viện
đào tạo mở rộng (1993); V.A. Chiurin, Vài nét về chế độ kinh tế xã hội Mã Lai,
Nxb. Sự thật (1962)…
Những công trình viết chung về lịch sử Đông Nam Á cũng đề cập đến mối
quan hệ căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 1957-1965 bao
gồm: Lịch sử Đông Nam Á: Từ nguyên thủy đến ngày nay do tác giả Lương Ninh
chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia (2016); D.G.E. Hall, Lịch sử Đông Nam Á, Nxb
Chính trị quốc gia (1997); Lương Ninh (Cb.), Lịch sử Đông Nam Á: Nxb. Giáo dục
(2005); Vũ Dương Ninh (Cb), Đông Nam Á truyền thống và hội nhập, Nxb. Thế
10
Giới (2007)...
Điểm qua các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Việt cho thấy các công
trình viết về mối quan hệ của hai nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đồng thời
các công trình cũng đề cập đến nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội của
hai nước Indonesia và Malaysia. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu mối quan hệ của hai quốc gia trong giai đoạn 1957 đến 1965. Các công trình
chưa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bối cảnh quốc tế đưa đến những bất đồng
mâu thuẫn chính trị giữa Indonesia và Malaysia trong giai đoạn này. Nguồn tài liệu
tiếng Anh và tiếng Việt cũng chưa phân tích được tác động của mối quan hệ hai
nước đối với bản thân nội tại Indonesia – Malaysia, cũng như đối với tình hình an
ninh chính trị khu vực Đông Nam Á. Đặt biệt là ở trong nước, chưa có công trình
nghiên cứu nào được công bố viết về bất đồng, mâu thuẫn giữa Indonesia và
Malaysia trong giai đoạn đầy biến động này.
Dựa trên những công trình khoa học có liên quan được công bố trong và ngoài
nước, đề tài “Quan hệ Indonesia và Malaysia giai đoạn 1957 – 1965: Những bất
đồng chính trị” sẽ đem đến một cách nhìn tổng quát về mối quan hệ của hai nước
trong gần một thập kỷ, phân tích mối quan hệ hai quốc gia trong bối cảnh khu vực
và quốc tế. Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Indonesia và Malaysia,
chúng tôi cũng muốn đánh giá những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của những
biến động chính trị ở hai quốc gia này đối với tình hình chung của khu vực thời kỳ
Chiến tranh lạnh.
11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là những bất đồng về mặt chính trị
giữa hai quốc gia Indonesia và Malaysia trong giai đoạn từ 1957 đến 1965.
- Cụ thể luận văn sẽ tập trung vào những nội dung chính sau:
+ Những tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực đến mối quan hệ của
Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 1957-1965
+ Nội dung của chính sách đối đầu được triển khai bởi chính phủ Sukarno
+ Những biện pháp đối phó của chính phủ Malaysia và lực lượng Đồng minh
+ Tác động của mối quan hệ đối đầu giữa Indonesia và Malaysia đối với tình
hình kinh tế, xã hội, an ninh chính trị của mỗi nước và đối với khu vực
3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu của Luận văn là giai đoạn
cao trào của Chiến tranh Lạnh, cụ thể là giai đoạn 1957-1965.
- Phạm vi không gian: Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là những bất đồng
chính trị giữa Indonesia và Malaysia nên không gian nghiên cứu chính là
Indonesia và Malaysia.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu tiếng Việt và
tiếng Anh sau:
- Tài liệu gốc: các văn bản đạo luật, các bản tuyên bố của Chính phủ và các
cơ quan chức năng; phát biểu các nhà lãnh đạo Indonesia và Malaysia có liên quan
đến chủ đề.
- Các sách chuyên khảo, tham khảo, bài nghiên cứu về lịch sử Indonesia, lịch
12
sử Malaysia, lịch sử thế giới trong thời kỳ cận, hiện đại.
- Các công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp về vấn đề quan hệ quốc tế nói
chung và quan hệ Indonesia – Malaysia giai đoạn 1957-1965
13
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc phạm trù lịch sử nên phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử
dụng trong luận văn này là phương pháp lịch sử. Cùng với đó tôi sử dụng
phương pháp biện chứng giúp đánh giá một cách khách quan các sự kiện trong
quan hệ giữa Indonesia và Malaysia trong bối cảnh lịch sử chung của khu vực,
các sự kiện kinh tế, chính trị ngoại giao giữa hai nước. Sự kết hợp giữa hai
phương pháp này giúp tôi phân tích đánh giá các sự kiện lịch sử, những mâu
thuẫn bất đồng của hai nước một cách khách quan hơn.
Bên cạnh đó, đề tài còn áp dụng phương pháp khác như phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp logic, các phương pháp của ngành
quan hệ quốc tế và khu vực học…Việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu
cho phép chúng tôi vừa có cái nhìn lịch sử về mối quan hệ của hai quốc gia,
vừa đánh giá được những tác động đa chiều của mối quan hệ khu vực, quốc tế
đối với quan hệ của hai quốc gia này.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ những bất đồng chính trị hai nước
trong một giai đoạn lịch sử từ năm 1957 đến 1965.
5.2. Nhiệm vụ:
Tập hợp, xử lý và hệ thống hóa tư liệu nhằm tái hiện những nguyên nhân
dẫn đến mâu thuẫn chính trị trong quan hệ của hai nước Indonesia và
Malaysia trong những năm 50, 60 của thế kỉ XX
Phân tích những biểu hiện của sự bất đồng chính trị, những mâu thuẫn
trong quan hệ của hai nước từ năm 1957 - 1965.
Rút ra một số nhận xét về mối quan hệ của hai nước trong khoảng thời gian từ
14
năm 1957 - 1965. Đồng thời Luận văn cũng đánh giá những ảnh hưởng của mối
quan hệ hai nước đối với bản thân nội tại Indonesia - Malaysia, và những tác động
của hai nước đối với tình chung của khu vực Đông Nam Á.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đi sâu tìm hiểu những nhân tố quốc tế và khu vực tác động đến sự bất
đồng, mâu thuẫn trong quan hệ của hai nước trên lĩnh vực chính trị. Phân tích
những biểu hiện của sự mâu thuẫn, thù địch trong quan hệ của hai nước chủ yếu
thông qua cuộc đối đầu quân sự năm 1963-1965 với sự can thiệp của nhiều nước
lớn. Qua đó, luận văn giúp cho độc giả có cái nhìn toàn diện hơn về quan hệ
Indonesia - Malaysia trong giai đoạn từ năm 1957 - 1965. Mối quan hệ này không
chỉ phản ánh sự chia rẽ trong quan hệ của hai nước láng giềng Đông Nam Á, mà
còn phản ánh sự chia rẽ trong quan hệ quốc tế ở thời kì Chiến tranh lạnh. Do đó,
luận văn có thể được xem là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho công tác
nghiên cứu về lịch sử Indonesia - Malaysia nói riêng và bổ sung kiến thức cho tác
giả về lịch sử thế giới nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Những nhân tố tác động tới mối quan hệ giữa Indonesia và
Malaysia giai đoạn 1957-1965
Chương 2: Những bất đồng chính trị giữa Indoneisa – Malaysia giai đoạn
1957 - 1965
Chương 3. Tác động của bất đồng chính trị giữa Indonesia – Malaysia đối
15
với bản thân mỗi quốc gia và khu vực Đông Nam Á
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA INDONESIA VÀ MALAYSIA GIAI ĐOẠN 1957-1965
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945 tình hình thế giới có nhiều thay
đổi. Giữa bối cảnh một châu Âu bị tàn phá và suy yếu thì Mỹ và Liên Xô nổi lên
16
với vai trò là siêu cường thế giới, giàu có và hùng mạnh. Những quyết định của
Hội nghị cấp cao Ianta2 tháng 2 năm 1945 đã trở thành những khuôn khổ của “Trật
tự thế giới mới” [17;234]. Trong “Trật tự thế giới mới” đã diễn ra một cuộc đối đầu
gay gắt giữa một bên là phe Xã hội Chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô và bên kia là
phe Tư bản chủ nghĩa do Mỹ lãnh đạo. Với hai ý thức hệ đối lập, hai quốc gia này
đã đứng trên hai chiến tuyến trái ngược nhau, luôn đấu tranh không khoan nhượng,
làm cho tình hình thế giới có lúc căng thẳng. Tuy không nổ ra cuộc chiến tranh
trực tiếp từ hai siêu cường, nhưng mâu thuẫn và đối đầu luôn diễn ra trên các vấn
đề chính trị, ngoại giao, kinh tế. Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường thời này được
gọi là “Chiến tranh lạnh” và có tác động to lớn đến quan hệ quốc tế, tình hình
chính trị của từng nước, từng khu vực. Nằm trong khu vực Đông Nam Á, những
bất đồng mâu thuẫn của Indonesia - Malaysia cũng chịu tác động sâu sắc từ bối
cảnh quốc tế trên.
1.1. Bối cảnh quốc tế
1.1.1. Chiến tranh lạnh và sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
“Chiến tranh lạnh” được hiểu là thời kì căng thẳng về mặt chính trị và quân sự
giữa Mỹ và Liên Xô. Yếu tố “chiến tranh” ở đây thể hiện sự đối đầu sâu sắc về mặt
quyền lực và ý thức hệ giữa hai nước; trong đó “lạnh” phản ánh việc Liên Xô và
Mỹ không sử dụng vũ khí “nóng” trong mối quan hệ kình địch này, mà thay vào đó
là cuộc chạy đua vũ trang, nổi bật nhất là vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, “Chiến
17
tranh lạnh” là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử tồn tại hệ thống lưỡng cực mà Mỹ và 2 Hội nghị Ianta còn được gọi là Hội nghị Crime với sự tham gia của 3 cường quốc: Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh. Hội nghị họp từ ngày 4 -11/2/1945 tại cung điện Livadia (Liên Xô). Đây là hợp tác quân sự để giải quyết những bất đồng giữa ba cường quốc thắng trục phát xít và buộc Đức đầu hàng vô điều kiện, tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, đưa ra chính sách với Đức cũng như với các nước được giải phóng khi cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đã ngã ngũ. Sự kiện này cũng dẫn đến việc hình thành trật tự lưỡng cực Ianta, đó là việc phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các nước lớn của phe đồng minh tại hội nghị. Nội dung của hội nghị về việc kết thúc chiến tranh. Ba cường quốc thống nhất mục đích tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa phát xít Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật, Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại châu Á. Hội nghị thông qua các quyết định phân chia ảnh hưởng của hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Trật tự lưỡng cực Ianta đã góp phần hình thành hai hệ thống xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô là đại diện và mâu thuẫn giữa hai nước cũng đại diện cho mâu thuẫn giữa
hai hệ tư tưởng Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu và Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
khởi xướng. Do đó, “Chiến tranh lạnh” đã tác động toàn diện tới tất cá các mặt đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia khi mà các nước tự xác
định con đường đi của mình dựa trên sự hình thành ý thức hệ.
Trong bối cảnh này, hai quốc gia mạnh nhất là Liên Xô và Mỹ đã gia tăng
tranh giành khu vực ảnh hưởng trên thế giới. Đặc biệt là cả hai nước đều tập trung gây ảnh hưởng lên các nước thế giới thứ ba.3 Quá trình phi thực dân hóa diễn ra
trong những năm 50, 60 của thế kỉ XX với kết quả là các quốc gia mới giành được
độc lập đã nhanh chóng lọt vào tầm ngắm của hai siêu cường. Mỹ và Liên Xô
quyết liệt tranh giành ảnh hưởng tại những quốc gia này như một cách tăng cường
sức mạnh ra ngoài các khu vực ảnh hưởng truyền thống. Vì vậy, Đông Nam Á
cũng là một trong những khu vực mà Liên Xô và Mỹ đều muốn tranh giành ảnh
hưởng.
“Chiến tranh lạnh” là một cuộc đối đầu hết sức căng thẳng giữa hai bên. Năm
1946, lãnh tụ của Liên Xô khi đó là Joseph Stalin khẳng định sự thành công của
Chủ nghĩa cộng sản với việc Liên Xô đã lôi kéo được các quốc gia Đông Âu đi
theo con đường Xã hội chủ nghĩa của mình. Mỹ và các nước đồng minh ngay lập
tức bác bỏ tuyên bố trên và đã tiến hành các biện pháp nhằm ngăn chặn Chủ nghĩa
cộng sản. Trong những năm 1947 - 1949, Mỹ thực hiện “Chính sách ngăn chặn”.
Chính sách này được đề ra dựa trên những kết luận của Kenna một chuyên gia về
3Về nguồn gốc thuật ngữ “Thế giới thứ ba” dùng để chỉ các nước không thuộc thế giới phương Tây, cũng không thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa trong Chiến tranh lạnh. Những nước này tham gia phong trào không liên kết thành lập năm 1955 sau Hội nghị Bangdung (Indonesia). Thuật ngữ “Thế giới thứ ba” dần có sự biết đổi về ngữ nghĩa phạm vi áp dụng và trong nhiều trường hợp đồng nhất với các quốc gia chậm phát triển (underdevelopment) hay đang phát triển (developing countries). Hiện nay thuật ngữ “thế giới thứ ba” hay “quốc gia chậm phát triển” không còn được áp dụng phổ biến.
18
Liên Xô của Mỹ cho rằng, sau chiến tranh Liên Xô bị suy yếu, kiệt quệ cả về vật
chất lẫn tinh thần, chỉ cần đặt trước Liên Xô một lực lượng mạnh mẽ thì chỉ trong
thời gian từ 10 đến 15 năm, Liên Xô sẽ bị tiêu diệt và sẽ ngăn chặn được Chủ
nghĩa cộng sản mở rộng ảnh hưởng trên thế giới. Kenna chủ trương “ngăn chặn lâu
dài”, ngăn chặn một cách kiên trì nhưng phải cứng rắn và cảnh giác trước những
khuynh hướng mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô, điều đó phải là một nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng tới bất cứ chính sách nào của Mỹ đối với Liên Xô. Ở Đức cũng như
ở Triều tiên, Mỹ không chỉ muốn “ngăn chặn” sự “bành trướng của Chủ nghĩa
cộng sản” mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản động ở hai nước này để
tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược, thống trị toàn nước Đức và
Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mỹ đã bỏ công sức nhiều nhất hi vọng rằng sẽ
tiêu diệt lực lượng cách mạng và đặt được nền thống trị ở lục địa này.
Để tiến thêm một bước nữa trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới và
chống lại các nước Xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc, Mỹ
tiến hành thành lập các khối quân sự nhằm tập hợp các lực lượng phản cách mạng
đặt dưới sự chỉ huy của Mỹ để bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân Đông
Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc. Bước đầu tiên trên con đường xây
dựng các khối quân sự xâm lược là “Hiệp định phòng thủ Tây bán cầu” kí giữa Mỹ
và các nước đồng minh năm 1947. Đến năm 1949, Mỹ đứng ra thành lập Tổ chức hiệp ước Bắc Đại tây dương viết tắt NATO4. Thực chất khối NATO là một công cụ
4 NATO là tên viết tắt của Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (tiếng Anh: North Atlantic Treaty Organization). Đây là một liên minh quân sự được thành lập năm 1949 bao gồm Mỹ và một số nước châu Âu. Trụ sở chính đặt tại Brusels, Bỉ. NATO là khối quân sự - chính trị lớn nhất thế giới, liên kết phần lớn các nước châu Âu, Hoa Kỳ và Canada. Các nước thành viên NATO gồm: Bỉ, Anh, Đan Mạch, Iceland (không có lực lượng của vũ trang), Italia, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Mỹ, Pháp, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Tây Ban Nha (không tham gia trong cơ cấu quân sự của khối) Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Bulgaria, Lithuania, Latvia, Estonia, Romania, Slovakia, Slovenia, Albania, Croatia. Một trong những mục tiêu tuyên bố của NATO là để kiềm chế bất kỳ hình thức xâm lược lãnh thổ nào chống lại bất kỳ quốc gia thành viên NATO hoặc bảo vệ các thành viên đó. Các cơ quan chính trị cao nhất của NATO là Hội đồng Bắc Đại Tây Dương (Hội đồng NATO), trong đó bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, có nhiệm vụ tiến hành các phiên họp dưới sự chủ trì của Tổng thư ký NATO.
19
của chính sách bành trướng xâm lược của Mỹ. Vì thế ngay sau khi khối NATO
được thành lập, những mâu thuẫn nội bộ đã thể hiện rõ rệt; Anh và Mỹ tranh giành
nhau quyền lãnh đạo và ảnh hưởng trong khối NATO. Sau khi vươn lên Pháp và
Tây Đức cũng đấu tranh gay gắt đòi Mỹ chia sẻ quyền lãnh đạo. Năm 1954, sau
khi chia cắt Đức và thành lập nước Cộng hoà liên bang Đức, Mỹ và các nước
phương Tây đã kí hiệp ước Pari nhằm vũ trang lại Tây Đức và đưa Tây Đức vào
khối quân sự NATO, biến Tây Đức thành “một lực lượng xung kích” chống lại
Cộng hoà dân chủ Đức, Liên Xô và các nước Đông Âu Xã hội chủ nghĩa.
Mỹ tiếp tục thành lập các khối liên minh quân sự ở các khu vực khác nhằm hỗ
trợ cho khối NATO và bao vây Liên Xô, các nước Xã hội chủ nghĩa như Hiệp ước
an ninh Mỹ - Nhật (9/1951), Khối ANZUS, Khối SEATO ở Đông Nam Á
(9/1954), khối CENTO ở Trung Cận Đông (1959). Mỹ thiết lập hàng nghìn căn cứ
quân sự, đưa hàng chục vạn quân Mỹ đóng rải rắc khắp mọi nơi. Phía Liên Xô
cũng đưa hàng chục vạn quân ra đóng ở các nước Đông Âu (tập trung Đông Đức),
ở Mông Cổ và biên giới Xô – Trung [68].
Trước tình hình đó các nước Xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Đông Âu đã tổ
chức hội nghị Warszawa. Hội nghị đã nhận định: trong tình hình hiện nay, phương
pháp giữ gìn hoà bình và ngăn chặn chiến tranh tốt nhất là tổ chức hệ thống an ninh
tập thể gồm tất cả các nước châu Âu có chế độ xã hội khác nhau, dựa trên các
nguyên tắc nêu trong bản tuyên bố của Hội nghị Moscow năm 1954. Các nước
5 Khối Warszawa là một hiệp ước quân sự được kí kết tại Warszawa (Ba Lan) vào năm 1955 giữa tám nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu gồm Liên Xô, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania và Tiệp Khắc. Liên minh quân sự này do liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống lại khối quân sự NATO, do Mỹ đứng đầu trong bối cảnh của Chiến tranh lạnh. Khối Warsawa đã có những hoạt động và ảnh hưởng to lớn đối với tình hình phát triển châu Âu và thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước thành viên đã đưa tới sự hình thành thế chiến lược cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước XHCN và TBCN đầu những năm 1970. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, ngày 1/7/1991, tại Praha, Tổng thống Czechoslovakia Vaclav Havel chính thức tuyên bố chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ 1955, giải tán khối Warsaw sau 36 năm liên minh quân sự với Liên Xô. Năm tháng sau, vào tháng 12/1991, Liên Xô tự giải thể.
20
tham gia hội nghị đã quyết định kí kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ Warszawa (14-5-1955).5
Sự ra đời của hai khối quân sự đã chính thức xác lập cục diện lưỡng cực và
đánh dấu việc “Chiến tranh lạnh” đã bao trùm thế giới. Cả hai khối đã duy trì
những lực lượng quân sự lớn và các loại vũ khí hiện đại để đảm bảo khả năng đáp
trả đối phương tấn công. Trong thời kì căng thẳng này, “chiến trường” của chiến
tranh lạnh có thể được phân chia thành: châu Âu và các vùng “ngoại vi” (bao gồm
các nước thế giới thứ ba vừa giành được độc lập tại châu Á, Châu Phi và Trung
Đông). Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đã đánh dấu sự thay đổi trọng
tâm của Chiến tranh lạnh, từ châu Âu sang châu Á. Lúc này các cuộc chiến tranh
giành ảnh hưởng ở Thế giới thứ ba đã trở thành vũ đài quan trọng cho cuộc cạnh
tranh giữa hai siêu cường. Cả hai đều cố gắng thu hút thêm đồng minh bằng những
lời hứa hẹn viện trợ về tài chính, quân sự, ngoại giao…
Có thể nhận thấy rằng sự phân chia thế giới làm hai cực Liên Xô và Mỹ, mà
đỉnh điểm cuộc “Chiến tranh lạnh” giữa hai nước với sự đối đầu căng thẳng gay
gắt giữa hai hệ tư tưởng Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa đã có tác động
mạnh mẽ đến tình hình hình chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Chiến tranh Lạnh được coi là giai đoạn nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, với
kho vũ khí khổng lồ của các cường quốc luôn trong trạng thái sẵn sàng tấn công
bất cứ lúc nào, đe dọa hủy diệt nền văn minh thế giới. Lịch sử thế giới đã chứng
minh những cuộc xung đột quân sự ở các khu vực trong thời kì này như: cuộc
chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950-1953); Vụ quốc hữu hoá kênh đào Suez và
cuộc chiến tranh xâm lược Ai Cập của Anh, Pháp, Ixaren (1956); Việc kí kết hiệp
ước an ninh Mỹ-Nhật (9-1951); Cuộc chiến tranh Đông Dương; Sự cạnh tranh gay
gắt giữa các cường quốc ở khu vực Trung Cận Đông từ cuối thập kỉ 40 nhằm tranh
giành độc quyền thăm dò và khai thác dầu lửa; Sự liên kết của phong trào giải
phóng dân tộc ở Châu Á và châu Phi tại Hội nghị Băng Dung (Indonesia); Cuộc
21
đối đầu giữa Indonesia và Malaysia vào năm 1963 đều có liên quan đến sự đối đầu
của hai cực Xô – Mỹ và lôi cuốn nhiều nước trên thế giới tham gia.
1.1.2. Mối quan hệ của Indonesia và Malaysia với hai khối
Cùng với bối cảnh Chiến tranh lạnh, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa và liên minh Xô – Trung được thiết lập cũng tác động to lớn tới chính
sách của các nước Mỹ và đồng minh đối với các nước ở khu vực Đông Nam Á. Sự
lo sợ về việc Chủ nghĩa cộng sản từ Trung Quốc tràn tới các nước Đông Nam Á đã
khiến Mỹ và đồng minh tìm cách thiết lập ở khu vực này lá chắn để ngăn chặn Chủ
nghĩa cộng sản, trong đó hai nước Malaysia và Indonesia là những nước nhận được
sự chú ý của cả Liên Xô và Mỹ. Điều này được chứng minh bằng hàng loạt những
sự kiện tiêu biểu.
Vào ngày 2 – 10 - 1949 nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập.
Ngay sau đó, Liên Xô, các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Mông Cổ, Cộng hòa
nhân dân Triều Tiên lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.
Như vậy, với sự ra đời của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chủ nghĩa xã hội đã trở
thành hệ thống trên thế giới và trải dài từ châu Âu sang châu Á. Đồng thời mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô cũng được cải thiện đáng kể sau khi hai
Đảng cộng sản có mâu thuẫn trong thời kì nội chiến Trung Quốc[29;68].
Ngày 16 – 12 - 1949, một phái đoàn Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông
dẫn đầu sang thăm Liên Xô. Đến tháng 2 - 1950, hai bên đã kí Hiệp định về việc
Liên Xô chấp thuận cấp cho Trung Quốc một khoản tín dụng 300 triệu USD trong
thời hạn 5 năm với lãi suất 1%/năm. Bên cạnh đó hai nước cũng kí Hiệp định về
đường sắt Trường Xuân, cảng Lữ Thuận và Đại Liên. Các quyền lợi của tuyến
đường sắt Trường Xuân sẽ lập tức được trao trả lại cho Trung Quốc ngay sau khi
kí kết hòa ước với Nhật. Cảng Đại Liên sẽ có hướng giải quyết sau khi kí hòa ước
với Nhật và trong thời gian đó tạm thời do Trung Quốc trả cho Liên Xô chi phí xây
22
dựng các cơ sở vật chất tại cảng này từ năm 1945. Hai nước cũng thỏa thuận sử
dụng cảng Lữ Thuận như là căn cứ hải quân chung khi Trung Quốc đề nghị trong
trường hợp có sự xâm lược từ bên ngoài.
Tuy nhiên kết quả quan trọng nhất là việc Liên Xô chấp thuận liên minh với
Trung Quốc qua việc kí kết Hiệp ước Hữu nghị, đồng minh, và tương trợ có giá trị
trong vòng 30 năm vào ngày 14 – 2 - 1950. Hiệp ước này có ý nghĩa vô cùng to
lớn, đảm bảo cho an ninh của Liên Xô và Trung Quốc ở Viễn Đông và Châu Á.
Hiệp ước cũng tăng cường vị thế của Liên Xô trong khu vực châu Á. Đặc biệt với
sự hình thành liên minh Trung - Xô đã làm thay đổi tương quan lực lượng xã hội
chủ nghĩa ở châu Á nói riêng và trên phạm vi thế giới nói chung. Nhất là việc
Trung Quốc - một quốc gia đông dân nhất thế giới liên minh với Liên Xô làm cán
cân quyền lực nghiêng về thế giới cộng sản và có tác động to lớn tới nhiều nước
khác ở Đông Nam Á trong đó có Indonesia.
Trong thời kì từ 1950 - 1959, Indonesia được mô tả như là thời kì “dân chủ tự
do” và có xu hướng tiến gần hơn với các nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô - Trung
Quốc. Do đó, vào tháng 4 - 1950 một phái đoàn cấp cao của Indonesia đã tới
Moscow để đàm phán, trao đổi với các cơ quan ngoại giao. Năm 1950, Liên Xô hỗ
trợ Indonesia là thành viên tại Liên Hợp Quốc và sự kiện này đánh dấu sự phát
triển của quan hệ Liên Xô - Indonesia trong những năm 1950 đến năm 1954
[46;215]. Cũng trong tháng 4 - 1950 Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao với
nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc và đại sứ Trung Quốc lần đầu tiên đến
Jakarta vào năm 1950.
Một giai đoạn mới trong quan hệ Liên Xô – Indonesia bắt đầu vào năm 1952
khi tình hình chính trị trong nước Indonesia thay đổi. Sau khi Ali Sastroamidjojo,
một nhà lãnh đạo cánh tả của Đảng quốc dân Indonesia (Partai Nasional Indonesia,
PNI) lên nắm quyền tháng 3 - 1954 các cuộc trao đổi ngoại giao giữa Liên Xô và
23
Cộng hòa Indonesia đã diễn ra. Đại sứ Indonesia đầu tiên đã đến Moscow là
Subandrio và đại sứ Liên Xô đầu tiên ở Jakarta là Zhukov. Việc thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức cũng tạo động lực cho việc truyền bá Chủ nghĩa cộng sản tại
Indonesia. Đồng thời các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng tăng cường việc làm suy yếu
ảnh hưởng của phương Tây ở Indonesia.
Đặc biệt việc Indonesia từ chối tham gia vào khối quân sự SEATO, Liên Xô
càng đánh giá cao hơn nữa vai trò của Indonesia và hỗ trợ nước này tổ chức hội
nghị không liên kết ở Bandung. Việc hợp tác chặt chẽ của Indonesia với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác củng cố vị trí nước này trong quan
hệ với các cường quốc phương Tây. Năm 1956, chính phủ Indonesia đơn phương
bãi bỏ các điều ước đã ký với Hà Lan vào năm 1949 như là một điều kiện để Hà
Lan công nhận độc lập đối với Indonesia. Tuy nhiên, vấn đề độc lập của Tây Irian
vẫn chưa được giải quyết. Trong khi tất cả các nội các của Indonesia trước đó đã
cố gắng để giải quyết vấn đề Tây Irian thông qua đàm phán trực tiếp với Hà Lan,
thì chính phủ Ali Sastroamidjojo đã đem Tây Irian ra Liên Hợp Quốc để nhận sự
giúp đỡ từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác.
Việc thân thiết giữa Indonesia với Liên Xô, Trung Quốc đã gây ra phản ứng
đối với các nước phương Tây, nhất là thái độ của Mỹ, Anh và các nước đồng minh.
Đó là việc các nước này muốn sử dụng Malaysia - một nước láng giềng ngay bên
cạnh Indonesia như là một lá chắn nhằm hạn chế những ảnh hưởng cộng sản từ
Liên Xô - Trung Quốc vào Indonesia. Hành động này của các nước phương Tây
buộc Indonesia phải tìm kiếm sự hỗ trợ tinh thần và chính trị của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Năm 1958, Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác đã bắt đầu cung cấp thiết bị quân sự và vũ khí cho Indonesia như
máy bay dân sự và quân sự, tàu.
Đối với Malaysia, do giành độc lập trong hoàn cảnh vẫn phải phụ thuộc Anh
24
nên chính phủ của Abdul Rahman đã tăng cường quan hệ với các nước tư bản
phương Tây. Tháng 9 – 1957 chính phủ Abdul Rahman ký với Anh hiệp ước
phòng thủ chung, theo đó Anh và Mã Lai sẽ tiến hành những hoạt động quân sự
chung trong trường hợp xảy ra cuộc tiến công từ ngoài vào lãnh thổ Mã Lai hay
vào các thuộc địa Anh ở Viễn Đông hay Đông Nam Á. Đồng thời Anh có thể sử
dụng các căn cứ quân sự của mình ở Mã Lai cho những hoạt động trong khuôn khổ
khối SEATO. Anh sẽ trợ giúp Mã Lai xây dựng quân đội nhằm làm căn cứ chống
lại ảnh hưởng của phong trào cộng sản tràn sang Malaysia.
Như vậy, điểm qua bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã có
những chuyển biến to lớn. Cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai cường quốc Mỹ và
Liên Xô đã tạo ra cuộc “Chiến tranh lạnh”. Đây là cuộc chiến tranh do Mỹ phát
động, tuy “cuộc chiến tranh không nổ súng, không đổ máu” nhưng luôn luôn ở tình
trạng đối đầu căng thẳng, quyết liệt, nhằm mục tiêu “ngăn chặn” rồi đi đến tiêu diệt
Liên Xô. Chiến tranh lạnh không chỉ dừng lại ở chỗ “không nổ súng, không đổ
máu” mà đã phát triển thành những cuộc chạy đua vũ trang ráo riết, những cuộc
xung đột quân sự mang tính khu vực giữa hai cực Xô – Mỹ và hai khối Đông -
Tây. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cực Xô – Mỹ, hai khối Đông -Tây bắt đầu từ
thập niên 50, lên đến đỉnh cao vào thập niên 70. Cả hai nước Xô – Mỹ đều tăng
đó hai nước còn tìm mọi biện pháp nhằm gia tăng ảnh hưởng của mình ở nhiều nước trên thế giới.
cường ngân sách quốc phòng, củng cố khả năng phòng thủ tối đa của mình. Bên cạnh
Indonesia và Malaysia là hai nước lớn trong khu vực Đông Nam Á. Sau năm
1945 cả hai nước đều tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống ách nô lệ
thực dân. Do đó trong quá trình phát triển của mình với xu hướng khác nhau cả hai
nước đều chịu sự tác động to lớn từ bối cảnh cuộc “Chiến tranh lạnh” do Mỹ và
Liên Xô đứng đầu.
1.2. Bối cảnh khu vực
25
Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai các nước phương Tây đã bị suy yếu vai
trò của mình tại các thuộc địa trên thế giới. Chiến thắng của đồng minh chống phát
xít đã cổ vũ và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân các thuộc địa ở Á, Phi, Mỹ La
Tinh vùng dậy đấu tranh tự giải phóng mình. Cuộc đấu tranh này được sự ủng hộ
mạnh mẽ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác và đồng thời đẩy các
nước thực dân đế quốc phải thừa nhận nền độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trong
xu thế đó, các nước đế quốc buộc phải thừa nhận quyền tự quyết của các dân tộc
theo Hiến chương Liên hợp quốc, nhưng đồng thời cũng dùng mọi thủ đoạn chính
trị để mua chuộc, gây sức ép với nhân dân các nước thuộc địa, hòng tiếp tục duy trì
lợi ích thực dân ở các nước này.
Tuy nhiên, việc các quốc gia độc lập mới ở châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh
lần lượt ra đời và thủ tiêu chế độ thuộc địa là quy luật tất yếu của thời đại. Đặc biệt kể từ sau “Năm Châu Phi 1960”6, các nước đế quốc thực dân, thậm chí bảo thủ
nhất cũng nhận ra rằng họ đã không thể cưỡng lại được làn sóng giành độc lập dân
tộc từ các nước châu Á và châu Phi. Trong bài phát biểu nổi tiếng “Wind of
change” vào cuối chuyến công du châu Phi (tháng 1-1960), thủ tướng Anh
Macmillan nói: “Chúng ta đã chứng kiến sự thức dậy của ý thức dân tộc từ các dân
tộc mà trong nhiều thập kỉ sống trong sự phụ thuộc vào các cường quốc. Mười lăm
năm trước đây, ý thức này đã lan rộng khắp châu Á. Các quốc gia với những chủng
tộc và văn hóa khác nhau đưa ra yêu sách về một nền độc lập. Hôm nay, sự việc
tương tự lại đang diễn ra ở châu Phi và điều gây ấn tượng nhất cho tôi từ khi tôi rời
London một tháng trước đây là sự mạnh mẽ của ý thức dân tộc tại nơi đây. Ngọn
gió đổi thay này đang thổi qua các châu lục, và dẫu chúng ta có thích hay không thì
sự phát triển của ý thức dân tộc là một yếu tố chính trị mà chính sách quốc gia của
6Năm 1960, với 17 nước ở Tây Phi, Đông Phi và Trung Phi giành được độc lập dân tộc nên được gọi là “ Năm châu Phi”
26
chúng ta phải tính đến”[42;75]. Lời phát biểu này cho thấy làn sóng đấu tranh
giành độc lập dân tộc và bảo vệ nền độc lập dân tộc đã tác động lên toàn bộ các
nước trên thế giới. Điều này cũng ảnh hưởng đến chính sách ngăn chặn của các
nước đế quốc, thực dân đối với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa.
1.2.1. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập ở Đông Nam Á Dưới tác động của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ La
Tinh, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
Đông Nam Á diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó, sự thay đổi chính sách của các nước
phương Tây nhằm tranh giành ảnh hưởng tại Đông Nam Á có ảnh hưởng lớn đối
với phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực. Như đã biết Đông Nam Á là khu vực
thuộc địa truyền thống của các nước thực dân phương Tây, Đông Nam Á trở thành
mối quan tâm đặc biệt của các nước Mỹ, Anh, Pháp, Hà Lan trong và sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, ý đồ và tham vọng của các nước đế quốc đối với
khu vực có vị trí chiến lược quan trọng này rất khác nhau. Đối với Mỹ, trong
những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, quan điểm của Mỹ là tìm cách làm suy
giảm vai trò của Anh, Pháp, Hà Lan ở Đông Nam Á và mở rộng ảnh hưởng của
Mỹ ở khu vực này. Tổng thống Mỹ F.Roosevelt đã nhiều lần khẳng định về việc
thiết lập một chế độ uỷ trị quốc tế ở Đông Dương và phản đối việc Pháp quay trở
lại thống trị Đông Dương. Trong khi đó, nước Anh, một nước thực dân có nhiều
thuộc địa ở Đông Nam Á, lại ủng hộ việc Pháp quay trở lại Đông Dương. Quan
điểm của Anh xuất phát từ lợi ích chính bản thân nước Anh, nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi của thực dân Anh ở Đông Nam Á. Sự bất đồng giữa Mỹ và Anh về vấn
đề thuộc địa xuát phát từ lợi ích chiến lược của mỗi quốc gia. Tuy nhiên cuối cùng
họ đã nhân nhượng được với nhau để đạt tới thoả thuận trong những vấn đề quốc tế
quan trọng và rộng lớn hơn. Đó là thoả thuận khu vực Đông Nam Á vẫn thuộc
27
phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây. Quyết định này mở
đường cho các nước thực dân quay trở lại Đông Nam Á.
Theo đó, ngày 15 – 8 - 1945, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện.
Đây chính là thời cơ thuận lợi để nhân dân các nước Đông Nam Á giành độc lập.
Tùy theo bối cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể, nhân dân các nước Đông Nam Á đã
vùng dậy đấu tranh giành độc lập tự do. Đông Nam Á trở thành khu vực đầu tiên
trong hệ thống thuộc địa của đế quốc thực dân diễn ra các cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi, đưa đến việc thành lập các quốc gia độc lập. Điển hình là
hai nước Indonesia và Việt Nam.
Mặc dù vậy, phong trào giành độc lập ở các nước Đông Nam Á diễn ra không
đồng đều, kết quả thu được cũng không giống nhau. Phong trào đấu tranh chống
quân Nhật ở Thái Lan và Campuchia không có sự bứt phá lên để trở thành một cao
trào quyết liệt. Phong trào đấu tranh giành độc lập trong những năm Chiến tranh
thế giới thứ hai ở Miến Điện, Malaya, Philippines mặc dù diễn ra quyết liệt, nhưng
do chủ trương của những người cầm đầu phong trào dựa vào lực lượng bên ngoài,
mà thực chất là dựa vào kẻ thù của dân tộc (hoặc quân phiệt Nhật hoặc thực dân
Anh hoặc quân đội Mỹ…) để giành độc lập. Trên thực tế dù Nhật, Anh, hay Mỹ thì
ở thời điểm lúc bấy giờ đều có bản chất giống nhau: đó là xâm lược, đặt ách cai trị,
biến các nước Đông Nam Á thành thuộc địa của mình. Sai lầm này đã dẫn đến kết
cục là mặc dù nhân dân ở đây chiến đấu rất kiên cường, hy sinh xương máu cho
cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và thậm chí họ đã tự giải phóng được phần lớn
đất nước trước khi có quân Anh, Mỹ vào nhưng sau đó thành quả lại rơi vào tay
người Anh, Mỹ. Còn những người chủ trương dựa vào Nhật để thoát khỏi sự cai trị
của thực dân phương Tây, nhưng đến khi quân Anh, Mỹ hay Hà Lan tháo chạy, đất
nước hết thực dân thì người Nhật lại phản bội họ, biến họ thành những người phục
vụ cho công cuộc cai trị của Nhật ở chính đất nước của mình. Ngoài ra, cũng có
những nước chủ trương dựa vào sức mạnh nội lực, chuẩn bị tốt những nhân tố chủ
28
quan và khách quan, tích cực góp sức cùng các lực lượng dân chủ thế giới thúc đẩy
nhân tố khách quan nhanh chóng chín muồi kịp thời nắm bắt thời cơ, khi thời cơ
đến phát động cả dân tộc đứng lên giành chính quyền [7;518].
Những diễn biến chính của tình hình thế giới trong những năm 50, 60 của thế
kỉ XX đã khiến Đông Nam Á trở thành điểm nóng của quan hệ quốc tế. Không
những thế, thời gian này, phong trào giải phóng dân tộc của các nước Đông Nam Á
bùng lên hết sức mạnh mẽ và giáng những đòn chí mạng vào các nước thực dân đế
quốc. Đồng thời hệ thống Xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là sau
chiến thắng Điện Biên phủ, sức lan toả về sức mạnh của Chủ nghĩa cộng sản càng
lớn khiến các nước đế quốc, thực dân càng rơi vào nỗi lo sợ. Các nước tư bản lo sợ
chủ nghĩa cộng sản từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ lan toả đến các nước còn lại trong
khu vực Đông Nam Á.
Do đó, ngày 23 – 12 - 1953, Phó tổng thống Mỹ Nixon đã tuyên bố trên vô tuyến truyền hình Mỹ: “Nếu Đông Dương bị mất thì Thái Lan sẽ đặt vào TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Thanh Bình (cb) (2001), Con đường cứu nước trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở một số nước châu Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Mai Ngọc Chừ (2002), “Cộng đồng Malayu một số vấn đề về ngôn ngữ”,
Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đề tài năm,
Mã số QX 2001.14
3. Ngô Văn Doanh, Indonesia đất nước con người, NXB Thông tin - Viện
Đông Nam Á, Hà Nội, 1993.
4. Lý Quang Diệu (1999),“Hồi kí”, NXB T.P Hồ Chí Minh.
5. Trần Văn Đào (2001), Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945-1990, Học
29
viện quan hệ quốc tế, Hà Nội.
6. D.G.E. Hall (1997),“Lịch sử Đông Nam Á”, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
7. Trần Khánh (cb) (2012), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
8. Phan Ngọc Liên (cb) (1997), “Lược sử Đông Nam Á”, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
9. Lê Thị Liên (2011), Khuynh hướng dân chủ nghị viện trong chinhs ách đối
ngoại của Inđônêxia dưới thời tổng thống Sukarno (1950-1957), Nghiên cứu
Đông Nam Á, Số 7/2011.
10. Vũ Dương Ninh (Cb) (2007), Đông Nam Á truyền thống và hội nhập, NXB
Thế Giới.
11. Vũ Dương Ninh (1993), Một số vấn đề về sự phát triển của các nước
ASEAN, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Võ Văn Nhung, Lược sử In-Đô-Nê-Xi-a, NXB Sử học, Hà Nội, 1962.
13. Lương Ninh (2005), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Đào Huy Ngọc (1996),“Lịch sử quan hệ quốc tế 1870-1964”, Hà Nội.
15. Đỗ Trọng Quang (2008), Nhìn lại cuộc đối đầu giữa Anh và Indonesia trong
vụ khủng hoảng eo biển Sunda, Nghiên cứu Châu Âu, Số 6(93).
16. Thông tin quan hệ quốc tế, số 30 quý III, Viện quan hệ quốc tế, Hà Nội,
1985.
17. Nguyễn Anh Thái (cb) (2006), “Lịch sử thế giới hiện đại”, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
18. Trần Nam Tiến (2008),“Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945-2000)”,
30
NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Huỳnh Văn Tòng (1993), Lịch sử Malaysia, Singapore và Brunei (từ thế kỉ
XVI đến đầu thập niên 80), Bộ giáo dục đào tạo – Viện đào tạo mở rộng.
20. Lý Tường Vân (2012), Phong trào dân tộc ở Indonesia và Malaya trong
nửa đầu thế kỉ XX - Một số so sánh, Ngiên cứu Lịch sử, số 9/2012, tr50
21. Lý Tường Vân (2009), Về một vài kinh nghiệm của Malaixia trong giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo, Nghiên cứu Đông Nam
Á, Số 1/2009.
22. Phạm Thị Vinh, Islam trong chính sách đối ngoại của Malaysia, Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á, Số 67.
23. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1994), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á hải
đảo, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1965), Tình hình Indonesia sau vụ 30/9, Hà
Nội.
25. Viện nghiên cứu Đông Nam Á (1998), Liên bang Malaysia – Lịch sử, văn
hóa và những vấn đề hiện đại, NXB Khoa học - xã hội, Hà Nội
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
26. Albert Lau (2012),“Southeast Asia and the cold war, Routledge
contemporary southeast asia series”, London and New York.
27. Allan B.Cole (1956),“Conflict in Indochina and International repercussions
(a document history 1945-1955)”, New York.
28. Arend Lijphart (1961), “The Indonesian Image of West Irian”, Asian
Survey.- Berkeley, Vol.I, No. 5.
29. Chen Jian (1994), “China road to the Korean war: the Making of Sino-
31
American Confrontation”, Clumbia University press, New York.
30. Donald Hindley (1964), “Indonesia’s confrontation with Malaysia: A search
for motives”, Asian survey, Vol IV, Part 1.
31. Derkach, Nadia (1965), “Soviet Policy towards Malaysia and West Irian
Issue”,Asian Survey, Vol. 5, No.11.
32. David Easter (2002),“Britain and the confrontation with Indonesia 1960-
1966”, IB Tauris.
33. David Bourchier (2014),“Illiberal Democracy in Indonesia: The Ideology of
the Family State”, Routledge.
34. Edwards, Peter (1992), Crises and Commitments: The Politics and
Diplomacy of Australia's Involvement in Southeast Asian Conflicts 1948–
1965. The Official History of Australia's Involvement in Southeast Asian
Conflicts 1948–1975. Vol 1. St Leonards: Allen and Unwin.
35. Frankin B.Weinstein (1976), “Indonesian foreign policy and the dilemma of
dependence: from Sukarno to Soeharto”, Comell University Press.
36. Fowler, Will (2006), Britain's Secret War: The Indonesian Confrontation
1962-66. London: Osprey Publishing.
37. Guy J. Pauker, Indonesia in 1963: the year of wasted opportunities, Asian
survey, No.2.
38. Government Printers (1963), “Malaysia-Philippnes Relation, Aug 31th 1957
to sep 15th”, Kuala Lumpur.
39. Hara, Fujiol (2005), “The North Kalimantan Communist Party and the
People’s Republic of China”, The Developing Economies, XLIII.
40. Hindley, Donald (1963), “Foreign Aid to Indonesia and Its Political
32
Implications”, Pacific Affairs, Vol. XXXVI, No. 2, Summer 1963.
41. Ide Anak Agung Gde Agung (1990),“Twenty years Indonesian foreign
policy 1945-1965”, Duta Wacana, University press.
42. James McBath (1971),“British Public addresses, 1828-1960”, Houghton
Mifflin Co.
43. J.A.C. Mackie (1974), “Confrontasi the Indonesia - Malaysia dispute 1963-
1966”, Kuala Lumpur Oxford University Press.
44. John.O. Sutter (1966), “Two faces of konfrontasi: “Crush Malaysia” and the
gestapu”, Asian survey, Vol VI, part 2.
45. Joseph Chinyong Liow (2005),“The Politics of Indonesia – Malaysia
relations one kin, two nations”, London and New York.
46. L. M. Efimova(2001), “New Evidence on the Establishment of Soviet-
Indonesian Diplomatic Relations (1949-53),” Indonesia and the Malay
World, V. 29, No. 85.
47. Michael Leifer (1995), Dictionary of the moderm politics of Southeast Asia,
Routledge, London and New York.
48. Mohd. Noor Mat Yazid (2010), “Malaysia-Indonesia relations before and
after 1965: impact on bilateral and regional stability”, Programme of
International Relations, School of Social Sciences, Universiti Malaysia
Sabah, Kota Kinabalu, MALAYSIA.
49. Mohd Noor Mat Yazid (2014), “The Indonesia economic development after
1965: devolopmental state, radical politics & regional cooperation”
(Programe of international relational relation school of social sciences,
Universiti Malaysia Sabah,88400 Kota Kinabalu, Malaysia), Sop transaction
33
on economic research, No. 3, 2014.
50. Nicholas Tarling (1962), Ango – Duch Rivalry in the Malay World, 1780-
1824, Cambridge: Cambridge University Press, 1962.
51. Pramoedya ananta Toer (1999),“SOEKARNO”, Time Asia story Time 100:
August, 23-30, Vol.154, No.7/8
52. Raffi Gregorian (1991), Claret operations and confrontasi, 1964-1966,
Centre for Conflict Studies, University of New Brunswick.
53. R.S.Milne (1964), “Malaysia”, Asian survey, Vol IV, Part 1, p695-701
54. Robert O. Tilman (1966), “The non-lessons of the Malayan emergency”,
Asian survey, Vol VI, Part 2.
55. R.V.Nie (1954), Devolopment of the Indonesia Elite in the Early Twentieth
century, Athesis Submittes for the Degree of Doctor, Cornell University,
1954.
56. Saravanamuttu, Johan (1987),“Malaysia‟s Foreign Policy, 1957-1980,‟ in
Ahmad, Zakaria, (ed), 1987, Government and Politics of Malaysia,
Singapore; Oxford University Press, p. 128-160.
57. See Subritzky, J. (2000), “Confronting Sukarno: British, American,
Australia and New Zealand Diplomacy in the Malaysian-Indonesian
Confrontation, 1961-1965”, London: Macmillan Press Ltd, p15
58. Suryadinata, L.(1990),“Indonesia-China Relations”,Asian Survey, Vol.
XXX, No. 7, July 1990, pp. 682-684
59. Sukma, Rizal (1999), Indonesia and China: The Polities of a Troubled
Relationship London : New York : Routledge.
60. Taylor, Carl(1963), Indonesian Views of China, Asian Survey, Berkeley,
34
Vol.III, No.3
61. Pham Van Thuy (2014), Beyond Political Skin Convergent Paths to an
Independent National Economy in Indonesia and Vietnam, Universiteit
Leiden.
62. Thonat Khoman (1992), “ASEAN conception and evolution, “The ASEAN
reader””, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, XVIII-XXII, 208
63. The Straits Times, October 27, 1959
C. TÀI LIỆU WEB
64. https://nghiencuulichsu.com
65. http://www.awm.gov.au/atwar/confrontation.asp&sa=X&ei=WSvgT_SmE8
Wji
66. http://se-asia.commemoration.gov.au/background-to-indonesian-
confrontation/causes-and-description.php
67. http://eresources.nlb.gov.sg/history/events/dc1efe7a-8159-40b2-9244-
cdb078755013
68. http://nghiencuuquocte.org/2015/01/18/chien-tranh-lanh/
69. http://www.navy.gov.au/Indonesian_Confrontation,
70. Singapore separates from Malaysia and becomes independent,
35
eresources.nlb.gov.sg
36